ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN THÔNG
TRƯƠNG THỊ DIỆU THUÝ
KINH NGHIỆM LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
KÝ CHÂN DUNG QUA CHUYÊN MỤC
NGƯỜI ĐƯƠNG THỜI CỦA ĐÀI TRUYỀN HÌNH
VIỆT NAM (2001 – 2006)
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC BÁO CHÍ
CHUYÊN NGÀNH: BÁO CHÍ HỌC
MÃ SỐ: 60.32.01
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS NGUYỄN THỊ MINH THÁI
HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU Trang
CHƢƠNG 1: KÝ CHÂN DUNG BÁO IN – CƠ SỞ VĂN BẢN CỦA
KÝ CHÂN DUNG TRUYỀN HÌNH
1.1. Ký báo chí trong hệ thống thể loại báo chí...............................................10
1.2. Ký chân dung báo chí - bộ phận quan trọng của thể loại Ký báo chí:..15
1.2.1 . Ký chân dung báo chí là gì?................................................................. 15
1.2.2. Ký chân dung báo chí hình thành và phát triển như thế nào?............... 17
1.3. Ký chân dung báo in - cơ sở văn bản của Ký chân dung truyền hình:.21
1.3.1. Ký chân dung báo in và những đặc điểm nổi trội:.................................21
1.3.2. Ký chân dung báo in là cơ sở văn bản của Ký chân dung truyền hình:.26
Tiểu kết chƣơng 1:........................................................................................... 35
CHƢƠNG 2: CHUYÊN MỤC NGƢỜI ĐƢƠNG THỜI - MỘT THÀNH
CÔNG VỀ KÝ CHÂN DUNG TRUYỀN HÌNH
2.1. Tổng quan về chuyên mục Ngƣời đƣơng thời.........................................37
2.1.1. Người đương thời ra đời trong không khí đổi mới của Đài THVN:....37
2.1.2. Sự phát triển của chuyên mục Người đương thời................................39
2.1.3. Tiêu chí của chuyên mục Người đương thời.......................................42
2.1.4. Mục đích xây dựng chuyên mục Người đương thời............................43
2.1.5. Tên gọi chuyên mục Người đương thời...............................................45
2.1.6. Đối tượng khán giả của chuyên mục Người đương thời......................46
2.2. Nội dung cốt lõi và thành công của 30 chƣơng trình Ngƣời đƣơng thời
tiêu biểu từ năm 2001 – 2006............................................................................48
2.2.1. Nội dung cốt lõi của 30 chương trình Người đương thời.....................49
2.3. Thành công của chuyên mục Ngƣời đƣơng thời......................................76
2.3.1 Tìm kiếm và lựa chọn đề tài:.................................................................76
2.3.2. Tìm kiếm và lựa chọn nhân vật:...........................................................81
2.3.3. Xây dựng kịch bản:..............................................................................83
2.3.4. Người dẫn chương trình:......................................................................84
2.4. Thành công về mỹ học hình ảnh của Ký chân dung truyền hình Ngƣời
đƣơng thời..........................................................................................................88
2.4.1. Một số vấn đề cơ bản về mỹ học hình ảnh của báo hình:...................88
2.4.2. Mỹ học hình ảnh của Ký chân dung truyền hình Người đương thời...90
Tiểu kết chƣơng 2:.......................................................................................... 106
CHƢƠNG 3: XÂY DỰNG THƢƠNG HIỆU NGƢỜI ĐƢƠNG THỜI: BÀI
HỌC KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP TỪ GÓC NHÌN PR
3.1.Bài học kinh nghiệm từ việc xây dựng thƣơng hiệu Ngƣời đƣơng thời:.110
3.1.1. Nhân vật - mấu chốt tạo nên thành công thương hiệu Người đương thời..110
3.1.2. Thương hiệu Người đương thời gắn liền với chất lượng chương trình......112
3.1.3. Nghệ thuật sử dụng con người trong êkíp chương trình............................117
3.1.4. Công tác tạo dựng, duy trì và quảng bá thương hiệu Người đương thời...124
3.2. Giải pháp duy trì và phát triển thƣơng hiệu Ngƣời đƣơng thời.............127
3.2.1. Nâng cao chất lượng và giá trị thông tin - cốt lõi của việc phát triển bền
vững thương hiệu...............................................................................................127
3.2.2. Coi công tác quảng bá là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên..................131
3.2.3. Luôn tạo mối quan hệ gắn bó lâu dài giữa chương trình và khán giả........132
Tiểu kết chƣơng 3:.......................................................................................... 133
KẾT LUẬN:.................................................................................................... 134
TÀI LIỆU THAM KHẢO:............................................................................ 138
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại,
người thầy, người cha kính yêu của dân tộc Việt Nam từng nói: “Mỗi người
tốt là một bông hoa đẹp, cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp”. Người tốt - đó
chính là bộ phận tinh tuý nhất của xã hội. Không chỉ ở Việt Nam mà ở bất kỳ
quốc gia, dân tộc, vùng đất, thời đại nào, trong cuộc vận hành văn hoá của
mình, cũng đều tồn tại những con người tiêu biểu, tiên tiến. Họ là kết tinh,
niềm tự hào của dân tộc mình. Họ trở thành những hình mẫu, tấm gương điển
hình trong xã hội.
Từ lâu, người tốt đã trở thành đề tài, nhân vật trong các tác phẩm văn
học nghệ thuật. Rất nhiều bức tranh, bản nhạc, pho tượng, tiểu thuyết, truyện
ngắn,...đều lấy nguồn cảm hứng từ những Người tốt - Việc tốt có thật trong
đời sống.
Ở Việt Nam, việc thông tin, phản ánh về những tấm
gương tiêu biểu trên mọi lĩnh vực đã có truyền thống từ xa xưa. Trước đây,
giai cấp phong kiến thống trị thường đưa ra những hình mẫu để khuyến khích
nhân dân làm theo. Đó là những câu chuyện kể về những chuẩn mực trong
các quan hệ gia đình và xã hội như: “tam cương ngũ thường”, “tam tòng tứ
đức”...Trong xã hội phong kiến Trung Hoa và Việt Nam nhiều thế kỷ trước
lưu truyền sách “Nhị thập tứ hiếu” (nêu gương 24 người con hiếu nghĩa nổi
1
tiếng trong thiên hạ). Thời nhà Nguyễn còn có sắc phong “Tiết hạnh khả
phong” cho những người phụ nữ mất chồng sớm mà không tái giá. Người
nông dân chân lấm tay bùn cũng tìm ra những hình mẫu thể hiện mơ ước của
mình như hình ảnh cô Tấm, chàng Thạch Sanh, ông Trạng, ông Nghè,...Như
vậy, việc phản ánh những hình mẫu lý tưởng là một trong những nhu cầu tinh
thần có tính quy luật của con người trong xã hội, và nhu cầu này xuất hiện từ
lâu trước khi báo chí ra đời. [5, 126].
Sau này, khi Việt Nam bước sang trang sử mới, để tiếp nối truyền
thống tốt đẹp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rõ những tác động tích cực
của việc nêu gương Người tốt - Việc tốt trong phong trào cách mạng toàn dân
dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nói:
“Lấy gương người tốt trong quần chúng nhân dân và cán bộ đảng viên để
giáo dục lẫn nhau còn là một phương pháp lấy quần chúng giáo dục quần
chúng rất sinh động và có sức thuyết phục lớn” [13, 12].
Về thuật ngữ, cụm từ “Người tốt - Việc tốt” bao hàm ba ý nghĩa khác
nhau: Một là, cụm từ này chỉ một chủ đề, đề tài tuyên truyền; Hai là, cụm từ
này chỉ một chuyên mục khá phổ biến trên báo chí Việt Nam; Ba là, cụm từ
này chỉ một dạng bài thuộc thể loại Ký chân dung [ 5, 142]. Trong khuôn khổ
luận văn này, chúng tôi sử dụng cụm từ “Người tốt - Việc tốt” với ý nghĩa thứ
ba.
Có thể nói trong nhiều thập kỷ qua, dạng bài Người tốt - Việc tốt đã
có những đóng góp quan trọng trong việc tuyên truyền, cổ vũ mọi tầng lớp
nhân dân hăng hái thi đua trong các phong trào cách mạng đấu tranh thống
nhất Tổ quốc và xây dựng CNXH. Ngày nay, dạng bài Người tốt - Việc tốt
xuất hiện khá thường xuyên trên nhiều tờ báo in, báo nói, báo hình và báo
điện tử. Ví dụ: báo Lao động có mục: Cảnh đời, Nhân vật, Thời gian tạo nên
giá trị; Báo Thanh niên có mục: Thanh niên & Cuộc sống, Gặp gỡ đầu tuần;
2
Báo Sinh viên Việt Nam có mục: Thủ lĩnh số, Khách mời trong tuần, Câu
chuyện doanh nhân; Báo An ninh thế giới có mục: Tin tức-Sự kiện-Nhân vật,
Thủ lĩnh cảnh sát – An ninh các nước, Tình báo qua các thời đại; Báo Tiền
phong có mục: Gặp gỡ chủ nhật, Câu chuyện doanh nhân;...
Trên các kênh truyền hình của nhiều đài truyền hình ở nước ta, dạng
bài Người tốt - Việc tốt xuất hiện khá nhiều, đan xen trong nhiều chuyên mục
truyền hình. Đài TH TPHCM có chuyên mục: Trò chuyện cuối tuần, Bé khoẻ
bé ngoan, Chân dung nhà vô địch; Đài truyền hình kỹ thuật số VTC có
chuyên mục: Chuyện doanh nhân, Sao online, Doanh nhân cuối tuần, Chat
với 8X; Và đặc biệt, Đài THVN có hàng loạt các chuyên mục: Người đương
thời, Văn hoá- Sự kiện-Nhân vật, Trò chuyện với người nổi tiếng, Tác giả -
tác phẩm, Người xây tổ ấm, Gõ cửa ngày mới,...
Trong đó, Người đương thời được nhìn nhận là một trong những tác
phẩm Ký chân dung Người tốt - Việc tốt có thương hiệu tốt nhất. Những chân
dung được khắc hoạ trong Người đương thời có tác động mạnh mẽ đến công
chúng. Chính thức phát sóng năm 2001, tính đến nay, Người đương thời mới
tồn tại được 7 năm nhưng sức ảnh hưởng và lan toả của nó trong xã hội rất
lớn. Sau mỗi lần phát sóng, những người làm chương trình nhận được rất
nhiều hồi âm của công chúng nghe nhìn (bằng điện thoại, thư giấy, thư điện tử
email,...).
Tuy vậy, cũng có nhiều luồng ý kiến khác nhau đánh giá về Người
đương thời: tên gọi chuyên mục, một vài chương trình cụ thể, nội dung, mỹ
học hình ảnh,...(điều này sẽ được trình bày kỹ hơn ở Chương 2 của Luận
văn)...
Về cách thức thể hiện, Người đương thời lựa chọn cách đối thoại
giữa MC với nhân vật. Điều này cũng đặt ra nhiều vấn đề cần tìm hiểu: đối
thoại như thế nào để có được thông tin tốt nhất; đối thoại cách gì để nêu bật
3
được phẩm chất của nhân vật giúp khán giả chỉ qua chương trình cũng có thể
hiểu được con người, tính cách, việc làm của nhân vật ấy; đối thoại như thế
nào để tạo nên một cuộc trò chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn;…Thực tế
không phải cuộc đối thoại nào cũng đạt tiêu chuẩn, trong cuộc đối thoại còn
tồn tại khá những lỗi giao tiếp, lỗi văn hoá,…Và qua tìm hiểu chuyên mục
Người đương thời, chúng tôi mong muốn rút ra những kinh nghiệm tích cực
góp phần nâng cao hiệu quả đối thoại của MC và nhân vật trên truyền hình
nói riêng cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng nói chung.
Việc nghiên cứu chuyên mục Người đương thời với tư cách là một hệ
thống các tác phẩm Ký chân dung Người tốt - Việc tốt trên truyền hình cũng
phần nào đóng góp những kinh nghiệm lý luận và thực tiễn về thể loại Ký
chân dung - một thể loại không thể thiếu của các nền báo chí.
Về cá nhân người làm luận văn, Người đương thời là một chuyên
mục để lại ấn tượng rất sâu sắc. Với tư cách khán giả xem truyền hình, gần 60
phút của chuyên mục là những giây phút người xem được hoà cùng số phận
của nhân vật, bị cuốn vào những đam mê cháy bỏng, ý chí và nghị lực phi
thường của con người để rồi sung sướng thán phục và âm thầm rút ra cho
mình nhiều bài học quý giá trong cuộc sống. Với tư cách nhà báo, tham gia
trực tiếp vào ê kíp sản xuất, tác giả luận văn hiểu rõ việc xây dựng một
chuyên mục Người tốt - Việc tốt nói riêng, quy trình sản xuất một chương
trình truyền hình nói chung, thấm thía hết sự say mê tìm tòi, đổi mới không
ngừng trong nội dung cũng như trong cách thức thể hiện chương trình của các
PV, BTV. Đây cũng là lý do thôi thúc tác giả luận văn nghiên cứu một cách
nghiêm túc và đầy hứng khởi để hoàn thành đề tài này.
Như vậy, với đóng góp đặc sắc của Người đương thời trong hệ thống
các tác phẩm Ký chân dung, với vị trí được khẳng định trong hệ thống các
chuyên mục của Đài THVN, với những ấn tượng khó phai trong lòng công
4
chúng; với nội dung và cách thức thể hiện riêng biệt, độc đáo, việc nghiên cứu
chuyên mục Người đương thời có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc về thể
loại Ký chân dung trên truyền hình, rất khác biệt với ký chân dung báo in, báo
nói, báo điện tử.
Với tất cả những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài:
“Kinh nghiệm lý luận và thực tiễn về ký chân dung qua chuyên
mục Ngƣời đƣơng thời của Đài THVN (2001 – 2006)”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Đây là đề tài lần đầu tiên được nghiên cứu trong khuôn khổ một luận
văn thạc sỹ khoa học báo chí. Tuy nhiên, đã có một số công trình nghiên cứu
có liên quan đến đề tài này như:
1/ Bùi Thị Thuỷ, Phim tài liệu chân dung truyền hình (TFS) – Đài Truyền
hình thành phố Hồ Chí Minh (khảo sát qua hàng phim truyền hình (TFS) –
Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh từ 1991 đến 2006), Luận văn thạc sỹ
khoa Báo Chí - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Tp.Hồ Chí
Minh, 2006.
2/ Tạ Thị Minh Phương, Phân tích hoạt động sáng tạo chương trình gặp gỡ
truyền hình, Khoá luận tốt nghiệp chuyên ngành truyền hình, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2002.
3/ Lê Thanh Tùng, Kỹ năng phỏng vấn trong chương trình “Người đương
thời” (khảo sát từ đầu năm 2001 đến 2002), Khoá luận tốt nghiệp chuyên
ngành truyền hình, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2002.
4/ Trần Thị Thanh Nga, Vấn đề quan hệ công chúng trong chương trình
Người đương thời, Khoá luận tốt nghiệp ngành Báo chí, Trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2006.
5/ Hoàng Việt Tân, Mỹ học của hình ảnh trên báo hình qua một số chương
5
trình ca nhạc của Ban Văn nghệ - Đài THVN, Khoá luận tốt nghiệp ngành
Báo chí, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội, 2007.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
* Đối tƣợng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chuyên mục Người đương thời
phát sóng trên kênh VTV1 của Đài THVN từ năm 2001 đến năm 2006 với 30
chương trình tiêu biểu nhất.
Để phục vụ cho đối tượng nghiên cứu trên, chúng tôi tiến hành tìm
hiểu và so sánh tác phẩm Ký chân dung ở các loại hình báo chí khác:
- Một số tác phẩm Ký chân dung truyền hình tương tự Người đương thời.
- Một số phim tài liệu chân dung của Đài THVN, Đài TH TPHCM.
- Một số tác phẩm Ký chân dung báo in.
- Những nhân vật trong chuyên mục Người đương thời và những nhân chứng
liên quan.
- Khán giả của Người đương thời.
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chọn nghiên cứu 30 chương trình tiêu biểu nhất trong số 254
chương trình Người đương thời đã phát sóng trong 6 năm (từ năm 2001 đến
năm 2006) .
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
* Mục đích nghiên cứu:
- Đưa ra giải pháp góp phần tăng cường hiệu quả của chuyên mục
Người đương thời nhằm thoả mãn nhu cầu XEM và KHÁM PHÁ của khán
6
giả.
- Từ việc nghiên cứu chuyên mục Người đương thời, tác giả luận văn
muốn tìm ra cách thức thực hiện một tác phẩm Ký chân dung truyền hình đạt
chất lượng cao và tác động sâu sắc đến công chúng nghe nhìn.
- Tác giả luận văn mong muốn cung cấp một số kiến thức nhất định
về Ký chân dung truyền hình (lý luận và thực tiễn) cho sinh viên ở các cơ sở
đào tạo nghề truyền hình trên cả nước.
- Luận văn mong muốn hiểu được nhu cầu nghe - nhìn của công
chúng về chuyên mục Người đương thời để đáp ứng nhu cầu này ngày càng
tốt hơn.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Qua phân tích, nghiên cứu, luận văn đánh giá điểm độc đáo riêng
biệt của 30 chương trình Người đương thời tiêu biểu để đúc rút những kinh
nghiệm lý luận, thực tiễn cũng như bài học kinh nghiệm và giải pháp xây
dựng thành công thương hiệu của Ký chân dung truyền hình Người đương
thời.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên đường lối, chính sách, quan điểm
của Đảng, Nhà nước Việt Nam về chức năng, nhiệm vụ của báo chí, đồng thời
kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được
công bố.
* Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn dựa trên phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, lô-gic và lịch sử, phân tích
7
và tổng hợp, điều tra xã hội học, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực
tiễn. Vì nghiên cứu theo phương pháp này, đề tài không chỉ dựa trên cơ sở lý
luận và thực tiễn báo chí đã được học trong chương trình đào tạo Đại học và
Cao học của khoa Báo chí, không chỉ dựa trên những vấn đề đặc trưng thể
loại và phương pháp nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, liên ngành, đối chiếu,
so sánh,…mà còn tìm hiểu, nghiên cứu chính trong thực tiễn các đài truyền
hình - cơ quan chức năng sản xuất ra các tác phẩm truyền hình và công chúng
- những người trực tiếp được thừa hưởng những giá trị do những tác phẩm Ký
chân dung mang lại.
Luận văn thực hiện phương pháp điều tra xã hội học đối với công
chúng nghe nhìn của Người đương thời, thu thập, nghiên cứu, đối chiếu, so
sánh, tổng hợp ý kiến để góp phần nâng cao chất lượng của chuyên mục
Người đương thời nói riêng cũng như các tác phẩm truyền hình nói chung.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
* Ý nghĩa khoa học:
Luận văn đã cung cấp một số lý luận về báo hình: đặc trưng, quy trình
sản xuất chương trình truyền hình,...Luận văn cũng chỉ ra cách thức xây dựng
tác phẩm Ký chân dung truyền hình.
Luận văn đã giúp những người quan tâm đến chuyên mục Người
đương thời hiểu thêm về sự ra đời, nội dung, cách thức thực hiện, ý nghĩa xã
hội, những thành công, hạn chế,...
Việc nghiên cứu những thành công của Người đương thời sẽ là cơ sở
cho sinh viên báo chí tìm hiểu sâu hơn về đặc điểm, tính chất của thể loại Ký
chân dung truyền hình.
* Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn đã chỉ ra quá trình tác nghiệp của PV, BTV, MC,...trong
8
việc tổ chức cụ thể những tác phẩm Ký chân dung truyền hình
Luận văn đã điều tra xã hội học về nhu cầu của công chúng nghe nhìn
để phần nào đáp ứng tốt hơn những nhu cầu đó trong tương lai.
Luận văn đã đề xuất một số giải pháp tích cực, mới mẻ từ góc nhìn
PR để nâng cao chất lượng chuyên mục Người đương thời, hiệu quả của tác
phẩm Ký chân dung truyền hình và sự thành công về thương hiệu của các
chương trình truyền hình.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
luận văn bao gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Ký chân dung báo in – cơ sở văn bản của Ký chân dung
truyền hình
Chƣơng 2: Chuyên mục Ngƣời đƣơng thời - một thành công về Ký chân
dung truyền hình
Chƣơng 3: Xây dựng thƣơng hiệu Ngƣời đƣơng thời: bài học kinh
9
nghiệm và giải pháp từ góc nhìn PR
CHƢƠNG 1
KÝ CHÂN DUNG BÁO IN – CƠ SỞ
VĂN BẢN CỦA KÝ CHÂN DUNG TRUYỀN HÌNH
1.1. Ký báo chí trong hệ thống thể loại báo chí:
Để có cái nhìn toàn diện, chúng tôi đặt Ký báo chí trong mối quan
hệ với toàn bộ hệ thống thể loại báo chí.
Thể loại báo chí là một trong những hiện tượng rất phức tạp của hoạt
động báo chí và hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Đối với
công chúng, họ quan tâm nhiều đến chất lượng tin bài, hiệu quả tác động của
tin bài đó, họ không mấy quan tâm đến vấn đề thể loại của bài báo. Tuy nhiên,
đã là nhà báo chuyên nghiệp cũng như muốn tìm hiểu về một vấn đề thuộc về
hoạt động báo chí thì chắc chắn phải có những hiểu biết về thể loại báo chí.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Liên Xô (năm 1985) thì “Thể loại là
khái quát hoá những đặc tính của một nhóm lớn các tác phẩm có cùng thuộc
tính về nội dung, hình thức, cách thể hiện tác phẩm của một thời đại, một giai
đoạn, một dân tộc hay một nền nghệ thuật thế giới”. [2, 10]
Từ điển tiếng Việt (năm 1992) coi thể loại là “ khuôn khổ, lối viết và
hình thức viết” [2, 10]
Tác giả Đinh Hường, trong bài Một số vấn đề thể loại báo chí quan
niệm: “Thể loại báo chí là hình thức biểu hiện cơ bản thống nhất và tương đối
ổn định của các bài báo, được phân chia theo phương thức phản ánh hiện
thực, sử dụng ngôn ngữ và các công cụ khác để chuyển tải nội dung mang
tính chính trị - tư tưởng nhất định” [10, 402].
Tác giả Đức Dũng trong cuốn Các thể ký báo chí nhấn mạnh rằng:
10
“Thể loại báo chí là cách thức tổ chức tác phẩm, một kiểu tái hiện đời sống
hiện thực, một phạm vi nội dung xác định ứng với một hình thức tương đối ổn
định” [5, 61].
Các thể loại báo chí ra đời, hình thành và phát triển gắn chặt với
những hoàn cảnh lịch sử nhất định.
Khi đất nước còn chiến tranh, một số thể loại chiếm vị trí độc tôn trên
báo chí. Ví như thể loại Tin với những tin tức nóng bỏng hàng ngày hàng giờ
về tình hình chiến sự được truyền tới từng làng xóm, từng gia đình. Thể loại
Bình luận, Xã luận, Chuyên luận với ngôn từ đanh thép, lập luận sắc sảo,
chứng cớ rõ ràng đã thuyết phục công chúng tin tưởng hoàn toàn vào sự
nghiệp đấu tranh giải phóng, thống nhất Tổ quốc và xây dựng CNXH.
Ngày nay, khi đất nước đã hoàn toàn yên tiếng súng, tình hình chính
trị, kinh tế đất nước đang dần ổn định và phát triển, người dân tập trung chăm
lo sản xuất, làm giàu, báo chí - phương tiện phản ánh cuộc sống cũng vì thế
có điều kiện phát triển hơn. Các tin bài ngày càng phong phú, đa dạng. Các
thể loại báo chí cũng không ngừng vận động, biến đổi. Phù hợp với sự phát
triển chung của báo chí, một vài thể loại mất đi (thể văn đả kích, châm biếm,
biếm hoạ chân dung chính trị,....), thay vào đó là sự xuất hiện của hàng loạt
các thể loại,dạng bài mới (đối thoại trực tuyến, nhật ký cá nhân blog,...). Các
thể loại, dạng bài này cũng được phân chia thành từng nhóm phù hợp với sự
kiện, vấn đề, nhân vật cũng như ý định, mục đích của người thể hiện hoặc cơ
quan báo chí, thậm chí phù hợp với lối nghĩ, phong tục tập quán của từng dân
tộc, quốc gia. Chính điều này đã tạo nên sự phong phú về cách hiểu, các phân
chia các thể loại báo chí của nhiều nền báo chí trên thế giới.
Theo PGS. TS Đinh Hường, các thể loại báo chí hiện nay được phân
chia làm 3 nhóm sau:
- Nhóm các thể loại báo chí thông tấn (gồm Tin, Phỏng vấn, Tường
11
thuật) với tính trội của nhóm là thông tin sự kiện có yếu tố bình luận mức độ.
- Nhóm các thể loại báo chí chính luận (gồm Xã luận, Bình luận,
Chuyên luận, Điều tra, Bài phê bình,...) với tính trội của nhóm là thông tin lý
lẽ.
- Nhóm các thể loại báo chí chính luận - nghệ thuật (gồm Phóng sự
báo chí, Ký báo chí, Tiểu phẩm báo chí, Câu chuyện báo chí, Ghi nhanh,...)
với tính trội của nhóm là thông tin sự kiện, lý lẽ và thẩm mỹ.
Việc phân chia các thể loại báo chí theo ba nhóm như trên chủ yếu
dựa vào đặc điểm và tính trội của từng thể loại. Cách phân chia này cũng chỉ
mang tính tương đối bởi các thể loại luôn có sự giao thoa, chuyển hoá, bổ
sung, hỗ trợ cho nhau. C.Mác đã nói rằng: “cũng như cuộc sống, báo chí luôn
nằm trong sự vận động, phát triển và không bao giờ có kết thúc” [4, 18]
Với tư cách là một thể loại thuộc nhóm thể loại chính luận - nghệ
thuật, Ký báo chí mang những đặc điểm chung nhất của nhóm. Đó là sự kết
hợp giữa yếu tố chính luận của báo chí (tư liệu, số liệu, sự kiện, nhân vật có
thật, chất lý luận, hùng biện,...) với các yếu tố của văn học nghệ thuật (ngôn
ngữ, hình ảnh, cảm xúc, thái độ, các thủ pháp so sánh,...) giúp tác phẩm vừa
thuyết phục công chúng vừa sinh động, mềm mại, hấp dẫn.
Ký báo chí đã tạo ra một “không gian sáng tạo giúp tác giả có thể
thông tin thời sự một cách sinh động, hấp dẫn”. Một điểm đặc biệt của Ký báo
chí là sự xuất hiện của cái Tôi trần thuật - tác giả - nhân chứng. Chính điểm
này đã giúp Ký báo chí có nhiều lợi thế hơn các thể loại báo chí khác trong
việc phản ánh hiện thực. Không chỉ là người thông tin khách quan, “tác giả
còn có quyền độc thoại, đối thoại với công chúng với tư cách là một nhân
chứng bình đẳng đối với cả nhân vật được phản ánh và những người tiếp nhận
sự phản ánh đó”.
Ngoài những đặc điểm bao trùm của nhóm các thể loại chính luận -
12
nghệ thuật trên, Ký báo chí có những nét đặc trưng riêng biệt đó là:
Thứ nhất, Ký báo chí phản ánh sự thật (thời sự, điển hình,...) thông
qua cái Tôi trần thuật - nhân chứng khách quan.
Thứ hai, Ký báo chí có kết cấu co giãn linh hoạt, bút pháp giàu chất
văn học trong việc phản ánh và thẩm định hiện thực.
Thứ ba, ngôn ngữ của Ký báo chí vừa là ngôn ngữ thông tin thời sự,
đồng thời giàu hình ảnh, có khả năng biểu cảm cao.
Do có sự tương đồng nên trong một thời gian dài tồn tại nhiều tranh
luận về Ký văn học và Ký báo chí. Việc phân biệt giữa Ký văn học và Ký báo
chí là việc làm cần thiết. Điều này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thể loại
Ký báo chí.
* Phân biệt Ký văn học và Ký báo chí:
Sự tương đồng giữa Ký văn học và Ký báo chí có thể được xác định ở
những điểm sau:
1/ Ký văn học và Ký báo chí đều viết về những người thật việc thật
trong cuộc sống. Chính điều này đã tạo nên sức hấp dẫn và thuyết phục của
Ký văn học và Ký báo chí.
2/ Ký văn học và Ký báo chí đều sử dụng bút pháp, ngôn ngữ giàu
chất văn học trong việc phản ánh hiện thực. Bởi thế Ký văn học và Ký báo chí
đều mang đến cho công chúng cái nhìn hiện thực rất tươi mới, sinh động, hấp
dẫn.
Tuy nhiên một loại xuất phát từ văn học (Ký văn học), một loại xuất
phát từ báo chí (Ký báo chí) với những đặc điểm rất khác nhau do đó giữa Ký
13
văn học và Ký báo chí có sự phân biệt cơ bản sau đây:
Tiêu chí Ký văn học Ký báo chí phân biệt
- Xây dựng những hình tượng nghệ - Phản ánh những con
thuật. người thật bằng xương
- Tác giả luôn có xu hướng muốn bằng thịt. Mục đích vĩnh viễn hoá tác phẩm của mình. - Các tác phẩm mang
tính thời điểm và có giá
trị về tính thời sự.
- Tái hiện cuộc sống thông qua - Phản ánh hiện thực với Phương thức những cảm xúc thẩm mỹ. độ chính xác tối đa và phản ánh hiện lập luận xuất phát từ lô thực gíc của sự thật.
- Cái Tôi trần thuật - - Cái Tôi thẩm mỹ
Chủ thể nhân chứng khách quan,
tỉnh táo, lý trí.
- Không yêu cầu quá cao về tính - Yêu cầu gắt gao về tính Tính thời sự thời sự. thời sự.
- Sử dụng tổng hợp nhiều cách thức - Không chấp nhận hư
của văn học để tạo ra một giọng cấu dưới bất kỳ một hình
điệu phong phú, sinh động. thức nào.
- Thủ pháp hư cấu: lựa chọn, sắp - Chấp nhận cảm xúc
xếp, tổ chức các tư liệu, chi tiết, dữ nhưng phải là cảm xúc Bút pháp
kiện + có sáng tạo thêm chi tiết mới trước sự thật để phản ánh
để thể hiện rõ bản chất sự việc, con sự thật.
người hơn và tăng tính hấp dẫn.
14
- Thường sử dụng hồi tưởng hay trí tưởng tượng để tái tạo hiện thực.
1.2. Ký chân dung báo chí - bộ phận quan trọng của thể loại Ký
báo chí:
1.2.1 . Ký chân dung báo chí là gì?
Trong các tài liệu hiện có về Ký chân dung, Ký chân dung được định
nghĩa là “một thể loại thuộc thể ký báo chí có đối tượng phản ánh là những
con người hay một tập thể người có thật, được coi là tiêu biểu vào những thời
điểm nhất định, đáp ứng yêu cầu thông tin thời sự. Đó là những con người hay
tập thể người có hành động, việc làm hoặc suy nghĩ nội tâm đáp ứng nhu cầu
thông tin của công chúng. Ký chân dung có kết cấu linh hoạt và bút pháp giàu
chất văn học” [8, 84].
Từ định nghĩa trên, chúng ta thấy có một số điểm đáng lưu ý:
Một là, đối tượng phản ánh trong Ký chân dung là con người. Về số
lượng, đối tượng phản ánh này có thể là một người hoặc một tập thể người.
Nhưng điều quan trọng hơn đây là những con người có thật, tiêu biểu, điển
hình trong những thời điểm nhất định. Trong tác phẩm, những con người này
luôn gắn với những việc làm, hành động, sự kiện cụ thể trong những hoàn
cảnh cụ thể, điển hình. Qua đó phẩm chất của nhân vật được bộc lộ một cách
rõ nét, chân thực, sâu sắc nhất. Con người trong ký chân dung là con người
hành động.
Hai là, đặc tả được coi là bút pháp chủ yếu trong Ký chân dung. Mặc
dù không phải là bút pháp duy nhất trong một tác phẩm Ký chân dung nhưng
đặc tả là bút pháp cơ bản, quan trọng nhất, được sử dụng nhiều nhất và phát
huy tác dụng rõ rệt nhất. Đối tượng phản ánh của Ký chân dung là những con
người có thật trong cuộc sống với những nét tiêu biểu, điển hình cho một vấn
đề hoặc một khía cạnh nào đó. Những con người này luôn gắn với những hoạt
động, hành động, sự việc cụ thể - đây chính là bối cảnh để con người đó bộc
15
lộ những phẩm chất, cá tính, suy nghĩ của mình. Trong khuôn khổ có hạn của
bài báo (đối với báo viết) hoặc thời lượng phát sóng (đối với phát thanh,
truyền hình) thì việc phác hoạ, làm nổi bật hình ảnh một con người rất cần
đến việc lựa chọn những chi tiết điển hình, đắt giá, những việc làm, hành
động tiêu biểu, gây ấn tượng nhất trong những hoàn cảnh, bối cảnh cụ thể,
điển hình. Đó là khi bút pháp đặc tả phát huy tác dụng. Nếu không có bút
pháp này, tác phẩm Ký chân dung báo chí sẽ trở nên lan man, dài dòng, không
có điểm nhấn. Nhân vật trong tác phẩm Ký đó cũng theo đó mà nhạt nhoà,
chìm lấp trong vô vàn con người khác. Điều đó cũng có nghĩa là tác phẩm Ký
chân dung đó đã thất bại.
Ba là, những tác phẩm Ký chân dung có rất nhiều giọng điệu khác
nhau: khi nghiêm túc, hào sảng, đĩnh đạc; khi hài hước nhẹ nhàng, khi châm
biếm sâu cay,...Những sắc thái này phụ thuộc vào nhân vật được nhắc tới là ai
với hoạt động gì, phụ thuộc vào khả năng của nhà báo cũng như mục đích
thông tin mà nhà báo muốn gửi tới công chúng. Thái độ thẩm định của tác giả
được đặc biệt coi trọng. Vì thế, tác giả Đức Dũng trong cuốn sách Các thể ký
báo chí đã định nghĩa về Ký chân dung như sau: “Ký chân dung là một thể ký
báo chí mà đối tượng phản ánh là những con người thật, tiêu biểu cho một vấn
đề hoặc một khía cạnh nào đó mang tính thời sự, gắn với những hành động,
việc làm cụ thể trong những tình huống hoặc hoàn cảnh điển hình với bút
pháp đặc tả và thái độ thẩm định dứt khoát của tác giả” [5, 154]. Thái độ thẩm
định này của nhà báo bộc lộ qua nhiều yếu tố trong tác phẩm như: giọng điệu,
cách lựa chọn, sắp xếp, nhấn mạnh chi tiết, lời bình trực tiếp của tác giả, sự
liên tưởng, so sánh, đặt nhân vật trong mối tương quan với những người xung
quanh và với môi trường.
Bốn là, đối tượng được phản ánh trong Ký chân dung không chỉ được
16
khắc hoạ về diện mạo, hành động, suy nghĩ mà còn được nhấn mạnh ở bề dày
và chiều sâu. Tác giả có thể lục tìm lại quá khứ và rất nhiều mối quan hệ xung
quanh nhân vật để minh chứng cho phẩm chất của đối tượng được phản ánh.
Năm là, trong Ký chân dung không chấp nhận những con người có
nhiều mặt đối lập mâu thuẫn nhau, điều mà trong chân dung văn học vẫn
thường thấy.
Với những đặc điểm của mình, Ký chân dung báo chí có nhiều yếu tố
phân biệt với chân dung văn học và một số thể loại khác cùng nhóm thể loại
chính luận - nghệ thuật.
Khác với chân dung văn học, Ký chân dung báo chí không bó hẹp về
phạm vi đối tượng phản ánh ở những con người nổi tiếng mà chấp nhận một
đối tượng rộng rãi hơn, đa dạng hơn. Đó là những con người, những tập thể
người được coi là tiêu biểu, gắn với một bối cảnh cụ thể nào đó đáp ứng yêu
cầu tuyên truyền thời sự. Hơn nữa, đối tượng của tác phẩm Ký chân dung báo
chí thường có những hành động, việc làm suy nghĩ gắn liền với yêu cầu thời
sự. Tuy nhiên yêu cầu thời sự trong tác phẩm Ký chân dung không gấp gáp,
cập nhật như đối với tin hay ghi nhanh. Thời sự của Ký chân dung là thời sự
của từng giai đoạn, từng thời kỳ có một khoảng thời gian tương đối dài. Đó
cũng là điểm nhận dạng Ký chân dung giữa các thể loại báo chí khác.
1.2.2. Ký chân dung báo chí hình thành và phát triển nhƣ thế nào?
Do những hạn chế về tư liệu, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa thể xác
định chính xác thể Ký chân dung báo chí đã xuất hiện lần đầu tiên ở tờ báo
nào. Tuy nhiên theo các tài liệu nghiên cứu văn học, từ những năm hoạt động
ở nước ngoài, nhà báo cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều tác phẩm
thuộc Ký báo chí, trong đó có nhiều bài là Ký chân dung.
Trong các tác phẩm Ký chân dung của Người, hình ảnh con người
hiện lên rất phong phú, đa dạng, thuộc mọi tầng lớp, từ những tên thực dân
17
tàn ác, vô nhân tính, bỉ ổi, tàn nhẫn đến những con người nô lệ khốn khổ, bị
áp bức, chà đạp ở mọi nơi trên thế giới. Hình ảnh nào hiện lên cũng chân
thực, sinh động với ngòi bút khi thì cười cợt, châm biếm, đả kích, khi thì đầy
thương yêu, đồng cảm.
Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, dưới ngòi
bút sắc sảo, già dặn của mình, Nguyễn Ái Quốc đã khắc hoạ bộ mặt bỉ ổi, tàn
nhẫn của những tên quan toàn quyền, thống đốc như Méclanh, Phuốc, Cácbi,
Lơme,...Bên cạnh đó, chân dung những cảnh đời nô lệ cũng hiện lên rõ mồn
một với ngòi bút đồng cảm xót xa, đó là những người bị dội nước sôi, những
người bị mổ bụng, moi gan, những người bị đánh đập hoặc bị hãm hiếp,...Đó
là những bằng chứng chân thực nhất, sống động nhất về bản chất tàn ác, man
rợ, vô nhân tính của bọn thực dân và bè lũ tay sai.
Sau này, khi cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, lôi kéo được
đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, báo chí cũng góp phần không nhỏ
và trở thành lực lượng tiên phong, trở thành vũ khí chiến đấu lợi hại trong
công tác tuyên truyền, cổ động đường lối chính sách của Đảng, tập hợp nhân
dân dưới lá cờ do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Và một trong những thể loại báo
chí được sử dụng phổ biến nhất trong thời gian này chính là thể Ký chân
dung. Ở thời kỳ này, các thể loại báo chí có sự giao thoa. Ký chân dung cũng
thường xuất hiện xen kẽ trong các thể loại khác, đặc biệt là trong Phóng sự.
18
Con người hiện lên trong các tác phẩm Ký chân dung thời kỳ này có ba dạng:
1/ Chân dung của bọn người thuộc tầng lớp “ăn trên ngồi trốc”, bao
gồm bọn thực dân, bè lũ quan lại tay sai và hình ảnh của những me Tây lúc
nào cũng ăn ngon mặc đẹp, quần áo lụa là.
2/ Đối lập với sự ăn chơi, xa hoa, tàn nhẫn trên là hình ảnh những con
người lầm than, dưới đáy xã hội đang tìm đủ mọi cách để tồn tại trong xã hội
thối nát này, thậm chí cả những con người bị tha hoá, lưu manh hoá, phải
dùng đủ các thủ đoạn lừa lọc để sống. Những cảnh đời, những số phận ấy cứ
mồn một hiện lên trong hàng loạt các bài Ký chân dung của các nhà báo, nhà
văn hiện thực như Hải Triều, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam,... với
hàng loạt các tác phẩm như: Việc làng, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô,
Làm đĩ, Một huyện ăn Tết,...
3/ Bên cạnh đó, hình ảnh của cách mạng, hình ảnh của những người
dân quân, chiến sỹ, hình ảnh của những em bé, phụ nữ cam đảm, quyết tâm
vùng lên đi theo cách mạng cũng được khắc hoạ trong các bài báo thuộc dòng
báo chí cách mạng. Các tác giả thường xuất hiện là Nguyễn Ái Quốc (với
nhiều bút danh khác nhau), Qua Ninh (bút danh của đồng chí Trường Chinh),
Vân Đình (bút danh của đồng chí Võ Nguyên Giáp)...Nhà hoạt động chính trị,
nhà báo, nhà văn hoá Nguyễn Văn Nguyễn từ năm 1936 đã có những bài Ký
chân dung sâu sắc, đậm nét về những nữ đồng chí với những mối tình cảm
động, về một bé trai bán hột vịt lộn, về cô bé bán chè - những lao động trẻ thơ
khao khát có được cuộc sống ấm no. Ông còn có những tác phẩm Ký chân
dung về những người tù ở khám lớn Sài Gòn hay Côn Đảo với cách viết rất
sinh động, sắc sảo.
Trong số các nhà báo cách mạng, Bác Hồ là người đặc biệt quan tâm
đến việc khắc hoạ chân dung con người, nhất là việc nêu gương Người tốt -
Việc tốt. Ngay từ năm 1946, Người đã viết nhiều bài cho báo Cứu Quốc và
19
căn dặn “...mỗi ngày nên đăng một cái “bảng vàng” kể về một việc oanh liệt
trong cuộc kháng chiến,...,chừng 15, 20 dòng đóng khung” [35]. Bác cũng là
tác giả của nhiều bài Ký chân dung về những tấm gương đáng noi theo trong
kháng chiến như: Anh hùng Lý Tự Trọng, Thanh niên kiểu mẫu, Võ Thị Sáu,
Nhớ ơn các chiến sỹ anh hùng,...
Có thể nói trong nhiều thập kỷ qua, thể Ký chân dung mà dạng bài
xung kích của nó là Người tốt - Việc tốt đã có những đóng góp quan trọng
thiết thực cổ vũ và khuyến khích thanh niên ra chiến trường chống Mỹ, cứu
nước; động viên nhân dân ta ra sức thi đua xây dựng miền Bắc vững mạnh,
làm hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam. Đó là các phong trào
Thanh niên xung kích, Ba sẵn sàng, Ba đảm đang, Ba nhất, Hai giỏi, Dạy tốt,
học tốt,... Khi phong trào phát triển, Bác phấn khởi khen ngợi: “Mỗi người tốt
là một bông hoa đẹp. Cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp. Phải làm sao cho mỗi
bông hoa đã đẹp, lại đẹp hơn để rừng hoa dân tộc càng thêm đẹp”.
Hiện nay, khi đất nước đổi mới được hơn 20 năm, Việt Nam đã gia
nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO, cả dân tộc đang hoà mình với thế
giới, cuộc sống nhân dân đang thay đổi từng ngày, đời sống báo chí vì thế
cũng có sự chuyển mình, phát triển theo chiều hướng năng động hơn, thông
tin phong phú, đa dạng, đa chiều hơn. Ngoài việc nhanh nhạy nắm bắt những
thông tin “nóng”, những sự kiện đang được công chúng quan tâm, các bài Ký
chân dung trên báo chí cũng thiên về cách phản ánh hình ảnh con người rất
khách quan, chân thực với phong cách giản dị, mộc mạc khiến công chúng
nhìn vào đó tự rút ra cho mình những suy ngẫm, bài học, kinh nghiệm cho
bản thân. Lối viết chân dung đao to búa lớn, thiên về răn dạy với những lời lẽ
hùng hồn mang tính định hướng rõ rệt của giai đoạn trước đã không còn phù
hợp với giai đoạn mới này. Ở thể loại Ký chân dung, ngoài những bài viết
Người tốt - Việc tốt quen thuộc còn xuất hiện nhiều bài viết về những chân
20
dung “đen”, “người xấu việc xấu” tuy nhiên những bài viết Người tốt - Việc
tốt vẫn chiếm ưu thế. Trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi tập trung
tìm hiểu về Ký chân dung Người tốt - Việc tốt trên báo chí.
Mặc dù vẫn lựa chọn đối tượng phản ánh là những con người với việc
làm tiêu biểu trong từng giai đoạn nhất định với bút pháp đặc tả là chủ yếu
nhưng những tác phẩm Ký chân dung Người tốt - Việc tốt trên các phương
tiện thông tin đại chúng khác nhau lại mang những đặc điểm riêng biệt phù
hợp với từng loại hình báo chí. Ở luận văn này, chúng tôi tập trung tìm hiểu
Ký chân dung Người tốt - Việc tốt trên hai loại hình báo chí tiêu biểu: báo in
và báo hình để khẳng định: Ký chân dung báo in là cơ sở văn bản của Ký
chân dung truyền hình.
1.3. Ký chân dung báo in - cơ sở văn bản của Ký chân dung
truyền hình:
1.3.1. Ký chân dung báo in và những đặc điểm nổi trội:
Là loại hình phương tiện thông tin đại chúng xuất hiện đầu tiên, báo
in đã sớm mang trong mình những đặc điểm cơ bản nhất, chung nhất của báo
chí. Vì thế Ký chân dung báo in được coi là gần nhất với những lý luận về thể
loại Ký chân dung và trở thành cơ sở cho Ký chân dung trên các loại hình báo
chí xuất hiện sau này.
Thực tế trong nhiều năm qua, những thành quả to lớn mà chúng ta đã
giành được trong công cuộc bảo vệ và xây dựng tổ quốc luôn gắn liền với
việc tổ chức có hiệu quả phong trào thi đua yêu nước trên phạm vi cả nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của phong trào thi đua yêu nước trong toàn
dân và việc nêu gương Người tốt - Việc tốt, thực hiện theo lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng đã đề ra
những chủ trương củng cố, tăng cường và đổi mới công tác thi đua khen
21
thưởng nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới.
Bộ Chính trị đã yêu cầu các cấp uỷ Đảng, các đảng đoàn, Ban cán sự Đảng,
Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành đặc biệt là các cơ quan báo chí phải tập
trung làm tốt nhiệm vụ này, coi đây là công tác then chốt trong quá trình hoạt
động báo chí.
Trong phong trào thi đua yêu nước, báo chí đã góp tiếng nói không
nhỏ giúp tổ chức, thông tin, truyền bá những tấm gương Người tốt - Việc tốt
sâu rộng khắp trong cả nước. Rất nhiều tờ báo, tạp chí đều có những tác phẩm
Ký chân dung Người tốt - Việc tốt khen ngợi các tập thể và cá nhân có nhiều
thành tích đóng góp cho xã hội. Có thể điểm qua một số tờ báo, tạp chí ở Việt
Nam hiện nay với những chuyên mục Người tốt - Việc tốt như sau:
- Báo Nhân dân có các chuyên mục: Những tấm gương bình dị mà cao quý,
Nhân vật hàng tháng, Nguồn lực trẻ,,...
- Báo Lao động (số ra hàng ngày) có các chuyên mục: Đền ơn đáp nghĩa, Tấm
lòng vàng, Cảnh đời, Nhân vật,...
- Báo Lao động (số cuối tuần) có các chuyên mục: Văn hoá- Văn nghệ, Thời
gian tạo nên giá trị,...
- Báo Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh (số ra hàng ngày ) có các chuyên mục:
Theo gương Bác, Góc phố đời người, Nhịp sống trẻ,...
- Báo Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh ( số cuối tuần) có các chuyên mục:
Nhịp sống trẻ, Người đương thời, Giáo dục, Điện ảnh, Văn hoá,...
- Báo Thanh niên có các chuyên mục: Thanh niên&Cuộc sống, Gặp gỡ đầu
tuần, Nhân vật, Tiếp cận,…
- Báo Tiền Phong có các chuyên mục: Chuyện riêng người nổi tiếng, Gặp gỡ
chủ nhât, Câu chuyện doanh nhân,...
- Báo Thể thao văn hoá có các chuyên mục: Trò chuyện cuối tuần, Phỏng vấn
22
cầu thủ,...
- Tạp chí Thế giới mới có các chuyên mục: Nhìn lại lịch sử, Thế giới văn hoá
nghệ thuật,...
Hầu hết các tờ báo, tạp chí của Việt Nam hàng ngày đều có những tác
phẩm Ký chân dung Người tốt - Việc tốt. Đó có thể là chân dung người nổi
tiếng đang được nhiều người biết đến nhưng cũng có thể đó chỉ là chân dung
những người dân bình thường với những việc tốt rất bình dị. Sự xuất hiện của
nhiều tác phẩm Ký chân dung Người tốt - Việc tốt bắt nguồn từ bản sắc và
tính cách văn hoá Việt Nam. Xã hội Việt Nam là một xã hội nông nghiệp với
khí hậu nắng nóng, mưa nhiều. Văn hoá Việt Nam là loại hình văn hoá gốc
nông nghiệp với chủ thể văn hoá là Nông dân – Nông nghiệp – Nông thôn.
Con người Việt Nam rất trọng tính cộng đồng và các mối quan hệ. Trong giao
tiếp và quan hệ xã hội thì con người Việt Nam coi trọng tình cảm hơn lý trí,
tinh thần hơn vật chất, ưa sự tế nhị kín đáo hơn sự rành mạch thô bạo. Vì thế,
những con người được coi là Người tốt - Việc tốt phải là những con người đại
diện cho suy nghĩ, tình cảm của đông đảo quần chúng, phải mang trong mình
những phẩm chất được con người Việt Nam coi trọng đó là: trọng tình, trọng
nghĩa, sống và làm việc vì cộng đồng. Báo chí Việt Nam cũng xuất phát từ
tính cách văn hoá đặc trưng của đất nước để tạo ra những tác phẩm Ký chân
dung Người tốt - Việc tốt. Ở một đất nước coi trọng tính cộng đồng như Việt
Nam thì hiệu quả của các tác phẩm Ký chân dung Người tốt - Việc tốt mới ăn
sâu, lan rộng đến thế.
Trong bài Ký chân dung Bí quyết tình báo của ông cố vấn của tác giả
Hiền Anh đăng trên báo Sức khoẻ và Đời sống (số 98, thứ năm ngày
15/8/2002), hình ảnh ông tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ hiện lên rất giản dị,
gần gũi như một người cha, người ông khi bước vào tuổi 75: “Là cố vấn của
ba đời Tổng thống nguỵ, đã tổ chức một mạng lưới tình báo cài sâu và trèo
23
cao trên các vị trí chức vụ quan trọng hàng đầu trong các lĩnh vực an ninh,
kinh tế, chính trị, xã hội,...của bộ máy Chính quyền nguỵ - Sài Gòn, đã thực
hiện những chiến công phi thường mà không phải một nhà tình báo nào cũng
có thể làm được, thiếu tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ nở một nụ cười rất tươi
rồi sau đó trầm ngâm, vẻ tự tại trả lời câu hỏi của tôi”.
Cũng trong tác phẩm này, một hình ảnh nữa cũng rất đẹp hiện lên bên
cạnh thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ là vợ của ông – bà Nhẫn người mà ông Nhạ
cũng phải thốt lên rằng đó là “bà vợ vĩ đại”: “Đó là một phụ nữ đẹp, một vẻ
đẹp phúc hậu và nhân ái. Tôi không thể hình dung được sức mạnh nào đã giúp
người phụ nữ này vượt qua được những khổ ải nguy hiểm đe doạ và những
mất mát tột cùng to lớn. Một mình sinh nở nuôi nấng dạy bảo 8 người con, cả
gia đình trông chờ vào gánh hàng rau quả của bà”.
Hay đôi khi chỉ là những hình ảnh về những người dân rất bình
thường mà chúng ta vẫn thường gặp hàng ngày với những công việc tốt cũng
rất bình dị. Đó là hình ảnh của một nữ cán bộ về hưu tự bỏ tiền xây lớp học
rồi mời thầy giáo về dạy học miễn phí cho trẻ em nghèo ở xóm Bực Lỡ, xã
Vĩnh Tân, huyện Tuy Phong, Bình Thuận – bà Ngô Thị Quyên (người dân địa
phương quen gọi là bà Năm Tốt): “Tôi chưa từng thấy ai như bà Năm cả.
Cuối năm đứa nào học giỏi đều được bà khen thưởng. Vào các dịp lễ lết,
trung thu hay ngày 1/6 và đều tổ chức cho các em vui chơi không khác gì
trường của Nhà nước...Ngoài lương bà Năm lo luôn cho thầy giáo chuyện ăn
ở, sinh hoạt. Bà lo cho thầy giáo từ chuyện lớn như ốm đau đến chuyện nhỏ
như xà phòng tắm giặt. Nói chung bà lo tất tần tật từ A đến Z miễn sao “mấy
thầy cô toàn tâm toàn ý với học trò của tui là được”.
Qua xem xét một số tác phẩm Ký chân dung Người tốt - Việc tốt trên
báo in Việt Nam đã phát hành trong những năm gần đây, chúng ta có thể nhận
24
thấy những đặc trưng của dạng bài Người tốt - Việc tốt trên báo in là:
1/ Các bài viết đều lấy đối tượng phản ánh là con người hay một tập
thể người có thật. Đó là những con người đủ mọi lứa tuổi, giới tính, nghề
nghiệp khác nhau với những hoàn cảnh sống rất khác nhau.
2/ Những nhân vật được phản ánh trong các tác phẩm Ký chân dung
Người tốt - Việc tốt đều là những con người có đặc điểm, phẩm chất nào đó
tốt đẹp được xã hội thừa nhận và mong muốn trở thành tấm gương cho mọi
người cũng noi theo. Đó có thể là một nhà hoạt động cách mạng lỗi lạc, dám
vượt qua mọi gian khổ, đày ải của kẻ địch để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
mình được giao phó; đó có thể là những người vợ, người mẹ sẵn sàng hy sinh,
chịu đựng mọi khó khăn trong cuộc sống tiễn chồng, con ra mặt trận dù biết
rằng ngày về của chồng con mình thật quá mong manh; đó có thể là những
con người có tấm lòng nhân ái bao la sẵn sàng giơ tay nâng đỡ những mảnh
đời bất hạnh; đó có thể là những tấm gương học sinh vượt khó học giỏi,...Tất
cả những con người đó đều rất đẹp, họ sống xung quanh chúng ta và trở thành
tấm gương để nhiều người khác noi theo.
3/ Việc làm tốt đẹp của những con người được phản ánh trong dạng
bài Người tốt-Việc tốt được khắc hoạ trong những hoàn cảnh nhất định, những
sự kiện, bối cảnh đó mang tính thời sự, đáp ứng tốt nhu cầu thông tin cập nhật
hàng ngày của công chúng.
4/ Tác phẩm Ký chân dung Người tốt - Việc tốt trên báo in có kết cấu
rất linh hoạt, bút pháp giàu chất văn học và đôi khi có sự giao thoa với một số
thể loại báo chí khác như: Phóng sự, Bài phản ánh, Phỏng vấn,...
5/ Tác phẩm Ký chân dung Người tốt - Việc tốt trên báo in được thể
hiện dưới dạng ngôn ngữ văn tự, có sự hỗ trợ của một số kênh thông tin khác,
25
đặc biệt là ảnh kèm theo.
1.3.2. Ký chân dung báo in là cơ sở văn bản của Ký chân dung truyền
hình:
Với những đặc điểm nổỉ trội trên, Ký chân dung báo in trở thành cơ
sở nền tảng cho Ký chân dung trên các loại hình báo chí xuất hiện sau này,
trong đó có truyền hình. Cách thức xây dựng tác phẩm Ký chân dung báo in
có ảnh hưởng đến truyền hình ở nhiều yếu tố: từ lựa chọn đề tài, tìm kiếm
thông tin đến cách sắp xếp các chi tiết, tình tiết,...Trong đó, yếu tố được đặc
biệt ghi nhận đó là cơ sở văn bản của Ký chân dung báo in đối với Ký chân
dung truyền hình.
Trước hết, Ký chân dung báo in trở thành cơ sở văn bản của Ký chân
dung truyền hình vì bản thân tác phẩm Ký chân dung báo in là một văn bản
truyền thông hoàn chỉnh. Văn bản truyền thông này được viết cho số đông
công chúng đọc và hiểu. Sự trong sáng của thông báo và sự trong sáng của
ngôn ngữ thông báo là hai phẩm chất thông tin quan trọng nhất của một văn
bản truyền thông [22, 59-60]. Văn bản này chứa đựng một thông báo cốt lõi
do đó tác giả sẽ phải gạn lọc những thông tin quan trọng nhất, những chi tiết
26
đắt giá nhất để xây dựng chân dung một con người.
Văn bản tác phẩm Ký chân dung báo in:
27
“Lớp học tình thƣơng của bà Năm Tốt”
Thứ hai, kịch bản của Ký chân dung truyền hình chính là yếu tố có cơ
sở từ Ký chân dung báo in. Một tác phẩm Ký chân dung truyền hình khi xuất
hiện trên màn ảnh nhỏ là một chuỗi các hình ảnh và âm thanh về chân dung
và hoạt động của một con người cụ thể. Nhưng để có được những hình ảnh và
âm thanh đó, nhà báo truyền hình phải xây dựng được văn bản mô tả nội dung
và cách thức thực hiện những hình ảnh và âm thanh này. Theo TS Trần Bảo
Khánh, kịch bản truyền hình là văn bản thể hiện tác phẩm bằng từ ngữ. Nó thể
hiện ý đồ của tác giả trong việc thông tin sự việc, sự kiện, con người tới công
chúng [19, 41]. Đối với một tác phẩm truyền hình, dù thời lượng ngắn hay dài
đều cần phải có kịch bản. Kịch bản truyền hình không chỉ định hướng, dự
đoán hình ảnh, âm thanh trên cơ sở thực tế của cuộc sống, con người mà còn
là sợi dây liên kết giữa giữa phóng viên và quay phim, tạo ra kế hoạch cụ thể
cho phóng viên và êkíp làm việc, khống chế thời lượng tác phẩm và giúp ban
biên tập hoạch định chương trình.
Thứ ba, cơ sở văn bản của Ký chân dung báo in thể hiện trong lời
bình của Ký chân dung truyền hình. Lời bình trong một tác phẩm Ký chân
dung truyền hình trước tiên được thể hiện bằng ngôn ngữ viết ở dạng văn bản,
sau đó văn bản đó được thể hiện bằng âm thanh qua giọng đọc của phát thanh
viên. Lời bình trong tác phẩm Ký chân dung truyền hình không chỉ để minh
hoạ, giải thích cho hình ảnh mà còn dẫn dắt người xem cảm thụ, suy ngẫm
qua những hình ảnh được đưa vào tác phẩm. Lời bình trong tác phẩm Ký chân
dung vừa tuân thủ tính chính xác báo chí về sự kiện, con người có thật, vừa
kết hợp với ngôn ngữ văn học nhằm lột tả tính cách, tâm lý nhân vật.
Thứ tư, những văn bản Ký chân dung báo in nhiều khi trở thành đề
tài, nguồn cảm hứng cho những tác phẩm Ký chân dung truyền hình. Với tính
nhanh nhạy, gọn nhẹ khi tác nghiệp, chân dung một con người tiêu biểu đã
28
nhanh chóng xuất hiện trên các mặt báo, nhiều khi nhanh hơn cả truyền hình.
Và đặc biệt với khả năng lưu giữ, sử dụng văn bản dễ dàng, thuận tiện, các tác
phẩm Ký chân dung báo in đã trở thành nguồn tư liệu quý giá với truyền hình.
Rất nhiều tác phẩm Ký chân dung truyền hình lấy nguồn từ các tác phẩm Ký
chân dung báo in.
Ví dụ: Tác phẩm Ký chân dung truyền hình Tự sự ( Hãng phim truyền
hình, đài TH TPHCM sản xuất năm 2000, kịch bản Trầm Hương, biên tập
Minh Dân, đạo diễn Dư Hoàng, quay phim Hoàng Tuệ) về thương binh
Nguyễn Thị Lý lấy nguồn từ Ký chân dung báo in Mẹ nuôi ở phương nào
(Báo Khoa học phổ thông số 515).
Trên đây là những minh chứng rõ nét nhất của việc: Ký chân dung
báo in là cơ sở văn bản của Ký chân dung truyền hình. Trong thực tế, các nhà
29
báo truyền hình đã vận dụng linh hoạt, uyển chuyển và sáng tạo những yếu tố
kế thừa từ Ký chân dung báo in kết hợp với đặc trưng báo hình tạo nên những
tác phẩm Ký chân dung truyền hình với sức hấp dẫn riêng biệt.
Con người – đó cũng chính là trọng tâm của Ký chân dung truyền
hình. Ký chân dung truyền hình khắc hoạ hình ảnh một con người hoặc một
nhóm người không phải bằng phương tiện của hư cấu mà bằng phương tiện
tái hiện. Đó là những con người mà theo TS. Trần Bảo Khánh, họ phải có
những phẩm chất sau:
“-Đời sống nội tâm phong phú
- Số phận cuộc đời tiêu biểu
- Tính cách sáng rõ.
- Có vai trò lớn trong đời sống xã hội” [19, 55]
Ký chân dung truyền hình cho phép chúng ta phản ánh một cách sinh
động, sắc nét, dễ hiểu, kịp thời trước sự kiện, hé mở hình ảnh một con người
thú vị hoặc chân dung một tập thể, kể về sinh hoạt, truyền thống, tập tục của
con người một vùng đất. Phương pháp đặc tả cũng được sử dụng phổ biến
trong các tác phẩm Ký chân dung truyền hình, không chỉ trong nội dung mà
còn trong các cảnh quay, góc quay, cách dựng hình,...
Khi bàn về đặc tả, có nhiều quan điểm khác nhau. Trong những bài
giảng của ông T.J.S.George – chuyên gia của Unesco tại Việt Nam thì đặc tả
là miêu tả những đặc điểm tiêu biểu, nổi bật nhất của một con người tạo tiền
đề cho những nét đặc trưng khác khiến người được miêu tả trở thành hình
mẫu cho những người khác.
Một ý kiến khác của Giáo sư, Tiến sỹ Arnold Hoffman giảng dạy tại
Khoa Báo chí trường đại học Các-Mác Lai-xích, Cộng hoà Liên bang Đức thì
“đặc tả là sự phác hoạ sinh động và đầy sức sống về một con người, tập trung
vào những đặc điểm và những nét đặc trưng chủ yếu của con người đó và
30
trình bày con người đó trong hoạt động xã hội có liên quan của họ” [25, 67].
Cùng một đối tượng, cùng một con người, có thể trở thành nhân vật
phản ánh của tác phẩm Ký chân dung báo in cũng như xuất hiện rất sinh động
trong tác phẩm Ký chân dung truyền hình. Nhưng điểm khác biệt rõ nét nhất
của Ký chân dung truyền hình là chúng được thể hiện bằng hệ thống hình ảnh,
âm thanh trung thực, sinh động và được thực hiện theo phương thức sản xuất
của truyền hình. Hơn nữa, chúng được chuyển tải tới công chúng qua hệ
thống phương tiện truyền hình: qua sóng truyền hình, đường truyền cáp quang
hoặc vệ tinh, được phát hành thành băng, đĩa. Vì thế những đặc trưng của Ký
chân dung truyền hình được xác định là:
1/ Ký chân dung truyền hình phản ánh về người có thật, việc có thật.
2/ Ngôn ngữ chuyển tải nội dung là ngôn ngữ của truyền hình với hệ
thống hình ảnh, âm thanh rất phong phú, đa dạng.
3/ Các tác phẩm này được thực hiện theo phương thức sản xuất của
truyền hình với các yếu tố: kịch bản, cảnh quay, đạo diễn, quay phim, PV,
BTV,...
4/ Ký chân dung truyền hình có sự hỗ trợ, kết hợp linh hoạt của nhiều
loại hình báo chí khác như: báo in, báo nói, internet...Đồng thời là việc sử
dụng các công cụ hỗ trợ khác như: tư liệu, ảnh lịch sử, kỷ vật,... có liên quan
đến nhân vật trong tác phẩm.
5/ Nếu với báo in, có thể chỉ một PV với cây bút, quyển sổ, một máy
ghi âm, một máy ảnh là có thể thực hiện hoàn chỉnh một tác phẩm Ký chân
dung thì một tác phẩm Ký chân dung trên truyền hình lại là sản phẩm của cả
một tập thể, một êkíp làm việc với độ kết hợp ăn ý, nhuẫn nhuyễn cao của đạo
diễn, PV, BTV, quay phim, trợ lý, kỹ thuật âm thanh, kỹ thuật ánh sáng,
chuyên gia mỹ thuật, chuyên gia trang điểm,...
Với sự phong phú, biến hoá của ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh, các
31
tác phẩm Ký chân dung truyền hình qua đã tạo được ấn tượng rất tốt đẹp
trong lòng khán giả. Chắc hẳn khán giả chưa thể nào quên tác phẩm Chân
dung Người mẹ miền Nam của đạo diễn Hồ Minh Đức. Tác phẩm Ký chân
dung này đã đạt Huy chương vàng liên hoan truyền hình toàn quốc năm 1994.
Trong bộ phim, hình ảnh của những người mẹ miền Nam hiện lên rất gần gũi,
chân thật, mộc mạc mà cảm động. Đó là những người mẹ có số phận vô cùng
đặc biệt, trên mọi nẻo đường của Tổ quốc, từ địa đầu Tổ quốc đến mũi Cà
Mau mà ê kíp thực hiện đã tiếp cận và thực hiện những cảnh quay rất chân
thật. Đó là những bà mẹ co con hy sinh mà không dám khóc, những bà mẹ có
con sinh Bắc tử Nam, sinh Nam tử Bắc, có những bà mẹ dù không được
phong tặng một danh hiệu cao quý nào nhưng sự hy sinh, chịu đựng của các
mẹ thật lớn lao,...Thật cảm động khi máy quay đã đặc tả được những giọt
nước mặt trĩu nặmg lăn trên gò má già nua, nhăn nheo của các mẹ.
Một tác phẩm Ký chân dung truyền hình khác đã để lại ấn tượng rất
tốt đẹp và sự cảm phục, niềm tự hào sâu sắc trong lòng mỗi người Việt Nam
cũng như bạn bè thế giới đó là hình ảnh bà Tôn Nữ Thị Ninh trong tác phẩm
Bà Đại sứ Tôn Nữ Thị Ninh của đạo diễn Hải Anh sản xuất năm 2005. Những
nỗ lực của ê kíp làm việc đã đặc tả thành công chân dung một bà đại sứ với
thành tích và tính cách rất đặc biệt: “Trải qua gần 30 năm làm công tác ngoại
giao, đến gần 70 nước trên thế giới với cả một bề dày kinh nghiệm nhưng bà
rất khiêm tốn, mạnh mẽ, đầy nữ tính và mang một vẻ quý phái đặc biệt. Ở tuổi
ngũ tuần nhưng trông bà thật trẻ trung. Bà thích thời trang và nghệ thuật. Bà
hạnh phúc vì có người chồng lý tưởng và một cậu con trai đang du học ở Bỉ.
Nữ đại sứ Tôn Nữ Thị Ninh là hiện thân đầy sức thuyết phục về một thế hệ
phụ nữ Việt Nam thời hiện đại”.
Cũng với mục đích khắc hoạ chân dung con người, các đài truyền
hình cũng đa dạng hoá cách thể hiện của mình. Không chỉ theo chân đoàn làm
32
phim ghi lại hình ảnh của những con người nổi tiếng mà cách mời họ đến
trường quay để phỏng vấn cũng là cách được sử dụng phổ biến hiện nay.
Trong chương trình Sức sống mới phát sóng trên kênh VTV1 hàng ngày,
trong mỗi chương trình đều có một phần trò chuyện với người đang được
công chúng quan tâm. Ví dụ như chương trình trò chuyện cùng PGS.TS
Nguyễn Thị Trâm – nhà nghiên cứu giống lúa nổi tiếng của Việt Nam. Qua
chương trình, khán giả có thể thấy được chân dung của một ngữ tiến sỹ say
mê nghiên cứu khoa học và những thành tích mà bà đã đạt được như: bà là tác
giả của hàng chục công trình nghiên cứu có giá trị và nhận được nhiều giải
thưởng khoa học uy tín như Giải thưởng Kôvalepxkaia (2000), Giải thưởng
nhà nước về khoa học công nghệ (2005), đồng thời bà cũng là một người bà,
một người mẹ, một người vợ đảm đang trong gia đình.
Hay trong chương trình Người xây tổ ấm, hình ảnh những người mẹ,
người cha, người con hiện lên rất mực thân thương, chia sẻ với mọi người
những suy nghĩ, bí quyết giữ gìn hạnh phúc trong gia đình xuất phát từ chính
thực tế gia đình mình. Ông Nguyễn Tiến Thành, ở Từ Sơn, Bắc Ninh là một
nhân vật như thế. Bất hạnh là 3 người con của ông đều mắc nghiện. Không
thể đứng nhìn các con sa ngã, ông quyết tâm cai nghiện cho các con. Và ông
đã làm được cái điều tưởng như không thể làm được ấy, và những kinh
nghiệm cai nghiện đã được ông chân thành chia sẻ, giãi bày với mọi người.
Hay chương trình Người xây tổ ấm nói về cậu bé Đỗ Minh Hội đã
khiến không ít người rơi nước mắt khi theo dõi chương trình. Bé Hội phải
ngồi xe lăn vì căn bệnh xương thuỷ tinh nhưng những câu chuyện bé kể thật
hồn nhiên, trong sáng: “Nếu cháu mà có hai tay, hai chân lành lặn như mọi
người, việc đầu tiền cháu sẽ làm là đi học, đi học rồi đi làm. Đi làm có nhiều
tiền rồi để cháu đi khắp đất nước giúp đỡ những em mắc căn bệnh xương thuỷ
tinh hiểm nghèo này”. Và nhiều người đã không kìm được nước mắt khi nghe
33
Hội nói lên những suy nghĩ về cha mẹ: “Mỗi người sẽ có một cách thương
yêu và đền đáp cha mẹ khác nhau, nhưng cháu thì cháu chỉ mong là làm sao
giữ được thân mình để đừng gãy tay, gãy chân cho bố mẹ đỡ khổ, để không là
người vô dụng”. Cậu bé mắc căn bệnh hiểm nghèo là thế vậy mà Hội vẫn mày
mò học Tin học, viết truyện, làm trang web,...để thấy mình còn là người có
ích. Một khán giả khi xem xong chương trình đã viết thư tâm sự: “Cô con gái
nhỏ của tôi cũng xem chương trình rất chăm chú. Và khi nhìn vào mắt con, tôi
hiểu, cháu đang hướng đến một điều gì đó thật đẹp...”. Và phải chăng, chương
trình truyền hình đã mang lại điều kỳ diệu ấy?
Đặc biệt ở chuyên mục Người đương thời, mỗi một chương trình
được phát sóng là một nhân vật, một cảnh đời, một kinh nghiệm, một bài học
được nói ra. Tính đến năm 2006, sau 6 năm lên sóng, ê kíp thực hiện chương
trình Người đương thời đã sản xuất được 254 số. Với hơn 250 số đã lên sóng,
chuyên mục đã gặp gỡ các nhân vật đủ mọi lứa tuổi (từ các em nhỏ còn đang
cắp sách đến trường như em Nguyễn Thị Mận, Hoàng Minh Tùng, Lê Tám
Chín, Phan Bá Châu, Đặng Thanh Phương, Đinh Văn Vụ,... đến những vị giáo
sư bạc đầu đáng kính như GS. Tô Ngọc Thanh, GS. Bác sỹ Nguyễn Tài Thu,
GS. Bác sỹ Tôn Thất Bách, GS. Bác sỹ Nguyễn Văn Đính,...). Những con
người ấy hoạt động trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau (như nhà
nghiên cứu, bác sỹ, kỹ sư, người nông dân, nhà văn, nhạc sỹ, công an, bộ đội,
doanh nhân, tù nhân, giáo viên,...). Họ đến từ rất nhiều vùng quê khác nhau
trên dải đất hình chữ S của chúng ta và đặc biệt có cả những vị khách đến từ
nước ngoài. Dù khác nhau về độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp nhưng họ đều
gặp nhau ở một điểm: họ đều là những con người có nhiều đóng góp cho xã
hội, cho cộng đồng. Họ chính là vốn quý của xã hội. Những thành quả họ làm
được không chỉ giúp đất nước giàu hơn, mạnh hơn, trong sạch, văn minh hơn
mà còn giúp truyền nhiệt huyết, quyết tâm, ý chí tới biết bao khán giả, mang
34
lại cho họ nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao, niềm tin mạnh mẽ vào những giá
trị sống tốt đẹp của con người. Hành trang của những nhân vật khi đến với
chương trình là những câu chuyện đầy cảm động và có sức thuyết phục.
Những câu chuyện là những bài học về lòng đam mê và chăm chỉ lao động, là
bài học về ý chí kiên cường, bền bỉ vượt qua mọi khó khăn và trở ngại, là
những câu chuyện về đức tính trung thực, dũng cảm, nhân hậu và giàu lòng vị
tha.
Tiểu kết chƣơng 1:
Ký trở thành một thể loại độc lập trong lòng báo in từ rất sớm. Với
những ưu thế của sự kết hợp giữa các yếu tố chính luận và yếu tố nghệ thuật,
thể loại Ký báo chí nhanh chóng thu hút được sự chú ý của công chúng. Ngay
từ khi ra đời, truyền hình đã tiếp nhận những ưu thế của báo in - loại hình báo
chí xuất hiện sớm nhất. Vì thế, về mặt lý luận, Ký chân dung báo in là cơ sở
văn bản của Ký chân dung truyền hình. Ký chân dung báo in: bản thân nó đã
là một văn bản truyền thông hoàn chỉnh do đó nó trở thành cơ sở văn bản cho
Ký chân dung truyền hình cũng là điều dễ hiểu. Kịch bản, văn bản lời bình,
văn bản tư liệu trong Ký chân dung truyền hình là những minh chứng rõ nét
nhất.
Dạng bài Người tốt - Việc tốt là một dạng bài thuộc thể loại Ký chân
dung. Vì thế, dạng bài Người tốt - Việc tốt mang đầy đủ những đặc điểm của
một tác phẩm Ký chân dung lấy thông tin thật và con người thật làm đối
tượng phản ánh. Dạng bài Người tốt - Việc tốt được thể hiện dưới một kết
cấu, bút pháp rất linh động và ngôn ngữ sử dụng linh hoạt, giàu cảm xúc
khiến công chúng rất dễ dàng tiếp nhận và cảm nhận được sự hấp dẫn, cuốn
hút có sức lay động lòng người.
Những ưu thế vốn có của Ký chân dung kết hợp với những thế mạnh
35
của truyền hình đã tạo nên những tác phẩm thực sự có giá trị và cuốn hút khán
giả. Khi được phát sóng, rất nhiều tác phẩm Ký chân dung trên truyền hình đã
để lại ấn tượng khó phai trong lòng người xem. Với những hình thức thể hiện
phong phú, đa dạng, sinh động, hấp dẫn, với cách thực hiện tác phẩm công
phu, với sức quảng bá sâu rộng của truyền hình, những chân dung trong các
tác phẩm Ký chân dung đã nhanh chóng được xã hội hoá, có sức tác động
mạnh mẽ tới số đông khán giả về cả tâm lý, tình cảm, cách suy nghĩ, cách
nhìn nhận cuộc sống và hành vi của công chúng.
Để hiểu kỹ hơn về Ký chân dung truyền hình, Phần 2 của luận văn sẽ
nghiên cứu sâu Người đương thời - một chương trình tiêu biểu của Đài THVN
36
về việc khắc hoạ chân dung Người tốt- Việc tốt trong thời đại mới.
CHƢƠNG 2
CHUYÊN MỤC NGƢỜI ĐƢƠNG THỜI –
MỘT THÀNH CÔNG VỀ KÝ CHÂN DUNG
TRUYỀN HÌNH
2.1. Tổng quan về chuyên mục Ngƣời đƣơng thời:
2.1.1. Ngƣời đƣơng thời ra đời trong không khí đổi mới của Đài THVN:
Ngày 7/9/1970, Đài THVN phát sóng buổi đầu tiên. Từ đó Đài
THVN đã liên tục đổi mới và phát triển toàn diện về hệ thống kỹ thuật cũng
như nội dung các chương trình.
Ngày 31/3/1997, kênh truyền hình VTV3 ra đời. VTV3 đi sâu khai
thác lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, thể thao, giải trí, thông tin kinh tế và quảng
cáo. Sự ra đời của VTV3 với những đổi mới, sáng tạo, đa dạng hoá trong nội
dung và cách thức thể hiện đã đem theo một luồng sinh khí mới cho truyền
hình, đánh dấu một mốc son trong quá trình phát triển của Đài THVN. Theo
các đánh giá của các chuyên gia thì sự ra đời của VTV3 đã mang lại rất nhiều
điều mới mẻ.
Thứ nhất, khán giả được đặt vào đúng vị trí của mình. Nếu trước
đây, với số lượng chương trình ít ỏi và thời lượng phát sóng không nhiều,
khán giả không có quyền lựa chọn chương trình truyền hình. Đôi khi họ phải
xem những chương trình mình không thích. Nhưng từ khi VTV3 ra đời, khán
giả có thêm quyền lựa chọn. Họ đã thực sự trở thành một khách hàng chủ
động chứ không còn là người tiếp nhận thụ động như trước nữa. Chính bản
thân người xem cũng ý thức được quyền của mình. Họ có thể gọi điện, viết
thư yêu cầu hoặc hồi âm về những chương trình đã phát sóng, về những MC
37
mình quan tâm,...Ngược lại, với sự đón nhận nồng nhiệt, sự quan tâm và yêu
quý của khán giả, Đài THVN đặc biệt là VTV3 có thêm động lực dồi dào để
tiếp tục sáng tạo những chương trình hấp dẫn hơn.
Thứ hai, không chỉ có sự thay đổi đặc biệt quan trọng về vị trí và ý
thức của người xem mà ngay cả đội ngũ những người sản xuất chương trình
truyền hình cũng có sự biến chuyển đáng kể. Họ đã có thêm cái nhìn mới về
truyền hình và cách làm truyền hình. Truyền hình không chỉ bó hẹp trong
khuôn khổ của một phương tiện truyền tải thông tin, phổ biến những đường
lối chính sách của Đảng, Nhà nước, hay kêu gọi, hô hào quần chúng mà
truyền hình đã trở thành một nơi để khán giả tìm thấy sự vui vẻ, hài hước, thư
giãn, thoải mái với những tri thức gần gũi hàng ngày. Truyền hình đã khẳng
định thêm một thế mạnh nữa của mình ở phương diện là một công cụ giải trí,
quảng cáo hữu hiệu. Vì thế ngay trong đội ngũ những người sản xuất chương
trình đã có những thay đổi: mới mẻ hơn, sáng tạo hơn, năng động, linh hoạt
và hiện đại hơn. Một đội ngũ những người làm truyền hình trẻ ra đời đã thúc
đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới của Đài THVN. Họ có tuổi trẻ, nhiệt huyết
tràn đầy, tri thức, sáng tạo không ngừng nghỉ và có sự nhạy bén với mọi biến
chuyển trong và ngoài nước, đã tạo nên sự bứt phá đáng khâm phục. Các
chương trình truyền hình vì thế có sự thay đổi sâu sắc về chất lượng.
Thứ ba, hệ quả tất yếu của hai điều đổi mới nói trên đã tạo nên sự
mới mẻ rõ ràng nhất mà ai cũng nhận thấy, đó là sự sáng tạo, mới mẻ, hấp dẫn
của hàng loạt các chương trình trên VTV3. Những chương trình như SV 96,
Trò chơi liên tỉnh, Bình luận Thể thao trực tiếp,...ngay từ khi mới ra đời đã
làm không ít khán giả say mê. Những yêu cầu mới của khán giả khiến nội
dung và cách thức thể hiện chương trình phải khác đi. Những đổi mới trong
nhận thức của đội ngũ thực hiện, những quan niệm mới về nghề nghiệp cũng
38
khiến các chương trình không thể nhàm chán như cũ. Và kết quả là một
VTV3 với đầy sức trẻ, đầy sự năng động, nhiệt huyết, sáng tạo, mới mẻ, hấp
dẫn đã ra đời.
Và chuyên mục Người đương thời cũng được sinh ra trong không
khí đổi mới và tràn đầy sinh lực đó của Đài THVN.
2.1.2. Sự phát triển của chuyên mục Ngƣời đƣơng thời:
Chuyên mục Người đương thời xuất hiện lần đầu
tiên trên sóng của VTV3, Đài THVN vào ngày 25/1/2001 với cuộc gặp gỡ trò
chuyện cùng PGS.TS Tạ Minh Sơn trong chương trình Người đương thời số 1
mang tên Hạt giống. Chuyên mục Người đương thời ngay từ lần đầu tiên phát
sóng đã tạo dấu ấn rất đậm nét trong lòng khán giả và nhận được nhiều thư
hồi âm của bạn yêu truyền hình.
Khi được hỏi về ý tưởng ra đời chuyên mục Người đương thời, đạo
diễn chương trình Tạ Bích Loan đã chia sẻ: “Người đương thời ra đời từ sau
cuộc giao lưu Người lính cầm bút và Thi đua là yêu nước năm 2000”. Tháng
11 năm 2000, chương trình giao lưu Thi đua là yêu nước tại Đại hội thi đua
yêu nước lần thứ 6 đã được Đài THVN truyền hình trực tiếp từ Hội trường
Cung văn hoá Hữu Nghị Việt Xô”. Chương trình đã gây được tiếng vang lớn.
Những cuộc trò chuyện gần gũi, thân mật về những câu chuyện thực của
những con người bình dị nhưng rất đáng khâm phục đã tạo được dấu ấn tốt
đẹp trong lòng khán giả. Từ đây, nhà báo Tạ Bích Loan cùng các đồng sự đã
nảy ra ý tưởng xây dựng một chương trình truyền hình dài hơi – trò chuyện
với những người có thành tích nổi bật trong cuộc sống. Ý tưởng này đã được
nhà báo Tạ Bích Loan trình bày trước Ban lãnh đạo Đài THVN và ngay lập
39
tức đã nhận được sự đồng tình ủng hộ của Lãnh đạo Đài. Khi ấy, một mặt
Lãnh đạo Đài THVN được giao nhiệm vụ tuyên truyền những nhân tố mới
trong đời sống mới, mặt khác những người thực hiện cũng muốn thử một cách
làm mới. Đó là thực hiện những cuộc phỏng vấn chân dung trên truyền hình
về những gương Người tốt - Việc tốt mang tính chất cuộc trò chuyện tự nhiên,
đi sâu vào đời thường và nội tâm nhân vật. Cuộc phỏng vấn đó có thể sử dụng
những thủ pháp để tạo tình huống, gây cảm xúc cho nhân vật, xóa đi những
rào cản tâm lý để nhân vật tự bộc lộ mình.
Sau những ngày tháng ấp ủ và chuẩn bị rất công phu, chuyên mục
Người đương thời số đầu tiên mang tên Hạt giống đã lên sóng vào ngày
25/1/2001. Tiếp đó hàng loạt các chương trình Người đương thời khác lần
lượt lên sóng với nhiều gương mặt, nhiều con người với những thành tích rất
đáng khâm phục. Tính đến năm 2006, sau 6 năm lên sóng, ê kíp thực hiện
chuyên mục Người đương thời đã sản xuất được 254 số. Chuyên mục đã gặp
gỡ các nhân vật đủ mọi lứa tuổi (từ các em nhỏ còn đang cắp sách đến trường
đến những vị giáo sư bạc đầu đáng kính), hoạt động trong nhiều lĩnh vực,
ngành nghề khác nhau ( nhà nghiên cứu, bác sỹ, kỹ sư, người nông dân, nhà
văn, nhạc sỹ, công an, bộ đội, doanh nhân, tù nhân, giáo viên,...). Họ đến từ
rất nhiều vùng quê khác nhau trên dải đất hình chữ S của chúng ta và đặc biệt
có cả những vị khách đến từ nước ngoài. Dù khác nhau về độ tuổi, giới tính,
nghề nghiệp nhưng họ đều gặp nhau ở một điểm: họ đều là những con người
có nhiều đóng góp cho xã hội, cộng đồng. Họ là vốn quý của xã hội. Những
thành quả họ đạt được không chỉ giúp đất nước giàu mạnh hơn, trong sạch,
văn minh hơn mà còn giúp truyền nhiệt huyết, quyết tâm, ý chí tới khán giả,
mang lại cho khán giả nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao, niềm tin mạnh mẽ
vào những giá trị sống tốt đẹp của con người.
Về nhân sự, nhóm sản xuất đầu tiên của chuyên mục bao gồm: Tạ
40
Bích Loan, Nguyễn Lan Dung, Đỗ Bạch Dương, Phạm Thu Hằng, Phạm
Minh Hoa, Phùng Ngọc Trâm, Đỗ Hồng Cư, Nguyễn Văn Long. Sau đó,
nhóm sản xuất có một số thay đổi về nhân sự và những người thực hiện
chuyên mục bao gồm: Tạ Bích Loan, Trần Ngọc Minh, Tạ Minh Phương, Bùi
Lan Hương, Vũ Đức Thành, Bùi Xuân An, Trương Diệu Thuý và một số cộng
tác viên khác.
Từ khi ra đời đến năm 2006, thời lượng phát sóng và lịch phát sóng
của chuyên mục Người đương thời cũng có một số thay đổi:
- Năm 2001, chuyên mục phát sóng đều đặn 2 số/tháng vào tuần đầu tiên và
tuần thứ ba của tháng. Thời gian phát sóng vào lúc 10h30 phút ngày thứ bảy
và phát lại vào 21h30 phút ngày thứ tư tuần sau.
- Năm 2002, chuyên mục vẫn giữ nguyên 2 số/ tháng song có sự thay đổi thời
gian phát sóng: vào 22h thứ năm và phát lại hai lần vào 7h30 phút ngày thứ
sau và 10h ngày thứ hai tuần sau.
- Từ tháng 9 năm 2002, chuyên mục lại có sự thay đổi lịch phát sóng một lần
nữa. Từ thời điểm này, chuyên mục được phát sóng hằng tuần vào 21h ngày
thứ ba, phát lại vào 16h30 phút ngày thứ sáu.
- Năm 2003, chuyên mục phát sóng lúc 21h30 phút thứ ba hàng tuần, phát lại
hai lần vào 8h ngày thứ tư và 10h ngày thứ hai tuần sau.
- Năm 2004, chuyên mục chuyển sang phát sóng trên kênh VTV1 vào 19h45
phút thứ bảy hàng tuần, phát lại vào 15h thứ năm tuần sau. Từ tháng 3/2004
đến nay, lịch phát sóng chuyên mục là: 19h45 phút Chủ nhật hàng tuần, phát
lại vào 15h thứ năm tuần sau.
Về thời lượng, mỗi chương trình Người đương thời những ngày đầu
có thời lượng khoảng 60 phút. Song từ tháng 9 năm 2002, chương trình rút
ngắn thời lượng còn 40 – 45 phút. Số đầu tiên áp dụng thời lượng mới này là
41
Nếu có ước muốn trong cuộc đời này - gặp gỡ nhân vật Bạch Đình Vinh.
Chuyên mục đã nhận được nhiều giải thưởng của Liên hoan truyền
hình toàn quốc cũng như của các đơn vị có liên quan: Giải B báo chí năm
2002 v à 2003, Huy chương bạc Liên hoan truyền hình toàn quốc năm 2004,
giải thưởng của Bộ Văn hoá thông tin, Quân chủng Hải quân, Bộ Tư lệnh biên
phòng, Bộ Công an,...
Sáu năm (2001-2006) với 254 số, chuyên mục Người đương thời đã
để lại dấu ấn khó phai trong lòng khán giả. Mỗi số được phát sóng, chuyên
mục Người đương thời lại nhận được rất nhiều hồi âm của khán giả.
Đó là những lời tâm sự, khen ngợi, góp ý chất chứa rất nhiều
tình cảm của bạn xem đài đối với chuyên mục, thậm chí nhiều cá nhân và tổ
chức đã sẵn sàng giúp đỡ về mặt vật chất cũng như tinh thần với những nhân
vật không may mắn trong cuộc sống nhưng có ý chí vươn lên. Nhiều thư giới
thiệu người tài ở khắp mọi miền của Tổ quốc đã trở thành đề tài cho các số
tiếp theo của chuyên mục Người đương thời.
Với nhiệm vụ tuyên truyền, cổ động những tấm gương Người tốt -
Việc tốt, chuyên mục Người đương thời đã góp tiếng nói rất có trọng lượng
đối với công chúng. Chuyên mục đã tham gia tích cực vào quá trình quảng bá,
củng cố và xây dựng những giá trị tốt đẹp của dân tộc. Công chúng tìm thấy ở
đây sự đồng cảm, chia sẻ, động viên, động lực cho những cố gắng trong cuộc
sống.
2.1.3. Tiêu chí của chuyên mục Ngƣời đƣơng thời:
Khi xây dựng chuyên mục, ê kíp sản xuất chương trình đã đặt ra các
tiêu chí. Tiêu chí của chuyên mục, đó chính là công việc đầu tiên phải xác
42
định để khu biệt một chương trình truyền hình trong số rất nhiều các chương
trình truyền hình khác: nhân vật tham gia, đối tượng hướng tới, tạo ra nét
riêng biệt về nội dung và hình thức,...
Tiêu chí của chuyên mục Người đương thời được xác định rất rõ
ràng. Người đương thời là cuộc gặp gỡ, trò chuyện với những con người tiêu
biểu trong xã hội. Qua cuộc trò chuyện rất gần gũi, tự nhiên, thân mật đó,
chân dung con người được hiện lên chân thực rõ nét. Khán giả hiểu được cuộc
đời, suy nghĩ và những nỗ lực, quyết tâm của những nhân vật cũng như hình
ảnh của một lớp người trong xã hội - những con người đang sống xung quanh
chúng ta, cùng thời đại với chúng ta, thậm chí qua cuộc trò chuyện đó, khán
giả còn có thể thấy được chính hình ảnh của mình.
Mỗi chương trình Người đương thời lên sóng không chỉ đơn thuần
xây dựng hình ảnh của một nhân vật mà sâu xa hơn, kịch bản mỗi chương
trình đều đề cập đến một vấn đề liên quan đến số phận nhân vật đó. Vấn đề
của một con người nhưng lại là vấn đề chung của một lớp người, một ngành
nghề, một thế hệ, một vùng đất, một giai đoạn lịch sử,...Vì vậy, qua mỗi số
của chuyên mục Người đương thời, khán giả có thể nhận thấy bức chân dung
của xã hội, của những người đương thời, chân dung của những con người Việt
Nam trong thời kỳ mới.
2.1.4. Mục đích xây dựng chuyên mục Ngƣời đƣơng thời:
Ngay từ khi ra đời, chuyên mục Người đương thời đã hướng tới mục
đích nêu gương Người tốt - Việc tốt để tạo ra phong trào thi đua trong cả
nước, qua đó khẳng định những giá trị sống tốt đẹp, khơi dậy truyền thống
dân tộc và tạo niềm tin cho quần chúng nhân dân, phát huy sức mạnh của báo
chí, đi sâu thẩm định các sự kiện, vấn đề của xã hội, nhằm khẳng định những
43
yếu tố tích cực trong cuộc sống.
Trong Đề cương chuyên mục Người đương thời, nhà báo Tạ Bích
Loan có viết: “Bằng cách sử dụng các thủ pháp để tạo ra những tình huống,
điều kiện giúp đỡ nhân vật trở nên cởi mở hơn, bộc lộ tích cách thực nhằm
khai thác những câu chuyện đáng kinh ngạc hoặc cảm động trong cuộc sống
của nhân vật. 60 phút tâm sự của nhân vật với khán giá truyền hình trong bầu
không khí thân mật và cởi mở sẽ cho ta thấy câu chuyện cụ thể về cuộc sống,
thế giới tâm hồn và quá trình lao động của nhân vật. Mỗi kịch bản là một vấn
đề được trình bày qua việc khắc hoạ chân dung một con người để thấy được
vấn đề lớn, chân dung lớn của một lớp người, một thế hệ, một miền đất, một
giai đoạn lịch sử. Vì vậy, qua chương trình ta có thể nhận thấy bức chân dung
xã hội, của những người cùng thời” [42].
Khán giả qua đó có thể tìm thấy những bài học kinh nghiệm bổ ích
cho bản thân, nhận ra những giá trị đích thực của cuộc sống và tìm thấy con
đường đi cho mình. “Câu chuyện về những con người đáng khâm phục sẽ bắt
chúng ta phải so sánh tầm cao của những giá trị đạo đức của họ với những giá
trị tinh thần của chính chúng ta. Và trong phép so sánh ấy, chúng ta sẽ cảm
thấy không yên ổn, muốn có những thay đổi trong suy nghĩ và hành động của
mình. Sự từng trải, những kinh nghiệm của nhân vật không còn là kinh
nghiệm của riêng họ nữa mà là những kinh nghiệm quý có thể có ích cho
nhiều người” [42].
Ngoài ra, qua những tâm sự, giãi bày của nhân vật trong buổi trò
chuyện, khán giả sẽ có thêm thông tin về những sự kiện đang diễn ra trong xã
hội. Những nhân vật được mời đến trò chuyện bao giờ cũng gắn với một sự
kiện, sự việc, hiện tượng rất cụ thể trong cuộc sống. Ví dụ như thầy giáo Đỗ
Việt Khoa gắn liền với sự kiện về giáo dục, hay câu chuyện của Giáo sư
44
Nguyễn Tài Thu không xa rời những cây kim châm cứu,...
Gặp gỡ những con người nổi bật trong xã hội, thành công trong
nhiều lĩnh vực khác nhau là một cách học hỏi rất thú vị và bổ ích. Chuyên
mục Người đương thời đã giúp khán giả có thể tiếp cận những con người này,
nghe họ tâm sự, chia sẻ và trò chuyện trực tiếp với họ. Để có được một bài
học, một kinh nghiệm, con người ta thường phải tìm hiểu khá mất thời gian
mà thời gian trong thời đại này là vàng bạc. Người đương thời đã giúp công
chúng tiết kiệm quỹ thời gian quý báu đó. Mỗi tuần, mỗi cuộc trò chuyện, gặp
gỡ là một bài học thú vị và bổ ích. Rất nhiều đổi thay trong cuộc đời, sự
nghiệp của con người đã xuất phát từ đây.
Và một mục đích khác rất quan trọng mà chuyên mục Người đương
thời rất quan tâm, luôn mong muốn thực hiện tốt đó là chuyên mục trở thành
một diễn đàn chung cho công chúng. Công chúng có thể thoải mái tâm sự,
chia sẻ những tâm tư, suy nghĩ của mình về chương trình mình đã xem, về
những vấn đề trong cuộc sống, về những giá trị tốt đẹp của dân tộc. Công
chúng có thể giới thiệu những con người tốt ở xung quanh mình khiến mọi
người đều khâm phục, ngưỡng mộ. Công chúng có thể trò chuyện, giao lưu
với những nhân vật mình quan tâm,...Bởi Chuyên mục Người đương thời ra
đời để phục vụ cho chính công chúng, những người yêu mến truyền hình.
2.1.5. Tên gọi chuyên mục: Ngƣời đƣơng thời:
Cũng như tên của một con người, trước hết, tên gọi của một chuyên
mục truyền hình là cái để phân biệt một chuyên mục này với những chuyên
mục khác. Hơn thế nữa, tên gọi của một chuyên mục truyền hình còn thể hiện
tính chất, đặc điểm của chuyên mục. Tên của một chuyên mục truyền hình có
ý nghĩa rất quan trọng do đó để tìm ra được một cái tên phù hợp với tiêu chí,
mục đích của chuyên mục lại tạo được sự hấp dẫn, gợi mở là điều không hề
45
dễ dàng.
Ban đầu, nhóm thực hiện chuyên mục Người đương thời đã đi tìm
nhiều tên gọi khác nhau với những ý nghĩa cụ thể là: Phân tích tính cách con
người; Đi tìm bản đồ của những tế bào tâm hồn. Theo đó, có nhiều tên gọi đã
được đưa ra như: Gặp gỡ bất ngờ ,Cánh cửa đã mở, Bản đồ tính cách, Người
trong ống kính, Hồ sơ tính cách, Cuộc sống quanh ta, Lột tả, Cận cảnh nhân
vật,...
Và cuối cùng, một cái tên rất giản dị đã được chọn: Người đương
thời. Ngưòi đương thời đó là “những người đang sống xung quanh chúng ta,
những người cùng thời với chúng ta”. Một cái tên rất giản dị, ngắn gọn mà
gần gũi và có ý nghĩa. Trong thời gian đầu, cũng có nhiều ý kiến về cái tên
này: người thì nói tên này không hấp dẫn, người thì cho rằng các từ trong cụm
từ Người đương thời đều là thanh bằng nên không “kêu”, dễ gây cảm giác
buồn tẻ, người thì cho rằng cụm từ Người đương thời sử dụng trong chuyên
mục không phù hợp,... Tuy nhiên trong suốt thời gian tồn tại của mình, cái tên
Người đương thời đã khẳng định được sức sống của mình.
Giờ đây Người đương thời đã trở thành một thương hiệu có giá trị.
2.1.6. Đối tƣợng khán giả của chuyên mục Ngƣời đƣơng thời:
Có ý kiến cho rằng: Chuyên mục Người đương thời là chuyên mục
của người già và tầng lớp trí thức nên chỉ hợp với những đối tượng khán giả
đó.
Có thể những người lớn tuổi, những người đã trải nghiệm cuộc đời,
đã từng xông pha trên nhiều trận tuyến sẽ dễ dàng tìm thấy ở chuyên mục
những đồng cảm, ký ức sống động về một thời trai trẻ đầy nhiệt huyến và
cống hiến. Họ tìm đến với chuyên mục như tìm về một hồi ức, một kỷ niệm
thật đẹp để biết rằng đã có những ngày tháng oanh liệt như thế, đã có những
46
con người với trí tuệ và nhân cách cao đẹp như thế. Họ cũng tìm thấy ở lớp trẻ
những khát vọng và hoài bão to lớn, nối tiếp những ước mơ của mình. Tuy
nhiên, chuyên mục thực sự có ý nghĩa hơn khi nói về những giá trị tốt đẹp của
con người để hướng tới giáo dục lớp trẻ - những chủ nhân đất nước hiện tại và
trong tương lai. Những người trẻ tìm thấy trong chuyên mục những tấm
gương ý chí vươn lên, những trái tim nhân hậu, những cống hiến không màng
đến danh lợi,...để sống tốt hơn, đẹp hơn, hướng thiện hơn. Càng về sau,
chuyên mục Người đương thời càng mở rộng giao lưu, trò chuyện với nhiều
con người với nhiều lứa tuổi khác nhau thuộc mọi lĩnh vực, ngành nghề trong
cuộc sống với nhiều bài học có giá trị. Tác giả luận văn đã tiến hành thăm dò
ý kiến khán giả và kết quả cho thấy, đối tượng khán giả của chuyên mục
Người đương thời rất phong phú, đa dạng về giới tính, độ tuổi, trình độ học
vấn, nghề nghiệp. Sau đây là một số kết quả thu được:
Bảng 1: Cơ cấu giới tính của mẫu điều tra khán giả truyền hình tại Hà Nội
tháng 6/2007
Giới tính
Số lƣợng (ngƣời) 146 141 287
Tỷ lệ (%) 50.87 49.13 100.00
Nam Nữ Tổng số Nguồn: Cuộc điều tra tháng 6/2007
Bảng 2: Cơ cấu tuổi của mẫu điều tra khán giả truyền hình tại Hà Nội tháng 6/2007
Nhóm tuổi
Dưới 15 Từ 15 - 25 Từ 26 - 35 Từ 36 - 45 Từ 46 - 55 Từ 55 - 65 Trên 65 Tổng số
Số lƣợng (ngƣời) 9 14 41 55 90 46 32 287
Tỷ lệ (%) 3.14 4.88 14.29 19.16 31.36 16.03 11.15 100.00
Nguồn: Cuộc điều tra tháng 6/2007
47
Bảng 3: Cơ cấu trình độ học vấn của mẫu điều tra khán giả truyền hình ở Hà Nội tháng 6/2007
Trình độ
Tỷ lệ (%) 29.97 65.51 4.53 100.00
Số lƣợng (ngƣời) Dưới đại học 86 Đại học 188 Trên đại học 13 287 Tổng số Nguồn: Cuộc điều tra tháng 6/2007
Nghề nghiệp
Bảng 4: Cơ cấu nghề nghiệp của mẫu điều tra khán giả truyền hình ở Hà Nội tháng 6/2007 Số ngƣời (ngƣời) 155 21 25 78 8 287
Tỷ lệ (%) 54.01 7.32 8.71 27.18 2.79 100.00
Công chức nhà nước Buôn bán tư thương Học sinh - sinh viên Nghỉ hưu Không rõ Tổng số Nguồn: Cuộc điều tra tháng 6/2007
Có thể thấy đối tượng khán giả của chuyên mục Người đương thời
là tất cả những ai có nhu cầu khám phá con người và mong muốn học tập
những kinh nghiệm một cách hữu ích bất kể ở lứa tuổi, vùng miền nào. Do
đó, hiệu quả và giá trị xã hội mà chuyên mục này mang lại là rất rộng lớn.
2.2. Nội dung cốt lõi và thành công của 30 chƣơng trình Ngƣời
đƣơng thời tiêu biểu từ năm 2001 – 2006:
Xuất phát từ việc đánh giá của khán giả cũng như qua quá trình làm
việc thực tế tại chuyên mục Người đương thời, qua quá trình nghiên cứu, tìm
hiểu kịch bản và băng hình Người đương thời, tác giả luận văn đã lựa chọn
48
30 chương trình Người đương thời tiêu biểu nhất trong số 254 chương trình đã
phát sóng từ năm 2001 đến năm 2006. 30 chương trình cũng là 30 nhân vật,
30 số phận, 30 tấm gương tiêu biểu Người tốt - Việc tốt trên mọi lĩnh vực:
giáo dục, y tế, văn hoá nghệ thuật, kinh tế, khoa học,... Đây là những chương
trình mà đội ngũ PV, BTV đã dày công thực hiện và cũng là những chương
trình để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong lòng công chúng nghe nhìn cũng như
đối với ê kíp sản xuất chương trình.
2.2.1. Nội dung cốt lõi của 30 chƣơng trình Ngƣời đƣơng thời tiêu biểu từ
năm 2001 – 2006:
1/ Hạt giống (phát sóng ngày 25/1/2001):
Đây là chương trình Người đương thời số 1, gặp gỡ, trò chuyện với
PGS.TS Tạ Minh Sơn, người đặt nền móng đầu tiên cho sự nghiệp sáng chế
của Việt Nam với bằng sáng chế mang số 001. Sản phẩm là những giống lúa
chống bệnh bạc lá cho năng suất cao.
PGS. TS Tạ Minh Sơn PGS.TS Tạ Minh Sơn trò chuyện với MC
tại trường quay
Treo bông lúa lên trần nhà để ngắm nhìn là hình ảnh ấn tượng đầu
tiên về TS Tạ Minh Sơn mà ê kíp sản xuất chương trình đã “chộp” được. Ông
là một tiến sỹ nông nghiệp và yêu thiết tha cây lúa.
Tiến sỹ Tạ Minh Sơn sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở
vùng quê Thái Thuỵ, Thái Bình. Hình ảnh những người nông dân lam lũ trên
ruộng đồng đã ăn sâu vào tâm trí ông, thúc giục ông cố gắng học tập và làm
việc. Với niềm say mê với cây lúa, ông đã lặn lội khắp các cánh đồng trên
49
mọi miền Tổ quốc để tìm hiểu và tạo ra những giống lúa lai kháng bệnh bạc
lá. Với kết quả này, TS Tạ Minh Sơn đã góp phần giảm những khó nhọc của
người nông dân trên ruộng đồng cũng như làm lợi cho nhà nước hàng ngàn tỷ
đồng. Những người thực hiện chương trình đã kỳ công tìm nhiều tài liệu nói
về TS Tạ Minh Sơn cũng như lặn lội về nhiều vùng đất – nơi ông đã nghiên
cứu và thử nghiệm giống lúa mới, gặp gỡ, phỏng vấn nhiều nông dân được
ông giúp đỡ. Trong chương trình, TS Tạ Minh Sơn đã bất ngờ được gặp lại
cha và người bạn chí thân của mình. Những cái bắt tay hân hoan và những
giọt nước mắt sung sướng đã khiến cả trường quay lặng đi vì xúc động. Hạt
giống - chương trình Người đương thời số đầu tiên đã để lại ấn tượng rất sâu
đậm trong lòng công chúng.
2/ Y đức (phát sóng ngày 3/3/2001):
Y đức là cuộc gặp gỡ, trò chuyện với GS. Bác sỹ Vũ Văn Đính -
trưởng khoa Hồi sức cấp cứu A9, bệnh viện Bạch Mai.
GS. Bác sỹ Vũ Văn Đính Cuộc trò chuyện tại trường quay
Là nhân vật thứ hai xuất hiện trong chuyên mục Người đương thời,
GS.Bác sỹ Vũ Văn Đính với gương mặt hiền hậu và giọng nói trầm ấm đã để
lại ấn tượng tốt đẹp về một con người luôn tìm mọi cách cứu sống những con
người. Một tình huống rất thú vị, xúc động đã diễn ra tại trường quay đó là
cuộc gặp gỡ bất ngờ với một bệnh nhân được GS. Bác sỹ Đính cứu chữa 25
năm về trước. Những câu chuyện ,những ký ức ùa về. Một lồng rắn và một
đĩa hồng xiêm được sử dụng để gợi mở những câu chuyện cảm động về một
thời xa xưa nhưng đầy nghĩa tình. GS Vũ Văn Đính không chỉ là một bác sỹ
50
tài năng mà ông còn là một tấm gương về y đức.
3/ Không có ai và điều gì bị quên lãng...(phát sóng ngày 1/8/2001):
Cuộc gặp gỡ tại trường quay Nhân vật trò chuyện với MC
Không có ai và điều gì bị quên lãng...- tên chương trình đã gợi rất
nhiều cảm xúc. Chương trình khắc hoạ chân dung một người phụ nữ tìm mọi
cách để trả lại tên cho các liệt sỹ vô danh đã anh dũng hy sinh trong cuộc
kháng chiến giải phóng dân tộc.Câu chuyện đi tìm mộ liệt sỹ của chị và đội
quy tập mộ liệt sỹ Nghệ An được diễn tả trong chương trình đầy ấn tượng.
Chị cầm trên tay những bức ảnh cũ đã hoen ố, những tấm thiếc cong vênh có
khắc tên của những liệt sỹ,...và kể lại câu chuyện của mình. Với sức vóc nhỏ
bé, người phụ nữ đó đã cùng bạn bè đi khắp mọi miền Tổ quốc đem những
người con trở về yên nghỉ trong vòng tay của gia đình, của quê hương. Mỗi
tấm bia liệt sỹ vô danh được gỡ xuống và một tấm bia ghi tên liệt sỹ được
dựng lên là giây phút chị cảm thấy hạnh phúc nhất. Chương trình đã tạo ra
cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh Nguyễn Quán Tuấn – con trai của liệt sỹ Nguyễn
Quán Tôn, người đã được chị tìm lại mộ. Chiến tranh đã đi qua gần 30 năm,
những người mẹ, người vợ, những người đồng đội vẫn đang tiếp tục đi và tìm
kiếm những liệt sỹ vô danh trên khắp các chiến trường. Điều dẫn dắt họ chính
là tình yêu, là ký ức, là sự biết ơn thầm lặng.
Chị chính là thiếu tá Nguyễn Thị Tiến – nhân vật chính của chương
trình Không có ai và điều gì bị quên lãng... phát sóng ngày 1/8/2001.
4/ Tình cha (phát sóng ngày 27/7/2001):
Chương trình mở đầu bằng những hình ảnh tư liệu ấn tượng về tác
51
hại của ma tuý.
MC Tạ Bích Loan xuất hiện, trên tay cầm một lá thư.
Đó chính lá thư của Phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm đã gửi cho ông Ngô
Đình Thành, hội viên hội cựu chiến binh xã Linh Sơn, huyện Đồng Hỷ, tỉnh
Thái Nguyên ngày 4/5/2001 ca ngợi và biểu dương những thành tích ông đạt
được trong cuộc chiến chống tệ nạn ma tuý. Ông Thành trở thành nhân vật
Người đương thời, chương trình đúng dịp kỷ niệm ngày Thương binh liệt sỹ
27/7.
Ông Ngô Đình Thành Nhân vật trò chuyện với MC
Với tình yêu của người cha, ông đã cai nghiện thành công cho ba
con trai và xây dựng được ba cơ sở sản xuất, góp phần làm giàu cho quê
hương đất nước. Qua những câu chuyện của người cựu chiến binh già, khán
giả nhận thấy một tình yêu thương bao la của người cha dành cho các con
cũng như những đóng góp của ông làm cho cuộc sống ngày càng trong sạch
hơn, tốt đẹp hơn.
5/ Chuyện cô gái trẻ bị cháy hai bàn tay (phát sóng ngày 1/11/2001):
Chương trình Chuyện cô gái trẻ bị cháy hai bàn tay là cuộc gặp gỡ
và trò chuyện với cô giáo Nguyễn Thị Hiền, hiện đang giảng dạy tại trường
52
tiểu học Minh Thành, huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước.
Cô giáo Nguyễn Thị Hiền Cô giáo Hiền và MC Tạ Bích Loan
Tại trường quay ở thành phố Hồ Chí Minh, người dẫn chương trình
xuất hiện với tờ báo Tuổi trẻ. Từ một bài viết của tờ Tuổi trẻ, những người
làm chương trình đã tìm ra nhân vật Nguyễn Thị Hiền.
Mở đầu câu chuyện là phóng sự đi tìm cô giáo Nguyễn Thị Hiền của
PV chương trình. Phóng sự đã cho thấy tình cảm yêu mến của mọi người
dành cho cô giáo Hiền. Cuộc đời cô giáo Hiền hiện rõ dần qua những lời kể
của bà Trần Thị Hoá - mẹ của Hiền, của cô giáo Nguyễn Thị Hậu và thầy
Trần Hữu Chiến - những người thầy người cô dạy Hiền viết những nét chữ
đầu tiên. 18 tháng tuổi. Hiền đã bị một tai nạn làm thay đổi cuộc đời. Hiền bị
ngã vào đống than đang rực lửa, hai bàn tay bỏng nặng. Mặc dù gia đình và
các y bác sỹ tận tình cứu chữa nhưng vẫn không giữ được hai bàn tay của
Hiền. Trên hai bàn tay Hiền chỉ còn đúng một ngón tay rưỡi có thể cử động
được. Và một ngón tay rưỡi này đã giúp Hiền làm được mọi việc với nghị lực,
quyết tâm mạnh mẽ của Hiền. Vượt qua khó khăn của đôi tay tật nguyền,
Nguyễn Thị Hiền đã trở thành một cô giáo. Một câu chuyện không ai có thể
tin được. Giờ đây Hiền vui tươi, tự tin đứng trên bục giảng truyền lại những
kiến thức cho các em học sinh.
Chương trình đã ghi lại những giây phút thật xúc động: đó là khi mẹ
của Hiền kể lại tai nạn của con, kể lại những lúc Hiền tập xúc cơm ăn khi còn
3 tuổi; đó là khi người dẫn chương trình kể về câu chuyện không có tóc của
mình trong ngày đầu đến trường đã làm chị ngượng ngùng, tủi thân thế nào;
53
đó là khi Hiền nói rằng: Em hiểu những cảm giác ấy vì em đã trải qua rồi và
em sẽ còn trải qua cả đời vì tóc còn mọc được ra chứ tay em thì vĩnh viễn
không mọc ra được nữa. Cả trường quay lặng đi, người dẫn chương trình
khóc, mẹ của Hiền khóc, khán giả khóc...
6/ Đằng sau tấm huy chƣơng (phát sóng ngày 1/12/2001):
Nhắc đến cô gái vàng của thể thao Việt Nam có lẽ ai cũng biết đến
cái tên Nguyễn Thuý Hiền. Là một vận động viên Ushu tài năng và xinh đẹp,
Nguyễn Thuý Hiền đã xuất hiện khá nhiều trên báo chí. Nhưng chuyên mục
Người đương thời đã tìm ra những điều rất mới mẻ ở cô gái này. Những bí
mật sẽ được hé lộ ở chương trình Đằng sau tấm huy chương.
VĐV Ushu Nguyễn Thuý Hiền Thuý Hiền trò chuyện với MC tại trường quay
Trong con người Thuý Hiền tồn tại sự đối lập - đối lập giữa hoàn
cảnh gia đình và thành tích rực rỡ, đối lập giữa vóc dáng nhỏ bé và sức mạnh
đáng kinh ngạc trên sàn đấu, đối lập giữa niềm vui vinh quanh tột đỉnh và nỗi
buồn, sự thiếu thốn tình cảm gia đình. Trong hoàn cảnh đó, điều giúp cô vượt
lên chính là ý chí vươn lên mãnh liệt mà thể thao đã mang lại, nguồn gốc sức
mạnh tinh thần do sự say mê, sự tập luyện và lao động quên mình. Những
người thực hiện chương trình đã khai thác sâu khía cạnh tâm lý của nhân vật:
những giọt nước mắt sung sướng khi đứng trên bục vinh quang và những giọt
nước mắt buồn tủi khi nghĩ về gia đình. Những hình ảnh đối lập được khai
thác triệt để trong chương trình này.
7/ Những ngƣời bạn Việt Nam (phát sóng ngày 18/4/2002):
Chương trình là cuộc gặp gỡ, trò chuyện với hai người nước ngoài
54
đã sống và làm việc tại Việt Nam, dành cho Việt Nam những tình cảm nồng
ấm đó là cô giáo dạy tiếng Việt người Nga Elena Zubtsova và nhà văn hoá,
nhà nghiên cứu người Mỹ Lady Borton.
Chị Elena Zubtsova tại trường quay Bà Lady Borton trong tà áo dài Việt Nam
Chương trình có đan xen nhiều phóng sự về hai nhân vật, đó là
những hoạt động của cô giáo Elena Zubtsova và bà Lady Borton tại Việt
Nam, đó là những tình cảm của họ dành cho đất nước Việt Nam, đó là những
cuộc gặp gỡ giữa họ với những người bạn Việt Nam. Mặc dù còn ngọng
nghịu khi nói tiếng Việt nhưng khán giả nhận thấy ở hai nhân vật tình yêu
thương trìu mến với cảnh sắc thiên nhiên và con người Việt Nam.
Rất xúc động là cảnh bà Lady Borton gặp lại bà Hai Sang - người đã
ở cùng chỉ dẫn rất nhiều cho bà Lady Borton khi bà mới chân ướt chân ráo tới
Việt Nam. Những cái hôn thắm thiết và những cảm xúc không thể kìm nén đã
đưa bà Lady Borton trở lại những ngày tháng sống và làm việc với người dân
Việt Nam
8/ Ngƣời xoa dịu những nỗi đau cuộc đời (phát sóng ngày 12/5/2002):
Người xoa dịu những nỗi đau cuộc đời đó chính là GS.Bác sỹ, thầy
thuốc nhân dân Nguyễn Tài Thu, Viện trưởng Viện châm cứu Việt Nam.
55
GS. Bác sỹ Nguyễn Tài Thu GS Nguyễn Tài Thu trò chuyện với MC
Mở đầu chương trình là một phóng sự về nỗi đau đớn của một bệnh
nhân nhỏ tuổi do mắc bệnh viêm khớp. Bác sỹ Thu đã đến giường bệnh nhân
hỏi thăm, động viên bằng giọng nói rất nhẹ nhàng, dịu dàng. Chỉ với những
cây kim, bác sỹ Thu châm cứu cho bệnh nhân và 15 phút sau bệnh nhân thấy
hết đau, nụ cười lại nở trên môi. Những người làm chương trình đã dùng hình
đó để đặt tên cho chương trình: Người xoa dịu nỗi đau cuộc đời.
Trong suốt buổi trò chuyện, bác sỹ Thu đã giới thiệu về châm cứu
Việt Nam với niềm tự hào lộ rõ ra từng ánh mắt, từng lời nói. Khán giả cũng
vì thế hiểu hơn về một phương pháp chữa bệnh rất độc đáo, có hiệu quả của
dân tộc. Với tài năng và sự tận tâm của mình, GS. Bác sỹ Nguyễn Tài Thu đã
làm dịu cơn đau của rất nhiều bệnh nhân. Sự xuất hiện của các bệnh nhân tại
trường quay và những ý kiến của họ đã thể hiện sự khâm phục trước tài năng
và y đức của bác sỹ. Cả trường quay như trầm lắng lại khi nghe những dòng
nhật ký của bác sỹ Thu những năm 70 và vỡ oà ra khi một nhân vật bất ngờ
xuất hiện đó là thương binh Nguyễn Văn Hào giờ đã mạnh khoẻ trở lại. Bác
sỹ Thu rơm rớm nước mắt khi nghe lại những dòng nhật ký viết về thời gian
chăm sóc thương binh Nguyễn Văn Hào ngoài chiến trường. Và người quay
phim đã nhanh chóng chộp được những hình ảnh rất xúc động này.
GS. Nguyễn Tài Thu đã khóc tại trường quay
9/ Nếu có ƣớc muốn trong cuộc đời này (phát sóng ngày 17/9/2002):
Chương trình gặp gỡ, trò chuyện với Bạch Đình Vinh - cử nhân
Khoa Công nghệ thông tin - đại học Bách khoa Hà nội. Chương trình đã đạt
56
giải B báo chí toàn quốc thể loại truyền hình năm 2002.
Bạch Đình Vinh tại trường quay Bạch Đình Vinh và gia đình trò chuyện với MC
Đây là cuộc gặp gỡ với một chàng trai tật nguyền, do một vụ tai nạn
không may đã khiến anh phải nằm bất động suốt bốn năm. Không đầu hàng số
phận, Vinh đã vươn lên học tập, hoàn thành chương trình đại học. Hiện anh
đang là cộng tác viên của tạp chí PC World.
Sau vụ tai nạn, Vinh không đi lại được và nói rất khó khăn. Khi trả
lời câu hỏi của người dẫn chương trình, Vinh phải nói từng từ với những cử
động miệng rất khó khăn nhưng khán giả vẫn kiên trì lắng nghe những câu
chuyện của Vinh. Để hỗ trợ cho Vinh, chương trình đã sắp xếp những người
trong gia đình Vinh (bố, mẹ, em gái) ngồi cùng Vinh. Bố mẹ Vinh thay nhau
kể những kỷ niệm về cậu con trai khi tập đi, tập nói với niềm tự hào rạng rỡ
trên khuôn mặt. Dù phải trải qua rất nhiều khó khăn và thiệt thòi nhưng trò
chuyện với Vinh, khán giả vẫn nhận thấy niềm tự tin, yêu đời, lạc quan ở con
người này: “Bạn có thể hỏi vì sao chương trình của chúng ta toàn những tiếng
hát và nốt nhạc vui – Nhân vật của chúng ta còn không khóc kia mà”.
10/ Ngƣời nông dân và chiếc máy gặt (phát sóng ngày 15/10/2002):
Một người nông dân chưa học hết phổ thông nhưng phát minh ra
máy gặt lúa, máy gặt đập liên hợp. Anh đã được nhà nước phong tặng danh
hiệu anh hùng lao động. Anh nông dân đó chính là Bùi Hữu Nghĩa, sống tại
ấp 1, xã Long Thạnh, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. Anh là nhân vật chính
của chương trình Người nông dân và chiếc máy gặt.
Chương trình mở đầu rất ấn tượng: người dẫn chương trình xuất
57
hiện đội nón và liềm, đi cắt lúa ngoài ruộng như một người nông dân thực thụ.
Anh Bùi Hữu Nghĩa Anh Nghĩa trò chuyện với MC tại trường quay
MC chia sẻ: Khi gặt ngoài cánh đồng như vậy mới thấy hết nỗi khổ
của người nông dân. Và như một sự liên tưởng rất tự nhiên, người dẫn chương
trình đã giới thiệu một người nông dân đã có những cải tiến giúp giảm bớt
gánh nặng trên đồng ruộng, đó là anh Bùi Hữu Nghĩa.
Với cách nói chuyện giản dị, mộc mạc của một người nông dân,
những câu chuyện của anh Nghĩa cứ dần dần chinh phục khán giả. Những khó
khăn, vất vả khi không có dụng cụ thu hoạch lúa, những trăn trở, băn khoăn
trong quá trình mày mò, sáng tạo, những thất vọng khi việc nghiên cứu không
đạt được kết quả như mong muốn, những cố gắng, nỗ lực tiếp tục tìm tòi và
nụ cười mãn nguyện nở trên môi khi cái máy anh sáng tạo ra giúp ích được
cho gia đình và làng quê. Sự xuất hiện của người vợ anh Nghĩa đã làm tươi
mới không khí trường quay. Câu chuyện về đôi hoa tai vàng cuối cùng trong
nhà bị bán đi để anh Nghĩa lấy tiền nghiên cứu đã làm xúc động khán giả. Họ
là những người nông dân thật thà, chất phác, chịu thương chịu khó nhưng
không chịu đầu hàng số phận. Họ là những tấm gương giản dị xung quanh
chúng ta.
11/ X6 – Con át chủ bài tình báo (phát sóng ngày 29/10/2002):
Tên chương trình đã tạo sự hấp dẫn và tò mò đối với khán giả. Cả
trường quay trở nên hào hứng, sôi nổi khi nhân vật chính bước ra là thiếu
tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn –nhà tình báo thiên tài của Việt Nam.
Khán giả truyền hình bị bất ngờ bởi những lời đối đáp của thiếu
58
tướng Phạm Xuân Ẩn: nhiều chuyện vui đùa quá.
Thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn Trò chuyện trong trường quay
Ông không giống với suy nghĩ của chúng ta về một nhà phân tích
quân sự nổi tiếng, làm việc ở Sở Mật vụ của Trần Kim Tuyến, là ký giả hãng
tin Reuters (Anh), ký giả báo Times (Mỹ), người quen thân với trùm CIA, với
tình báo Pháp, Anh, Nam Triều Tiên và hầu hết các tướng lĩnh trong quân đội
nguỵ, được tin cậy tới mức có thể ra vào dễ dàng phủ Tổng thống, tổng nha
cảnh sát và hơn tất cả một tướng tình báo của Việt Nam.
Nhiều bài báo và cuốn sách đã kể về cuộc đời tình báo kỳ diệu của
ông. Nhưng những câu chuyện ông chia sẻ tại trường quay Người đương thời
vẫn khiến khán giả không khỏi trầm trồ thán phục. Chương trình đã phác hoạ
thành công cuộc đời anh hùng nhưng giản dị, thầm lặng của ông.
12/ Từ hang đá đến giảng đƣờng đại học (phát sóng ngày 1/9/2002):
Rất nhiều sỹ tử lao vào các lò luyện thi, tiêu tốn không biết bao
nhiêu tiền của cha mẹ nhưng cổng trường đại học vẫn chỉ là giấc mơ cao vời.
Vậy mà một cậu học trò dẫu ôn thi trong hang đá với biết bao thiếu thốn, cực
khổ nhưng vẫn đỗ đại học với điểm số cao. Đó chính là cậu học trò Đinh Văn
Vụ, nhân vật chính xuất hiện trong chương trình Từ hang đá đến giảng đường
đại học.
59
Cậu học trò Đinh Văn Vụ Cuộc trò chuyện tại trường quay
Do không quen xuất hiện trước đám đông và ống kính máy quay
nên Vụ khá ngượng ngùng, lúng túng. Nhưng khán giả bị thu hút bởi câu
chuyện của em. Vụ sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở
tỉnh miền núi Cao Bằng. Nhóm PV chương trình lặn lội đến tận làng quê của
Vụ để gặp em và thực hiện phóng sự đã thấm thía những nhọc nhằn của người
dân quê nơi đây. Ở vùng quê nghèo khó ấy, hàng ngày có đủ cơm ăn đã là
một hạnh phúc, đừng nói đến chuyện được đi học. Vậy mà Vụ nỗ lực, vừa
học, vừa chặt củi bán kiếm tiền thêm cho mẹ. Tốt nghiệp lớp 12, không như
các bạn cùng trang lứa ở thành phố lao vào các lò luyện thi, Vụ âm thầm ôn
tập ở nhà. Và nơi Vụ thường xuyên tới để học là một hang đá gần nhà. Vụ
chia sẻ: Bởi trên đó mát mẻ và yên tĩnh. Vụ đã nhìn những khó khăn theo cách
của riêng mình: rất lạc quan, vui vẻ. Và Vụ đã đỗ đại học. Đó là giây phút cậu
sung sướng, hãnh diện nhất.
Câu chuyện của Vụ là câu chuyện của những cậu bé nghèo nhưng
biết vươn lên học tập, dám khẳng định mình và trở thành người có ích cho xã
hội. Cuối chương trình, Vụ chia sẻ: Em chỉ muốn học cho thật tốt để sau này
về giúp quê em thoát nghèo.
13/ Ngƣời thầy thuốc nhân dân (phát sóng ngày 25/2/2003):
Một lần nữa, chương trình Người đương thời tổ chức gặp gỡ và trò
chuyện với một bác sỹ. Ông là GS.Bác sỹ Tôn Thất Bách, một người thầy
giáo mẫu mực, một bác sỹ có tri thức và uy tín của ngành y, luôn hết lòng và
tận tâm với nghề.
60
GS. Bác sỹ Tôn Thất Bách
Đây là một đề tài có tính thời sự, đang được khán giả quan tâm, đặc
biệt trong dịp kỷ niệm Ngày thầy thuốc Việt Nam 27/2, khi mà người ta lại có
dịp nói về Y đức, tới những vấn đề của ngành y.
Qua câu chuyện của GS. Bác sỹ Tôn Thất Bách, khán giả hiểu hơn
về niềm say mê làm việc, quên mình vì ngành y và vì sự nghiệp giáo dục của
giáo sư, những đóng góp mới nhất của ông trong việc mổ gan và mổ tim cứu
chữa người bệnh đang trong cơn thập tử nhất sinh. Với những lời tâm sự chân
thành của GS. Bác sỹ Bách, những phóng sự và nhân chứng (võ sỹ Đoàn Đình
Long, bệnh nhân mổ tim) người xem thấy được sự đồng cảm của GS Bách với
những bệnh nhân nghèo. Bên cạnh đó, GS Bách đã có những nhận định và
kiến nghị về các giải pháp đồng bộ ngành y tế và trong các cơ quan công
quyền để tăng cường y đức.
14/ Trái tim ngƣời mẹ (phát sóng ngày 11/3/2003):
Một người phụ nữ chưa một lần sinh con nhưng có tới 51 người gọi
là Mẹ. Tiếng gọi Mẹ thiêng liêng ấy xuất phát từ tình yêu con người, đùm bọc
nhau khi khó khăn, hoạn nạn. Người phu nữ đó là chị Nguyễn Thị Phú, một
người phụ nữ bình thường sống tại đội 10, xã Lý Hải, huyện Đảo Lý Sơn,
Tỉnh Quảng Ngãi.
Chị Nguyễn Thị Phú và các con Chị Phú trò chuyện với MC
61
Cuộc trò chuyện diễn ra ngay tại ngôi nhà của chị Phú
Trong suốt 35 năm qua (từ năm 1968) chị - người phụ nữ nghèo ở
một huyện đảo xa xôi - đã nuôi dưỡng 51 người con, trong đó đã có 48 con
khôn lớn, trưởng thành. Có thể nói đây không phải là một đề tài được công
chúng quan tâm nhưng lại là một đề tài có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Cuộc trò chuyện đã gây xúc động lòng người khi diễn ra ngay tại
mái nhà lá của chị, những tiếng cười nói trong trẻo của con trẻ vẫn vang lên.
Hình ảnh người mẹ quây quần bên các con cho khán giả những cảm xúc thật
ấm áp, ấm áp tình người.
Sau khi chương trình lên sóng, hàng trăm người đã gửi thư thăm hỏi,
gửi quà động viên cho bà và các em nhỏ. Báo An ninh thế giới tổ chức quyên
góp được hơn 100 triệu đồng giúp chị xây một căn nhà tại đảo Lý Sơn. Sự
thành công của chương trình cho thấy với những đề tài tưởng chừng không
hấp dẫn hoặc ăn khách nhưng nếu chúng ta nhìn thấy ý nghĩa xã hội sâu xa
của nó và biết tìm được góc độ thông tin độc đáo thì nó sẽ có sức tác động tới
tâm hồn người xem.
15/ Lƣơng tâm bé nhỏ (phát sóng ngày 15/4/2003):
Chương trình Lương tâm bé nhỏ là cuộc gặp gỡ, trò chuyện với đạo
diễn Lê Hoàng, đạo diễn của bộ phim Gái nhảy. Đây là bộ phim ăn khách
nhất trong thời gian gần đây ở Việt Nam. Ngoài ra, Lê Hoàng còn là đạo diễn
xuất sắc của nhiều bộ phim khác, đoạt nhiều giải cao trong các kỳ liên hoan
phim trong nước và quốc tế. Anh cũng là người viết kịch thành công, cùng
hàng loạt các bài viết trên báo với bút danh Lê Thị Liên Hoan. Đây là một
chương trình rất thành công, nêu bật được cả ba tiêu chí cần có trong một
chương trình Người đương thời: tính thời sự, ý nghĩa xã hội và đáp ứng được
62
nhu cầu của công chúng.
Đạo diễn Lê Hoàng Cuộc trò chuyện diễn ra tại một quán bar ở tp. Hồ Chí Minh
Chương trình như một sự trao đổi thân tình về sáng tạo nghệ thuật,
vai trò của những người làm nghệ thuật trong việc làm xã hội trong sạch, tốt
đẹp hơn. Hàng loạt các câu hỏi trái chiều được đưa ra, từ phía người dẫn
chương trình và từ phía khán giả. Khi trả lời những câu hỏi “hóc búa” đó Lê
Hoàng đã thể hiện sự sắc sảo và bản lĩnh của mình. Qua cuộc trò chuyện,
người xem thấy nhân vật Lê Hoàng không mấy để ý đến chữ danh, anh cho
rằng mình chỉ gặp may mà thôi. Với những ý thức trách nhiệm của một người
công dân, Lê Hoàng đang cố gắng góp phần làm cho cuộc sống trong sạch
hơn, văn minh hơn. Điều đó, đã có một ý nghĩa tích cực tác động đến tâm lý
của người xem, làm cho họ có những nhận thức và cách nhìn nhận đúng đắn
hơn về cách sống của mỗi người khi nền kinh tế thị trường đang biến nhưng
thói hư tật xấu trở thành chuyện quen thuộc hàng ngày.
16/ Bom mìn và tình ca (phát sóng ngày 22/4/2003):
Bom mìn và tình ca là cuộc gặp gỡ và trò chuyện với ông Chuck
Searey - một trong những người đại diện cho Quỹ tưởng niệm cựu chiến binh
Mỹ tại Việt Nam. Ông là người đi rà phá bom mìn, giúp những người dân
Quảng Trị tránh những tai nạn do chiến tranh để lại. Đồng thời, ông còn giúp
những người dân nơi dây làm kinh tế, cải thiện đời sống.
63
Ông Chuck Searey Cuộc trò chuyện tại trường quay
Tính thời sự là tiêu chí hàng đầu đặt ra đối với chương trình này.
Thời điểm phát sóng gần với ngày 30/4, ngày chiến thắng đế quốc Mỹ của
nhân dân ta, cũng là dịp cuộc chiến tranh Iraq vừa mới diễn ra. Chiến tranh và
hoà bình là đề tài chính mà câu chuyện xoay quanh. Những kinh nghiệm cay
đắng của người cựu chiến binh Mỹ về cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã được
nhìn lại ngày hôm nay, trong một bối cảnh mới, đã đưa đến những thông điệp
mang tính thời sự và có ý nghĩa xã hội sâu sắc: hãy đừng để những thế hệ sau
này của nước Mỹ lặp lại lịch sử của cha ông chúng, là phải đến một nước
khác và làm tất cả đề bù đắp cho những tội lỗi chiến tranh họ đã gây ra.
17/ Câu thần chú của ông Cẩm Luỹ (phát sóng ngày 1/4/2003):
Một người nông dân mới học hết lớp 4 nhưng đã di dời, chống
nghiêng, xoay hướng cho trên 150 công trình kiến trúc từ những ngôi nhà đơn
giản đến các công trình lớn có giá trị. Tên ông là Nguyễn Cẩm Luỹ - nhân vật
chính của chương trình Câu thần chú của ông Cẩm Luỹ.
Ông Cẩm Luỹ tại trường quay Ông Cẩm Luỹ trò chuyện với MC
Đây là một đề tài khá hấp dẫn với nhân vật độc đáo: người có khả
năng di chuyển những công trình xây dựng đồ sộ. Mọi người gọi ông là Thần
đèn và chương trình Người đương thời đã giúp khán giả tìm hiểu rõ hơn
những bí quyết của ông thần đèn Cẩm Luỹ: những bí quyết của một người
trần mắt thịt.
Xuất hiện ở chương trình Người đương thời với phong cách giản dị,
mộc mạc của một người nông dân, ông Cẩm Luỹ đã kể những câu chuyện
64
kinh ngạc đến khó tin và chia sẻ những bí quyết thành công của mình. Hãng
truyền hình NHK của Nhật Bản và hãng thông tấn AP đã ghi hình những kỳ
tích ông làm được. Không có phép thuật, thần thánh nào ở đây, ông Luỹ là
một tấm gương về sự tìm tòi, sáng tạo trong lao động.
18/ Vƣờn ƣơm (phát sóng ngày 1/3/2004):
Sân khấu Người đương thời bỗng mang một bầu không khí khác lạ
khi có rất nhiều những em nhỏ tự do đi lại, chơi đùa, hát hò ồn ã, thậm chí có
bé còn oà lên khóc trước ống kính máy quay. Cũng dễ hiểu thôi, nhân vật
Người đương thời lần này là bác sỹ Nguyễn Thị Ngọc Phượng, giám đốc
Bệnh viện phụ sản Từ Dũ, thành phố Hồ Chí Minh. Công việc của chị gắn bó
rất nhiều với trẻ thơ. Chị có nhiều đóng góp cho nền y học nước nhà, đặc biệt
trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Chị cũng là người có công đầu
tiên trong việc phát triển công nghệ thụ tinh trong ống nghiệm.
Bác sỹ Nguyễn Thị Ngọc Phượng Cuộc trò chuyện tài trường quay
19/ Trăm phát trăm trúng (phát sóng ngày 31/1/2004):
Trăm phát trăm trúng là cuộc gặp gỡ và trò chuyện với anh Nguyễn
Mạnh Tường, vận động viên suất sắc nhất của Seagames 22. Trăm phát trăm
trúng cũng là cụm từ chỉ thành công vang dội của anh tại môn bắn súng.
65
VĐV Nguyễn Mạnh Tường Cuộc trò chuyện tại trường quay
Chương trình diễn ra rất sinh động với nhiều hoạt động xen kẽ trong
cuộc trò chuyện: biểu diễn bắn súng ngay tại trường quay, 170 chiếc huy
chương vàng và bạc xuất hiện, anh Tường nhìn một mảnh giấy ở xa và đọc
dòng chữ ghi trên đó, giữ thăng bằng một quả trứng gà đặt trên một chiếc
thước kẻ dài nằm ngang,...Và đặc biệt hơn là những người thực hiện chương
trình đã đeo máy đo nhịp tim cho anh Tường và tạo ra rất nhiều phép thử về
tâm lý đối với anh Tường. Ví dụ như: gặp lại người thầy đầu tiên đã dạy anh
bắn súng, gặp lại một người bạn Hàn Quốc (nhân vật này được một sinh viên
Hàn Quốc giả giọng), đột ngột một viên gạch rơi xuống,... Đây là một trong
những chương trình Người đương thời sử dụng nhiều đạo cụ nhất từ trước đến
nay: từ khẩu súng, bia nhắm bắn, quả trứng, thước kẻ, viên gạch, huy chương,
hoa lan,...Và việc sử dụng tất cả những đạo cụ đó đều nhằm một mục đích
khẳng định những tố chất của một vận động viên bắn súng: sự bình tĩnh, tâm
lý luôn được giữ ổn định. Đó cũng chính là bí quyết thành công của anh.
20/ Hoa anh đào nở trên đất Việt (phát sóng ngày 7/1/2004):
Bạn đã từng nghe đến một quán cà phê do người khuyết tật phục
vụ? Thật thú vị phải không? Đó chính là quán cà phê Hoa Anh đào, số 4 Tôn
Đức Thắng, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh và chủ nhân là một cô gái đến từ
Nhật Bản: chị Esaki Chisato. Chị là thạc sỹ ngành phúc lợi xã hội. Chị đến
Việt Nam giúp đỡ trẻ em khuyết tật bằng cách mở quan Hoa Anh đào do
chính các em khuyết tật phục vụ.
quán Hoa anh đào
66
Chị Esaki Chisato trong tà áo dài Việt Nam Cuộc trò chuyện diễn ra tại
Cuộc trò chuyện diễn ra ngay tại quán Hoa anh đào. Chisato xuất
hiện đón người dẫn chương trình trong bộ áo dài màu hồng rất duyên dáng
của Việt Nam. Với dáng người nhỏ nhắn, nói tiếng Việt rất sõi khiến nhiều
người nhầm tưởng Chisato là một cô gái Việt Nam.
Chisato đã thực sự trở thành một người bạn của Việt Nam và quán
Hoa anh đào đã trở thành mái ấm của các em bé trí não chậm phát triển. Và
Chisato xúc động tâm sự: chính các em khuyết tật ở Việt Nam đã giúp cô tìm
thấy ý nghĩa của cuộc sống.
21/ Chuyện của những loại cây (phát sóng ngày 19/6/2005):
Chương trình Chuyện của những loại cây là cuộc gặp gỡ và trò
chuyện với chị Vũ Thị Thuận , giám đốc Công ty dược phẩm Traphaco. Một
người phụ nữ yêu nghề dược sỹ, mạnh dạn trong công việc, giỏi giang trong
kinh doanh, đã biến những cây cỏ tưởng như đơn giản thành những bài thuốc
quý hiếm để chữa bệnh cho mọi người.
Chị Vũ Thị Thuận Chị Thuận trò chuyện với MC tại trường quay
Trường quay S9 của đài THVN mang một khuôn mặt mới với nhiều
bình cây xanh mát. Cuộc trò chuyện với chị Thuận đã diễn ra trong khung
cảnh rất tự nhiên đó. Những câu chuyện về những cây thuốc ở ngay xung
quanh chúng ta được chị Thuận chia sẻ và giải thích rất cặn kẽ về công dụng
và cách dùng. Chính từ những cây cỏ thiên nhiên đó, chị Thuận đã tạo ra
những loại thuốc đặc trưng của Việt Nam cạnh tranh với tân dược thế giới.
Chị Thuận cũng chia sẻ với khán giả những bí quyết thành công trong kinh
67
doanh: lấy chất lượng và hiệu quả của các loại thuốc là yếu tố cơ bản, nhưng
bên cạnh đó rất cần chú ý đến công tác quảng bá sản phẩm và coi trọng yếu tố
con người,...Kết quả là công ty dược Traphaco do chị làm giám đốc đã trở
thành một thương hiệu có tiếng trong nước và đang dần xâm nhập tới thị
trường thế giới: Nga, Ucraina, Hàn Quốc, Inđônêxia,...Song, để có được kết
quả đó, chị đã phải đánh đổi cả cuộc sống riêng của gia đình, dành hết thời
gian cho công việc và công ty. Chị là một tấm gương về một nữ doanh nhân
say mê công việc và khẳng định bản thân trong thời kỳ đổi mới.
22/ Chuyện ở Đồ Sơn (phát sóng ngày 17/7/2005):
Không chỉ tập trung khai thác những đề tài mang ý nghĩa nhân văn
sâu sắc, Người đương thời còn rất nhanh nhạy nắm bắt các sự kiện thời sự.
Chuyện ở Đồ Sơn là một chương trình nóng hổi như thế. Chương trình là cuộc
gặp gỡ và trò chuyện với ông Đinh Đình Phú tại phường Ngọc Xuyên, thị xã
Đồ Sơn và chị Vũ Thị Hải, PV báo Văn nghệ Trẻ tại Hải Phòng - những
người dũng cảm đấu tranh chống lại những tiêu cực trong chuyện cấp đất đền
bù cho người dân tại thị xã Đồ Sơn, Hải Phòng.
PV Vũ Thị Hải Ông Đinh Đình Phú Cuộc trò chuyện tại trường quay
23/ Giấc mơ của cô gái nghèo (phát sóng ngày 7/8/2005):
Chương trình Người đương thời lại có dịp tái ngộ với khán giả Sài
Gòn ngay tại thành phố mang tên Bác. Một cuộc hội ngộ lý thú tại nơi nhân
vật sinh sống và làm việc. Đây là một cuộc gặp gỡ đặc biệt với một nhân vật
đặc biệt: một phụ nữ đã có những đóng góp đáng kể trong việc “giữ lửa” cho
tà áo dài dân tộc và đưa “mảnh hồn dân tộc” ấy đến với xứ Phù Tang. Người
phụ nữ đặc biệt đó là chị Dương Thanh Thuỷ, người sáng tạo ra thương hiệu
68
Miss Áo dài.
Chị Dương Thanh Thuỷ Cuộc trò chuyện diễn ra ngay tại cửa hàng Miss Áo dài
Để có được thành công và hạnh phúc của ngày hôm nay, chị Thuỷ
đã phải đánh đổi rất nhiều. Từ những ngày tuổi thơ bị đánh cắp, những vệt mờ
ký ức của những ngày sống lang thang dưới nhiều mái nhà, những giấc mơ,
những khao khát tuyệt vọng của một đứa trẻ thiếu cả cha lẫn mẹ khi chưa đầy
bốn tuổi....cho đến hôm nay, nhờ ý chí và quyết tâm sắt đá, ,nhờ trí thông
minh và khả năng kinh doanh thiên bẩm, chị đã có trong tay những thứ mà bất
kỳ một nữ doanh nhân thành đạt nào cũng phải ao ước: một gia đình hạnh
phúc, một người chồng hết mực yêu thương vợ con và luôn là chỗ dựa vững
chắc cho chị, những đứa con ngoan ngoãn, giỏi giang.
Người dẫn chương trình và nhân vật đứng trò chuyện giữa những
chiếc áo dài thướt tha và nhiều màu sắc - mảnh hồn của dân tộc Việt Nam.
24/ Kết nối (phát sóng ngày 2/10/2005):
Chương trình Kết nối là cuộc gặp gỡ và trò chuyện với Nguyễn
Công Hùng, xã Đoài, Nghi Diên, Nghi Lộc, Nghệ An. Từ một người tàn tật,
Công Hùng đã vươn lên trở thành giám đốc Cơ sở đào tạo tin học và ngoại
ngữ ở Nghi Diên, Nghệ An ở tuổi 24. Tháng 8/2005, Công Hùng được nhận
danh hiệu Hiệp sỹ Công nghệ thông tin.
69
Công Hùng tại trường quay Công Hùng trò chuyện với MC
Hùng bị bệnh nhão cơ, không chỉ mất khả năng đi lại, dần dần Hùng
còn không thể tự ngồi, ngay cả việc nói đối với Hùng cũng chỉ là một nỗ lực.
Khó khăn bệnh tật không làm Hùng nhụt chí, anh mạnh dạn và chủ động tìm
hiểu về máy tính và công nghệ thông tin. Hùng học hỏi không ngừng, tiếp thu
rất nhanh. Một cánh cửa mới mở ra để đón anh hoà nhập vào cuộc sống.
Một bàn tay nhỏ bé vươn ra từ cơ thể tật nguyền, tại trường quay
S10, Nguyễn Công Hùng tự tin nhấn phím Enter mở ra trang web
conghung.com giới thiệu với mọi người. Cả trường quay S10 của Đài THVN,
tất cả các cán bộ công nhân viên đài truyền hình có mặt và khán giả cũng
đứng bật dậy, trong tràng pháo tay không dứt, có cả những giọt nước mắt cảm
thông và khâm phục.
25/ Một Đảng viên làm kinh tế tƣ nhân (phát sóng ngày 2/4/2006):
Chương trình Một đảng viên làm kinh tế tư nhân gặp gỡ và trò
chuyện với ông Bạch Minh Sơn, chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ công ty cổ phần
sản xuất và xuất nhập khẩu BEMES. Ông Bạch Minh Sơn là đảng viên đầu
tiên được cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cho phép làm kinh tế tư nhân. Để
có được thành công ngày hôm nay, ông đã phải vượt qua rất nhiều trở ngại,
mà trở ngại chính là quan niệm: đã là Đảng viên thì không được làm kinh tế
tư nhân.
Ông Bạch Minh Sơn Cuộc trò chuyện tại trường quay
Một cuộc trao đổi về vấn đề Đảng viên có được làm kinh tế tư nhân
hay không đã diễn ra tại trường quay S10 của Đài THVN. Theo ông Sơn, vấn
70
đề cốt lõi của cuộc tranh cãi: “Đảng viên làm Kinh tế Tư bản tư nhân” là cần
có một lí luận mới, hoàn chỉnh để nhận diện rõ thế nào là “bóc lột”? Không
thể đánh đồng mọi giá trị thăng dư thu được trong sản xuất kinh doanh là bóc
lột giá trị thặng dư. Nếu làm rõ được khái niệm này sẽ có thể kết nạp những
nhà doanh nghiệp sản xuất kinh doanh giỏi, không bóc lột vào Đảng. Lúc đó
Đảng ta sẽ có thêm nhiều người giàu trí tuệ kinh doanh, điều này càng làm
tăng lên sức mạnh của Đảng.
Thương trường là một môi trường kinh doanh đa dạng, phức tạp. Ở
đó người đảng viên vừa phải là người có trí tuệ cao để chiến thắng trên
thương trường, lại phải luôn tự rèn luyện phẩm chất trong sạch của Đảng viên
để không sa ngã khi đụng độ với những mặt trái của thương trường.
26/ Trở về từ lòng đất (truyền hình trực tiếp ngày 7/4/2006):
Ngay sau vụ sập hầm mỏ thảm khốc ở Mông Dương (Cẩm Phả,
Quảng Ninh), Người đương thời đã nhanh chóng thực hiện một chương trình
truyền hình trực tiếp ngày 7/4/2006. Chương trình mang tên Trở về từ lòng
đất. Đây là một trong những chương trình Người đương thời hiếm hoi được
truyền hình trực tiếp do đặc thù của chương trình cũng như những chi phí quá
lớn khi sản xuất một chương trình truyền hình trực tiếp.
Chương trình truyền hình trực tiếp “Trở về từ lòng đất”
Chương trình là cuộc gặp gỡ với những người thợ mỏ đã may mắn
sống sót trong vụ sập hầm, lắng nghe câu chuyện về một cuộc sống ở một nơi
71
gần như hình ảnh của âm phủ trong tưởng tượng của chúng ta. Câu chuyện
của những người tưởng mình chết rồi, giờ vẫn còn bàng hoàng khi thấy mình
còn sống.
Rất nhiều hình ảnh xúc động đã diễn ra tại trường quay S9 của Đài
THVN: cảnh xum họp hạnh phúc của gia đình người thợ mỏ Vũ Văn Dương
cùng người vợ và hai đứa con; cuộc tiễn đưa những người thợ mỏ đã hi sinh,
hình ảnh người vợ và hai đứa con côi cút của người thợ mỏ Nguyễn Kim
Giang - một người thợ mỏ xấu số đã tử nạn. Trên đầu vành tang trắng, hai đứa
trẻ tội nghiệp đã mất cha. Hình ảnh ấy cứ ám ảnh mãi trái tim của những
người nghe câu chuyện.
Trong chương trình, khán giả cũng đã được gặp gỡ với những người
trực tiếp chỉ đạo và tiến hành công tác cứu hộ, tìm người từ vùng đất đen,
những khó khăn vất vả và niềm tin đồng đội mình vẫn còn sống ngay cả lúc
tình huống xấu nhất.
Trở về từ lòng đất là câu chuyện của những cảm xúc: tai nạn khủng
khiếp, sợ hãi tột đỉnh, khoảnh khắc sống còn, tình đồng đội, tình người, hạnh
phúc được sống, sự sum họp gia đình và cả bi kịch của khăn tang trắng, nước
mắt của mất mát chia li....
27/Từ sự kiện thầy giáo Đỗ Việt Khoa (phát sóng ngày 9 và 16/7/2006)”
Chương trình Từ sự kiện thầy giáo Đỗ Việt Khoa là cuộc trò chuyện,
gặp gỡ với thầy giáo Đỗ Việt Khoa - người đã tố cáo những vụ việc tiêu cực
trong giáo dục ở Hà Tây và một số người có liên quan.
72
Thầy giáo Đỗ Việt Khoa Cuộc trò chuyện tại trường quay
Đây là một chương trình mang đậm tính thời sự và bàn về một vấn
đề gây nhức nhói ở Việt Nam nhiều năm qua: những tiêu cực trong giáo dục.
Sau khi những hình ảnh về những gian lận trong thi cử tại hội đồng thi Phú
Xuyên A được thầy Khoa ghi lại và gửi lên Bộ Giáo dục đào tạo, sau khi
nhiều nhà báo tìm đến thầy Khoa để viết bài, công chúng đã dần biết thầy
Khoa là ai. Thầy Khoa là giáo viên của trường PTTH Vân Tảo, Hà Tây. Thầy
vốn là một thầy giáo rất nghiêm khắc và khó tính. Do đó khi tận mắt chứng
kiến những tiêu cực, lố lăng trong việc thi và coi thi ở một cuộc thi tốt nghiệp
PTTH, thầy không thể khoanh tay đứng nhìn. Dù khi quyết định tố cáo những
tiêu cực ấy, thầy Khoa gặp phải không biết bao nhiêu trở ngại, thậm chí còn
nguy hiểm đến tính mạng của bản thân và vợ con thầy nhưng thầy Khoa vẫn
kiên quyết đấu tranh đến cùng. Thầy Khoa là một tấm gương dũng cảm, kiên
trì và mưu trí trong việc chống tiêu cực, góp phần làm trong sạch nền giáo dục
nước nhà. Với những nhân chứng, vật chứng sinh động, chương trình đã tạo
được ấn tượng sâu sắc trong lòng công chúng truyền hình bởi sự quyết liệt
trong đấu tranh chống tiêu cực.
28/ Cha đẻ của máy ATM là ai? (phát sóng ngày 6/8/2006):
Tên của chương trình: Cha đẻ của máy ATM là ai? đã gây tò mò
TS Đỗ Đức Cường Trò chuyện tại trường quay
cho không ít khán giả. Máy ATM mà hàng ngày chúng ta vẫn rút tiền là một
phát minh của người Việt Nam. Rất nhiều người không tin nhưng đó là sự
73
thật. TS Đỗ Đức Cường chính là cha đẻ của máy ATM. Ông còn là tác giả của
hơn 50 phát minh và sáng chế của thế giới. Ông đã từng làm việc tại ngân
hàng Citibank, là chuyên viên cao cấp của ngành ngân hàng Hoa Kỳ, là đại sứ
thiện chí của Liên hiệp quốc. Trở về Việt Nam, từ năm 2003 ông trở thành cố
vấn cao cấp cho ngân hàng Đông Á.
Với dáng vẻ gầy gò, xương xẩu và nước da sạm đen, ông Cường
xuất hiện. Điều đặc biệt gây ấn tượng ở ông là một đôi mắt rất sáng và giọng
nói nhẹ nhàng, trầm ấm. Là một người Việt Nam, sinh ra trong nghèo đói
nhưng với ý chí, lòng quyết tâm và tình yêu con người thiết tha, ông đã làm
được những điều khiến nhiều người trên thế giới phải ngả mũ kính phục.
Đây là một trong những chương trình nhận được nhiều hồi âm nhất
của khán giả: khán giả viết thư, gọi điện thể hiện sự kính phục, chia sẻ những
khó khăn trong cuộc sống thậm chí có những khán giả còn hồ nghi về những
phát minh của TS. Đỗ Đức Cường...Và khi càng tìm hiểu, càng nghe ông trò
chuyện khán giả sẽ càng hiểu vì sao ông lại thành công đến như thế.
29/ Nhà bán lẻ hàng đầu Việt Nam (phát sóng ngày 17/9/2006):
Có một người yêu thích mô hình kinh tế HTX, ngay cả khi mô hình
này gặp khó khăn. Không những thế, người ấy đã chứng minh được sự ưu việt
của nó bằng những thành công của mô hình hoạt động này trong thế kỷ 21 tại
Việt Nam. Người đó chính là bà Nguyễn Thị Nghĩa, chủ nhân của chuỗi siêu
thị nổi tiếng nhất Việt Nam Sài Gòn Coop Mart, nhân vật chính của chương
trình Nhà bán lẻ hàng đầu Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị Nghĩa Cuộc trò chuyện diễn ra tại siêu thị
Cuộc trò chuyện diễn ra ngay tại siêu thị ồn ào, tấp nập người qua
74
lại trong hệ thống siêu thị của bà Nghĩa đã tạo nên một không khí khác cho
chương trình. Khác với những bài báo viết về bà, Người đương thời đã tìm
một cách tiếp cận mới: diễn tả những băn khoăn, suy nghĩ của một nữ doanh
nghiệp trước những khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường, những bí quyết để
phục vụ khách hàng tốt nhất, cũng như niềm tin tưởng vào sự phát triển của
hệ thống bán lẻ trong nước.
30/ Nguyên tắc vàng để thành công (phát sóng ngày 22/10/2006):
Ông là tác giả của 60 đầu sách bán chạy nhất thế giới, chuyên gia
hàng đầu về phát triển tiềm năng con người, là một tỷ phú Mỹ. Ông đang giữ
kỷ lục Guinness về người có nhiều đầu sách bán chạy nhất thế giới. Ông từng
xuất hiện trong các chương trình nổi tiếng: Oprah show, Inside Edition, The
today show, CBS, NBC, CNN. “Chicken soup for the soul” – mà ông là tác
giả là loạt sách được tạp chí Time Magazine gọi là “Hiện tượng xuất bản của
thập kỷ”. Ngay sau khi ông đặt chân đến Việt Nam, chương trình Người
đương thời đã nhanh chóng tìm hiểu và mời ông tới trò chuyện. Ông chính là
Jack Canfield - người đàn ông nắm giữ những bí quyết để thành công.
Ông Jack Canfield Ông Jack Canfield trò chuyện với MC
Câu chuyện cuộc đời của ông đã chứng tỏ một điều rằng: dù ở nơi
nào trên thế giới, dù bạn là người da trắng, da đen hay da vàng thì những khó
khăn trong cuộc sống sẽ không thể đánh gục được bạn nếu bạn có ý chí, lòng
75
quyết tâm và một mục đích sống đúng đắn.
2.3. Thành công của chuyên mục Ngƣời đƣơng thời:
2.3.1. Tìm kiếm và lựa chọn đề tài:
Ê kíp thực hiện chuyên mục Người đương thời nhận thức rõ rằng
việc tìm kiếm đề tài hay, hấp dẫn sẽ là viên gạch đầu tiên xây dựng nên một
chương trình đặc sắc. Những người thực hiện Người đương thời đã đặt ra một
số tiêu chí cụ thể khi lựa chọn đề tài cho chuyên mục và trong quá trình thực
hiện, Người đương thời đã đạt được những tiêu chí đề ra.
Thứ nhất, Người đương thời đã lựa chọn được những đề tài phù hợp
với tiêu chí của chuyên mục. Chuyên mục Người đương thời đề ra tiêu chí là
cuộc gặp gỡ, trò chuyện với những con người, những gương mặt nổi bật trong
xã hội. Với tiêu chí đó, hàng loạt các đề tài của chuyên mục đã được lựa chọn:
Chuyện về tấm lòng nhân hậu, hết mình cứu chữa bệnh nhân của GS. bác sỹ
Vũ Văn Đính trong Y đức; Chuyện về người cha tìm đủ mọi cách cai nghiện
cho con trong Tình cha; Chuyện về một người phụ nữ ngày đêm đi tìm mộ
các liệt sỹ đã hy sinh chỉ qua một số di vật ít ỏi còn lại trong Không có ai và
điều gì bị quên lãng;...
Thứ hai là, Người đương thời đã tìm kiếm và lựa chọn được những
đề tài có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Từ những câu chuyện nhỏ, những số phận rất
bình thường, nhưng Người đương thời đã phát hiện ra những vấn đề có ý
nghĩa xã hội sâu sắc, khiến người xem phải suy ngẫm. Đây là thành công
mang ý nghĩa rất quan trọng của chuyên mục Người đương thời. Ngay ở
chương trình Người đương thời số đầu tiên mang tên Hạt giống trò chuyện
với TS Tạ Minh Sơn, những người làm chuyên mục đã muốn gửi gắm những
ý nghĩa vô cùng sâu sắc: Con người ta dù xuất thân nghèo khó hay phải bươn
chải, vật lộn với cuộc đời để kiếm miếng cơm manh áo thì với ý chí quyết
tâm, niềm say mê, nhiệt huyết thực sự, chúng ta vẫn có thể thành công. TS Tạ
76
Minh Sơn đã trở thành một tấm gương về sự cần cù, về khát vọng vươn lên và
cống hiến cho cuộc đời. Hay ở một chương trình khác mang tên Không có ai
và điều gì bị quên lãng, chuyên mục đã tập trung khắc hoạ hình ảnh và việc
làm của chị Nguyễn Thị Tiến - người đi tìm hài cốt các liệt sỹ đã hy sinh tại
các chiến trường và đưa họ về với quê hương, với gia đình, người thân.
Những việc làm của chị đã giúp rất nhiều gia đình nhận lại con, cháu, anh, em
mình. Những giọt nước mắt cảm động và hạnh phúc đã bật ra không gì kìm
giữ được khi họ tìm thấy hài cốt con em mình,...Khi được hỏi về mức độ sâu
sắc của chương trình, đa số khán giả đều đồng tình đây là điều ấn tượng nhất
của họ khi xem Người đương thời.
Bảng 1: Mức độ sâu sắc của nội dung chương trình
Số lƣợng
Tỷ lệ
Nội dung
(ngƣời)
(%)
234
81.53
Sâu sắc, gây xúc động
21
7.32
Chưa sâu sắc, chưa gây xúc động
32
11.15
Không có ý kiến
287
100.00
Tổng số
Nguồn: Cuộc điều tra tháng 6/2007
Thứ ba, Người đương thời đã thành công với những đề tài theo sát
sự kiện thời sự. 55,05% khán giả được hỏi đã đánh giá nội dung chương trình
có tính thời sự.
Bảng 2: Tính thời sự của nội dung chương trình
Số lƣợng
Tỷ lệ
Nội dung
(ngƣời)
(%)
158
55.05
Có tính thời sự
97
33.80
Chưa có tính thời sự
32
11.15
Không có ý kiến
287
100.00
Tổng số
77
Nguồn: Cuộc điều tra tháng 6/2007
Tính thời sự luôn là một yếu tố rất quan trọng đối với bất kỳ một tác
phẩm báo chí nào. Nhưng với Người đương thời, là một chuyên mục truyền
hình với mục đích chính là tuyên truyền những gương Người tốt - Việc tốt, ý
nghĩa xã hội của chuyên mục được đặt lên hàng đầu, tính thời sự không phải
là yêu cầu gắt gao. Tuy nhiên, không phải vì thế, chuyên mục không chú ý
đến tính thời sự. Đây là một điểm khác biệt của chuyên mục Người đương
thời so với các chuyên mục trò chuyện, gặp gỡ nhân vật khác trên truyền hình.
Những sự kiện thời sự “nóng” cũng luôn được Người đương thời quan tâm.
Một ví dụ rất rõ ràng và sinh động về tính thời sự trong các đề tài của chuyên
mục Người đương thời là buổi truyền hình trực tiếp Trở về từ lòng đất. Ngày
31/3/2006, một vụ tai nạn sập hầm thảm khốc đã xảy ra tại mỏ than Mông
Dương, tỉnh Quảng Ninh. Nguyên nhân của vụ sập hầm là do bục nước gây
đổ lò cục bộ khoảng 200m lò chợ, nơi có 37 công nhân đang làm việc. Vụ tai
nạn đã là chết 2 người, 1 người bị thương, 18 người vẫn bị mắc kẹt trong lò và
16 người chạy thoát ra ngoài. Từ khi vụ sập hầm xảy ra, thông tin về vụ sập lò
và công tác cứu hộ được báo cí cập nhật liên tục. Vụ sập lò này đã gây chú ý
trong cả nước. Người dân vùng mỏ cũng như đồng bào cả nước lo lăng dõi
theo diễn biến của sự việc. Ngày 3/4/2006, chuyên mục Người đương thời đã
quyết định thực hiện buổi gặp gỡ với những người cứu hộ, những người thợ
mỏ đã thoát nạn và những người có trách nhiệm của ngành than trong vụ sập
lò. Ngày 4/4/2006 công tác liên hệ, công văn, tài liệu vụ sập hầm nhanh chóng
được chuẩn bị. Ngày 7/4/2006, kịch bản chương trình trực tiếp đã hoàn tất và
sẵn sàng lên sóng. Vào hồi 21h20 ngày 7/4/2006, chương trình đã được phát
sóng trực tiếp trên kênh VTV3 từ trường quay S9 của Đài THVN. Như vậy
chỉ trong 7 ngày sau khi vụ sập lò xảy ra, một chương trình Người đương thời
với rất nhiều nhân vật đã được thực hiện. Chương trình đã thu hút rất đông
78
khán giả và để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng công chúng nghe nhìn. Trường
quay S9 chật cứng người xem và khi buổi phát sóng kết thúc, chuyên mục đã nhận
được hơn 6000 cuộc điện thoại và tin nhắn. Dư âm của buổi phát sóng còn nóng đến
nhiều ngày sau đó. Chuyên mục còn liên tiếp nhận được nhiều điện thoại và thư
khán giả. Với những đề tài mang tính thời sự, chuyên mục Người đương thời không
chỉ góp phần cung cấp thêm những thông tin mới tới khán giả mà còn tự làm mới
mình. Công chúng tìm thấy ở Người đương thời sự mới mẻ, hấp dẫn khác lạ với
những gì thường có ở một chuyên mục trò chuyện, gặp gỡ.
Thứ tư, Người đương thời thành công những đề tài đang được xã hội
quan tâm. Khi cả nước đang chuẩn bị mọi tiềm lực để bước vào WTO, chuyên mục
Người đương thời cũng sẵn sàng hàng loạt các chương trình bàn về chủ đề này: gặp
gỡ ông Jack Canfield với những bí quyết thành công khi hoà nhập toàn cầu, gặp gỡ
bà Nguyễn Thị Nghĩa, Vũ Thị Thuận, Dương Thanh Thuỷ,...-những doanh nhân
thành đạt và đang tìm cách đưa hình ảnh Việt Nam ra thế giới. Khi ma tuý đang
hoành hành dữ dội với những tác hại khôn lường, Người đương thời đã trò chuyện
với ông Ngô Đình Thành - người tự tay cai nghiện cho ba con trai. Chương trình đã
cung cấp những thông tin bổ ích về việc cai nghiện tại nhà như thế nào cho hiệu quả
- điều mà cả xã hội đang quan tâm.
Thứ năm, các đề tài của chuyên mục đã đáp ứng tốt nhu cầu của công
chúng. 60,98% khán giả được hỏi đã nhận xét nội dung của Người đương thời rất
gần gũi, thiết thực với họ:
Bảng 3: Mức độ thiết thực của nội dung chương trình
Số lƣợng
Tỷ lệ
Nội dung
(ngƣời)
(%)
Thiết thực, gần gũi
175
60.98
Chưa thiết thực, chưa gần gũi
80
27.87
Không có ý kiến
32
11.15
Tổng số
287
100.00
Nguồn: Cuộc điều tra tháng 6/2007
79
Những nhu cầu học hỏi, khám phá, hiểu biết, giải trí,...của khán giả đều được
những người thực hiện chuyên mục Người đương thời cố gắng đáp ứng.
Trước khi thực hiện chương trình, các PV và BTV của chuyên mục luôn tự
đặt cho mình câu hỏi: Liệu đề tài này có thực sự gần gũi với khán giả? Khán
giả có thể tìm thấy điều gì hữu ích từ chương trình này? Liệu nội dung
chương trình có làm khán giả quan tâm, thích thú?...Chính những thắc mắc
này đã trở thành những động lực giúp những người thực hiện chương trình cố
gắng, nỗ lực hoàn thành những chương trình phát sóng đáp ứng tốt nhất nhu
cầu của công chúng nghe nhìn.
Đối với những đề tài trùng lặp, Người đương thời lại khai thác
chúng dưới nhiều góc độ khác nhau. Đề tài chiến tranh luôn là đề tài muôn
thủa của nhiều loại hình báo chí và luôn luôn gây xúc động lòng người. Tổng
kết lại những số đã phát sóng của Người đương thời, có tới 13 chương trình
nói về đề tài chiến tranh. Tuy nhiên cả 13 chương trình đều không có sự trung
lặp về chủ đề và hướng tiếp cận. Nói về chiến tranh, có khi đó là sự ca ngợi
những con người đã hy sinh tuổi xuân cho cuộc chiến (Cựu chiến binh thành
cổ Quảng Trị), các anh hùng tình báo, anh hùng trong chiến đấu (X6-Con át
chủ bài tình báo, Chiến đấu trong lòng địch, Những người lái chiếc tàu không
số); chiến tranh được đề cập ở phương diện nghệ thuật: những nhà văn, chiến
sỹ đã xây dựng nên một thế hệ văn học thời chiến như thế nào (Đồng hành
cùng người lính); câu chuyện về nhà nhiếp ảnh đã chụp bức ảnh nổi tiếng “Nụ
cười ở thành cổ Quảng Trị” Đoàn Công Tính; câu chuyện về những thương
binh lại đề cập đến số phận và sự vươn lên làm giàu của những người lính trở
về từ cuộc chiến, mang trong mình nỗi đau của chiến tranh. Họ trở về đối mặt
với cuộc sống hoà bình và những khó khăn về vật chất và tinh thần còn gian
nguy hơn chiến trường đầy máu lửa (Con đường đến hạnh phúc); Chiến tranh
80
còn được nhìn qua chân dung của những cựu chiến binh đang hàng ngày đi
tìm mộ liệt sỹ, trả lại tên tuổi cho những người con vô danh đã hy sinh vì đất
nước (Không có ai và điều gì bị quên lãng, Gặp lại chị và đồng đội,...); Chân
dung người lính Mỹ xưa kia từng tham gia trong cuộc chiến tranh Việt Nam
giờ đây quay lại với mong muốn hàn gắn vết thương chiến tranh (Bom mìn và
tình ca). Như vậy nhiều khi cùng một đề tài nhưng mỗi chương trình đã đi
vào những vấn đề khác nhau, vừa phong phú, vừa bổ ích, mà không gây nhàm
chán. Tuy nhiên, việc lựa chọn đề tài mới lạ, tránh lặp lại vẫn luôn là tiêu chí
mà chương trình muốn hướng đến để có thể giới thiệu với khán giả cả nước
chân dung cuộc sống mới một cách đầy đủ và sinh động hơn nữa.
2.3.2. Tìm kiếm và lựa chọn nhân vật:
Chuyên mục Người đương thời đã tìm kiếm và lựa chọn được những
nhân vật Người tốt - Việc tốt thực sự xứng đáng và có ảnh hưởng lớn đến
đông đảo quần chúng. Đó là những chuyên gia, những con người có kinh
nghiệm trong một lĩnh vực cụ thể. Con đường đi đến thành công của họ đáng
để mọi người học tập như: GS. Bác sỹ Nguyễn Tài Thu, GS.Bác sỹ Tôn Thất
Bách, đạo diễn Lê Hoàng, vận động viên Ushu Nguyễn Thuý Hiền,...Đó là
những anh hùng giữa đời thường như mẹ Nguyễn Thị Phú, Bạch Đình Vinh,
cô giáo Nguyễn Thị Hiền,..
Chuyên mục Người đương thời cũng đã tìm kiếm và lựa chọn được
những nhân vật gắn liền với sự kiện thời sự nổi bật như: Nguyễn Mạnh Tường
trở thành VĐV xuất sắc nhất Seagame 22, thầy Đỗ Việt Khoa với những tiêu
cực trong thi cử tại Hà Tây, vụ sập mỏ than Mông Dương,...
Chuyên mục Người đương thời đã tìm kiếm và lựa chọn được những
nhân vật có vấn đề để tranh luận. Điều này đã tạo nên sức hấp dẫn mới lạ của
chương trình. Ví dụ như đảng viên có được làm kinh tế tư nhân hay không
trong chương trình Một đảng viên làm kinh tế tư nhân, người Việt Nam có
81
phải là Cha đẻ của máy ATM,...
Chuyên mục Người đương thời đã tìm kiếm và lựa chọn được những
nhân vật đặc biệt, có sức tác động mạnh và để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng
công chúng. Ví dụ như Nguyễn Công Hùng - một chàng trai bị bệnh nhão cơ,
không thể đứng, thậm chí không thể ngồi như mọi người bình thường được
nhưng anh đã vượt qua những khó khăn, thiệt thòi đó để vươn lên trở thành
một Hiệp sỹ máy tính ( chương trình Kết nối); ví dụ như cậu học trò Đinh Văn
Vụ đỗ đại học chỉ với việc luyện thi trong hang đá (từ Hang đá đến giảng
đường đại học); ví dụ như cô giáo Nguyễn Thị Hiền bị cháy hai bàn tay
nhưng vẫn đến lớp truyền đạt kiến thức cho các em học sinh (chương trình
Chuyện cô giáo trẻ bị cháy hai bàn tay),...
Để có được những nhân vật ấn tượng, đáng khâm phục như vậy,
những người thực hiện chuyên mục Người đương thời đã tìm kiếm qua rất
nhiều nguồn tư liệu. Các bài báo in chính là nguồn rất quan trọng để chuyên
mục Người đương thời phát hiện được những đề tài hay và ý nghĩa.Ví dụ như:
- Nhân vật Nguyễn Thị Hiền được tìm thấy từ bài báo “Chuyện cô gái trẻ bị
cháy hai bàn tay” của tác giả Minh Thuỳ, đăng trên báo Tuổi trẻ Chủ nhật số
ra ngày 13/5/2001.
- Cậu học trò Đinh Văn Vụ được tìm thấy từ hai bài báo “Một học sinh nghèo
học giỏi đang cần được giúp đỡ” đăng trên báo Cao Bằng tháng 9.2001 và bài
“Lên hang luyện văn” của tác giả Hoàng Quảng Uyên, đăng trên báo Lao
động ngày 16/10/2001.
- Mẹ Phú nuôi 51 trẻ mồ côi được phát hiện từ hai bài báo của tác giả Đỗ
Ngọc Tấn – giáo viên trường PTTH Huỳnh Thúc Kháng, Sơn Tịnh, Quảng
Ngãi: “Người mẹ của 51 đứa con” đăng trên báo Nhân dân số ra ngày
28/8/2002 và “Một người mẹ nuôi 51 đứa con” đăng trên báo Tiền Phong
82
ngày 6/12/2002.
Một loạt các nhân vật của chuyên mục Người đương thời cũng được
phát hiện từ các cơ quan quản lý thi đua khen thưởng như: nhân vật Tạ Minh
Sơn xuất hiện trong chương trình Người đương thời đầu tiên mang tên Hạt
giống được phát hiện từ tư liệu của Đại hội Thi đua yêu nước.
Bên cạnh đó, một trong những nguồn nhân vật vô cùng phong phú
xuất phát từ chính khán giả truyền hình. Lá thư của dược sỹ Trần Giữa, giảng
viên khoa Y tế công cộng Đại học Y Hà Nội giới thiệu nhân vật Đoàn Đình
Long, huấn luyện viên trưởng đội tuyển Karatedo Việt Nam. Từ một học sinh
nghèo, bị bệnh tim, ông đã trải qua ba cuộc mổ tim để chiến thắng bệnh tật,
trở thành võ sư nổi tiếng. Nhận được thư giới thiệu, đạo diễn chương trình đã
gặp gỡ với ông Long để thu thập tư liệu về ảnh và các đoạn băng video quay
cảnh mổ tim do bác sỹ Tôn Thất Bách thực hiện. Và vào ngày 25/2/2003,
chương trình Người thầy thuốc nhân dân về GS. Bác sỹ Tôn Thất Bách được
phát sóng. Trong chương trình, ông Đoàn Đình Long trở thành một nhân vật
bất ngờ thay vì là nhân vật chính của Người đương thời.
Khi được hỏi về thông tin gì mà khán giả ghi nhớ được sau khi xem
chương trình Người đương thời thì có tới 27,18% khán giả nhớ về nhân vật.
Đây cũng chính là phần thưởng cho những nỗ lực tìm kiếm và thể hiện chân
dung nhân vật của những người thực hiện chương trình Người đương thời.
2.3.3. Xây dựng kịch bản:
Kịch bản chính là xương sống của một chương trình truyền hình.
Tất cả các chương trình truyền hình chính luận cũng như giải trí đều bắt đầu
từ một nền móng, thể hiện bằng ngôn ngữ văn tự, là kịch bản. Trong chương
trình Người đương thời, sau khi thu thập đầy đủ thông tin về nhân vật, BTV
của Người đương thời sẽ lên một khung kịch bản chi tiết. Một cuộc họp của
cả êkíp nội dung sẽ được tiến hành để bàn về kịch bản. Mọi ý kiến của mọi
83
người đều được đón nhận và những ý kiến hay nhất, phù hợp, độc đáo nhất sẽ
được đưa vào kịch bản. Kịch bản sẽ được sửa chữa theo ý tưởng mới, độc đáo
hơn, sâu sắc hơn, hấp dẫn hơn.
Kịch bản Người đương thời đã tạo được mối liên hệ giữa các thành
phần, các nhân tố thành một chỉnh thể thống nhất về mặt nội dung cũng như
hình thức thể hiện. Trong chương trình Gặp gỡ thầy Đỗ Việt Khoa, sự xuất
hiện của thầy Nguyễn Thượng Long là mối dây liên hệ với việc tố cáo gian
lận trong thi cử 5 năm về trước nhưng bị thất bại. Trong chương trình Y đức,
lồng rắn và đĩa hồng xiêm là cái cớ đưa đẩy sự xuất hiện bất ngờ của bệnh
nhân 25 năm về trước,...
Kịch bản Người đương thời đã tạo được điểm nhấn hợp lý. Ê kíp
thực hiện luôn luôn cố gắng tạo những kịch tính, thắt nút, mở nút,...bằng
những câu chuyện hoặc chi tiết “đắt” tạo độ nhấn cho chương trình. Hình ảnh
quả cam là một điểm nhấn trong chương trình Người xoa dịu nỗi đau cuộc
đời. Quả cam là vật đã cứu GS Tài Thu khi ông hoạt động ngoài chiến trường.
Quả cam cũng chính là vật sau này ông cứu mạng những chiến sỹ khác. Hình
ảnh quả cam đã gợi lại trong nhân vật nhiều kỷ niệm, cảm xúc.
Kịch bản Người đương thời tạo được độ mở và rất linh hoạt. Kịch
bản Người đương thời là một dạng phỏng vấn chân dung được thể hiện bằng
văn bản. Khi xây dựng kịch bản, ê kíp thực hiện đưa ra hàng loạt câu hỏi,
phần của nhân vật được bỏ trống. Nhân vật trả lời thế nào, phản ứng ra sao,
cảm xúc như thế nào,...hoàn toàn diễn ra tự nhiên tại trường quay mà không
có kịch bản trước. Vì thế đặc thù là kịch bản nhằm về phía chủ quan những
người làm chương trình: hỏi những gì, hỏi như thế nào, cần nhấn mạnh chi
tiết nào,...
2.3.4.Ngƣời dẫn chƣơng trình:
Người đương thời là tác phẩm Ký chân dung dưới hình thức phỏng
84
vấn. Ấn tượng sâu đậm nhất của khán giả đối với người dẫn chương trình
Người đương thời là cách đặt câu hỏi rất thông minh, linh hoạt, khéo léo. Việc
đặt câu hỏi trong chương trình Người đương thời đã trở thành một nghệ thuật.
Những câu hỏi trong chương trình Người đương thời thường có văn
phong giản dị, dễ hiểu. Những câu hỏi đưa ra thường tránh việc sử dụng
những khái niệm, thuật ngữ, từ ngữ khó hiểu, mang tính chuyên ngành. Bản
thân người dẫn đã tự đặt mình vào vị trí một khán giả bất kỳ.
Người dẫn chương trình đã sử dụng những câu hỏi ngắn gọn. Trong
đó mỗi câu hỏi bao hàm một ý nhất định. Điều này tạo cho người được phỏng
vấn tâm lý thoải mái và dễ chịu. Chương trình Người đương thời có lượng
khán giả với nhiều lớp nhận thức. Sự giản dị, dễ hiểu trong văn phong và
ngôn ngữ của câu hỏi là cần thiết để đáp ứng một cách bao quát nhất sự phong
phú trong nhận thức đó.
Các câu hỏi được đặt đúng lúc. Tính đúng lúc của câu hỏi thể hiện
trong mối quan hệ chặt chẽ của nó với bối cảnh mà nó xuất hiện. Mỗi cuộc
phỏng vấn thường chứa đựng trong nó những thời điểm khác nhau. Trong đó,
tình cảm và khả năng bộc lộ của người được phỏng vấn ở những mức độ
không giống nhau. Người phỏng vấn bằng sự nhạy cảm của mình đã nắm bắt
yếu tố này để có những quyết định hợp lý. Trong chương trình Người đương
thời, đây là yếu tố được quan tâm và tận dụng khá triệt để. Khi cuộc phỏng
vấn diễn ra ở mức độ trung bình. Người được phỏng vấn còn chưa thực sự cởi
mở trong việc thể hiện mình. MC đã đưa ra những câu hỏi có tính xã giao
nhằm tạo đà tâm lý cho nhân vật. Ví dụ như: trong chương trình Đằng sau
những tấm huy chương gặp gỡ nhân vật Nguyễn Thuý Hiền, người dẫn
chương trình hỏi Thuý Hiền: “Sức khoẻ của em thế nào rồi?” Câu hỏi này
mang tính chào hỏi hơn là khai thác thông tin. Nó tạo sự gần gũi giữa người
85
phỏng vấn và người được phỏng vấn. Đây chính là những mở đầu lý tưởng
cho một cuộc trò chuyện thoải mái và cởi mở. Nhờ vậy, người được phỏng
vấn được tạo đà để vượt qua những rào cản tâm lý.
Khi có những đột biến xảy ra trong cuộc trò chuyện, người được
phỏng vấn đang có những kích thích cao độ. Đây là lúc tính cách con người
bộc lộ rõ ràng nhất. MC có nhiều cách xử lý, có lúc chị im lặng: Ví dụ trong
chương trình Những người bạn Việt Nam, khi bà Lady Borton gặp lại bà Hai
Sang, họ đã ôm lấy nhau mừng rỡ và nói với nhau với một thái độ chân tình
nhất. Không một câu hỏi nào được đặt ra. Chỉ khi trạng thái cảm xúc đã lắng
dịu, người dẫn chương trình mới bắt vào cuộc nói chuyện bằng câu hỏi: “Thế
đã bao lâu rồi hai người mới gặp nhau?”. Cách xử sự như vậy là rất hợp lý vì
yếu tố tình cảm là thông tin quan trọng nhất và đáng giá nhất trong trường
hợp này. Những câu hỏi sẽ chỉ có những tác động tiêu cực. Nó làm giảm
không khí thân mật giữa hai người thậm chí còn ảnh hưởng đến những cảm
xúc đẹp trong lòng khán giả.
Tính liên tục, thống nhất của các câu hỏi. Người đương thời là một
chương trình phỏng vấn hoàn chỉnh. Nó không chỉ đem đến cho người xem
những thông tin riêng biệt mà là một bức chân dung về con người. Trong
chương trình, phỏng vấn được sử dụng như công cụ khai thác căn bản. Vì vậy,
những câu hỏi đưa ra cần có liên tục, tính thống nhất cao. Đó là điều kiện để
tạo ra được một tổng thể gắn kết với nhau về ý nghĩa và cách thể hiện. Tính
thống nhất giữa các câu hỏi thể hiện ở mối liên hệ của chúng với mục đích
chung. Nói cách khác, mỗi câu hỏi dù khác nhau về hình thức, mục đích
nhưng đều nhằm khai thác những thông tin từ nhân vật. Sau đây là một cụm
câu hỏi trong chương trình Chuyện cô giáo trẻ bị cháy hai bàn tay về cô giáo
Nguyễn Thị Hiền:
- Em có nhớ lần đầu tiên em phát hiện ra mình không có đôi tay như các bạn
86
xung quanh không?
- Khi đó cảm giác của em như thế nào?
- Khi em đến trường trong buổi đầu tiên có bạn nào ngạc nhiên chăm chú
nhìn em không?
(Người dẫn chương trình kể về kỷ niệm lần đầu đi học. Khi đó chị cũng bị
một mặc cảm vì đầu không hề có chút tóc nào). Em có cảm giác tương tự như
chị không?
- Đến khi nào em có thể quen với trạng thái của mình?
- Điều gì làm em cảm thấy bất tiện nhất?
Sáu câu hỏi trên khai thác sáu nội dung về cuộc sống của cô giáo Hiền. Chúng
thống nhất trong một mục đích làm nổi lên sự khác biệt của cô giáo Hiền. Vì
vậy, những hậu quả do đôi bàn tay tàn tật đem tới được đi sâu khai thác trên
hai phương diện. Phương diện thứ nhất là những tác động của xã hội. Câu hỏi
2, 3 đi theo những hướng này. Chúng nhắm đến những thông tin về cách ứng
xử của mọi người xung quanh với Hiền. Những câu hỏi còn lại đi sâu vào
những suy nghĩ của Hiền về sự thiệt thòi của bản thân. Chúng khắc hoạ những
khó khăn mà Hiền đã phải đối mặt.
Điều đặc biệt ở Người đương thời: người dẫn chương trình đồng
thời là đạo diễn của chương trình. Cùng tham gia tìm kiếm, lựa chọn, quyết
định đề tài, nhân vật, khai thác thông tin và lên kịch bản, chị là người nắm rõ
nhất về nội dung chương trình, do đó khi dẫn, chị rất linh hoạt. Bằng nhiều
cách đưa đẩy, hỏi thẳng hoặc “đi vòng”, chị đã khéo léo khai thác những
thông tin từ nhân vật, gợi trong nhân vật những cảm xúc rất thật. Nhiều
chương trình gây xúc động lòng người cũng chính bởi sự khéo léo, linh hoạt
của người dẫn chương trình.
Một tác phẩm Ký chân dung truyền hình thành công không chỉ ở nội
dung sâu sắc, bổ ích, đầy tính giáo dục mà có hình thức thể hiện phù hợp, sinh
87
động, hấp dẫn. Một trong những yếu tố rất quan trọng làm nên thành công của
tác phẩm Ký chân dung truyền hình Người đương thời là tính mỹ học trong
các hình ảnh.
2.4. Thành công về mỹ học hình ảnh của Ký chân dung truyền
hình Ngƣời đƣơng thời:
2.4.1. Một số vấn đề cơ bản về mỹ học hình ảnh của báo hình:
Theo cách thông thường nhất, Mỹ học được hiểu là khoa học về cái
đẹp. Với cách hiểu này, vấn đề mỹ học bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời
sống con người. Mỹ học là vốn tri thức cần thiết cho mọi người bởi vì con
người ai cũng có nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu thưởng thức nghệ thuật và các
nhu cầu ấy chỉ được thoả mãn và phát triển đúng hướng khi chúng được chỉ
đạo bởi những hiểu biết khoa học [23, 26].
Trong cuộc sống của con người, ngoài những nhu cầu vật chất cơm
ăn áo mặc,...hàng ngày, con người còn có một nhu cầu cao hơn đó là nhu cầu
tinh thần. Thẩm mỹ sinh ra để phục vụ những nhu cầu tinh thần của con người
[23, 44]. Với những ý nghĩa rất quan trọng như vậy, việc trang bị cho con
người những kiến thức đúng đắn và khoa học về mỹ học là điều cần thiết.
Với những người làm báo, đặc biệt là báo hình - một loại hình thông tin có
sức lan toả rất sâu rộng trong dân chúng – thì những tri thức về mỹ học có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng.
Đặc trưng của báo hình là sự kết hợp nhuẫn nhuyễn giữa hình ảnh
và âm thanh. Vì thế, đối với thể loại báo hình, vấn đề hình ảnh được coi là
một trong hai yếu tố quan trọng nhất. Nếu với báo in, độc giả chỉ có thể nhìn
thấy những con chữ, con số, hình ảnh tĩnh, nếu với báo nói, thính giả chỉ có
thể cảm nhận âm thanh qua đôi tai của mình, thì với báo hình, khán giả có thể
cảm nhận được đầy đủ nhất, toàn diện về con người, sự việc qua cả đôi mắt
88
và đôi tai của mình. Trong báo hình, hình ảnh chứa đựng tới 80% lượng thông
tin và quyết định đến hiệu quả tiếp nhận thông tin của công chúng. Tục ngữ
Việt Nam có câu: Trăm nghe không bằng một thấy. Điều này lại càng khẳng
định ưu thế và hiệu quả của thông tin báo hình so với các loại hình báo chí
khác. Hình ảnh – đó là một đặc trưng của báo hình, là ưu thế của loại hình báo
chí này, tuy nhiên để hình ảnh thực sự trở thành một thế mạnh của báo hình
thì những hình ảnh đó phải đẹp: đẹp về cả nội dung và hình thức. Vấn đề mỹ
học hình ảnh của báo hình vì thế đã được đặt ra.
Nói đến mỹ học hình ảnh, trước tiên ta phải nói đến nghệ thuật điện
ảnh. Điện ảnh được định nghĩa là nghệ thuật của hình ảnh động. Nếu điện ảnh
kế thừa có chọn lọc những tinh hoa nghệ thuật của các loại hình nghệ thuật
khác tạo nên những giá trị nghệ thuật mới của riêng mình [17, 162] thì truyền
hình ra đời lại tiếp thu những tinh hoa ngôn ngữ nghệ thuật hình ảnh của điện
ảnh để tạo nên sức hấp dẫn mới.
Về lý thuyết, hình ảnh đạt thẩm mỹ khi hình ảnh đó là sự kết hợp
hài hoà giữa nhiều yếu tố: bố cục và nội dung, nội dung và hình thức, âm
thanh và hình ảnh, âm thanh và tiếng động, ánh sáng và độ tương phản,...Trên
thực tế, các yếu tố này kết hợp rất linh động, tạo nên những hình ảnh vừa
đúng, chân thực (về nội dung sự kiện), vừa chuẩn (về kỹ thuật) và đẹp (về
thẩm mỹ). Một hình ảnh đạt đến độ chín thẩm mỹ sẽ luôn hấp dẫn người xem.
Sự quan tâm và chú trọng đến vấn đề mỹ học hình ảnh gắn liền với
sự phát triển của khoa học công nghệ, của chất lượng cuộc sống và xu hướng
hội nhập quốc tế. Ngày nay, không có một tác phẩm nào được trình chiếu trên
truyền hình mà không cần đến chất lượng hình ảnh, đặc biệt là những hình
ảnh đẹp và có tính thẩm mỹ cao. Hiệu quả thực tế của mỹ học hình ảnh có tác
động ngay lập tức đến khán giả khi chương trình được trình chiếu. Khán giả
nhận thấy con người này đẹp, MC này duyên dáng, hình ảnh này gây xúc
89
động,...Những hình ảnh đẹp sẽ giúp che đi những nhược điểm của đối tượng
được thu hình (như người dẫn chương trình, diễn viên, ca sỹ,...), tạo hiệu ứng
về không gian, thời gian một cách hiệu quả. Một chương trình dù nội dung có
hay, có sâu sắc đến đâu, con người bên ngoài ống kính có đẹp đến đâu mà
thiếu những hình ảnh đẹp thì chất lượng chương trình cũng giảm sút đáng kể.
Một tác phẩm phát sóng trên truyền hình là tác phẩm được khán giả cảm nhận
qua màn hình vô tuyến cho nên muốn khán giả có ấn tượng với chương trình,
chương trình muốn hấp dẫn, lôi cuốn người xem thì điều trước tiên là những
hình ảnh trên màn hình vô tuyến phải trung thực, phải đẹp, phải có ý nghĩa.
Với một tác phẩm Ký chân dung trên truyền hình, khi con người là
tâm điểm của hình ảnh thì việc tạo ra những hình ảnh vừa đẹp vừa diễn tả
được nội tâm sâu sắc của nhân vật lại càng được coi trọng.
Có nhiều yếu tố tạo nên mỹ học hình ảnh của báo hình nói chung
của một tác phẩm Ký chân dung trên truyền hình nói riêng, trong đó những
yếu tố quan trọng nhất đó là:
- Nghệ thuật của người quay phim
- Việc sử dụng ánh sáng
- Sân khấu
- Hình thức của những đối tượng được thu hình (trang phục, trang điểm,...)
- Các kỹ xảo khi dựng hình.
2.4.2. Mỹ học hình ảnh của Ký chân dung truyền hình Ngƣời đƣơng thời:
Người đương thời không chỉ được nhận xét là một tác phẩm Ký
chân dung có nội dung sâu sắc, cảm động, bổ ích mà những hình ảnh trong
Người đương thời cũng được đánh giá khá cao về tính thẩm mỹ.
90
* Nghệ thuật tạo những hình ảnh đẹp của ngƣời quay phim:
Người quay phim là người chịu trách nhiệm về tính thẩm mỹ của
hình ảnh. Họ là nhân tố quan trọng nhất trong việc tạo nên mỹ học hình ảnh
của chương trình truyền hình.
Một người quay phim chuyên nghiệp cần phải nắm vững các vấn đề
về hội hoạ, ánh sáng, mỹ học, nhiếp ảnh, âm nhạc,...Vì vậy khi cầm máy
quay, người quay phim phải có một cái nhìn mang tính thẩm mỹ, đảm bảo
tính mỹ học cho các hình ảnh mình định sáng tạo.
Người quay phim phải nắm rất vững các yếu tố cơ bản của kỹ thuật
quay phim [56, 6-8] đó là:
- Toàn cảnh rộng: giúp thiết lập, trình bày cụ thể trong bối cảnh
chung quanh, thường toàn cảnh rộng được mở đầu cho một chương trình
nhằm giới thiệu một địa điểm như một thành phố, một đám đống,...cái nhìn
toàn cảnh rộng sẽ giúp người xem biết được sự việc, hiện tượng đang xảy ra ở
đâu, tại thời điểm nào, không gian vị trí ra sao.
Một cảnh toàn trong “Người đương thời”
- Trung cảnh: Giới thiệu một tính chất, một hành động, một cử chỉ
của đối tượng quay. Cỡ hình trung cảnh sẽ duy trì đối tượng quay thường từ
vùng thắt lưng trở lên và thương loại bớt bối cảnh xung quanh.
91
1 cỡ cảnh trung cảnh trong “Người đương thời”
- Cận cảnh: Là cỡ cảnh thường tập chung vào một điểm cần quay để
gây ấn tượng mạnh nhất. Khi quay cận cảnh, đối tượng được quay choáng gần
hết màn hình do đó đối tượng được quay sẽ thu hút được sự tập trung chú ý
của người xem. Cận cảnh giúp thể hiện những chi tiết cụ thể của đối tượng
nhân vật được quay. Trong truyền hình, cận cảnh là cỡ cảnh quan trọng nhất.
Vì truyền hình màn ảnh nhỏ, thông tin phản ánh phải cụ thể, chi tiết và chính
xác.
1 cỡ cảnh cận cảnh trong “Người đương thời”
- Đặc tả: Cảnh đặc tả thường tập trung vào một hành động then chốt,
một đặc điểm nổi bật của đối tượng được quay giúp thể hiện ý đồ, nội tâm của
nhân vật.
1 cỡ cảnh đặc tả trong “Người đương thời”
Đây là bốn cỡ cảnh cơ bản trong kỹ thuật quay phim. Trong những
tình huống cụ thể, người quay phim phải biết lựa chọn các cỡ cảnh sao cho
phù hợp với nội dung định thể hiện. Chính việc sử dụng linh hoạt các cỡ cảnh
của người quay phim cũng tạo nên những hình ảnh đẹp, gây xúc động với
người xem.
Sau khi đã chọn được cỡ cảnh phù hợp, người quay phim phải sắp
92
xếp hình ảnh trong khuôn hình sao cho hợp lý. Trong bố cục hình ảnh thì
“đường chân trời” là điều người quay phim phải chú ý. Người quay phim phải
giữ cho đường chân trời nằm ngang với khuôn hình để tạo độ thăng bằng cho
người xem.
Với người quay phim, khi diễn tả một con người hoặc một sự việc,
điều quan trọng là tìm được góc quay phù hợp để thể hiện thành công ý đồ tác
giả. Góc quay thể hiện cái nhìn, thái độ của PV đối với nhân vật. Thông
thường, với cái nhìn trung tính, khách quan nhất về nhân vật, người ta sử
dụng góc máy bình thường. Khi muốn đề cao nhân vật, người ta dùng góc
máy thấp. Khi muốn diễn tả một nhân vật bị đè nén hoặc miêu tả nhân vật với
cái nhìn không thiện cảm, người ta dùng góc máy cao.
Về mặt chuyển động máy, máy quay có nhiều hướng chuyển động
khác nhau: theo chiều dọc, theo chiều ngang, chuyển động lên, chuyển động
xuống với các động tác máy chính là: lia máy, zoom, travelling.
Trong thực tế, quay phim là một nghệ thuật đòi hòi người cầm máy
quay có những sáng tạo linh hoạt trên nền lý thuyết quay phim đã được cung
cấp. Lý thuyết quay phim chỉ cung cấp cho người quay phim những kiến thức
cơ bản nhất về khuôn hình bố cục của cảnh quay. Khi thực hiện những cảnh
quay thực tế trong những điều kiện cụ thể, người quay phim phải rất linh hoạt
xử lý mọi vấn đề sao cho hình ảnh quay được là tốt nhất, phản ảnh đúng thực
tế và đúng dụng ý của đạo diễn. Để quay đúng đã là một vấn đề, để có được
những hình ảnh mang tính thẩm mỹ cao đòi hỏi người quay phim phải có
năng khiếu, kinh nghiệm, sự sáng tạo và sự kết hợp nhuần nhuyễn với đạo
diễn hoặc PV của chương trình.
Trong trường quay chương trình Người đương thời, có năm máy
quay được sử dụng:
- Máy 1: cần cẩu: lấy hai cảnh toàn có khán giả từ bên trái và từ bên
93
phải, một cảnh toàn từ trên cao úp xuống.
- Máy 2: Lấy hình người dẫn chương trình: trung cảnh, cận cảnh
người dẫn, trung cảnh người dẫn và nhân vật trò chuyện.
- Máy 3: Lấy hình nhân vật: trung cảnh, cận cảnh nhân vật, trung
cảnh qua vai
- Máy 4: vác vai, lấy những hình cận cảnh hoặc những hình sinh
động, cần di chuyển tạo sự linh hoạt, hấp dẫn. Lấy khán giả có hai người làm
tiền cảnh, lấy người dẫn qua vai nhân vật, lấy nhân vật từ góc máy đặt ngang
mặt bàn hoặc dưới mặt bàn, lấy sau lưng hai người dẫn chương trình và nhân
vật.
- Máy 5: bắt hình nhân vật và người dẫn chương trình từ trên cao úp
xuống.
Trong mỗi buổi ghi hình, năm người quay phim của chương trình
Người đương thời đã làm việc rất nhiệt tình để tạo được những hình ảnh đẹp,
ấn tượng. Có thể thấy, những hình ảnh trong chương trình Người đương thời
khá hợp lý và phù hợp với nội dung cuộc trò chuyện. Khi xem qua màn ảnh
nhỏ, khán giả hiểu được bối cảnh chung của buổi gặp gỡ, biết được nhân vật
là ai, hình dáng, nét mặt, cử chỉ,...như thế nào, hiểu được những diễn biến tâm
trạng của cả nhân vật và người dẫn trong suốt cuộc trò chuyện. Ví dụ như
trong chương trình Cha đẻ của máy ATM là ai? gặp gỡ và trò chuyện với TS
Đỗ Đức Cường. Khán giả truyền hình có thể nhìn thấy hình ảnh của những
máy ATM trên phông nền của chương trình. Hình ảnh của người sáng chế ra
máy ATM được khắc hoạ rõ nét: một người đàn ông gầy gò với khuôn mặt
khắc khổ nhưng nụ cười rất tươi, hiền hậu và ánh mắt chan chứa tình yêu
thương. Chuyện trò chuyện thân tình giữa người dẫn chương trình và TS Đỗ
Đức Cường được truyền tải liên tục qua liên tiếp các cảnh quay: trung cảnh
hai người ngồi trò chuyện, cảnh người dẫn chương trình hào hứng đáp lại
94
những câu nói của ông Cường với cảnh qua vai của nhân vật,...Và đặc biệt với
máy 3 (lấy hình nhân vật) và máy 4 (máy vác vai), những quay phim của
chương trình đã nhanh chóng chộp được những hình ảnh rất đắt giá: khi nhân
vật kể lại câu chuyện mình suýt chết bên cạnh những anh chị em của mình,
không khí trường quay trùng xuống, cả mắt người dẫn chương trình và nhân
vật đều rơm rớm. Hình ảnh đôi mắt đó đã được đặc tả tạo hiệu ứng sâu sắc
trong lòng khán giả.
1 cận cảnh trong chương trình “Cha đẻ của
ATM là ai?” đã làm xúc động nhiều khán giả.
Với những phóng sự linh kiện xen kẽ giữa cuộc trò chuyện, thông
thường có một máy quay và quay phim đi cùng PV để thực hiện những phóng
sự đó. Đây chính là lúc để các quay phim và PV có dịp bộc lộ sự sáng tạo của
mình. Rất nhiều hình ảnh đẹp đã ra đời: hình ảnh một người mù bơi vượt qua
một con sông rộng (trong chương trình Vị ngọt của mía), hình ảnh ngôi nhà
cao nhiều tầng được di chuyển sang vị trí khác (trong chương trình Câu thần
chú của ông Cẩm Luỹ), hình ảnh ấn tượng khi GS. Bác sỹ Nguyễn Tài Thu
châm cây kim dài 1m vào cơ thể người bệnh (trong chương trình Người xoa
dịu những nỗi đau cuộc đời),...
Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận khách quan rằng, do đặc thù của
chương trình là cuộc trò chuyện giữa người dẫn chương trình và nhân vật, hai
người thường ngồi ở bàn, nói chuyện và ít di chuyển nên hình ảnh dễ gây sự
đơn điệu. Chính điều này cũng làm các quay phim trong trường quay cảm
thấy nhàm chán do đó họ “lười” di chuyển máy để tìm những cảnh quay hay
góc quay độc đáo. Vì thế hình ảnh của chương trình trong một thời gian dài ít
95
có tính đột phá.
Khi được hỏi về những cảnh quay của chương trình Người đương
thời, khán giả cũng có những cảm nhận tương tự:
Bảng 2: Nhận xét về cảnh quay của chương trình
Số lƣợng
Tỷ lệ
Cảnh quay
(ngƣời)
(%)
Đẹp
66
23.00
Sáng tạo
41
14.29
Không đẹp
57
19.86
Ý kiến khác
123
42.86
287
100.00
Nguồn: Cuộc điều tra tháng 6/2007
Trong số các khán giả thường xuyên theo dõi chương trình thì có tới
gần 20% cho rằng những cảnh quay là không đẹp. Đây cũng vấn đề cần đặt ra
đối với chương trình Người đương thời để tìm ra giải pháp nâng cao hơn nữa
chất lượng hình ảnh nói riêng cũng như chất lượng chương trình nói chung
nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thưởng thức của công chúng.
* Việc sử dụng ánh sáng trong chƣơng trình Ngƣời đƣơng thời:
Ánh sáng là yếu tố rất quan trọng trong việc ghi hình. Với những
phóng sự và phỏng vấn thực hiện ngoài trời thì nguồn sáng cơ bản là ánh sáng
ngoài trời. Đây là nguồn ánh sáng được cung cấp từ mặt trời. Tính chất của
nguồn sáng này thường thay đổi lớn theo điều kiện thời tiết và thời gian trong
ngày. Vào buổi trưa trời nắng là nguồn ánh sáng trực tiếp mạnh, gây tương
phản lớn. Nếu trời đầy mây mù thì ánh sáng ngoài trời có thể hoàn toàn bị
phân tán. Trong những ngày trời quang nắng tỏ thì ánh sáng trực tiếp của mặt
trời có thể tạo ra những độ đậm nhạt khác nhau của cảnh quay. Ánh nắng mặt
trời chỉ dịu nhất vào đầu buổi sáng hay cuối buổi chiều, khi đó vùng râm
96
trong cảnh quay sẽ nhìn được thấy ở mức tối thiểu nhất, là mức độ tương phản
của cảnh quay hợp lý. Điều quan trọng là người quay phim và PV cần hiểu
được những điều này để sử dụng ánh sáng ngoài trời phù hợp nhất với ý đồ
hình ảnh của mình.
Trong trường quay, ánh sáng càng giữ một vai trò đặc biệt. Ánh
sáng lúc này giữ vai trò quyết định trong việc tạo nên những hình ảnh đẹp, có
tính thẩm mỹ cao. Trong trường quay, thường sử dụng các loại ánh sáng:
- Ánh sáng chủ: là nguồn sáng chính chiếu vào chủ thể.
- Ánh sáng tản: là loại ánh sáng giảm bóng hay sự tương phản tạo ra bởi ánh
sáng chủ.
- Ánh sáng ngược: giúp tạo khối cho chủ thể.
- Ánh sáng phông: để nhận biết một vùng trên phông.
Để tạo ra các loại ánh sáng này, người ta dùng bốn nguồn sáng cơ bản đó là:
- Đèn chủ quang: đây là nguồn sáng chính và tạo hình khối cho chủ thể. Nhờ
sự phân bố thích hợp vị trí của vùng sáng tối mà chủ thể có được chiều sâu
trên một mặt phẳng hình ảnh chỉ có hai chiều. Hãy đặt đèn này trước cảnh quay và ở một góc 450 so với người ngồi. Đèn chủ quang tạo nguồn sáng chủ
đạo vào nhân vật. Đèn chuyển đều về phía phải nhân vật nếu di xhuyển xa
hơn về phía phải sẽ là ánh sáng nửa sang nửa tối.
- Đèn phụ quang: Nếu đèn chủ quang sẽ tạo bóng đổ trên mặt nhân vật thì đẹn
phụ quang sẽ có tác dụng xoá bóng mũi và làm giảm độ tương phản. Đèn phụ
quang phải dịu và yếu hơn đèn chính đề khỏi tạo bóng đổ.
- Đèn ven: Tạo chiều sâu khoảng cách tách nhân vật khỏi phông. Đèn này sẽ
chiếu sáng chủ thể từ phía sau và trên cao, nó thêm ánh sáng ven cho bờ vai
hoặc cánh tay của chủ thể, đồng thời làm cho tóc nổi sáng lên. Nếu chiếu tốt
đèn ven sẽ tạo cho hình ảnh một ấn tượng và chiều sâu rất hấp dẫn. Nếu thấp
97
ống kính bị loá sáng và cũng đừng để đèn ven quá mạnh so với đèn chính.
- Đèn phông: mục đích chiếu sáng hậu cảnh phía sau nhân vật ánh sáng không
được chiếu sáng đồng nhất ở nhiều cường độ khác nhau hoặc tạo hậu cảnh có
chỗ tối, chỗ sáng.
Đối với những người quay phim, việc xử lý ánh sáng hợp lý trong
cảnh quay là yếu tố quyết định đến chất lượng hình ảnh. Vấn đề của người
quay phim không phải là xử lý độ thừa thiếu của ánh sáng mà là lựa chọn ánh
sáng sao cho hợp lý. Ánh sáng đẹp có thể giúp hình ảnh bình thường trở nên
đẹp hơn. giúp những hình ảnh đẹp trở nên rực rỡ, tươi sáng, sống động hơn.
Sử dụng ánh sáng thích hợp có thể nâng cao chất lượng hình ảnh bằng cách
tăng độ sâu cho ảnh, tạo hình khối cho các chủ thể. Ánh sáng có thể tạo ra
một không gian hay một môi trường đặc biệt phù hợp với nội dung cảnh quay
và làm tăng ý đồ nghệ thuật. Người quay phim có thể sử dụng ánh sáng để
khiến một cảnh quay tươi sáng rực rỡ lên hay biến nó thành u buồn, ảm đạm
hơn.
Trong khi thực hiện ghi hình tại trường quay, các kỹ thuật viên của
Đài THVN đã “đánh sáng” theo đúng yêu cầu của đạo diễn. Một dàn đèn
được bố trí ở trên cao hất xuống và hai bên chiếu sang đã khiến sân khấu
Người đương thời trở nên sâu hơn, rộng hơn, lung linh và hấp dẫn hơn. Nhân
vật và người dẫn chương trình cũng vì thế trông rạng rỡ, có hồn hơn. Có
nhiều khán giả, khi đến xem chương trình tại trường quay mới ngỡ ngàng thốt
lên: Sao trên vô tuyến, bối cảnh trông rộng và sâu thế. Tạo độ sâu cho bối
cảnh cũng chính do tác động của ánh sáng sử dụng trong trường quay. Trong
chương trình Kết nối, nhân vật chính là Nguyễn Công Hùng –một chàng trai
bị mắc bệnh nhão cơ, không thể ngồi thẳng lên được. Về cơ thể, về khuôn mặt
của Hùng không được như người bình thường, nó méo mó, xộc xệch rất đáng
98
thương nhưng các kỹ thuật viên đã sử dụng ánh sáng phù hợp với Hùng tạo
nên những hình ảnh của Hùng trên màn ảnh nhỏ khá đẹp và toát lên nghị lực
của một chàng trai tật nguyền.
Tuy nhiên, dù đã có nhiều cải tiến trong việc sử dụng ánh sáng trong
trường quay khi ghi hình chương trình Người đương thời nhưng so với các
chương trình khác, đặc biệt là các chương trình văn nghệ hay trò chơi giải trí
thì ánh sáng sử dụng trong chương trình Người đương thời mới chỉ phát huy
được tác dụng ở mức độ nhất định. Đôi khi, có những chương trình khác nhau
với bối cảnh sân khấu khác nhau, với những nhân vật khác nhau về tuổi tác,
hình thức nhưng vẫn sử dụng một kiểu “đánh sáng”. Điều này đã làm cho
nhiều chương trình không tạo được dấu ấn nổi bật, ấn tượng về mặt hình ảnh.
Nhận xét về ánh sáng trong chương trình có 35,19% khán giả có lời khen ngợi
nhưng cũng có tới 34,15% khán giả chê ánh sáng đơn điệu và chưa đẹp.
Bảng 5: Nhận xét về ánh sáng trong chương trình
Số lƣợng
Tỷ lệ
Ánh sáng
(ngƣời)
(%)
Đẹp, tạo hiệu quả
101
35.19
Đơn điệu, chưa đẹp
98
34.15
Ý kiến khác
88
30.66
Tổng số
287
100.00
Nguồn: Cuộc điều tra tháng 6/2007
* Thiết kế sân khấu tạo phông nền tạo thẩm mỹ cho hình ảnh của chƣơng
trình Ngƣời đƣơng thời:
Bất kỳ một chương trình truyền hình nào khi ghi hình tại trường
quay cũng cần có sân khấu. Sân khấu của mỗi một chương trình được thiết kế
riêng, mang đặc trưng phong cách của chương trình đó. Đối với chương trình
Người đương thời, thiết kế sân khấu luôn có sự thay đổi phù hợp với nội dung
99
của từng cuộc gặp gỡ, trò chuyện. Bộ phận mỹ thuật của Đài THVN chịu
trách nhiệm thiết kế và trang trí sân khấu cho chương trình. Sâu khấu của
chương trình Người đương thời tính đến hết năm 2006 đã có ba lần thay đổi
thiết kế. Sân khấu được thiết kế theo hình tròn để máy quay có thể bắt hình
các nhân vật một cách thuận tiện. Phông màn sân khấu ngoài lôgô chương
trình Người đương thời còn có biểu tượng của Đài THVN và đơn vị tài trợ.
Ngoài ra, sân khấu cũng dành không gian để trang trí những hiện vật, những
chi tiết hoặc những hình ảnh có liên quan đến nội dung phát sóng của mỗi
chương trình. Ví dụ như trong buổi ghi hình về chị Lữ Thị Hoa, người dân tộc
Thái, Bí thư Đảng uỷ huyện Con Cuông, Nghệ An, chị là người vực dậy một
làng nghề, đưa sản phẩm dệt thổ cẩm truyền thống của người Thái giới thiệu
ra thị trường và gặt hái được nhiều thành công. Sân khấu của buổi ghi hình
được bài trí rất đẹp mắt bởi những tấm lụa Thái với nhiều hoa văn độc đáo,
những chiếc gối, những chiếc khăn phiêu,...Nhờ đó, người dẫn có thể giới
thiệu với khán giả về vẻ đẹp của văn hoá dân tộc Thái để từ đó đi vào câu
chuyện một cách tự nhiên, sinh động.
Việc thiết kế sâu khấu phù hợp sẽ tạo nên cái tầm của chương trình
thông qua hiệu ứng cao xa và rộng của sân khấu. Bên cạnh đó, các thiết kế sân
khấu sẽ giúp khán giả ngay lập tức nắm được tinh thần của buổi trò chuyện và
những nhân vật sẽ xuất hiện trong cuộc trò chuyện đó. Một thiết kế sân khấu
phù hợp sẽ tạo ra một không gian trò chuyện thân mật, thoải mái, cởi mở, dễ
dàng giữa người dẫn chương trình với nhân vật và khán giả. Trong chương
trình Tiếng gọi của quê hương trò chuyện với ông Phan Thành, một Việt kiều
rất nặng lòng với nơi chôn rau cắt rốn, đã trở về góp sức xây dựng quê hương.
Ông đã trở thành chiếc cầu nối giữa đất Mẹ với những đứa con xa xứ. Sân
khấu của chương trình này được thiết kế rất đẹp và phù hợp với nội dung
chương trình: sân khấu đã mô phỏng một khu vườn có hàng cau, vườn hoa,
100
cây cầu, bến nước, một ngôi nhà mái lá với ánh nắng mặt trời nghiêng
nghiêng soi rọi. Đứng trên sân khấu này, nhân vật có cảm giác hoà mình vào
lòng đất Mẹ. Khán giả cũng cảm thấy một sự bình yên, ấm cúng của làng quê.
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, việc thiết kế sân khấu của
chương trình Người đương thời đôi khi còn cứng nhắc và thiếu sáng tạo. Các
thiết kế sân khấu ít được thay đổi. Hạn chế này cũng bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân mà nguyên nhân cơ bản là nhân lực đảm nhận công việc thiết kế
sân khấu còn thiếu, yếu và nguồn tài chính dành cho việc thiết kế này không
nhiều.
Khi được hỏi về thiết kế sâu khấu của chương trình Người đương
thời, có tới hơn 17% khán giả nhận xét sân khấu của chương trình còn đơn
điệu và lặp lại:
Bảng 3: Nhận xét về Sân khấu của chương trình
Số lƣợng
Tỷ lệ
Sân khấu
(ngƣời)
(%)
Đẹp, phù hợp
92
32.06
Sáng tạo
32
11.15
Đơn điệu, lặp lại
49
17.07
Ý kiến khác
114
39.72
Tổng số
287
100.00
Nguồn: Cuộc điều tra tháng 6/2007
*. Khả năng tạo dựng phong cách của đối tƣợng phản ánh qua các thủ
pháp mỹ học hình ảnh (trang phục, trang điểm, phong cách):
Khi xuất hiện trên sân khấu và trở thành đối tượng được thu hình thì
nhân vật cũng như người dẫn chương trình cần chuẩn bị cho mình những yếu
tố cần thiết nhất để tạo được những hình ảnh đẹp. Ánh sáng đẹp, sân khấu
đẹp, góc quay, cỡ cảnh đều hợp lý nhưng con người mà không đẹp thì không
101
thể có được hình ảnh đẹp. Con người luôn là trung tâm trong bố cục hình ảnh,
nhất là với một tác phẩm Ký chân dung. Một hình ảnh đẹp về con người
không chỉ là một khuôn hình đẹp, cân đối về bố cục mà quan trọng hơn là
hình ảnh đó có khả năng biểu cảm và thể hiện chiều sâu thông tin về con
người đó. Không chỉ có vẻ đẹp bên ngoài của đối tượng được phản ánh, quan
trọng hơn là việc ghi lại được những khoảnh khắc hình ảnh mà ở đó vẻ đẹp
nội tâm và cá tính của nhân vật được toả sáng. Việc lựa chọn trang phục, cách
trang điểm, phong cách cũng góp phần tạo nên tính cách con người và góp
phần tạo nên những hình ảnh đẹp.
Hình ảnh người dẫn chương trình Tạ Bích Loan trong “Người đương thời”
Trong thời gian qua, những người thực hiện chương trình Người
đương thời đã rất nỗ lực trong việc tạo dựng những hình ảnh đẹp từ các yếu tố
trang phục, trang điểm. Người dẫn chương trình đã cố gắng tự làm mới mình
về mặt hình thức bằng cách thức trang điểm và trang phục. Do tính chất
nghiêm túc của chương trình, trang phục người dẫn chương trình lựa chọn chủ
yếu là áo dài hoặc váy áo dạng vest với nhiều màu sắc. Và đa số khán giả
đánh giá cách trang điểm và trang phục của người dẫn là tương đối phù hợp
với chương trình.
Nếu như ở các chương trình truyền hình khác, đặc biệt là các
chương trình ca nhạc, văn nghệ, yếu tố trang phục, trang điểm hay phong cách
biểu diễn rất được chú ý thì với Người đương thời đây lại là một điểm chưa
được quan tâm đúng mức. Người dẫn chương trình hay ca sỹ ở các chương
trình ca nhạc rất được quan tâm về trang phục, trang điểm, thậm chí còn có
102
những chuyên gia chuyên thiết kế trang phục hợp với cơ thể ca sỹ hoặc trang
điểm theo những cách khác nhau để tôn lên vẻ đẹp của ca sỹ hay người dẫn.
Nhưng ở chương trình Người đương thời lại khác. Đối với nhân vật là khách
mời, chuyện trang phục và trang điểm của họ hầu như đều do họ tự quyết
định. Với các khách mời là nam thì hầu như không trang điểm, còn trang phục
thì họ thích gì mặc nấy nhiều khi tạo nên những hiệu ứng hình ảnh không tốt.
Có thể nước da họ đen quá, có thể màu áo sơ mi họ mặc trắng quá làm “lốp
sáng”, có thể màu trang phục của họ lại trùng với màu phông nền, sân khấu
nên không nổi bật được hình ảnh của nhân vật,...Từ trước tới nay, trong êkíp
thực hiện chương trình Người đương thời chưa có ai đảm nhận nhiệm vụ nhắc
nhở và tư vấn về trang phục, trang điểm cho khách mời cho nên mới xảy ra
tình trạng lộn xộn, lung tung như vậy. Ngay đến cả người dẫn chương trình,
mặc dù đã có chuyên gia trang điểm của Đài THVN đảm bảo cho việc lên
hình được đẹp nhưng trang phục của người dẫn vẫn phải tự lo. Vì thế trang
phục của người dẫn chương trình không tránh khỏi sự lặp lại, đơn điệu. Đôi
khi, chính người dẫn chương trình hay nhân vật quá say mê vào câu chuyện
mà quên mất hình thức bên ngoài của mình khiến quay phim cũng như đạo
diễn hình khá khó khăn trong việc tạo nên những hình ảnh đẹp.
Bảng 7: Nhận xét về trang phục, trang điểm của người dẫn chương trình
Trang phục, trang điểm
Số lƣợng (ngƣời)
Tỷ lệ (%)
242
84.32
Phù hợp
45
15.68
Không phù hợp
287
100.00
Tổng số
Nguồn: Cuộc điều tra tháng 6/2007 * Tăng tính thẩm mỹ của các hình ảnh bằng cách sử dụng các kỹ xảo khi
dựng hình:
Dựng hình là một thuật ngữ quen thuộc trong khâu biên tập nội
103
dung một tác phẩm truyền hình, có ý nghĩa là một thủ pháp lôgíc hoá trật từ
hình ảnh. Thông qua thủ pháp này, tác giả có thể thổi vào tác phẩm những ý
tưởng khác nhau, những hiệu quả tiếp nhận khác nhau theo những quy luật
nhất định.
Dựng hình còn là sự chắp nối những ý tưởng rời rạc, những tưởng là
không có mối liên hệ nào với nhau, thành một chuỗi thông tin nhất định. Các
thông tin từ hình ảnh, âm thanh, tiếng động trong băng tư liệu được sắp xếp
theo các thủ pháp như tương phản, xen kẽ, đối lập, song hành,...sẽ trở thành
một thông tin mới có sức thuyết phục rất cao và trong nhiều trường hợp nói
tạo ra những hiệu quả tâm lý tiếp nhận đặc biệt nhờ tính không xác định của
hình ảnh.
Dựng hình giúp cắt xén được những sự trùng lặp, rườm rà, sai
sót...không cần thiết, rút ngắn thời gian thật xảy ra sự kiện, đảm bảo tính liên
tục của không gian, thời gian. Với việc dựng hình, các BTV cũng đưa được
vào chương trình những chi tiết đắt về nhân vật, những yếu tố mới lạ, hấp
dẫn, những phát hiện và sáng tạo mà kịch bản phác thảo, thể hiện được tính
sáng tạo, công phu của chương trình.
Dựng là một lối hành văn của ngôn ngữ hình ảnh, có các câu dựng,
trường đoạn dựng, tiết tấu dựng,...
Khi dựng băng thành phẩm, các kỹ xảo đóng góp một phần không
nhỏ tạo nên tính mỹ học hình ảnh của chương trình khi phát sóng. Kỹ xảo là
thuật ngữ dùng để chỉ những cách nhằm xử lý hình ảnh và âm thanh theo mục
đích của người làm truyền hình. Có một số kỹ xảo hình ảnh đặc biệt như:
chồng mờ, pause hình, làm nhanh, làm chậm hình,...
- Chồng mờ: là một kỹ xảo đễ được chấp nhận nhất trong khi dựng hình. Nó
đặc biệt được sử dụng nhiều trong bối cảnh có quá khứ đan xen với hiện tại.
- Những ráp nối (raccord) được người kỹ thuật dựng xử lý theo ý đồ của đạo
104
diễn. Người dựng phim sẽ cố gáng tìm những ráp nối hình ảnh sao cho hợp lý
giữa quá khứ và hiện tại, hợp lý trong không gian và thời gian, tìm cách
chuyển cảnh sao cho ngọt ngào, đúng trục. Đó là những nỗ lực lớn khi dựng
băng vì khi ghi hình có nhiều cảnh quay, nhiều chi tiết bị bỏ sót hoặc vì lý do
nào đó không thể thực hiện được.
- Hiện hình và nói cùng một lúc (Synchrone): kỹ xảo ngày mang lại những
hiệu quả không ngờ nếu súc tích, hợp người, hợp không gian và thời gian thể
hiện, tạo sự gần gũi giữa nhân vật và khán giả.
Các kỹ xảo về hình ảnh được sử dụng hợp lý sẽ tạo nên hiệu quả rất
lớn. Ví dụ như trong chương trình Gặp gỡ ông Fumio Kikuchi - đại diện của
tổ chức JICA (Nhật Bản) tại Việt Nam. Một trong những đóng góp to lớn của
ông đối với Việt Nam là cải thiện tình trạng giao thông hỗn loạn ở nước ta
bằng cách phân luồng xe và dùng tín hiệu đèn thời gian. Khi dựng băng, BTV
đã sử dụng kỹ xảo song hành: dựng song song hai hình ảnh giao thông Việt
Nam trước và sau khi phân luồng để thấy rõ hiệu quả của việc làm này. Với
kỹ xảo này, khán giả có thể nhận thấy rất rõ điểm khác biệt giữa hai hình ảnh:
một bên rất lộn xộn, người và xe chạy lung tung không theo hàng lối; một bên
là hình ảnh xe và người nối đuôi nhau đi theo những vạch đường đã được
phân luồng. Hay trong chương trình Gặp gỡ thầy giáo Đỗ Việt Khoa, trong
khi thầy Khoa đang kể lại câu chuyện tiêu cực trong thi cử tại hội đồng thi
Phú Xuyên A thì BTV sử dụng kỹ xảo lồng tiếng nói của thầy Khoa với hình
ảnh gian lận trong thi cử mà thầy Khoa đã quay được. Với kỹ xảo này, khán
giả có thể hình dung rất rõ ràng sự việc xảy ra như thế nào và chứng tỏ những
lời thầy Khoa nói ra là có bằng chứng rõ ràng.
Hầu như, trong mọi chương trình Người đương thời khi dựng băng
thành phẩm, các BTV đều sử dụng các kỹ xảo để tăng hiệu quả hình ảnh và
âm thanh. Các hình ảnh thô khi ghi hình ở trường quay đã được gọt giũa, chau
105
chuốt tạo nên những hình ảnh đẹp hơn, sinh động hơn, gần gũi và sát với nội
dung cuộc trò chuyện hơn. Tuy nhiên, một kinh nghiệm được rút ra đối với
các BTV khi dựng hình đó là không nên lạm dụng các kỹ xảo gây phản cảm
cho người xem.
Tiểu kết chƣơng 2:
Người đương thời là một tác phẩm Ký chân dung nên trung tâm
của tác phẩm chính là con người - những con người nổi bật trong xã hội với
những việc làm đáng để người khác học tập, noi theo. Đây là những người
thật việc thật đáp ứng được sự quan tâm của công chúng.
Đặc biệt hơn, Người đương thời là một tác phẩm Ký chân dung
trên truyền hình do đó nó được sản xuất theo quy trình của truyền hình từ
khâu tìm đề tài, tìm nhân vật, tìm hiểu thông tin về nhân vật, xây dựng kịch
bản, dự trù kinh phí, tính toán yếu tố khả thi đến ghi hình ngoại cảnh, ghi hình
trong trường quay và thực hiện các công tác hậu kỳ. Với đặc trưng của truyền
hình, để thực hiện chương trình cần cả một êkíp với rất nhiều người và nhiều
vị trí công việc khác nhau. Một thông tin cốt lõi trong tác phẩm báo chí dạng
này phải diễn đạt bằng ngôn ngữ của hình ảnh và âm thanh, qua nhiều công
đoạn phức tạp và tốn kém hơn nhiều so với việc thực hiện một tác phẩm Ký
chân dung trên báo in.
Với sự tìm kiếm, lựa chọn kỹ càng, công phu về đề tài cũng như
nhân vật, Người đương thời đã để lại ấn tượng sâm đậm trong lòng công
chúng với nội dung sâu sắc, bổ ích, cảm động. Tính nhân văn là ưu điểm nổi
bật nhất của Người đương thời. Ở đây, khán giả tìm thấy những giá trị tốt đẹp,
cao quý trong cuộc đời và tự rút ra cho mình những bài học quý giá để sống
ngày càng tốt hơn, thành công hơn.
Người đương thời còn là một tác phẩm nghệ thuật bởi nó diễn tả
106
một nội dung nhân văn, sâu sắc bằng cái đẹp của hình ảnh và âm thanh. Mỹ
học hình ảnh mà Người đương thời có được là kết quả lao động sáng tạo của
nhiều bộ phận: đạo diễn, PV, BTV, người quay phim, kỹ thuật viên, người
thiết kế và bày trí sân khấu, chuyên gia trang điểm, chuyên gia trang phục,...
Những con người trong êkíp thực hiện chương trình đã gắn bó, đoàn
kết và nỗ lực hết sức để sáng tạo nên tác phẩm Ký chân dung trên truyền hình
Người đương thời. Nó ghi nhận những đóng góp của mọi thành viên. Đó là
thành quả của cả một tập thể. Và quan trọng hơn Người đương thời đã được
công chúng đón nhận với tình cảm hết sức nhiệt thành. Người đương thời đã
thực sự trở thành một thương hiệu truyền hình có giá trị.
Qua hơn 7 năm tồn tại và phát triển, chương trình Người đương thời
đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá đặc biệt là đối với việc xây dựng
107
thương hiệu một tác phẩm Ký chân dung trên truyền hình.
CHƢƠNG 3
XÂY DỰNG THƢƠNG HIỆU NGƢỜI ĐƢƠNG THỜI:
BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP TỪ GÓC NHÌN PR
Qua 7 năm tồn tại và phát triển, Người đương thời đã trở thành một
thương hiệu có giá trị trong lòng công chúng nghe nhìn. Nhắc đến Người
đương thời, khán giả nhớ ngay đến chương trình về những tấm gương điển
hình tiên tiến trong xã hội. Chỉ cần thấy MC Tạ Bích Loan hay logo hình hiệu
của chương trình, chỉ cần nghe nhạc hiệu, khán giả biết ngay đó là chương
trình Người đương thời. Nhiều khán giả chờ đợi đến đúng 20h tối chủ nhật
hàng tuần để đón xem Người đương thời. Người đương thời đã trở thành món
ăn tinh thần không thể thiếu của nhiều khán giả truyền hình. Người đương
thời trở thành một thương hiệu mạnh.
Theo định nghĩa ở trang đại từ điển trên mạng www.wikipedia.org
thì “thương hiệu là hiện thân của tất cả thông tin liên quan đến sản phẩm hay
dịch vụ. Một thương hiệu được đặc trưng bởi tên, logo và các thành phần cơ
bản có liên quan đến thị giác như: hình ảnh, font chữ, màu sắc hay các biểu
tượng. Nó cũng bao gồm những liên tưởng, mong đợi xuất hiện trong tâm trí
khách hàng khi nghĩ đến những sản phẩm hay dịch vụ đó”. Với Charles
Brymer, CEO của Interbrand Scheter thì “thương hiệu đại diện cho một sự
cuốn hút, tổng thể giá trị hay những thuộc tính khác biệt nhất định” [48].
Người đương thời đã có đầy đủ các yếu tố cấu thành một thương hiệu nhưng
điều quan trọng hơn đó là trong số rất nhiều KCDTH, Người đương thời đã để
lại dấu ấn sâu đậm trong lòng công chúng, vươn lên trở thành một thương
hiệu mạnh. Theo Venture Beblic thì những thành phần, yếu tố cấu thành và
108
đánh giá một thương hiệu mạnh là:
Thƣơng hiệu mạnh bao gồm 2 yếu tố căn bản
A. Niềm tin thương hiệu (brand promise) B. Sự truyền đạt
Tính chất thương hiệu (brand essence) Tính năng sản phẩm, lợi ích và giá trị
Bản chất thương hiệu (brand identity) Tổ chức và phân phối kênh bán lẻ
Định vị thương hiệu (brand position)
Tính chất:
- Niềm tin và sự truyền đạt phải cân bằng với nhau
- Sự độc đáo và sự khác biệt là hai yếu tố căn bản
- Sự thống nhất trong suốt toàn bộ sản phẩm, thị trường, tổ chức và các nền văn hoá
- Có hệ thống quản lý và sản xuất tốt
- Luôn có sự quản lý sâu sát từ cấp trên và thống nhất đồng bộ
Theo nguồn: www.lantabrand.com
Nếu soi vào bảng trên thì Người đương thời có nhiều yếu tố cấu
thành một thương hiệu mạnh. Và thực tế đã minh chứng Người đương thời là
một thương hiệu có giá trị. Để trở thành một thương hiệu mạnh, cũng như
nhiều chương trình truyền hình khác, Người đương thời đã có cả một quá
trình xây dựng thương hiệu: từ việc xác định cấu trúc nền móng của thương
hiệu, định vị thương hiệu, xây dựng chiến lược thương hiệu đến việc xây
dựng chiến lược truyền thông, đo lường và điều chỉnh kế hoạch truyền
thông,...Trong đó PR là một công cụ hữu hiệu nhất trong quá trình xây dựng
và quảng bá thương hiệu.
PR (Public Relations dịch sang Tiếng Việt là Quan hệ công chúng)
là “việc quản lý truyền thông để xây dựng, duy trì mối quan hệ tốt đẹp và sự
hiểu biết lẫn nhau giữa một tổ chức, một cá nhân, tạo ra hình ảnh và thông tin
tích cực với mục đích quảng bá, gây ảnh hưởng có lợi trong công chúng của
họ” [4, 16]. Do đó, PR cần thiết với bất cứ ai, đó có thể là một cá nhân, một
109
doanh nghiệp, tổ chức hay một đất nước, châu lục,...Trong nền kinh tế thị
trường cạnh tranh khốc liệt, doanh nghiệp là những đối tượng đầu tiên hiểu
được vai trò, ý nghĩa của PR và tiến hành làm PR cho mình. Song đối với
ngành báo chí, nhất là đối với truyền hình, nhận thức về vai trò của PR lại
muộn hơn. Từ khi báo chí nói chung, truyền hình nói riêng không chỉ còn là
“một hình thức hoạt động thông tin” hay “là công cụ phục vụ tích cực cho
công tác tuyên truyền” mà xét ở góc độ nào đó là “một loại hàng hoá đặc
biệt”, có sự cạnh tranh để tồn tại và giành giật thị trường thì PR được coi
trọng hơn trước. PR trở thành một trong những công cụ hữu hiệu nhất để tạo
dựng, duy trì và phát triển thương hiệu của một tác phẩm truyền hình. Trong
khuôn khổ luận văn, chúng tôi mạnh dạn đưa ra góc nhìn PR trong việc tổng
kết và đánh giá những bài học kinh nghiệm quý giá của chương trình Người
đương thời cũng như đề xuất giải pháp xây dựng thương hiệu mạnh cho một
chương trình truyền hình.
3.1. Bài học kinh nghiệm từ việc xây dựng thƣơng hiệu Ngƣời đƣơng thời:
3.1.1. Nhân vật - mấu chốt tạo nên thành công thƣơng hiệu Ngƣời đƣơng thời:
Chuyên mục Người đương thời là một hệ thống các tác phẩm Ký
chân dung về những gương Người tốt - Việc tốt. Mỗi con người là cốt lõi của
từng chương trình. Nhắc đến Người đương thời, khán giả nhớ đến những con
người, những nhân vật cụ thể. Thành công của thương hiệu Người đương thời
gắn liền với nghệ thuật tìm kiếm, lựa chọn và khai thác thông tin từ nhân vật.
Những bài học kinh nghiệm được đúc rút ra là:
Thứ nhất, những người thực hiện chương trình phải luôn soi vào tiêu
chí của chuyên mục trong khi lựa chọn nhân vật. Điều này sẽ đảm bảo một sự
nhất quán của chuyên mục, giữ vững bản sắc, cá tính riêng của chuyên mục.
Cần tránh sa đà vào những nhân vật nổi tiếng, rất được công chúng quan tâm.
Đó có thể là nhân vật hấp dẫn khán giả nhưng sự đóng góp cho xã hội của họ
110
không nhiều. Không được vì những bài báo ca ngợi hay phản bác trước đó mà
quyết định lựa chọn hay từ chối một nhân vật. Những bài viết đó chỉ mang
tính tham khảo, sự quyết định phải nằm ở những thông tin mà PV, BTV của
chương trình trực tiếp thu thập được.Việc lựa chọn nhân vật phải hoàn toàn
khách quan, vô tư, dựa vào những đóng góp của nhân vật với xã hội, rất cẩn
thận với những nhân vật muốn đánh bóng bản thân hoặc doanh nghiệp của
mình. Thận trong khi quyết định số lượng nhân vật sẽ lên giao lưu và những
nhân chứng xung quanh nhân vật đó để tránh sự nhàm chán và dàn trải về nội
dung và không khí buổi giao lưu, trò chuyện. Với đặc trưng của một tác phẩm
KCDTH, yêu cầu đạt chất lượng về cả hình ảnh và âm thanh, những nhân vật
được chọn cần phải có khả năng giao tiếp tốt trước ống kính máy quay, mạnh
dạn, tự tin bày tỏ, chia sẻ những câu chuyện của mình.
Thứ hai, thông tin về nhân vật phải được thu thập qua nhiều nguồn
tài liệu khác nhau: qua các bài báo đã viết về nhân vật, các cuộc trả lời phỏng
vấn của nhân vật trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo in, báo nói,
báo hình, báo điện tử); qua các cuốn sách của chính nhân vật hoặc của các tác
giả khác viết về nhân vật; qua những con người có liên quan đến nhân vật (bố
mẹ, anh em, họ hàng, làng xóm, đồng nghiệp, thậm chí cả những người đối
đầu hoặc có thành kiến với nhân vật,...). Có như vậy, thông tin thu nhận mới
thật sự khách quan, toàn diện, nhiều chiều và chương trình mới có thể tìm ra
những điểm mấu chốt, những điểm hay trong cuộc trò chuyện với nhân vật.
Những ý kiến trái chiều nên đặc biệt được xem trọng. Điều này giúp
hiểu rõ hơn về nhân vật, giúp phát hiện những ý hay để đặt câu hỏi với nhân
vật tạo sự bất ngờ, hấp dẫn cho cuộc trò chuyện.
Chú ý tìm kiếm những con người liên quan có thể trở thành nhân vật
bất ngờ trong chuyên mục.
Chú ý tới tất cả những kỷ vật, đồ đạc có liên quan đặc biệt đến nhân
111
vật, những đồ vật này có thể trở thành điểm nhấn của chương trình.
Trong cuộc gặp gỡ trực tiếp của PV chương trình với nhân vật để
tìm hiểu thông tin về nhân vật trước khi quyết định họ trở thành khách mời
của chương trình, có rất nhiều điểm lưu ý mà các PV, BTV đều có thể rút
kinh nghiệm cho mình. PV cần phải có kỹ năng khai thác thông tin, đặc biệt
với những người không thích bộc lộ mình. PV nên gặp gỡ, trò chuyện với
nhân vật trong không gian và thời gian mà nhân vật có thể bộc lộ được con
người, tính cách, lối sống, cách suy nghĩ thật của mình. PV nên sử dụng máy
ghi âm (nếu được sự đồng ý của nhân vật) và ghi chép cẩn thận những thông
tin thu được để làm nguyên liệu cho việc xây dựng kịch bản sau này. Sau khi
trò chuyện với nhân vật chính và khai thác những thông tin về nhân vật chính,
PV nên tiếp tục gặp gỡ và trò chuyện với những nhân vật có liên quan (có thể
nhân vật chính đã đề cập tới,...) để tìm hiểu sâu hơn về nhân vật chính và xác
định mức độ tham gia của những nhân vật phụ này trong chương trình (gặp gỡ
tại trường quay hay ghi băng)
3.1.2. Thƣơng hiệu Ngƣời đƣơng thời gắn liền với chất lƣợng chƣơng trình:
Chất lượng chương trình Người đương thời được tạo bởi những yếu
tố cơ bản sau:
* Nghệ thuật xây dựng sự khác biệt trong kịch bản:
Kịch bản cần được xây dựng trên cơ sở những thông tin thu thập
được về nhân vật chính để tạo sự tập trung, nhất quán trong kịch bản. Yêu cầu
đầu tiên của người viết kịch bản là phải tạo được mối liên hệ giữa các thành
phần, các nhân tố ngay từ trong kịch bản để tạo ra được một chỉnh thể thống
nhất về mặt nội dung cũng như hình thức thể hiện của mỗi chương trình.
Khi xây dựng kịch bản, cần có sự đóng góp của toàn bộ êkíp. Rất
nhiều ý tưởng hay, độc đáo, sâu sắc đã xuất hiện từ những cuộc họp tập thể
112
này. Những cuộc họp như thế này sẽ khuyến khích và phát huy tính sáng tạo
của từng cá nhân. Tuy nhiên vẫn cần một người cầm trịch để đưa những ý
tưởng đó đi đúng hướng.
Không nên có kịch bản đóng khung cứng nhắc. Kịch bản bao giờ
cũng phải để dành một khoảng không cho sự thể hiện tiếp theo của một tập
thể sáng tạo. Có những yếu tố trong kịch bản có thể thay đổi (câu hỏi phỏng
vấn, thứ tự, tình tiết, cảnh quay, âm thanh,...) với mục đích tạo nên một
chương trình thực sự sâu sắc, cảm động, hấp dẫn. Xây dựng một “kịch bản
mở” là điều rất cần thiết.
Không nên xây dựng kịch bản theo tuần tự thời gian, hoặc cuộc đời
của nhân vật, sẽ rất dễ tạo sự nhàm chán, tẻ nhạt. Nên tạo những điểm nhấn
trong kịch bản.
Thông tin về nhân vật có thể rất nhiều nhưng quan trọng là BTV,
PV phải tìm được những điểm đắt nhất, những chi tiết đáng giá nhất để đưa
vào kịch bản. Trong kịch bản không nên tham lam, ôm đồm, đưa tất cả mọi
thông tin có được về nhân vật, nhất là khi thời lượng chương trình bị khống
chế. Trong rất nhiều những thông tin có được đó, người viết phải viết chọn
lựa những chi tiết nào là điểm độc đáo, của riêng nhân vật để tránh những cái
nhàn nhạt, chung chung, giống như mọi người.
Một yêu cầu rất quan trọng nữa của việc xây dựng kịch bản đó là
việc thể hiện tác phẩm bằng văn bản phải có sự tính toán rất cẩn thận để nâng
cao tính khả thi của tác phẩm. Mọi chi tiết cần làm sáng tỏ, cần tìm hiểu trong
tác phẩm Người đương thời nhất thiết phải tính đến khả năng ghi hình, khả
năng khai thác tư liệu hoặc có những nhân chứng, vật chứng cụ thể và chính
xác.
Trong quy trình sáng tạo một tác phẩm truyền hình thì kịch bản
chính là sợi dây liên kết các thành viên trong êkíp làm việc với nhau, đây
113
không phải là sự hạn chế năng lực sáng tạo cá nhân nhưng đó là sự sáng tạo
theo một hướng chung mà người đạo diễn đưa ra. Sự thống nhất với các thành
viên trong êkíp làm việc về kịch bản là tiền đề cho sự thống nhất các khâu còn
lại của toàn bộ quá trình thực hiện tác phẩm. Người đạo diễn căn cứ vào kịch
bản để phân định công việc cụ thể cho từng người và cũng căn cứ vào đó để
kiểm tra, đôn đốc, đánh giá vị trí, định mức của mỗi cá nhân trong tác phẩm
một cách công bằng nhất. Nếu trong quá trình sáng tạo Người đương thời,
một cá nhân nào đó không thực hiện đúng yêu cầu thì tự họ đã làm lệch lạc
vấn đề đã được thống nhất ở kịch bản và làm như vậy có thể dẫn đến những
hư hỏng chủ để lớn của tác phẩm. Ví dụ, người được giao làm phóng sự với
một ý tưởng đặc biệt nào đó nhưng họ đã không đạt yêu cầu. Trong chương
trình “Những người còn lại” Người đương thời số 34, đạo diễn chương trình
muốn có hình ảnh anh thương binh Thành với đôi chân giả gánh nước tưới
những bông hoa. Sự tương phản giữa bông hoa và đôi chân của anh sẽ nói lên
ý nghĩa cuộc sống của những người biết vượt qua những thiệt thòi của bản
thân để làm đẹp cho cuộc đời, nhưng ý tưởng đó đã không thực hiện được.
Một kịch bản được đưa vào sản xuất khi và chỉ khi đã được phê
duyệt. Đây là một yêu cầu bắt buộc đối với những người làm báo truyền hình
vì như vậy nó thể hiện được sự thống nhất lãnh đạo từ trên xuống dưới. Người
làm công tác quản lý thông qua đó nắm bắt được những vấn đề cần thiết phục
vụ cho công tác kiểm tra, giám sát và quản lý các thành viên của mình. Đồng
thời khi một kịch bản được phê duyệt và cho phép sản xuất đồng nghĩa với sự
đảm bảo khép kín cả một quy trình sản xuất đó đảm bảo được phát sóng. Từ
lúc này, Người đương thời không còn là tác phẩm của cá nhân nữa, của một
êkíp chương trình nữa mà nó đã là sản phẩm của một cơ quan báo chí và do
cơ quan ấy chịu trách nhiệm.
Khi kịch bản được phê duyệt và cho phép sản xuất thì chính tác
114
phẩm đã đi vào tập thể một cách có tổ chức. Để sáng tạo chương trình Người
đương thời đòi hỏi sự đầu tư rất lớn về người, về trang thiết bị kỹ thuật,
phương tiện và thời gian, cho nên khi được duyệt thì người đạo diễn cũng
nhận được sự giúp đỡ của tất cả các yếu tố đó để có thể hoàn thành tác phẩm
của mình. Lúc này, mọi cá nhân, mọi lực lượng kỹ thuật tham gia thực hiện
tác phẩm đều thống nhất dưới sự chỉ đạo của một cá nhân cụ thể và kịch bản
chính là nhân tố liên kết họ với nhau, chi phối, giám sát và là điều kiện để
ràng buộc nhau.
Lồng rắn và hồng xiêm 1 đoạn ruột mèo Phim X-quang
Nhật ký(là những đạo cụ được sử dụng trong các chương trình Ngƣời đƣơng thời)
* Nghệ thuật sử dụng đạo cụ:
Người đương thời là một chương trình sử dụng khá nhiều đạo cụ.
Hầu như ở chương trình nào các đạo cụ cũng được đưa ra. Đó là những vật kỷ
niệm của nhân vật hoặc những bức hình, những đồ vật gợi nhớ đến một sự
kiện nào đó đã diễn ra. Và hiệu quả của việc sử dụng những đạo cụ này thể
hiện rất rõ trong chương trình Người đương thời. Một quả cam đã gợi biết bao
câu chuyện cảm động của GS. Bác sỹ Nguyễn Tài Thu: khi còn tham gia
chiến đấu trên chiến trường, bác sỹ Thu lả đi vì đói khát thì chính những giọt
nước cam mà người đồng đội vắt vào miệng ông đã giúp ông tỉnh lại; và cũng
chính quả cam là loại quả ông đã vắt nước cho một người thương binh nặng
115
uống trước khi lìa đời. Một con rắn xuất hiện ở trường quay đã khiến GS. bác
sỹ Vũ Văn Đính nhớ lại ca cấp cứu một bé trai đang trong cơn thập tử nhất
sinh vì bị rắn độc cắn,...
Chính những đồ vật này đã gợi mở rất tự nhiên nhiều câu chuyện
cảm động mà nhân vật chưa kịp chia sẻ. Do đó, việc sử dụng đạo cụ trong một
tác phẩm KCDTH là rất cần thiết. Những đạo cụ này gắn liền với nhân vật,
thậm chí là máu thịt với nhân vật. Khi nó xuất hiện sẽ tạo cho nhân vật những
cảm xúc bất ngờ rất thú vị. Vì vậy, trong khi tìm hiểu về nhân vật, những
người thực hiện chương trình nên cố gắng tìm hiểu những đồ vật, những kỷ
niệm có liên quan đến nhân vật để là nguyên liệu cho tác phẩm sau này.
* Nghệ thuật làm hậu kỳ hoàn tất tác phẩm:
Khâu hậu kỳ là khâu sau cùng của một quy trình sản xuất. Đây là
khâu tái hiện lại ý tưởng ban đầu tác phẩm truyền hình theo trật tự hình ảnh
và âm thanh một các lô gíc. Nếu khâu tiền kỳ và ghi hình được coi là khâu
“tạo bột” thì khâu hậu kỳ chính là khâu “gột hồ”.
Trong khâu hậu kỳ, vai trò của người BTV là chủ đạo. Do đó, BTV
cần có kinh nghiệm và năng lực chuyên môn, đồng thời phải rất khéo léo phối
hợp với kỹ thuật viên để thể hiện được ý đồ kịch bản. Trong khâu hậu kỳ, một
BTV tồi sẽ không thể cho ra một tác phẩm ưng ý, thậm chí không tái hiện
được cả chính những ý tưởng của mình. Ngược lại, một BTV giỏi là người
đảm trách được hết những vấn đề cần giải quyết nhằm đưa ra một tác phẩm
truyền hình có ý nghĩa, không chỉ sâu sắc về nội dung mà còn có tính thẩm
mỹ về hình thức.
Trong khâu hậu kỳ, để hoàn thành một tác phẩm truyền hình cần có
sự góp sức rất lớn của kỹ thuật. Nếu BTV tự xử lý được kỹ thuật là điều tốt
nhất vì có thể thể hiện đầy đủ những ý tưởng, tâm tư, tình cảm của chính
mình. Nhưng do quá trình phân công công việc được chuyên môn hoá nên
116
phần kỹ thuật này thường được một kỹ thuật viên đảm nhận. BTV cần có sự
phối hợp ăn ý, nhịp nhàng với người kỹ thuật viên để thể hiện hiệu quả nhất ý
đồ của mình. Một kinh nghiệm được đưa ra đối với các BTV chương trình là
cần học hỏi và có những kiến thức nhất định về mặt kỹ thuật dựng hình để
phối hợp tốt nhất với kỹ thuật viên.
Trong khi dựng băng thành phẩm, BTV cũng như kỹ thuật viên cần
có cảm thụ nghệ thuật. Công việc dựng băng không chỉ là sự ráp nối hình ảnh
đơn thuần. Nó là sự phối hợp của nhiều yếu tố mang tính nghệ thuật cao.
Những người thực hiện có cảm thụ về nghệ thuật mới có thể tạo ra những tác
phẩm đầy tính nghệ thuật.
Trong khi dựng băng thành phẩm, có thể sử dụng các kỹ xảo làm
hình ảnh, âm thanh sinh động, mới lạ hơn và khắc phục những thiếu sót trong
khi ghi hình nhưng không nên quá lạm dụng kỹ xảo, vẫn phải đảm bảo được
tính chân thực, trong sáng của hình ảnh và âm thanh.
Trong một tác phẩm Ký chân dung thì việc sử dụng các tư liệu là
điều cần thiết và tất yếu. Để đưa những tư liệu đó vào tác phẩm một cách hợp
lý nhất và ít tốn kém thời gian nhất, BTV cần phải nắm rõ nguồn tư liệu lấy từ
đâu, nội dung gì trong tư liệu sẽ sử dụng, và tư liệu đó sẽ được sử dụng như
thế nào,....
3.1.3. Nghệ thuật sử dụng con ngƣời trong êkíp chƣơng trình:
Nhân sự làm việc trong Người đương thời được phân công nhiệm
vụ rất rõ ràng và có sự gắn kết chặt chẽ với nhau, tạo nên một êkíp đoàn kết,
bền vững, hỗ trợ nhau sản xuất chương trình.
* Người tổ chức sản xuất:
Tổ chức sản xuất là công việc bao trùm lên toàn bộ công việc khác
trong chương trình truyền hình. Việc tổ chức sản xuất được tiến hành từ khi
nhen nhóm ý tưởng đề tài đến khi chương trình được phát sóng. Mỗi chương
117
trình truyền hình sẽ có một hoặc một nhóm người đảm nhận vị trí là người tổ
chức sản xuất. Công việc của người tổ chức sản xuất là phối hợp với đạo diễn
hoặc tổng đạo diễn chương trình lên kế hoạch thực hiện chương trình, tiến
hành sản xuất chương trình theo phân công, theo dõi và đốc thúc tiến độ thực
hiện công việc, phối hợp với các bộ phận liên quan để chương trình từ kịch
bản trở thành chương trình truyền hình. Người này sẽ có trách nhiệm giúp
toàn bộ êkíp chương trình thực hiện các công đoạn và nhiệm vụ của mình một
cách trơn tru, đạt hiệu quả cao nhất, giúp các bộ phận gắn kết với nhau trong
một nhiệm vụ chung. Công việc của Tổ chức sản xuất được xác định là:
- Lập nhóm nhân sự: giúp cho Tổng đạo diễn thành lập nhóm hạt nhân gồm
Tổ chức sản xuất, nhóm kịch bản,...
- Lên kế hoạch: Tổ chức sản xuất giúp Tổng đạo diễn lên kế hoạch để thực
hiện công việc. Kế hoạch này sau đó phải được thông báo tới các nhân sự
trong nhóm.
+ Kế hoạch của công tác chủ nhiệm (lên dự toán, duyệt dự toán, thông báo kế
hoạch tài chính cho các nhóm, đặt chỗ ăn nghỉ cho các nhân sự nếu thực hiện
chương trình ở nơi khác, thanh toán)
+ Kế hoạch của nhóm trợ lý (các cuộc họp phân công công việc, mời đại biểu
tham dự, mời nhân vật trong chương trình, mời ca sỹ nếu cần, in và chuyển vé
mời, tham gia ghi hình)
+ Kế hoạch phối hợp với nhóm Mỹ thuật (lên market sân khấu, duyệt market
sân khấu, lắp dựng sân khấu, sản xuất đạo cụ)
+ Kế hoạch phối hợp với nhóm Kỹ thuật (bàn nhu cầu sử dụng kỹ thuật theo
kịch bản nội dung, lên kế hoạch tập chương trình với kỹ thuật, kế hoạch sử
dung hotline, cáp quang, kế hoạch sử d ụng thiết bị trường quay hoặc xe ghi
hình, máy quay, âm thanh, ánh sáng,...)
+ Kế hoạch phối hợp với Tổng khống chế khi truyền hình trực tiếp.
118
+ Kế hoạch phối hợp với Ban thư ký biên tập và phòng Đạo diễn phát sóng.
+ Kế hoạch phối hợp với các điểm cầu trong các chương trình truyền hình
trực tiếp.
- Theo dõi tiến độ: Người tổ chức sản xuất theo dõi tiến độ công việc và thông
tin cho đạo diễn, bàn bạc và sẵn sàng có những giải pháp trong các tình huống
cần thiết. [66, 37- 38]
Một trong những công đoạn quan trọng nhất trong việc tổ chức sản
xuất của chương trình Người đương thời là tổ chức trường quay: đảm bảo các
yếu tố tại trường quay đã hoàn tất (thiết kế, lắp đặt sâu khấu, đạo cụ,...), họp
toàn bộ êkíp để thống nhất lại toàn bộ diễn biến xảy ra trong cuộc ghi hình,
tiến hành làm kịch bản phân cảnh, tập chương trình,... Đây cũng là bước cuối
cùng trong khâu tiền kỳ để đảm bảo mọi công việc chuẩn bị cho cuộc ghi hình
đã hoàn tất và không có gì sai sót. Điều này đặc biệt quan trọng với những
chương trình được ghi hình trực tiếp.
Để công tác tổ chức sản xuất được thuận lợi và đạt hiệu quả cao, cần
có một người chuyên lo về việc tổ chức sản xuất, đốc thúc và móc nối giữa
các bộ phận. Người đảm nhận công việc tổ chức sản xuất phải là người bao
quát được toàn bộ công việc, có kỹ năng tổ chức, nhanh nhẹn, có trách nhiệm
với công việc và quan hệ tốt với toàn bộ nhân sự của chuyên mục. Công việc
tổ chức sản xuất phả được lên kế hoạch tỉ mỉ, chi tiết về tất cả các công đoạn
sản xuất, thời gian, địa điểm, nhân sự,... để đảm bảo chương trình chạy trơn
tru.
Chương trình Người đương thời đòi hỏi rất cao về mặt quy trình sản
xuất. Để sản xuất một chương trình Người đương thời thì khối lượng công
việc vô cùng lớn và đòi hỏi sự cộng hưởng của tất cả các thành viên trong
êkíp. Mối liên hệ giữa các nhân tố trong một êkíp làm việc với nhau không
119
đơn thuần là quan hệ giữa người với người mà đó là quan hệ lao động sáng
tạo. Nhiều khi người biên tập chỉ phải đưa ra yêu cầu chung còn thực hiện cụ
thể như thế nào là tuỳ thuộc vào sự sáng tạo của từng người.
* Công tác đạo diễn:
Đạo diễn đó là người biến kế hoạch và ý tưởng của kịch bản thành
hình ảnh truyền hình và hiện thực hoá nó tại trường qua hoặc nơi ghi hình.
Đạo diễn phải chịu trách nhiệm về:
- Làm kịch bản phân cảnh, bố trí máy quay, bàn bạc và phân công quay phim.
- Lựa chọn hình ảnh khi ghi hình.
- Sử dụng phương tiện ánh sáng, âm thanh, băng, kỹ xảo đặc biệt để thể hiện ý
đồ kịch bản.
- Điều khiển đội ngũ quay phim, kỹ thuật, người phụ trách trường quay, người
dẫn chương trình.
- Đảm bảo thời gian ghi hình theo kịch bản.
Khi ngồi tại bàn điều khiển, đạo diễn giữ liên lạc thường xuyên với
đội ngũ trợ lý trường quay qua bộ đàm. Ngoài ra đạo diễn còn theo dõi thời
gian, kiểm tra độ dài của đoạn băng quảng cáo, của những trường đoạn trong
chương trình và của cả chương trình.
Ngoài ra còn có chức danh đạo diễn kỹ thuật (đạo diễn hình – vision
mixer). Để thực hiện tốt một chương trình gặp gỡ truyền hình, người đạo diễn
kỹ thuật (technicical director) đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc
kết nối giữa diễn biến của chương trình và xử lý các thiết bị kỹ thuật. Người
này còn được gọi là vision mixer - đảm nhận vai trò kết hợp giữa máy quay và
hình ảnh VTR để định thời gian cho mỗi cảnh quay sao cho đạt hiệu quả cao
nhất trong việc thể hiện nội dung chương trình.
Vì thế, khi được phân công thực hiện một chương trình truyền hình,
đạo diễn phải đọc kỹ kịch bản, thiết lập mối quan hệ với tác giả kịch bản, tìm
120
ra “góc nhìn báo chí” của tác giả kịch bản. Công việc của người đạo diễn
không phải là người thực hiện một cách máy móc những chi tiết tác giả thể
hiện qua kịch bản. Đạo diễn vừa phải tiếp thu, tôn trọng ý đò của tác giả kịch
bản vừa sáng tạo trong công tác đạo diễn khi thực hiện tác phẩm.
Trong khi thực hiện, có những chi tiết của nhân vật diễn ra hoàn
toàn bất ngờ, không hề có trong kịch bản. Đó chính là phút xuất thần, sự ngẫu
hứng, phút nói thật, những mối quan hệ, những tình huống diễn ra tự nhiên
không hề được sắp đặt mà đạo diễn chỉ huy quay phim nhanh chóng chộp lấy.
Người đạo diễn vừa phải tôn trọng ý đồ của kịch bản, vừa có cùng góc nhìn
báo chí với tác giả, vừa sáng tạo trong quá trình thực hiện...Sự sáng tạo của
đạo diễn luôn được tôn trọng tuy nhiên sự sáng tạo đó vẫn phải tuân thủ
nguyên tắc tôn trọng sự thật (người thật, việc thật) và ý đồ của kịch bản.
* Người dẫn chương trình:
Người dẫn chương trình là cầu nối chuyển tải nội dung chương trình
đến công chúng nghe nhìn. Đạo diễn cung cấp ý đồ, người dẫn chương trình
sáng tạo trên cơ sở ý đồ của đạo diễn. Do đó cần có tính đồng đội và hỗ trợ
lẫn nhau.
Người dẫn chương trình cũng là một thành viên của êkíp thực hiện
do đó họ cũng có quyền tham gia vào các hoạt động của chương trình. Người
dẫn chương trình khi tham gia viết kịch bản sẽ phải có một cái nhìn tổng thể
và chính xác về mục đích của cuộc trao đổi với những khách mời. Việc tìm
hiểu kỹ người sẽ được phỏng vấn là điều vô cùng quan trọng. Người dẫn
chương trình luôn được chuẩn bị tinh thần cho cuộc gặp gỡ, chuẩn bị lời nói
cho mọi tình huống sẽ xảy ra và sẽ lựa chọn cách tiếp cận dựa vào đặc thù của
từng chủ đề.
Theo quy tắc chung, người dẫn chương trình phải đặt mình vào vị trí
trung lập, khách quan. Nguyên tắc này đòi hỏi người dẫn chương trình phải
121
hiểu mà không võ đoán và trong mọi trường hợp không nên đưa ra chính kiến
của riêng mình. Phải luôn nghĩ tới khán giả vì thế có những người dẫn chương
trình đôi khi nhập vai một người khờ khạo, kém hiểu biết (điều này cũng tuỳ
thuộc vào kỹ thuật riêng của từng người dẫn). Vì thế họ có thể đưa ra những
câu hỏi đại loại như: “Ông có thể giải thích cho tôi...”, “Ông có thể vui lòng
làm rõ ý tưởng của...”. Người dẫn chương trình xuất hiện bằng phương pháp
gợi mở nhằm đưa người đối thoại đến việc bộc lộ kiến thức và kinh nghiệm
bản thân.
Điều đặc biệt đối với người dẫn chương trình của KCDTH đó là
phải biết gợi mở cảm xúc, khai thác cảm xúc của nhân vật. Kể về mình trước
đám đông không phải là điều dễ dàng. Nhưng hầu hết các nhân vật của Người
đương thời đều là những người có đời sống nội tâm phong phú nên có thể
thuyết phục họ kể về mình, cởi mở lòng mình trước khán giả. Nếu như gặp
phải những người không có khẩu khiếu hoặc thích giữ im lặng thì đó là một
thử thách đối với người dẫn. Ví dụ như những bệnh nhân bị nhiễm HIV, một
người cảnh sát điều tra luôn lo ngại vô tình tiết lộ bí mật nghề nghiệp, một em
bé cứu người chết đuối nhưng không có khả năng nói trước đám đông,...Lúc
này việc đặt câu hỏi như thế nào trở thành điều quyết định thành công của
chương trình và chính điều này cũng thể hiện tài năng, nghệ thuật, sự linh
hoạt, khéo léo của người dẫn.
Việc trò chuyện cũng như đặt câu hỏi với nhân vật cần phải được
nâng lên thành một nghệ thuật. Do đó, có nhiều điểm cần chú ý khi trò chuyện
đó là: độ dài câu, tránh các câu mơ hồ về ý nghĩa, tránh liệt kê, không diễn đạt
theo lối bị động, tốc độ nói vừa phải, tránh nói lắp, ngôn ngữ phải thông dụng
và được chuẩn hoá, ngữ điệu phải phù hợp,...
Việc xuất hiện của người dẫn chương trình trong một tác phẩm
KCDTH cũng đòi hỏi người dẫn chương trình phải có trang phục, cách trang
122
điểm, phong thái phù hợp. Khi hình thức phù hợp, việc trò chuyện với nhân
vật sẽ trở nên tự tin, tự nhiên, dễ dàng hơn rất nhiều. Nhân vật cũng vì thế mà
thoải mái bộc lộ tâm tư, suy nghĩ của mình. Không những thế, việc đảm bảo
hình thức của người dẫn chương trình cũng như của nhân vật khi xuất hiện
trước ống kính máy quay cũng là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên
những hình ảnh đẹp trên truyền hình.
*Người quay phim:
Người quay phim đóng vai trò rất quan trọng trong việc thể hiện
hình ảnh, nhất là “đặc tả” chân dung bằng ngôn ngữ của truyền hình. Mà hình
ảnh lại là một trong hai đặc trưng của truyền hình. Do vậy, người quay phim
nắm giữ thành công về mặt hình ảnh của một tác phẩm KCDTH. Thách thức
cho người quay phim là sáng tạo trên nền những kiến thức cơ bản đã có
nhưng vẫn phải phối hợp chặt chẽ và tuân theo sự chỉ đạo nghệ thuật của đạo
diễn.
Người quay phim với những nỗ lực để chớp được những hình ảnh đẹp
Trước khi thực hiện một tác phẩm KCDTH, người quay phim phải
nắm rất rõ về nội dung tác phẩm và có những bàn bạc với đạo diễn và BTV
phụ trách về nội dung để hiểu hơn ý đồ của họ.
Trong khi thực hiện tác phẩm, người quay phim phải luôn có bám
sát nhân vật để có thể chộp được những hình ảnh đắt giá, những hình ảnh tự
nhiên nhất, cảm động nhất mà không thể có lại được lần thứ hai.
Thách thức đối với người quay phim của một tác phẩm truyền hình
123
là vừa phải đảm bảo những hình ảnh đẹp nhưng lại vừa tôn trọng tính chân
thật của sự kiện và con người. Đây là điểm khác biệt so với điện ảnh. Do đó,
ranh giới giữa sự sáng tạo và sắp đặt là rất mong manh.
3.1.4. Công tác tạo dựng, duy trì và quảng bá thƣơng hiệu Ngƣời đƣơng
thời:
Trong thời gian vừa qua, ê kíp sản xuất chương trình rất có ý thức
phát triển và quảng bá thương hiệu của mình. Những đoạn clip giới thiệu tổng
quan về chuyên mục cũng như về từng chương trình cụ thể sẽ phát sóng trong
tuần tới đã được ê kíp chương trình chuẩn bị và phát sóng trong các mục Giới
thiệu đặc sắc hàng tuần của VTV. Các bài viết về nội dung chương trình, MC,
hậu trường của Người đương thời cũng được thường xuyên xuất hiện trên các
tờ báo in và báo điện tử. Đặc biệt, chuyên mục Người đương thời đã xây dựng
được một website riêng, phục vụ cho công tác quảng bá và gắn kết giữa
chương trình và khán giả: website nguoiduongthoi.com.vn. Người đương thời
cũng thường xuyên tổ chức các hoạt động và sự kiện: Tháng vì người nghèo,
giúp đỡ nạn nhân vụ sập mỏ than, các cuộc gặp năm mới, bình chọn Người
đương thời của năm,...
Công tác quảng bá thương hiệu Người đương thời luôn gắn với từng
chương trình cụ thể với những nhân vật cụ thể. Chúng tôi xin giới thiệu một
chương trình được đánh giá là có chất lượng và quảng bá hiệu quả, đó là
chương trình Trở về từ lòng đất được truyền hình trực tiếp vào 21h20 ngày
7/4/2006. Ngày 31/3/2006, có tai nạn sập hầm tại mỏ than Mông Dương -
Quảng Ninh. Ngay lập tức đến ngày 3/4/2006, ê kíp làm chương trình đã
quyết định thực hiện một số phát sóng trực tiếp về vụ tai nạn này. Mọi thứ
nhanh chóng được hoàn tất. Ngày 5/4/2006, trang web
nguoiduongthoi.com.vn có bài viết: Trở về từ lòng đất thông báo chương trình
phát sóng trực tiếp, mời khán giả gửi câu hỏi quan email:
124
nguoiduongthoi@vtv. org.vn hoặc nhắn tin vào điện thoại của chương trình.
Ngày 6/4/2006, vé mời được gửi đi cho khán giả. Sáng ngày 7/4/2006 trang
web vtv.vn, Tuoitre.com.vn đưa tin về buổi phát sóng trực tiếp, cùng thông tin
mời khán giả tham gia gửi câu hỏi và nhắn tin qua mạng Internet, mạng điện
thoại 1900 và tham gia đặt câu hỏi trực tiếp trong buổi phát sóng. 19h30 ngày
7/4/2006, chương trình Thời sự của VTV đã đưa tin về buổi phát sóng trực
tiếp. Từ 21h20 khi buổi phát sóng bắt đầu, các phóng viên trang web vtv.vn
liên tục cập nhật và tường thuật buổi phát sóng. Việc quảng bá đã đem lại
hiệu quả rõ rệt: Trường quay S9 chật kín khán giả. Hơn 6000 tin nhắn và cuộc
điện thoại gọi tới chương trình. Dư âm của buổi phát sóng còn nóng đến nhiều
ngày sau khi chương trình nhận được nhiều điện thoại và thư của khán giả gửi
về hòm thư điện tử của chương trình.
Chúng tôi thử phân tích những yếu tố khiến Trở về từ lòng đất được
công chúng đặc biệt quan tâm:
1/ Đề tài nóng: Vụ sập hầm mỏ than vừa xảy ra, dư luận đang rất quan tâm,
công chúng quan tâm và muốn tìm hiểu câu chuyện.
2/ Hình thức phát sóng: trực tiếp: Một chương trình được phát sóng trực tiếp
bao giờ cũng nhận được sự quan tâm nhiều hơn của công chúng. Vì khán giả
có thể mắt thấy tai nghe một cách đồng thời và đầy đủ những gì đang diễn ra
tại nơi tổ chức chương trình.
3/ Tinh thần làm việc của toàn bộ ê kíp rất tốt, tập trung cao độ, chuyên
nghiệp và nghiêm túc.
4/ Tương tác tốt: Hệ thống máy tính nối mạng, hệ thống tin nhắn 1900, điện
thoại đều được trang bị và hoạt động tốt. Toàn bộ các tin nhắn đều được đưa
trực tiếp chạy chữ trên màn ảnh nhỏ. Những bức thư điện tử gửi đến đều được
hồi âm.
4/ Công tác quảng bá tốt: Thông tin về buổi phát sóng được cập nhật liên tục
125
trên trang web vtv.vn, Tuoitre.com.vn và nguoiduongthoi.com.vn. Đặc biệt
phần tin thông báo của chương trình Thời sự VTV lúc 19h về chương trình
trực tiếp Trở về từ lòng đất là một hình thức quảng bá vô cùng đắt giá. Lượng
khán giả xem Thời sự rất nhiều và phần tin này đã gây chú ý lớn.
Qua những phân tích trên đây, bài học được rút ra là:
- Đề tài mang tính thời sự luôn có sức hấp dẫn với khán giả.
- Một chương trình được phát sóng trực tiếp bao giờ cũng hiệu quả hơn
chương trình ghi hình rồi biên tập.
- Công tác chuẩn bị tốt và có sự nhất trí cao trong ê kíp.
- Công tác quảng bá: Ngoài việc quảng bá trên trang web của chương trình
(nguoidongthoi.com.vn) cần đưa thông tin lên những tờ báo khác cũng như
kênh thông tin khác. Kênh thông tin càng nổi tiếng và có nhiều công chúng thì
càng có giá trị, hiệu quả của việc quảng bá càng cao.
- Thực hiện tương tác tốt sẽ nhận được sự quan tâm của công chúng nhiều
hơn. Việc chạy chữ tin nhắn trên màn hình là một cách trả lời phản hồi hiệu
quả. Khán giả hài lòng vì phản hồi của họ được quan tâm và tôn trọng.
* Điểm yếu trong việc xây dựng và phát triển thương hiệu Người đương thời:
Mặc dù Người đương thời đã tạo dựng được một thương hiệu mạnh,
duy trì và phát triển rất tốt thương hiệu mạnh đó. Tuy nhiên, trong quá trình
xây dựng và phát triển thương hiệu Người đương thời, vẫn tồn tại một số
điểm yếu. Chúng tôi xin nêu ra một vài điểm yếu cơ bản trong việc xây dựng
và phát triển thương hiệu Người đương thời như sau:
- Chưa xác định một cách cụ thể những nền móng của thương hiệu trong
những giai đoạn phát triển khác nhau.
- Chưa thực sự chú ý đến việc đánh giá kết quả của các chiến dịch thông tin.
126
- Chưa có những cuộc điều tra thực sự có quy mô lớn về khán giả.
- Chưa có bộ phận riêng chuyên nghiệp đảm nhiệm việc xây dựng và quảng
bá thương hiệu chương trình.
* Nguy cơ:
Với những điểm yếu trên, Người đương thời có thể đứng trước
những bất lợi cho việc phát triển thương hiệu của mình. Với mỗi giai đoạn
mới, Người đương thời có những cải tiến, phát triển, nếu chương trình không
xác định một cách cụ thể những nền móng của thương hiệu thì trong những
năm tiếp theo, chiến lược phát triển thương hiệu của Người đương thời sẽ gặp
rào cản ngay từ đầu. Hơn nữa, với một chương trình đã có thương hiệu mạnh
như Người đương thời thì việc duy trì niềm tin trong công chúng là điều hết
sức cần thiết. Tìm hiểu nhu cầu, thói quen, thái độ, tâm lý của công chúng là
một trong những chìa khoá để biết được chương trình đang nằm ở đâu trong
lòng công chúng. Trong cuộc cách mạng thông tin diễn ra mạnh mẽ như hiện
nay, Người đương thời đứng trước sự cạnh tranh và vươn lên mạnh mẽ của rất
nhiều các chương trình truyền hình khác. Do đó nhất thiết phải đưa ra những
giải pháp nhằm duy trì và phát triển thương hiệu Người đương thời trong môi
trường cạnh tranh và tự khẳng định mình.
3.2. Giải pháp duy trì và phát triển thƣơng hiệu Ngƣời đƣơng thời:
3.2.1. Nâng cao chất lƣợng và giá trị thông tin - cốt lõi của việc phát triển
bền vững thƣơng hiệu:
*Về Nội dung của tác phẩm:
Trước khi thực hiện một tác phẩm KCDTH, những người thực hiện
cần nắm vững định hướng cũng như tiêu chí của chương trình để có những
tìm kiếm, lựa chọn đề tài, nhân vật một cách phù hợp nhất.
Khi đề tài và nhân vật đã được lựa chọn, những người thực hiện cần
127
tìm hiểu rất kỹ càng thông tin (cả những thông tin trực tiếp có được từ nhân
vật cũng như những thông tin có được từ những mối quan hệ xung quanh
nhân vật) để tìm ra những chi tiết đắt, những câu chuyện đặc sắc. Có như vậy
mới níu giữ được khán giả ngồi trước màn ảnh nhỏ.
Khi thực hiện một tác phẩm Ký chân dung, nhất là trên truyền hình,
các PV, BTV đứng trước rất nhiều thử thách, cám dỗ: có những con người
chưa xứng đáng để biểu dương nhưng họ tìm mọi cách để được xuất hiện
trước công chúng (dùng quyền lực, dùng tài chính,...) hoặc có những người
thực sự rất xứng đáng nêu gương trước xã hội nhưng họ không thích xuất hiện
trước đám đông và nói về thành tích của mình,...Trong thực tế đã xảy ra
những chuyện năm trước nhân vật đó được tôn vinh như một anh hùng nhưng
đến năm sau đã trở thành người có tội. Sự đổ vỡ ấy dễ dẫn đến tâm lý hoàn
nghi của công chúng trước nhưng chân dung được xây dựng trong tác phẩm.
Vì vậy đòi hỏi bản lĩnh, sự sáng suốt, đạo đức cũng như sự linh động, khả
năng thuyết phục của những người thực hiện tác phẩm. Muốn được như vậy,
ngoài những nỗ lực cá nhân, những năng khiếu vốn có, cần có những chương
trình đào tạo phù hợp. Nếu có thể, các đài truyền hình nên gửi PV, BTV đi
học tập, tham quan cách làm của các nước bạn để học tập kinh nghiệm sản
xuất tác phẩm của họ.
Khi xây dựng kịch bản, những người thực hiện cần đứng trên quan
điểm và tâm lý tiếp nhận của khán giả. Phải luôn luôn tự đặt câu hỏi cho
mình: Khán giả muốn biết điều gì? Khán giả mong chờ gì ở tác phẩm này?
Khán giả thích thú với những thông tin nào?....trước khi bắt tay xây dựng kịch
bản.
Đối với những tác phẩm KCDTH có xuất hiện người dẫn chương
trình thì phải đặc biệt lưu ý đến vị trí này. Những người dẫn chương trình là
cây cầu nối liền khán giả và tác phẩm. Họ chính là gương mặt của tác phẩm,
128
quyết định một phần thành công của tác phẩm. MC là một trong những điểm
mạnh của Người đương thời: nhắc đến Người đương thời là nhắc đến MC Tạ
Bích Loan và ngược lại hình ảnh MC Tạ Bích Loan gắn chặt với Người
đương thời nhưng thời gian dần trôi đi, phong cách cũng như hình thức MC
dẫn đi vào lối mòn, dễ tạo sự tẻ nhạt, nhàm chán cho khán giả. Người đương
thời cần nhanh chóng tìm kiếm và lựa chọn MC mới có kiến thức sâu rộng,
cách trò chuyện thú vị, hấp dẫn, duyên dáng để đem lại luồng gió mới cho
chương trình.Với một tác phẩm chính luận như Ký chân dung, người dẫn
chương trình không chỉ cần một hình thức ưu nhìn, phong cách dẫn duyên
dáng, hấp dẫn, nói năng lưu loát mà quan trọng hơn đó là họ phải có kiến thức
rất sâu rộng, có bản lĩnh và sự linh hoạt ứng phó trước mọi tình huống. Để có
được những người dẫn chương trình như thế, các đài truyền hình cần tổ chức
các khoá học đào tạo và nâng cao trình độ nghiệp vụ cho họ, giúp họ có môi
trường thực hành và cọ xát để tích luỹ nhiều kinh nghiệm. Các đài truyền hình
cũng cần có chiến lược đào tạo đội ngũ dẫn chương trình chuyên nghiệp và có
nghề. Ngoài việc đào tạo tại các Đài truyền hình, công việc dẫn chương trình
cũng nên được giới thiệu cho các sinh viên báo chí. Đồng thời, những người
đang làm công việc dẫn chương trình cũng cần có ý thức tự rèn luyện và nâng
cao kỹ năng nghề nghiệp.
Một tác phẩm KCDTH thường thiên về tính chính luận vì vậy trong
khi thực hiện nên đan xen vào một số tiết mục văn nghệ, giải trí,...phù hợp
làm mềm hoá tác phẩm giúp tác phẩm dễ dàng hoà vào lòng công chúng hơn.
* Về hình thức tác phẩm:
Phải luôn tìm ra những hình thức thể hiện mới, tránh bắt chước
những tác phẩm khác và tránh lặp lại chính mình. Mỗi một tác phẩm ra đời
phải “đóng dấu” bản quyền và phải có hình ảnh của riêng mình.
Những người thực hiện tác phẩm có thể sử dụng nhiều biện pháp
129
khác nhau: thay đổi kết cấu, tăng cường giao lưu tương tác với khán giả, ứng
dụng các thủ pháp của sân khấu kịch, điện ảnh, áp dụng các thủ pháp tâm
lý,.... để làm chương trình sinh động, mới mẻ, hấp dẫn hơn.
Sân khấu cần phải có thiết kế riêng. Để tạo được những sân khấu
đẹp, phù hợp, và thường xuyên đổi mới, các đài truyền hình cũng cần đầu tư
hơn nữa về nhân lực và tài chính.
Là một tác phẩm truyền hình, yếu tố hình ảnh phải được đặc biệt coi
trọng. Vì thế cần phải chú ý nâng cao chất lượng mỹ học hình ảnh của tác
phẩm. Sau đây là một số giải pháp:
- Cần đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn về hình ảnh truyền hình: Ví dụ
như ở Đài THVN, đã có những bộ phận đảm nhiệm nhiệm vụ này bao gồm
đạo diễn, quay phim, hoạ sỹ, kỹ thuật, hoá trang, đạo cụ,...nhưng từng vị trí
chưa có sự cụ thể hoá về mặt chuyên môn. Đôi khi một người quay phim có
thể làm nhiều công việc khác như: chọn cảnh quay, dựng cảnh, kỹ thuật hình -
tiếng,...Cho nên có nhiều tác phẩm chưa đảm bảo tính thẩm mỹ về hình ảnh.
- Đầu tư trang thiết bị máy móc kỹ thuật: Để tạo được những hình ảnh đẹp,
chỉ riêng yếu tố con người thì chưa đủ, cần có những thiết bị máy móc kỹ
thuật hiện đại như: trường quay, máy quay phim, hệ thống đèn, cần cẩu,
đường truyền, bàn dựng,... Đây là một trong những yếu tố rất quan trọng tạo
nên những hình ảnh đẹp.
- Đầu tư kinh phí thực hiện tác phẩm: Người ta thường nói Có thực mới vực
được đạo. Muốn một tác phẩm Ký chân dung trên truyền hình đạt chất lượng
cao cũng cần đầu tư đủ kinh phí để thực hiện. Đã có những tác phẩm dù đề tài
rất hay, nhân vật rất phù hợp nhưng kinh phí quá yếu khiến tác phẩm không
thể có được những hình ảnh đẹp như mong muốn.
* Hoàn thiện và nâng cao chất lượng quy trình sản xuất chương trình:
Hiện nay ở các đài truyền hình, quy trình sản xuất chương trình đã
130
được xây dựng tuy nhiên cần được rút kinh nghiệm để hoàn thiện hơn nữa.
Công việc truyền hình luôn đòi hỏi tính tập thể, sự đồng lòng. Với các chương
trình sản xuất trong trường quay hoặc các chương trình trực tiếp lại càng cần
tới sự phối hợp ăn ý nhịp nhàng của cả một êkíp và sự sáng tạo của mỗi cá
nhân. Những người làm truyền hình luôn phải đối mặt với sự nhàm chán vì
những thủ tục và công đoạn sản xuất được lặp đi lặp lại hàng ngày do đó quy
trình sản xuất rất cần được hoàn thiện để tạo nên thành công trong việc xây
dựng tác phẩm.
Cần phải có những cuộc trao đổi kinh nghiệm giữa các nhóm sản
xuất chương trình để đưa ra những mô hình hiệu quả về nhân sự và các bước
thực hiện, để ngày càng chuyên nghiệp hoá công tác tổ chức.
Các chức danh, vị trí công việc trong quy trình sản xuất một chương
trình truyền hình cần được xác định rõ ràng, cụ thể và mang tính chuyên môn
hoá cao: đạo diễn, tổ chức sản xuất, phụ trách trường quay, trợ lý đạo diễn, trợ
lý trường quay, người dẫn chương trình,...Ví dụ như đối với chức danh đạo
diễn cần có chiến lược đào tạo cả đạo diễn hình ảnh và đạo diễn nội dung. Hai
vị đạo diễn này sẽ phối hợp chặt chẽ với nhau để chỉ đạo cả êkíp thực hiện
thành công tác phẩm.
Về mặt tài chính, cần tính thù lao cho những giờ họp sản xuất, tập
và chạy thử chương trình. Và đánh giá mức thù lao nay theo chất chất lượng
chương trình và công việc của từng vị trí.
Trong các lớp học chuyên ngành về truyền hình của các cơ sở đào
tạo sinh viên báo chí, nên có những tiết học hoặc những buổi trò chuyện thực
tế với các đạo diễn, các kíp sản xuất chương trình truyền hình. Có thể tổ chức
các buổi tham quan trường quay của các đài truyền hình để sinh viên báo chí
có hình dung tốt về công việc sản xuất chương trình.
3.2.2. Coi công tác quảng bá là nhiệm vụ quan trọng, thƣờng xuyên:
131
- Cần phải xây dựng một chiến lược quảng bá lâu dài, cụ thể cho chuyên mục.
- Cần có người chuyên nghiệp đảm nhận nhiệm vụ quảng bá cho chuyên mục.
- Công việc quảng bá phải được thực hiện đều đặn, liên tục, thường xuyên.
- Công việc quảng bá nên được tận dụng trên mọi hình thức có thể: truyền
hình, báo in, phát thanh, báo điện tử, hòm thư điện tử, thư tay, điện thoại, tờ
rơi,...
- Mọi thành viên của chuyên mục đều nên tham gia đóng góp quảng bá hình
ảnh của chuyên mục bằng mọi cách.
- Tập trung phát triển website của chuyên mục, biến website trở thành diễn
dàn của công chúng.
- Chú ý tới mọi cách để quảng bá hình ảnh chuyên mục: nắm rõ nhu cầu, phản
hồi của khán giả, trả lời thư khán giả, lập danh mục báo chí, điểm báo hàng
tháng, lập danh sách các nhân vật đã tham gia chương trình,...
- Phải có sự đầu tư thích đáng trong công tác này (về nhân lực, về tài
chính,...). Có như vậy, tác phẩm mới thu hút được ngày càng đông đảo công
chúng và ngày càng nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của họ.
3.2.3. Luôn tạo mối quan hệ gắn bó lâu dài giữa chƣơng trình và khán giả:
- Mỗi chương trình sau khi phát sóng cần có sự đánh giá, nhận xét. Có thể
đánh giá qua việc thăm dò thái độ của công chúng. Người đương thời có thể
sử dụng các bảng hỏi trên chính trang web của mình. Hoặc có thể tiến hành
phỏng vấn trực tiếp một mẫu bất kỳ, thực hiện nhiều lần.
- Mọi phản hồi của khán giả về chương trình phải luôn được tôn trọng và có
hình thức hồi đáp phù hợp, kịp thời.
- Người đương thời nên có những cuộc điều tra nhu cầu, thái độ, tâm lý cũng
132
như ý kiến của khán giả trên quy mô lớn.
Tiểu kết chƣơng 3:
Người đương thời là một tác phẩm tiêu biểu cho thể loại KCDTH.
Người đương thời là một thương hiệu truyền hình mạnh. Những người thực
hiện chương trình đã áp dụng sáng tạo những vấn đề lý luận về Ký chân dung
và đã tạo ra một Người đương thời đầy nhân văn, sâu sắc, bổ ích và ấn tượng
đối với khán giả. Những thành công cũng như những hạn chế trong việc tạo
dựng, duy trì và phát triển thương hiệu Người đương thời đã để lại những bài
học kinh nghiệm rất quý báu.
Từ những bài học kinh nghiệm được đúc rút từ chuyên mục Người
đương thời, tác giả luận văn cũng mạnh dạn nêu lên những giải pháp nâng cao
chất lượng KCDTH từ góc nhìn rất mới: góc nhìn PR. Với phương châm:
“Hãy làm tốt và không quên kể về nó”, hàng loạt các giải pháp thiết thực đã
được đưa ra: nâng cao chất lượng và giá trị thông tin - cốt lõi của việc phát
triển bền vững thương hiệu, coi công tác quảng bá là nhiệm vụ quan trọng
thường xuyên, luôn tạo mối quan hệ gắn bó lâu dài giữa chương trình và khán
giả,...
Đây là những giải pháp mang tính chất tham khảo. Tác giả luận văn
mong rằng, những giải pháp từ góc nhìn mới mẻ này sẽ được những người
làm truyền hình quan tâm nghiên cứu và áp dụng nhằm từng bước nâng cao
133
chất lượng KCDTH.
KẾT LUẬN
Đất nước ta đang trong thời kỳ phát triển mới: hoà nhập và khẳng
định mình trong nền kinh tế toàn cầu với những biến đổi to lớn về đời sống
vật chất cũng như tinh thần của người dân. Việc phát triển nội lực đất nước
cũng như công tác tuyên truyền nhằm xây dựng, củng cố niềm tin và nâng cao
nhận thức trong mọi tầng lớp nhân dân trở thành nhiệm vụ rất quan trọng và
cấp thiết.
Việc tìm kiếm và biểu dương những gương Người tốt - Việc tốt để
mọi người học tập và noi theo đã có truyền thống từ xa xưa. Nhằm phát huy
truyền thống tốt đẹp đó, đặc biệt, theo gương Bác Hồ vĩ đại, những người làm
truyền hình đã biết vận dụng những ưu thế của truyền hình để xây dựng nên
những chương trình Người tốt - Việc tốt.
Chương trình Người đương thời ra đời từ năm 2001 đã tạo được
những thành công vang dội và để lại ấn tượng rất sâu sắc trong lòng khán giả.
Trong nhiều năm liền, chương trình Người đương thời luôn là một trong
những chương trình được khán giả đón xem nhiều nhất và có những đánh giá
tốt nhất. Người đương thời đã trở thành thương hiệu truyền hình có giá trị.
Mỗi một chương trình là một chân dung về những con người tiêu biểu nhất
của thời đại. Từ cuộc đời, kinh nghiệm sống và những cống hiến của họ,
chúng ta học thêm được nhiều điều về con người và những gì đang xảy ra.
Chúng ta nhận ra trên đời này còn rất nhiều người tốt, biết hy sinh, biết trân
trọng bản thân mình cũng như trân trọng người khác, trân trọng cuộc đời. Họ
đã mang lại một sức sống mãnh liệt cho dân tộc và đồng bào mình. Chân
dung của họ được khắc hoạ chân thực và sinh động trong Người đương thời.
Nó góp phần vẽ nên bức tranh về đất nước, con người Việt Nam trong thời kỳ
134
đổi mới. Nhờ đó, chương trình đã tạo cho khán giả xem truyền hình niềm tin
vào xã hội, tin vào con người và tin vào bản thân mình để sống ngày càng tốt
hơn.
Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả đã nghiên cứu 30 chương
trình Người đương thời tiêu biểu nhất (từ năm 2001 đến năm 2006) cũng như
tìm đọc nhiều tài liệu có liên quan đến thể loại Ký chân dung và chương trình
Người đương thời. Đồng thời tác giả luận văn cũng đã tiến hành thăm dò ý
kiến khán giả tại Hà Nội về nội dung cũng như hình thức của chương trình
Người đương thời. Trên cơ sở những phân tích và tổng kết ở Chương 1,
Chương 2 và Chương 3, tác giả luận văn đưa ra những kết luận tổng quát dưới
đây:
1. Ký chân dung báo in là cơ sở văn bản của Ký chân dung truyền hình:
Mặc dù có những đặc điểm để phân biệt giữa Ký chân dung trên báo
in và Ký chân dung trên truyền hình nhưng xét về mặt lý luận, Ký chân dung
trên truyền hình được thừa hưởng rất nhiều ưu thế và kinh nghiệm từ Ký chân
dung trên báo in: đề tài, nhân vật, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính
luận sắc sảo và yếu tố nghệ thuật mềm mại, linh hoạt. Kịch bản, văn bản lời
bình, văn bản tư liệu trong Ký chân dung truyền hình là những minh chứng rõ
nét nhất cho việc KCDBI là cơ sở văn bản của KCDTH.
Dạng bài Người tốt - Việc tốt là dạng bài chiếm ưu thế trong thể loại
Ký chân dung trên báo in và trên truyền hình thời gian qua. Khi được phát
sóng, rất nhiều tác phẩm Ký chân dung Người tốt - Việc tốt trên truyền hình
đã để lại ấn tượng khó phai trong lòng người xem. Với những hình thức thể
hiện phong phú, đa dạng, sinh động, hấp dẫn, với cách thực hiện tác phẩm
công phu, với sức quảng bá sâu rộng của truyền hình, những chân dung trong
các tác phẩm Ký chân dung Người tốt - Việc tốt đã nhanh chóng được xã hội
hoá, có sức tác động mạnh mẽ vào số đông khán giả về cả tâm lý, tình cảm,
135
cách suy nghĩ, cách nhìn nhận cuộc sống và hành vi của công chúng.
2. Ngƣời đƣơng thời là một tác phẩm KCDTH thành công về cả nội dung
và hình thức, đặc biệt là yếu tố mỹ học hình ảnh.
Những thành công nổi bật của Người đương thời về mặt nội dung
phải kể đến là: việc tìm kiếm và lựa chọn đề tài rất phong phú và phù hợp
(đúng tiêu chí của chuyên mục, mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, theo kịp dòng
chảy thời sự, có tính độc đáo, mới lạ,...); các nhân vật trong chuyên mục
Người đương thời là con người thật, việc thật với những phẩm chất đáng quý
đáng để mọi người noi theo (có nhiều cống hiến cho xã hội, biết vượt khó
vươn lên, hy sinh bản thân mình vì người khác, là đại diện cho một vấn đề
nóng bỏng trong xã hội, dũng cảm đương đầu với tiêu cực,...); nội dung
chuyên mục Người đương thời mang tính nhân văn sâu sắc, vừa cung cấp
thông tin cho công chúng, vừa có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, vừa gây xúc động
lòng người.
Xét về yếu tố mỹ học hình ảnh, nhìn chung chuyên mục đã tạo ra
được nhiều hình ảnh có tính thẩm mỹ cao trong các cảnh quay, góc quay, sân
khấu, đạo cụ, trang phục, hoá trang, kỹ thuật dựng,... Đó là kết quả của sự
phối hợp ăn ý giữa nhiều bộ phận trong ê kíp làm việc của chuyên mục: đạo
diễn, người quay phim, người dẫn chương trình, kỹ thuật viên, hoạ sỹ, chuyên
gia trang phục, chuyên gia trang điểm,...
Người đương thời không chỉ là một tác phẩm báo chí đơn thuần mà
đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật với sự đóng góp của nhiều nghệ sỹ trên
nhiều lĩnh vực.
3. Việc xây dựng, duy trì và phát triển thƣơng hiệu Ngƣời đƣơng thời đã
để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá:
Những thành công cũng như những hạn chế trong việc xây dựng,
duy trì và phát triển chuyên mục Người đương thời đã để lại những bài học
136
kinh nghiệm rất quý báu. Đó là những kinh nghiệm trong cách tìm kiếm và
lựa chọn nhân vật - mấu chốt tạo nên thành công của thương hiệu Người
đương thời; cách tạo sự khác biệt trong kịch bản, sử dụng đạo cụ, làm hậu
kỳ...tạo nên giá trị thông tin; nghệ thuật sử dụng con người và đặc biệt là công
tác quảng bá thương hiệu Người đương thời.
Ở phần cuối của luận văn, tác giả cũng mạnh dạn đề xuất một số
giải pháp duy trì và phát triển thƣơng hiệu Ngƣời đƣơng thời từ góc nhìn
rất mới mẻ: góc nhìn PR. Phương châm là: “Hãy làm tốt và không quên kể
về nó” do đó những vấn đề được nhấn mạnh là: nâng cao chất lượng và giá trị
thông tin - cốt lõi của việc phát triển bền vững thương hiệu; coi công tác
quảng bá là nhiệm vụ quan trọng, phải được tiến hành thường xuyên; Và luôn
tạo mối quan hệ gắn bó lâu dài giữa chương trình và khán giả.
Tác giả luận văn hy vọng kết quả nghiên cứu sẽ có những đóng góp
thiết thực vào việc hoàn thiện và phát triển lý luận cũng như thực tiễn về thể
loại KCDTH cũng như giúp Người đương thời và các chương trình Người tốt
- Việc tốt khác trên truyền hình nâng cao hơn nữa chất lượng, xây dựng được
137
những thương hiệu mạnh, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của công chúng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu Tiếng Việt:
1. Đài Truyền hình Việt Nam, Người đương thời – Nhân lên thương hiệu
Việt, Nxb Trẻ, H., 2006.
2. Đinh Văn Hường, Các thể loại báo chí thông tấn, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, H., 2006.
3. Đinh Thị Thuý Hằng, PR Lý luận và Ứng dụng, Nxb Lao động – Xã
hội, H.,2008.
4. Đinh Thị Thuý Hằng, PR: kiến thức cơ bản và đạo đức nghề nghiệp,
Nxb Lao động – Xã hội, H.,2007.
5. Đức Dũng, Các thể ký báo chí, Nxb Văn hoá – Thông tin, H., 2001.
6. Đức Dũng, Sáng tạo tác phẩm báo chí, Nxb Văn hoá – Thông tin, H.,
2002.
7. Đức Dũng, Viết báo như thế nào?, Nxb Văn hoá – Thông tin, H., 2000.
8. Dương Xuân Sơn, Các thể loại chính luận nghệ thuật, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, H., 2004.
9. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang, Cơ sở lý luận báo
chí truyền thông, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2004.
10. Hà Minh Đức (chủ biên), Báo chí - những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 1997.
11. Hà Minh Đức (chủ biên), Báo chí Hồ Chí Minh chuyên luận và tuyển
chọn, Nxb Chính trị quốc gia, H., 2000.
12. Hoàng Đình Cúc, Đức Dũng, Những vấn đề của báo chí hiện đại, Nxb
Lý luận chính trị, H., 2007.
13. Hội nhà báo Việt Nam, Người tốt - Việc tốt
14. Lê Phú Khải, Người đương thời, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, Tp
138
HCM., 2007.
15. Mai Quỳnh Nam, Truyền thông đại chúng vào dư luận xã hội, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, H., 2001.
16. Nguyễn Hiến Lê, Nghệ thuật nói trước công chúng, Nxb Tổng hợp
Đồng Tháp, 1993.
17. Nguyễn Thị Minh Thái, Phê bình tác phẩm văn học nghệ thuật trên
báo chí, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2005.
18. Tạ Ngọc Tấn, Hồ Chí Minh về báo chí, Nxb Chính trị quốc gia, H.,
2004.
19. Trần Bảo Khánh, Sản xuất chương trình truyền hình, Nxb Văn hoá
thông tin, H., 2002.
20. Trần Đình Sử (chủ biên), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, H., 1987.
21. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, H., 1999.
22. Trần Quốc Vượng (chủ biên), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục,
H., 2001.
23. Trường Đại học văn hoá Hà Nội, Mỹ học, NXB Văn hoá thông tin, H,.
1995
24. Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ báo chí, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.,
2001.
II. Tài liệu tiếng nƣớc ngoài dịch sang tiếng Việt:
25. Arnold Hoffman – Karel Storkan – I.U.Marusac, Cách viết một bài
báo, Tài liệu tham khảo nghiệp vụ TTXVN, H., 1987.
26. Dale Carnegie, Nghệ thuật nói trước công chúng, Nxb Trẻ, H.,
27. John Hohenberg, Ký giả chuyên nghiệp, Nxb Hiện đại, 1974.
28. Larry Berman, Điệp viên hoàn hảo, Nxb Thông tấn, H.,2007.
139
29. Loichervouet, Viết cho độc giả, Hội nhà báo Việt Nam, H., 1999.
30. Neil Everton, Làm tin, phóng sự truyền hình, Quỹ Reuters xuất bản,
1999.
31. Slavoj – Haskovec, Vai trò xã hội của công tác đưa tin, Tài liệu của
Thông tấn xã Việt Nam, 1986.
32. X.A. Muratốp, Giao tiếp trên truyền hình, trước ống kính và sau ống
kính camera, Nxb Thông tấn, H., 2004.
III. Tài liệu tiếng Anh:
33. A.Swinson, Writing for television, BBC, 1972.
34. Gerald Millerson, Television production, Focal Press, 1999
IV. Tài liệu khác:
35. Bút tích Hồ Chủ tịch, Phòng lưu trữ Viện bảo tàng Cách mạng Việt
Nam.
36. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lời kêu gọi thi đua ái quốc 11/6/1948.
37. Đài Truyền hình Việt Nam, Kỹ thuật quay phim truyền hình , 1997
38. Đài Truyền hình Việt Nam, Tạp chí truyền hình, Báo cáo kết quả đề
tài: Dư luận xã hội với truyền hình VIệt Nam, các giải pháp nâng cao
chất lượng chương trình (khảo sát từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2003)
39. Đài Truyền hình Việt Nam, Trung tâm tư liệu, Danh mục Chương trình
chuyên mục Người đương thời phát sóng từ 2001 đến 2004.
40. Hoàng Công Tâm, Lớp học tình thương của bà NămTốt, Báo Tuổi trẻ
tp Hồ Chí Minh cuối tuần, số 1228, tháng 4/2007.
41. Nguyễn Ái Quốc, Bản án chế độ thực dân Pháp, Nxb Sự thật, H.,1960
42. Tạ Bích Loan, Đề cương chuyên mục Người đương thời.
140
43. Tạ Bích Loan, Hoạt động sáng tạo tác phẩm truyền hình (bài giảng).
44. Tạ Bích Loan, Kịch bản truyền hình (bài giảng)
45. Tạ Bích Loan, quy chuẩn hoá hoạt động nghiệp vụ và đội ngũ sản xuất
chương trình tại trường quay của Đài THVN nhằm tăng năng suất lao
động và nâng cao chất lượng chương trình., đề tài khoa học 2005
46. Trường Cao đẳng Truyền hình Hà Tây, Kỹ thuật quay phim (tập bài
giảng).
47. Website: nguoidongthoi.com.vn
48. Website: lantabrand.com
V. Các văn kiện, văn bản pháp quy:
49. Kết luận của Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá IX Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về
“Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc” trong những năm sắp tới.
50. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá X
Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới.
51. Quy chế phỏng vấn trên báo chí (Ban kèm theo Quyết định số
26/2002/QĐ-BVHTT ngày 26.9.2002 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá –
141
Thông tin)
MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT VÀ THUẬT NGỮ
SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
I. Một số từ viết tắt sử dụng trong luận văn:
BTV Biên tập viên
GS Giáo sư
KCD Ký chân dung
KCDBI Ký chân dung báo in
KCDTH Ký chân dung truyền hình
KTV Kỹ thuật viên
Master of Ceremonies: Người dẫn chương trình MC
NXB Nhà xuất bản
PGS Phó giáo sư
PV Phóng viên
TH TPHCM Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh
THVN Truyền hình Việt Nam
TS Tiến sỹ
TVRO Television Receive – Only (Thiết bị thu chương trình
truyền hình từ vệ tinh)
VTV3 Kênh Thể thao - Giải trí và Thông tin kinh tế của Đài
Truyền hình Việt Nam
XHCN Xã hội chủ nghĩa
II. Một số thuật ngữ chuyên ngành báo chí, truyền hình sử dụng trong
luận văn:
1.Cận cảnh (Tiếng Anh là close-up) được hiểu là cảnh gần. Người quay phim
dùng máy quay đặc tả từ vai người trở lên. Big close- up được hiểu là cảnh
gần hơn nữa, người quay phim dùng máy quay đặc tả bộ phận, chi tiết nào đó
như mắt, mũi, miệng,...nhằm tạo điểm nhấn, gây chú ý cho khán giả.
2. Chân dung: Theo Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, 1997: chân
dung là một danh từ dùng để chỉ tác phẩm hội hoạ, điêu khắc, nhiếp ảnh thể
hiện dúng diện mạo, thần sắc, hình dáng một người nào đó. Từ tiếng Anh là
Portrait. Trong nhiếp ảnh, chụp cận cảnh một người nào đó được gọi là chụp
Ảnh chân dung. Trong hội hoạ, vẽ tranh một con người nào đó, được gọi là
Tranh chân dung. Trong báo in, viết về một con người nào đó với thành tích,
chiều sâu nội tâm, các mối quan hệ,...thì được gọi là Ký chân dung.
3. Chèn hình ( Tiếng Anh là Insert): là kỹ thuật đưa những hình ảnh, tài liệu
chèn vào, lồng vào một cảnh phim giúp khán giả có thêm lượng thông tin,
khắc phục những lối ráp nối hình ảnh.
4. Chồng mờ ( Tiếng Anh là Overlay): là kỹ xảo làm mờ dần hình ảnh trong
dựng phim, nhằm tạo ấn tượng và chiều sâu trong một cảnh phim.
5. Đặc tả: Theo Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, 1997, đặc tả là
động từ mô tả thật chi tiết một bộ phận đặc biệt, tiêu biểu để làm nổi bật bản
chất của toàn thể. Đặc tả còn là một danh từ chỉ thể văn linh hoạt có tính chất
trung gian giữa ký và truyện, mang nhiều yếu tố chính luận.
6. Ê kíp (Tiếng Pháp là Équipe) được hiểu là một đội, nhóm, đoàn. Ê kíp làm
chương trình được hiểu là một nhóm người gồm nhiều thành phần đảm nhận
những công việc được giao và phối hợp với nhau để làm nên một bộ phim.
7. Hiện hình và nói, xảy ra đồng thời ( Tiếng Pháp là Synchorone): là một kỹ
xảo nhằm đáp ứng nhu cầu nghe, nhìn nhân vật một cách trực tiếp, cùng lúc
cả hình và tiếng nói thật.
8. Quay phim (Tiếng Anh là To shot): là hành động ghi hình trên phim nhựa
hoặc băng từ.