ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM LÊ QUÝ BIÊN
THAY THẾ MỘT PHẦN PROTEIN KHÔ ĐỖ TƯƠNG
BẰNG PROTEIN BỘT LÁ CHÙM NGÂY
(MORINGAOLEIFERA) TRONG KHẨU PHẦN
THỨC ĂN CỦA GÀ SINH SẢN LƯƠNG PHƯỢNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHĂN NUÔI
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Thái Nguyên - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
LÊ QUÝ BIÊN
THAY THẾ MỘT PHẦN PROTEIN KHÔ ĐỖ TƯƠNG BẰNG PROTEIN BỘT LÁ CHÙM NGÂY (MORINGAOLEIFERA) TRONG KHẨU PHẦN THỨC ĂN CỦA GÀ SINH SẢN LƯƠNG PHƯỢNG Ngành: Chăn nuôi Mã ngành: 8.62.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHĂN NUÔI
Giảng viên hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Từ Trung Kiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Thái Nguyên - 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, các kết quả nghiên
cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng dùng
để bảo vệ lấy bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ để thực hiện luận văn đã được cảm ơn
và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019
Học viên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Lê Quý Biên
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tôi đã
nhận được sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, sự giúp đỡ, động
viên của bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.
Nhân dịp hoàn thành luận văn, cho phép tôi được bày tỏ long kính trọng
và biết ơn sâu sắc tới giáo viên hướng dẫn PGS.TS. Từ Trung Kiên - Giảng viên
khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã tận tình
hướng dẫn, dành nhiều công sức, thời gian và tạo điều kiện cho tôi trong suốt
quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa Chăn nuôi
Thú y, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập, thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi và giúp đỡ tôi về mọi mặt, động viên khuyến khích tôi hoàn thành luận
văn./.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2019
Học Viên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Lê Quý Biên
iii
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. i
MỤC LỤC .................................................................................................................. ii
DANH MỤC VIẾT TẮT ............................................................................................ v
DANH MỤC BẢNG ................................................................................................. vi
DANH MỤC HÌNH .................................................................................................. vii
TRÍCH YẾU LUẬN VĂN ...................................................................................... viii
Phần 1.MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài. ......................................................................................... 1
2. Muc tiêu của đề tài. ................................................................................................. 2
3. Ý nghĩa khoa học .................................................................................................... 2
4. Ý nghĩa thực tiễn ..................................................................................................... 2
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ......................................................................... 3
1. Cơ sở khoa học của đề tài ....................................................................................... 3
1.1. Giới thiệu về câychùm ngây(Mringa oleifera). .................................................. 3
1.1.1. Đặc điểm chung ................................................................................................ 3
1.1.2. Đặc điểm hình thái ............................................................................................ 4
1.1.3. Giá trị dinh dưỡng của cây chùm ngây ............................................................. 5
1.2. Đặc điểm sinh học của trứng gia cầm .................................................................. 6
1.3. Giới thiệu về giống gà dùng trong thí nghiệm ...................................................... 10
1.4. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước ............................................... 11
1.4.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước ................................................................ 11
1.4.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ................................................................ 14
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............ 18
2.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................ 18
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ...................................................................... 18
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu ....................................................................................... 18
2.2.2. Thời gian nghiên cứu ...................................................................................... 18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
MỤC LỤC
iv
2.3. Nội dung nghiên cứu .......................................................................................... 18
2.4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 18
2.4.1. Bố trí thí nghiệm ............................................................................................. 18
2.4.2. Các chỉ tiêu theo dõi ....................................................................................... 21
2.4.3. Phương pháp theo dõi ..................................................................................... 21
2.5. Phương pháp xử lý số liệu ................................................................................. 23
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ...................................... 24
3.1. Tỷ lệ nuôi sống của gà thí nghiệm ..................................................................... 24
3.2. Tăng khối lượng của gà thí nghiệm ................................................................... 25
3.3.Khả năng sinh sản của gà thí nghiệm ................................................................. 27
3.4. Năng suất trứng của gà thí nghiệm .................................................................... 31
3.5. Khả năng tiêu thụ thức ăn của gà thí nghiệm .................................................... 35
3.6. Hiệu quả sử dụng và chuyển hóa thức ăn .......................................................... 36
3.7. Một số chỉ tiêu sinh lý và hóa học của trứng gà thí nghiệm .............................. 38
3.8. Chất lượng trứng gà thí nghiệm ......................................................................... 41
3.9. Ảnh hưởng của thay thế protein khô đỗ tương bằng protein bột láchùm ngây
đến độ đậm màu của lòng đỏ trứng........................................................................... 43
3.10. Hiệu quả kinh tế của việc thay thế ................................................................... 46
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ...................................................................................... 48
1. Kết luận ................................................................................................................. 49
2. Đề nghị .................................................................................................................. 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 50
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
v
DANH MỤC VIẾT TẮT
ĐC ĐỐI CHỨNG
TN1 THÍ NGHIỆM 1
TN2 THÍ NGHIỆM 2
ĐVT ĐƠN VỊ TÍNH
KL KHỐI LƯỢNG
KP KHẨU PHẦN
KĐT KHÔ ĐÔ TƯƠNG
TĂ THỨC ĂN
VNĐ VIỆT NAM ĐỒNG
GSS
TT TUẦN TUỔI
CN
GÀ SINH SẢN
BLS
CHÙM NGÂY
BLKG
BỘT LÁ SẮN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
BỘT LÁ KEO GIẬU
vi
Bảng 2.1. Sơ đồ thí nghiệm % ................................................................................ 19
Bảng 2.2. Khẩu phần thức ăn thí nghiệm ............................................................... 20
Bảng 2.3. Giá trị dinh dưỡng của thức ăn thí nghiệm ............................................ 20
Bảng 3.1. Tỷ lệ nuôi sống của gà thí nghiệm (%) .................................................. 24
Bảng 3.2. Khối lượng gà trước và sau khi kết thúc thí nghiệm (gam) ................... 26
Bảng 3.3. Tỷ lệ đẻ qua các tuần của gà thí nghiệm (%), (n = 3) ............................ 28
Bảng 3.4. Năng suất trứng gà thí nghiệm qua các tuần đẻ, n=3 ............................. 32
Bảng 3.5. Tiêu tốn thức ăn và chi phí thức ăn cho 10 quả trứng thường ............... 36
Bảng 3.6. Một số chỉ tiêu về thành phần hóa học của trứng gà thí nghiệm ........... 38
Bảng 3.7. Một số chỉ tiêu chất lượng trứng gà thí nghiệm (n=40) ......................... 42
Bảng 3.8. Độ đậm màu lòng đỏ trứng ở các giai đoạn thí nghiệm (n=8) ............... 44
Bảng 3.9. Hiệu quả kinh tế của việc thay thế protein khô đỗ tương bằng protein
bột chùm ngây ........................................................................................ 46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
DANH MỤC BẢNG
vii
Hình 3.1. Đồ thị sinh trưởng tích lũy của gà trước và sau thí nghiệm ........................ 27
Hình 3.2: Biểu đồ tỷ lệ đẻ của gà ở các tuần thí nghiệm ............................................. 30
Hình 3.3. Biểu đồ năng suất trứng gà thí nghiệm qua các tuần đẻ .............................. 34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
DANH MỤC HÌNH
viii
TRÍCH YẾU LUẬN VĂN
Tên tác giả: Lê Quý Biên
Tên Luận văn:THAY THẾ MỘT PHẦNPROTEIN KHÔ ĐỖ TƯƠNG BẰNG
PROTEIN BỘT LÁ CHÙM NGÂY(MORINGAOLEIFERA)TRONG KHẨU
PHẦN THỨC ĂN CỦA GÀ SINH SẢN LƯƠNG PHƯỢNG
Ngành: Chăn nuôi, Mã ngành:8.62.01.05
Tên cơ sở đào tạo: Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Đối tượng, nội dung nghiên cứu :
Cây thức ănchùm ngây (Moringa oleifera),gà sinh sản.
Thay thế một phần protein khô đỗ tương bằng protein bột lá chùm ngây
(Moringaoleifera) trong khẩu phần thức ăn gà sinh sản.
Phương pháp nghiên cứu:
Thí nghiệm gồm 378 gà sinh sản trong 08 tuần, từ 31-38 tuần tuổi, chia
làm 3 lô, mỗi lô có 42 gà nhắc lại 3 lần (42 x 3 = 126 con).
Lô đối chứng ăn khẩu phần cơ sở (KP có KĐT, không có bột lá chùm ngây
(CN), lô TN1, TN 2, thay thế 20%, 30 % protein của khô đỗ tương trong khẩu
phần cơ sở (KPCS) bằng protein của bột lá chùm ngây.
Các chỉ tiêu theo dõi: Tỷ lệ nuôi sống, tỷ lệ đẻ, năng suất trứng, thành phần
hóa học của trứng, các chỉ tiêu sinh lý học của trứng.
Kết quả chính và kết luận :
* Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp khá hoàn chỉnh về kỹ thuật sử dụngprotein
bột lá chùm ngây thay thế một phần protein khô đỗ tương (KĐT) trong chăn nuôi
gà sinh sản. Kết quả nghiên cứu này có thể sử dụng trong giảng dạy và nghiên
cứu khoa học trong lĩnh vực thức ăn và dinh dưỡng vật nuôi.
* Ý nghĩa thực tiễn
Thay thế một phần protein khô đỗ tương bằng bột lá chùm ngây trong khẩu
phần thức ăn gà sinh sản sẽ là một hướng mới để nâng cao chất lượng sản phẩm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chăn nuôi.
1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong chăn nuôi gia súc, gia cầm hiện nay thức ăn chiếm từ 60- 70% giá
thành sản phẩm, do vậy nghiên cứu về dinh dưỡng thức ăn chăn nuôi luôn được
các nhà khoa học quan tâm, việc sử dụng các chất có nguồn gốc thực vật làm
nguyên liệu bổ sung vào thức ăn chăn nuôi là một hướng đi đúng và cấp thiết.
Lá chùm ngây là nguồn dinh dưỡng bổ sung các hợp chất hữu cơ tự nhiên
tốt cho sức khoẻ con người, được sử dụng để điều trị bệnh theo nhiều cách khác
nhau. Tổ chức thế giới WHO và FAO khuyến cáo sử dụng cho các bà mẹ thiếu
sữa, trẻ em suy dinh dưỡng và là giải pháp lương thực cho thế giới thứ ba
(DanMalam và cs, 2001; McBurney và cs, 2004; Fahey, 2005).Lá chùm ngây
chứa nhiều chất dinh dưỡng, đặc biệt là các vitamin thiết yếu như vitamin A, C
và E. So sánh hàm lượng một số dinh dưỡng chính trong lá Chùm ngây với một
số loại thực phẩm phổ biến cho thấy hàm lượng vitamin C nhiều hơn quả cam 7
lần; vitamin A nhiều hơn cà rốt 4 lần; canxi nhiều hơn sữa 4 lần; chất sắt nhiều
hơn cải bó xôi 3 lần; chất đạm (protein) nhiều hơn 2 lần so với yaourt; kali nhiều
hơn 3 lần so với quả chuối (Donovan, 2007). Ngoài ra, trong lá Chùm ngây còn
chứa hàm lượng cao carotenoid hoạt tính sinh học, tocopherols và vitamin C có
giá trị trong việc duy trì cân bằng chế độ ăn uống và ngăn ngừa các gốc tự do -
là nguyên nhân gây nên nhiều bệnh hiểm nghèo (Smolin và Grosvenor, 2007).
Lá chùm ngây giàu provitamin, bao gồm cả axit ascorbic, carotennoids (Lako và
cs, 2007)và tocopherols (Gomez- Conrado và cs, 2004; Sánchez-Machado và cs,
2006). Các nghiên cứu dịch tễ học đã chứng minh rằng các loại rau quả giàu
carotenoid có liên quan đến giảm nguy cơ ung thư, bệnh tim mạch, sự thoái hoá
điểm vàng và sự hình thành đục thuỷ tinh thể (Lakshminarayan và cs, 2005;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Bowman và cs, 1995;Krichevsky và cs, 1999).
2
Ngoài các provitamins, lá chùm ngây cũng được coi là nguồn giàu khoáng
chất (Gupta và cs, 1989), polyphenol (Bennett và cs, 2003), flavonoid (Lako và cs,
2007; Siddhuraju và cs, 2003), alkaloid và protein (Sarwatt và cs, 2002; Soliva và
cs, 2005). Những chất dinh dưỡng thiết yếu có thể giúp làm giảm sự thiếu hụt dinh
dưỡng và chống lại nhiều căn bệnh mạn tính.
Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu về các ảnh hưởng của chùm
ngây(Moringa oleifera) đến năng suất, chất lượng sản phẩm của vật nuôi tại Việt
Nam. Chính vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Thay thế một phần protein khô
đỗ tương bằng protein bột lá chùm ngây (Moringa oleifera)trong khẩu phần
thức ăn của gà sinh sản Lương Phượng”.
2. Muc tiêu của đề tài.
- Xác địnhảnh hưởng của thay thế một phần protein khô đỗ tương bằng
protein bột lá chùm ngâytrong khẩu phần thức ăn cho gà sinh sản Lương
Phượngđến tỷ lệ nuôi sống, khối lượng cơ thể, nằng suất và chất lượng trứng.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của việc thay thế một phần protein khô đỗ
tương bằng protein bột lá chùm ngây trong khẩu phần thức ăn của gà sinh sản
Lương Phượng.
3.Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp khá hoàn chỉnh về kỹ thuật sử dụnglá cây
thức ăn chùm ngây trong chăn nuôi gà sinh sản. Kết quả nghiên cứu này có thể
sử dụng trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực thức ăn và dinh
dưỡng vật nuôi.
4. Ý nghĩa thực tiễn
Thay thế khô đỗ tương bằng bột lá chùm ngây trong khẩu phần thức ăn gà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sinh sản sẽ là một hướng mới để nâng cao chất lượng sản phẩm chăn nuôi.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1. Giới thiệu về câychùm ngây (Moringa oleifera).
1.1.1. Đặc điểm chung
Cây chùm ngây (Moringa oleifera Lam) thuộc ngành ngọc lan Magnoliophyta,
lớp ngọc lan Magnoliopsida, bộ Chùm ngây Moringales, họ chùm ngây
Moringaceae, chi chùm ngây Moringa (Foidl, 2001). Chùm ngây là loài cây có
sự phân bố địa lý rộng rãi nhất ở dãy núi Himalaya thuộc Ấn Độ, Pakistan,
Bangladesh và Afghanistan. Đây là loài cây sinh trưởng nhanh và được sử dụng
bởi người La Mã cổ đại, người Hy Lạp và Ai Cập, là cây trồng quan trọng ở Ấn
Độ, Ethiopia, Philippines, Sudan và đang phát triển tại miền Tây, Đông và Nam
thuộc châu Phi, châu Á nhiệt đới, châu Mỹ Latinh, vùng Caribbean, Florida và
quần đảo thuộc Thái Bình Dương (Fahey,2005).
Ở Việt Nam chùm ngây là loài duy nhất của chi Chùm ngây được phát hiện
mọc hoang từ lâu đời tại nhiều nơi như Thanh Hóa, Ninh Thuận, Bình Thuận,
vùng Bảy Núi ở An Giang, đảo Phú Quốc ... Tuy vậy trước đây cây ít được chú
ý, có nơi trồng chỉ để làm hàng rào và chỉ trong vài chục năm trở lại đây khi hạt
cây từ nước ngoài được mang về Việt Nam, được trồng có chủ định và qua nghiên
cứu người ta thấy cây có nhiều tác dụng đặc biệt nên tưởng là cây mới du nhập.
Cây chùm ngây rất dễ trồng, có thể trồng từ hạt, hom cành, hom củ và
trồng được quanh năm. Vùng thiếu nước nên trồng vào mùa mưa, tức khoảng
tháng 4, tháng 5. Cây được trồng nhiều ở những vùng đất khô hạn khắc
nghiệt nhiệt đới hoặc bán nhiệt đới. Cây chuộng đất ráo nước, nhiều cát, dù là
đất xấu cũng dễ mọc, chịu được hạn hán, ưa nắng, hầu như không bị sâu bệnh
hại do đó chăm sóc cây không cần điều kiện gì đặc biệt về phân bón và nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tưới. Tuy nhiên cây không chịu được úng ngập và dễ chết nếu không được thoát
4
nước tốt. Hệ thống rễ phát triển mạnh nếu được trồng từ hạt, phình to như củ
màu trắng với rễ bên thưa. Nếu trồng bằng cách giâm cành, hệ thống rễ sẽ không
phát triển như trồng bằng hạt. Cây bắt đầu cho quả từ thân, cành và nhánh sau 6
đến 8 tháng trồng (Brossa, 2008).
Gỗ chùm ngây khá mềm, giòn nên thân cành dễ bị gãy trong mưa bão. Do
đó nếu trồng cây để khai thác sử dụng người trồng thường cắt ngọn cây khi đạt
độ cao nhất định, vừa tiện thu hái; vừa kích thích cây đâm tược, nảy cành theo
cấp số nhân như tán dù; vừa hạn chế thiệt hại do gãy đổ.
Ở Việt Nam cây trổ hoa tập trung chủ yếu từ tháng 1 đến tháng 2 hàng
năm. Cây ra hoa rất sớm, thường ra ngay trong năm đầu tiên, khoảng 6 tháng sau
khi trồng. Quả chín, hạt giống phát tán khắp nơi theo gió và nước, hoặc được
mang đi bởi những loài động vật ăn hạt. Khả năng nảy mầm của hạt mới thu
hoạch là 60 - 90%. Tuy nhiên, nếu lưu trữ hạt quá 2 tháng trong điều kiện thông
thường thì khả năng nảy mầm sẽ giảm một cách nghiêm trọng. Tỉ lệ nảy mầm
giảm dần từ 60%, 48% và 7,5% tương ứng với thời gian lưu trữ hạt là 1, 2 và 3
tháng (Rubeena, 1995).
Cây trồng từ hạt, trong giai đoạn đầu cây con thường yếu nên cần được
chăm sóc trong điều kiện bóng mát. Biện pháp giâm cành cũng có thể thực hiện,
tuy nhiên hiệu quả không cao do hệ số nhân giống thấp, thường tiến hành giâm
cành vào mùa mưa, khi điều kiện không khí đạt được độ ẩm thích hợp.
1.1.2. Đặc điểm hình thái
Chùm ngây (Moringa oleifera Lam.) thuộc nhóm cây thân gỗ, có thể mọc
cao từ 5 đến 10 m, phân nhánh nhiều, thân có thiết diện tròn. Thân non màu xanh
có lông, thân già màu xám có nốt sần. Lá kép hình lông chim 3 lần lẻ, dài 30 - 60
cm, màu xanh mốc, mọc cách, có 5 - 7 cặp lá phụ bậc 1, 4 - 6 cặp lá phụ bậc 2,
6 - 9 cặp lá chét. Lá chét dài 12 - 20 mm hình trứng, mọc đối, mặt trên xanh hơn
mặt dưới, gai nhỏ có lông ở chỗ phân nhánh, lá kép lông chim, gân lá hình lông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chim, nổi rõ mặt dưới, cuống lá dài 18 - 25 cm. Cụm hoa dạng chùm sim mọc ở
5
nách lá hay ngọn cành. Hoa không đều lưỡng tính, màu trắng hơi vàng, mùi
thơm, hình dạng giống hoa đậu, có cuống dài 1 - 2 cm, có lông tơ. Trục phát
hoa màu xanh, có lông dài 10 - 15 cm. Lá bắc hình vảy nhỏ, có lông. Đài hoa
5, rời, đều, hơi cong hình lòng muỗng, màu trắng, dài 1 cm, rộng 0,4 cm. Cánh
hoa 5, rời, không đều, cánh hoa dạng thìa, màu trắng hơi vàng, phấn nằm ngoài,
dài hơn nhị bất thụ và đối diện với cánh hoa, nhị bất thụ nằm xen kẽ cánh hoa.
Chỉ nhị có kích thước to ở dưới, màu vàng, dài 0,6 - 1 cm, có lông. Bao phấn 2
ô, hình bầu dục, màu vàng, hướng trong. Bộ nhụy 3 lá noãn dính, tạo thành bầu
trên 1 ô, mang nhiều noãn, đính noãn bên, có lông. Vòi nhụy màu xanh, dài 1,8
cm, có nhiều lông. Đầu nhụy hình trụ, màu vàng, có lông (Trần Việt Hưng và
Võ Duy Huấn, 2007). Cây cho nhiều lá vào cuối mùa khô và trổ hoa vào các
tháng 1 - 2. Quả dạng nang treo, dài 25 - 30 cm, ngang 2 cm, có 3 cạnh, chỗ có
hạt hơi gồ lên, dọc theo quả có khía rãnh, quả khô màu vàng xám. Hạt màu đen,
tròn có 3 cạnh, lớn cỡ hạt đậu Hà Lan (Võ Văn Chi, 1999).
1.1.3. Giá trị dinh dưỡng của cây chùm ngây
Hạt Chùm ngây chứa hàm lượng dầu tương đối lớn, được sử dụng trong
nấu ăn, chế biến các món salad. Thành phần axit béo trong dung dịch và enzyme
chiết xuất từ dầu hạt Chùm ngây tương ứng là 67,9% và 70,0% (Abdulkarim và
cs, 2005). Do tỷ lệ các axit béo không no cao nên dầu hạt chùm ngây được sử dụng
để thay thế một số loại dầu có giá trị cho sức khoẻ con người như dầu oliu (Tsaknis
và cs, 2002). Toàn bộ hạt chùm ngây được sử dụng để ăn xanh, rang thành bột, hấp
trong trà và món cà ri (Fahey, 2005).
Lá Chùm ngây là nguồn dinh dưỡng bổ sung các hợp chất hữu cơ tự nhiên
tốt cho sức khoẻ con người, được sử dụng để điều trị bệnh theo nhiều cách khác
nhau, được hai tổ chức thế giới WHO và FAO khuyến cáo sử dụng cho các bà
mẹ thiếu sữa, trẻ em suy dinh dưỡng và là giải pháp lương thực cho thế giới thứ
ba (DanMalam và cs, 2001;McBurney và cs, 2004;Fahey, 2005). Lá chùm ngây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chứa nhiều chất dinh dưỡng, đặc biệt là các vitamin thiết yếu như vitaminA, C
6
và E. So sánh hàm lượng một số dinh dưỡng chính trong lá chùm ngây với một
số loại thực phẩm phổ biến cho thấy hàm lượng vitamin C nhiều hơn quả cam 7
lần; vitamin A nhiều hơn cà rốt 4 lần; canxi nhiều hơn sữa 4 lần; chất sắt nhiều
hơn cải bó xôi 3 lần; chất đạm (protein) nhiều hơn 2 lần so với yaourt; kali nhiều
3 lần so với quả chuối (Donovan, 2007). Ngoài ra, trong lá chùm ngây còn chứa
hàm lượng cao carotenoid hoạt tính sinh học, tocopherols và vitamin C có giá trị
trong việc duy trì cân bằng chế độ ăn uống và ngăn ngừa các gốc tự do - là
nguyên nhân gây lên nhiều bệnh hiểm nghèo (Smolin và Grosvenor, 2007).
Lá giàu provitamins, bao gồm cả axit ascorbic, carotennoids (Lako và cs,
2007) và tocopherols (Gomez- Conrado và cs, 2004; Sánchez-Machado và cs,
2006). Các nghiên cứu dịch tễ học đã chứng minh rằng các loại rau quả giàu
carotenoid có liên quan đến giảm nguy cơ ung thư, bệnh tim mạch, sự thoái
hoá điểm vàng và sự hình thành đục thuỷ tinh thể (Lakshminarayan và cs,
2005; Bowman và cs, 1995;Krichevsky và cs, 1999). Ngoài các pro vitamins,
lá chùm ngây cũng được coi là nguồn giàu khoáng chất (Gupta và cs, 1989),
polyphenol (Bennett và cs, 2003), flavonoid (Lako và cs, 2007;Siddhuraju và
cs, 2003), alkaloid và protein (Sarwatt và cs, 2002;Soliva và cs, 2005). Những
chất dinh dưỡng thiết yếu có thể giúp làm giảm sự thiếu hụt dinh dưỡng và
chống lại nhiều căn bệnh mạn tính.
1.2. Đặc điểm sinh học của trứng gia cầm
- Chất lượng trứng gia cầm:
Nhiều tác giả cho rằng chất lượng trứng gồm có 2 phần:
+ Chất lượng bên ngoài gồm: Khối lượng, hình dạng, màu sắc, độ dày và
độ bền vỏ trứng.
+ Chất lượng bên trong gồm các thành phần: Lòng đỏ, lòng trắng, giá trị dinh
dưỡng, màu sắc và mùi vị, các chỉ số hình thái của lòng đỏ và lòng trắng.
- Hình thái của trứng
Trứng gia cầm thường có hình oval hoặc hình elip: một đầu lớn và một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đầu nhỏ. Hình dạng trứng thường mang đặc điểm của từng cá thể. Chỉ số hình
7
thái của trứng thường có ý nghĩa lớn trong vận chuyển, đóng gói. Trứng càng dài
càng dễ vỡ.
Chỉ số hình thái ở mỗi loài gia cầm là khác nhau và được quy định bởi
nhiều kiểu gen. Khoảng biến thiên trị số hình thái của trứng gà là 1,34 - 1,36; của
trứng vịt 1,57 - 1,64; còn những trứng có hình dạng quá dài hoặc quá tròn đều
cho chất lượng thấp.
Theo Brandsch và Bilchel (1978) thì tỷ lệ giữa chiều dài và chiều rộng của
quả trứng là một chỉ số ổn định 1/0,75. Hình dạng quả trứng tương đối ổn định, sự
biến động theo mùa cũng không có ảnh hưởng lớn. Nói chung hình dạng quả trứng
luôn có tính di truyền bền vững và có những biến dị không rõ rệt.
- Chất lượng vỏ trứng
Vỏ trứng là lớp vỏ bọc ngoài cùng bảo vệ về mặt cơ học, lý học, hóa học
cho các thành phần khác bên trong trứng. Màu sắc của vỏ trứng phụ thuộc vào
giống, lá tai của từng loại gia cầm khác nhau. Bên ngoài nó được bao phủ bởi
một lớp keo dính do âm đạo tiết ra, có tác dụng làm giảm ma sát giữa thành âm
đạo và trứng, tạo sự thuận lợi cho việc đẻ trứng, hạn chế sự bốc hơi nước của
trứng ngăn cản sự xâm nhập của vi khuẩn.
Vỏ trứng có hai lớp màng đàn hồi tách nhau tạo thành buồng khí có ý nghĩa
trong quá trình trao đổi khí với môi trường bên ngoài. Vỏ trứng được cấu tạo
gồm 94% canxi carbonat, 1% canxi phosphat, 1% magie phosphat, 4% hợp chất
hữu cơ. Một phần hợp chất hữu cơ này là đường polisacharide. Hàm lượng canxi
trong vỏ trứng khoảng 2g. Trên bề mặt vỏ trứng có nhiều lỗ khí, số lượng lỗ khí
phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Theo Nguyễn Duy Hoan và cs (1998), trên bề mặt
vỏ trứng gà có khoảng 10.000 lỗ khí, tính trên 1 cm2 có khoảng 150 lỗ, đường
kính các lỗ khí dao động 4 - 10µm. Mật độ lỗ khí không đều, nhiều nhất ở đầu to
giảm dần ở 2 bên và ít nhất ở đầu nhỏ.
Chất lượng vỏ trứng thể hiện ở độ dày và độ bền của vỏ trứng. Nó có ý
nghĩa trong vận chuyển và ấp trứng. Độ dày vỏ tương quan dương đối với độ bền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
vỏ trứng và có ảnh hưởng đến tỷ lệ ấp nở. Thường những trứng có vỏ quá dày
8
hoặc quá mỏng đều có tỷ lệ ấp nở kém. Vỏ trứng quá dày hạn chế sự bốc hơi
nước, cản trở quá trình phát triển của phôi, gia cầm con khó đạp vỡ vỏ khi nở.
Nếu vỏ trứng quá mỏng làm bay hơi nước nhanh, khối lượng trứng gia cầm giảm
nhanh, dễ chết phôi, sát vỏ, nở yếu và tỷ lệ chết cao. Độ dày lý tưởng của vỏ
trứng dao động từ 0,26 - 0,34 mm.
Theo Nguyễn Duy Hoan và cs (1998) thì chất lượng vỏ trứng không
những chịu ảnh hưởng của các yếu tố như canxi (70% canxi cần cho vỏ trứng
là lấy trực tiếp từ thức ăn), ngoài ra vỏ trứng hình thành cần có photphat,
vitamin D3, vitamin K, các nguyên tố vi lượng... Khi nhiệt độ tăng từ 20 -
300C thì độ dày vỏ trứng giảm 6 - 10% khi đó gia cầm đẻ ra trứng không có
vỏ hoặc bị biến dạng.
- Chất lượng lòng trắng
Là phần bao bọc bên ngoài lòng đỏ và chiếm tỷ lệ lớn (khoảng 56%) so
với khối lượng trứng, nó là sản phẩm của ống dẫn trứng. Lòng trắng chủ yếu là
albumin giúp cho việc cung cấp khoáng và muối khoáng, tham gia cấu tạo lông,
da trong quá trình phát triển cơ thể ở giai đoạn phôi. Chất lượng lòng trắng được
xác định qua chỉ số lòng trắng và đơn vị Haugh. Hệ số di truyền của tính trạng
này khá cao.
Theo Nguyễn Duy Hoan và Trần Thanh Vân (1998) cho biết: Khối lượng
trứng tương quan rõ rệt với khối lượng lòng trắng (r = 0,86), khối lượng lòng đỏ
(r = 0,72) và khối lượng vỏ (r = 0,48).
Orlov (1974) (dẫn theo Ngô Giản Luyện, 1994) cho rằng: chỉ số lòng trắng
ở mùa Đông cao hơn mùa Xuân và mùa Hè. Trứng gà mái tơ và gà mái già có
chỉ số lòng trắng thấp hơn gà mái đang độ tuổi sinh sản. Trứng bảo quản lâu, chỉ
số lòng trắng cũng bị thấp đi. Chất lượng lòng trắng còn kém đi khi cho gà ăn
thiếu protein và vitamin nhóm B.
- Chất lượng lòng đỏ
Lòng đỏ là tế bào trứng của gia cầm, có dạng hình cầu, đường kính vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khoảng 35 - 40 mm, chiếm khoảng 32% khối lượng trứng, được bao bọc bởi
9
màng lòng đỏ có tính đàn hồi, chất lượng của màng đàn hồi này phụ thuộc vào
thời gian bảo quản, ở giữa các hốc lòng đỏ nối với đĩa phôi lấy dưỡng chất từ
nguyên sinh chất để cung cấp cho phôi phát triển. Chất lượng lòng đỏ phụ thuộc
vào nhiều yếu tố: Di truyền cá thể, lứa tuổi, giống, loài, điều kiện nuôi dưỡng....
Màu sắc của lòng đỏ phụ thuộc vào caroten trong thức ăn và sắc tố trong cơ thể
gia cầm.
Chỉ số lòng đỏ thể hiện chất lượng của lòng đỏ và được tính bằng tỷ số
giữa chiều cao và đường kính của lòng đỏ. Theo Card và Nesheim thì chỉ số lòng
đỏ trứng tươi là 0,4 - 0,42; trứng có chỉ số lòng đỏ cao sẽ cho tỷ lệ ấp nở cao.
Theo Ngô Giản Luyện (1994): chỉ số lòng đỏ ít bị biến đổi hơn lòng trắng. Chỉ
số lòng đỏ giảm từ 0,25 - 0,29 nếu bị tăng nhiệt độ và bảo quản lâu.
- Chỉ số Haugh (Hu)
Là chỉ số đánh giá chất lượng trứng xác định thông qua khối lượng trứng
và chiều cao lòng trắng đặc. Chỉ số Haugh càng cao, chất lượng trứng càng tốt,
từ 80 - 100% là trứng rất tốt, 65 - 79% là trứng tốt, 55 - 65% là trứng trung bình
và nhỏ hơn 54% là xấu. Chỉ số này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tác động:
Thời gian bảo quản trứng, tuổi gia cầm, bệnh tật, nhiệt độ môi trường, sự thay
lông, giống, dòng.
* Thành phần hóa học của trứng
Trứng gia cầm nói chung là một loại thực phẩm rất giàu dinh dưỡng, đặc
biệt là lòng đỏ, nó cung cấp khoảng 50% protein và tất cả các chất béo của trứng.
Thành phần dinh dưỡng của các loại trứng gia cầm khác nhau thì khác nhau.
Protein trong trứng thường là những protein dễ tiêu hóa. Hàm lượng axit amin
trong trứng thường rất cân đối. Hàm lượng mỡ trong trứng ở dạng nhũ hóa dễ
tiêu hóa. Trong trứng chứa hàm lượng axit béo không no cao, hàm lượng khoáng
cao đặc biệt là hàm lượng sắt và photpho. Thành phần khoáng trong trứng có thể
thay đổi theo khẩu phần ăn của gia cầm đẻ.
Theo Gilbert (1971), trong một lòng đỏ trứng khối lượng 19g có chứa:
10,5mg Na; 17,9mg K; 25,7mg Ca; 2,6mg Mg; 1,5mg Fe; 29,8mg S; 24,7mg Cl;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
94,8mg P.
10
Hàm lượng vitamin trong trứng rất cao: 200 - 800UI vitamin A; 20UI
vitamin D; 49mg vitamin B1; 84mg vitamin B2; 30mg axit nicotic; 58mg vitamin
B6; 580mg axit pantothenic; 10mg biotin; 4,5mg axit folic; 0,3mg vitamin B12;
150mg vitamin E và 25mg vitamin K1.
+ Thành phần hóa học của lòng đỏ
Lòng đỏ trứng của tất cả các loại gia cầm (trừ thủy cầm) có chứa 49% là
nước, 16% là protein, 33% là mỡ. Hai phần ba mỡ trong lòng đỏ là triglyxerit,
30% là photpholipit và 5% là cholesterol. Lòng đỏ trứng thủy cầm chứa nhiều mỡ
(36%) và 18% protein. Hàm lượng nước trong lòng đỏ có thể thay đổi (46 - 50%)
tùy thuộc vào thời gian và điều kiện bảo quản. Hàm lượng mỡ trong lòng đỏ cũng
có thể biến đổi thông qua khẩu phần ăn, chỉ riêng hàm lượng axit béo không no
như palmitic và stearic là không thay đổi. Hàm lượng các axit béo này duy trì ở
mức 30 - 38% trong tổng số chất béo. Nếu khẩu phần ăn chứa nhiều axit béo không
no mạch đa thì hàm lượng các axit béo này trong trứng cũng tăng lên. Thông
thường tỷ lệ axit béo không no và no là 2 : 1.
+ Thành phần hóa học của lòng trắng
Lòng trắng là nơi dự trữ nước của trứng khoảng 88%. Phần còn lại là protein
như globulin, ovomuxin và albumin. Ovomuxin chiếm 75% tổng số protein trong
lòng trắng trứng, globulin chiếm khoảng 20%. Theo kết quả của các nhà khoa học
Nga, methionin có vai trò quan trọng trong quá trình tổng hợp lòng trắng, còn quá
trình tổng hợp ovoxumin thì lysine lại chiếm vị trí quan trọng. Thành phần hóa
học của lòng trắng ở tất cả các loại trứng gia cầm đều giống nhau. Lòng trắng đặc
có hàm lượng ovomuxin cao gấp 4 lần lòng trắng loãng đây chính là nguyên nhân
tạo nên cấu trúc keo của lòng trắng. Chất lượng lòng trắng thay đổi theo thời gian
bảo quản. Giá trị pH của lòng trắng trứng gà tươi là 7,6 sau 14 ngày bảo quản
chúng có thể tăng lên pH = 9,2 .
1.3. Giới thiệu về giống gà dùng trong thí nghiệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đặc điểm của gà Lương Phượng.
11
Gà Lương Phượng có mào, tích, tai đều màu đỏ. Gà có thân hình chắc, hình
dáng bên ngoài giống với gà Ri.
Gà có màu lông đa dạng vàng đốm đen ở vai, lưng và lông đuôi. Lông cổ
có màu vàng ánh kim, búp lông đuôi có màu xanh đen.
Gà trống có mào cờ đứng, ngực rộng dài, lưng phẳng, chân cao trung bình,
lông đuôi vểnh lên. Dòng trống chủ yếu có màu vàng nâu nhạt đốm đen. Chân
màu vàng, mào đơn đỏ tươi.
Gà mái đầu thanh tú, thể hình chắc, rắn, chân thẳng, nhỏ. Dòng mái có màu
đốm đen, cánh sẻ là chủ yếu.
Khả năng sinh sản của gà Lương Phượng rất tốt. Tuổi vào đẻ là 24 tuần,
khối lượng cơ thể gà mái đạt 2.100g, gà trống đạt 2.700g. Tuổi đẻ đầu tiên 140 -
150 ngày, sản lượng trứng 150 - 170. Sản lượng trứng/66 tuần đẻ đạt khoảng 171
quả, tỷ lệ phôi đạt 92%. Gà Lương Phượng có sức kháng bệnh tốt, thích hợp với
mọi điều kiện chăn nuôi.
Với phẩm chất ưu việt như trên, gà Lương Phượng hiện nay đang là giống
chủ đạo được ưa chuộng và phát triển rộng rãi khắp mọi vùng ở nước ta.
1.4. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước
1.4.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, nghiên cứu về cây chùm ngây (Moringa oleifera) đã được
thực hiện trên một số khía cạnh sau: Nghiên cứu về đa dạng di truyền (Mai Hải
Châu và cs, 2014); Nghiên cứu về nhân giống (Trần Văn Tiến, 2013, Mai Hải
Châu, 2015); nghiên cứu về năng suất chất xanh (Lưu Hữu Mãnh và cs, 2003và
Dương Đức Tiến, 2012); Nghiên cứu về kỹ thuật thu hoạch (2016). Tuy nhiên,
những nghiên cứu nêu trên thực hiện với mục đích phục vụ sản xuất rau xanh
cho người và dược liệu không phải là sản xuất thức ăn gia súc.
Bên cạnh đó còn một số nghiên cứu khoa học về thay thế, bổ sung nguyên
liệu thức ăn, mang ý nghĩa rất lớn với ngành chăn nuôi gia cầm như sau:
Nghiên cứu sự thay thế của protein bằng khô dầu dừa (Nguyễn Thị Kim
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đông 2016).Tiến hành nhằm đánh giá ảnh hưởng của sự thay thế protein ở khô
12
dầu dừa cho protein của khẩu phần thức ăn hỗn hợp trên khối lượng, chất lượng
thân thịt và hiệu quả kinh tế của gà Sao nuôi thịt. Thí nghiệm được bố trí theo
thể thức hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 nghiệm thức và 3 lần lặp lại trên 150 gà Sao
28 ngày tuổi. 5 nghiệm thức là 5 mức độ protein khô dầu dừa tương ứng 0, 7,5,
15, 22,5 và 30% thay thế lượng protein của khẩu phần thức ăn hỗn hợp. Mỗi đơn
vị thí nghiệm có 10 gà và thí nghiệm được tiến hành trong 10 tuần. Kết quả
lượng DM, chùm ngây và CP tiêu thụ không có sự biến động (P >0,05) giữa
các nghiệm thức, trong khi lượng EE và ME tiêu thụ cao hơn có ý nghĩa thống
kê (P<0,05) ở nghiệm thức KDD22,5 và KDD30. Tăng trọng của gà thí nghiệm
cao nhất và FCR thấp nhất có ý nghĩa thống kê (P<0,05) ở các nghiệm thức
KDD15, KDD22,5 và KDD30. Trọng lượng thân thịt, thịt ức và thịt đùi cao
nhất có ý nghĩa thống kê (P<0,05) ở nghiệm thức KDD22,5. Thí nghiệm được
kết luận rằng protein khô dầu dừa có thể thay thế protein của khẩu phần thức
ăn hỗn hợp. Ở mức thay thế 22,5% protein, gà Sao thí nghiệm đạt tăng trọng,
khối lượng và năng suất thịt cao nhất và lợi nhuận tốt hơn.
Hồ Trung Thông và cs(2012): Nghiên cứu được triển khai nhằm xác định
giá trị năng lượng trao đổi có hiệu chỉnh nitơ (MEN) trong một số phụ phẩm
(khô dầu lạc, khô dầu dừa, bột đầu tôm và tấm gạo) khi được sử dụng làm thức
ăn nuôi gà. Tổng số 150 con gà Lương Phượng 35 ngày tuổi được sử dụng trong
thí nghiệm. Khẩu phần cơ sở được thiết kế đảm bảo đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng
cho gà ở giai đoạn thí nghiệm.
Tổng số 04 khẩu phần thí nghiệm được thiết lập bằng cách thay thế 20%
hoặc 40% khẩu phần cơ sở bằng thức ăn thí nghiệm. Giá trị MEN trong các loại
thức ăn thí nghiệm được tính theo phương pháp sai khác. Kết quả cho thấy giá trị
năng lượng trao đổi có hiệu chỉnh nitơ trong khô dầu dừa, khô dầu lạc, bột đầu
tôm và tấm gạo lần lượt là 1444,87kcal/kg; 2542,51kcal/kg; 1737,68 kcal/kg và
3539,66kcal/kg tính theo nguyên trạng. Giá trị MEN của khô dầu dừa từ nghiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cứu này thấp hơn nhiều so với giá trị MEN của khô dầu dừa trong cơ sở dữ liệu
13
thức ăn. Tuy vậy, giá trị MEN của tấm gạo từ nghiên cứu này cao hơn giá trị MEN
của tấm gạo từ một số cơ sở dữ liệu hiện nay.
Theo Tạ An Bình (1973) đã sử dụng BLKG nuôi gà con và cho biết, ở tỷ
lệ 4% trong khẩu phần, keo giậu đã có tác dụng tốt tới sinh trưởng của gà. Dương
Thanh Liêm (1981) thử nghiệm nuôi gà broiler với các khẩu phần chứa tỷ lệ
BLKG khác nhau; kết quả cho thấy, khẩu phần chứa 4% BLKG có tác dụng tốt
tới sinh trưởng và hiệu suất sử dụng thức ăn của gà. Khi tỷ lệ BLKG nâng lên tới
mức 6% khẩu phần, tăng trọng của gà bắt đầu có xu hướng giảm. Ở tỷ lệ 10%
BLKG trong khẩu phần, gà nuôi đến 9 tuần tuổi bắt đầu có biểu hiện rụng lông
và sưng tuyến giáp trạng, nhưng nếu thêm 0,5 ppm muối KI hay casein vào khẩu
phần ăn sẽ hạn chế hiện tượng rụng lông và sưng tuyến giáp của gà do hạn chế
độc tính của mimosin có trong keo giậu.
Từ Quang Hiển và Phan Đình Thắm (1995) đã nghiên cứu chế biến bột
lá sắn để nuôi gà thịt, gà đẻ trứng, lợn thịt cho kết quả tốt. Tác giả đã kết luận
có thể phối hợp 4 - 6% trong khẩu phần ăn gà thịt, 10 - 15% trong khẩu phần
của lợn.
Tác giả Từ Quang Hiển và Phan Đình Thắm (1995) đã nghiên cứu sử dụng
bột lá keo giậu bổ sung premmix vitamin trong thức ăn nuôi gà thịt công nghiệp
và cho kết luận có thể dùng 3 - 5% bột lá keo giậu bổ sung premix vitamin trong
thức ăn hỗn hợp nuôi gà thịt. Với tỷ lệ bổ sung như trên, bột lá keo giậu đã có
ảnh hưởng tốt tới tăng trọng lượng của lô thí nghiệm so với đối chứng đồng thời
làm tăng hiệu suất sử dụng thức ăn, tiêu thụ thức ăn/kg tăng trọng giảm 85 g so
với đối chứng, chi phí thức ăn giảm 8 - 10%.
Theo Đào Lệ Hằng (2007) cho rằng sắn là loại cây thức ăn gia súc có giá
trị. Không tính sản lượng củ - sản phẩm khai thác chính của nghề trồng sắn mà
phụ phẩm ngọn, lá cũng là nguồn dinh dưỡng cho gia súc, gia cầm. Lá sắn có hàm
lượng protein và các axit amin cao hơn các bộ phận khác, hàm lượng lipit ở lá cao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
gấp 6 lần so với củ sắn. Lá sắn có chất dinh dưỡng tương đối cao cụ thể hàm lượng
14
protein trung bình là 6,59 - 7,00% (Nguyễn Khắc Khôi, 1982) cho nên một số nơi
đã dùng BLS bổ sung vào thức ăn cho gia súc, gia cầm.
Theo Trần Thị Hoan (2012)bột lá sắn (BLS) giàu protein, các axit amin
tương đối cân đối nhưng năng lượng lại thấp, tỷ lệ xơ cao, ngoài ra còn chứa
độc tố HCN với hàm lượng khá cao. Vì vậy, phải chế biến để khử độc tố trong
lá sắn, bổ sung các thức ăn giàu năng lượng khi đưa bột lá sắn vào khẩu phần
gia súc, gia cầm. Tỷ lệ bột lá sắn thích hợp trong khẩu phần của gà là dưới
10%.Ở Việt Nam, nghiên cứu về cây chùm ngây (Moringa oleifera) đã được
thực hiện trên một số khía cạnh sau: Nghiên cứu về đa dạng di truyền (Mai Hải
Châu và cs, 2014); Nghiên cứu về nhân giống (Trần Văn Tiến, 2013, Mai Hải
Châu, 2015); nghiên cứu về năng suất chất xanh (Lưu Hữu Mãnh và cs, 2003
vàDương Đức Tiến, 2012). Tuy nhiên, những nghiên cứu nêu trên thực hiện với
mục đích phục vụ sản xuất rau xanh cho người và dược liệu không phải là sản
xuất thức ăn gia súc.
1.4.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Ở nước ngoài, nghiên cứu trên các khía cạnh sau đây về cây thức ăn chùm
ngây: Về di truyền (Abubaka và cs, 2011); về nhân giống, gieo ươm (Adebayo và
cs, 2011; Antwi và cs, 2011; Bennett và cs, 2003); về kỹ thuật trồng và thu hoạch
(Amaglo và cs, 2006; Fadiyimu và cs, 2011) về ảnh hưởng của phân bón đến năng
suất và thành phần hóa học (Dash và cs, 2009;Imoro và cs, 2012;Isaiah và cs,
2013). Các nghiên cứu trên đều nhằm mục đích phục vụ sản xuất rau xanh cho
người, làm dược liệu hoặc cây lâm nghiệp (trồng rừng).
Kỹ thuật trồng và thu hoạch cây thức ăn cho người và cho vật nuôi có sự
khác nhau. Ví dụ: Nếu trồng làm rau xanh cho người thì cần thu hoạch lúc rau
còn non dẫn tới khoảng cách thu hoạch (tuổi của rau) phải ngắn, còn cho vật nuôi
thì khoảng cách giữa các lứa phải dài hơn (thu hoạch ở thời điểm cây thức ăn đạt
được tối đa về dinh dưỡng và năng suất). Với mục đích khác nhau như trên dẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đến khoảng cách trồng (mật độ trồng) cũng phải khác nhau. Cụ thể: Mật độ trồng
15
rau ăn cho người (khoảng cách thu hoạch ngắn) thì phải trồng dày hơn so với
mật độ trồng thu hoạch lá cho vật nuôi.
Cũng tương tự như vậy, tỷ lệ các chất dinh dưỡng trong lá ở thời điểm còn
non (rau ăn cho người) khác với thời điểm thu lá làm thức ăn cho vật nuôi.
Mặc dù đã có một số nghiên cứu về cây chùm ngây (Moringa oleifera)
nhưng các nghiên cứu này chỉ nhằm mục đích phục vụ sản xuất rau ăn cho người
và dược liệu, do đó, cần phải có các nghiên cứu tương tự với mục đích phục vụ
sản xuất thức ăn (chất xanh, bột lá) cho vật nuôi.
Và một số nghiên cứu khoa học thay thê, bổ sung thức ăn khác cho gia
cầm được thực hiện như sau:
Montilla và cs (1976) cho biết khả năng tăng khối lượng tăng cao và khả
năng chuyển hóa thức ăn giảm mạnh khi thay thế bột bông hay bột ngô bằng bột
lá sắn (BLS) từ 0, 10, 20 và 30% trong khẩu phần gà broiler.
Theo Wyllie và Chammanga (1979) khi sử dụng 5% bột lá và cuống lá
sắn, 10% bột ngọn lá sắn thay thế bột hạt bông cho gà broiler từ 0 - 8 tuần tuổi
thì khả năng tăng khối lượng của gà là tốt nhất.
Ravindran và cs (1986) cho rằng bột lá sắn(BLS) là thức ăn thay thế cho
bột dừa trong khẩu phần của gà thịt. Tác giả cho biết có thể sử dụng với tỷ lệ
15% BLS vẫn cho kết quả tốt. Tuy nhiên, nếu sử dụng với tỷ lệ cao hơn thì làm
giảm năng suất chăn nuôi.
Theo Eruvbetine và cs (2003) thì bột lá sắn(BLS) có hàm lượng chất xơ
cao nên mức độ tối đa sử dụng trong khẩu phần ăn cho động vật dạ dày đơn là từ
10 - 20%. Tuy nhiên, mức độ tối đa này phụ thuộc vào thành phần hóa học của
nguyên liệu sử dụng trong khẩu phần. Bổ sung dầu đậu nành 3% hoặc methionin
thì hiệu suất gà được cải thiện khi khẩu phần chứa 20% BLS.
Tác giả Iheukwumere và cs (2007) khi nghiên cứu ảnh hưởng của các mức
bột lá sắn 0%, 5%, 10% và 15% trong khẩu phần gà thịt cho biết tổng lượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
huyết thanh, albumin và hemoglobin ở mức 0% và 5% bột lá sắn (BLS) lớn hơn
16
có ý nghĩa thống kê so với sử dụng ở mức 10% và 15% BLS. Tuy nhiên, tỷ lệ
cholesterol, creatinin và ure thì không có sự sai khác nhau. Tỷ lệ thịt xẻ ở lô đối
chứng lớn hơn và có ý nghĩa thống kê so với lô thí nghiệm và tác giả khuyến cáo
chỉ sử dụng tối đa 5% bột lá sắn cho gà thịt broiler.
Iheukwumere và cs (2008) nghiên cứu đánh giá năng suất, khả năng sử
dụng thức ăn và biến đổi của một số tổ chức của cơ thể gà thịt Anak ở 5 tuần tuổi
khi sử dụng khẩu phần có bột lá sắn ở các tỷ lệ 0%, 5%, 10% và 15% cho kết
quả như sau: Lượng thức ăn thu nhận, tăng khối lượng, chuyển hóa thức ăn và
tăng khối lượng của lô đối chứng và 5% bột lá sắn là khác nhau có ý nghĩa so
với lô sử dụng 10% và 15% bột lá sắn (BLS). Khối lượng tim, gan, lách ở mức
0% và 5% BLS cao hơn có ý nghĩa thống kê (P< 0,05) so với mức 10% và 15%.
Tác giả cũng khuyến cáo chỉ nên dùng tối đa là 5% BLS cho gà broiler ở giai
đoạn kết thúc.
Onibi và cs (2008) khi nghiên cứu thay thế bột đậu tương bằng bột lá săn
(BLS) với các tỷ lệ thay thế là 0%, 30% và 60% cho gà broiler, đã thấy tăng khối
lượng của gà đến kết thúc thí nghiệm, tiêu tốn thức ăn/ kg tăng khối lượng là sai
khác có ý nghĩa thống kê với lô ĐC (chỉ dùng bột đỗ tương). Gà sử dụng thức ăn
thay thế 30% bột đỗ tương bằng BLS cho khối lượng kết thúc thí nghiệm, tăng
khối lượng trung bình cao hơn còn tiêu tốn thức ăn thấp hơn so với sử dụng ở
mức thay thế 60% và cũng cao hơn so với gà được nuôi bằng thức ăn có sử dụng
BLKG với các tỷ lệ trên.
Theo Hussain và cs (1991) thì không có sự khác nhau có ý nghĩa về tăng
trọng, hiệu suất sử dụng thức ăn giữa các nhóm gà thịt được nuôi dưỡng với các
khẩu phần chứa 0%, 5%, 10% và 15% bột lá keo giậu (BLKG) bằng cách sử
dụng BLKG thay thế một phần khô dầu lạc trong khẩu phần ăn của gà. Tuy nhiên,
khi khẩu phần ăn chứa tới 20% BLKG đã làm giảm một cách có ý nghĩa tốc độ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sinh trưởng và hiệu suất sử dụng thức ăn của gà.
17
Theo Gulraiz và cs (1991) cho biết không có sự khác nhau có ý nghĩa về
tăng trọng giữa các nhóm gà thịt được nuôi dưỡng với khẩu phần chứa 12% bột
lá keo giậu (BLKG) và khẩu phần không chứa BLKG (trong điều kiện các khẩu
phần ăn đảm bảo đồng đều về protein và năng lượng trao đổi).
Fraga và cs (1992) nhận thấy khi thay thế 5% khẩu phần cơ sở dựa trên
ngô và ngô dầu đậu tương bằng BLKG phơi khô dưới ánh nắng mặt trời để nuôi
540 gà thịt Cornish x Plymouth trong thời gian từ 0 - 6 tuần tuổi. Kết quả cho
thấy, nhóm gà thịt được nuôi dưỡng với khẩu phần chứa BLKG có mức tăng
trọng lúc 6 tuần tuổi và hiệu suất sử dụng thức ăn cao hơn nhóm gà đối chứng
được nuôi dưỡng với khẩu phần cơ sở không có BLKG.
Ở Ấn Độ, Murthy và cs (1994) đã nhận thấy, không có sự khác nhau có ý
nghĩa nào về tăng khối lượng và chuyển hóa thức ăn giữa nhóm gà được nuôi
dưỡng với khẩu phần ăn chứa 20% bột lá Sababul được xử lý bằng cách ngâm
nước trong 12 giờ và nhóm gà được nuôi dưỡng với khẩu phần đối chứng không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
có bột lá Sababul, trong giai đoạn từ 0 - 8 tuần tuổi.
18
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Bột lá cây thức ăn chùm ngây (Moringa oleifera).
- Gà sinh sản giống Lương Phượng.
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành tại trại chăn nuôi gia cầm khoa Chăn nuôi Thú y,
trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
Phân tích mẫu thức ăn, trứng tại Viện Khoa học Sự sống, Đại học Thái Nguyên.
2.2.2. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 11/2018 đến tháng 3/2019
2.3. Nội dung nghiên cứu
Xác định ảnh hưởng của thay thế một phần protein khô đỗ tương tương
bằng protein bột lá chùm ngây (Moringaoleifera) trong khẩu phần thức ăn của
gà sinh sản Lương Phượng đến tỷ lệ nuôi sống, khối lượng cơ thể, năng suất và
chất lượng trứng.
Đánh giá hiệu quả kinh tế của việc thay thế một phần protein khô đỗ tương
bằng protein bột lá chùm ngây (Moringaoleifera) trong khẩu phần thức ăn của
gà sinh sản Lương Phượng.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được tiến hành 8 tuần theo dõi trên 378 gà sinh sản Lương
Phượng, giai đoạn đẻ từ 31 - 38 tuần tuổi, chia làm 3 lô, mỗi lô có 42 gà có khối
lượng như nhau. Mỗi lô được nhắc lại 3 lần (42 x 3 = 126 con).
Thức ăn thí nghiệm như sau:
Lô đối chứng gà được ăn khẩu phần cơ sở (KP có KĐT, không có bột lá
chùm ngây); lô TN1, TN2, thay thế 20%, 30 % protein khô đỗ tương trong KPCS
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bằng protein bột lá chùm ngây.
19
Bột lá được thay thế ngay từ khi trộn thức ăn ban đầu, toàn bộ khẩu phần
của gà trong ngày sẽ được chia làm 2 bữa/ngày và cho ăn vào các thời điểm 7h
và 14h hằng ngày.
Trước thí nghiệm gà được nuôi thích nghi với điều kiện chuồng trại, mật
độ, khẩu phần như thí nghiệm trong thời gian 7 ngày.
Trong thời gian thí nghiệm trứng thu được lấy mẫu đem đi phân tích ở
viện Khoa học Sự sống. Thí nghiệm tiến hành cân khối lượng trứng, khối lượng
lòng đỏ, khối lượng lòng trắng, khối lượng vỏ 8 lần (mỗi tuần một lần), mỗi lần
5 quả.
Bảng 2.1. Sơ đồ thí nghiệm
TT Diễn giải ĐVT Lô ĐC Lô TN1 Lô TN2
Lương Lương 1 Giống gà Lương Phượng Phượng Phượng
2 Số gà thí nghiệm Con 126 126 126
3 Tuổi thí nghiệm Tuần 31-38 31-38 31-38
4 Khối lượng đầu TN g/con 2.673 2.679 2.659
5 Thời gian thí nghiệm ngày 56 56 56
Nhốt Nhốt chuồng Nhốt chuồng 6 Phương thức nuôi chuồng hở hở hở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Thay thế Thay thế 20% 30% protein protein KĐT 7 Yếu tố thí nghiệm TĂ cơ sở KĐT bằng bằng protein protein bột lá bột lá CN CN
20
Thành phần thức ăn thí nghiệm được phối hợp từ: Ngô, cám gạo, khô đỗ
tương, bột cá, bột lá chùm ngây, premix khoáng, premix vitamin, DCP....
Bảng 2.2. Khẩu phần thức ăn thí nghiệm
TN1 (20%) TN2 (30%) ĐC Nguyên liệu
540 527,7 521,6 Ngô vàng
197,7 197,7 197,7 Cám gạo loại 1
39 39 39 Bột cá nhạt 60
150 120 105 Khô đỗ tương
0 42,3 63,4 Bột lá CN
13 13 13 DCP
50 50 48 CaCO3
0,5 0,5 0,5 Methionine
5,6 5,6 5,6 Premix khoáng
4 4 4 Premix vitamin
0 0 2 Dầu thưc vật
0,2 0,2 0,2 Muối ăn
Bảng 2.3. Giá trị dinh dưỡng của thức ăn thí nghiệm
Xơ Khoáng Năng lượng Mỡ
thô TS thô thô Tên mẫu VCK (%) Protein thô (%) (%) (%) (%) (Kcal/kg)
DC (0 % CN) 86,86 16,13 4,66 5,34 12,82 3488,0
Lô TN 1 (20 % 86,85 16,03 5,74 5,50 12,71 3460,0 CN)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Lô TN 2 (30 % 87,12 16,00 5,89 5,57 12,56 3436,3 CN)
21
2.4.2. Các chỉ tiêu theo dõi
Tỷ lệ nuôi sống (%)
Tăng khối lượng của gà thí nghiệm (g)
Tỷ lệ đẻ (%)
Năng suất trứng (quả/mái/tuần)
Tiêu thụ và tiêu tốn thức ăn của gà thí nghiệm (kg)
Thành phần hóa học của trứng
Các chỉ tiêu sinh lý của trứng
Độ đậm màu của lòng đỏ
Hiệu quả kinh tế của việc thay thế
2.4.3. Phương pháp theo dõi
- Tỷ lệ nuôi sống:
Hàng ngày theo dõi và ghi chép vào sổ nhật ký số gà của các lô thí nghiệm.
- Khối lượng cơ thể gà thí nghiệm trước và sau khảo sát:
Cân khối lượng cơ thể gà lúc bắt đầu thí nghiệm và kết thúc thí nghiệm,
cân vào buổi sáng sớm (7h) trước khi cho ăn (chỉ cho uống nước) bằng cân Nhơn
Hòa, dựa trên khối lượng từng con tính được khối lượng bình quân gam/con.
KLCT con thứ 1+…+ KLCT con thứ n KLCT trung bình (gam) = n (con)
- Khả năng tiêu thụ thức ăn của gà thí nghiệm:
Thức ăn cung cấp hàng ngày vào 7h sáng, được cân bằng cân Nhơn Hòa,
thức ăn thừa của từng lô được cân vào 7h sáng ngày hôm sau. Sau đó tính thức
ăn tiêu thụ (gam/con/ngày), trong tuần:
Tổng khối lượng TĂTT của cả lô /tuần Khả năng tiêu thụ TĂ = Số đầu gà trong tuần x 7 ngày
- Tỷ lệ đẻ và năng suất trứng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tỷ lệ đẻ trứng được xác định bằng công thức:
22
Số trứng đẻ ra trong kỳ (quả) Tỷ lệ đẻ trứng (%) = x 100 Số gà mái có mặt trong kỳ (con) x số ngày trong kỳ
Năng suất trứng bình quân trong kỳ (quả/mái bình quân):
Tổng số trứng đẻ ra trong kỳ (quả) NSTBQ trong kỳ = Số gà mái có mặt bình quân trong kỳ (con)
- Khối lượng trứng qua các tuần tuổi
Khối lượng trứng (gam) được xác định bằng cách cân 05 quả trong số
trứng thu được trong tuầnvào ngàythứ 4hàng tuần, bằng cân điện tử chính xác có
độ chính xác tới 0,01 g.
KL quả thứ 1+…+ KL quả thứ n Khối lượng trứng(g) = n (quả)
- Tỷ lệ lòng đỏ/lòng trắng(%): Vào ngày thứ 56 của TN1 lấy mỗi lô 15 quả
trứng trung bình của lô để khảo sát bằng cáchcân khối lượng trứng trước khi tách
lòng đỏ ra khỏi lòng trắng và vỏ trứng, sau đó cân khối lượng lòng đỏ, lòng trắng,
vỏ bằng cân điện tử có độ chính xác tới 0,01 g. Tỷ lệ lòng đỏ/lòng trắng được
tính theo công thức:
Khối lượng lòng đỏ (g) Tỷ lệ lòng đỏ/ lòng trắng (%) = × 100 Khối lượng lòng trắng (g)
Tỷlệlòngđỏ (%)
Khối lượng lòng đỏ (g) Tỷ lệ lòng đỏ (%) = × 100 Khối lượng trứng (g)
Tỷlệlòngtrắng (%)
Khối lượng lòng trắng (g) Tỷ lệ lòng trắng/ KL trứng (%) = × 100 Khối lượng trứng (g)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Tỷ lệ vỏ (%)
23
Khối lượng vỏ (g) Tỷ lệ vỏ (%) = × 100 Khối lượng trứng (g)
- Độ đậm màu lòng đỏ trứng được đo bằng quạt so màu của Roche.
- Chất lượng trứng: Sau 08 tuần thí nghiệm lấy mẫu trứng đi phân tích; các
chỉ tiêu VCK, protein, lipit... được phân tích tại Viện Khoa học Sự sống, Trường
Đại học Nông Lâm - ĐH Thái Nguyên.
- Hiệu quả sử dụng thức ăn trong giai đoạn gà đẻ trứng
∑ lượng thức ăn tiêu tốn trong tuần (kg) TTTĂ/10 quả trứng = x 10 ∑ số trứng thu được trong tuần (quả)
2.5. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thu được đem xử lý theo phương pháp xử lý thống kê sinh vật
học của Nguyễn Văn Thiện (2002), trên phần mềm Minitab 16, Microsoft
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Excel 2007.
24
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tỷ lệ nuôi sống của gà thí nghiệm
Đây là một tính trạng có yếu tố di truyền thấp, phụ thuộc chủ yếu vào điều
kiện môi trường sống, điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, thức ăn, sức chống chịu
với điều kiện ngoại cảnh của từng cá thể, từng dòng, giống. Vì vậy, nâng cao tỷ
lệ nuôi sống là một trong những chỉ tiêu quan trọng khi nghiên cứu khả năng sản
xuất của bất kỳ một dòng, giống gia súc, gia cầm nào. Để đánh giá ảnh hưởng
của việc thay thế một phần protein khô đỗ tương bằng protein bột lá chùm ngây
đến tỷ lệ nuôi sống của gà thí nghiệm. Chúng tôi đã tiến hành thực hiện theo dõi
số lượng gà thí nghiệm hàng ngày. Kết quả theo dõi tỷ lệ nuôi sống được tính
toán và trình bày tại bảng 3.1.
Bảng 3.1. Tỷ lệ nuôi sống của gà thí nghiệm (%)
ĐC (0 % CN)
Tuần tuổi
Trong tuần 100 100 100 100 Cộng dồn 100 100 100 100 TN 1 (20% CN) Cộng Trong dồn tuần 100 100 100 100 100 100 100 100 TN 2 (30% CN) Cộng Trong dồn tuần 100 100 100 100 100 100 100 100 31 32 33 34
100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 35 36 37 38
100 100 100 100 100 100 Trung bình
Kết quả ở bảng 3.1 cho thấy tỷ lệ nuôi sống của gà thí nghiệm là rất cao
đạt 100%, thời gian nuôi khảo sát là vụ đông- xuân, thời tiết có nhiều biến đổi
thất thường, nhưng tỷ lệ nuôi sống của cả 3 lô gà thí nghiệm đều đạt cao, chứng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tỏ gà thí nghiệm có khả năng chống chịu và thích nghi tốt. Vào thời gian này,
25
thời tiết lạnh và bắt đầu có mưa, thí nghiệm tiến hành thay thế một phần protein
của khô dỗ tương bằng protein bột lá chùm ngây cho gà ở lô TN1 và lô TN2 có
thể sẽ chịu ảnh hưởng của thời tiết.
Ở 31 tuần tuổi, khi gà bắt đầu được đưa vào thí nhiệm và cho ăn thức ăn
được thay thế một phần protein khô đỗ tương bằngprotein bột lá chùm ngây, thể
trạng gà ở cả 3 lô đồng đều, sự thay đổi khẩu phần trong thức ăn của gà chưa tác
động đến sinh trưởng của gà. Đến tuần 33 (khoảng 16-18 ngày)trở đi, gà ở lô
TN1 và TN2 nhanh nhẹn hơn, gà ăn tập trung hơn, không ăn rời rạc như ở tuần
đầu. Lông gà và mào gà ở lô TN1 và TN2 tươi, đẹp hơn, gà vận động nhiều hơn,
nhanh nhẹn hơn ngay cả những ngày nhiệt độ xuống thấp, song mức độ sinh
trưởng tốt của gà ở hai lô có tỷ lệ thay thế chùm ngây là 20% và 30% không có
sự khác biệt, điều này có thể thấy được bằng quan sát thông thường. Theo chúng
tôicó sự khác biệt như trên ở lô đối chứng và 2 lô còn lại có thể là do tỷ lệ bột lá
cao làm gà tăng chuyển hóavitamin như A, E, B nên phần nào đã làm tăng khả
năngchống lạnh và chuyển hóa các chất dinh dưỡng nên ngoại hình gà đẹp hơn.
So sánh kết quả cho thấy tỷ lệ nuôi sống của gà trong thí nghiệm này tương
đương với kết quả của Ngô Hồng Thêu (2015); Hồ Thị Bích Ngọc, (2012) và
Trần Thị Hoan (2012).
Như vậy, việc thay thế chùm ngây vào khẩu phần ăn của gà góp phần giúp
cho thể trạng của gà được cải thiện tốt hơn, tác động trực tiếp đến năng suất đẻ
và chất lượng trứng, là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu
quả kinh tế trong chăn nuôi.
3.2. Tăng khối lượng của gà thí nghiệm
Khối lượng gà khi bắt đầu thí nghiệm và khi kết thúc thí nghiệm là khối
lượng sống của gà được theo dõi trước và sau khi đưa yếu tố thí nghiệm, nhằm
xác định sự tăng, giảm khối lượng sống của gà trong thời gian thí nghiệm.
Khối lượng gà lúc bắt đầu thí nghiệm và kết thúc thí nghiệm là chỉ tiêu
phản ánh sự ảnh hưởng của yếu tố thí nghiệm đến thể trọng của cơ thể. Kết quả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thí nghiệm được trình bày ở bảng 3.2.
26
Bảng 3.2. Khối lượng gà trước và sau khi kết thúc thí nghiệm (gam)
Khối lượng (gam) Tăng, giảm n Lô TN khối lượng Trước TN Sau TN (lô) (%) ( m ) ( m )
ĐC 3 2673 ± 3,17 2836a ± 2,95 + 6,10
TN1 (20% CN) 3 2679 ± 2,88 2879b ± 3,13 + 7,47
Ghi chú: Theo hàng dọc, các số mang chữ cái khác nhau thì sai khác giữa chúng
có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
TN2 (30% CN) 3 2659 ± 2,43 2893c ± 2,41 + 8,80
Kết quả bảng 3.2 cho thấy: Khi tăng lượng protein bột lá chùm ngây thay thế
cho protein khô đỗ tương ở các mức 20% và 30% trong khẩu phần đã làm tăng
khối lượng gà theo lượng thức ăn thay thế. Khi bắt đầu thí nghiệm gà mái ở cả 3
lô ĐC, TN1, TN2 có khối lượng lần lượt là 2673 g; 2679 g; 2659 g. Đến khi kết
thúc thí nghiệm khối lượng gà mái ở lô ĐC, lô TN1, lô TN2 có xu hướng tăng so
với khối lượng gà lúc bắt đầu thí nghiệm lần lượt là 2836 g; 2879 g; 2893 g, tương
đương tăng 6,10 %; 7,47 %; 8,80 % so với lúc bắt đầu thí nghiệm. Trong đó lô
TN2 khối lượng gà tăng cao nhất. Điều này cho thấy khi thay thế khô đỗ tương ở
mức 20 và 30 % protein bột lá chùm ngây vào thức ăn có ảnh hưởng đến khối
lượng cơ thể gà sau 56 ngày thí nghiệm. Sở dĩ có điều này là do ngoài protein thì
gà thu nhận thêm các thành phần vitamin có trong bột lá chùm ngây nên làm thúc
đẩy chuyển hóa các chất dinh dưỡng từ thức ăn nên làm gà tăng khối lượng. Khi
so sánh lô ĐC với lô TN1 và TN2 thì khối lượng gà sau thí nghiệm không có sự
sai khác nhau với P > 0,05.
Để thấy rõ hơn ảnh hưởng của việc thay thế protein bột lá chùm ngây cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
protein khô đỗ tương. Chúng tôi đã thể hiện qua hình 3.1 như sau:
27
10000
KL gà (gam)
9000
8000
2893
7000
2659
6000
TN2
5000
TN1
2879
4000
2679
ĐC
3000
2000
2836
2673
1000
0
Trước TN
Sau TN
Hình 3.1. Biểu đồ sinh trưởng tích lũy của gà trước và sau thí nghiệm
Như vậy, thay thế protein khô đỗ tương bằng protein bột lá chùm ngây đã
làm gà tăng khối lượng cao hơn so với lô đối chứng. Sở dĩ có điều này là do khi
bổ sung protein bột lá chùm ngây vào khẩu phần làm cho mức năng lượng trong
thức ăn giảm đi, chúng tôi đã phải bổ sung dầu ăn vào, đây là nguồn nguyên liệu
giàu năng lượng, dễ chuyển hóa. Ngoài ra, trong bột lá chùm ngây còn chứa rất
nhiều sắc tố, vitamin và các axit amin thiết yếu… Tất cả các yếu tố này tác động
lên quá trình thu nhận thức ăn của gà nên đã làm tăng tích lũy mô mỡ và tăng
khả năng chuyển hóa các chất dinh dưỡng tích lũy vào thân thịt của gà. Điều này
được thể hiện rõ qua đồ thị được thể hiện qua hình 3.1.
3.3.Khả năng sinh sản của gà thí nghiệm
Khả năng sinh sản là một trong những chỉ tiêu rất quan trọng, phản ánh
khá toàn diện về khả năng sinh sản (đẻ trứng) của gà; tỷ lệ đẻ nói lên việc nuôi
dưỡng, chăm sóc, quản lý đàn gà của người chăn nuôi có tốt hay không. Trong
hoạt động thí nghiệm, tỷ lệ đẻ là chỉ số phản ánh tác động của các yếu tố thí
nghiệm, mà ở đây cụ thể là việc thay thế một phần khô đỗ tương bằng bột lá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chùm ngây vào khẩu phần thức ăn của gà.
28
Tỷ lệ đẻ của gà phụ thuộc sức đẻ của các cá thể trong tổng đàn theo dõi.
Cá thể nào có tỷ lệ đẻ cao, chất lượng trứng tốt, đồng đều và kéo dài trong thời
kỳ sinh sản, mà vẫn giữ được trạng thái sinh trưởng tốt chứng tỏ là giống tốt.
Hơn nữa, chế độ dinh dưỡng cũng là một trong những yếu tố quan trọng, quyết
định đến tỷ lệ đẻ, chất lượng trứng, khả năng duy trì năng suất đẻ cao; thể trạng
của gà đẻ, chu kỳ đẻ tốt nhất. Đối với gà nuôi nhốt có tỷ lệ đẻ thường thấp trong
vài tuần đầu của chu kỳ đẻ, sau đó tăng dần từ 28 đến 36 tuần tuổi và giảm dần
tỷ lệ đẻ ở các tuần tiếp theo cho đến cuối kỳ sinh sản.
Để đánh giá rõ hơn những nhận định khái quát trên, chúng tôi đã tiến hành
thí nghiệm thay thế một phần khô đỗ tương bằng bột lá chùm ngây vào khẩu
phần ăn của gà đẻ Lương Phượng trong 8 tuần đẻ (từ 31 tuần tuổi đến 38 tuần
tuổi). Kết quả theo dõi được trình bày tại bảng 3.3.
Bảng 3.3. Tỷ lệ đẻ qua các tuần của gà thí nghiệm (%), (n = 3)
1
Tuần tuổi Tuần thí nghiệm Lô ĐC (0 % CN) Lô TN1 (20 % CN) Lô TN2 (30 % CN)
47,62
46,26
46,26
2
31
55,10
55,78
57,14
3
32
40,82
57,82
59,18
4
33
38,10
53,74
56,46
5
34
53,74
55,10
57,82
6
35
48,30
53,74
59,18
7
36
47,62
50,34
60,54
8
37
46,94
52,38
61,22
38
47,28bc
53,15ab
57,23a
Trung bình
Kết quả số liệu ở bảng 3.3 cho thấy các lô gà thí nghiệm khác nhau có tỷ
lệ đẻ khác nhau. Trong đó, tỷ lệ đẻ trung bình cao nhất ở lô TN2 là 57,23%, sau
đó đến lô TN1 là 53,15% và thấp nhất là lô đối chứng là 47,28%. Kết quả so sánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thống kê về tỷ lệ đẻ của gà giữa ba lô cho thấy tỷ lệ đẻ của lô TN2 sai khác có ý
29
nghĩa thống kê với lô ĐC với P < 0,001 còn lô ĐC và TN1 không có sự sai
khác nhau với P > 0,05, giữa lô TN1 với lô TN2 cũng không có sự sai khác
nhau với P > 0,05. Tỷ lệ đẻ của gà ở cả ba lô ĐC, TN1, TN2 đều có xu hướng
tăng dần và đạt cao nhất ở tuần thí nghiệm thứ 3, sau đó giảm thấp ở tuần thí
nghiệm thứ 4. Tuy nhiên, sự giảm này vẫn cho tỷ lệ đẻ cao hơn so với khi bắt
đầu thí nghiệm rồi tỷ lệ đẻ của gà lại tiếp tục tăng dần và đạt cao nhất ở tuần
thí nghiệm thứ 8 đối với lô TN2 là 61,22%, còn lô TN1 cao nhất ở tuần thí
nghiệm thứ 6 là 53,74% và ở lô đối chứng cao nhất ở tuần thí nghiệm thứ 5 là
53,74%.
Như vậy, ở tuần thí nghiệm thứ 3 thì tỷ lệ đẻ của cả 3 lô gà ĐC, TN1, TN2
đều tăng lên và đạt lần lượt là 40,82; 57,82 và 59,18 %, sau đó giảm xuống ở
tuần thứ 4 còn lại lần lượt là 38,10; 53,74 và 56,46 %. Sang tuần thứ 5 sức đẻ bắt
đầu tăng trở lại nhưng mức tăng không vượt trội, lô TN2 tăng cao nhất là 57,82
%, lô TN1 là 55,10 %, thấp nhấp ở lô ĐC là53,74% mức tăng thêm chỉ đạt 1,36
đến 15,64 %. Từ tuần thứ 6 trở đi tỷ lệ đẻ bắt đầu giảm xuống và đạt thấp nhất ở
lô đối chứng là 46,94 % ở tuần thí nghiệm thứ 8 (38 tuần tuổi), còn ở lô TN1 là
50,34% ở tuần thí nghiệm thứ 7 (37 tuần tuổi), riêng lô TN2 đạt cao nhất ở 8 tuần
tuổi là 61,22 %. Sở dĩ có điều này là do gà của chúng tôi cùng ở một độ tuổi nên
chúng có diễn biến tăng giảm về tỷ lệ đẻ theo từng chật đẻ. Tuy nhiên, tỷ lệ đẻ
của gà ở lô TN2 luôn lớn hơn TN1 và lô TN1 luôn lớn hơn lô ĐC, điều này cho
thấy các thành phần dinh dưỡng trong bột lá chùm ngây đã có tác động làm tăng
khả năng phát dục của buồng trứng nên gà ở lô thí nghiệm luôn đẻ tốt hơn so với
lô đối chứng, ở lô TN2 do sử dụng nhiềuprotein bột lá chùm ngây hơn TN1 mà
bột lá lại chứa nhiều chất dinh dưỡng như vitamin, axit amin hơn nên gà đã có
xu hướng đẻ cao hơn so với TN1. Theo chúng tôi có thể do tỷ lệ bột lá cao làm
gà tăng chuyển hóa hơn nên phần nào đã tác động đến khả năng sinh sản của gà,
điều này thể hiện được tính ưu việt của bột lá chùm ngây là làm cho sức sinh sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
của gà tốt hơn. Kết quả của chúng tôi theo dõi phù hợp với quy luật chung về
30
khả năng sinh sản của gia cầm, tức là tỷ lệ đẻ đạt đỉnh cao của gà là từ tuần tuổi
30 - 36, còn từ 37 tuần tuổi trở đi thì tỷ lệ đẻ của gà sẽ giảm dần.
Dương Thanh Liêm (1998) cho biết mức thích hợp nhất bổ sung bột lá sắn
(BLS) cho gà sinh sản là 4 %. Nguyễn Đức Hùng (2004)cho biết: Tỷ lệ bột lá keo
giậu thích hợp trong khẩu phần ăn của gà mái sinh sản là 6 %. Theo tác giả Trần
Thị Hoan (2012) thì khẩu phần chứa 6 % bột lá sắn có tỷ lệ đẻ cao nhất. Nếu
quy lượng bột lá trong khẩu phần thì chúng tôi thay thế tương ứng với 4,23 và
6,34% trong khẩu phần và kết quả cũng có diễn biến tương tự như kết quả của
70
60
50
40
các tác giả trên đã nghiên cứu.
% ẻ đ ệ
30
l ỷ T
Đc
20
TN1 20%
10
TN2 30%
0
T1
T2
T3
T4
T5
T6
T7
T8
Tuần TN
Đc
47.62
55.1
40.82
38.1
53.74
48.3
47.62
46.94
TN1 20% 46.26
55.78
57.82
53.74
55.1
53.74
50.34
52.38
TN2 30% 46.26
57.14
59.18
56.46
57.82
59.18
60.54
61.22
Hình 3.2: Biểu đồ tỷ lệ đẻ của gà ở các tuần thí nghiệm
Qua hình 3.2 chúng tôi nhận thấy đường biểu diễn tỷ lệ đẻ của lô TN2 luôn
ở vị trí trên cùng, tiếp đó là đường biểu diễn của lô TN1 và thấp nhất là đường
biểu diễn của lô ĐC. Khi so sánh lô ĐC với lô TN1 và TN2 được thay thế một
phần protein khô đỗ tương bằng protein bột lá chùm ngây cho thấy trung bình tỷ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lệ đẻ tăng lần lượt là 5,87 % và 9,95%.
31
Hình 3.2 cho thấy đường biểu diễn tỷ lệ đẻ của lô ĐC với lô TN1 luôn sát
nhau, có điểm gần nhau, nhưng đường biểu diễn của lô ĐC luôn thấp hơn. Điều
này cho thấy với tỷ lệ 20 % protein bột lá chùm ngây tỷ lệ đẻ không cao hơn cách
biệt so với lô ĐC. Tuy nhiên, với số lượng theo dõi chưa nhiều, thời gian theo
dõi chưa dài, việc đánh giá các tác động khác đến tỷ lệ đẻ chưa được xem xét cụ
thể, riêng rẽ, xong từ những kết quả theo dõi, nghiên cứu ban đầu cho thấy bột
lá chùm ngây đã có tác động đến tỷ lệ đẻ của gà, với mức thay thế 30 % bột lá
chùm ngây vào khẩu phần ăn đã nâng cao tỷ lệ đẻ ở một số giai đoạn trong chu
kỳ đẻ của gà rõ nét hơn so với mức 20% bột lá chùm ngây.
3.4. Năng suất trứng của gà thí nghiệm
Trong chăn nuôi gà, năng suất trứng của gà được hiểu là tổng số trứng đẻ
ra của 01 cá thể gà trong một đơn vị thời gian. Chỉ tiêu này phản ánh trạng thái
sinh lý của gà và khả năng hoạt động của hệ sinh dục. Tuy nhiên, năng suất trứng
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: giống, loài, hướng sản xuất, mùa vụ sản xuất,
thức ăn và đặc điểm cá thể. Tất cả những yếu tố trên đều đặt trong điều kiện, môi
trường cụ thể, những tác động của các yếu tố đó sẽ tác động đến năng suất trứng
của gà.
Xác định được những yếu tố tác động làm tăng hoặc giảm năng suất trứng
trong điều kiện môi trường cụ thể để hạn chế tối đa những tác động có thể làm
sai lệch kết quả thí nghiệm. Vì vậy, thí nghiệm trước tiên phải đảm bảo khối
lượng cơ thể gà luôn tương đương với độ tuổi; chế độ dinh dưỡng trước khi đẻ
phải đảm bảo để giữ được khối lượng cơ thể ở các lô, không để mất cân bằng
quá lớn giữa các cá thể (đảm bảo đàn gà có độ đồng đều cao).
Trong thí nghiệm này, việc đánh giá tác động của thay thế một phần
protein khô đỗ tương bằng bột lá chùm ngây vào khẩu phần ăn và tiến hành theo
dõi, tổng hợp, phân tích hàng ngày. Kết quả theo dõi hàng ngày được ghi chép,
định kỳ thống kê và xử lý số liệu để tiến hành đánh giá cụ thể. Kết quả thu được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trong 8 tuần thí nghiệm được trình bày tại bảng 3.4.
32
Bảng 3.4. Năng suất trứng gà thí nghiệm qua các tuần đẻ, n=3
Lô ĐC (0 % CN)
Lô TN1 (20% CN)
Lô TN2 (30% CN)
Năng suất
Năng suất
Năng suất bình
bình quân
bình quân
Số
Số
Số
Tuần đẻ
quân (quả/mái)
(quả/mái)
(quả/mái)
trứng
trứng
trứng
(quả)
(quả)
(quả)
Theo
Cộng
Theo
Cộng
Theo
Cộng
tuần
dồn
tuần
dồn
tuần
dồn
70,3
3,35
3,35
68,0
3,24
3,24
68,0
3,24
3,24
31
81,0
3,86
7,21
81,7
3,89
7,13
83,7
3,98
7,22
32
81,7
3,89
11,10
84,7
4,03
11,16
87,0
4,14
11,37
33
70,7
3,37
14,46
79,0
3,76
14,92
82,7
3,94
15,30
34
79,3
3,78
18,24
81,0
3,86
18,78
84,7
4,03
19,33
35
70,7
3,37
21,60
79,3
3,78
22,56
94,0
4,48
23,81
36
70,0
3,33
24,94
74,3
3,54
26,10
90,3
4,30
28,11
37
69,0
3,29
28,22
77,0
3,67
29,76
87,7
4,17
32,29
38
Tổng
592,7c
625,0b
678,0a
So sánh (%)
100c
105,46b
114,40a
Ghi chú: Theo hàng ngang, các số mang chữ cái khác nhau thì sai khác
giữa chúng có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
Kết quả bảng 3.4 cho thấy sản lượng trứng của 3 lô gà thí nghiệm tăng
lên ở các tuần thí nghiệm thứ 2, 3 và giảm ở tuần thí nghiệm thứ 4. Cụ thể ở lô
ĐC tăng từ 70,3 lên 81,7 quả, sau đó giảm còn 70,7 quả, sau đó tăng lên 79,3
quả rồi giảm xuống còn 69 quả ở tuần thí nghiệm thư 8; lô TN1 tăng từ 68 quả
ở tuần thí nghiệm thứ nhất lên 84,7 quả ở tuần thí nghiệm thứ 3, sau đó giảm đi
ở tuần thí nghiệm thứ 4 còn là 79 quả, rồi tăng lên đạt 81 quả ở tuần thí nghiệm
thứ 5, sau đó giảm dần và đạt thấp nhất ở tuần thí nghiệm thứ 7 là 74,3 quả; lô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
TN2 tăng từ 68 quả ở tuần thí nghiệm thứ nhất lên 87 quả ở tuần thí nghiệm thứ
33
3, sau đó giảm xuống còn 82,7 quả ở tuần thí nghiệm thứ 4 rồi tiếp tục tăng lên
và đạt cao nhất ở tuần thí nghiệm thứ 6 là 94 quả rồi giảm xuống dần và đạt
thấp nhất ở tuần thí nghiệm thứ 8 là 87,7 quả. Có thể thấy được cả 03 lô đều
giảm ở những tuần đầu, sau đó tăng lên cao nhất ở 3 tuần thí nghiệm, sau đó
tăng giảm ở tuần thí nghiệm thứ 4, rồi lại tăng ở tuần thí nghiệm thứ 5, tiếp tục
giảm dần xuống và thấp nhất ở hai tuần thí nghiệm cuối. Nếu coi sản lượng
trứng gà của lô ĐC là 100% sản lượng trứng lô TN1, TN2 lần lượt là 105,46%;
114,40%. Sản lượng trứng của lô TN2 cao hơn lô ĐC là 14,40%, cao hơn lô
TN2 là 8,94 %.
Khi so sánh thống kê về sản lượng trứng gà giữa các TN1, TN2 với lô ĐC
chúng tôi thấy sản lượng trứng của lô TN2 với lô ĐC và lô TN1 có sự sai khác
nhau có ý nghĩa thống kê với P < 0,001;
Như vậy, khi thay thế một phần protein khô đỗ tương bằng protein bột lá
chùm ngây vào thức ăn cho gà thí nghiệm thì tỷ lệ đẻ có tăng lên nhưng sự khác
biệt có ý nghĩa khi thay thế ở mức 30 % vào khẩu phần, còn thay thế ở mức 20%
vẫn làm sản lượng trứng tăng lên nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.4 cũng cho thấy năng suất trứng gà thí nghiệm(quả/mái) tăng dần
từ tuần thí nghiệm đầu tiên lần lượt là 3,35 3,24; 3,24 quả/mái, sau đó đạt cao
ở tuần thí nghiệm thứ 3 lần lượt là 3,89; 4,03; 4,14 quả/mái, rồi lại giảm xuống
ở tuần thí nghiệm thứ 4 còn là 3,37 và 3,86 và 4,03 quả/mái. Ở tuần kế tiếp thì
sản lượng trứng tiếp tục tăng và đạt 3,78 quả/mái ở lô ĐC và 3,86 quả/mái ở lô
TN1 sau đó giảm dần và đạt thấp nhất ở tuần thí nghiệm thứ 8 ở lô đối chứng
và ở tuần thí nghiệm thứ 7 ở lô TN1; riêng lô TN2 năng suất tăng cao nhất ở
tuần thí nghiệm thứ 6 là 4,48 quả/mái sau đó giảm dần và đạt thấp nhất ở tuần
thí nghiệm thứ 8 là 4,17 quả/mái.
Để thấy rõ hơn ảnh hưởng của các mức thay thế khô đỗ tương bằng bột
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lá chùm ngây vào khẩu phần ăn của gà, chúng tôi đã thể hiện qua hình 3.3.
34
35
30
) i
25
ì
20
á m / ả u q (
ĐC
15
n â u q h n b g n ứ r t ố S
TN1 20%
10
TN2 30%
5
0
31
32
33
34
35
36
37
38
Tuần tuổi
ĐC
3.35
7.21
11.1
14.46
18.24
21.6
24.94
28.22
TN1 20% 3.24
7.13
11.16
14.92
18.78
22.56
26.1
29.76
TN2 30% 3.24
7.22
11.37
15.3
19.33
23.81
28.11
32.29
Hình 3.3. Biểu đồ năng suất trứng gà thí nghiệm qua các tuần đẻ
Ta thấy rõ việc thay thế protein khô đỗ tương bằng protein bột lá chùm
ngây ở mức 20 và 30% vào trong khẩu phần đã làm tăng tỷ lệ đẻ trứng của gà,
trong đó thay thế ở mức 30 % protein bột lá chùm ngây cho protein khô đỗ tương
đã làm tăng 14,40 % so với lô ĐC với sự sai khác rất rõ rệt (P < 0,001), còn thay
thế ở mức 20 % protein bột lá chùm ngây cho protein khô đỗ tương làm tăng 5,46
% so với lô ĐC, sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Gà của lô TN2 (30 %
CN) có tỷ lệ đẻ cao hơn gà của lô TN1 (20 %CN) với sự sai khác rõ rệt P< 0,001.
Như vậy, mức thay thế 30 % protein có tác động đến tỷ lệ đẻ lớn hơn so với mức 20
% protein.
Năng suất trứng bình quân/mái của lô TN2 cao hơn lô ĐC và lô TN1 lần
lượt là 14,40 % và 8,94 %, còn của lô TN2 cao hơn lô ĐC là 5,46 %. Thay thế
cả hai tỷ lệ 20 và 30% protein bột lá CN cho khô đỗ tương trong khẩu phần đều
làm tăng năng suất trứng/mái, nhưng ở mức thay thế 30 % protein bộtchùm ngây
cho protein khô đỗ tương vào khẩu phần làm tăng nhiều hơn. Ở mức bổ sung này
có sự sai khác rõ rệt về năng suất trứng của lô TN2 so với lô ĐC và TN1 với P
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
< 0,001.
35
Các kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước đều cho thấy bổ sung bột
lá thực vật vào khẩu phần đều ảnh hưởng tới năng suất và sản lượng trứng. Dương
Thanh Liêm (1998) cho biết mức thích hợp nhất bổ sung BLS cho gà sinh sản là 4
%. Nguyễn Đức Hùng (2004) cho biết: Tỷ lệ bột lá keo giậu thích hợp trong khẩu
phần ăn của gà mái sinh sản là 6 %. Theo tác giả Trần Thị Hoan (2012) bổ sung 6 %
bột lá sắn. Kết quả nghiên cứu trong thí nghiệm nàycũng cho thấy có sự ảnh
hưởng có ý nghĩa tới năng suất trứng. Sở dĩ có điều đó là do, mức bổ sung đều
trong phạm vi từ 4-6% còn thí nghiệm của chúng tôi là thay thế nhưng tính theo
phần trăm trong khẩu phần thì cũng nằm trong phạm vi này.
3.5. Khả năng tiêu thụ thức ăn của gà thí nghiệm
Khả năng tiêu thụ thức ăn của gà thí nghiệm là tiêu chí đánh giá mức độ
ăn được của gà và chuyển hóa thức ăn. Thông thường đánh giá khả năng tiêu thụ
thức ăn được coi là hệ quả tác động đến quá trình sinh trưởng, tăng khối lượng
của con vật tính theo đơn vị thức ăn trên đơn vị tăng khối lượng. Vì vậy, để tính
được khả năng tiêu thụ thức ăn thì phải tính đến nhiều yếu tố khác như mức độ
dinh dưỡng, điều kiện môi trường … Trong khuôn khổ nghiên cứu này, chúng
tôi tập trung đánh giá mức độ tiêu thụ thức ăn của gà khi khẩu phần ăn được thay
thế một phần protein khô đỗ tương bằng protein bột láchùm ngây.
Trong thời gian thí nghiệm, gà thí nghiệm được cho ăn theo khẩu phần ăn
của gà sinh sản với lượng thức ăn là 130g/con/ngày và bột lá chùm ngây được
thay thế cho khô đỗ tương với mức 20% và 30% protein vào khẩu phần ăn hàng
ngày thì khả năng tiêu thụ thức ăn của gà thí nghiệm ở cả 2 lô TN và lô ĐC đều
ăn hết không còn thừa. Hơn nữa tập tính ăn của gà không thay đổi, theo dõi cho
thấy trạng thái khi gà ăn ở cả 3 lô không có sự khác biệt, kể cả trong những
ngày thời tiết thay đổi, thời gian biểu cho ăn và lượng thức ăn luôn ổn định.
Điều này chứng tỏ rằng, khi thay thế 20% và 30 % protein bột lá chùm ngây
cho protein khô đỗ tương trong khẩu phần đã không ảnh hưởng đến khả năng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tiêu thụ thức ăn của gà.
36
3.6. Hiệu quả sử dụng và chuyển hóa thức ăn
Hiệu quả sử dụng thức ăn là một chỉ tiêu vừa mang ý nghĩa kinh tế vừa
mang ý nghĩa kỹ thuật vì nó ảnh hưởng đến chất lượng và giá thành sản phẩm.
Tiêu tốn thức ăn (TTTĂ) cho sản phẩm càng thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao
và ngược lại.
FCR (Feed Conversion Ratio, Feed Conversion Rate) là một hệ số (tỷ số,
tỷ lệ) chuyển đổi thức ăn thành một đơn vị sản phẩm nào đó trong ngành chăn
nuôi; nghĩa là người chăn nuôi cần tiêu tốn bao nhiêu kg thức ăn để cho ra 1 kg
tăng trọng lượng thịt đối với vật nuôi cho thịt, cho 10 quả trứng đối với động vật
cho trứng, cho 1 lít sữa đối với động vật cho sữa… Cụ thể đối với chăn nuôi gia
cầm đẻ trứng, tiêu tốn thức ăn (kg) cho 10 quả trứng được tính bằng 10 lần tỷ lệ
lượng thức ăn tiêu tốn (kg) với số quả trứng đẻ ra (quả).
Trong nghiên cứu này, việc đánh giá hiệu quả sử dụng và chuyển hóa thức
ăn được so sánh bằng một đơn vị trứng gà (10 quả trứng gà) trên một đơn vị thức
ăn. Kết quả theo dõi được tổng hợp, mô tả trong bảng 3.5.
Bảng 3.5. Tiêu tốn thức ăn và chi phí thức ăn cho 10 quả trứng thường
TTTĂ/ 10 quả trứng (kg)
Chi phí TĂ/10 quả trứng
Tuần tuổi
Lô TN2 (30 % CN)
Lô TN2 (30% CN)
Lô TN1 (20% CN)
Lô ĐC (0 % CN)
Lô TN1 (20 % CN)
Lô ĐC (0 % CN) 2,73
2,81
2,81
22667
23058
23039
31
2,33
2,36
2,28
19589
19122
18650
32
2,25
2,33
2,20
19350
18447
18007
33
2,42
2,69
2,30
22348
19848
18875
34
2,36
2,42
2,25
20085
19358
18431
35
2,42
2,69
2,03
22348
19848
16666
36
2,58
2,73
2,12
22667
21189
17407
37
2,48
2,77
2,17
22996
20363
17803
38
TB
(Ghi chú: Giá thức ăn lô ĐC là 8303 đ/kg, lô TN1 là 8205 đ/kg, lô TN2 là 8198 đ/kg)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2,59 2,46 2,27 21506 20154 18609
37
Kết quả ở bảng 3.5 cho thấy: Mức tiêu tốn thức ăn trên 10 trứng và chi phí
thức ăn trên 10 trứng cũng có diễn biến tuân theo các diễn biến về tỷ lệ đẻ và
năng suất trứng của gà. Tức là ở lô đối chứng và lô TN1 mức tiêu tốn và chi phí
thức ăn thấp ở những tuần có tỷ lệ đẻ và năng suất cao như tuần thí nghiệm thứ
2, 3 và 5; ở lô TN2 vào các tuần 6, 7 và 8. Mức tiêu tốn và chi phí cao ở những
tuần có tỷ lệ đẻ và năng suất trứng thấp như tuần thí nghiệm thứ 1, 4, 6, 7, 8 ở lô
ĐC và TN1; ở tuần 1, 2, 3, 4 ở lô TN2.
Tiêu tốn thức ăn trung bình của ba lô gà thí nghiệm cũng có sự khác nhau,
trong đó thấp nhất ở lô TN2 là 2,27 kg/10 trứng, sau đó đến lô TN1 là 2,46 kg/10
trứng và cao nhất ở lô ĐC là 2,59 kg/10 trứng. Kết quả so sánh thống kê về tiêu
tốn thức ăn cho thấy giữa lô TN1 với lô TN2 và lô ĐC có sự sai khác nhau có ý
nghĩa thống kê với P < 0,001, còn lô TN1 với lô ĐC không có sự sai khác thống
kê với P > 0,05. Tuy nhiên, chi phí thức ăn/10 trứng lại có sự khác biệt với tiêu
tốn thức ăn cho 10 trứng, vì khi thay thế bột lá chùm ngây vào khẩu phần có giá
thấp hơn so với khô đỗ tương. Vì vậy, đã làm cho chi phí sản xuất trứng giảm
xuống. Cụ thể là: chi phí thức ăn trung bình thấp nhất ở lô TN2 là 18.609 VNĐ,
sau đó đến lô TN1 là 20.154 VNĐ và cao nhất là lô ĐC là 21.506 VNĐ. Kết quả
so sánh thống kê chi phí thức ăn cho thấy cả ba lô đều có sự sai khác nhau về chi
phí thức ăn có ý nghĩa thống kê với P < 0,001.
Cũng từ bảng trên cho thấy, thay thế proteinkhô đỗ tương bằng 20 %
protein bột lá chùm ngây và 30 % protein bộtlá chùm ngây vào khẩu phần ăn
đã làm giảm chi phí 6,28 % ở TN1 và 13,47% ở TN2 so với chi phí thức ăn của
lô ĐC. Đây là chỉ số rất quan trọng làm cơ sở để so sánh các chỉ tiêu về kinh tế
phù hợp với điều kiện thị trường, thị hiếu của khách hành khi sử dụng sản phẩm
trứng gà.
So sánh mức tiêu tốn thức ăn với chi phí thức ăn/10 quả trứng ở 3 lô với
các mức thay thế protein khô đỗ tương bằng protein bộtlá chùm ngây trong khẩu
phần tương ứng 0%; 20% và 30 % thì thấy rất rõ mức giảm tương ứng khi thay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thế bột lá chùm ngây có giá thành phấp vào khẩu phần ăn.
38
Ở mức thay thế 20% protein bột lá chùm ngây vào khẩu phần tính cho 1kg
thức ăn làm giảm giá từ 8.303 đ/kg xuống còn 8.205 đ/kg, ở mức này chi phí mỗi
kg thức ăn giảm đi 1,18%.
Ở mức thay thế 30% protein bột lá chùm ngây vào khẩu phần tính cho 1kg
thức ăn làm giảm giá từ 8.303 đ/kg xuống còn 8.198 đ/kg, ở mức này chi phí mỗi
kg thức ăn giảm đi 1,26 %.
Cũng theo cách tính như trên, nếu coi mức chi phí thức ăn ở lô ĐC cho 10
quả trứng là một đơn vị, khi thay thế protein bột lá chùm ngây choprotein khô đỗ
ở mức 20 % sẽ làm chi phí giảm 6,28 % và ở mức 30 % là 13,47 %.
Trong trường hợp này, sản phẩm trứng gà giống phải đạt được một mức
giá phù hợp đảm bảo lợi ích cho cả người chăn nuôi, kinh doanh. Tuy nhiên, việc
tính đến giá thành của bột lá chùm ngây hiện nay cơ bản là do tự sản xuất mà có,
còn tính theo giá thị trường dùng làm sản phẩm bồi bổ cho con người thì giá đầu
vào có thể biến động từ 100.000- 120.000 đ/kg là hoàn toàn không thể áp dụng
vào thực tiễn chăn nuôi.
Như vậy, khi thay thế protein khôđỗ tương bằng protein bột lá chùm ngây
đã làm giảm tiêu tốn thức ăn trên 10 trứng và làm giảm chi phí thức ăn cho 10
trứng, chi phí này chủ yếu là do bột lá chùm ngây thay thế vào khẩu phần quyết
định.
3.7. Một số chỉ tiêu sinh lý và hóa học của trứng gà thí nghiệm
Bảng 3.6 Một số chỉ tiêu về thành phần hóa học của trứng gà thí nghiệm
Mẫu Chỉ tiêu ĐVT
Lòng đỏ VCK Protein Lipid % % %
β-caroten g/100g
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Lòng trắng VCK Protein Lipid % % % Lô ĐC (0% CN) 50,05 16,53 32,43 7,60 11,92 10,72 0,19 Lô TN 1 (20% CN) 51,92 16,75 34,72 51 11,92 11,43 0,10 Lô TN 2 (30% CN) 53,05 16,37 36,02 121,5 11,37 10,37 0,16
39
Để xác định thành phần hóa học của lòng đỏ và lòng trắng trứng, chúng tôi đã
tiến hành lấy mẫu trứng vào 42 ngày sau khi cho ăn khẩu phần và phân tích 3 mẫu/lô
với các chỉ tiêu sau: VCK lòng đỏ, protein lòng đỏ, lipit lòng đỏ, và lòng trắng trứng.
Kết quả trình bày ở bảng 3.6.
* Thành phần hóa học của lòng đỏ trứng
Tỷ lệ VCK của lòng đỏ trứng giữa các lô thí nghiệm không có sự chênh lệch
đáng kể. Lô đối chứng tỷ lệ VCK lòng đỏ đạt 50,05 %, lô TN1 và lô TN2 có tỷ lệ
VCK lòng đỏ lần lượt là 51,92 % và 53,05 %.
Tỷ lệ VCK lòng đỏ của lô TN2cao hơn so với các lô thí nghiệm khác, nhưng
không có sự sai khác rõ rệt (P>0,05).
Tỷ lệ protein của lòng đỏ trứng của 3 lô gần tương đương nhau, lô đối chứng
là 16,53 % sau đó tăng lên ở lô TN1 là 16,75 % rồi lại giảm xuống ở lô TN2 chỉ còn
là 16,37 %. Như vậy, khi thay thế với mức độ 20% proteinkhô đỗ tương bằng
protein bột lá chùm ngây đã làm cho tỷ lệ protein trong lòng đỏ trứng tăng lên. Tuy
nhiên, tiếp tục tăng tỷ lệ thay thế lên 30% thì tỷ lệ protein trong lòng đỏ trứng lại
giảm đi. Kết quả so sánh thống kê về tỷ lệ protein trong lòng đỏ giữa các lô không
có sự sai khác có ý nghĩa thống kê với P > 0,05.
Tỷ lệ lipit của lòng đỏ trứng giữa các lô thí nghiệm có xu hướng tăng dần và
có sự chênh lệch đáng kể. Lô đối chứng đạt 32,43 %, lô TN1 đạt 34,72 %, lô TN2
đạt 36,02 %.
Như vậy, tỷ lệ vật chất khô và lipit trong lòng đỏ trứng của lô TN1 và TN2
có xu hướng tăng và cao hơn so với lô ĐC.
* Hàm lượng β-caroten của lòng đỏ trứng
β-caroten của lòng đỏ trứng là một trong những chỉ tiêu hết sức quan trọng
nói lên chất lượng trứng.
Để biết được ảnh hưởng của việc thay thế proteinkhô đỗ tương bằng protein
bột lá chùm ngây đến hàm lượng β-caroten của lòng đỏ trứng chúng tôi đã phân tích
hàm lượng β-caroten của trứng ở 42 ngày thí nghiệm và kết quả được trình bày tại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
bảng 3.6.
40
Hàm lượng β-caroten của lòng đỏ trứng ở lô đối chứng, TN1, TN2 lần lượt
là 7,6 g/100g, 51g/100g, 121,5 g/100g. Hàm lượng này của lô ĐC là thấp nhất,
còn của các lô TN1 và TN2 có sự tăng lên theo tỷ lệ thay thế protein khô đỗ
tương bằng protein bột lá chùm ngây cho gà ăn. Hàm lượng β-caroten của lô ĐC,
TN1 và TN2 sai khác rất rõ rệt. Kết quả phân tích của chúng tôi cũng phù hợp
với nghiên cứu của Dương Thanh Liêm (1998), Fasuyi và cs (2006). Như vậy,
tỷ lệ thay thế 20 % và 30 %protein khô đỗ tương bằng bột chùm ngâytrong khẩu
phần ăn của gà sinh sản đã có ảnh hưởng rất lớn đến hàm lượng β-caroten trong
lòng đỏ trứng.
* Thành phần hóa học của lòng trắng trứng
Tỷ lệ VCK của lòng trắng trứng của lô đối chứng, lô TN1, lô TN2 gần tương
đương nhau và lần lượt là 11,92 %, 11,92 % và 11,37 %. Tỷ lệ VCK lòng trắng
của lô ĐC và lô TN1 là như nhau. Tuy nhiên ở lô TN2 có xu hướng giảm nhẹ và
thấp hơn hai lô ĐC và TN1 là 0,55 %..
Tỷ lệ protein của lô ĐC là 10,72. Trong khi đó tỷ lệ protein của lô TN1 lại
có xu hướng tăng lên và đạt là 11,43 %. Tuy nhiên, đến lô TN2 lại có xu hướng
giảm nhẹ và đạt là 10,37. Điều đó cho thấy khi thay thế ở mức 20% proteinđã
làm tăng tỷ lệ protein trong lòng trắng lên. Tiếp tục tăng lên ở mức 30% proteinthì
lượng protein lại giảm xuống chỉ còn 11,37%. Tuy nhiên tỷ lệ protein trung bình
của lòng trắng trứng của 3 lô chênh lệch nhau không có sự sai khác rõ rệt.
Tỷ lệ lipit cũng tương tự như tỷ lệ protein. Tỷ lệ lipit của lô ĐC là cao nhất,
sau đó lại giảm ở lô TN1, lý do là ở lô này chúng tôi đã không bổ sung thêm dầu.
Tuy nhiên đến lô TN2 lại có sự tăng lên so với lô TN1 nhưng vẫn thấp hơn so
với đối chứng. Tỷ lệ lipit trung bình giữa các lô không có sự sai khác rõ rệt.
Như vậy, tỷ lệ VCK, protein, lipit trong lòng trắng trứng có diễn biến ngược
so với trong lòng đỏ (xu hướng giảm trong lòng trắng và xu hướng tăng trong
lòng đỏ).
Tuy nhiên, các chỉ tiêu nêu trên của cả lòng đỏ và lòng trắng đều không có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sự sai khác nhau rõ rệt (P>0,05). Điều đó chứng tỏ thay thế khô đỗ tương ở mức
41
20 và 30% proteintrong khẩu phần không ảnh hưởng rõ rệt đến các chỉ tiêu hóa
học nêu trên của trứng.
3.8. Chất lượng trứng gà thí nghiệm
Chất lượng trứng là một thuật ngữ chung nói đến một số tiêu chuẩn xác
định chất lượng bên trong và bên ngoài. Chất lượng bên ngoài tập trung vào mức
độ sạch, kết cấu và hình dáng của vỏ, trong khi chất lượng bên trong trứng đề
cập đến độ sạch và độ nhớt của lòng trắng trứng (albumin), kích thước của buồng
khí, hình dạng lòng đỏ và độ đậm lòng đỏ.
Như vậy, chất lượng trứng bên trong (trong khuôn khổ nghiên cứu này) là
một chỉ tiêu đánh giá quan trọng mà thí nghiệm hướng đến. Xét trên quan điểm
khoa học và kinh tế, kết quả thí nghiệm không làm thay đổi được chất lượng trứng
theo hướng tốt hơn hoặc không tốt hơn thì mục đích của thí nghiệm không có ý
nghĩa. Do vậy, mục đích hướng đến của thí nghiệm là xác định được phương pháp,
cách thức nâng cao chất lượng trứng, hoặc tìm ra được cơ sở khoa học minh chứng
cho việc tác động của thay thế protein khô đỗ tương bằng protein bột lá chùm ngây
vào khẩu phần ăn làm cải thiện chất lượng trứng.
Trên thực tế có nhiều yếu tố tác động làm tăng hoặc giảm chất lượng trứng;
trước đó cũng có nhiều nghiên cứu thông qua việc bổ sung khẩu phần ăn hoặc
một số thành phần dinh dưỡng để nâng cao chất lượng trứng. Với những kết quả
đã được ghi nhận việc thay thế các loại protein khác nhau vào khẩu phần với tỷ
lệ khác nhau đều cho những số liệu thống kê có ý nghĩa.
Bên cạnh đó chất lượng trứng tốt hoặc chưa tốt còn phản ánh khả năng đẻ
của gà, tình hình nuôi dưỡng, quản lý, nhất là chế độ dinh dưỡng trong khẩu phần
ăn. Ở thí nghiệm này thay thế protein khô đỗ tương bằng protein bột lá chùm
ngây vào khẩu phần ăn như mô tả trong thí nghiệm (mức thay thế 0%; 20 % và
30 %) để đánh giá tác động đến chất lượng trứng gà. Thí nghiệm tiến hành cân
khối lượng trứng, khối lượng lòng đỏ, khối lượng lòng trắng, khối lượng vỏ 8 lần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
(mỗi tuần một lần), mỗi lần 5 quả. Kết quả được trình bày tại bảng 3.7.
42
Bảng 3.7. Một số chỉ tiêu chất lượng trứng gà thí nghiệm (n=40)
Lô Giá trị trung bình
Chỉ tiêu
Khối lượng trứng (g) Lô ĐC (0 % CN) 61,83a Lô TN1 (20 % CN) 64,33b Lô TN2 (30 % CN) 63,67c
Khối lượng lòng đỏ (g) 26,33b 27,66a 27,83a
Khối lượng lòng trắng (g) 29,17a 29,67b 28,50c
Khối lượng vỏ (g) 6,33a 7,00b 7,33c
Tỷ lệ lòng đỏ (%) 42,59b 43,01b 43,72a
Tỷ lệ lòng trắng (%) 47,17a 46,11b 44,76c
Tỷ lệ LĐ/LT (%) 90,29a 93,26b 97,66c
Ghi chú: Theo hàng ngang, các số mang chữ cái khác nhau thì sai khác
Tỷ lệ vỏ (%) 10,24a 10,88b 11,52c
giữa chúng có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
Kết quả bảng 3.7 cho thấy khối lượng trứng ở cả 3 lô dao động từ 61,83
đến 64,33 g. Khối lượng trứng có xu hướng cao hơn ở lô TN1 (64,33g), sau đó
đến lô TN2 (63,67g) và thấp hơn ở lô ĐC (61,83g). Khối lượng trứng của 3 lô
sai khác nhau rõ rệt (P < 0,05).
Khối lượng lòng đỏ từ 26,33 - 27,83 g (chiếm 42,59 - 43,72 % khối lượng
trứng). Trong đó, khối lượng lòng đỏ cao nhất ở lô TN2 là 43,72 g, sau đó đến lô
TN1 là 43,01g và thấp nhất ở lô ĐC là 42,59g. Kết quả so sánh thống kê về khối
lượng lòng đỏ của lô TN1 và TN2 có sự sai khác có ý nghĩa thống kê với lô ĐC (P
< 0,05), nhưng giữa lô TN1 và TN2 không có sự sai khác nhau với P > 0,05.
Khối lượng lòng trắng trứng dao động từ 29,17 - 29,67g với xu hướng từ cao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
xuống thấp như sau: lô TN1 (29,67g), lô ĐC (29,17g) và lô TN2 (28,50g). Tỷ lệ
43
lòng trắng cũng có xu hướng giảm với mức thay thế tăng proteinchùm ngây vào
khẩu phần: lô TN1 (47,76%), lô ĐC (47,41 %) và lô TN1 (46,11 %).
Khối lượng vỏ trứng cũng có xu hướng tăng nghiêng về tỷ lệ thay thế khô
đỗ tương bằng bột lá chùm ngây ở mưc cao hơn; cụ thể, ở lô ĐC là 6,33 g, lô
TN1 là 7,00g và lô TN2 là 7,33 g, tương ứng là 10,24; 10,88 và 11,52 %.
Tỷ lệ lòng đỏ trên lòng trắng có xu hướng tăng theo tỷ lệ 0, 20 và 30 %
lượng protein bột lá chùm ngây được thay thế cho protein khô đỗ tươngtương
ứng là 90,29 %, tiếp theo là lô TN1 là 93,26 % và lô TN2 là 97,66 %.
Như vậy, thay thế khô đỗ tương bằng bột lá chùm ngây ở mức 20 % và 30
% vào khẩu phần có xu hướng làm tăng khối lượng trứng, khối lượng lòng đỏ,
lòng trắng và vỏ trứng cao hơn lô đối chứng, nhưng không có sự sai khác thống
kê với P > 0,05, trừ khối lượng lòng đỏ của lô TN1 và TN2 có sự sai khác thống
kê với lô ĐC với P < 0,05. Từ phân tích trên cho thấy việc thay thế protein khô
đỗ tương bằng protein bột lá chùm ngây vào khẩu phần ăn làm tăng khối lượng
trứng một cách rõ rệt, và không làm tăng khoảng cách chỉ số khối lượng giữa
TN1 với TN2; đồng thời không thấy có sự tác động rõ vào chỉ số lòng trắng, khối
lượng vỏ trứng, tỷ lệ lòng đỏ/lòng trắng. Tuy nhiên, với mức thay thế 30%protein
bột láchùm ngây cho protein khô đỗ tương đã làm tăng khối lượng lòng đỏ so
với không thay thế.
3.9. Ảnh hưởng của thay thế protein khô đỗ tương bằng protein bột lá chùm
ngây đến độ đậm màu của lòng đỏ trứng
Một số nghiên cứu trước đây đã phát hiện ra rằng màu sắc của lòng đỏ trứng
có thể xác định được lượng carotenoid (dạng sắc tố hữu cơ tự nhiên có trong thực
vật và các loài sinh vật) chứa bên trong. Anh Nguyên (2016)đây là chất chống
oxy hóa giúp hình thành vitamin A, cải thiện tình trạng xương. Do đó, màu sắc
lòng đỏ trứng càng đậm thì sẽ cung cấp càng nhiều chất dinh dưỡng cho cơ thể.
Màu sắc của lòng đỏ trứng phụ thuộc trực tiếp vào chế độ ăn của gà và cách
chăm sóc. Nếu gà mái có chế độ ăn hoàn toàn là ngô đỏ thì độ đậm màu của lòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đỏ trứng chỉ đạt đến thang điểm từ 7-8 theo thang điểm của Roche. Nếu chúng
44
được ăn thực vật thì lòng đỏ trứng sẽ có màu vàng đậm. Vào mùa hè, lòng đỏ
trứng thường trở nên nhạt màu hơn vì số lượng thức ăn gà tiêu thụ ở thời điểm
này ít. Đối với người Việt Nam, màu nhạt vẫn được coi là dấu hiệu trứng có chất
lượng thấp, do vậy người chăn nuôi rất chú trọng đến việc áp dụng các giải pháp
nâng cao độ đậm của lòng đỏ và xem đó là một tiêu chuẩn quan trọng để xác
định chất lượng sản phẩm trứng.
Trong thí nhiệm này, với tỷ lệ thay thế 20 và 30 % protein khô đỗ tương
bằng protein bột lá chùm ngây vào khẩu phần ăn và theo dõi, khảo sát bằng quạt
so màu với 15 gam màu từ vàng nhạt đến vàng đậm. Kết quả khảo sát được trình
bày tại bảng 3.8.
Bảng 3.8. Độ đậm màu lòng đỏ trứng ở các giai đoạn thí nghiệm (n=8)
Giá trị trung bình
Thời điểm khảo sát (ngày) Lô ĐC m ) ( Lô TN1 m ) ( Lô TN2 m ) (
8,60a ±0,45 8,80a ± 0,42 8,90a ± 0,51 1
8,70b± 0,41 10,30a± 0,56 10,50a±0,54 28
8,50c± 0,58 10,70b± 0,49 11,40a± 0,30 56
Số liệu bảng 3.8 cho thấy, trong quá trình thí nghiệm (trong thời gian 8
tuần, từ 31 tuần tuổi đến 38 tuần tuổi) ở lô đối chứng do không sử dụng bột lá
chùm ngây vào khẩu phần nên độ đậm màu của lòng đỏ trứng gà tương đối ổn
định ở mức 8,50 - 8,70 điểm.
Ở thời điểm ngày thứ 1, lòng đỏ trứng gà ở các lô cơ bản có độ đậm màu
tương đối bằng nhau do chưa có tác động của khẩu phần thức ăn đến độ đậm của
lòng đỏ. Kết quả so sánh thống kê giữa ba lô không có sự khác nhau về điểm số
của lòng đỏ trứng gà trong ngày đầu thí nghiệm với P>0,05. Lô ĐC, TN1 và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
TN2 có độ đậm màu đều ở mức 8,60, 8,80 và 8,90. Từ ngày thí nghiệm thứ 28
45
trở đi, độ đậm màu ở lòng đỏ trứng gà các lô TN1 và TN2 có sự thay đổi rõ rệt
hơn. Ở lô TN2 độ đậm màu cao hơn các lô còn lại.
Ở ngày thí nghiệm thứ 28, lòng đỏ trứng gà ở các lô được thay thế khô đỗ
tương bằng bột lá chùm ngây trong khẩu phần cho độ đậm màu lòng đỏ rõ hơn,
kết quả khảo sát cho thấy ở lô ĐC thấp nhất, sau đó đến lô TN1 và cao nhất là lô
TN2 tương ứng là 8,70; 10,50 và 10,30 điểm. Mức vượt trội về độ đậm màu so
với lô ĐC ở lòng đỏ trứng lô TN1 là 1,60 và ở lô TN2 là 1,80. Kết quả so sánh
thống kê về điểm số lòng đỏ trứng gà giữa lô thí nghiệm với lô ĐC có sự khác
nhau rõ rệt với P < 0,001, còn giữa hai lô thí nghiệm không có sự sai khác nhau
với P > 0,05.
Kết quả theo dõi chúng tôi thấy độ đậm màu lòng đỏ tăng dần lên qua các
giai đoạn thí nghiệm. Đến ngày thứ 56, lô ĐC (không có bột lá CN) đạt điểm
thấp nhất là 8,50; sau đó đến lô TN1 (20 % bột lá CN) đạt 10,70 điểm và cao
nhất ở lô TN2 (30 % bột lá CN) là 11,40 điểm. Như vậy, khi thay thế protein khô
đỗ tương bằng protein bột lá chùm ngây vào khẩu phần ăn thí nghiệm với 30 %
protein bột lá chùm ngây cho kết quả điểm lòng đỏ tốt nhất và sai khác có ý nghĩa
thống kê với lô ĐC (P < 0,001).
Tổng thể kết quả khảo sát trên cho thấy, với lượng thay thế 20 và 30 %
protein khô đỗ tương bằng protein bột lá chùm ngây vào khẩu phần ăn trong thời
gian 56 ngày, lòng đỏ trứng gà đạt độ đậm màu cao hơn so với lô ĐC; độ đậm
màu ở lô TN2 cao hơn lô TN1 tương ứng với mức thay thế bột lá chùm ngây vào
khẩu phần ăn thí nghiệm tỷ lệ 30 %. Kết quả này tương ứng về mặt cơ chế tăng
độ đậm so với nghiên cứu của Ana Beatriz Garcia Faitarone Rua (2016). Bên
cạnh đó, thời gian thí nghiệm diễn ra vào thời điểm thời tiết có nhiều thay đổi,
biên độ giao động thời tiết khá lớn nhưng không làm giảm độ đậm của màu lòng
đỏ. Đồng thời, độ đậm màu của lòng đỏ cho thấy sức khỏe của đàn gà ở các lô
TN1 và TN2 ổn định.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ thí nghiệm này, từ nhận định trên cơ sở đánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giá độ đậm lòng đỏ với mức thay thế 20 và 30 % protein khô đỗ tương bằng
46
protein bộtlá chùm ngây không phải là kết quả có tính đại diện cho toàn bộ những
nghiên cứu ở các mức bổ sung khác nhau. Vì thế ở các nghiên cứu khác, với mức
bổ sung khác nhau sẽ có thể cho kết quả cụ thể có thể không tương ứng với kết
quả của thí nghiệm này, hơn nữa trong điều kiện cụ thể cần có nghiên cứu, phân
tích rõ hơn hàm lượng carotenoid và các chất có lợi khác trong lòng đỏ trứng gà.
Đây cũng là nội dung mà các nghiên cứu tượng tự cần quan tâm.
3.10. Hiệu quả kinh tế của việc thay thế
Hiệu quả kinh tế tính theo các yếu tố chi phí cho thí nghiệm:
Để thấy được hiệu quả kinh tế từ việc thay thế khô đỗ tương bằng bột lá
chùm ngây vào khẩu phần, chúng tôi đã tính toán số liệu thu được trong thời gian
làm thí nghiệm. Chi tiết kết quả được trình bày tại bảng 3.9.
Bảng 3.9. Hiệu quả kinh tế của việc thay thế protein khô đỗ tương
bằng protein bộtchùm ngây
Lô ĐC
Lô TN1
Lô TN2
TT
Diễn giải
ĐVT
(0 % CN)
(20% CN)
(30% CN)
Phần chi
VNĐ
3.173.725đ
3.143.761đ
3.141.620đ
Thức ăn
VNĐ
2538725đ
2.508.761đ
2.506.620đ
i
Công lao động
VNĐ
480.000đ
480.000đ
480.000đ
Vật tư khác
VNĐ
155.000đ
155.000đ
155.000đ
Phần thu
VNĐ
5.128.264đ
5.405.000đ
6.063.470đ
Tổng trứng
Quả
ii
1.186
1.250
1.358
Giá 1 quả trứng
VNĐ
4.700đ
4.700đ
4.700đ
iii Hiệu quả kinh tế
VNĐ
1.954.539đ
2.261.239
2.921.850đ
Giá bán trứng giống là 4.700 đồng/quả.
Số liệu đầu vào được tính chi tiết theo đơn giá tại thời điểm làm thí nghiệm.
Các chi phí khác được cộng gộp vào mục vật tư khác. Số liệu hạch toán gồm hai
phần, phần chi phí và doanh thu. Trong đó phần thu chỉ tính thuần túy thu nhập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
từ trứng.
47
Trong bảng hiệu quả kinh tế, chúng tôi không tính đến chi phí mua gà sinh
sản đầu vào và bán ra vì chúng tôi chỉ thí nghiệm trong thời gian 2 tháng nên coi
giá đầu vào và đầu ra con giống là như nhau.
Thời điểm khảo sát mức giá là thời điểm tiến hành thí nghiệm; bao gồm
giá nguyên liệu thức ăn, bột lá chùm ngây, chi phí nhân công, giá trứng giống
bán ngoài thị trường với định mức giá ở ngưỡng trung bình; có một số yếu tố tác
động vào yếu tố giá thành nhưng lượng tăng giảm không đáng kể.
Kết quả bảng 3.9 cho thấy hiệu quả kinh tế trong thời gian làm thí nghiệm
của lô TN2 cao nhất là 2.921.850 VNĐ tiếp đến ở lô TN1 là 2.261.239 VNĐ và
thấp nhất ở lô ĐC lãi là 1.954.539 VNĐ. Như vậy, hiệu quả kinh tế của lô TN2
cao hơn so với lô ĐC là 967.310 VNĐ và cao hơn lô TN1 là 660610 VNĐ, còn
lô TN1 cao hơn lô ĐC là 306.700 VNĐ.
Trên phương diện kinh tế, việc đánh giá lợi nhuận dựa trên các yếu tố
thuần túy bao gồm các chi phí đầu ra và đầu vào như mô tả ở bảng trên là cách
tính cơ học để thấy được giá trị phát sinh từ các yếu tố quản lý được theo chu
trình thí nghiệm. Tuy nhiên, trên thực tế, lợi nhuận tạo ra dựa trên cách tính của
người sản xuất, kinh doanh, nội dung chi phí không chỉ bao gồm những nội dung
thí nghiệm quản lý được mà còn bao hàm cả các yếu tố khác như chi phí dịch vụ;
chi phí quảng cáo, chi phí vận chuyển, chi phí khấu hao, mức độ trượt giá, và chỉ
sống tăng, giảm của thị trường, thuế, phí kiểm dịch…Nếu đánh giá theo yêu cầu
này, chi phí khác (gồm cả chi phí vô hình) sẽ được cộng vào giá thành quả trứng,
đương nhiên sẽ kéo giảm chỉ số lợi nhuận.
Trong khuôn khổ thí nghiệm này, các yếu tố chi phí dịch vụ, chi phí vô
hình chưa được tính, mục đích là để tìm ra được cơ sở quan trọng, là yếu tố phát
sinh lợi nhuận làm căn cứ để người chăn nuôi hoạch toán định mức sinh lời và
cân nhắc phương án sản xuất. Do vậy, những phân tích nêu trên cho thấy, với
mức thay thế 30 % sẽ làm phát sinh giá trị lợi nhuận ở mức cao hơn so với các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
mức 0% và 20 % như trong khuôn khổ thí nghiệm.
48
Hoạt động sản xuất, kinh doanh trứng gà Lương Phượng hiện nay
Hiện nay trên thị trường đã xuất hiện nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh
trứng và ấp trứng gà Lương Phượng. Đây là xu thế chung đáp ứng nhu cầu thị
trường và thị hiếu của người tiêu dùng khi người tiêu dùng ngày càng quan tâm
đến chất lượng sản phẩm.
Tuy nhiên, cũng trong điều kiện hiện tại, việc ứng dụng khoa học dinh
dưỡng thông qua bổ sung dinh dưỡng vào khẩu phần ăn để nâng cao chất lượng
sản phẩm trứng chưa được quan tâm đúng mức, chưa có sự đầu tư bài bản, có hệ
thống để đưa ra được quy chuẩn kiểm định dinh dưỡng thức ăn cho gà đẻ cũng
như những thông số dinh dưỡng của trứng. Bên cạnh đó, thức ăn hỗn hợp và thức
ăn bổ sung phần lớn phải mua qua nhập khẩu từ nước ngoài, với giá thành cao;
cùng với thực hiện các chính sách thuế và chi phí dịch vụ lớn, nên thành phẩm
trứng gà ra thị trường ở mức giá khá cao; đặc biệt cho đến nay, việc quản lý chất
lượng trứng gia cầm, nhất là dòng sản phẩm trứng gà có hàm lượng dinh dưỡng
cao chưa được bảo hộ một cách khoa học do đó chưa khuyến khích được doanh
nghiệp và người chăn nuôi đầu tư phát triển.
Vì vậy, việc cung cấp những vẫn đề cơ bản làm định hình cho các nghiên
cứu tiếp theo và tham khảo của người chăn nuôi khi quan tâm đến sản xuất trứng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sạch là hết sức cần thiết.
49
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
Khẩu phần ăn được thay thế 0%, 20% và 30 % protein khô đỗ tương bằng
protein bột lá chùm ngây đã có tác động đến gà đẻ Lương Phượng như sau:
1. Không ảnh hưởng đến tỷ lệ nuôi sống của gà, nhưng có ảnh hưởng tốt
đến ngoại hình của gà (lông óng mượt, sáng hơn, da chân vàng hơn).
2.Nâng cao khả năng sản xuất trứng của gà sinh sản. Năng suất trứng/mái bình
quân/8 tuần của lô ĐC, lô TN1, lô TN2 lần lượt là 28,22; 29,76 và 32,29 quả. Trong
đó thay thế ở mức 30% protein khô đỗ tương bằng protein bột lá chùm ngây có ảnh
hưởng tốt nhất đến khả năng sản xuất trứng.
3. Không ảnh hưởng rõ rệt đến một số chỉ tiêu sinh học và hóa học của trứng
(VCK, protein, lipit, khoáng tổng số) nhưng có ảnh hưởng rõ rệt đến hàm lượng
β-caroten và điểm số quạt của lòng đỏ trứng. Hàm lượng β-caroten lòng đỏ trứng
của lô ĐC, lô TN1, lô TN2 lần lượt là 7,6; 51 và 121,5µg/100g.
4. Làm giảm tiêu tốn thức ăn và chi phí thức ăn cho sản xuất 10 trứng. Làm
tăng hiệu quả kinh tế so với lô đối chứng từ 306.700 VNĐ đến 967.310 VNĐ.
Từ các kết quả trên có thể đi đến kết luận chung là thay thế 20% và 30 %
protein khô đỗ tương bằng protein bột lá chùm ngây đều có ảnh hưởng tốt đến khả
năng sản xuất và chất lượng trứng của gà đẻ bố mẹ Lương Phượng nhưng ở mức
thay thế 30 % protein có ảnh hưởng tốt hơn so với mức 20%protein.
2. Đề nghị
Từ những kết quả của luận văn chúng tôi đề nghị:
Có thể sử dụng cả 2 mức thay thế là 20% và 30% protein khô đỗ tương bằng
protein bột lá chùm ngây trong khẩu phần ăn của gà đẻ bố mẹ, nhưng nên sử
dụng mức thay thế 30%protein, vì nó mang lại hiệu quả cao hơn mức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
20%protein.
50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu trong nước
1. Anh Nguyên (2016), Màu lòng đỏ trứng đậm hay nhạt thì tốt với sức khỏe
hơn ngày 09/11/2016. http://healthplus.vn/mau-long-do-trung-dam-hay-
nhat-thi-tot-voi-suckhoe-hon-d46579.htm
2. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (2001), Tiêu chuẩn Việt Nam,
Thức ăn chăn nuôi, Phương pháp xác định ẩm độ, TCVN 4326-201.
3. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (2007), Tiêu chuẩn Việt Nam
(2007), Thức ăn chăn nuôi, Lấy mẫu và chuẩn bị mẫu TCVN 4325:2007
(ISO 6497:2002), tr.17 – 22.
4. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (2007), Phương pháp xác định ẩm
độ, hàm lượng Nitơ và protein, TCVN 4328:2007.
5. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (2007), Phương pháp xác định hàm
lượng chất béo (lipit) thô, TCVN 4331:2007
6. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (2007), Tiêu chuẩn Việt Nam,
Thức ăn chăn nuôi Phương pháp xác định hàm lượng tro, TCVN
4327:2007.
7. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (2007), Tiêu chuẩn Việt Nam,
Thức ăn chăn nuôi Phương pháp xác định hàm lượng xơ thô, TCVN
4329:2007.
8. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Tiêu chuẩn phòng thử nghiệm,
Phương pháp xác định hàm lượng HCN
9. Brandsh.H và Bilchell.H (1978), Cơ sở sinh học của nhân giống và nuôi
dưỡng gia cầm, người dịch Nguyễn Chí Bảo, Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà
Nội, tr. 486 - 524.
10. Dương Thanh Liêm (1981)" Sản xuất và sử dụng bột cỏ giàu sinh tố trong
chăn nuôi công nghiệp" Kết quả nghiên cứu KHKT ( 1976 - 1980 ), Trường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đại học Nông nghiệp IV - Tp Hồ Chí Minh.
51
11. Dương Đức Tiến (2012). Nghiên cứu đặc điểm lâm học và khả năng gây
trồng loài Chùm ngây (MoringaoleiferaLam) quy mô hộ gia đình, trang trại
tại vùng Duyên Hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Báo cáo tổng kết thực
hiện đề tài thuộc dự án Khoa học Công nghệ nông nghiệp vốn ADB. HàNội,
tháng 6 năm 2012.
12. Đào Lệ Hằng (2007). Một số giải pháp thức ăn hiệu quả cho ngành chăn
nuôi Việt Nam. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Chăn nuôi.
13. Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh Vân (1998), Giáo trình chăn nuôi gia cầm,
Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội.
14. Hồ Thị Bích Ngọc (2012), Nghiên cứu trồng, chế biến bảo quản và sử dụng
cỏ Stylosanthes guianensis CIAT 184 cho gà thịt và gà bố mẹ Lương
Phượng, Luận án Tiến sỹ khoa học Nông nghiệp, Đại học Thái Nguyên.
15. Hồ Trung Thông và CS (2012), Giá trị năng lượng trao đổi có hiệu chỉnh
nitow trong một số phụ phẩm khi sử dụng làm thức ăn nuôi gà ,Tạp chí KH
trường Đại học Huế, tập 71, số 2.
16. Lê Đình Hòa (2017), Acid béo omega-3 là gì?, ngày 17/5/2017.
http://thuanhoapharma.com.vn/content/tintucchitiet.php?catid=368&subc
atid=0&newsid=83&langid=0
17. MeadJohnsonVaitròdinhdưỡngcủalipid.http://dinhduong.com.vn/news/vai
-tro-dinh-du-ng-cua-lipid.
18. Mai Hải Châu, Huỳnh Thanh Hùng, Võ Thái Dân, (2014). Đánh giá đa
dạng di truyền một số xuất sứ cây Chùm ngây (Moringa oleifera Lam.)
bằng chỉ thị phân tử RAPD. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn:11/2014.
19. Mai Hải Châu, (2015). Ảnh hưởng của giống và mật độ trồng đến sinh
trưởng và năng suất lá Chùm ngây (Moringa oleifera Lam.) làm rau. Tạp
chí Khoa học và Công nghệ Lâm nghiệp:12/2015
20. Nguyễn Duy Hoan và Trần Thanh Vân (1998). Giáo trình chăn nuôi gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cầm, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
52
21. NguyễnVăn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc, Nguyễn Duy Hoan (2002), Giáo
trình phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi, Nxb Nông nghiệp Hà Nội.
22. Nguyễn Hữu Đức (2015), Chất béo: Lợi và hại http://nld.com.vn/suc-
khoe/chat-beo-loi-va-hai-20150712210443308.htm
23. Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh Vân (1998), Giáo trình chăn nuôi gia cầm,
Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội.
24. Nguyễn Đức Hùng (2004), Xác định thành phần hóa học, giá trị dinh
dưỡng và ảnh hưởng của bột lá keo giậu (Leucaena leucocephala) đã qua
xử lý đến sức sản xuất của gà broiler và gà sinh sản Đại học Thái Nguyên,
Luận án tiến sỹ Nông Nghiệp.
25. NguyễnVănThiện(2002),Phươngphápthínghiệmtrongchănnuôi.NXB
Nôngnghiệp.
26. Nguyễn Khắc Khôi (1982), Sử dụng bột lá sắn chăn nuôi lợn, KHKT Viện
chăn nuôi Hà Nội T4, tr. 53 - 55.
27. Ngô Hồng Thêu (2015), Ảnh hưởng của dầu đậu nành, dầu hạt cải đến
năng suất và chất lượng trứng gà Lương Phượng, Luận văn Thạc Sĩ Khoa
học Nông nghiệp, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
28. Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc, Nguyễn Duy Hoan (2002), Giáo
trình phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi, Nxb Nông nghiêp, Hà Nội.
29. Nguyễn Thị Kim Đông (2016), Nghiên cứu sự thay thế của protein bằng
khô dầu dừa, Tạp chí khoa học trường đại học Cần Thơ, số 106,
30. Nguyễn Viết Đàm Lý thuyết este - lipit.
http://www.hochoaonline.net/chuong-1-este-va-lipit/379-ly-thuyet-ve-
este-lipit.html,
31. Ngô Giản Luyện (1994), Nghiên cứu một số tính trạng năng suất của các
dòng thuần chủng V1, V3, V5 giống gà thịt cao sản Hybro trong điều kiện
Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học nông nghiệp, Nxb Nông nghiệp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hà Nội, tr. 86 - 119.
53
32. Tạ An Bình (1973), Những kết quả bước đầu về lai kinh tế gà, tạp chí Khoa
học và Kỹ thuật nông nghiệp, tr.598-603.
33. Từ Quang Hiển, Phạm Đình Thắm (1995), Thức ăn và dinh dưỡng gia súc,
Nxb Nông Ngiệp, tr.118 - 119.
34. Trần Thị Hoan (2012), Nghiên cứu trồng sắn thu lá và sử dụng bột lá sắn
trong chăn nuôi gà thịt và gà đẻ bố mẹ Lương Phượng, Luận án tiến sĩ
Nông nghiệp, Đại học Thái Nguyên.
35. Trần Văn Tiến, 2013. Nghiên cứu nhân nhanh giống Chùm ngây chất lượng
cao bằng kỹ thuât nuôi cấy mô. Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ sinh học, Viện
hàn lâm khoa học công nghệ Việt Nam.
36. Trần Việt Hưng, Võ Duy Huấn, 2007. Cây thực phẩm và cây thuốc Chùm
ngâ yhttp://www.rfviet.com.
37. Võ Văn Chi (1999), Cây cỏ cóí chở Việt Nam,Nxb Giáo dụcViệt Nam.
II. Tài liệu nước ngoài
38. Abubaka B.Y., Wusirika R., Muazu S., Khan A.U. and Adamu, 2011.
Detection of genetic variability using random amplified polymorphic DNA
markers in some accessions of Moringa oleifera Lam. from Northern
Nigeria. International Journal of Botany.
39. Adebayo A.G., Akintoye H.A., Olufolaji A.O, Aina O.O., Olatunji M.T.
and Shokalu A.O., 2011. Assessment of organic amendments on vegetative
development and nutrient uptake of Moringa oleifera Lam. in the nursery.
Asian J. Plant Sci.
40. Abdulkarim,Long,Muhammad,Ghazali(2005),Somephysico-chemical
properties ofMoringa oleiferaseed oil extracted using solvent and
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
aqueousenzymatic methods.
54
41. Antwi C. and Enninful R., 2011. Effect of growth medium, a hormone, and
stemcutting maturity and length on sprouting in Moringa oleifera Lam. The
Journal of Horticultural Science and Technology.
42. And Kroon P.A., (2003). Profilingglucosinolates nadphenolics in
vegetative and reproductivetissues of themulti – purpose trees
MoringaoleiferaL. (Horseradish tree) and Moringa stenopetalaL.Journal
ofAgriculturalnadFood Chemistry51:3546 –3553.
43. Arch.Geflgelk(1984),Einlagerung eines im Korper gespeicherten
carotenoid im eidotter bei Aufnahme von frischem bzw. Stark oxidiertem
sojaol mit dem Futter. s.l. :.48: 155 - 160.
44. BennettR.N.,MellonF.A.,FoidlN.,PrattJ.H.,DuPontM.S.,PerkinsL.andKro
onP.A., (2003). Profilingglucosinolatesnadphenolicsinvegetative
andreproductive tissuesofthe multi– purposetreesMoringaoleiferaL.
(Horseradishtree)andMoringastenopetalaL.JournalofAgriculturalnad
FoodChemistry51:3546–3553.
45. Brossa R., Casals I., Pinto´-Marijuan M. and Fleck I., 2008. Leaf flavonoid
content in Quercus ilex L. resprouts and its seasonal variation, Trees
23:401–408.
46. Bartov I., Bornstein S (1980), “Studies on egg yolk pigmentation: Effect of
ethoxiquin on xanthophylls within and among genetic sources”, . s.l. :
Poultry Sci 50, pp. 1460 -1461.
47. Bowman P.E. and Morbarhan S., 1995. Evidence from cancer intervention
and biomarker studies and the development of biochemical markers. Am.
J. Clin. Nut 62, 1403S-1409S.
48. Chavez A.L., Bedoya J.M., Sanchez T., Iglesias C., Ceballos H., and Roca
W (2000),"Iron, carotene, and ascorbic acid in cassava roots and leaves
",. s.l. : Food and nutrition bulletion, vol.21, no.4.p.410 - 413.
49. DanMalam H.U., Abubakar Z. and Katsayal U.A., 2001. Pharmacognostic
studies on the leaves of Moringa oleifera. Nigerian Journal of Natural
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Product and Medicine 5, 45-49.
55
50. Dash S. and Gupta N., 2009. Effect of Inorganic, Organic and Bio Fertilizer
on Growth of Hybrid Moringa oleifera (PKM 1). Academic Journal of Plant
Sciences 2 (3): 220-221.
51. De Groote (1970) .Research onegg yolk pigmentation and its practi
calapplication. Word. PoultrySci. J., 26: 435 -441.
52. DL, Gierhart. Production of zeaxanthin and zeaxanthin - containing
composite. Available. [Online] (High Ridge, MO) Patent number
05308759. , 2002. [Cited: feb 15, , 2002.]
at:http://www.nal.usda.gov/bic/biotech - Patents/ 1994 patents
05308759.html.
53. Donovan, 2007. Moringa oleifera: The miracle tree.
http://www.naturalnews.com/022272_Moringa_medicinal_herbs.html
54. Fraga, L. M., Valdivie, Mand Rodriguez, C(1992), "ANotetheuseof
Leucaenaleucocephalaleavesinbroiler diets",CubanJ.Agric.Sci.
55. FadiyimuA.A.,FajemisinA.N.,AlokanJ.A.andAladesanawaR.D.,(2011).
56. Fahey J.W.,(2005). Moringa oleifera:areviewofthemedicalevidencefor
it’snutritional,therapeuoticandprophylacticproperties.Part1.TreeForLife
journal: 1-5.
57. FoidlN,MakkrH.P.SandBeckerK,(2001). Thepotentialof Moringa oleifera
foragriculturalandindustrial uses. Inproceeding softhe international
workshop "whatdevelopmentpotential formoringaproducts", Dar-es-
salaam, Tanzania,pp47-67.
58. F., Cadavid L (2002).“Suelo y fertilización para la yuca. in: La yuca en el
tercer milenio. Sistemas modernos de producción, procesamiento,
utilización y comercialización (Soils and fertilization of cassava”. s.l. : In:
Cassava in the Third Milenium, Modern Systems of production,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
processing, Utilization and Marketin, CIAT, cali, colombia. pp. 76- 103.
56
59. Eruvbetine D., Tajudeen I. D., Adeosun A. T., and Olojede A. A. (2003),
“Cassava (Manihot esculenta) leaf and tuber concentrate in diets for broiler
chickens”, Bioresource Technology 86, 277-281.
60. F., D’Mello J. P (1995), Leguminous leaf meals in non - ruminant nutrition.
In: Tropical legumes in animal nutrition. 1st edition. s.l. : A.B
International, Wallingford, Oxon UK, pp.247 - 282.
61. Gomez, G, Valdisieso, M and Santos, J and Noyos, C. (1983),“Evalution
of cassava root meal prepared from low - or high - cyanide containing
cultivals in Pigs and broiler diets”. . s.l. : Nurtrition - report international.
62. Gouveia L., Veloso V., Reis A., Fernandes H., Novais J., and J. Empis
(1996),Chlorella vulgaris used to colour egg yolk, J. Sci. . s.l. : Food Agric.
10:167 - 172.
63. Gupta K., Barat G.K., Wagle D.S. and Chawla H.K.L.,1989. Nutrient
contents and antinutritional factors in conventional and non-conventional
leafy vegetables. Food Chem 31, 2, 105-116.
64. GulraizAhmed.,Barque,A.R.,Assad,A.,Rasool.S.,Hanjra,S.Hand Iqbal,A
(1991),"Effect ofchemicaltreatmentonnutritionalvalue of Leucaena(Ipil-
ipil)leafmealinbroilerration".BangladeshJ. Anim. Sci.(Bangladesh).
65. Hartfiel, Hatzipanagiotou. A. and W (1984), Einlagerung eines im Korper
gespeicherten carotenoid im eidotter bei Aufnahme von frischem bzw. Stark
oxidiertem sojaol mit dem Futter. . s.l. : Arch. Geflgelk.48: 155 - 160.
66. Haminlton.P. B., F. J. Tirado and F. Gacia - Hernandez (1990), Deposition in
egg yolks of the carotenoid from saponified oleoresins of red pepper (capcicum
annuum) fed to laying hens. s.l. : Poult.Sci. 69: 462 - 470.
67. Hussain, J., Satyanarayana Reddy, P.V.V and Reddy, V.R
(1991),UtilisationofLeucaenaleafmealbybroilers.Br.PoultrySci.32(1):
131-137.ISSN.
68. Imoro A-W.M., Sackey I. and Abubakari A-H., 2012. Preliminary study on
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
the effects of two diffirent sources of organic manure on the growth
57
performance of Moringa oleifera seedling. Journal of Biology, Agriculture
and Healthcare. Vol 2.
69. Isaiah M.A, 2013. Effect of inorganic fertilizer on the growth and nutrient
composition of Moringa oleifera. Scholarlink Research Institude Journal:
70. Iheukwumere F. C., Ndubuisi E. C., Mazi E. A., and Onyekwere M. U. (2007),
Growth, Blood chemistry and carcass yield of Broilers Fed Cassava Leaf Meal
(Manihot Esculenta Crantz), International Journal of Poultry Science 6 (8): 555-
559.
71. Iheukwumere F. C., Ndubuisi E. C., Mazi E. A., and Onyekwere M. U. (2008),
Performance, nutrient Utilization and Organ Characterristics of Broilers Fed
Cassava Leaf Meal (Manihot Esculenta Crantz). Pakistan journal of Nutrition 7
(1): 13-16.
2141-7016.
72. Jop et al (1980),“Optimal level of cassava (manihot esculenta crantz) flour
in the diet of the growing chick”, Zbl vet. med.27. 82. Jones, R.J (1979),
“Value of Leucaena leucocephala as a feed forruminants in the tropics”.
s.l. : World Animal review. 31: 13 - 23.
73. Krichevsky S.B., 1999. b-carotene, carotenoids and the prevention of
coronoary heart disease. J. Nutr 129, 5-8.
74. Kiyothong K., & Wanapa M (2004), Supplementation of Cassava Hay and
Stylo 184 Hay to Replace Concentrate for Lactating Dairy Cows,
Department of Animal Science,. s.l. : Faculty of Agriculture, Khon Kaen
University, Khon Kaen 40002, Thailand.
75. Lako J., Trenerry VC, Wahlqvist M., Wattanapenpaiboon N.,
SoutheeswaranS., PremierR. (2007),Phytochemical flavonols,
carotenoidsandthe antioxidantpropertiesof awideselection ofFijian
fruit,vegetablesandother readilyavailable foods.FoodChemistry.
76. Lakshminarayan R., Raju M., Krishnakantha T.P. and Baskaran V., 2005.
Determination of Major Carotenoidsin a Few Leafy Vegetables by High
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Performance Chromotography. J. Agric. Food Chem 53, 2838-2842.
58
77. L.H. Manh, N.N.X. Dung and V.T. Xuan, 2003. Biomass production of
Moringa oleifera and some legumes in the hilly area of Tinh Bien district,
An Giang province. In Proceedings workshop for sustainable livestock
production on local feed resources. SAREC-UAF, Hue, Vietnam, 2003,
25– 27 March. http://www.mekarn.org/sarec03/contents.htm.
78. McBurney R.P.H., Griffin C., Paul A.A. and Greenberg D.C., 2004. The
nutritional composition of African wild food plants: from compilation to
utilization. Journal of Food Composition and Analysis 17, 277-289.
79. Mikled, Chanphone Keoboualapheth and Choke (2003),Growth
performance of indigenous pigs fed with Stylosanthes guianensis CIAT 184
as replacement for rice bran, Livestock Research for Rural . s.l. :
80. Montilla J. J., Vargas R., and Montaldo A. (1976), “The effect of various levels
of cassava leaf meal various levels of cassava leaf meal in broiler ration”. In:
Proc. 4th Symposium International Society of Tropical Root Crops.CIAT, Cali,
Colombia, pp. 143-145.
Development 15.
81. Murthy,P.S.,Reddy,P.V.V.S.,Venkatramaiah,A.,Reddy-K.V.Sand
Ahmed,M.N (1994),"Methods ofmimosinereductionin subabul leaf
82. Orlov M.V. (1974), Control biological incubation.
83. Onibi G. E., Folorunso O. R., and Elumelu C. (2008), “Assessment of Partial
Equi-Protein Replacement of Soyabean Meal with Cassava and Leucaena Leaf
Meals in the Diets of Broiler Chiken Finishers”, International Journal of Poultry
Science 7 (4): 408-413.
mealanditsutilizationinbroilerdiets",IndianJ.PoultrySci.
84. M., Davies K (2004), Plant pigments and their Manipulation. s.l. : Animal
Review of plant biology 14, Blackwell Publishing Ltd, Oxford UK.
85. M., Dzugan (2006), Czynniki wplywajace na stabilnose zielonych
barwnikow roslin, . s.l. : Zeyty Naukowe Polskiego Towarzystwa Inzyrierri
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Ekologicznej 7: 26 - 33.
59
86. O., Fasuyi A (2006), Protein replacement value of cassava (manihot
esculenta, crantz) leaf protein concentrate (CLPC - cassava leaf protein
concentrate): Effects on egg quaility, biochemical and haematological
indices in laying birds,. s.l. : International journal of food, agriculture and
environment, 4, pp.54 - 59.
87. Preston, Du Thanh Hang and (2005), "The effects of simple processing
methods of cassava leaves on HCN content and intake by growing pigs”.
s.l. :Livestock Research for Rural Development. Number 2005,
88. Ravindran V., Kornegay E. T, Rajaguru Potter A. S. B., and Cherry J. A. (1986),
“Cassava leaf meal as a replacement for coconut oil meal in broiler diets”,
Poultry Science 65: 1720-1727.
http://www.cipav.org.co/lrrd17/9/hang.
89. Sarwatt S.V., Kapange S.S. and Kakengi A.M.V., 2002. Substituting
sunflower seed-cake with Moringa oleifera leaves as a supplemental goat
feed in Tanzania. Agroforestry Systems 56, 3, 241-247.
90. Sánchez-Machado D.I., Lopez-Cervantes J. and Rios Vasquez N.J., 2006.
High performance liquid chromatography method to measure a- and g-
tocopherol in leaves, flowers and fresh beans from M. oleifera. J.
Chromatogr. A 1105, 1-2, 111-114.
91. Siddhuraju P. and Becker K., 2003. Antioxidant properties of various
solvent extracts of total phenolic constituents from three different
agroclimatic origins of drumstick tree (Moringa oleifera Lam.) leaves. J
Agric Food Chem 51: 2144-2155.
92. Smolin, Lori A - Grosvenor, Mary B., Hardcover, (2007) Nutrition-
Science&Application.
93. Soliva C.R., Kreuzer M., Foidl N., Foidl G., Machmüller A. and Hess H.D.,
2005. Feeding value of whole and extracted Moringa oleifera leaves for
ruminants and their effects on ruminal fermentation in vitro. Anim Feed
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Sci Technol 118: 47-62.
60
94. T., Latscha(1990),Carotenoid in Animal Nutrition,. s.l. : F. Hoffmann La
Roche, Basel, Switzerland.
95. Tsaknis J. and Lalas S., 2002. Stability during Frying of Moringa oleifera
96. Wyllie D. and Chammanga P. J (1979), “Cassava leaf meals in broiler diets”.
Trop Animal 1979, 4: 3, pp. 232-240.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Seed Oil Variety ‘‘Periyakulam 1’’. J. Food Comp. Anal 15, 79-101.