BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRẦN THỊ LAN

CHIẾN TRANH DU KÍCH Ở ĐĂK LĂK

GIAI ĐOẠN 1965 - 1968

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60 22 54

LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN VĂN HOA

HUẾ, NĂM 2010

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam ñoan ñây là công trình nghiên cứu riêng

của tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn

là trung thực, ñược các ñồng tác giả cho phép sử dụng và

chưa từng ñược công bố trong bất kỳ một công trình nghiên

cứu nào khác.

Họ tên tác giả

TRẦN THỊ LAN

ii

ĐĐểể ññưượợcc tthhaamm ggiiaa vvàà hhooàànn ttấấtt kkhhooáá hhọọcc ññààoo ttạạoo TThhạạcc ssĩĩ ((22000088 -- 22001100)),, ttôôii xxiinn ññưượợcc bbààyy ttỏỏ llòònngg bbiiếếtt ơơnn ssââuu ssắắcc ññếếnn ssựự qquuaann ttââmm vvàà ttạạoo ññiiềềuu kkiiệệnn ggiiúúpp ññỡỡ ccủủaa BBaann CChhủủ nnhhiiệệmm KKhhooaa DDựự bbịị -- TTạạoo nngguuồồnn,, llããnnhh ññạạoo TTrrưườờnngg ĐĐạạii hhọọcc TTââyy NNgguuyyêênn,, qquuýý TThhầầyy CCôô ggiiááoo kkhhooaa LLịịcchh ssửử TTrrưườờnngg ĐĐạạii hhọọcc SSưư pphhạạmm HHuuếế vvàà ĐĐạạii hhọọcc KKhhooaa hhọọcc HHuuếế,, PPhhòònngg ĐĐààoo ttạạoo ssaauu ññạạii hhọọcc..

ĐĐểể hhooàànn tthhàànnhh lluuậậnn vvăănn,, ttôôii xxiinn ccảảmm ơơnn ssựự ggiiúúpp ññỡỡ vvềề ttưư lliiệệuu ccủủaa TTrruunngg ttââmm LLưưuu ttrrữữ QQuuốốcc ggiiaa IIII,, BBaann NNgghhiiêênn ccứứuu llịịcchh ssửử ĐĐảảnngg TTỉỉnnhh uuỷỷ ĐĐăăkk LLăăkk,, BBaann KKhhooaa hhọọcc LLịịcchh ssửử qquuâânn ssựự BBộộ CChhỉỉ hhuuyy QQuuâânn ssựự ttỉỉnnhh ĐĐăăkk LLăăkk,, BBảảoo ttàànngg ttỉỉnnhh ĐĐăăkk LLăăkk.. ĐĐặặcc bbiiệệtt,, ttôôii xxiinn bbààyy ttỏỏ llòònngg bbiiếếtt ơơnn ssââuu ssắắcc ññếếnn TTSS.. NNgguuyyễễnn VVăănn HHooaa,, nnggưườờii TThhầầyy ññãã ttạạoo ññiiềềuu kkiiệệnn vvàà ttậậnn ttììnnhh hhưướớnngg ddẫẫnn ttrroonngg qquuáá ttrrììnnhh tthhựựcc hhiiệệnn lluuậậnn vvăănn..

XXiinn bbààyy ttỏỏ llòònngg bbiiếếtt ơơnn ññếếnn ggiiaa ññììnnhh,, nnggưườờii tthhâânn,, bbạạnn bbèè vvàà ññồồnngg nngghhiiệệpp ññãã lluuôônn

iii

ññộộnngg vviiêênn,, hhỗỗ ttrrợợ kkịịpp tthhờờii cchhoo ttôôii hhooàànn tthhàànnhh ttốốtt kkhhooáá hhọọcc..

HHuuếế,, tthháánngg 99 nnăămm

22001100 TTáácc ggiiảả TTrrầầnn TThhịị LLaann

iv

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Chiến tranh du kích là một trong những phương thức tiến hành chiến tranh chủ yếu của nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và ñế quốc Mỹ xâm lược. Bằng các hoạt ñộng tác chiến mưu trí, linh hoạt, sáng tạo, ñánh ñịch rộng khắp, liên tục mọi lúc, mọi nơi với mọi loại vũ khí có trong tay, chiến tranh du kích khiến cho kẻ thù không phân ñịnh rõ ñâu là tiền tuyến, ñâu là hậu phương. Chiến tranh du kích thực hiện tiêu hao, tiêu diệt quân ñịch, làm cho kẻ thù không phát huy ñược ưu thế của vũ khí hiện ñại mà phải bị ñộng ñối phó.

Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, chiến tranh du kích và xây dựng dân quân du kích, tự vệ là một nội dung quan trọng, có giá trị lý luận và thực tiễn. Thông qua các tác phẩm bàn về chiến tranh du kích như Kinh nghiệm du kích Tàu, Kinh nghiệm du kích Pháp, Tỉnh uỷ bí mật, Người cho rằng du kích là cách ñánh giặc của dân tộc bị áp bức chống ñế quốc. Quán triệt tư tưởng ñó, cùng với việc kế thừa và phát triển kinh nghiệm của tổ tiên, trong 30 năm chiến tranh giải phóng, ñặc biệt là trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta ñã lãnh ñạo nhân dân xây dựng lực lượng du kích và tiến hành chiến tranh du kích, góp phần ñánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ ñịch có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh hơn hẳn. Đánh giá về vai trò của chiến tranh du kích, Đảng ta khẳng ñịnh: “Khả năng của chiến tranh du kích vừa tiêu hao vừa tiêu diệt cả nguỵ lẫn Mỹ là rất lớn, rộng và liên tục” [36, tr. 384].

Chiến tranh du kích hoàn toàn phù hợp với ñặc ñiểm ñịa hình Việt Nam; ñặc biệt là với những ñịa bàn nhiều núi rừng, chiến trường dễ bị chia cắt như Tây Nguyên thì chiến tranh du kích càng có ñiều kiện ñể phát huy tối ña ưu thế.

Là một ñịa bàn chiến lược của Tây Nguyên, trong kháng chiến chống Mỹ, Đảng bộ, quân và dân Đăk Lăk ñã biết lợi dụng tối ña các yếu tố “thiên thời, ñịa lợi, nhân hoà”, phát huy sức mạnh ñại ñoàn kết dân tộc, tiến hành chiến tranh du kích ñánh thắng chiến tranh xâm lược

1

của quân Mỹ và quân ñội Sài Gòn trên ñịa bàn. Nhân dân các dân tộc Đăk Lăk nhận thức ñược rằng: “Để chống ñịch, thắng ñịch thì phải phát ñộng chiến tranh du kích toàn dân, toàn diện và lâu dài” [29, tr. 63]. Trong kháng chiến chống Mỹ, ñặc biệt là trong giai ñoạn chống chiến lược “chiến tranh cục bộ”, chiến tranh du kích ở Đăk Lăk ñược xây dựng và tiến hành trên từng thôn, buôn ñể củng cố thế trận chiến tranh nhân dân, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của quân viễn chinh Mỹ và quân ñội Sài Gòn. Chiến tranh du kích là “linh hồn” của thế trận chiến tranh nhân dân ở Đăk Lăk, nó góp phần không nhỏ tạo nên trang sử vẻ vang của quân dân Đăk Lăk trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975).

Bởi những lẽ ñó, nghiên cứu chiến tranh du kích ở Đăk Lăk là

vấn ñề hấp dẫn và là một việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.

Về khoa học, ñề tài góp phần làm rõ ñóng góp của chiến tranh du kích ở Đăk Lăk trong việc ñánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Bên cạnh ñó, ñề tài còn khẳng ñịnh vai trò lãnh ñạo của Đảng trong việc ñịnh ra ñường lối, chủ trương cho cách mạng miền Nam và việc vận dụng sáng tạo, linh hoạt ñường lối và chủ trương ñó của Đảng bộ Đăk Lăk thông qua thực tiễn ñấu tranh. Mặt khác, tìm hiểu chiến tranh du kích ở Đăk Lăk sẽ góp phần làm phong phú thêm kho tàng nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân của dân tộc Việt Nam.

Về thực tiễn, ñề tài góp thêm những cứ liệu cho việc giáo dục truyền thống cách mạng cho nhân dân Đăk Lăk, nhất là cho thế hệ trẻ của các dân tộc trong tỉnh, góp phần ñộng viên nhân dân xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong giai ñoạn hiện nay. Mặt khác, những bài học kinh nghiệm ñúc rút từ thực tiễn phong trào chiến tranh du kích sẽ có ý nghĩa lớn trong việc xây dựng khối ñại ñoàn kết toàn dân dưới sự lãnh ñạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là trong bối cảnh hiện nay ở Đăk Lăk nói riêng, Tây Nguyên nói chung các thế lực thù ñịch ñang rắp tâm chống phá nhằm chia rẽ khối ñại ñoàn kết dân tộc. Kết quả nghiên cứu ñề tài còn là cơ sở ñể biên soạn bài giảng lịch sử ñịa phương theo quy ñịnh của chương trình lịch sử do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Từ cách tiếp cận vấn ñề như vậy, chúng tôi chọn vấn ñề

2

“Chiến tranh du kích ở Đăk Lăk giai ñoạn 1965 - 1968” làm ñề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Việt Nam.

2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Liên quan ñến ñề tài ñã có một số công trình sau: Năm 1994, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk biên soạn công trình “Đăk Lăk 30 năm chiến tranh giải phóng”, phản ánh cuộc chiến ñấu của nhân dân các dân tộc Đăk Lăk thời kỳ 1945 - 1975. Công trình ñề cập ñến một số hoạt ñộng của phong trào chiến tranh du kích của quân và dân Đăk Lăk trong kháng chiến chống thực dân Pháp và ñế quốc Mỹ.

Với công trình “Tổng kết chiến tranh du kích trên chiến trường Đăk Lăk (1945 - 1975)” xuất bản năm 1998, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk ñã ñề cập ñến các hoạt ñộng ñấu tranh của dân quân, du kích Đăk Lăk và một số bài học kinh nghiệm từ quá trình thực hiện du kích chiến tranh trên chiến trường miền núi, vùng ñồng bào các dân tộc Đăk Lăk trong 30 năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Năm 1999, Bộ Tư lệnh Quân khu V - Viện Lịch sử quân sự cho xuất bản cuốn “Một số kinh nghiệm chỉ ñạo chiến tranh nhân dân ñịa phương ở Khu V trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”. Công trình ñã tổng hợp một số kinh nghiệm trong chỉ ñạo chiến tranh nhân dân ñịa phương ở các tỉnh thuộc Quân khu V trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Bộ Tổng tham mưu năm 2000 ñã xuất bản công trình “Tổng kết cách ñánh của lực lượng dân quân du kích - tự vệ trong hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và ñế quốc Mỹ (1945 - 1975)”. Công trình hệ thống, phân loại các hình thức, cách ñánh ñộc ñáo, sáng tạo của lực lượng dân quân, du kích - tự vệ, rút ra những bài học kinh nghiệm chỉ ñạo lực lượng dân quân du kích trong cả nước ta.

Năm 2002, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đăk Lăk phối hợp nhà xuất bản Chính trị quốc gia ra mắt cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đăk Lăk (1954 - 1975)”, trong ñó làm rõ vai trò lãnh ñạo của Đảng bộ và tinh thần ñấu tranh anh dũng của nhân dân Đăk Lăk trong suốt cuộc KCCM, cứu nước; phân tích một số chủ trương của Đảng, Khu

3

ủy V và ñề cập những chỉ ñạo của Tỉnh ủy về phát triển chiến tranh du kích trên chiến trường Đăk Lăk trong cuộc KCCM, cứu nước.

Thắng lợi về mặt quân sự ở Đăk Lăk trước chiến lược “chiến tranh cục bộ” ñã chứng minh nghệ thuật chiến tranh cách mạng là phải biết tổ chức các ñội du kích cùng với các lực lượng vũ trang khác ñể giành chiến thắng.

Liên quan ñến ñề tài còn có một số công trình lịch sử ñịa phương như: “Lịch sử ñấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng bộ và nhân dân thị xã Buôn Ma Thuột”; “Lịch sử Đảng bộ huyện Krông Bông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975)”; “Lịch sử Đảng bộ huyện Krông Năng (1954 - 2005)”; “Lịch sử ñấu tranh của Đảng bộ và nhân dân huyện Lăk (1945 - 1975)”; “Lịch sử ñấu tranh của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện M’Đrăk (1945 - 1975)”; “Lịch sử ñấu tranh của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Chư M’gar”v.v…

Đăk Lăk là một tỉnh có sự ña dạng về thành phần tộc người (42 dân tộc anh em sinh sống trên ñịa bàn). Trong KCCM vai trò của các già làng, trưởng bản ñã ñược phát huy triệt ñể. Đảng ta ñã thành công trong việc tăng cường khối ñoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của tất cả thành phần dân tộc trong cuộc chiến ñấu chống giặc ngoại xâm. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vấn ñề ñoàn kết các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên là vô cùng quan trọng nhằm hướng ñến xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Trong bối cảnh các thế lực thù ñịch luôn luôn tìm cách chia rẽ Kinh - Thượng, phá vỡ khối ñoàn kết các dân tộc ở Đăk Lăk nói riêng, Tây Nguyên nói chung, nhất là sau một số sự kiện diễn ra năm 2000 và 2004, bài học về xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh ở các ñịa bàn thôn, buôn ñến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Những công trình trên ñều có ñề cập ñến chiến tranh du kích của quân và dân tỉnh Đăk Lăk trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tuy nhiên, nhìn chung các công trình trên chưa ñi sâu vào phân tích từng khía cạnh của chiến tranh du kích ở Đăk Lăk như về xây dựng lực lượng dân quân, du kích và trang bị vũ khí, huấn luyện quân sự. Bên cạnh ñó, các công trình trên chưa khai thác nguồn tư liệu lưu trữ của CQSG hiện ñang lưu trữ tại TTLTQGII, Tp HCM ñể nhìn nhận, ñánh giá chiến tranh du kích Đăk Lăk một cách ñầy ñủ hơn.

Tóm lại, các công trình trên ñây tuy mức ñộ nghiên cứu có khác nhau nhưng là nguồn tài liệu phong phú và quan trọng ñể chúng tôi hoàn thành luận văn này.

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 3.1. Mục ñích nghiên cứu Luận văn góp phần nhận thức rõ hơn chiến tranh du kích ở Đăk Lăk trong KCCM, cứu nước giai ñoạn 1965 - 1968 trên cơ sở phân tích sự lãnh ñạo ñúng ñắn, sáng tạo của Đảng bộ Đăk Lăk, quyết tâm ñánh Mỹ và thắng Mỹ của quân và dân các dân tộc Đăk Lăk trong giai ñoạn này.

Chiến tranh ñã ñi qua hơn 1/3 thế kỷ song nhiều vấn ñề liên quan ñến cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Đăk Lăk và Tây Nguyên cần tiếp tục ñược nghiên cứu. Hiện nay, ñi cùng với việc nghiên cứu, vấn ñề bảo vệ, bảo tồn hệ thống di tích lịch sử ñang ñược ñặt ra. Cần phải có kế hoạch khảo sát những ñịa ñiểm tiêu biểu trong kháng chiến chống Mỹ ñể từ ñó có kế hoạch khoanh vùng bảo vệ. Qua ñó, khôi phục và tôn tạo lại những di tích ñiển hình nhằm mục ñích khai thác, phát huy giá trị giáo dục truyền thống lịch sử ñối với các tầng lớp nhân dân, ñặc biệt là thế hệ trẻ. Bên cạnh ñó, phải có những chủ trương, chính sách phát triển vùng căn cứ, vùng ñặc biệt khó khăn, hỗ trợ cho ñồng bào vùng sâu, vùng xa phát triển kinh tế - xã hội, ñồng thời có những giải pháp thích hợp nhằm xây dựng thế trận quốc phòng an ninh vững chắc ở Đăk Lăk nói chung và Tây Nguyên nói riêng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài nhằm tập trung nghiên cứu những vấn ñề sau: - Âm mưu, biện pháp của Mỹ trong chiến lược “chiến tranh cục

bộ” ở Đăk Lăk.

4

25

- Chủ trương của Trung ương Đảng, Khu ủy V, Đảng bộ Đăk Lăk; chiến tranh du kích góp phần ñánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968) của ñế quốc Mỹ ở Đăk Lăk.

- Đặc ñiểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình thực hiện chiến tranh du kích trên ñịa bàn Đăk Lăk giai ñoạn 1965 - 1968.

4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu chiến tranh du kích ở Đăk Lăk trong

KCCM, cứu nước giai ñoạn 1965 - 1968.

4.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Luận văn nghiên cứu chiến tranh du kích tập trung chủ yếu trên ñịa bàn Đăk Lăk theo phân ñịnh ñịa giới hành chính hiện nay.

Dưới sự lãnh ñạo của Trung ương Đảng, Khu ủy V, trực tiếp là Mặt trận Tây Nguyên và Tỉnh ủy Đăk Lăk, phong trào chiến tranh du kích ñược triển khai rộng rãi trên cả ba vùng chiến lược, tạo thành thế trận “thiên la ñịa võng” ñể tiêu hao và tiêu diệt sinh lực ñịch. Chiến tranh du kích Đăk Lăk giai ñoạn chống chiến lược “chiến tranh cục bộ” diễn ra với nhiều quy mô khác nhau; từ từng người, từng tổ, tiểu ñội, ñến nhiều trung ñội phối hợp với nhau trên nhiều ñịa bàn, trên mọi ñịa hình, ñánh ñịch bằng mọi loại vũ khí, phương tiện có trong tay, bằng cả sức mạnh quân sự và chính trị. Sức mạnh của lối ñánh du kích ñược ví như những mũi kim sắc nhọn châm vào cơ thể của ñội quân xâm lược và tay sai, làm cho quân ñịch lúng túng, hoang mang, nhức nhối, bị ñộng ñối phó mà không gỡ ra ñược. Cách ñánh ñó thể hiện tính tích cực, chủ ñộng tiến công ñịch. Đó là lý do giải thích vì sao “trên chiến trường, chiến tranh du kích miền Nam thực sự và thường xuyên là nỗi kinh hoàng của bộ ñội xâm lược Mỹ và tay sai” [9, tr. 166].

Về thời gian: Luận văn nghiên cứu chiến tranh du kích ở Đăk Lăk trong KCCM, cứu nước giai ñoạn 1965 - 1968, những năm nhân dân Đăk Lăk chống chiến lược “chiến tranh cục bộ” của ñế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Chiến tranh du kích giai ñoạn 1965 - 1968 ở Đăk Lăk thực hiện ñược nhiệm vụ tiêu hao quân ñịch, tiêu diệt từng bộ phận nhỏ sinh lực ñịch và phương tiện chiến tranh của chúng, ñồng thời ñánh phá cơ sở hậu phương của ñịch. Hậu phương ñịch không ổn ñịnh, quân Mỹ và QĐSG ở Đăk Lăk “ăn không ngon, ngủ không yên” bởi những vụ quấy rối, phục kích. Cuộc ñấu tranh của ñồng bào các dân tộc thiểu số Đăk Lăk buộc chúng phải thường xuyên thay ñổi kế hoạch càn quét, xúc tát dân ở vùng giải phóng và vùng tranh chấp. Chiến tranh du kích hỗ trợ quần chúng ñấu tranh chính trị và binh vận, tiêu hao quân ñội VNCH ở Đăk Lăk, làm suy yếu nguỵ quyền.

5. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5.1. Nguồn tài liệu - Nguồn tài liệu ñã xuất bản Nguồn tài liệu ñể thực hiện luận văn bao gồm các tác phẩm kinh ñiển của chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân, những tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn; Văn kiện Đảng Toàn tập; các tác phẩm, các công trình ñã in thành sách và các bài viết ñăng trên tạp chí, mạng internet... ñặc biệt là các tác phẩm của các nhà sử học, các nhà nghiên cứu về cuộc KCCM, cứu nước của nhân dân Đăk Lăk.

- Nguồn tài liệu lưu trữ Để hoàn thành nhiệm vụ của luận văn, chúng tôi ñã tiến hành thu thập tài liệu lưu trữ tại Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Tỉnh ủy Đăk Lăk, Trung tâm lưu trữ của Bộ Tư lệnh Quân khu V thành phố Đà

Chiến tranh du kích ở Đăk Lăk thể hiện rõ tính chất toàn dân ñánh giặc. Chiến trường Đăk Lăk giai ñoạn chống chiến lược “chiến tranh cục bộ” có sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân, không phân tôn giáo, dân tộc, già trẻ, trai gái, không phân biệt miền núi hay thành thị. Bất kỳ người nào có ý thức căm thù giặc ñều ñứng lên cầm vũ khí giết giặc lập công. Tinh thần anh dũng và trí thông minh của nhân dân ñã sáng tạo ra nhiều cách ñánh phong phú, ñạt hiệu quả cao trong việc tiêu hao, tiêu diệt sinh lực ñịch. Từ ñó, tạo thế trận thuận lợi cho bộ ñội chủ lực thực hiện ñánh tiêu diệt lớn.

5

24

Nẵng, Ban Khoa học lịch sử quân sự Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk, Bảo tàng tỉnh Đăk Lăk, ñặc biệt là tại TTLTQG II Tp HCM.

chiến của quân dân Đăk Lăk luôn gắn chặt với nhiệm vụ bảo vệ dân, bảo vệ cơ sở. Ngày nay, Chính phủ Việt Nam có nhiều dự án khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên ở Tây Nguyên, cũng như có nhiều khu công nghiệp ñặt cơ sở ở ñây. Để ñược nhân dân ủng hộ, Chính phủ cần kết hợp khai thác kinh tế với việc chăm lo, ñảm bảo sức khoẻ, ñời sống vật chất cũng như tinh thần của ñồng bào các dân tộc. 3.3.3. Tận dụng triệt ñể ñịa hình ñể lựa chọn phương thức

tấn công ñịch một cách linh hoạt, hiệu quả

- Nguồn tài liệu khảo sát, ñiền dã Tác giả luận văn khảo sát ñiền dã, ñi thực tế tại một số căn cứ ñịa cách mạng, căn cứ du kích, ñồng thời gặp gỡ các nhân chứng ñã tham gia lực lượng dân quân du kích ở ñịa bàn các xã, huyện. Việc làm ñó nhằm làm tăng ñộ chính xác cũng như làm phong phú thêm những thông tin, nhận ñịnh ñưa ra trong luận văn.

5.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện ñề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau và kết hợp các phương pháp ấy trên cơ sở phương pháp luận sử học Mác - xít: Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic, phương pháp khảo sát ñiền dã, phương pháp ñối chiếu, so sánh, phân tích, tổng hợp…

Quân dân Đăk Lăk khôn khéo phát huy thế hiểm yếu của núi rừng, lợi dụng ñịa hình bày sẵn thế trận, vận dụng sáng tạo phương châm chỉ ñạo tác chiến của Đảng, buộc ñịch phải ñánh theo cách ñánh của ta ở nơi ta ñã lựa chọn. Chiến thắng trước chiến lược “chiến tranh cục bộ” của ñế quốc Mỹ chứng minh tính ưu việt của thế trận chiến tranh du kích. Chỉ trong một thời gian không dài, quân và dân Đăk Lăk ñã làm thay ñổi cơ bản về thế trận, làm chuyển biến nhanh chóng tương quan lực lượng giữa ta và ñịch trên chiến trường Đăk Lăk.

6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Một là, luận văn trình bày có hệ thống và tương ñối toàn diện về chiến tranh du kích ở Đăk Lăk trong cuộc KCCM, cứu nước giai ñoạn 1965-1968.

Hai là, luận văn cung cấp một số tư liệu lưu trữ về cuộc KCCM, cứu nước của nhân dân Đăk Lăk, phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử ñấu tranh của nhân dân Đăk Lăk nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung.

Ba là, luận văn góp phần phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập lịch sử ñịa phương thời kỳ KCCM. Bên cạnh ñó, luận văn còn góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc của ñồng bào các dân tộc tỉnh Đăk Lăk, nhất là ñối với thế hệ trẻ.

7. BỐ CỤC LUẬN VĂN Ngoài phần mở ñầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận văn gồm có 3 chương:

Chương 1: Tình hình Đăk Lăk trước năm 1965. Chương 2: Chiến tranh du kích ở Đăk Lăk (1965 - 1968). Chương 3: Đặc ñiểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm.

KẾT LUẬN Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ xâm lược gian khổ, ác liệt, giai ñoạn chống “chiến tranh cục bộ” là ñỉnh cao của cuộc ñụng ñầu lịch sử giữa nhân dân Việt Nam với ñế quốc Mỹ. Đây là giai ñoạn quân dân Đăk Lăk cũng như quân dân cả nước ta phải trực tiếp ñương ñầu với ñội quân viễn chinh Mỹ - một ñội quân hùng mạnh chưa từng bị thua trận trong các cuộc chiến tranh trước ñó. Đi cùng ñạo quân ñông ñảo và thiện chiến ñó, một khối lượng khổng lồ các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện ñại nhất của Mỹ (trừ vũ khí hạt nhân) ñã ñược ñưa ra sử dụng. Mặc dù ñến tháng 2 - 1966, Lữ ñoàn dù 173 - ñơn vị lính Mỹ ñầu tiên mới có mặt ở Đăk Lăk nhưng ngay từ ñầu năm 1965, quân ñội ñịch ñã tiến hành hàng trăm cuộc càn quét vào các vùng giải phóng, khu căn cứ ñịa của ta nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng. Kết hợp với hành quân ñánh phá, ñịch còn ñẩy mạnh các hoạt ñộng gián ñiệp, chiến tranh tâm lý, ñặc biệt là lợi dụng tổ chức FULRO ñể gây sự chia rẽ trong các dân tộc anh em sinh sống trên ñịa bàn Đăk Lăk.

23

6

thấy Việt cộng thu thập ñược nhiều tin tức xác thực hơn ta nhờ chúng biết dùng người ñịa phương ñể cung cấp tin tức” [102, tr. 10].

Chương 1

TÌNH HÌNH ĐĂK LĂK TRƯỚC NĂM 1965

1.1. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ -

XÃ HỘI

3.3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM 3.3.1. Phát huy vai trò và sức mạnh tổng hợp của các già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo có uy tín trong việc xây dựng thế trận chiến tranh du kích ở ñịa phương

1.1.1. Điều kiện tự nhiên Tỉnh Đăk Lăk nằm trên cao nguyên phía Tây của miền Trung nước Việt Nam với diện tích tự nhiên 13.125,37 km2, phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai, phía Nam giáp tỉnh Lâm Đồng và Đăk Nông, phía Đông giáp tỉnh Khánh Hoà và Phú Yên, phía Tây có chung ñường biên giới với Campuchia. Đây là một ñịa bàn có vị trí chiến lược rất quan trọng. Hệ thống sông ngòi của Đăk Lăk khá phong phú. Sông lớn nhất tỉnh là Srêpôk, bắt nguồn từ dãy Chư Yang Sin theo hướng Tây Bắc ñổ vào sông Mê Kông ở tỉnh Stung - treng (Campuchia). Ngoài ra, Đăk Lăk còn có hàng trăm con sông, suối lớn nhỏ khác.

Ngay từ những ngày ñầu của cuộc KCCM, cứu nước, ñể xây dựng cơ sở cách mạng, Đảng bộ Đăk Lăk ñã xây dựng ñội ngũ cán bộ trung kiên tại các buôn làng ñể tuyên truyền ñường lối cách mạng của Đảng ñến với ñồng bào. Ban ñầu, cán bộ cách mạng phải cải trang, học tiếng nói, cách sinh hoạt và hiểu phong tục, tập quán của ñồng bào, “nhiều cán bộ cải trang ñóng khố, cà răng căng tai, cùng nhân dân phát rẫy làm nương, nên ñược nhân dân yêu mến, che chở bảo vệ” [54, tr. 5]. Đối tượng vận ñộng cách mạng trước tiên là các chủ làng, chủ buôn, già làng, những người có uy tín trong làng. Để từ ñó, họ trở thành nòng cốt xây dựng cơ sở cách mạng, trở thành những “tuyên truyền viên” hiệu quả nhất trong thế trận chiến tranh nhân dân.

Về khí hậu, Đăk Lăk có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài 6 tháng (từ tháng 5 ñến tháng 10), chiếm tỷ lệ 85 - 87% lượng mưa trong cả năm. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 ñến tháng 4, khí hậu khô và lạnh hơn.

Mạnh dạn tranh thủ, phát huy vai trò tầng lớp trên ñể tạo ñiều kiện ñi sâu vào quần chúng, qua ñó nhanh chóng phát triển lực lượng là việc làm phù hợp với ñặc ñiểm kinh tế - xã hội của Đăk Lăk. Tuy nhiên, sau khi tranh thủ ñược tầng lớp trên, cần phải dựa chắc vào quần chúng thì phong trào du kích chiến tranh mới có hiệu quả, vững chắc. Làm ñược như vậy cũng tức là thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị cán bộ miền núi tháng 8 - 1966: “Vấn ñề ñoàn kết với lớp trên người dân tộc có một ý nghĩa lớn trong sách lược của Đảng” [59, tr. 16].

Đăk Lăk nằm ở trung tâm vùng ñất bazan của Tây Nguyên, là tỉnh có ưu thế về rừng với khoảng 1.000.000ha rừng nhiệt ñới, trên 8.000ha rừng thông tự nhiên, gần 200.000ha rừng nứa, lồ ô chưa khai thác. Chính quyền Sài Gòn không khó khăn khi nhận ra rằng: “...nhờ ñịa thế này quân du kích dễ tạo nên ñiều kiện ñể che dấu quân...” [102, tr. 2].

3.3.2. Xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh ñể làm nòng cốt

cho chiến tranh du kích phát triển

Trong quá trình xây dựng và tiến hành chiến tranh du kích, Đảng bộ Đăk Lăk luôn quán triệt phương châm tin dân và dựa vào dân, dựa vào thực lực cách mạng tại chỗ, qua ñó tập hợp và thu hút ñông ñảo ñồng bào các dân tộc thiểu số Đăk Lăk tham gia kháng chiến.

1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội Đồng bào Đăk Lăk chủ yếu sống bằng nghề nông. Bên cạnh cây lúa là cây lương thực chính, ñồng bào Đăk Lăk còn trồng xen canh ngô, sắn, ñậu và các loại cây ăn quả như chuối, cam, xoài, mít... Năng suất lao ñộng của ñồng bào rất thấp do lối phát nương làm rẫy, du canh du cư, chọc lỗ, trỉa hạt.

Đăk Lăk là một tỉnh có nhiều dân tộc anh em chung sống, chủ yếu là người Êñê, M’Nông, J’Rai, Bahnar, Xê Đăng... Năm

Chủ tịch Hồ Chí Minh ñã từng dạy: “Du kích muốn thắng phải có nhân dân ủng hộ. Muốn nhân dân ủng hộ phải tốt với nhân dân” [77, tr. 70 ]. Nhận thức sâu sắc lời dạy của Bác Hồ, hoạt ñộng tác

22

7

- Chống chiến tranh gián ñiệp - Đánh bại chiến thuật “trực thăng vận” 3.2.2. Chiến tranh du kích ở Đăk Lăk củng cố và tăng cường

1954, tỉnh Đăk Lăk có 118.800 dân, trong ñó có 76.000 người dân tộc thiểu số. Sau Hiệp ñịnh Genève và những năm sau ñó, ñịch ñã ñưa hàng vạn ñồng bào miền Bắc di cư cùng với người Kinh ở ñồng bằng Khu V lên lập dinh ñiền, ñã làm cho dân số tăng nhanh.

tình ñoàn kết chiến ñấu của ñồng bào các dân tộc Tây Nguyên

Đăk Lăk có hệ thống giao thông khá thuận lợi, nhất là về mùa khô. Quốc lộ 14 từ Kon Tum, Gia Lai qua Đăk Lăk vào miền Đông Nam Bộ là con ñường huyết mạch của Tây Nguyên. Quốc lộ 21 nối liền Đăk Lăk với tỉnh Khánh Hoà, với Quốc lộ 1 chạy ven biển. Quốc lộ 21 “kéo dài” nối Buôn Ma Thuột với Đà Lạt. Đường số 7 nối liền với Plêiku, phía Bắc tỉnh Đăk Lăk với Phú Yên.

Những ñặc ñiểm về tự nhiên và kinh tế - xã hội như trên là những yếu tố rất quan trọng, tác ñộng trực tiếp ñến sự hình thành và phát triển thế trận chiến tranh du kích trên chiến trường Đăk Lăk trong chiến tranh cách mạng nói chung và trong cuộc KCCM, cứu nước nói riêng.

Phong trào du kích chiến tranh thu hút ñược rộng rãi các dân tộc tham gia, từ Kinh, Êñê, J’Rai, M’Nông..., tất cả già trẻ, trai gái cùng ñoàn kết một lòng dựa vào buôn làng bố phòng ñể chiến ñấu. Đồng bào các dân tộc Đăk Lăk ai cũng muốn cầm vũ khí, muốn ñảm nhận bất cứ một công việc gì, không quản ngại khó khăn, nguy hiểm ñể giúp sức mình vào việc ñánh ñổ ñế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Thanh niên thì cầm súng giết giặc, canh gác, người già vót chông, bố phòng, chị em phụ nữ sản xuất và vận chuyển lương thực... Với tinh thần anh dũng và trí thông minh, họ dựa vào ñịa hình, ñịa vật sáng tạo nhiều cách ñánh ñịch hiệu quả. Có thể nói chiến tranh du kích giai ñoạn này là biểu hiện sinh ñộng của phong trào toàn dân vũ trang, toàn dân ñánh giặc.

3.2.3. Chiến tranh du kích ở Đăk Lăk tạo chỗ ñứng chân và

hỗ trợ cho bộ ñội chủ lực

Lực lượng tham gia chiến tranh du kích chủ yếu là người dân bản ñịa, họ quen với khí hậu, nắm chắc ñặc ñiểm ñịa hình, thông thạo rừng núi, ñường sá. Do ñó, việc tiến hành cuộc chiến tranh du kích trên ñịa bàn miền núi Đăk Lăk nhằm khai thác triệt ñể lợi thế ñịa quân sự và ñịa chính trị là hoàn toàn ñúng ñắn. 1.2. TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH 1.2.1. Đăk Lăk cho ñến Cách mạng tháng Tám 1945 Ngay từ những ngày ñầu ñặt chân lên Tây Nguyên, quân Pháp ñã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của ñồng bào các dân tộc tỉnh Đăk Lăk. Mở ñầu là phong trào ñấu tranh do N’Trang Gưh lãnh ñạo (1887 - 1913), thu hút 25 buôn với 600 người Êñê chống Pháp ở lưu vực sông Krông Ana và Krông Nô. Tiếp ñó là cuộc nổi dậy của ñồng bào Êñê do tù trưởng Ama Shao lãnh ñạo (1889 - 1905).

Những cuộc ñấu tranh mạnh dần và diễn ra ở nhiều vùng trong tỉnh như cuộc nổi dậy của ñồng bào Mdhur do Oi H’Mai - Oi H’Phai cầm ñầu (1901 - 1909), cuộc ñấu tranh của Oi Dla (1901 - 1907), Ama Lai (1907) ñến cuộc ñấu tranh chống chế ñộ xâu thuế nặng nề của Pháp do hai thầy giáo người Êñê lãnh ñạo là Y Ut Niê và Y Jut H’Wing (1925 - 1926). Gây tiếng vang hơn cả là cuộc khởi nghĩa của

Lực lượng bộ ñội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên (B3) chi viện cho chiến trường Đăk Lăk gồm có Trung ñoàn 33, Tiểu ñoàn 39 hoả tiễn (ĐKB) và Tiểu ñoàn 320. Du kích chiến tranh Đăk Lăk phục vụ ñắc lực cho bộ ñội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên chiến ñấu trên hướng trọng ñiểm của chiến dịch chung hay trên từng ñịa bàn. Du kích, tự vệ ñảm nhiệm việc bảo ñảm an ninh cho bộ ñội hành quân, trú quân, cơ ñộng lực lượng và tiếp tế, tải thương... Điều này ñã ñược thừa nhận trong Báo cáo Nguyệt ñể “A” tháng 2 - 1967 của Toà hành chính tỉnh Đăk Lăk: “Tiểu ñoàn chủ lực tỉnh Tây Ninh (C/320) di chuyển ñến Đăk Lăk, các huyện ủy, lực lượng võ trang ñịa phương, du kích và các cán binh nằm vùng gia tăng nỗ lực thu góp lúa gạo, chuẩn bị lương thực với lực lượng khác thường” [104, tr. 5]. Đặc biệt do am hiểu sâu sắc ñịa hình, tình hình ñịch, du kích, tự vệ vùng ven, vùng ñịch kiểm soát ñã cung cấp những tài liệu chính xác giúp bộ ñội chủ lực chuẩn bị chiến trường nhanh chóng và chính xác. Chính tài liệu của VNCH thừa nhận: “Ở miền rừng núi, kinh nghiệm cho ta

8

21

dân tộc M’Nông, X’Tiêng do N’Trang Long lãnh ñạo (1912 - 1935). Sáng ngày 24 - 8 - 1945, cả thị xã Buôn Ma Thuột bừng dậy, mọi người ñổ ra ñường với băng cờ, khẩu hiệu. Đội tự vệ ñồn ñiền CADA cùng 500 lính bảo an ngả theo cách mạng. Đúng 15 giờ cùng ngày, Ban vận ñộng khởi nghĩa tổ chức cuộc mít tinh tuyên bố giành chính quyền ở tỉnh Đăk Lăk trước sự chứng kiến của 4.000 ñồng bào các dân tộc Êñê, M’Nông, J’Rai, Kinh...

Đăk Lăk là ñịa bàn có cả ba vùng chiến lược: miền núi, nông thôn ñồng bằng và ñô thị, trong ñó miền núi là ñịa bàn có phong trào cách mạng phát triển sớm và mạnh hơn cả, trở thành căn cứ ñịa cách mạng vững chắc ñể xây dựng lực lượng và tổ chức hậu cần. Vùng Bắc Buôn Hồ có căn cứ Dlei Ya và vùng phía Nam Buôn Ma Thuột có căn cứ H9. Từ hai khu căn cứ cách mạng này phong trào chiến tranh du kích có ñiều kiện phát triển mạnh, thường xuyên khuấy rối, tiêu diệt ñịch.

1.2.2. Đăk Lăk kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) Ngày 23 - 9 - 1945, thực dân Pháp nổ súng ñánh chiếm Sài Gòn, mở ñầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Cuối tháng 11 - 1945, quân Pháp từ Nha Trang theo Đường 21 lên tấn công Đăk Lăk và chiếm ñược Buôn Ma Thuột (12 - 1945).

Đối với vùng ñồng bằng và ñô thị, du kích và tự vệ mật ñược tổ chức biên chế rất linh hoạt, thành từng tổ, tiểu ñội, trang bị vũ khí gọn nhẹ, “ñánh trúng, rút nhanh”, bí mật an toàn. Lực lượng này làm nhiệm vụ chủ yếu là nắm chắc âm mưu ñịch, thủ ñoạn và tình hình mọi mặt của chúng, hỗ trợ nhân dân ñấu tranh, có lúc diệt ác ôn, cảnh cáo bọn tề ñiệp hoặc diệt những lực lượng nhỏ của ñịch. Đây là hình thức hoạt ñộng ta biết ñịch mà ñịch không biết ta nên ñánh rất hiểm, ñạt hiểu quả lớn.

Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” (19 - 12 - 1946) cho ñến cuối năm 1949, quân và dân Đăk Lăk ñã ra sức khôi phục, xây dựng, tổ chức, phát triển lực lượng, củng cố bàn ñạp, tiến lên bám ñất giành dân, phát ñộng chiến tranh du kích chống Pháp.

3.1.3. Có sự phối hợp tác chiến chặt chẽ giữa du kích với bộ

ñội ñịa phương và bộ ñội chủ lực

Trong Đông Xuân 1953 - 1954, tranh thủ thời cơ xốc tới giành thắng lợi, phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ, quân dân Đăk Lăk chủ ñộng tiến công ñịch, giành những thắng lợi lớn góp phần kết thúc chiến tranh. Từ ngày 10 ñến ngày 24 - 4 - 1954, phối hợp với Trung ñoàn chủ lực 803, quân và dân Đăk Lăk lần lượt ñánh ñịch ở Tà Khê, tập kích vào Buôn Ma Bép, vào cứ ñiểm Ai Nu và phục kích ñịch ở Buôn Kting, làm cho hệ thống phòng ngự của ñịch từ Cheo Reo xuống Bà Lá bị sụp ñổ.

Thực tiễn chiến tranh du kích từ 1965 ñến 1968 của quân dân Đăk Lăk có sự phối hợp chặt chẽ giữa dân quân du kích với bộ ñội ñịa phương và bộ ñội chủ lực. Điều này ñã ñược thừa nhận trong Báo cáo Nguyệt ñể “A” tháng 5 - 1967 của Toà hành chính tỉnh Đăk Lăk: “Qua các cuộc hành quân có chạm súng của ta với quân ñội... trên lãnh thổ Đăk Lăk kết hợp với những tin tức ghi nhận về phương diện quân sự ñịch có phối hợp lực lượng chủ lực, ñịa phương, dân quân du kích và những phần tử võ trang phân chia vùng bám sát các ñồn bốt ta, phục kích trên các lộ trình ta thường sử dụng hành quân” [103, tr. 6]. Chính nhờ sự khéo léo kết hợp tác chiến giữa các lực lượng nên ñã tạo sức mạnh tổng hợp ñể giành thắng lợi từng bước.

Thắng lợi của quân và dân Đăk Lăk cùng với những thắng lợi dồn dập ở mặt trận Tây Nguyên, Phú Yên và Bình Định làm cho một bộ phận quan trọng của kế hoạch Nava bị thất bại. Phối hợp nhịp nhàng với mặt trận Điện Biên Phủ, quân dân Đăk Lăk ñã làm tốt nhiệm vụ giam chân ñịch, làm cho kế hoạch tập trung binh lực của Nava không thực hiện ñược.

3.2. Ý NGHĨA LỊCH SỬ 3.2.1. Chiến tranh du kích góp phần làm phá sản chiến

1.3. ĐĂK LĂK TỪ SAU HIỆP ĐỊNH GENÈVE ĐẾN

lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở Đăk Lăk

TRƯỚC KHI MỸ TIẾN HÀNH “CHIẾN TRANH CỤC BỘ”

- Góp phần ñánh bại các cuộc càn quét và “bình ñịnh”

1.3.1. Chính sách, thủ ñoạn của Mỹ và chính quyền Sài

20

9

Gòn ở Đăk Lăk

nhưng khí thế vẫn vững vàng. Các xã, buôn tăng cường củng cố thế trận bố phòng, phát ñộng nhân dân tập trung sản xuất ñể giải quyết lương thực bị thiếu hụt sau cuộc Tổng tiến công.

Tháng 5 - 1968, Tỉnh ủy ra Nghị quyết về phong trào chiến tranh du kích. Lực lượng cách mạng trở về bám vùng ven ñể vừa củng cố lực lượng vừa giữ thế tiến công, tiếp tục ñánh vào thị xã Buôn Ma Thuột. Đội du kích, tự vệ mật ở các căn cứ lõm (Đạt Lý 2, Ea Na, Quảng Nhiêu...) làm tốt chức năng chống càn. Từ ñó, các căn cứ lõm và các buôn vùng ven cánh Nam, cánh Đông ñã tạo thành một hành lang quan trọng vây sát thị xã.

Chương 3

ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA LỊCH SỬ

VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Về chính trị - xã hội, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành thiết lập chế ñộ thống trị của chúng và củng cố tổ chức bộ máy tay sai từ tỉnh ñến huyện và các xã buôn. Tháng 3 - 1955, Ngô Đình Diệm yêu cầu Quốc trưởng Bảo Đại ra Đạo dụ số 22 xoá bỏ chế ñộ “Hoàng triều cương thổ”, ñưa vùng cao nguyên vào sự quản lý trực tiếp của chính quyền Sài Gòn. Để Buôn Ma Thuột trở thành trung tâm chính trị ở cao nguyên, chúng lập ra Toà ñại diện Chính phủ tại Cao nguyên Trung phần, các Nha giám ñốc Cảnh sát quốc gia Cao nguyên, Nha xã hội Cao nguyên, Nha thuế vụ Cao nguyên... trụ sở ñóng tại thị xã Buôn Ma Thuột. Trên cơ sở ñó, chúng tiến hành ñánh phá phong trào cách mạng, lập các tổ chức chính trị phản ñộng, ñi ñôi với tuyên truyền lừa bịp, bằng các chiêu bài “Quốc gia dân tộc” giả hiệu, chủ nghĩa “nhân vị” và ra sức phát triển ñạo Thiên chúa giáo ở vùng người Kinh và ñạo Tin lành ở vùng người dân tộc thiểu số.

Về quân ñội, chính quyền Ngô Đình Diệm chú trọng xây dựng lực lượng quân ñội ở Đăk Lăk. Bên cạnh Trung ñoàn 45 có từ trước, chúng ñưa một bộ phận của Sư ñoàn Nùng ở miền Bắc vào ñóng ở Đăk Mil, Lăk ñể khống chế hướng Nam và Tây Nam tỉnh. Địch tập trung xây dựng hệ thống ñồn, bốt ven thị xã, thị trấn và những vùng quan trọng, nhất là ven các trục giao thông 14, 21.

3.1. ĐẶC ĐIỂM 3.1.1. Kiên trì bám trụ và chủ ñộng tiến công ñịch Tham gia chiến tranh du kích ña số là nhân dân, ñồng bào các dân tộc tại chỗ. Họ tham gia ñấu tranh ñánh ñuổi ñế quốc Mỹ ñể bảo vệ chính buôn làng quê hương của họ. Do ñó, dù cuộc kháng chiến có ác liệt, lực lượng dân quân du kích, nhân dân trong buôn làng vẫn quyết tâm “một tấc không ñi, một ly không rời”.

Về kinh tế, chính quyền Ngô Đình Diệm ra sức tiến hành khai thác kinh tế ñể phục vụ cho âm mưu xâm chiếm lâu dài miền Nam Việt Nam. Ngày 12 - 6 - 1955, Ngô Đình Diệm ban hành chính sách “Kinh Thượng ñề huề - Quân dân nhất trí - Khai thác miền sơn cước”. Theo ñó, “chúng cho phép bọn nguỵ quyền, bọn tướng tá quân ñội nguỵ khai thác ñất ñai ở Đăk Lăk, lập ra các ñồn ñiền cà phê, cao su, ñộc quyền khai thác nông, lâm sản” [15, tr. 13].

1.3.2. Đăk Lăk ñấu tranh chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn

từ sau Hiệp ñịnh Genève ñến năm 1965

Chiến tranh du kích ở Đăk Lăk giai ñoạn chống chiến lược “chiến tranh cục bộ” luôn chủ ñộng tiến công ñịch. Ở vùng giải phóng, khi chưa có ñịch, du kích tập trung củng cố buôn xã củng cố thế trận phòng thủ, bố phòng, xây dựng làng chiến ñấu, cùng nhân dân sản xuất, cất giấu lương thực, chuẩn bị nơi sơ tán nhân dân khi có chiến sự. Khi ñịch ñến, du kích bám chắc ñịch, tìm chỗ sơ hở hoặc lừa ñịch vào thế trận bố phòng ñã làm sẵn ñể tiêu hao, tiêu diệt sinh lực ñịch và phương tiện chiến tranh. Du kích và tự vệ mật ở vùng tranh chấp và trong ñô thị tổ chức thành các ñơn vị nhỏ lẻ, trang bị gọn, chủ ñộng và bí mật tiêu diệt những tên ác ôn trong bộ máy quân ñội và cơ quan chính quyền Sài Gòn ở Đăk Lăk.

3.1.2. Chiến tranh du kích phát triển trên cả ba vùng, ñặc

Đầu năm 1958, Ban Cán sự Đăk Lăk tiếp xúc bản Dự thảo ñề cương về ñường lối cách mạng miền Nam của Lê Duẩn. Qua ñó, Ban cán sự rất phấn khởi với vấn ñề “ñấu tranh chính trị có vũ trang hỗ trợ”. “Tuy chưa có Nghị quyết Trung ương nhưng Ban Cán sự tỉnh

biệt phát triển mạnh ở vùng rừng núi

19

10

căn cứ phong trào thực tiễn của quần chúng, từng bước tổ chức những tổ, nhóm bán vũ trang (tự vệ mật, du kích mật...) ñể bảo vệ nhân dân, bảo vệ cán bộ và cơ sở” [15, tr. 29].

cấp, vận chuyển vũ khí và lương thực chuẩn bị cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. “Hậu cứ H10 chỉ có 1.000 dân ñã huy ñộng nhân dân xay giã 35 tấn gạo, tham gia 19.000 ngày dân công. Hậu cứ H8 trên 3.000 dân ñã nhập vào kho 100 tấn gạo” [16, tr. 90]. Hàng trăm tấn vũ khí và lương thực ñã ñược chuyển về căn cứ an toàn.

Một số nơi nhân dân tích cực rào làng, cắm chông, gài bẫy ở rẫy và trên các trục ñường giao thông, chống ñịch lùng sục, càn quét. Thanh niên dùng ná, dao ñi tuần quanh buôn với danh nghĩa chống thú dữ vào buôn, rẫy.

Phong trào chiến tranh du kích vùng giải phóng phát triển là chỗ dựa, là niềm tin cho nhân dân vùng tranh chấp. Từ ñó hầu hết các buôn, ấp vùng ven thị xã Buôn Ma Thuột ñều “trở thành cơ sở chính trị, cơ sở ñịch vận, cơ sở kinh tế, cơ sở tình báo của ta” [16, tr. 87]. Một số căn cứ lõm ngay sát nách ñịch như Đạt lý 2, Ea Na, Buôn Đrơng, Quảng Nhiêu... cán bộ Tỉnh ủy, Thị ủy, lực lượng vũ trang tỉnh ñược nhân dân che chở, nuôi dưỡng, chuẩn bị tiến công vào nội thị.

Năm 1959, Ban Cán sự Đăk Lăk ñã xây dựng vùng Dlei Ya với ñịa hình hiểm trở thành căn cứ ñịa cách mạng, nơi ñứng chân của cơ quan Đảng, chính quyền tỉnh. Từ căn cứ cách mạng ñầu tiên này hình thành các tiểu tổ du kích ñầu tiên, trang bị vũ khí thô sơ ñể bảo vệ cơ quan, cán bộ và cơ sở.

Thực hiện Nghị quyết Liên khu ủy V, trong năm 1962 chiến tranh du kích ở vùng rừng núi Đăk Lăk có bước phát triển mới. Trong khi ñịch gom dân lập ấp chiến lược, dân quân du kích ñã cùng các lực lượng vũ trang tỉnh, huyện liên tục bám ñánh ñịch, chống các cuộc càn quét, lùa xúc dân, bảo vệ căn cứ.

Đóng góp nổi bật của hoạt ñộng du kích chiến tranh ở thị xã Buôn Ma Thuột trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 thuộc về lực lượng hoạt ñộng nội tuyến. Ngày 18 - 1 - 1968, cơ sở nội tuyến Nguyễn Luyện thực hiện vụ nổ tại kho Mai Hắc Đế, “ñánh sập 12/16 nhà kho liên hoàn, phá hủy 4.000 tấn bom ñạn” [53, tr. 53].

Hơn một tuần sau, ngày 26 - 1 - 1968, cơ sở Nguyễn Sen tại Sư bộ 23 “ñánh sập phòng họp chỉ huy hành quân, diệt 50 tên sĩ quan, binh lính ñịch, gây kinh hoàng trong hàng ngũ ñịch” [53, tr. 53].

Thắng lợi lớn nhất của ta trong giai ñoạn này là tạo ra vùng nông thôn giải phóng rộng lớn, vùng căn cứ ñịa liên hoàn, có thế chiến lược quan trọng, ñồng thời tạo ra vùng ñông dân nhiều của, ñóng góp nhân tài, vật lực cho kháng chiến, xây dựng thế trận chiến tranh du kích trên phạm vi toàn tỉnh, chuẩn bị cho cuộc chiến ñấu chống chiến lược “chiến tranh cục bộ” của ñế quốc Mỹ.

Chương 2 CHIẾN TRANH DU KÍCH Ở

ĐĂK LĂK (1965 - 1968) 2.1. MỸ TIẾN HÀNH CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH

CỤC BỘ” Ở ĐĂK LĂK

Ngoài những vụ nổ bất ngờ, táo bạo trên hoạt ñộng của lực lượng tự vệ mật còn gây cho ñịch nỗi hoang mang, khiếp sợ. “Nhiều tên ác ôn, mật vụ, chỉ ñiểm lợi hại bị trừng trị ñích ñáng, trong ñó có tên Trung tá tham mưu trưởng Sư ñoàn 23, tên Ấn - tình báo Mỹ... Quán cà phê Trúc, rạp chiếu bóng Lô Đô - nơi bọn sĩ quan thường lui tới cũng bị ñánh mìn và lựu ñạn. Tình hình ñó khiến một số tên ác ôn ban ñêm không dám ngủ tại nhà, mà phải ngủ tập trung ở khu quân sự ” [67, tr. 39].

Bên cạnh hoạt ñộng vũ trang, lực lượng du kích còn có vai trò quan trọng hỗ trợ quần chúng ñấu tranh chính trị trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân (1968).

Sau ñợt 1, phong trào ñấu tranh chính trị tuy có bị tổn thất

2.1.1. Âm mưu của Mỹ Trong nhãn quan của các nhà quân sự Mỹ, Đăk Lăk nói riêng, Tây Nguyên nói chung là vùng chiến lược cực kỳ quan trọng. Chính tài liệu của chính quyền Sài Gòn ñã thừa nhận: “Cao Nguyên lại ở vào vị trí chiến lược cơ ñộng hết sức quan trọng trên toàn Đông

11

18

dám hống hách như trước” [53, tr. 44]. Ngoài ra, lực lượng du kích, tự vệ mật còn phối hợp dẫn ñường cho lực lượng vũ trang nhiều lần ñột nhập thành công vào nội thị, ñánh vào Sư ñoàn bộ Sư ñoàn 23 ñịch, Tiểu ñoàn 232 pháo binh, chốt bảo an, khu vực nhà ñèn Côsia và trụ sở Lạc Giao. Những hoạt ñộng ñó ñã gây nên “nỗi kinh hoàng, hoang mang trong nguỵ quyền và binh lính ñịch” [53, tr. 45].

Dương, là một bàn ñạp nằm lọt giữa các miền Trung Nguyên, Nam phần và liên kết dính liền về ñịa thế chiến trường với vùng Đông Miên, Hạ Lào và thông ra Bắc” [102, tr. 8]. Ý ñồ của chúng tại Tây Nguyên là tìm diệt chủ lực của ta trên chiến trường rừng núi, dập tắt phong trào cách mạng của ñồng bào dân tộc, chiếm ñất, gom dân, củng cố hệ thống ấp chiến lược, dinh ñiền, ñồn ñiền ñã bị phá rã. Chúng phát hiện “Trung ương và Liên khu V Việt cộng ñã tập trung ở ñây nhiều khả năng cán bộ và lực lượng vũ trang cũng như tài lực của Việt cộng Bắc Việt” [102, tr. 8]. Do ñó, chúng lập kế hoạch cho QĐSG ñánh phá căn cứ, ñường hành lang chiến lược Tây Nguyên hòng cắt ñứt sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam.

Kết thúc năm 1967, lực lượng dân quân, du kích có những bước ñi vững chắc. Du kích ñã ñánh “61 trận, phá 12 ấp chiến lược, ñộc lập chống càn 17 trận, diệt 14 tên, bị thương 29 tên, trong ñó có 10 tên bị sóc chông, bắn rơi 2 máy bay và bắn bị thương 4 chiếc khác” [15, tr. 108]. Huyện H9, H10 là nơi ñịch ñánh phá ác liệt nhất, du kích vẫn kiên quyết bám ñánh ñịch, có ngày du kích H10 ñánh 3 trận. Qua ñó, trình ñộ tác chiến của du kích ñược tăng lên, có ñội chỉ có 3 người mà ñẩy lùi ñược 1 tiểu ñội, trung ñội ñịch như du kích H4, H8.

2.3.3. Chiến tranh du kích trong Tổng tiến công và nổi dậy

năm 1968

Trên chiến trường Đăk Lăk, Mỹ và chính quyền Sài Gòn sau khi “bình ñịnh” không thành ñã quay về củng cố và tăng cường hệ thống phòng thủ liên hoàn, vững chắc, nhất là tại thị xã Buôn Ma Thuột. Chúng xây dựng ở Buôn Ma Thuột 65 cứ ñiểm kiên cố, có cả hầm ngầm chống hoả lực và giao cho quân ñịa phương trấn giữ bảo vệ vòng ngoài. Những vùng ven Buôn Ma Thuột như Buôn Niêng, Buôn Giăng Ré và trên Đường 14 ñi Plêiku có 800 tên Mỹ thuộc Lữ ñoàn 3 Sư ñoàn 2 lính thủy ñánh bộ cơ ñộng càn quét từng ñợt, ñóng xen kẽ với lực lượng Nam Triều Tiên và ñịa phương quân.

2.1.2. Biện pháp của Mỹ Trên chiến trường Đăk Lăk, ñến hết năm 1965, quân viễn chinh Mỹ vẫn chưa có mặt. Tuy nhiên, toàn tỉnh ñã có khoảng 800 cố vấn, nhân viên kỹ thuật Mỹ và một ñại ñội bảo vệ, một ñại ñội trực thăng ñóng ở sân bay Buôn Ma Thuột. Chính quyền Sài Gòn ñã tăng thêm 1 tiểu ñoàn bộ binh cho Trung ñoàn 45 (ñủ 4 tiểu ñoàn), trong ñó 2 tiểu ñoàn bảo vệ Buôn Ma Thuột, 2 tiểu ñoàn cơ ñộng; tăng cường 2 tiểu ñoàn pháo gồm 20 khẩu 105ly, 2 khẩu 155ly, 2 chi ñoàn thiết giáp gồm M113 và M48. Lực lượng bảo an có 20 ñại ñội ñóng quân ở các dinh ñiền và 3 quận (Buôn Hồ, Lạc Thiện, Phước An). Lực lượng biệt kích Trường Sơn có 31 trung ñội, hầu hết là người dân tộc do Mỹ chỉ huy [62, tr. 1]. Chúng mở rộng sân bay Hoà Bình và Buôn Ma Thuột, thường xuyên có 40 máy bay thường trực chiến ñấu. Đó là chưa kể ñến hệ thống sân bay dã chiến ở M’Drăk, Phước An, Kamga. Đến tháng 2 - 1966, Lữ ñoàn dù 173 - ñơn vị lính dù duy nhất của Mỹ có mặt tham chiến trên chiến trường miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ - ñược ñiều ñộng ñến Buôn Ma Thuột.

Được sự hỗ trợ của Mỹ, QĐSG liên tiếp mở những cuộc hành quân, càn quét, ñánh ra các vùng ven và vùng giải phóng của ta hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng và giành lại thế chủ ñộng trên chiến trường; ñồng thời tăng cường các hoạt ñộng không quân, cho máy bay oanh tạc liên tục vào những vùng giáp ranh mà chúng cho là có lực lượng ta ñóng quân.

Trong khi ñó, ta nhanh chóng củng cố thế trận và mở rộng vùng căn cứ cách mạng, vùng giải phóng với hơn 16.000 dân [67, tr. 29], ñẩy mạnh việc xây dựng, củng cố du kích và làng chiến ñấu. Du kích xã ñược trang bị thêm hoả lực (cối 60 ly, súng B40, súng bắn tỉa, súng trung liên) và thường xuyên phối hợp với lực lượng vũ trang huyện, tỉnh bám ñánh ñịch nống ra. Thường xuyên có 1 ñến 2 trung ñội du kích tuần tra, bảo vệ buôn, xã. Mặt khác, hệ thống bố phòng và hệ thống thông tin phát hiện ñịch từ xa ñược tăng cường. Du kích ñóng vai trò chủ lực cùng với nhân dân vùng căn cứ cách mạng cung

17

12

Sau những thắng lợi ñó, nhân dân trong vùng giải phóng rất phấn khởi, tin tưởng lực lượng du kích trong công tác ñánh ñịch, bảo vệ nhân dân. Làng chiến ñấu ñược ñồng bào cùng với du kích ra sức xây dựng, củng cố thêm thế trận bảo vệ xã, buôn.

Thời gian này, Mỹ còn sử dụng một thủ ñoạn thâm ñộc nhằm gây chia rẽ giữa người Kinh với các dân tộc thiểu số và ngay trong chính nội bộ các dân tộc thiểu số. Tháng 8 - 1965, Mỹ trực tiếp nắm tổ chức FULRO ñể tổ chức các ñơn vị biệt kích do Mỹ huấn luyện, trang bị, nuôi dưỡng. Lực lượng FULRO tiến hành cướp phá, chặn xe hàng, phục kích cán bộ, bắt nhân dân ta ñóng góp tiền, gạo cho chúng.

2.2. CHỦ TRƯƠNG CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG, KHU

2.3.2. Tiếp tục giữ vững vùng giải phóng và ñẩy mạnh chiến tranh du kích vào vùng ñịch (từ giữa năm 1966 ñến cuối năm 1967)

ỦY V VÀ ĐẢNG BỘ ĐĂK LĂK

Để nâng cao kỹ năng tác chiến của du kích, ñầu năm 1967 Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk lập “Kế hoạch xây dựng, phát triển du kích chiến tranh và bộ ñội huyện”. Công tác huấn luyện quân sự cho lực lương du kích ñược chú ý ñặc biệt.

2.2.1. Chủ trương của Trung ương Đảng và Khu ủy V Từ việc xác ñịnh ñối tượng tác chiến của chúng ta là “cả quân Mỹ (gồm cả quân chư hầu) và quân nguỵ” [36, tr. 384], Trung ương Đảng nhấn mạnh: “Tiêu diệt quân Mỹ và tiêu diệt quân ñội nguỵ là hai yêu cầu quan trọng của nhiệm vụ tác chiến ñể ñánh bại ý chí xâm lược của ñế quốc Mỹ” [36, tr. 384].

Trên chiến trường Đăk Lăk, Mỹ tập trung các tiểu ñoàn bộ binh và không quân yểm trợ cho QĐSG càn quét, ñánh phá vùng căn cứ, vùng giải phóng. Bất kể ngày ñêm, chúng dùng ñủ loại máy bay trinh sát, trực thăng, máy bay B57 và B52 liên tục quần ñảo trên bầu trời, phát hiện nơi nào có quân cách mạng là ngay lập tức chúng trút bom. Nguy hiểm hơn, chúng còn dùng máy bay rải chất ñộc hoá học, phá hoại mùa màng và cuộc sống của người dân nhằm ngăn chặn nguồn tiếp viện cho cách mạng.

Trong ñấu tranh vũ trang, Trung ương Đảng chỉ rõ nhiệm vụ của chiến tranh du kích: “Phải ñẩy mạnh chiến tranh du kích tiêu hao, tiêu diệt ñịch khắp nơi, ñồng thời ñẩy mạnh tác chiến của chủ lực, tiêu diệt từng bộ phận quan trọng sinh lực ñịch” [36, tr. 384]; cụ thể, “du kích không những phải tiêu diệt ñịch, chống càn quét, chống lấn chiếm mà còn phải bung ra ñánh ñịch ở vùng sâu, khu ñịch tạm chiếm, ñánh giao thông, ñánh vào các cơ quan hậu cần của ñịch, luôn quấy rối ñịch, bao vây chặt các căn cứ, ñồn bốt của ñịch, tìm ñịch mà ñánh, làm cho ñịch luôn bị rối loạn, ăn ngủ không yên, tạo ñiều kiện tốt ñể chủ lực ta diệt ñịch ” [36, tr. 386].

Thực hiện chỉ ñạo của Tỉnh ủy, phong trào du kích chiến tranh từ giữa năm 1966 ñến năm 1967 có bước phát triển mới. Một tiểu ñoàn Mỹ ñổ xuống Kamga liền bị lực lượng du kích và bộ ñội huyện H3 bám ñánh, diệt ñược 3 tên. Lợi dụng tình hình ñịch co cụm lại, du kích dùng cối 82ly bắn vào diệt thêm một số và phá hủy 1 trực thăng. Khi ñịch mở lối thoát trên Quốc lộ 21 lại bị lực lượng công binh cùng với du kích huyện H9 bắn cháy 3 xe, diệt một số tên.

Chính những trận ñánh của lực lượng du kích ñã góp phần làm cho QĐSG “thua ñau về quân sự”, tinh thần bị sa sút, kế hoạch “bình ñịnh” không ñạt kết quả.

Cuối tháng 3 - 1965, Quân khu triệu tập Hội nghị du kích chiến tranh ñể bàn về kế hoạch xây dựng, củng cố dân quân du kích, xây dựng làng chiến ñấu, xây dựng “vành ñai diệt Mỹ” và phát ñộng phong trào thi ñua giành danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”. Hội nghị phát ñộng phong trào chiến tranh du kích trong toàn Quân khu: “Phải ñẩy mạnh phong trào nhân dân du kích chiến tranh. Phát ñộng một phong trào toàn dân tham gia vũ trang ñánh ñịch, ñộng viên một phong trào du kích sôi nổi, tìm giặc mà ñánh, ñánh cả Mỹ lẫn nguỵ” [57, tr. 2].

2.2.2. Chủ trương của Đảng bộ Đăk Lăk

Song song với việc ñánh ñịch càn, ta còn ñẩy mạnh hoạt ñộng vũ trang vào vùng thị xã. Lực lượng tự vệ mật tiến hành trừng trị bọn ác ôn. “Một số tên tay sai lợi hại bị ñền tội tại nhà riêng và nơi làm việc. Số khác nhận ñược thư cảnh cáo của ta, ngày ñêm lo sợ không

13

16

với tỷ lệ 100%, các loại vũ khí và chất nổ với tỷ lệ từ 1/3 ñến 1/2. Vũ khí, chất nổ ñược sử dụng phổ biến là mìn vướng, mìn mo, mìn thụt, mìn ñạp, mìn muỗi, bộc phá khối, bộc phá ống. Một phần vũ khí, chất nổ ñược sản xuất ở các công binh xưởng, một phần lấy của ñịch và trang bị cho du kích.

Tháng 6 - 1966, Thường vụ Tỉnh ủy ñã họp và ñề ra nhiệm vụ trung tâm của tỉnh là “phát triển mạnh mẽ chiến tranh du kích, chống ñịch càn quét lấn chiếm, xây dựng và bảo vệ căn cứ, vùng giải phóng...”[16, tr. 80]. Tiếp theo, cuối năm 1966, Đăk Lăk tổ chức Đại hội nhân dân du kích chiến tranh, nhằm tổng kết công tác và kinh nghiệm phát ñộng chiến tranh du kích, từ ñó triển khai phong trào du kích chiến tranh sâu rộng trong toàn tỉnh.

2.3. CHIẾN TRANH DU KÍCH Ở ĐĂK LĂK GÓP PHẦN

ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ”

2.3.1. Xây dựng và củng cố thế trận chiến tranh du kích, ñánh ñịch càn quét, giữ vững vùng giải phóng, vùng căn cứ (từ giữa năm 1965 ñến giữa năm 1966)

Vùng căn cứ cách mạng Dlei Ya (phía Bắc Đăk Lăk) là nơi ñứng chân của cơ quan lãnh ñạo tỉnh từ năm 1959, ñồng thời cũng là ñịa bàn ñứng chân của Tiểu ñoàn 303. Do ñó, với kế hoạch “tìm diệt” quân chủ lực cách mạng, Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở Đăk Lăk ñã liên tục ñánh phá vùng căn cứ Dlei Ya. Tháng 5 - 1965, ñại ñội ñịch ở Buôn Mriêng càn vào Dlei Ya ñể xúc dân và tìm bắt cán bộ cách mạng. Trung ñội du kích Dlei Ya gồm 19 người (có 3 ñảng viên và 10 nữ) ñã chặn ñánh quân Mỹ quyết liệt. “Nhiều toán ñịch bị sa vào ổ phục kích và cạm bẫy của du kích, một số bị thương... cuộc càn bị bẻ gãy” [66, tr. 4].

Phối hợp với chiến trường phía Bắc, tháng 5 - 1965, lực lượng vũ trang huyện H10 kết hợp với lực lượng du kích xã tổ chức tiến công giải phóng các ấp chiến lược buôn Ja Tu và buôn Knăc.

Ở vùng giải phóng, vùng căn cứ, du kích biên chế thành 2 lực lượng: Du kích tập trung và du kích tại chỗ. Mỗi xã tuỳ theo dân số tổ chức từ 1 ñến 2 ñại ñội du kích tập trung xã, các thôn buôn tổ chức 1 ñến 2 trung ñội du kích tại chỗ. Du kích tập trung ñược trang bị vũ khí, ñược huấn luyện, là lực lượng trực tiếp chiến ñấu trên ñịa bàn buôn, xã hoặc phối hợp với các lực lượng vũ trang khác. Du kích tại chỗ có số lượng ñông hơn, ñược trang bị vũ khí, chủ yếu làm nhiệm vụ canh gác, bố phòng, phục vụ chiến ñấu hoặc trực tiếp chiến ñấu tại ñịa phương. Trong số du kích tại chỗ có du kích thiếu niên, tiểu tổ nữ du kích và lão du kích.

Tháng 5 - 1965, huyện H9 ñược giải phóng ñã mở ra một vùng rộng lớn ñảm bảo các yếu tố thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ ñịa cách mạng tỉnh Đăk Lăk. Cùng với việc xây dựng căn cứ ñịa cách mạng - nơi ñứng chân của các cơ quan lãnh ñạo kháng chiến của tỉnh, các trung ñội du kích xã, thôn buôn ñược hình thành. Lực lượng du kích này vừa tham gia ñánh ñịch càn quét, bảo vệ căn cứ, bảo vệ nhân dân vừa tham gia sản xuất, cung cấp lương thực, thực phẩm cho căn cứ ñịa.

Đối với vùng tranh chấp và các căn cứ lõm, việc xây dựng du kích, tự vệ mật, cơ sở nội tuyến rất linh hoạt, ñược tổ chức thành từng tổ, tiểu ñội gọn, nhẹ. Nhiệm vụ chủ yếu là nắm chắc âm mưu, thủ ñoạn và tình hình mọi mặt của ñịch; hỗ trợ nhân dân ñấu tranh, có lúc diệt ác ôn hoặc lực lượng nhỏ của ñịch với phương châm “ñánh trúng, rút nhanh”.

Trong vùng giải phóng phía Bắc (các huyện H2, H3, H4), các ñội du kích hoạt ñộng mạnh mẽ, ñánh nhiều trận tiêu hao, tiêu diệt sinh lực ñịch và lập thành tích xuất sắc, giữ vững hành lang từ Đông Buôn Hồ sang Đường 21. Qua ñó lực lượng của ta và công tác vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam ñược tiếp tục ñảm bảo.

Tháng 12 – 1965, du kích xã có 2.091 người, chiếm 2,7% dân số (có 153 nữ, 112 ñoàn viên, 99 ñảng viên); du kích thôn buôn có 2.433 người, chiếm 3,1 % dân số (có 256 nữ, 11 ñoàn viên và 22 ñảng viên); du kích mật có 72 người và du kích thiếu niên có 142 em. Lượng dân quân du kích Đăk Lăk ñược trang bị vũ khí tự tạo

Du kích các xã, thôn gần các ñường giao thông như Đường 14, 21, 21 “kéo dài” tổ chức ñánh phá giao thông, ngăn chặn có hiệu quả việc vận chuyển lương thực, gây nên hiện tượng thiếu gạo trong binh lính ñịch.

15

14

MỤC LỤC

Trang Trang phụ bìa ........................................................................................................... i

Lời cam ñoan ........................................................................................................... ii Lời cảm ơn ............................................................................................................. iii Mục lục ................................................................................................................... 1 Danh mục chữ viết tắt .............................................................................................. 3 MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 4 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ................................................................................... 4 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ................................................................ 5

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ................................................. 7 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ................................................. 7 5. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................. 8 6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN ...................................................................... 9

7. BỐ CỤC LUẬN VĂN ..................................................................................... 9 Chương 1. TÌNH HÌNH ĐĂK LĂK TRƯỚC NĂM 1965 ................................. 10 1.1. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI ............. 10

1.1.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................... 10 1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội .................................................................... 11 1.2. TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH ............................................................. 14 1.2.1. Đăk Lăk cho ñến Cách mạng tháng Tám 1945 ..................................... 14

1.2.2. Đăk Lăk kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) ................................. 15

1.3. ĐĂK LĂK TỪ SAU HIỆP ĐỊNH GENÈVE ĐẾN TRƯỚC KHI MỸ TIẾN HÀNH “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” ....................................................... 16 1.3.1. Chính sách, thủ ñoạn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở Đăk Lăk ....... 16 1.3.2. Đăk Lăk ñấu tranh chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn từ sau Hiệp ñịnh Genève ñến năm 1965 ........................................................................... 20 Chương 2. CHIẾN TRANH DU KÍCH Ở ĐĂK LĂK (1965 - 1968) ................. 28

2.1. MỸ TIẾN HÀNH CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” Ở ĐĂK LĂK .... 28 2.1.1. Âm mưu của Mỹ ................................................................................. 28 2.1.2. Biện pháp của Mỹ................................................................................ 29

2.2. CHỦ TRƯƠNG CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG, KHU ỦY V VÀ ĐẢNG

BỘ ĐĂK LĂK .................................................................................................. 31 2.2.1. Chủ trương của Trung ương Đảng và Khu ủy V .................................. 31 2.2.2. Chủ trương của Đảng bộ Đăk Lăk ....................................................... 35

1

2.3. CHIẾN TRANH DU KÍCH Ở ĐĂK LĂK GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” .................................................... 37 2.3.1. Xây dựng và củng cố thế trận chiến tranh du kích, ñánh ñịch càn

quét, giữ vững vùng giải phóng, vùng căn cứ (từ giữa năm 1965 ñến giữa năm 1966) ..................................................................................................... 37 2.3.2. Tiếp tục giữ vững vùng giải phóng và ñẩy mạnh chiến tranh du kích vào vùng ñịch (từ giữa năm 1966 ñến cuối năm 1967) .................................. 44 2.3.3. Chiến tranh du kích trong Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 .......... 49 Chương 3. ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ... 58 3.1. ĐẶC ĐIỂM ................................................................................................ 58

3.1.1. Kiên trì bám trụ và chủ ñộng tiến công ñịch ........................................ 58 3.1.2. Chiến tranh du kích phát triển trên cả ba vùng, ñặc biệt phát triển mạnh ở vùng rừng núi ................................................................................... 60 3.1.3. Có sự phối hợp tác chiến chặt chẽ giữa du kích với bộ ñội ñịa

phương và bộ ñội chủ lực .............................................................................. 61 3.2. Ý NGHĨA LỊCH SỬ ................................................................................... 63 3.2.1. Chiến tranh du kích góp phần làm phá sản chiến lược “chiến tranh

cục bộ” của Mỹ ở Đăk Lăk ............................................................................ 63 3.2.2. Chiến tranh du kích ở Đăk Lăk củng cố và tăng cường tình ñoàn kết chiến ñấu của ñồng bào các dân tộc Tây Nguyên ........................................... 65 3.2.3. Chiến tranh du kích ở Đăk Lăk tạo chỗ ñứng chân và hỗ trợ cho bộ

ñội chủ lực .................................................................................................... 67 3.3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM ........................................................................ 68 3.3.1. Phát huy vai trò và sức mạnh tổng hợp của các già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo có uy tín trong việc xây dựng thế trận chiến tranh du kích ở ñịa phương ......................................................................................... 68 3.3.2. Xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh ñể làm nòng cốt cho chiến tranh du kích phát triển .................................................................................. 70

3.3.3. Tận dụng triệt ñể ñịa hình ñể lựa chọn phương thức tấn công ñịch một cách linh hoạt, hiệu quả .......................................................................... 71 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 77

PHỤ LỤC

2

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BCHTƯ : Ban Chấp hành Trung ương

BCT : Bộ Chính trị

CNXH : Chủ nghĩa xã hội

CTQG : Chính trị quốc gia

Đệ I CH : Đệ nhất Cộng hoà

KCCM : Kháng chiến chống Mỹ

KCCP : Kháng chiến chống Pháp

Nxb : Nhà xuất bản

PTT : Phủ Thủ tướng

QĐND : Quân ñội nhân dân

QĐSG : Quân ñội Sài Gòn

TLLT : Tài liệu lưu trữ

Tp HCM : Thành phố Hồ Chí Minh

TTLTQG II : Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II

VNCH : Việt Nam Cộng hòa

3

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Chiến tranh du kích là một trong những phương thức tiến hành chiến tranh chủ

yếu của nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và ñế

quốc Mỹ xâm lược. Bằng các hoạt ñộng tác chiến mưu trí, linh hoạt, sáng tạo, ñánh

ñịch rộng khắp, liên tục mọi lúc, mọi nơi với mọi loại vũ khí có trong tay, chiến tranh

du kích khiến cho kẻ thù không phân ñịnh rõ ñâu là tiền tuyến, ñâu là hậu phương.

Chiến tranh du kích thực hiện tiêu hao, tiêu diệt quân ñịch, làm cho kẻ thù không phát

huy ñược ưu thế của vũ khí hiện ñại mà phải bị ñộng ñối phó.

Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, chiến tranh du kích và xây dựng dân

quân du kích, tự vệ là một nội dung quan trọng, có giá trị lý luận và thực tiễn. Thông

qua các tác phẩm bàn về chiến tranh du kích như Kinh nghiệm du kích Tàu, Kinh

nghiệm du kích Pháp, Tỉnh uỷ bí mật, Người cho rằng du kích là cách ñánh giặc của

dân tộc bị áp bức chống ñế quốc. Quán triệt tư tưởng ñó, cùng với việc kế thừa và

phát triển kinh nghiệm của tổ tiên, trong 30 năm chiến tranh giải phóng, ñặc biệt là

trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta ñã lãnh ñạo nhân dân xây dựng lực

lượng du kích và tiến hành chiến tranh du kích, góp phần ñánh thắng chiến tranh xâm

lược của kẻ ñịch có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh hơn hẳn. Đánh giá về vai trò

của chiến tranh du kích, Đảng ta khẳng ñịnh: “Khả năng của chiến tranh du kích vừa

tiêu hao vừa tiêu diệt cả nguỵ lẫn Mỹ là rất lớn, rộng và liên tục” [36, tr. 384].

Chiến tranh du kích hoàn toàn phù hợp với ñặc ñiểm ñịa hình Việt Nam; ñặc biệt

là với những ñịa bàn nhiều núi rừng, chiến trường dễ bị chia cắt như Tây Nguyên thì

chiến tranh du kích càng có ñiều kiện ñể phát huy tối ña ưu thế.

Là một ñịa bàn chiến lược của Tây Nguyên, trong kháng chiến chống Mỹ, Đảng

bộ, quân và dân Đăk Lăk ñã biết lợi dụng tối ña các yếu tố “thiên thời, ñịa lợi, nhân

hoà”, phát huy sức mạnh ñại ñoàn kết dân tộc, tiến hành chiến tranh du kích ñánh thắng

chiến tranh xâm lược của quân Mỹ và quân ñội Sài Gòn trên ñịa bàn. Nhân dân các dân

tộc Đăk Lăk nhận thức ñược rằng: “Để chống ñịch, thắng ñịch thì phải phát ñộng chiến

tranh du kích toàn dân, toàn diện và lâu dài” [29, tr. 63]. Trong kháng chiến chống Mỹ,

4

ñặc biệt là trong giai ñoạn chống chiến lược “chiến tranh cục bộ”, chiến tranh du kích ở

Đăk Lăk ñược xây dựng và tiến hành trên từng thôn, buôn ñể củng cố thế trận chiến

tranh nhân dân, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của quân viễn

chinh Mỹ và quân ñội Sài Gòn. Chiến tranh du kích là “linh hồn” của thế trận chiến

tranh nhân dân ở Đăk Lăk, nó góp phần không nhỏ tạo nên trang sử vẻ vang của quân

dân Đăk Lăk trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975).

Bởi những lẽ ñó, nghiên cứu chiến tranh du kích ở Đăk Lăk là vấn ñề hấp

dẫn và là một việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.

Về khoa học, ñề tài góp phần làm rõ ñóng góp của chiến tranh du kích ở Đăk

Lăk trong việc ñánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Bên cạnh ñó, ñề tài còn

khẳng ñịnh vai trò lãnh ñạo của Đảng trong việc ñịnh ra ñường lối, chủ trương cho

cách mạng miền Nam và việc vận dụng sáng tạo, linh hoạt ñường lối và chủ trương

ñó của Đảng bộ Đăk Lăk thông qua thực tiễn ñấu tranh. Mặt khác, tìm hiểu chiến

tranh du kích ở Đăk Lăk sẽ góp phần làm phong phú thêm kho tàng nghệ thuật tiến

hành chiến tranh nhân dân của dân tộc Việt Nam.

Về thực tiễn, ñề tài góp thêm những cứ liệu cho việc giáo dục truyền thống

cách mạng cho nhân dân Đăk Lăk, nhất là cho thế hệ trẻ của các dân tộc trong tỉnh,

góp phần ñộng viên nhân dân xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong giai ñoạn hiện

nay. Mặt khác, những bài học kinh nghiệm ñúc rút từ thực tiễn phong trào chiến tranh

du kích sẽ có ý nghĩa lớn trong việc xây dựng khối ñại ñoàn kết toàn dân dưới sự lãnh

ñạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là trong bối cảnh hiện nay ở Đăk Lăk nói

riêng, Tây Nguyên nói chung các thế lực thù ñịch ñang rắp tâm chống phá nhằm chia

rẽ khối ñại ñoàn kết dân tộc. Kết quả nghiên cứu ñề tài còn là cơ sở ñể biên soạn bài

giảng lịch sử ñịa phương theo quy ñịnh của chương trình lịch sử do Bộ Giáo dục và

Đào tạo ban hành.

Từ cách tiếp cận vấn ñề như vậy, chúng tôi chọn vấn ñề “Chiến tranh du

kích ở Đăk Lăk giai ñoạn 1965 - 1968” làm ñề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành

lịch sử Việt Nam.

2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Liên quan ñến ñề tài ñã có một số công trình sau:

5

Năm 1994, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk biên soạn công trình “Đăk Lăk

30 năm chiến tranh giải phóng”, phản ánh cuộc chiến ñấu của nhân dân các dân tộc

Đăk Lăk thời kỳ 1945 - 1975. Công trình ñề cập ñến một số hoạt ñộng của phong

trào chiến tranh du kích của quân và dân Đăk Lăk trong kháng chiến chống thực

dân Pháp và ñế quốc Mỹ.

Với công trình “Tổng kết chiến tranh du kích trên chiến trường Đăk Lăk

(1945 - 1975)” xuất bản năm 1998, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk ñã ñề cập ñến

các hoạt ñộng ñấu tranh của dân quân, du kích Đăk Lăk và một số bài học kinh

nghiệm từ quá trình thực hiện du kích chiến tranh trên chiến trường miền núi, vùng

ñồng bào các dân tộc Đăk Lăk trong 30 năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Năm 1999, Bộ Tư lệnh Quân khu V - Viện Lịch sử quân sự cho xuất bản

cuốn “Một số kinh nghiệm chỉ ñạo chiến tranh nhân dân ñịa phương ở Khu V trong

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”. Công trình ñã tổng hợp một số kinh nghiệm

trong chỉ ñạo chiến tranh nhân dân ñịa phương ở các tỉnh thuộc Quân khu V trong

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Bộ Tổng tham mưu năm 2000 ñã xuất bản công trình “Tổng kết cách ñánh

của lực lượng dân quân du kích - tự vệ trong hai cuộc chiến tranh chống thực dân

Pháp và ñế quốc Mỹ (1945 - 1975)”. Công trình hệ thống, phân loại các hình thức,

cách ñánh ñộc ñáo, sáng tạo của lực lượng dân quân, du kích - tự vệ, rút ra những

bài học kinh nghiệm chỉ ñạo lực lượng dân quân du kích trong cả nước ta.

Năm 2002, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đăk Lăk phối hợp nhà xuất bản

Chính trị quốc gia ra mắt cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đăk Lăk (1954 - 1975)”,

trong ñó làm rõ vai trò lãnh ñạo của Đảng bộ và tinh thần ñấu tranh anh dũng của

nhân dân Đăk Lăk trong suốt cuộc KCCM, cứu nước; phân tích một số chủ trương

của Đảng, Khu ủy V và ñề cập những chỉ ñạo của Tỉnh ủy về phát triển chiến tranh

du kích trên chiến trường Đăk Lăk trong cuộc KCCM, cứu nước.

Liên quan ñến ñề tài còn có một số công trình lịch sử ñịa phương như: “Lịch

sử ñấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng bộ và nhân dân thị xã Buôn Ma Thuột”;

“Lịch sử Đảng bộ huyện Krông Bông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

(1954 - 1975)”; “Lịch sử Đảng bộ huyện Krông Năng (1954 - 2005)”; “Lịch sử ñấu

6

tranh của Đảng bộ và nhân dân huyện Lăk (1945 - 1975)”; “Lịch sử ñấu tranh của

Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện M’Đrăk (1945 - 1975)”; “Lịch sử ñấu

tranh của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Chư M’gar”v.v…

Những công trình trên ñều có ñề cập ñến chiến tranh du kích của quân và dân

tỉnh Đăk Lăk trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tuy nhiên, nhìn chung các

công trình trên chưa ñi sâu vào phân tích từng khía cạnh của chiến tranh du kích ở

Đăk Lăk như về xây dựng lực lượng dân quân, du kích và trang bị vũ khí, huấn

luyện quân sự. Bên cạnh ñó, các công trình trên chưa khai thác nguồn tư liệu lưu trữ

của CQSG hiện ñang lưu trữ tại TTLTQGII, Tp.HCM ñể nhìn nhận, ñánh giá chiến

tranh du kích Đăk Lăk một cách ñầy ñủ hơn.

Tóm lại, các công trình trên ñây tuy mức ñộ nghiên cứu có khác nhau nhưng

là nguồn tài liệu phong phú và quan trọng ñể chúng tôi hoàn thành luận văn này.

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

3.1. Mục ñích nghiên cứu

Luận văn góp phần nhận thức rõ hơn chiến tranh du kích ở Đăk Lăk trong

KCCM, cứu nước giai ñoạn 1965 - 1968 trên cơ sở phân tích sự lãnh ñạo ñúng ñắn,

sáng tạo của Đảng bộ Đăk Lăk, quyết tâm ñánh Mỹ và thắng Mỹ của quân và dân

các dân tộc Đăk Lăk trong giai ñoạn này.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài nhằm tập trung nghiên cứu những vấn ñề sau:

- Âm mưu, biện pháp của Mỹ trong chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở Đăk Lăk.

- Chủ trương của Trung ương Đảng, Khu ủy V, Đảng bộ Đăk Lăk; chiến

tranh du kích góp phần ñánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968) của

ñế quốc Mỹ ở Đăk Lăk.

- Đặc ñiểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình thực

hiện chiến tranh du kích trên ñịa bàn Đăk Lăk giai ñoạn 1965 - 1968.

4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu chiến tranh du kích ở Đăk Lăk trong KCCM, cứu nước

7

giai ñoạn 1965 - 1968.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Luận văn nghiên cứu chiến tranh du kích tập trung chủ yếu

trên ñịa bàn Đăk Lăk theo phân ñịnh ñịa giới hành chính hiện nay.

Về thời gian: Luận văn nghiên cứu chiến tranh du kích ở Đăk Lăk trong

KCCM, cứu nước giai ñoạn 1965 - 1968, những năm nhân dân Đăk Lăk chống

chiến lược “chiến tranh cục bộ” của ñế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Tuy có giới hạn về không gian và thời gian nêu trên, song khi cần làm rõ một

số nội dung, luận văn có thể mở rộng không gian ra khỏi ñịa bàn tỉnh Đăk Lăk và

thời gian có thể lùi về trước năm 1965 ñể thấy ñược tính toàn diện và hệ thống của

nội dung ñược nêu.

5. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

5.1. Nguồn tài liệu

- Nguồn tài liệu ñã xuất bản

Nguồn tài liệu ñể thực hiện luận văn bao gồm các tác phẩm kinh ñiển của

chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân, những tác

phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn; Văn

kiện Đảng Toàn tập; các tác phẩm, các công trình ñã in thành sách và các bài viết

ñăng trên tạp chí, mạng internet... ñặc biệt là các tác phẩm của các nhà sử học, các

nhà nghiên cứu về cuộc KCCM, cứu nước của nhân dân Đăk Lăk.

- Nguồn tài liệu lưu trữ

Để hoàn thành nhiệm vụ của luận văn, chúng tôi ñã tiến hành thu thập tài liệu

lưu trữ tại Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Tỉnh ủy Đăk Lăk, Trung tâm lưu trữ của Bộ

Tư lệnh Quân khu V thành phố Đà Nẵng, Ban Khoa học lịch sử quân sự Bộ Chỉ huy

quân sự tỉnh Đăk Lăk, Bảo tàng tỉnh Đăk Lăk, ñặc biệt là tại TTLTQG II Tp. HCM.

- Nguồn tài liệu khảo sát, ñiền dã

Tác giả luận văn khảo sát ñiền dã, ñi thực tế tại một số căn cứ ñịa cách mạng,

căn cứ du kích, ñồng thời gặp gỡ các nhân chứng ñã tham gia lực lượng dân quân

du kích ở ñịa bàn các xã, huyện. Việc làm ñó nhằm làm tăng ñộ chính xác cũng như

làm phong phú thêm những thông tin, nhận ñịnh ñưa ra trong luận văn.

8

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện ñề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác

nhau và kết hợp các phương pháp ấy trên cơ sở phương pháp luận sử học Mác - xít:

Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic, phương pháp khảo sát ñiền dã, phương

pháp ñối chiếu, so sánh, phân tích, tổng hợp…

6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

Một là, luận văn trình bày có hệ thống và tương ñối toàn diện về chiến tranh

du kích ở Đăk Lăk trong cuộc KCCM, cứu nước giai ñoạn 1965-1968.

Hai là, luận văn cung cấp một số tư liệu lưu trữ về cuộc KCCM, cứu nước

của nhân dân Đăk Lăk, phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử ñấu tranh của nhân dân

Đăk Lăk nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung.

Ba là, luận văn góp phần phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập

lịch sử ñịa phương thời kỳ KCCM. Bên cạnh ñó, luận văn còn góp phần giáo dục

truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc của ñồng bào các dân tộc tỉnh Đăk Lăk,

nhất là ñối với thế hệ trẻ.

7. BỐ CỤC LUẬN VĂN

Ngoài phần mở ñầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm có

3 chương:

Chương 1: Tình hình Đăk Lăk trước năm 1965.

Chương 2: Chiến tranh du kích ở Đăk Lăk (1965 - 1968).

Chương 3: Đặc ñiểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm.

9

Chương 1

TÌNH HÌNH ĐĂK LĂK TRƯỚC NĂM 1965

1.1. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ - XÃ HỘI

1.1.1. Điều kiện tự nhiên

Tỉnh Đăk Lăk nằm trên cao nguyên phía Tây của miền Trung nước Việt Nam với diện tích tự nhiên 13.125,37 km2, phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai, phía Nam giáp

tỉnh Lâm Đồng và Đăk Nông, phía Đông giáp tỉnh Khánh Hoà và Phú Yên, phía

Tây có chung ñường biên giới với Campuchia. Đây là một ñịa bàn có vị trí chiến

lược rất quan trọng.

Đăk Lăk là một cao nguyên với ñộ cao trung bình 500m so với mặt nước

biển. Trung tâm cao nguyên là một vùng ñất tương ñối bằng phẳng, ñôi chỗ hơi

lượn sóng và bị chia cắt bởi hệ thống sông suối. Phía Đông có những ñồng cỏ rộng,

phía Tây ñịa hình thấp dần khiến sông Srêpôk chảy qua ñây tạo thành những thác

nước lớn. Phía Nam là miền ñồng trũng, có hồ Lăk rộng trên 500ha. Những ngọn

núi cao và ñồi dốc của Đăk Lăk tập trung ở các khu vực giáp giới phía Đông và phía

Nam. Ngăn cách giữa Đăk Lăk và Lâm Đồng có dãy Chư Yang Sin cao 2.442m,

dãy Chư Ta Dung cao 1.982m. Ranh giới giữa Đăk Lăk và Gia Lai có dãy Chư Dlie

Ya cao 1.229m. Dọc theo phía Đông của tỉnh là toàn bộ núi ñồi với dãy Chư H’Mú

cao 2.051m. Trong lòng các núi cao này là những hang ñá rộng và kín ñáo, rất thuận

lợi cho việc hình thành các căn cứ du kích và hoạt ñộng du kích. Những hang ñá

này là nơi tạm trú của du kích khi bị ñịch truy quét hoặc là nơi lý tưởng cho việc cất

giấu lương thực, vũ khí phục vụ chiến ñấu.

Hệ thống sông ngòi của Đăk Lăk khá phong phú. Phía Đông và Đông Bắc có

sông Ba và hai chi lưu của nó là sông H’Nang và sông Hin chảy về Phú Yên rồi ñổ

ra biển Đông. Phía Bắc có hệ thống sông Ea H’Leo và hai chi lưu của nó là Ea

Drang và Ea Sup chảy về phía Tây nhập vào sông Srêpôk. Đặc biệt, sông lớn nhất

tỉnh là Srêpôk, bắt nguồn từ dãy Chư Yang Sin theo hướng Tây Bắc ñổ vào sông

Mê Kông ở tỉnh Stung - treng (Campuchia). Ngoài ra, Đăk Lăk còn có hàng trăm

con sông, suối lớn nhỏ khác.

10

Về khí hậu, Đăk Lăk có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo

dài 6 tháng (từ tháng 5 ñến tháng 10), chiếm tỷ lệ 85 - 87% lượng mưa trong cả

năm. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 ñến tháng 4, khí hậu khô và lạnh hơn. Mùa mưa

kéo dài gây nhiều khó khăn cho QĐSG, ñược phản ánh trong một tài liệu như sau:

“Mùa mưa kéo dài thường gây trở ngại cho những cuộc hành quân phối hợp quy

mô...vì quang ñộ kém, mưa nhiều ngập suối, khí hậu ẩm thấp làm hạn chế sự di

chuyển và sự sử dụng những phương tiện yểm trợ cũng như gây khó khăn không ít

cho việc bảo toàn dụng cụ và sức khoẻ của binh sĩ” [102, tr. 2].

Đăk Lăk nằm ở trung tâm vùng ñất bazan của Tây Nguyên, là tỉnh có ưu thế

về rừng với khoảng 1.000.000ha rừng nhiệt ñới, trên 8.000ha rừng thông tự nhiên,

gần 200.000ha rừng nứa, lồ ô chưa khai thác. Rừng ở ñây không bạt ngàn như ở

vùng phía Bắc Tây Nguyên song phong trào chiến tranh du kích Đăk Lăk ñã triệt ñể

khai thác lợi thế ñộ che khuất của rừng ñể che dấu lực lượng. Chính quyền Sài Gòn

không khó khăn khi nhận ra rằng: “...nhờ ñịa thế này quân du kích dễ tạo nên ñiều

kiện ñể che dấu quân...” [102, tr. 2].

1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội

Đồng bào Đăk Lăk chủ yếu sống bằng nghề nông. Bên cạnh cây lúa là cây

lương thực chính, ñồng bào Đăk Lăk còn trồng xen canh ngô, sắn, ñậu và các loại

cây ăn quả như chuối, cam, xoài, mít... Năng suất lao ñộng của ñồng bào rất thấp do

lối phát nương làm rẫy, du canh du cư, chọc lỗ, trỉa hạt. Chính từ cuộc sống du canh

du cư, ñồng bào các dân tộc Tây Nguyên nắm chắc các ñặc ñiểm ñịa hình. Chính tài

liệu “Dự án tác chiến miền thượng du” của chính quyền Sài Gòn ñã khẳng ñịnh: “Vì

cuộc sống du mục, nên không một hốc núi, một dòng khe nào là họ (người dân bản

ñịa) không ñặt chân tới” [79, tr. 2].

Đăk Lăk là một tỉnh có nhiều dân tộc anh em chung sống, chủ yếu là người

Êñê, M’Nông, J’Rai, Bahnar, Xê Đăng... Năm 1954, tỉnh Đăk Lăk có 118.800 dân,

trong ñó có 76.000 người dân tộc thiểu số. Sau Hiệp ñịnh Genève và những năm sau

ñó, ñịch ñã ñưa hàng vạn ñồng bào miền Bắc di cư cùng với người Kinh ở ñồng

bằng Khu V lên lập dinh ñiền, làm cho dân số tăng nhanh.

Đăk Lăk có hệ thống giao thông khá thuận lợi, nhất là về mùa khô. Quốc lộ 14

11

từ Kon Tum, Gia Lai qua Đăk Lăk vào miền Đông Nam Bộ là con ñường huyết mạch của Tây Nguyên. Quốc lộ 21(1) nối liền Đăk Lăk với tỉnh Khánh Hoà, với Quốc lộ 1 chạy ven biển. Quốc lộ 21(2) “kéo dài” nối Buôn Ma Thuột với Đà Lạt. Đường số 7

nối liền với Plêiku, phía Bắc tỉnh Đăk Lăk với Phú Yên... Trong KCCM, ta cũng mở

thêm nhiều con ñường chiến lược dọc, ngang ñịa bàn Đăk Lăk. Bên cạnh ñó, Đăk

Lăk còn có nhiều sân bay như sân bay Hoà Bình, sân bay Buôn Ma Thuột, các sân

bay dã chiến ở Phước An, Khánh Dương, Lăk, Đức Lập... Hệ thống ñường sá, sân

bay ñó ñã tạo thuận lợi lớn về giao thông trong ñịa bàn tỉnh và giữa Đăk Lăk với các

ñịa phương khác ở Tây Nguyên, ven biển miền Trung và Đông Nam Bộ.

Báo cáo về hiện tình hoạt ñộng của Việt cộng ở Cao Nguyên Trung phần của

phòng Nhì Bộ Quân lực - Bộ Tổng tư lệnh, Quân lực VNCH năm 1965 viết: “Về

phía Bắc các tỉnh Pleiku, Kon Tum, ñịa thế rất hiểm trở, rừng núi bao la, trùng ñiệp,

ít ñường giao thông thuận lợi ñã tạo ra nhiều yếu tố khó khăn cho sự hoạt ñộng và

kiểm soát của ta [102, tr. 7]. Có phần khác với phía Bắc, cao nguyên Đăk Lăk và

cao nguyên Lâm Đồng ở phía Nam ít nhiều thuận lợi cho việc kiểm soát của Mỹ:

“Ở miền Nam cao nguyên (Đăk Lăk, Lâm Đồng) thì ñịa thế có phần khác với phía

Bắc... rừng thưa, tương ñối bằng phẳng và nhiều ñường giao thông ñi lại, sự hoạt

ñộng và kiểm soát của ta có phần thuận lợi hơn” [102, tr. 2]. Do “nhiều ñường giao

thông ñi lại”, Mỹ và chính quyền Sài Gòn dễ dàng tiến hành các cuộc hành quân

càn quét và ñánh phá các vùng giải phóng, các cơ sở cách mạng ở Đăk Lăk. Đây là

khó khăn lớn mà lực lượng tham gia du kích chiến tranh phải tính ñến.

Về văn hoá, trước những năm 20 của thế kỷ XX, các dân tộc ở ñây ñược tổ

chức thành buôn. Hợp thành buôn là những gia ñình mẫu hệ và có quan hệ với nhau

về thân tộc ở mức ñộ khác nhau. Điều này làm cho quan hệ cộng ñồng trong buôn

ñược duy trì khá bền vững, những dấu vết của tổ chức công xã thị tộc còn rõ nét.

Đất ñai và những nguồn lợi khác trên ñất ñai ñều thuộc quyền sở hữu tập thể của

buôn. Các hoạt ñộng như săn bắt, sản xuất, sinh hoạt ñều làm tập thể. Đồng bào dân

tộc rất mến khách nên khách của một gia ñình cũng là khách của cả buôn, ñược mọi

người ñối xử rất chân tình. Mọi sinh hoạt cộng ñồng của buôn ñược duy trì bởi luật (1) Nay là Quốc lộ 26. (2) Nay là Quốc lộ 27.

12

tục của từng dân tộc.

Để bảo vệ buôn làng, chống thú dữ, ñồng bào các dân tộc sớm có tinh thần

thượng võ, luôn mang vũ khí bên người như cung tên, nỏ, giáo mác... Từ người già

ñến trẻ em ñều biết cắm chông, cài thò. Khi phải ñối phó với mối nguy hiểm hoặc

một kẻ thù, cả buôn làng ñều tham gia chiến ñấu. Toàn dân vũ trang, toàn dân ñánh

giặc là một thực tế. Hầu hết các buôn làng ñều có “thủ lĩnh quân sự”. Việc phòng

thủ, chiến ñấu của buôn làng giao cho thủ lĩnh quân sự và một số trai tráng can ñảm,

giỏi sử dụng vũ khí. Nguyên tắc tổ chức là có lực lượng nòng cốt và có lực lượng

rộng rãi trong xây dựng lực lượng dân quân du kích ñã có sẵn trong cơ cấu tổ chức

của buôn làng. Đây là yếu tố rất thuận lợi khi chúng ta thực hiện thế trận chiến tranh

du kích trong vùng ñồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Tôn giáo và tín ngưỡng của các dân tộc ở Đăk Lăk trước khi Pháp xâm lược

ñang ở thời kỳ “phát triển cuối cùng của tín ngưỡng nguyên thủy” [7, tr. 19]. Các

thần linh ñều gọi chung là Yàng (Trời) và các ác thần là Briêng. Việc thờ nữ thần

lúa và các vị thần khác là một ñiểm nổi bật trong tín ngưỡng của ñồng bào Êñê và

M’Nông. Tuy chữ viết của các dân tộc bản ñịa xuất hiện khá muộn, nhưng văn hoá

dân gian rất phong phú với nhiều thể loại, ñậm ñà bản sắc, tiêu biểu cho cách nhìn,

tâm lý, hoài bão của ñồng bào các dân tộc. Đó là tình yêu thiên nhiên, tính cộng

ñồng, yêu sự tự do, ñức hiếu thảo và tinh thần dũng cảm chống lại áp bức, bóc lột.

Với quá trình lịch sử lâu ñời, nhân dân các dân tộc Đăk Lăk ñã cần cù, dũng

cảm, ñoàn kết, chinh phục thiên nhiên, sáng tạo nên một nền văn hoá ñộc ñáo của

mình, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc Việt Nam.

Những ñặc ñiểm về tự nhiên và kinh tế - xã hội như trên là những yếu tố rất

quan trọng, tác ñộng trực tiếp ñến sự hình thành và phát triển thế trận chiến tranh du

kích trên chiến trường Đăk Lăk trong chiến tranh cách mạng nói chung và trong

cuộc KCCM, cứu nước nói riêng.

Lực lượng tham gia chiến tranh du kích chủ yếu là người dân bản ñịa, họ

quen với khí hậu, nắm chắc ñặc ñiểm ñịa hình, thông thạo rừng núi, ñường sá. Do

ñó, việc tiến hành cuộc chiến tranh du kích trên ñịa bàn miền núi Đăk Lăk nhằm

khai thác triệt ñể lợi thế ñịa quân sự và ñịa chính trị là hoàn toàn ñúng ñắn.

13

1.2. TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH

1.2.1. Đăk Lăk cho ñến Cách mạng tháng Tám 1945

Ngay từ những ngày ñầu ñặt chân lên Tây Nguyên, quân Pháp ñã vấp phải sự

kháng cự quyết liệt của ñồng bào các dân tộc tỉnh Đăk Lăk. Mở ñầu là phong trào

ñấu tranh do N’Trang Gưh lãnh ñạo (1887 - 1913), thu hút 25 buôn với 600 người

Êñê chống Pháp ở lưu vực sông Krông Ana và Krông Nô; tiếp ñó là cuộc nổi dậy

của ñồng bào Êñê do tù trưởng Ama Shao lãnh ñạo (1889 - 1905).

Những cuộc ñấu tranh mạnh dần và diễn ra ở nhiều vùng trong tỉnh như cuộc

nổi dậy của ñồng bào Mdhur do Oi H’Mai - Oi H’Phai cầm ñầu (1901 - 1909), cuộc

ñấu tranh của Oi Dla (1901 - 1907), Ama Lai (1907) ñến cuộc ñấu tranh chống chế

ñộ xâu thuế nặng nề của Pháp do hai thầy giáo người Êñê lãnh ñạo là Y Ut Niê và Y

Jut H’Wing (1925 - 1926). Gây tiếng vang hơn cả là cuộc khởi nghĩa của dân tộc

M’Nông, X’Tiêng do N’Trang Long lãnh ñạo (1912 - 1935). Các cuộc ñấu tranh

trên biểu hiện tinh thần dũng cảm, bất khuất, kiên cường, bền bỉ của ñồng bào các

dân tộc Đăk Lăk. Tuy nhiên, do lực lượng nhỏ yếu, phân tán, chưa phối hợp với các

phong trào chung cả nước nên các phong trào ñấu tranh chống thực dân Pháp của

nhân dân Đăk Lăk ñã bị thực dân Pháp ñàn áp.

Ngày 3 - 2 - 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra ñời tạo bước ngoặt vĩ ñại của

cách mạng Việt Nam. Trong ñường lối, Đảng có sự chú ý ñặc biệt ñến công tác lãnh

ñạo, tổ chức và vận ñộng cách mạng ñối với ñồng bào các dân tộc thiểu số. Văn

kiện Đại hội ñại biểu toàn quốc lần thứ nhất (1935) của Đảng ñã khẳng ñịnh: “Lực

lượng ñấu tranh của các dân tộc thiểu số là một lực lượng rất lớn. Cuộc giải phóng

dân tộc của họ là một bộ phận quan trọng trong cuộc cách mạng phản ñế và ñiền ñịa

ở Đông Dương, bộ phận cách mạng thế giới” [7, tr. 52]. Dưới sự lãnh ñạo của Đảng,

“phong trào yêu nước chống Pháp của ñồng bào dân tộc ñã có bước phát triển mới,

cả ở quy mô rộng lớn của phong trào, ở sự ñoàn kết các dân tộc Kinh Thượng và

ñặc biệt ở tính chất giải phóng dân tộc của nó” [7, tr. 55]. Có thể kể ñến những

phong trào ñấu tranh của công nhân các ñồn ñiền cà phê trong tỉnh như ñồn ñiền

CADA (Compagnie Agricole D’Annam), Rossi, Mê Wal, CH.P.I (Compagnie des

Hauts Plateaux Indochinois) diễn ra sôi nổi, liên tục. Bên cạnh ñó là cuộc ñấu tranh

14

chính trị của các chiến sĩ ở nhà tù Buôn Ma Thuột. Cuối năm 1940, một số chiến sĩ

cộng sản ở nhà tù Buôn Ma Thuột tự ñứng ra thành lập chi bộ Đảng. Ảnh hưởng

cách mạng từ trong nhà tù ngày càng lan rộng trong binh lính, công nhân ñồn ñiền,

viên chức trong chính quyền thực dân ở Buôn Ma Thuột (Nhà máy ñèn, bệnh viện,

Sở lục bộ...). Nhà tù Buôn Ma Thuột trở thành ñầu mối trung tâm cho cuộc vận

ñộng cách mạng giải phóng dân tộc ở Đăk Lăk, dẫn ñến thắng lợi của Cách mạng

tháng Tám năm 1945 ở Đăk Lăk.

Sáng ngày 24 - 8 - 1945, cả thị xã Buôn Ma Thuột bừng dậy, mọi người ñổ ra

ñường với băng cờ, khẩu hiệu. Đội tự vệ ñồn ñiền CADA cùng 500 lính bảo an ngả

theo cách mạng. Đúng 15 giờ cùng ngày, Ban vận ñộng khởi nghĩa tổ chức cuộc mít

tinh tuyên bố giành chính quyền ở tỉnh Đăk Lăk trước sự chứng kiến của 4.000

ñồng bào các dân tộc Êñê, M’Nông, J’Rai, Kinh...

1.2.2. Đăk Lăk kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)

Ngày 23 - 9 - 1945, thực dân Pháp nổ súng ñánh chiếm Sài Gòn, mở ñầu

cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Cuối tháng 11 - 1945, quân Pháp

từ Nha Trang theo Đường 21 lên tấn công Đăk Lăk và chiếm ñược Buôn Ma

Thuột (12 - 1945).

Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” (19 -

12 - 1946) cho ñến cuối năm 1949, quân và dân Đăk Lăk ñã ra sức khôi phục, xây

dựng, tổ chức, phát triển lực lượng, củng cố bàn ñạp, tiến lên bám ñất giành dân,

phát ñộng chiến tranh du kích chống Pháp. Tháng 7 - 1946, thành lập trung ñoàn ñịa

phương ñầu tiên của tỉnh - Trung ñoàn N’Trang Lơng. Nhiệm vụ của Trung ñoàn là

bám chặt ñịa bàn Đăk Lăk, giữ vùng tự do hai huyện M’Drăk và Buôn Hồ, từ ñó mở

rộng ra các vùng khác trong tỉnh.

Từ năm 1950 trở ñi, dưới sự lãnh ñạo của Đảng bộ tỉnh, quân và dân Đăk

Lăk tiến hành chiến tranh du kích, tác chiến tiêu hao, tiêu diệt sinh lực ñịch, tiến lên

mở chiến dịch Nguyễn Huệ (15 - 7 ñến 15 - 9 - 1950) - chiến dịch tiêu biểu nhất

trong năm 1950 ở Đăk Lăk. Chiến dịch này ñã tạo ra bước chuyển biến mới của

cách mạng Đăk Lăk.

Trong Đông Xuân 1953 - 1954, tranh thủ thời cơ xốc tới giành thắng lợi,

15

phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ, quân dân Đăk Lăk chủ ñộng tiến công

ñịch, giành những thắng lợi lớn, góp phần kết thúc chiến tranh. Từ ngày 10 ñến

ngày 24 - 4 - 1954, phối hợp với Trung ñoàn chủ lực 803, quân và dân Đăk Lăk

lần lượt ñánh ñịch ở Tà Khê, tập kích vào Buôn Ma Bép, vào cứ ñiểm Ai Nu và

phục kích ñịch ở Buôn Kting, làm cho hệ thống phòng ngự của ñịch từ Cheo Reo

xuống Bà Lá bị sụp ñổ.

Thắng lợi của quân và dân Đăk Lăk cùng với những thắng lợi dồn dập ở mặt

trận Tây Nguyên, Phú Yên và Bình Định làm cho một bộ phận quan trọng của kế

hoạch Nava bị thất bại. Phối hợp nhịp nhàng với mặt trận Điện Biên Phủ, quân dân

Đăk Lăk ñã làm tốt nhiệm vụ giam chân ñịch, làm cho kế hoạch tập trung binh lực

của Nava không thực hiện ñược.

Ngày 21 - 7 - 1954, Hiệp ñịnh Genève về Đông Dương ñược ký kết, chấm

dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ñối với ba nước Việt Nam, Lào,

Campuchia. Đây là một thắng lợi to lớn của nhân dân ba nước Đông Dương nói

chung và Việt Nam nói riêng sau 9 năm kháng chiến gian khổ.

1.3. ĐĂK LĂK TỪ SAU HIỆP ĐỊNH GENÈVE ĐẾN TRƯỚC KHI MỸ TIẾN

HÀNH “CHIẾN TRANH CỤC BỘ”

1.3.1. Chính sách, thủ ñoạn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở Đăk Lăk

Theo Hiệp ñịnh Genève, Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Mỗi

miền thực hiện một chiến lược cách mạng khác nhau, miền Bắc thực hiện cách

mạng XHCN, miền Nam tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Từ ñây, cũng như toàn miền Nam, Đăk Lăk bước sang thời kỳ ñấu tranh chống lại

cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ.

Đối với nước ta, âm mưu cơ bản của ñế quốc Mỹ là: “Tiêu diệt cho ñược

phong trào yêu nước của nhân dân ta, thôn tính miền Nam Việt Nam, chia cắt lâu

dài ñất nước ta, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc ñịa kiểu mới và căn cứ quân

sự của Mỹ, lập phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam Á;

ñồng thời lấy miền Nam làm căn cứ ñể tiến công miền Bắc - tiền ñồn của hệ thống

xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam châu Á, hòng ñè bẹp và ñẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở

vùng này, bao vây và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa khác” [25, tr. 17].

16

Đối với Tây Nguyên, Mỹ và chính quyền Sài Gòn âm mưu biến vùng ñất này

thành trung tâm căn cứ quân sự của chúng ở miền Nam Đông Dương. Chính quyền

Ngô Đình Diệm rất coi trọng vấn ñề nắm các dân tộc thiểu số, do ñó chúng ra sức

khống chế, kiểm soát chặt chẽ các ñô thị, ñồn ñiền và vùng người Kinh phụ cận tỉnh

lỵ. Chúng còn tập trung khai thác tiềm năng kinh tế Tây Nguyên ñể phục vụ cho âm

mưu xâm chiếm lâu dài miền Nam Việt Nam.

Về chính trị - xã hội, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành thiết lập

chế ñộ thống trị của chúng và củng cố tổ chức bộ máy tay sai từ tỉnh ñến huyện và

các xã, buôn. Tháng 3 - 1955, Ngô Đình Diệm yêu cầu Quốc trưởng Bảo Đại ra Đạo dụ số 22 xoá bỏ chế ñộ “Hoàng triều cương thổ”(1), ñưa vùng Cao nguyên vào sự

quản lý trực tiếp của chính quyền Sài Gòn. Để Buôn Ma Thuột trở thành trung tâm

chính trị ở Cao nguyên, chúng lập ra Toà ñại diện Chính phủ tại Cao nguyên Trung

phần, các Nha giám ñốc Cảnh sát quốc gia Cao nguyên, Nha xã hội Cao nguyên,

Nha thuế vụ Cao nguyên... trụ sở ñóng tại thị xã Buôn Ma Thuột. Trên cơ sở ñó,

chúng tiến hành ñánh phá phong trào cách mạng, lập các tổ chức chính trị phản

ñộng, ñi ñôi với tuyên truyền lừa bịp, bằng các chiêu bài “Quốc gia dân tộc” giả

hiệu, chủ nghĩa “nhân vị” và ra sức phát triển ñạo Thiên chúa giáo ở vùng người

Kinh và ñạo Tin lành ở vùng người dân tộc thiểu số.

Để khai thác và khống chế các vùng quan trọng trong tỉnh, Ngô Đình Diệm

ñưa hơn 1 vạn giáo dân vào ñịnh cư ở Đăk Lăk. Chúng lập ra các khu di cư, chiếm

cứ các vùng ñất ñai màu mỡ, có giá trị về quân sự, kinh tế và chính trị trên các trục

ñường giao thông chính của tỉnh và xung quanh thị xã Buôn Ma Thuột. Chúng âm

mưu biến các khu di cư này thành vành ñai bảo vệ thị xã và các trục ñường giao thông quan trọng (2). Tất cả những việc làm ñó ñều hòng ñẩy lùi ảnh hưởng cách

mạng ở khu vực này. Đảng bộ Đăk Lăk ñã sớm có nhận ñịnh ñúng ñắn tình hình

ñịch: “Cuối năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm lập ñược chính quyền ở thị xã

(1) Tháng 4 năm 1940, theo chủ trương của Pháp, Bảo Đại ra sắc lệnh tách riêng phần Cao Nguyên Trung Bộ và ñược hưởng quy chế hành chính ñặc biệt gọi là “Hoàng triều cương thổ” (ñất của nhà vua). (2) Trên trục ñường Quốc lội 14 có các khu di cư: Hà Lan (Buôn Hồ); Chi Lăng, Thọ Thành, Duy Hoà, Đoàn Kết (Buôn Ma Thuột); Đức Minh, Đức Mạnh (Đăk Mil). Trên trục ñường 21 “kéo dài” có khu Trung Hoà, Kim Châu Phát. Ở phía Bắc Buôn Ma Thuột có khu Châu Sơn.

Buôn Mê Thuột, thị trấn, quận lỵ và một số vùng dọc ñường giao thông chiến lược

17

14, 21 nơi Pháp kiểm soát cũ” [54, tr. 4].

Năm 1957, ñịch tập trung “bình ñịnh miền núi” bằng cách mở các chiến dịch

“Thượng du vận”, tiến hành tố cộng. Đăk Lăk vốn là vùng sau lưng ñịch trong

KCCP nên các ñợt tố cộng ở ñây ñịch tập trung vào vùng căn cứ kháng chiến và căn

cứ du kích ở các huyện M’Drăk, Cheo Reo, Buôn Hồ. Chính chính quyền Ngô Đình

Diệm ñã tiết lộ kế hoạch bình ñịnh Cao nguyên, trong ñó có Đăk Lăk. Bắt dân làm thẻ căn cước(1) và tổ chức các tổ, ñoàn với danh nghĩa là “thương lái”, “trừ sốt rét”,

ñoàn “thượng du vận”...vào từng buôn tiến hành phân loại quần chúng, tách các gia

ñình có người tham gia kháng chiến, ñi tập kết ñể quản thúc, bắt nhân dân tố cộng,

nói xấu cộng sản, chia rẽ Kinh - Thượng, truy bắt cán bộ cách mạng... Mặt khác,

chúng cho cảnh sát, biệt kích lùng sục ngoài rừng, ven rẫy ñể phát hiện nơi ở và tìm

bắt Việt cộng; cấm dân không ñược mang gạo, thực phẩm ñể ngoài rẫy, ñêm không

ñược ngủ ngoài rẫy... Ở thị xã, ñồn ñiền, chúng ñưa một số mật vụ từ ñồng bằng lên

ñể nhận diện, truy bắt cán bộ cách mạng [79, tr. 9 - 10].

Về quân ñội, chính quyền Ngô Đình Diệm chú trọng xây dựng lực lượng

quân ñội ở Đăk Lăk. Bên cạnh Trung ñoàn 45 có từ trước, chúng ñưa một bộ phận

của Sư ñoàn Nùng ở miền Bắc vào ñóng ở Đăk Mil, Lăk ñể khống chế hướng Nam

và Tây Nam tỉnh. Địch tập trung xây dựng hệ thống ñồn, bốt ven thị xã, thị trấn và

những vùng quan trọng, nhất là ven các trục giao thông 14, 21.

Lực lượng bảo an và dân vệ ñược tăng cường với khoảng 5.000 tên, trong ñó,

lực lượng bảo an mỗi quận có một ñại ñội, có quận ñến hai ñại ñội. Mật ñiện số

62/NA/QV/M, ngày 3 - 3 - 1962 của Tỉnh trưởng Đăk Lăk gửi Biệt Bộ tham mưu

trưởng phủ Tổng thống cho biết: “Mức tuyển mộ tột bực Bảo an và Dân vệ Đăk Lăk

vào khoảng 5.000 người... Hiện tỉnh có 5 ñại ñội bảo an ñược tăng cường thêm 4 ñại

ñội biệt lập lưu ñộng, 4 ñại ñội lưu ñộng này có thể bị ñiều ñộng ñi tỉnh khác. Nếu 4 ñại

ñội lưu ñộng này ñược Nha Bảo an Khu chiến thuật 23 tăng cường vĩnh viễn và cố ñịnh

cho Đăk Lăk thì tổng số 9 ñại ñội tạm ñủ cho tỉnh khỏi phải xin tuyển mộ thêm.

Về dân vệ, nhân số ấn ñịnh cho tỉnh là 839 người có thể tạm ñủ, nhưng nhân

(1) Một loại giấy tuỳ thân, giống như chứng minh nhân dân hiện nay.

số hiện hữu chỉ có 644 người vì tuyển mộ khó khăn” [81].

18

Để tăng cường lực lượng nhằm ñàn áp phong trào cách mạng, Mỹ thành lập

Trung tâm EA - NAO tại Đăk Lăk (4 - 1962) với mục ñích: “Đào tạo lực lượng yểm

trợ (biệt kích) chiến thuật và xây dựng lực lượng nhân dân chiến ñấu... Tuyên

truyền gây căm thù Việt cộng và tạo ảnh hưởng quốc gia sâu rộng trong thời gian

ñồng bào thượng tập trung huấn huyện tại Trung tâm EA - NAO”. Theo ñó, “Lực

lượng yểm trợ thường ñược tung vào các vùng bất an ninh ñể tìm, bám sát và tiêu

diệt ñịch bằng du kích chiến và yểm trợ, tiếp viện các buôn, ấp khi bị tấn công. Lực

lượng nhân dân chiến ñấu ...hoạt ñộng phản du kích dưới sự chỉ huy, kiểm soát và

quản trị của Trung tâm EA - NAO ñể bảo vệ buôn, chống xâm nhập của phiến

cộng” [82, tr. 1 - 2 - 7]. Trong thời gian hoạt ñộng, Trung tâm EA - NAO “ñã huấn

luyện và võ trang cho chừng 3.500 ñồng bào thượng” [82, tr. 2].

Số 3.500 ñồng bào thượng này bao gồm hai lực lượng: Lực lượng yểm trợ

(biệt cách) gồm 700 người và nhân dân chiến ñấu gồm 2.800 người thuộc 106 buôn,

rải ra trên khắp ñồng bằng Cao nguyên, quận Buôn Ma Thuột và một phần thuộc

quận Buôn Hồ. Sau thời gian thụ huấn, họ ñược cấp vũ khí, trở về lại buôn hoạt

ñộng chống cộng [83, tr. 2 - 3].

Với ưu thế vũ khí và kỹ - chiến thuật, lực lượng vũ trang ñược ñào tạo từ

Trung tâm EA - NAO bước ñầu ñã gây một số khó khăn cho cách mạng. Đảng bộ

Đăk Lăk thừa nhận: “Một vấn ñề gây thêm khó khăn cho ta từ khi Mỹ trực tiếp nắm

bọn phản ñộng ...biệt kích người dân tộc.. ñánh phá căn cứ, lùng sục ngoài rừng, phục

kích các ngả ñường gây nhiều khó khăn và tổn thất cho lực lượng ta” [8, tr. 98 - 99].

Tài liệu của chính quyền Sài Gòn cho biết thêm: “Hoạt ñộng của 2 lực lượng này

(biệt kích và nhân dân chiến ñấu) ñã gây cho ñịch nhiều tổn thất ñáng kể về nhân

mạng và vũ khí, ñồng thời ñẩy lui ñịch ñể nới rộng phạm vi kiểm soát, dành lại chủ

quyền nông thôn” [82, tr. 2].

Về kinh tế, cũng như thực dân Pháp trước ñó, Mỹ và chính quyền Ngô Đình

Diệm ñánh giá Đăk Lăk không chỉ quan trọng về quân sự, chính trị mà còn là một

ñịa bàn chiến lược có giá trị lớn về kinh tế. Vì vậy, chính quyền Ngô Đình Diệm ra

sức tiến hành khai thác kinh tế ñể phục vụ cho âm mưu xâm chiếm lâu dài miền

Nam Việt Nam.

19

Ngày 12 - 6 - 1955, Ngô Đình Diệm ban hành chính sách “Kinh Thượng ñề

huề - Quân dân nhất trí - Khai thác miền sơn cước”. Theo ñó, “chúng cho phép bọn

nguỵ quyền, bọn tướng tá quân ñội nguỵ khai thác ñất ñai ở Đăk Lăk, lập ra các ñồn

ñiền cà phê, cao su, ñộc quyền khai thác nông, lâm sản” [15, tr. 13].

Ngày 22 - 2 - 1957, chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức Hội chợ triển lãm về

kinh tế Tây Nguyên tại Buôn Ma Thuột nhằm ñộng viên việc khai thác tiềm năng ñất

ñai, lâm sản, khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên khác. Theo tập san “Chấn hưng kinh

tế” số 74, ngày 24 - 7 - 1958, trong diễn văn khai mạc hội chợ, Ngô Đình Diệm ñã

tuyên bố: “Khuyến khích ñồng bào miền ñồng bằng lên ñịnh cư tại Cao nguyên hiện có

ñất nhiều, người ít...” và muốn biến “Cao nguyên thành miền dân cư trù mật, trung tâm

kỹ nghệ và nông nghiệp...” [15, tr. 25]. Lời tuyên bố này cho thấy Ngô Đình Diệm ñã

công khai mở ñầu một chiến dịch mới, chiến dịch chiếm ñất lập dinh ñiền.

Kết quả là chính quyền Ngô Đình Diệm ñã lập 33 dinh ñiền [87]. Chúng

tuyên truyền lập dinh ñiền là ñể “cải thiện dân sinh”, “chỉnh trang lãnh thổ”, hay

“ñem lại ñời sống ấm no, tươi ñẹp cho nhân dân”. Tuy nhiên, trên thực tế dinh ñiền

lại là tổ chức quân sự trá hình, những trại tập trung kìm kẹp nông dân, bóc lột nhân

công, ñồng thời chống lại cách mạng. Có thể nói, dinh ñiền là một biện pháp nhằm

thực hiện chính sách “bình ñịnh” nông thôn của ñế quốc Mỹ và chính quyền Sài

Gòn ở miền Nam.

Tóm lại, Tây Nguyên nói chung, Đăk Lăk nói riêng là vùng ñất có vị trí chiến

lược quan trọng về mọi mặt. Để nắm ñược vùng ñất quan trọng này, ñế quốc Mỹ và

chính quyền Ngô Đình Diệm ñã ban hành nhiều chính sách mang tính chiến lược,

ñặc biệt là chính sách dinh ñiền, chính sách tôn giáo nhằm thu phục ñồng bào dân

tộc thiểu số, xây dựng Đăk Lăk nói riêng và Tây Nguyên nói chung thành căn cứ

quân sự, khai thác tiềm năng kinh tế, tạo cơ sở xã hội ñể phục vụ cho âm mưu xâm

lược lâu dài nước ta.

1.3.2. Đăk Lăk ñấu tranh chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn từ sau Hiệp

ñịnh Genève ñến năm 1965

Ngày 5 và 6 - 9 - 1954, BCT BCHTƯ Đảng họp, ra Chỉ thị về cách mạng

miền Nam. Theo ñó, BCT chỉ rõ: “Kẻ thù cụ thể trước mắt của ta” là “ñế quốc Mỹ,

20

hiếu chiến Pháp và tay sai của chúng (cụ thể là Chính phủ Ngô Đình Diệm)”. Vì

vậy, “nhiệm vụ của Đảng ở miền Nam trong giai ñoạn hiện nay là lãnh ñạo nhân

dân miền Nam ñấu tranh thực hiện Hiệp ñịnh ñình chiến, củng cố hòa bình, thực

hiện tự do dân chủ (tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do ñi lại v..v..),

cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ ñộc lập. Đồng thời lãnh ñạo

nhân dân ñấu tranh chống những hành ñộng khủng bố, ñàn áp, phá cơ sở của ta, bắt

bớ cán bộ ta và quần chúng cách mạng, chống những hành ñộng tiến công của ñịch,

nguỵ, giữ lấy quyền lợi của quần chúng ñã giành ñược trong thời kỳ kháng chiến,

nhất là ở những vùng căn ñịa và vùng du kích cũ của ta” [31, tr. 308].

Cuối năm 1957, ñồng chí Lê Duẩn – Uỷ viên BCT BCHTƯ Đảng, trao ñổi với

Thường vụ Liên Khu ủy V về việc vận dụng ñường lối, phương châm, phương pháp

ñấu tranh vào thực tiễn cách mạng ở Tây Nguyên. Về tổ chức lực lượng vũ trang, ñồng

chí Lê Duẩn nêu rõ: “Trước mắt, chỉ nên tổ chức tổ 3 người, tiểu ñội, nhiều nhất là

trung ñội hoạt ñộng nhằm giữ buôn rẫy. Khi có ñiều kiện sẽ phát triển nhanh chóng

phong trào du kích lẻ tẻ, kết hợp với cách ñánh ñặc công linh hoạt” [25, tr. 42].

Đầu năm 1958, Ban Cán sự Đăk Lăk tiếp xúc bản Dự thảo ñề cương về

ñường lối cách mạng miền Nam của Lê Duẩn. Qua ñó, Ban cán sự rất phấn khởi với

vấn ñề “ñấu tranh chính trị có vũ trang hỗ trợ”. “Tuy chưa có Nghị quyết Trung

ương nhưng Ban Cán sự tỉnh căn cứ phong trào thực tiễn của quần chúng, từng

bước tổ chức những tổ, nhóm bán vũ trang (tự vệ mật, du kích mật...) ñể bảo vệ

nhân dân, bảo vệ cán bộ và cơ sở” [15, tr. 29].

Cuối năm 1958, “ngay trong những cuộc ñấu tranh chính trị với ñịch cũng lẻ

tẻ có những hành ñộng ñấu tranh vũ trang ñể tự vệ’ [54, tr. 5]. Xuất hiện những hiện

tượng như ñồng bào tìm cách tiêu diệt các tên tay sai trong chính quyền Ngô Đình

Diệm ñể bảo vệ cán bộ, bảo vệ ñồng bào, phá các cuộc càn quét, dồn dân của ñịch.

Đồng bào buôn Ma Hin (Đông Cheo Reo) ñánh ñuổi hai tên mật vụ ở Phú Yên lên.

Đồng bào buôn Ka Dăng (M’Drăk) lập mưu và tiến hành ñánh úp thuyền của viên

quận trưởng. Đồng bào buôn H’Roi (M’Drăk) “lấy mật cóc trộn lẫn thức ăn phục

rượu giết chết tên Chánh tổng” [54, tr. 5].

Một số nơi nhân dân tích cực rào làng, cắm chông, gài bẫy ở rẫy và trên các

21

trục ñường giao thông, chống ñịch lùng sục, càn quét. Thanh niên dùng ná, dao ñi

tuần quanh buôn với danh nghĩa chống thú dữ vào buôn, rẫy.

Nổi bật nhất là sự kiện ở buôn Oi Đăk (Đông Cheo Reo) vào cuối năm 1959,

khi bọn mật vụ ở Củng Sơn (Phú Yên) lên ñiều tra tình hình, bắt ñược hai cán bộ

giao liên của Phú Yên trên sông M’Lah và dẫn họ vào buôn Oi Đăk nhằm uy hiếp

nhân dân ta không ñược nuôi giấu Việt cộng, Ma Lý - một cán bộ ở trong buôn ñã

bàn với ñồng bào dùng dao giết chết tên mật vụ, giải thoát cho hai cán bộ giao liên.

Sau ñó kéo cả làng chạy vào rừng lập làng bất hợp tác chống ñịch. Địch nhiều lần

ñưa quân lên càn quét, ñốt phá nhưng không bắt ñược người dân nào của buôn Oi

Đăk. Đây là buôn làng ñầu tiên bất hợp tác với ñịch của Đăk Lăk.

Tháng 3 - 1959, BCT ra Chỉ thị về “Nhiệm vụ xây dựng căn cứ cách mạng

Tây Nguyên”, trong ñó BCT chỉ rõ việc xây dựng lực lượng vũ trang và thực hiện

chiến tranh du kích: “Xây dựng và sử dụng lực lượng vũ trang trước mắt là hỗ trợ

cho ñấu tranh chính trị tiến lên thực hiện du kích cục bộ, bảo vệ căn cứ, uy hiếp

ñịch, mở rộng thế chủ ñộng của ta, lâu dài là tăng cường lực lượng cách mạng,

chuẩn bị ñiều kiện chủ quan tiến lên ñánh ñổ Mỹ - Diệm và trở thành chủ lực giữ

vững chính quyền cách mạng sau này. Vì vậy, trong chỉ ñạo cần xem trọng xây

dựng lực lượng vũ trang, có lực lượng vũ trang mới bảo vệ căn cứ và ñưa cách

mạng tiến lên” [32, tr. 256].

Thực hiện Chỉ thị của BCT, Ban Cán sự Đăk Lăk ñã xây dựng vùng Dlei Ya

với ñịa hình hiểm trở thành căn cứ ñịa cách mạng, nơi ñứng chân của cơ quan Đảng,

chính quyền tỉnh. Từ căn cứ cách mạng ñầu tiên này hình thành các tiểu tổ du kích

ñầu tiên, trang bị vũ khí thô sơ ñể bảo vệ cơ quan, cán bộ và cơ sở. “Vùng Buôn

Nùng, Buôn Ua là nơi căn cứ vững chắc, mỗi xã có một tiểu ñội du kích trang bị

súng trường, tiểu liên,... có kế hoạch bố phòng từ buôn này sang buôn nọ có tính

chất liên hoàn... thường xuyên tuần tra, cảnh giác chống ñịch càn quét ” [54, tr. 7].

Từ khi có chủ trương của Trung ương Đảng, các vùng ta làm chủ và nơi có

phong trào ñấu tranh mạnh ñã dần dần hình thành các tiểu tổ du kích. “Cuối năm

1959 các xã buôn vùng Đông, Tây sông Ba, Bắc M’Drăk ñã có từ 1 tổ ñến 3 tổ du

kích trang bị dao, ná thường xuyên ñi tuần bảo vệ buôn làng, gây khí thế cho quần

22

chúng, bảo vệ phong trào ñấu tranh của quần chúng, cảnh cáo và làm giảm các hoạt

ñộng của bọn ác ôn, gián ñiệp” [16, tr. 45 - 46].

Trong hai năm 1960 - 1961, công tác mở ñường hành lang chiến lược nối

Tây Nguyên với Nam Bộ hoàn thành. Vùng phía Nam tỉnh bắt ñầu có những cơ sở

cách mạng mới xây dựng như căn cứ Nam Nung, Nam Lăk. Các xã, buôn hình

thành ban tự quản, các ñoàn thể quần chúng, các tiểu tổ du kích hoạt ñộng công

khai. “Các lực lượng vũ trang cơ sở như du kích phát triển rộng khắp, ñã giữ vững

ñược từng vùng, từng khu vực, nối liền một vùng giải phóng rộng lớn của hai huyện

M’Drăk và Đông Cheo Reo” [15, tr. 57]. Phong trào chiến tranh du kích ñã ñóng

góp một phần vào những thắng lợi chung của lực lượng vũ trang tỉnh Đăk Lăk trong

giai ñoạn 1954 - 1961.

Tuy nhiên, do lực lượng nòng cốt ít, ñịa hình rộng nên phong trào du kích

chiến tranh giai ñoạn này mới xây dựng vùng ở Đông Bắc tỉnh. Khả năng tiêu diệt

sinh lực ñịch còn hạn chế do chưa ñược trang bị vũ khí và huấn luyện ñầy ñủ.

Năm 1961, sau khi bước vào Nhà Trắng, tập ñoàn Kennedy - Johnson ñã

quyết ñịnh tiến hành chiến lược “chiến tranh ñặc biệt” ở miền Nam Việt Nam. Mục

ñích của chiến lược “chiến tranh ñặc biệt” là “chống lại chiến tranh du kích, chống

lại chiến tranh giải phóng của nhân dân (Mỹ gọi là “chiến tranh chống lật ñổ”),

không có chiến tuyến cố ñịnh và thường ít huy ñộng các binh ñoàn lớn. Hình thức

của nó là phối hợp ñầy ñủ các hành ñộng quân sự, chính trị, kinh tế và tâm lý. Công

cụ ñể tiến hành chiến tranh là bè lũ tay sai với vũ khí, phương tiện chiến tranh, tiền

của của Mỹ và do cố vấn Mỹ chỉ huy” [78, tr. 159].

Trước âm mưu mới của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm, ngày 24 - 1 -

1961, Chỉ thị của BCT về “Phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách

mạng miền Nam” nhận ñịnh rằng: “Thời kỳ tạm thời ổn ñịnh của chế ñộ Mỹ - Diệm

ñã qua và thời kỳ khủng hoảng liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng ñã bắt ñầu... Đến

nay, cách mạng miền Nam ñương phát triển theo con ñường tiến lên tổng khởi

nghĩa với những ñặc ñiểm mới và khả năng hoà bình phát triển của cách mạng miền

Nam không còn nữa... Hình thái du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần ñã xuất

hiện... Hình thái du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần ấy mở ra một cao trào cách

23

mạng và ngày càng phát triển mạnh mẽ” [33, tr. 153 - 157].

Do ñặc ñiểm của phong trào cách mạng miền Nam phát triển không ñều, so

sánh lực lượng giữa ta và ñịch trên từng vùng cũng khác nhau, cho nên phải vận dụng

phương châm ñấu tranh chính trị song song với ñấu tranh vũ trang một cách linh hoạt,

phù hợp với từng vùng. BCT ñề ra phương châm công tác ba vùng, trong ñó, “ở các

vùng rừng núi, lấy ñấu tranh quân sự làm chủ yếu và ñề ra nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực

ñịch ñể mở rộng thêm căn cứ và xây dựng lực lượng của ta” [33, tr. 158].

Cũng trong tháng 1 - 1961, Hội nghị quân sự Liên khu V nhấn mạnh: “Ra

sức xây dựng lực lượng vũ trang ñể bảo ñảm kịp thời hỗ trợ cho ñấu tranh chính trị,

bảo vệ căn cứ ñịa cách mạng, bảo vệ lực lượng cách mạng, ñồng thời cùng với lực

lượng chính trị của quần chúng bảo ñảm kịp thời thi hành ñấu tranh tiến lên ñánh ñổ

chính quyền ñịch khi có ñiều kiện khởi nghĩa” [56, tr. 16].

Để kịp thời chỉ ñạo phong trào du kích chiến tranh, tháng 7 - 1962, Liên khu

ủy V ra Nghị quyết chỉ rõ: “Phong trào du kích chiến tranh hiện nay phải ñạt cho

ñược mục ñích chính trị là làm cho toàn thể nhân dân ta ở khắp nông thôn, thành

thị, rừng núi ñều ñứng lên ñánh ñịch, chống ñịch, ñẩy ñịch vào thế bị ñộng liên

miên bằng mọi cách và mọi khả năng của mình” [58, tr. 2]. Nghị quyết ñề ra nhiệm

vụ cụ thể cho từng vùng. Đối với vùng nông thôn rừng núi: “Phải giữ vững và củng

cố cho ñược vùng giải phóng, có kế hoạch chống càn, chống gom dân lập ấp chiến

lược, bảo vệ nhân tài vật lực”. Đối với vùng ñịch tạm chiếm, “phá thế kìm kẹp và

phá ấp chiến lược cho ñược”. Ở ñô thị, “làm cho ñịch không ñược yên ổn, hàng

ngày hàng giờ phải lo ñối mặt với ta” [58, tr. 2].

Thực hiện Nghị quyết Liên khu ủy V, trong năm 1962 chiến tranh du kích ở

vùng rừng núi Đăk Lăk có bước phát triển mới. Trong khi ñịch gom dân lập ấp

chiến lược, dân quân du kích ñã cùng các lực lượng vũ trang tỉnh, huyện liên tục bám ñánh ñịch, chống các cuộc càn quét, lùa xúc dân, bảo vệ căn cứ. “Ở B5(1),

tháng 4 - 1962, lực lượng tập trung và du kích ñược sự phối hợp hỗ trợ của lực

lượng Khu V ñánh diệt chốt bảo an ở dinh ñiền Quảng Cư, ở Hăng Mhdư” [8, tr.

(1) Khu vực phía Nam Quốc lộ 21.

69]. “Đồng bào M’Nông ở ba làng căn cứ Đăk Rêpul, Yông Hat, Liêng Krắc (huyện

24

Lăk) tản cư vào hang ñá ñể lánh ñịch càn quét. Địch dùng một tiểu ñoàn bao vây

hang ñá ñể xúc dân. Nhưng một tiểu ñội du kích ñã chống càn diệt một số ñịch và

ban ñêm bảo vệ cho ñồng bào luồn theo khe ñá thoát khỏi vòng vây của ñịch, không

bị lùa xúc” [8, tr. 70]. Các xã, buôn căn cứ ñều xây dựng ñược tiểu ñội du kích tập

trung, sử dụng vũ khí thô sơ ñánh ñịch, gây cho ñịch nhiều thương vong, làm cho

ñịch không dám lùng sục, giữ vững an toàn cho các căn cứ ñịa cách mạng. Đặc biệt,

tại khu căn cứ Dlei Ya chúng ta ñã xây dựng ñược một số trung ñội du kích vừa bảo

vệ căn cứ vừa sản xuất và chăn nuôi, tự túc lương thực.

Báo cáo tháng 6 - 1963, số 1646/NA/CT/I/ của Toà Hành chính tỉnh Đăk

Lăk, VNCH cho biết: “Tại núi Chư Go trung bình ñiểm BQ.154.593 bọn Việt cộng

có làm một hầm bí mật rất rộng ở lòng núi, trong có văn phòng Tỉnh ủy B3, công

binh xưởng, máy xay lúa và nhiều vật dụng như: Máy ñánh chữ, radio, bàn in thạch,

nơi ñây có tên Recom Thep và một Đại tá (Việt cộng chưa rõ tên) trú ẩn.

Hiện nay tại ñịa ñiểm trung bình ñiểm BQ.075.578 - BQ.114.547, bọn Việt

cộng có ñặt 2 trung ñội du kích, hàng ngày canh gác bảo vệ mật khu tại núi Cư

Mduôn trung bình ñiểm BQ.140.570, tại núi Chư-Knih trung bình ñiểm BQ.125.565,

núi Chư Tan Man trung bình ñiểm BQ.153.562 và dọc các suối Ea Hiao trung bình

ñiểm BQ.162.545 và Ea Kao trung bình ñiểm BQ.168.552, bọn Việt cộng làm rất

nhiều rẫy tự túc, trồng hoa màu và có nhiều trại chăn nuôi gia súc, mỗi nơi có 1, 2 căn

nhà lá và có từ 1 ñến 3 du kích võ trang chăm sóc” [85, tr. 1 - 2].

Bên cạnh bảo vệ căn cứ, du kích còn tiến hành xây dựng làng chiến ñấu.

“Sáu tháng ñầu năm 1962, du kích khu B3 (mật danh của khu vực Bắc Đường 21 ở

Đăk Lăk) ñã vót 14 triệu cây chông, bố trí 130 km tuyến chông, ñào 12.000 hầm

chông” [25, tr. 112 ].

Tiêu biểu trong phong trào du kích chiến tranh là gương chiến sĩ Y Ơn Niê

(dân tộc M’Nông), buôn Đăk Tuar, xã Cư Pui, huyện H9. Đầu năm 1961, Y Ơn

ñược giác ngộ cách mạng, tham gia tuyên truyền ñược 10 thanh niên M’Nông ñể

thành lập ñội du kích. Đội du kích của Y Ơn ñã nhiều lần chống càn thành công và

bảo vệ ñược dân. Đầu năm 1962, ñịch ở 2 ñồn Mỹ Ga và Cừ Pèn phối hợp mở trận

càn vào buôn Cư Pui. Lúc ñó, Y Ơn chỉ có một mình cũng chủ ñộng bố trí ñánh

25

ñịch. Các du kích khác về hỗ trợ dân sơ tán. Tuy nhiên do ñịch quân số quá ñông,

khi ñạn hết và bị thương, anh bị ñịch bắt ñi. Biết Y Ơn là chỉ huy ñội du kích buôn,

ñịch dùng mọi thủ ñoạn từ mua chuộc, dụ dỗ ñến tra tấn dã man hòng khuất phục

anh nhưng “kẻ thù ñã không làm lay chuyển ñược khí phách kiên cường và lòng

thủy chung với cách mạng của Y Ơn. Cuối cùng, kẻ ñịch ñã hèn hạ dùng dao cắt

từng bộ phận cơ thể Y Ơn cho ñến chết. Cái chết anh hùng của Y Ơn gây xúc ñộng

lớn và cổ vũ nhân dân các dân tộc ñứng lên ñoàn kết chiến ñấu ñến thắng lợi cuối cùng”(1) [21, tr. 210].

Để thực hiện “quốc sách” ấp chiến lược, giữa năm 1963, ñịch ñã dồn hơn

120.000 người dân trong tỉnh vào 314 ấp chiến lược [84]. Do ñó, vùng ta kiểm soát

chỉ còn khoảng 7.000 dân ở thành nhiều lõm nhỏ. Các khu dân cư, buôn làng trở

nên xơ xác, nạn ñói, ñau, lạt muối rất nghiêm trọng. Lực lượng vũ trang và cơ quan

phải lùi sâu trong căn cứ Chư Jú (phía Bắc tỉnh). Ở căn cứ B5 có gần 200 ñồng bào

bị chết ñói. Trong hoàn cảnh khó khăn, ác liệt ñó, Khu ủy V xác ñịnh nhiệm vụ

trung tâm hàng ñầu của Quân khu là “giành lại nông thôn, bộ ñội ñịa phương, dân

quân du kích tập trung hoạt ñộng, xốc vào ñánh bại bình ñịnh có trọng ñiểm” [54, tr.

13]. Đại hội Đảng bộ tỉnh Đăk Lăk lần thứ II (tháng 8-1963) ñề ra Nghị quyết, trong

ñó chỉ rõ: Nhiệm vụ chính trị trung tâm là phá ấp chiến lược và giành dân.

Thực hiện Nghị quyết của tỉnh, lực lượng quân ñịa phương cùng du kích ñã

bám ñánh ñịch lùng sục, tuần tra, thu ñược một số súng. Bọn dân vệ hoang mang,

hạn chế việc lùng sục, từ ñó tạo ñiều kiện cho ñội công tác bám vào buôn ấp cùng

nhân dân bàn cách phá ấp chiến lược. Được sự hỗ trợ của tiểu ñội vũ trang ñịa

phương hoặc du kích, nhân dân trong ấp ñã ñấu tranh, khống chế bọn dân vệ. Kết

quả là các buôn vẫn giữ thế hợp pháp nhưng kìm kẹp trong ấp ñã bị ta vô hiệu hoá.

Với cách làm trên và tranh thủ thời cơ ñịch hoang mang do Ngô Đình Diệm

bị ñảo chính (11 - 1963), các ấp vùng Bắc và Đông Bắc Buôn Hồ và Nam thị xã

Buôn Ma Thuột, quần chúng ñã vô hiệu hoá lực lượng kìm kẹp. Nhân dân vận ñộng

dân vệ, nghĩa quân nộp súng cho cách mạng. Chính tài liệu của ñịch ñã thừa nhận vấn

ñề này: “Địch tăng gia hoạt ñộng tại vùng Bắc và Đông Bắc quận Buôn Hồ và vùng (1) Ngày 29-1-1966, Y Ơn Niê ñược Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

26

Nam Buôn Ma Thuột, 2 vùng tương ñối xung yếu, thường bị uy hiếp” [94, tr. 25].

Tiếp theo, vào tháng 7 – 1964, “Việt cộng ñã tăng gia hoạt ñộng trên toàn

tỉnh, nhất là vùng Bắc Buôn Hồ và Lạc Thiện, khuấy rối và tấn công 29 lần các

buôn và ñịa ñiểm dinh ñiền, cướp ñoạt nhiều vũ khí tại các buôn: Mbré, Tur Mpro...

Địch cũng áp dụng chiến thuật giao thông, phục kích giữa ban ngày... Ta thiệt hại

nặng nhất trong trận Việt cộng tấn công buôn Bang và dinh ñiền Quảng Trạch, phục

kích bắn tử thương Đại uý Quận trưởng Lạc Thiện ñến tiếp viện ngày 7 - 7 - 1964”

[94, tr. 25]. Chính trong trận ñánh ở quận Lạc Thiện gây tử thương cho tên Quận

trưởng, “lực lượng du kích phía sau ñã phối hợp cùng Đại ñội công binh 312 ñánh

sập một số cầu cống, phá Đường 21 và 21 kéo dài ñi Lăk” [15, tr. 79].

Đến tháng 12 - 1964, quân dân Đăk Lăk tiến công các ấp tân sinh ở vùng

trung tâm tỉnh và quận lỵ. Nguyệt trình của Bộ Nội vụ VNCH về “Tình hình an ninh

chính trị của từng ñịa phương trong toàn quốc”, tháng 12 – 1964, thừa nhận: “Hoạt

ñộng của ñịch vẫn tăng gia mạnh mẽ với chủ trương triệt hạ các ấp tân sinh gần thị xã

Buôn Ma Thuột và quận lỵ, phục kích bắn rẽ, gây cho ta nhiều tổn thất” [94, tr. 23].

Đến cuối năm 1964, vùng giải phóng nhanh chóng ñược củng cố và mở rộng.

Các xã, buôn bầu ra Ban Tự quản ñể ñiều hành công việc. Thanh niên nam nữ tham gia

các ñội bảo vệ an ninh buôn xã, sau này phát triển thành các ñội du kích. Quần chúng

và du kích tích cực tham gia bố phòng những vùng hiểm yếu, ñề phòng biệt kích và

ñịch ñi càn quét. Hội nghị Khu ủy V cuối năm 1964 nhận ñịnh: “Năm 1964 là năm

vượt nhiều thử thách ác liệt, liên tiếp chiến thắng kẻ ñịch, ñưa phong trào cách mạng

toàn miền phát triển một bước mạnh mẽ, nhanh chóng và vững chắc trên 2 mặt và 3

vùng. Phong trào du kích chiến tranh ñược phát triển số lượng tăng gấp ñôi so với năm

1963 và bằng 3 năm trước cộng lại, chất lượng cũng nâng lên cao” [54, tr. 20].

Thắng lợi lớn nhất của ta trong giai ñoạn này là tạo ra vùng nông thôn giải

phóng rộng lớn, vùng căn cứ ñịa liên hoàn, có thế chiến lược quan trọng, ñồng thời

tạo ra vùng ñông dân nhiều của, ñóng góp nhân tài, vật lực cho kháng chiến, xây

dựng thế trận chiến tranh du kích trên phạm vi toàn tỉnh, chuẩn bị cho cuộc chiến

ñấu chống chiến lược “chiến tranh cục bộ” của ñế quốc Mỹ.

27

Chương 2

CHIẾN TRANH DU KÍCH Ở ĐĂK LĂK (1965 - 1968)

2.1. MỸ TIẾN HÀNH CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” Ở ĐĂK LĂK

2.1.1. Âm mưu của Mỹ

Cuối năm 1964, ñầu năm 1965, những thắng lợi liên tiếp của quân và dân

miền Nam trên cả hai mặt trận chính trị và quân sự ñã làm cho chiến lược “chiến

tranh ñặc biệt” ñứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn. Trên chiến trường, quân dân

miền Nam liên tục tiến công ñịch, giành ñược những thắng lợi to lớn như Bình Giã,

An Lão, Đồng Xoài, Ba Gia.... Có thể nhận thấy “quân ñội tay sai không ñủ sức

chống ñỡ với sức tấn công của cách mạng Việt nam” [78, tr. 283]. Trên chính

trường, chính quyền Sài Gòn lâm vào tình trạng khủng hoảng kéo dài. Nếu tiếp tục

chiến lược “chiến tranh ñặc biệt”, chính quyền VNCH không tránh khỏi sự sụp ñổ

và kéo theo sự thất bại của Mỹ ở Nam Việt Nam. Để cứu lấy chính quyền Sài Gòn,

tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược, Nhà Trắng quyết ñịnh thay ñổi chiến lược

“chiến tranh ñặc biệt” bằng chiến lược “chiến tranh cục bộ”.

“Chiến tranh cục bộ” là một trong ba hình thức chiến tranh (chiến tranh ñặc

biệt, chiến tranh cục bộ và chiến tranh tổng lực) ñược ñề ra phù hợp với chiến lược

quân sự toàn cầu “phản ứng linh hoạt” của Mỹ. “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở

miền Nam ñược tiến hành bằng lực lượng quân viễn chinh Mỹ, quân ñồng minh Mỹ

và QĐSG, trong ñó quân Mỹ giữ vai trò quan trọng, ngày càng ñược tăng lên về số lượng và trang bị(1).

Trong nhãn quan của các nhà quân sự Mỹ, Đăk Lăk nói riêng, Tây Nguyên

nói chung là vùng chiến lược cực kỳ quan trọng. Chính tài liệu của chính quyền Sài

Gòn ñã thừa nhận: “Cao nguyên lại ở vào vị trí chiến lược cơ ñộng hết sức quan

trọng trên toàn Đông Dương, là một bàn ñạp nằm lọt giữa các miền Trung Nguyên,

(1) Tổng số lính Mỹ ở miền Nam cuối năm 1964 là 24.000 tên, ñến cuối 1965 lên ñến 180.000 tên và 20.000 ñồng minh. Số máy bay Mỹ ở miền Nam cuối 1964 là 1.180 chiếc, cuối 1965 tăng lên 2.300 chiếc. Đó là chưa kể 7 vạn hải quân và không quân Mỹ trên các căn cứ của Mỹ ở Guam, Philipin, Thái Lan và Hạm ñội 7 cũng trực tiếp tham chiến ở Việt Nam.

Nam phần và liên kết dính liền về ñịa thế chiến trường với vùng Đông Miên, Hạ

28

Lào và thông ra Bắc” [102, tr. 8]. Ý ñồ của chúng tại Tây Nguyên là tìm diệt chủ lực

của ta trên chiến trường rừng núi, dập tắt phong trào cách mạng của ñồng bào dân tộc,

chiếm ñất, gom dân, củng cố hệ thống ấp chiến lược, dinh ñiền, ñồn ñiền ñã bị phá rã.

Chúng phát hiện “Trung ương và Liên khu V Việt cộng ñã tập trung ở ñây nhiều khả

năng cán bộ và lực lượng vũ trang cũng như tài lực của Việt cộng Bắc Việt” [102, tr.

8]. Do ñó, chúng lập kế hoạch cho QĐSG ñánh phá căn cứ, ñường hành lang chiến

lược Tây Nguyên hòng cắt ñứt sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam.

2.1.2. Biện pháp của Mỹ

Ngày 8 - 3 - 1965, Mỹ ñưa hai tiểu ñoàn lính thủy ñánh bộ thuộc Lữ ñoàn hải

quân viễn chinh số 9 ñổ bộ vào Đà Nẵng, mở ñầu cho việc ñưa quân Mỹ tham chiến

ở miền Nam. Ngày 1 - 4 - 1965, Tổng thống Johnson chủ trì cuộc họp của Hội ñồng

An ninh quốc gia, quyết ñịnh tiến hành một cuộc chiến tranh trên bộ của quân ñội

Mỹ ở miền Nam Việt Nam, chuyển chiến lược “chiến tranh ñặc biệt” sang chiến

lược “chiến tranh cục bộ”.

Ngày 1 - 5 - 1965, Westmoreland, Tổng chỉ huy quân ñội viễn chinh Mỹ ở

miền Nam Việt Nam trình lên Tổng thống Mỹ kế hoạch chiến lược gồm ba giai

ñoạn, gồm ba nội dung: “Tảo thanh, bảo ñảm an ninh, tìm và diệt”.

Giai ñoạn 1 từ tháng 7 - 1965 ñến tháng 12 - 1965: Đưa nhanh quân Mỹ và

quân các nước ñồng minh của Mỹ vào miền Nam ñể ngăn chặn chiều hướng sụp ñổ

của chính quyền Sài Gòn, bảo ñảm an toàn cho những khu vực ñông dân cư, gấp rút

triển khai lực lượng, chuẩn bị cho cuộc phản công giành lại quyền chủ ñộng trên

chiến trường.

Giai ñoạn 2 từ ñầu năm 1966 ñến tháng 6 - 1966: Quân Mỹ và lực lượng

ñồng minh Mỹ mở các cuộc hành quân “tìm diệt” chủ lực Quân giải phóng, phá căn

cứ du kích, hỗ trợ cho chương trình bình ñịnh.

Giai ñoạn 3 từ tháng 7 - 1966 ñến cuối năm 1967: Quân Mỹ và quân các

nước ñồng minh của Mỹ phối hợp với quân ñội Sài Gòn mở các cuộc tiến công tiêu

diệt các lực lượng còn lại của Quân giải phóng và các khu căn cứ du kích, hoàn

thành cơ bản về chương trình bình ñịnh.

Để tạo sự hậu thuẫn cần thiết về chính trị cho chiến lược “chiến tranh cục

29

bộ”, Nhà Trắng ủng hộ nhóm tướng lĩnh trẻ lên nắm chính quyền, trong ñó, Nguyễn

Văn Thiệu làm Chủ tịch Ủy ban lãnh ñạo quốc gia và Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch

Ủy ban hành pháp Trung ương.

Trên chiến trường Đăk Lăk, ñến hết năm 1965, quân viễn chinh Mỹ vẫn chưa

có mặt. Tuy nhiên, toàn tỉnh ñã có khoảng 800 cố vấn, nhân viên kỹ thuật Mỹ và

một ñại ñội bảo vệ, một ñại ñội trực thăng ñóng ở sân bay Buôn Ma Thuột. Chính

quyền Sài Gòn ñã tăng thêm 1 tiểu ñoàn bộ binh cho Trung ñoàn 45 (ñủ 4 tiểu

ñoàn), trong ñó 2 tiểu ñoàn bảo vệ Buôn Ma Thuột, 2 tiểu ñoàn cơ ñộng; tăng cường

2 tiểu ñoàn pháo gồm 20 khẩu 105ly, 2 khẩu 155ly, 2 chi ñoàn thiết giáp gồm M113

và M48. Lực lượng bảo an có 20 ñại ñội ñóng quân ở các dinh ñiền và 3 quận

(Buôn Hồ, Lạc Thiện, Phước An). Lực lượng biệt kích Trường Sơn có 31 trung ñội,

hầu hết là người dân tộc do Mỹ chỉ huy [62, tr. 1]. Chúng mở rộng sân bay Hoà

Bình và Buôn Ma Thuột, thường xuyên có 40 máy bay thường trực chiến ñấu. Đó là

chưa kể ñến hệ thống sân bay dã chiến ở M’Drăk, Phước An, Kamga. Đến tháng 2 -

1966, Lữ ñoàn dù 173 - ñơn vị lính dù duy nhất của Mỹ có mặt tham chiến trên

chiến trường miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ - ñược ñiều ñộng ñến Buôn Ma

Thuột. Chúng xây dựng sân bay dã chiến Kamga ñể tăng khả năng cơ ñộng trong

việc ñánh phá vùng căn cứ Dlei Ya - nơi chúng cho rằng có cơ quan kháng chiến

của tỉnh ñứng chân.

Được sự hỗ trợ của Mỹ, QĐSG liên tiếp mở những cuộc hành quân, càn quét,

ñánh ra các vùng ven và vùng giải phóng của ta hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng

và giành lại thế chủ ñộng trên chiến trường; ñồng thời tăng cường các hoạt ñộng

không quân, cho máy bay oanh tạc liên tục vào những vùng giáp ranh mà chúng cho

là có lực lượng ta ñóng quân. “Sáu tháng cuối năm 1965, ñịch càn quét 130 cuộc từ

một trung ñội ñến ba tiểu ñoàn với thời gian từ 3 ñến 7 ngày, 200 lần máy bay oanh

kích, mức cao nhất là dùng máy bay bắn phá trong một khu vực 2, 3 xã liên tiếp 5, 7

ngày” [8, tr. 98]. Bên cạnh ñó, “ñịch còn tiến hành chiến tranh tâm lý, chiêu hồi, hù

doạ dân. Riêng mấy tháng cuối năm 1965 ñịch ñã xúc tát trên 20.000 dân vùng ta mới

giải phóng, nặng nhất là vùng dinh ñiền Nam Phước An và vùng H5 (Bắc Buôn Ma

Thuột)” [8, tr. 98]. Với hàng loạt biện pháp trên ñây, ñịch hy vọng sớm cứu vãn tinh

30

thần và sức chiến ñấu của QĐSG ñang tụt dốc một cách nghiêm trọng.

Thời gian này, Mỹ còn sử dụng một thủ ñoạn thâm ñộc nhằm gây chia rẽ

giữa người Kinh với các dân tộc thiểu số và ngay trong chính nội bộ các dân tộc

thiểu số. Tháng 8 - 1965, Mỹ trực tiếp nắm tổ chức FULRO (Front unifié de Lutte

du Racé Oppimées - Mặt trận Thống nhất ñấu tranh của các Sắc tộc bị áp bức) ñể tổ

chức các ñơn vị biệt kích do Mỹ huấn luyện, trang bị, nuôi dưỡng. Lực lượng

FULRO tiến hành cướp phá, chặn xe hàng, phục kích cán bộ, bắt nhân dân ta ñóng

góp tiền, gạo cho chúng. Những hoạt ñộng ñó làm tình hình chính trị vùng dân tộc

thiểu số thêm phức tạp và gây cho ta không ít khó khăn. Một số cán bộ người dân

tộc bị ảnh hưởng bởi luận ñiệu tuyên truyền của FULRO, tỏ ra mơ hồ về chính trị.

Tóm lại, việc Mỹ tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” với sự có mặt

của quân viễn chinh Mỹ tại Đăk Lăk ñã gây cho ñời sống của các tầng lớp nhân dân

bị ñảo lộn, bộ mặt thực dân xâm lược của Mỹ bộc lộ rõ trước nhân dân. Mâu thuẫn

giữa nhân dân Đăk Lăk nói riêng, dân tộc ta nói chung với ñế quốc Mỹ ngày càng

trở nên gay gắt. Đây chính là nguyên nhân cơ bản giải thích tại sao nhân dân miền

Nam nói chung và ñồng bào các dân tộc Đăk Lăk nói riêng ñã ñồng lòng, chung

sức, quyết tâm ñứng lên ñánh thắng ñế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn, giành ñộc

lập, tự do cho dân tộc. Dưới sự lãnh ñạo của Đảng, quân dân Đăk Lăk ñã thực hiện

phương thức chiến tranh du kích nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân, ñồng thời

phát huy thế mạnh của núi rừng Tây Nguyên.

2.2. CHỦ TRƯƠNG CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG, KHU ỦY V VÀ ĐẢNG BỘ

ĐĂK LĂK

2.2.1. Chủ trương của Trung ương Đảng và Khu ủy V

Sau khi Mỹ dùng không quân, hải quân ñánh phá miền Bắc (5 - 8 - 1965),

Đảng ta ñã dự ñoán Mỹ sẽ ñưa quân viễn chinh vào miền Nam, làm cho cuộc chiến

tranh ngày càng trở nên ác liệt. Chuẩn bị cho tình hình mới, Trung ương Đảng ñã cử

một số cán bộ cao cấp như Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà, Chu Huy Mân... vào

tăng cường cho Nam Bộ và Khu V.

Xuất phát từ vị trí chiến lược quan trọng của chiến trường Tây Nguyên ñối

với cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, ngày 1 - 5 - 1964, BCT quyết ñịnh

31

thành lập Phân khu miền Tây của Quân khu V và ñến tháng 9 - 1964 ñổi thành Mặt

trận Tây Nguyên (B3). Đây là sự “chuẩn bị trước một bước ñể trong trường hợp

quân Mỹ vào miền Nam thì căng nó ra, kéo nó lên rừng núi mà ñánh” [40, tr. 171].

Đế quốc Mỹ càng tăng quân vào miền Nam, càng mở rộng chiến tranh thì

nhiệm vụ và vai trò của ñấu tranh vũ trang càng lớn, càng quyết ñịnh. Yêu cầu của

ñấu tranh vũ trang trong năm 1965 của Trung ương Đảng là: “Động viên quyết tâm

của toàn dân và toàn quân, phát huy sức sáng tạo của chiến tranh nhân dân, tiêu diệt

bộ phận quan trọng sinh lực ñịch, giữ vững và phát triển quyền chủ ñộng của ta, ñánh

bại ñịch trong mùa khô và liên tục thắng ñịch trong mùa mưa sắp tới, ñánh bại các

cuộc tấn công cũng như các cuộc càn quét, bình ñịnh của chúng, ñập tan ý chí của

chúng muốn thắng ta bằng giải pháp chiến tranh, lấy thắng lợi quân sự hỗ trợ cho việc

phát triển ñấu tranh chính trị và binh vận, giữ vững và mở rộng khu giải phóng, củng

cố sự ñoàn kết và quyết tâm của toàn dân ñánh thắng giặc Mỹ” [33, tr. 384].

Từ nhận ñịnh tính chất của cuộc chiến tranh, Hội nghị lần thứ 11 của

BCHTƯ Đảng họp từ ngày 15 ñến ngày 27 - 03 - 1965 chỉ ra rằng: “So sánh lực

lượng về mọi mặt giữa cách mạng miền Nam và ñịch ñã biến ñổi nhanh chóng theo

hướng có lợi cho ta. Phong trào du kích chiến tranh phát triển mạnh mẽ và rộng

khắp trong khi lực lượng vũ trang và nửa vũ trang của ñịch ở cấp thôn, xã tan rã ñại

bộ phận và tiếp tục tan rã” [29, tr. 104].

Từ việc xác ñịnh ñối tượng tác chiến của chúng ta là “cả quân Mỹ (gồm cả

quân chư hầu) và quân nguỵ” [36, tr. 384], Trung ương Đảng nhấn mạnh: “Tiêu diệt

quân Mỹ và tiêu diệt quân ñội nguỵ là hai yêu cầu quan trọng của nhiệm vụ tác

chiến ñể ñánh bại ý chí xâm lược của ñế quốc Mỹ” [36, tr. 384].

Trong ñấu tranh vũ trang, Trung ương Đảng chỉ rõ nhiệm vụ của chiến tranh

du kích: “Phải ñẩy mạnh chiến tranh du kích tiêu hao, tiêu diệt ñịch khắp nơi, ñồng

thời ñẩy mạnh tác chiến của chủ lực, tiêu diệt từng bộ phận quan trọng sinh lực

ñịch” [36, tr. 384]; cụ thể, “du kích không những phải tiêu diệt ñịch, chống càn

quét, chống lấn chiếm mà còn phải bung ra ñánh ñịch ở vùng sâu, khu ñịch tạm

chiếm, ñánh giao thông, ñánh vào các cơ quan hậu cần của ñịch, luôn quấy rối ñịch,

bao vây chặt các căn cứ, ñồn bốt của ñịch, tìm ñịch mà ñánh, làm cho ñịch luôn bị

32

rối loạn, ăn ngủ không yên, tạo ñiều kiện tốt ñể chủ lực ta diệt ñịch ” [36, tr. 386].

Đến tháng 7 - 1966, BCT ñề ra Nghị quyết về ñẩy mạnh ñấu tranh quân sự

nhằm kết hợp chiến tranh tập trung với hoạt ñộng du kích, kết hợp ñấu tranh quân

sự với ñấu tranh chính trị, ñẩy mạnh chiến tranh du kích trên khắp các chiến trường

[37, tr. 152].

Như vậy, Đảng ta ñã nhận ñịnh và ñánh giá chính xác việc Mỹ ñưa hàng

chục vạn quân cùng với phương tiện chiến tranh vào miền Nam là chưa làm thay

ñổi ñược cục diện trên chiến trường. Mặt khác, Đảng ta cũng ñánh giá cao vai trò

của chiến tranh du kích và tin tưởng chiến tranh du kích có khả năng tiêu diệt cả

quân Mỹ và quân ñội Sài Gòn.

Đầu tháng 3 - 1965, khi những ñơn vị ñầu tiên của quân Mỹ vừa ñổ bộ vào

Đà Nẵng, Thường vụ Khu ủy, Quân khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu V căn cứ vào

nhận ñịnh, hướng dẫn của Trung ương Đảng, ñã kịp thời phân tích, ñánh giá tình

hình và ñề ra những biện pháp cụ thể về công tác tư tưởng và tổ chức nhằm chủ

ñộng chuẩn bị cho quân và dân trong Quân khu ñánh Mỹ.

Cuối tháng 3 - 1965, Quân khu triệu tập Hội nghị du kích chiến tranh ñể bàn

về kế hoạch xây dựng, củng cố dân quân du kích, xây dựng làng chiến ñấu, xây

dựng “vành ñai diệt Mỹ” và phát ñộng phong trào thi ñua giành danh hiệu “Dũng sĩ

diệt Mỹ”.

Nhận ñịnh về những cố gắng và khả năng mở rộng cuộc chiến tranh xâm

lược của Mỹ, Nghị quyết Hội nghị Khu ủy V lần thứ IV mở rộng (5 - 1965) chỉ rõ:

“Quân ñịch tăng thêm, củng cố cũng có mức, chúng sẽ bị ta ñánh mạnh trên toàn

miền Nam và trong Khu, sẽ càng bị tổn thất, khó khăn lớn nhất là tinh thần nguỵ

quân, nguỵ quyền và cả quân Mỹ tỏ ra bạc nhược” [57, tr. 1]. Trên cơ sở nhận ñịnh

ñó, Hội nghị phát ñộng phong trào chiến tranh du kích trong toàn Quân khu: “Phải

ñẩy mạnh phong trào nhân dân du kích chiến tranh. Phát ñộng một phong trào toàn

dân tham gia vũ trang ñánh ñịch, ñộng viên một phong trào du kích sôi nổi, tìm giặc

mà ñánh, ñánh cả Mỹ lẫn nguỵ” [57, tr. 2].

Để phát triển hơn nữa phong trào chiến tranh du kích, Khu ủy V chỉ ñạo:

“Gấp rút ñẩy mạnh phong trào nhân dân du kích chiến tranh phát triển thật cao, thật

33

rộng, thật ñều khắp và toàn diện hơn nữa. Chiến tranh du kích phải góp phần quan

trọng vào việc thực hiện chỉ tiêu diệt ñịch ñã xác ñịnh, phải ñánh bại âm mưu bình

ñịnh lấn chiếm, gom dân, xúc, tát dân của ñịch, phải cắt ñứt các ñường giao thông

chiến lược và ñánh phá mạnh vào hậu cứ của chúng, phải hỗ trợ ñắc lực cho việc

ñưa phong trào vùng yếu và ñô thị tiến lên, phối hợp chặt chẽ ñấu tranh chính trị và

binh vận, phải giữ vững và bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ sản xuất và nhân, vật lực

ta” [24, tr. 2].

Phương châm thực hiện chiến tranh du kích của Khu ủy là: “Phải ñưa chiến

tranh du kích tiến lên theo phương châm ñấu tranh hai chân, ba mũi với tinh thần

“tích cực, kiên quyết và liên tục tiến công ñịch”, toàn dân ñều tham gia ñánh ñịch,

kẻ ñịch nào cũng ñánh, ñánh khắp nơi và mọi lúc, ñánh bằng mọi cách và mọi thứ

vũ khí, một tổ cũng ñánh, một người cũng ñánh” [24, tr. 2]. Khu ủy cũng xác ñịnh

nhiệm vụ của chiến tranh du kích trong Quân khu V: “Chiến tranh du kích phải tích

cực góp phần vào việc hoàn toàn giành thắng lợi quyết ñịnh trong thời gian tới ñể

ñưa cách mạng tiến lên” [24, tr. 2].

Về xây dựng lực lượng, Nghị quyết Hội nghị Khu ủy V lần thứ VI (mở rộng)

năm 1967 quy ñịnh: “Ra sức phát triển và tăng cường lực lượng du kích ñạt tỷ lệ

6% dân số ñồng bằng và 12% dân số miền núi. Tăng thành phần nữ du kích lên 50%

ở ñồng bằng và 25% ở miền núi. Củng cố và phát triển du kích xã, mở rộng và nâng

cao khả năng chiến ñấu của du kích thôn. Đặc biệt chú trọng phát huy khả năng

chiến ñấu và mở rộng hơn nữa hàng ngũ du kích bí mật, tiến tới thực hiện võ trang

toàn dân. Tích cực phát triển các ñội xung kích, tự vệ trong thành phố nhằm phối

hợp với ñấu tranh chính trị của quần chúng, phá thế kìm kẹp của ñịch, từng bước

thực hiện thế làm chủ trong thành phố. Chuẩn bị về tổ chức, cán bộ, vũ khí ñể hình

thành ñội ngũ võ trang của quần chúng khởi nghĩa khi có thời cơ” [37, tr. 575].

Trong lực lượng du kích, Khu ủy V chú trọng tăng tỉ lệ ñảng viên, ñoàn viên:

“Phải kiên quyết ñưa nhiều ñảng viên và ñoàn viên vào du kích ñể nâng cao chất

lượng lãnh ñạo” [24, tr. 4]. Thậm chí Trung ương Cục coi việc tham gia du kích là

một tiêu chuẩn ñể kết nạp ñảng viên: “Trong việc kết nạp ñảng viên mới cần chú ý

thêm một tiêu chuẩn nữa là ñối tượng ñịnh kết nạp có tích cực chiến ñấu và tham

34

gia du kích chiến tranh hay không” [36, tr. 386].

Công tác huấn luyện quân sự cho du kích ñược quan tâm. Chỉ thị của Khu ủy

V chỉ ñạo: “Chú trọng công tác huấn luyện quân sự, kết hợp giữa tác chiến và huấn

luyện nhằm bảo ñảm các lực lượng vũ trang, nửa vũ trang ñịa phương thực hiện

ñược những yêu cầu tác chiến, phải tăng cường huấn luyện cho du kích thôn (3/4

ñược huấn luyện), dân quân và tự vệ, bảo ñảm trong tay có 60 - 70% du kích thôn

ñánh ñược ñịch và 50% dân quân tham gia ñánh ñịch bằng vũ khí thô sơ, chú ý

thường xuyên bồi dưỡng cho cán bộ tiểu ñội, trung ñội du kích, cán bộ thôn ñội, xã

ñội ” [24, tr. 5].

2.2.2. Chủ trương của Đảng bộ Đăk Lăk

Mặc dù Mỹ và chính quyền Sài Gòn bị thất bại nặng nề trong chiến lược

“chiến tranh ñặc biệt” nhưng qua những cuộc càn quét, ñánh phá liên tục, ñịch ñã

gây cho cách mạng miền Nam nói chung và Đăk Lăk nói riêng không ít khó khăn.

Tháng 6 - 1966, Hội nghị Thường vụ Tỉnh ủy Đăk Lăk họp và ñề ra nhiệm vụ trung

tâm của tỉnh là “chống càn quét lấn chiếm, xây dựng, bảo vệ căn cứ và vùng giải

phóng, ñẩy mạnh công tác vùng ñịch” [8, tr. 103 - 104].

Tháng 7 - 1966, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đăk Lăk lần thứ III khai mạc

tại buôn Đăk Tuar, trong vùng căn cứ phía Nam tỉnh ñể “kiểm ñiểm công tác lãnh

ñạo và chỉ ñạo chống “chiến tranh ñặc biệt”, ñề ra nhiệm vụ trong giai ñoạn chống

“chiến tranh cục bộ” và bầu ban chấp hành mới” [15, tr. 101]. Sau ñó, Ban Cán sự

và Ban Chỉ huy Tỉnh ñội mở ñợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong lực lượng vũ

trang và bán vũ trang tỉnh, huyện, ñộng viên ñảng viên, cán bộ, ñoàn viên, chiến sĩ

và dân quân du kích nêu cao ý chí chiến ñấu, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách

mạng. Qua ñó, quân dân Đăk Lăk quyết tâm giành thắng lợi cao nhất trong chiến

dịch Hè - Thu 1966.

Cuối năm 1966, Tỉnh tổ chức Đại hội nhân dân du kích chiến tranh ñể tổng

kết kinh nghiệm và phát ñộng phong trào ñánh Mỹ. Nhờ ñó, công tác giáo dục, phát

ñộng quần chúng tham gia, ñóng góp cho cách mạng ñược nâng lên.

Năm 1967, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk chủ trương: “Đẩy mạnh chiến

tranh du kích lên một bước cao hơn, rộng hơn, nhằm tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận

35

sinh lực nguỵ, Mỹ, chư hầu, nhất là tiêu hao, tiêu diệt, làm tan rã phần lớn lực lượng

bảo an, dân vệ, FULRO, tiêu diệt ác ôn, bình ñịnh, ñẩy mạnh tiêu diệt nhỏ là phổ

biến và tiêu hao rộng rãi, ñập tan âm mưu bình ñịnh của ñịch, nhất là vùng yếu,

vùng ñịch tạm kiểm soát, giữ vững và bảo vệ có hiệu lực vùng giải phóng, vùng căn

cứ” [23, tr. 1].

Nhiệm vụ cụ thể ñối với phong trào du kích chiến tranh là: “Địch ñánh ra

vùng giải phóng, du kích phải tích cực phản công ñịch, chống càn quét, xúc tát dân,

chống gián ñiệp, biệt kích, bảo vệ tài sản, tính mạng nhân dân, bảo vệ sản xuất.

Động viên và phối hợp cho ñược các lực lượng dân quân du kích với bộ ñội ñịa

phương, ñặc công, công binh ở các vành ñai du kích, diệt ñược bọn biệt kích, bảo

an, dân vệ ñi lùng sục, tiến tới buộc ñịch co lại, thu hẹp phạm vi hoạt ñộng của

chúng. Đẩy mạnh hoạt ñộng vũ trang vùng Mỹ, chư hầu ñóng và các thị trấn, thị xã”

[23, tr. 1 - 2].

Về phương châm xây dựng lực lượng dân quân du kích, Đảng bộ Đăk Lăk

vạch rõ: “Vừa phát triển mạnh, vừa củng cố chắc, vừa nắm vững yêu cầu có số

lượng ñông, có chất lượng vững, cán bộ tốt. Phải chấm dứt tình trạng du kích mang

súng chạy theo ñịch, ñầu hàng làm tay sai cho ñịch” [23, tr. 3].

Trong công tác xây dựng lực lượng dân quân du kích, Bộ Chỉ huy quân sự

tỉnh Đăk Lăk quy ñịnh: “Tỷ lệ du kích xã, thôn ñạt 12% trong tổng số dân giải

phóng với chất lượng vững chắc. Nữ du kích chiếm tỷ lệ từ 25 - 30% và 5% thiếu

niên trong tổng số du kích” [23, tr. 3]. Đối với du kích nữ, Đăk Lăk có quy ñịnh

riêng: “Đối với phụ nữ du kích phải tổ chức riêng, sinh hoạt, huấn luyện riêng cho

phù hợp. Mỗi xã phải tổ chức cho ñược từ 1 ñến 2 tiểu ñội nữ và mỗi thôn có từ 1 -

2 tổ nữ du kích” [23, tr. 5].

Để phát triển hơn nữa chất lượng phong trào du kích chiến tranh, Bộ Chỉ huy

quân sự tỉnh Đăk Lăk chỉ ñạo: “Phải tăng cường 2/3 ñảng viên, 100% ñoàn viên,

cán bộ các ñoàn thể phải gương mẫu tham gia vào dân quân du kích” [23, tr. 3].

Thực hiện sự chỉ ñạo của Đảng các cấp, quân dân du kích Đăk Lăk ñã góp

phần ñánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn ở

Đăk Lăk.

36

2.3. CHIẾN TRANH DU KÍCH Ở ĐĂK LĂK GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG

CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ”

2.3.1. Xây dựng và củng cố thế trận chiến tranh du kích, ñánh ñịch càn quét,

giữ vững vùng giải phóng, vùng căn cứ (từ giữa năm 1965 ñến giữa năm 1966)

Ở vùng giải phóng, vùng căn cứ, du kích biên chế thành 2 lực lượng: Du kích

tập trung và du kích tại chỗ. Mỗi xã tuỳ theo dân số tổ chức từ 1 ñến 2 ñại ñội du

kích tập trung xã, các thôn buôn tổ chức 1 ñến 2 trung ñội du kích tại chỗ. Du kích

tập trung ñược trang bị vũ khí, ñược huấn luyện, là lực lượng trực tiếp chiến ñấu

trên ñịa bàn buôn, xã hoặc phối hợp với các lực lượng vũ trang khác. Du kích tại chỗ (1) có số lượng ñông hơn, ñược trang bị vũ khí, chủ yếu làm nhiệm vụ canh gác,

bố phòng, phục vụ chiến ñấu hoặc trực tiếp chiến ñấu tại ñịa phương. Trong số du

kích tại chỗ có du kích thiếu niên, tiểu tổ nữ du kích và lão du kích.

Đối với vùng tranh chấp và các căn cứ lõm, việc xây dựng du kích, tự vệ

mật, cơ sở nội tuyến rất linh hoạt, ñược tổ chức thành từng tổ, tiểu ñội gọn, nhẹ.

Nhiệm vụ chủ yếu là nắm chắc âm mưu, thủ ñoạn và tình hình mọi mặt của ñịch; hỗ

trợ nhân dân ñấu tranh, có lúc diệt ác ôn hoặc lực lượng nhỏ của ñịch với phương

châm “ñánh trúng, rút nhanh”.

Tháng 12 – 1965, du kích xã có 2.091 người, chiếm 2,7% dân số (có 153 nữ,

112 ñoàn viên, 99 ñảng viên); du kích thôn buôn có 2.433 người, chiếm 3,1 % dân

số (có 256 nữ, 11 ñoàn viên và 22 ñảng viên); du kích mật có 72 người và du kích

thiếu niên có 142 em.

Du kích các xã, thôn buôn xây dựng không ñược ñồng ñều, khá nhất là huyện

(1) Còn ñược gọi là dân quân. (2) Đây là ký hiệu của Mặt trận Tây Nguyên. Tên các huyện, xã ñược quy ñịnh theo chữ số.

H1 :

Huyện M’Drăk

H2 :

Huyện Đông Cheo Reo

H3 :

Huyện Tây Cheo Reo

H9, H10, du kích ñạt tỷ lệ 19,5% dân số, tiếp theo là huyện H1, H4, H8, ñạt tỷ lệ 5- 8% dân số. Còn các huyện H2, H3, H5, H7, H6 (2) ñịch kìm kẹp mạnh nên số lượng

37

du kích xây dựng ñược có phần hạn chế. Trên thực tế ở vùng giải phóng số lượng

du kích phát triển cao, nhất là nơi vốn hoặc ñang là căn cứ ñịa cách mạng.

Lượng dân quân du kích Đăk Lăk ñược trang bị vũ khí tự tạo với tỷ lệ 100%, các loại vũ khí và chất nổ với tỷ lệ từ 1/3 ñến 1/2. Vũ khí, chất nổ ñược sử dụng phổ

biến là mìn vướng, mìn mo, mìn thụt, mìn ñạp, mìn muỗi, bộc phá khối, bộc phá

ống. Một phần vũ khí, chất nổ ñược sản xuất ở các công binh xưởng, một phần lấy

của ñịch và trang bị cho du kích.

Vũ khí thô sơ, vũ khí tự tạo bao gồm các loại: Tên ná, chông, lao, mang cung

(thò), bẫy ñá, bẫy cây... Nguyên liệu ñể làm các loại vũ khí này gồm có mây, tre, gỗ,

sắt. Vũ khí ñược ñồng bào các dân tộc thiểu số chủ yếu làm theo kinh nghiệm truyền thống (1) và ñược cải tiến theo yêu cầu ñánh ñịch càn quét, bố phòng làng chiến ñấu.

Công tác chuẩn bị cho thế trận chiến tranh du kích ñược tiến hành chu ñáo.

Quân dân du kích cùng nhân dân ñồng bào các dân tộc Đăk Lăk ñã chủ ñộng tìm ñịch

mà ñánh.

Về phía ñịch, sau khi củng cố các căn cứ ñóng quân, Mỹ tập trung mở cuộc

phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966, nhằm “tìm diệt” chủ lực ta, giành thế

mạnh về quân sự.

Vùng căn cứ cách mạng Dlei Ya (phía Bắc Đăk Lăk) là nơi ñứng chân của cơ

quan lãnh ñạo tỉnh từ năm 1959, ñồng thời cũng là ñịa bàn ñứng chân của Tiểu ñoàn

303. Do ñó, với kế hoạch “tìm diệt” quân chủ lực cách mạng, Mỹ và chính quyền Sài

Gòn ở Đăk Lăk ñã liên tục ñánh phá vùng căn cứ Dlei Ya. Tháng 5 - 1965, ñại ñội

ñịch ở Buôn Mriêng càn vào Dlei Ya ñể xúc dân và tìm bắt cán bộ cách mạng. Trung

H4 :

Huyện Buôn Hồ

H5 :

Vùng Bắc Buôn Ma Thuột

H6 :

Thị xã Buôn Ma Thuột

H7 :

Thị xã Cheo Reo

H8 :

Huyện Krông Pách

H9 :

Huyện Krông Bông

H10 :

Huyện Lăk

(1) Một số vũ khí tự tạo, thô sơ vốn là các phương tiện ñể bẫy, săn bắt thú rừng của ñồng bào.

ñội du kích Dlei Ya gồm 19 người (có 3 ñảng viên và 10 nữ) ñã chặn ñánh quân Mỹ

38

quyết liệt. “Nhiều toán ñịch bị sa vào ổ phục kích và cạm bẫy của du kích, một số bị

thương... cuộc càn bị bẻ gãy” [66, tr. 4]. Tháng 6 - 1965, du kích Dlei Ya phối hợp

cùng Tiểu ñoàn 303 ñánh tập kích 1 tiểu ñoàn lực lượng bảo an ñịch ñóng ở Cẩm Ga,

diệt ñược 1 Đại uý bảo an. Tiếp ñến tháng 7 - 1965, 1 tổ du kích cùng Tiểu ñoàn 303

tập kích giải phóng quận lỵ Thuần Mẫn, ñánh thiệt hại nặng 2 tiểu ñoàn quân ñội Sài

Gòn. Riêng du kích Dlei Ya bắt sống 5 tên ñịch, thu 15 súng các loại.

Phối hợp với chiến trường phía Bắc, tháng 5 - 1965, lực lượng vũ trang

huyện H10 kết hợp với lực lượng du kích xã tổ chức tiến công giải phóng các ấp

chiến lược buôn Ja Tu và buôn Knăc. Cuộc chiến giữa ta và ñịch diễn ra một ngày

ñêm, hai bên giành nhau từng tấc ñất. Do ñịch có hoả lực mạnh hơn ta, nên mũi tiến

quân của lực lượng vũ trang huyện gặp nhiều khó khăn, phải rút lui làm nhiệm vụ

chặn ñánh viện binh của ñịch ñến tiếp ứng. Trung ñội du kích Xã 1, huyện H10 ñã

mưu trí cải trang thành một Trung ñội lính bảo an tiến vào ấp chiến lược của ñịch.

Bọn ñịch trong ấp tưởng lầm là viện binh của chúng nên ñã mở cổng cho cả trung

ñội du kích Xã 1 tiến vào. Khi lọt ñược vào khu trung tâm ấp chiến lược, trung ñội

du kích liền nổ súng ñánh chiếm trại lính. Với lối ñánh nghi binh, táo bạo và bất

ngờ,chỉ trong vòng 10 phút ta ñã làm chủ hoàn toàn 2 ấp chiến lược nói trên, thu

ñược 90 súng, một máy truyền tin PRC25, bắt 16 tên lính, ñồng thời giải tán toàn bộ

lính bảo an xã và dân vệ ở hai ấp chiến lược.

Tháng 5 - 1965, ở phía Nam Đăk Lăk cuộc tấn công và nổi dậy giải phóng

hoàn toàn huyện H9 có ý nghĩa quan trọng ñối với phong trào cách mạng tỉnh. Lần

ñầu tiên ta làm chủ một ñịa bàn có vị trí chiến lược quan trọng không chỉ ñối với

tỉnh Đăk Lăk mà còn quan trọng ñối với hai tỉnh Lâm Đồng và Khánh Hoà. Huyện

H9 ñược giải phóng ñã mở ra một vùng rộng lớn ñảm bảo các yếu tố thuận lợi cho

việc xây dựng căn cứ ñịa cách mạng tỉnh Đăk Lăk. Chính vì vậy, vào tháng 9 –

1965, Tỉnh ủy Đăk Lăk ra Nghị quyết “chọn 5 xã ñồng bào dân tộc thiểu số làm căn

cứ ñịa của tỉnh” [3, tr. 73] làm nơi ñứng chân của các cơ quan lãnh ñạo, các lực

lượng vũ trang; nơi củng cố, xây dựng về mọi mặt ñể tiến hành KCCM. “Xây dựng

căn cứ ñịa Krông Bông vững mạnh toàn diện là ta làm chủ ñược vùng chiến lược

ñặc biệt giữa ba tỉnh Đăk Lăk - Lâm Đồng - Khánh Hoà; trở thành hậu phương trực

39

tiếp cung cấp nhân tài, vật lực cho cả tỉnh” [3, tr. 72]. Cùng với việc xây dựng căn

cứ ñịa cách mạng - nơi ñứng chân của các cơ quan lãnh ñạo kháng chiến của tỉnh,

các trung ñội du kích xã, thôn buôn ñược hình thành. Lực lượng du kích này vừa

tham gia ñánh ñịch càn quét, bảo vệ căn cứ, bảo vệ nhân dân vừa tham gia sản xuất,

cung cấp lương thực, thực phẩm cho căn cứ ñịa.

Đối với vùng mới giải phóng Tỉnh ủy Đăk Lăk chỉ ñạo: “Khẩn trương củng

cố và xây dựng chính quyền cách mạng, tổ chức nhân dân ñào hầm hố, tránh phi

pháo ñịch, ñào giao thông hào giữa các thôn, chuẩn bị nơi sơ tán dân, chống ñịch

càn quét, ñánh phá. Khẩn trương xây dựng các ñội du kích, trang bị vũ khí, huấn

huyện quân sự, học tập chính trị. Có phương án canh phòng, ñánh ñịch càn quét và

bắn máy bay” [15, tr.93]. Ở mỗi vùng giải phóng, mỗi xã tuỳ theo dân số tổ chức từ

1 ñến 2 ñại ñội du kích tập trung của xã; ở các thôn, buôn tổ chức 1 ñến 2 trung ñội

du kích tại chỗ, trang bị vũ khí thông thường và vũ khí tự tạo.

Trong mùa khô 1965 - 1966, ñịch liên tục tấn công vùng giải phóng H9

nhằm tìm mọi cách “bình ñịnh”, xúc dân vùng giải phóng, ngày ñêm ñiên cuồng bắn

phá và tìm diệt cơ quan lãnh ñạo kháng chiến tỉnh Đăk Lăk. Ở vùng căn cứ ñịa cách

mạng, ñịch tăng cường máy bay kết hợp với pháo tầm xa, tầm gần bắn phá ngày

ñêm. Để hạn chế các hoạt ñộng ñánh phá của máy bay ñịch, bảo vệ vùng căn cứ của

ta, các cấp ủy chủ trương giao cho tổ du kích tổ chức lực lượng phục kích bắn máy

bay, trực thăng của ñịch.

Quán triệt nhiệm vụ ñược giao, ñội du kích Khuê Ngọc Điền (Huyện H9) ñã

nghiên cứu quy luật, thủ ñoạn hành ñộng của ñịch. Trận ñịa bắn máy bay ñược bố

trí thế trận chân kiềng, gồm 3 trận ñịa cách nhau khoảng 200 mét, mỗi trận ñịa một

tổ. Mỗi tổ du kích ñược trang bị 2 súng Garant và 1 súng CKC. Mục tiêu giả ñược

dựng gần trận ñịa phục kích ñể nghi binh ñịch, ñợi khi máy bay ñịch ñến gần mới

bất ngờ ñồng loạt nổ súng [27, tr. 78].

Sáng ngày 24 - 4 - 1966, tổ du kích gồm các ñồng chí An, Để, Thiện dùng

hình nộm giả làm người ñứng dưới tán cây và gần ñó cắm một lá cờ của Mặt trận

Dân tộc Giải phóng. Lúc 9h, một chiếc trực thăng của ñịch từ phía núi Chư Yang

Sin bay ñến, phát hiện thấy cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng, chúng liền hạ ñộ cao

40

cách mặt ñất khoảng 50 mét và bay thẳng vào trận ñịa phục kích ta ñã bố trí sẵn.

Khi máy bay ñến cách trận ñịa khoảng 100 mét, du kích Đệ lệnh cho cả tổ ñồng loạt

nổ súng. Chiếc trực thăng của ñịch bị trúng ñạn, lao xuống khu vực gần buôn Tul -

cách khoảng 2 km - bốc cháy cùng với 4 tên ñịch.

Với súng Garant và CKC, tổ du kích Khuê Ngọc Điền ñã bắn rơi 1 máy bay

trực thăng HU1A cùng với 4 tên ñịch. Thắng lợi này mở ra phong trào bắn máy bay

thấp và phát triển rộng khắp trong toàn vùng giải phóng, hạn chế ñược tổn thất do

máy bay ñịch gây ra.

Tiếp theo, tháng 6 - 1965, ñịch ñưa 1 tiểu ñoàn càn quét vào vùng giải phóng

huyện H9, Trung ñội du kích Khuê Ngọc Điền cùng với 40 người của lực lượng vũ

trang huyện ñã dũng cảm chiến ñấu, diệt ñược 45 tên ñịch, phá hủy 1 xe bọc thép,

tên Quận trưởng Lạc Thiện bị trọng thương.

Sau ñó, ñịch cho lực lượng bảo an, biệt ñộng quân và biệt kích bí mật càn

vào Khuê Ngọc Điền. Được nhân dân báo, du kích Khuê Ngọc Điền cùng với Đại

ñội V100 bố trí ñón lõng ñịch. Chờ ñịch lọt vào trận ñịa chuẩn bị sẵn, ta ñồng loạt

nổ súng. Một ñại ñội ñịch bất ngờ bị ñánh thiệt hại nặng, buộc chúng phải ñiều máy

bay ñến oanh kích xung quanh ñể giữ xác ñồng ñội.

Trong vùng giải phóng phía Bắc (các huyện H2, H3, H4), các ñội du kích

hoạt ñộng mạnh mẽ, ñánh nhiều trận tiêu hao, tiêu diệt sinh lực ñịch và lập thành

tích xuất sắc, giữ vững hành lang từ Đông Buôn Hồ sang Đường 21. Qua ñó lực

lượng của ta và công tác vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam ñược tiếp

tục ñảm bảo. Tiêu biểu là trận ñánh Thuần Mẫn (tháng 4 - 1966) do Ama Lang,

Ama Wang chỉ huy, ñã “giải phóng 2 buôn: Buôn Căm và Buôn Thuần Mẫn, bắt

sống 15 tên ñịch” [4, tr. 59]. Sau ñó, ñội du kích Krông Năng do Ama Jú chỉ huy

phối hợp với bộ ñội ñịa phương huyện ñẩy lùi một ñại ñội ñịch lên tiếp viện cho

Thuần Mẫn.

Tháng 6 - 1966, ñịch mở cuộc càn quét vào vùng giải phóng huyện H8.

Chúng dùng trực thăng ñổ quân vào vùng Thâm Trạch. Trước tình thế ñó, ñội du

kích Thâm Trạch gồm 7 người, trang bị súng bộ binh ñã mưu trí, dũng cảm chiến

ñấu chống trả quyết liệt từng tốp trực thăng của ñịch, bảo vệ vùng giải phóng. Trong

41

trận chiến ñấu này, du kích Thâm Trạch ñã “bắn rơi tại chỗ 4 trực thăng của ñịch,

bắn bị thương 2 chiếc khác, bẻ gãy ñợt càn quét của chúng” [5, tr. 126].

Sau những thắng lợi ñó, nhân dân trong vùng giải phóng rất phấn khởi, tin

tưởng lực lượng du kích trong công tác ñánh ñịch, bảo vệ nhân dân. Làng chiến

ñấu ñược ñồng bào cùng với du kích ra sức xây dựng, củng cố thêm thế trận bảo

vệ xã, buôn.

Làng chiến ñấu ở vùng giải phóng ñược rào 2 - 3 lớp ở xung quanh, có cổng

ra vào hình chữ chi. Nhân dân sử dụng các nguyên vật liệu sẵn có của ñịa phương

như mây, tre, gai... ñể rào làng. Ở phía trong và ngoài bờ rào là những hầm chông

rộng từ 2 ñến 5 thước. Tại các góc hay ven hàng rào lối ñi chính, nhân dân ñào

những hầm chữ chi làm nơi chiến ñấu. Mỗi gia ñình trong làng chiến ñấu có hầm

tránh bom, pháo, nhà âm xuống ñất. Chính tài liệu của chính quyền Sài Gòn ñã phải

thừa nhận: “Việt cộng biến nhiều vùng núi thành những khu vực hoặc làng chiến

ñấu khá vững... Đường sá, rừng núi ñều bị ñào hầm, cắm chông, gài bẫy... hình

thành một hệ thống phòng ngự tích cực nhằm hạn chế và ngăn chặn mọi cuộc tấn

công của ta” [102, tr. 41].

Từ ñó, dựa vào thế rừng, thế núi, các xã ñều tổ chức bố phòng, cắm chông,

gài mang cung (thò) xung quanh buôn, ñào hầm hố chống phi pháo, xây dựng các

ñiểm chốt ñánh ñịch càn quét. Giữa các thôn buôn còn mở ñường bí mật ñể cơ ñộng

chi viện cho nhau, như chính quyền Sài Gòn thừa nhận: “Chúng còn làm những

ñường mòn bí mật nối liền khu này với khu khác” [102, tr. 10].

Trong công cuộc xây dựng làng chiến ñấu, du kích Khuê Ngọc Điền cùng

nhân dân huyện H9 “ñào ñắp 11.990 mét rào, giao thông hào 24.680 mét, chông các

loại 227.242 cây, hầm trú ẩn công cộng 470 cái, dân công phá ñường 399 công”

[13, tr. 3]. Du kích xã Ea M’Lai (huyện H1) ñào ñược 16 tuyến bố phòng với tổng

chiều dài 20km và 3.000 hầm trú ẩn [6, tr. 97]. Du kích xã Krông Nô (huyện H10)

cùng với nhân dân vót 75.000 cây chông, làm 11.000 bàn chông, ñóng góp hàng

chục tấn lương thực, thực phẩm [5, tr. 129]. Trong các trận càn ñầu tiên của quân

Mỹ và quân ñội VNCH trên ñất Đăk Lăk ñã có hàng trăm tên bị thương vì sa vào

hầm chông hoặc bẫy ñá. Khi bị chông ñâm vào chân thì chỉ còn cách khiêng cả bàn

42

chông về ñể cưa. Chông có ba cạnh ñâm vào da thịt rất ñau. Nếu chông có tẩm

thuốc ñộc thì chỉ sau ít phút là gây chết người. Tiếng kêu la ñau ñớn hoặc cái chết

bất ngờ ñã ảnh hưởng rất lớn ñến tinh thần của binh sĩ ñịch. Đó là lý do giải thích vì

sao vũ khí thô sơ của dân quân du kích Đăk Lăk cũng như của dân quân du kích

miền Nam trong KCCM luôn là nỗi khiếp sợ và hoang mang của binh sĩ Mỹ. Tờ

Thời báo New York viết: “Trong thời ñại vũ khí tối tân, các lực lượng Mỹ ở miền

Nam Việt Nam lại thấy rằng vũ khí thô sơ là nguồn gốc gây ra cảnh bối rối thường

xuyên và nguy hiểm cho họ” [11, tr. 135]. Hãng UPI cũng ñánh giá: “Trong thời ñại

vũ khí hạt nhân, du kích Việt Nam vẫn dùng một trong những vũ khí cổ xưa nhất

của loài người là tên nỏ và tên nỏ ñã có tác dụng” [54, tr. 11].

Nổi bật trong phong trào du kích chiến tranh giai ñoạn này có các gương du

kích chiến ñấu anh dũng như Ama Ly (dân tộc J’Rai) ở Buôn Tà Khê (Đông Cheo

Reo), “một mình ñánh 1 ñại ñội ñịch ñi càn, diệt ñược 4 tên, giữ vững ñược buôn,

an toàn cho dân” [16, tr. 76]. Liệt sĩ Y Tôn (huyện H10), một mình ñã diệt ñược 4

tên ñịch và ñã anh dũng hi sinh khi làm nhiệm vụ. Y Bếch (người M’Nông) ở Buôn

Trang Yuk (huyện H10) bị ñịch phục kích bắt ñi. Dù phải chịu mọi hình thức tra tấn

dã man, Y Bếch vẫn kiên quyết không khai chỗ ẩn náu của cán bộ cách mạng...

Du kích các xã, thôn gần các ñường giao thông như Đường 14, 21, 21 “kéo

dài” tổ chức ñánh phá giao thông, ngăn chặn có hiệu quả việc vận chuyển lương

thực, gây nên hiện tượng thiếu gạo trong binh lính ñịch. Tài liệu của Nha Tổng

giám ñốc Cảnh sát quốc gia VNCH tiết lộ: “Một số binh sĩ thuộc Đại ñội Thám báo

Binh ñoàn 23 bộ binh vì thiếu gạo ăn nên có ý ñịnh ñào ngũ về làng hoặc theo nhóm

phiến loạn FULRO”. Hoặc “Một số binh sĩ ñịa phương quân ñồn trú tại Phú Đức

(AP. 866.827), vì thiếu gạo ăn nên ñã bỏ trốn về thị xã Buôn Ma Thuột mua gạo”

[101]. Sau khi thu thập tình hình, Nha Cảnh sát quốc gia kết luận: “Nha tôi nhận

thấy, sự kiện này xảy ra là do Việt cộng phá hoại các giao thông trên Quốc lộ 14, 20

và 21, khiến sự tiếp tế cho Cao Nguyên Trung Phần có phần chậm trễ và thiếu kém”

[101]. Tỉnh ủy Đăk Lăk ñã ñánh giá cao vai trò của lực lượng du kích trong ñánh

phá giao thông ñịch: “Du kích phát huy tốt trong cắt phá giao thông, phá ấp và

chống càn” [8, tr. 91].

43

Tính chung trong năm 1965 và ñến giữa năm 1966, các lực lượng vũ trang

và du kích ñã ñánh ñịch càn quét và hỗ trợ phá ấp giành dân 130 trận, loại khỏi

vòng chiến ñấu gần 6.000 tên, trong ñó có hơn 30 lính Mỹ. Trong việc ñánh bại

cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966, lực lượng du kích thôn, buôn

cùng với bộ ñội chính quy ñã làm ñược nhiệm vụ kéo căng ñịch ra ñể ñánh, kìm

chế, tiêu hao ñịch rộng rãi, ñặc biệt là ở vùng giải phóng. Tỉnh uỷ Đăk Lăk ñã thực

hiện thành công sự chỉ ñạo của Trung ương Đảng và của Khu ủy V: “Đặc biệt chú ý

hình thành các ñơn vị du kích tập trung, cơ ñộng ở các vùng giải phóng, kết hợp bố

phòng xây dựng làng chiến ñấu, tạo thành thế trận chiến tranh nhân dân bao vây và

tiến công ñịch ñều khắp” [15, tr. 98 - 99].

Cuộc ñấu tranh của lực lượng dân quân du kích Đăk Lăk ñã thể hiện ñược ý

chí và quyết tâm kháng chiến cao ñộ, góp phần cùng với bộ ñội ñịa phương và bộ

ñội chủ lực ñánh bại cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 – 1966 của Mỹ trên

ñịa bàn tỉnh Đăk Lăk, giáng một ñòn mạnh vào ý chí xâm lược của kẻ thù, báo hiệu

sự “rạn nứt” của chiến lược “chiến tranh cục bộ” của ñế quốc Mỹ trên chiến trường.

Trong báo cáo gửi về Mỹ ngày 5 - 5 - 1966, Cabot Lodge - Đại sứ Mỹ ở miền Nam

Việt Nam ñã phải chua chát thú nhận: “... Không làm hao tổn ñược Việt cộng;

không tiêu diệt ñược ñơn vị chính quy lớn nào của Việt cộng; không ngăn chặn

ñược du kích chiến tranh; hậu phương không ổn ñịnh” [25, tr. 274 - 275].

2.3.2. Tiếp tục giữ vững vùng giải phóng và ñẩy mạnh chiến tranh du

kích vào vùng ñịch (từ giữa năm 1966 ñến cuối năm 1967)

Để nâng cao kỹ năng tác chiến của du kích, ñầu năm 1967, Bộ Chỉ huy quân

sự tỉnh Đăk Lăk lập “Kế hoạch xây dựng, phát triển du kích chiến tranh và bộ ñội

huyện”. Công tác huấn luyện quân sự cho lực lương du kích ñược chú ý ñặc biệt,

bao gồm các nội dung sau:

A. Kỹ thuật

1. Xạ kích: Hoàn thành bài 1, bài 2 và xạ kích bắn máy bay. Yêu cầu lấy

ñường ngắm nhanh, chính xác, bắn mục tiêu cố ñịch, mục tiêu ẩn hiện và mục tiêu

ban ñêm. Vận dụng kỹ thuật xạ kích trong chiến thuật tập kích, ñánh càn, ñánh ấp,

ñánh giao thông. Đối với xạ kích bắn máy bay, ñã tổ chức ñược cấu trúc trận ñịa bắn

44

máy bay, ước lượng cự ly ñơn giản dùng súng bộ binh bắn các loại máy bay thấp.

2. Lựu ñạn, mìn: Nắm ñược tính năng, cách sử dụng, bảo quản và giữ gìn các

loại ñạn, mìn của ta và của ñịch hiện có. Huấn luyện thành thạo các ñộng tác, tư thế

ném lựu ñạn với yêu cầu xa và ñúng mục tiêu. Cách gài các loại mìn (mìn muỗi,

mìn ñịnh hướng) và cách nguỵ trang và tháo gỡ các loại mìn.

3. Kỹ thuật nguỵ trang công sự: Phác hoạ và cấu trúc các loại công sự nằm,

quỳ, ñứng. Cấu trúc ô chiến ñấu cá nhân, công sự bắn máy bay và các loại hầm trú

ẩn, biết cách thức nguỵ trang và bảo ñảm bí mật.

4. Vũ khí thô sơ: Huấn luyện cách cấu trúc và sử dụng một số loại vũ khí thô

sơ chông thò, tên ná; kết hợp giữa vũ khí chất nổ và vũ khí thô sơ ñể ñánh ñịch.

Thời gian huấn luyện các nội dung kỹ thuật trên từ 7 ñến 10 ngày và 4 ñêm.

B. Chiến thuật

Huấn luyện du kích thành thạo ñộng tác chiến ñấu cá nhân, lợi dụng ñịa hình

ñịa vật ñể tiến hành tác chiến một cách linh hoạt, các tư thế vận ñộng trên chiến

trường và vận ñộng trong ñánh càn, ñánh phục kích, ñánh giao thông.

Chiến thuật phục kích: Huấn luyện từ cá nhân ñến tiểu ñội, sau khi huấn luyện

du kích phối hợp cùng lực lượng huyện ñảm nhiệm một hướng ñánh phục kích bộ

binh ñịch, phục kích giao thông hoặc ñộc lập phục kích ñánh ñịch khi càn quét.

Huấn luyện du kích mật biết sử dụng mìn, lựu ñạn diệt từng tên ác ôn, diệt

từng tốp ñịch lùng sục quanh ấp [23, tr. 3 - 4].

Sau thời gian huấn luyện, du kích các xã, buôn ñã tổ chức ñược nhiều trận

ñịa bắn máy bay, có công sự tốt, có hệ thống bố trí thành cụm hỗ trợ nhau, có nghi

binh kéo máy bay vào trận ñịa. Mỗi tháng có 3, 4 ngày cao ñiểm bắn máy bay.

Tại các ñịa phương có ñường giao thông chiến lược như: H1, H3, H2, H4,

H5, H6, H8, H10, các tổ công binh của huyện ñã phối hợp với du kích xã ñánh mìn,

phục kích giao thông. Một số nơi còn tổ chức ñược các tổ công binh trong du kích

xã ñể cùng nhân dân phá hoại giao thông, làm trở ngại vận chuyển, tiếp tế của ñịch.

Ở các vành ñai du kích H2, H8, H5, du kích ñã từng bước siết chặt, tiến hành lấn

dần buộc ñịch co lại, hạn chế việc lùng sục của biệt kích.

45

Nhờ những hoạt ñộng huấn luyện tác chiến, phong trào chiến tranh du kích

Đăk Lăk giai ñoạn 1966 - 1967 có bước phát triển mới.

Về phía ñịch, trong cuộc phản công chiến lược mùa khô 1966 - 1967, Mỹ

thực hiện chiến lược hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình ñịnh”. Ở Đăk Lăk, Mỹ tập

trung ñánh phá với ba biện pháp cơ bản:

- Càn quét, oanh kích, cày ủi phát quang ñể ñánh bật dân ra khỏi vùng giải phóng.

- Gom dân vào các khu dồn trong vùng ñịch kiểm soát.

- Tiến hành phân loại quần chúng, lập bộ máy hành chính, cảnh sát. Khi ñoàn

“bình ñịnh” rút ñi thì thay vào ñó là các chốt bảo an - dân vệ.

Mỹ trực tiếp trả lương và chỉ huy công tác “bình ñịnh”. Mỗi quận có từ 5 ñến

10 ñoàn “bình ñịnh”. Nhân sự kiện các ñơn vị lính VNCH tập trung sang chiến lược

“bình ñịnh”, tờ The Sydney Herald ngày 13-12-1966 ñăng bài “Việt Nam: New

phase”, trong ñó cho rằng: “Gánh nặng chiến ñấu ñè nặng lên vai quân ñội Hoa Kỳ

và ñồng minh...”. Tờ báo kết luận: “Người ta nghi ngờ không biết quân lực Việt

Nam Cộng hòa có thể làm tròn trách nhiệm, nhiệm vụ bình ñịnh ñược giao phó cho

không, vì lẽ sự lãnh ñạo chỉ huy tại mọi cấp ñều rất yếu kém một cách trầm trọng,

các sĩ quan thì thối nát” [104].

Trên chiến trường Đăk Lăk, Mỹ tập trung các tiểu ñoàn bộ binh và không

quân yểm trợ cho QĐSG càn quét, ñánh phá vùng căn cứ, vùng giải phóng. Bất kể

ngày ñêm, chúng dùng ñủ loại máy bay trinh sát, trực thăng, máy bay B57 và B52

liên tục quần ñảo trên bầu trời, phát hiện nơi nào có quân cách mạng là ngay lập tức

chúng trút bom. Nguy hiểm hơn, chúng còn dùng máy bay rải chất ñộc hoá học, phá

hoại mùa màng và cuộc sống của người dân nhằm ngăn chặn nguồn tiếp viện cho

cách mạng. Đời sống nhân dân ở vùng căn cứ ñịa gặp rất nhiều khó khăn. Vùng giải

phóng H9 ñược ví như “toạ ñộ lửa”: “Âm mưu của chúng là ra sức xúc dân, thực

hiện ý ñồ giết sạch, ñốt sạch, quét sạch nên dùng bom ñạn ngày ñêm bắn phá liên

tục hòng hủy diệt ñất Khuê Ngọc Điền thành vành ñai trắng” [13, tr. 4].

Trước tình hình khó khăn ác liệt ñó, tháng 6 - 1966, Thường vụ Tỉnh ủy ñã

họp và ñề ra nhiệm vụ trung tâm của tỉnh là “phát triển mạnh mẽ chiến tranh du

kích, chống ñịch càn quét lấn chiếm, xây dựng và bảo vệ căn cứ, vùng giải phóng...”

46

[16, tr. 80]. Tiếp theo, cuối năm 1966, Đăk Lăk tổ chức Đại hội nhân dân du kích

chiến tranh, nhằm tổng kết công tác và kinh nghiệm phát ñộng chiến tranh du kích,

từ ñó triển khai phong trào du kích chiến tranh sâu rộng trong toàn tỉnh. Tư tưởng

chỉ ñạo của tỉnh trong giai ñoạn này là “ba bám”: “Đảng bám dân, dân bám ñất, du

kích và bộ ñội bám ñịch”.

Thực hiện chỉ ñạo của Tỉnh ủy, phong trào du kích chiến tranh từ giữa năm

1966 ñến năm 1967 có bước phát triển mới. Một tiểu ñoàn Mỹ ñổ xuống Kamga

liền bị lực lượng du kích và bộ ñội huyện H3 bám ñánh, diệt ñược 3 tên. Lợi dụng

tình hình ñịch co cụm lại, du kích dùng cối 82ly bắn vào diệt thêm một số và phá

hủy 1 trực thăng. Khi ñịch mở lối thoát trên Quốc lộ 21 lại bị lực lượng công binh

cùng với du kích huyện H9 bắn cháy 3 xe, diệt một số tên.

Quân ñội ñịa phương VNCH liên tục mở các cuộc càn quét mức ñộ 2, 3 ñại

ñội hoặc trung ñội thám báo, biệt kích có phi pháo yểm trợ, lúc công khai, lúc bí mật

ñổ quân vùng căn cứ, nhất là một số lõm nhỏ từng vùng ñể xúc dân như huyện H5,

H9, H10. Tuy nhiên, ñịch ñi ñến ñâu cũng bị du kích phát hiện và ñánh ñịch ngay từ

vòng ngoài, không cho ñịch ñến sát khu dân cư. Một số lớn ñịch thương vong do bị

vướng mìn, sập hầm chông hoặc bị du kích bắn tỉa... Chính tài liệu của ñịch cũng phải

thừa nhận: “Hầu hết các vùng núi cao ñều ñược vũ trang bằng những vũ khí thô sơ

(tên nỏ, chông bẫy) và vũ khí hiện ñại (súng trường). Đường sá, rừng núi ñều bị ñào

hầm, cắm chông, gài bẫy”. Với cách bố phòng như vậy, các vùng căn cứ, vùng giải

phóng Đăk Lăk ñã “hình thành một hệ thống phòng ngự tích cực nhằm hạn chế và

ngăn chặn mọi cuộc tấn công”, do ñó, ở các khu vực này “khó mà mở những cuộc

càn quét bằng cách dùng bộ binh ñánh phá hiệu quả” [102, tr. 41].

Tháng 3 - 1967, phát hiện sự có mặt của bộ ñội chủ lực trên ñịa bàn Đăk Lăk,

Lữ ñoàn dù 173 cùng với lực lượng Sư ñoàn 23 ñổ quân lùng sục vùng Bắc Buôn

Hồ. Báo cáo Nguyệt ñể “A” tháng 1 - 1967 cho biết: “Các cuộc xuất hiện di chuyển

lại ñược tăng gia mạnh ở vùng Bắc và Đông Bắc Buôn Hồ” [105, tr. 6]. Địch ñi ñến

ñâu cũng bị ñánh. Trung ñội du kích xã Dlei Ya (huyện H4) dựa vào thế bố phòng

bám ñánh ñịch. Sau một thời gian không “tìm diệt” ñược chủ lực và cơ quan lãnh

ñạo kháng chiến, chúng buộc rút quân về phía Bắc Tây Nguyên. Đi ñến ñâu quân

47

ñịch cũng bị rơi vào thế trận chiến tranh du kích. Chúng ñã phải thừa nhận: “Đi ñôi

với việc thiết lập các cơ cấu chính trị, kinh tế, Việt cộng ñã dựng lên những cơ cấu

quân sự sâu rộng trong quần chúng, ñặc biệt thành lập các ñội tự vệ chiến ñấu, các

tổ chức tự vệ nhân dân, nhằm biến toàn dân thành lực lượng khả dĩ chiến ñấu về

quân sự theo kiểu chiến tranh nhân dân” [102, tr.19].

Chính những trận ñánh của lực lượng du kích ñã góp phần làm cho QĐSG

“thua ñau về quân sự”, tinh thần bị sa sút, kế hoạch “bình ñịnh” không ñạt kết quả.

Đúng như Báo cáo “Dự thảo phương hướng và nhiệm vụ sắp ñến cho lực lượng vũ

trang và nửa vũ trang trong tỉnh từ tháng 7 ñến tháng 12 - 1967” của Tỉnh Đội Đăk

Lăk nhận ñịnh: “Trong tỉnh ta, quân nguỵ bị thua ñau về quân sự, tinh thần bị sa sút

rệu rã, âm mưu bình ñịnh chưa ñạt kết quả” [22, tr. 1].

Song song với việc ñánh ñịch càn, ta còn ñẩy mạnh hoạt ñộng vũ trang vào

vùng thị xã. Lực lượng tự vệ mật tiến hành trừng trị bọn ác ôn. “Một số tên tay sai

lợi hại bị ñền tội tại nhà riêng và nơi làm việc. Số khác nhận ñược thư cảnh cáo của

ta, ngày ñêm lo sợ không dám hống hách như trước” [53, tr. 44]. Ngoài ra, lực

lượng du kích, tự vệ mật còn phối hợp dẫn ñường cho lực lượng vũ trang nhiều lần

ñột nhập thành công vào nội thị, ñánh vào Sư ñoàn bộ Sư ñoàn 23 ñịch, Tiểu ñoàn

232 pháo binh, chốt bảo an, khu vực nhà ñèn Côsia và trụ sở Lạc Giao. Những hoạt

ñộng ñó ñã gây nên “nỗi kinh hoàng, hoang mang trong nguỵ quyền và binh lính

ñịch” [53, tr. 45].

Kết thúc năm 1967, lực lượng vũ trang tỉnh ñã ñánh 117 trận, diệt 1.167 tên

ñịch, phá hủy 2 pháo, 36 xe quân sự, bắn rơi và phá hủy 21 máy bay, phá sập 9 cầu,

phá hỏng nhiều ñoạn Đường 21, 14, làm tê liệt tiếp tế của ñịch nhiều ngày [15, tr.

108]. Lực lượng dân quân, du kích có những bước ñi vững chắc. Du kích ñã ñánh

“61 trận, phá 12 ấp chiến lược, ñộc lập chống càn 17 trận, diệt 14 tên, bị thương 29

tên, trong ñó có 10 tên bị xóc chông, bắn rơi 2 máy bay và bắn bị thương 4 chiếc

khác” [15, tr. 108]. Huyện H9, H10 là nơi ñịch ñánh phá ác liệt nhất, du kích vẫn

kiên quyết bám ñánh ñịch, có ngày du kích H10 ñánh 3 trận. Qua ñó, trình ñộ tác

chiến của du kích ñược tăng lên, có ñội chỉ có 3 người mà ñẩy lùi ñược 1 tiểu ñội,

trung ñội ñịch như du kích H4, H8.

48

Đây là thời kỳ gay go nhất, quyết liệt nhất mà cũng là thời kỳ ta giành nhiều

thắng lợi có ý nghĩa to lớn, làm cơ sở phát triển cho những năm tiếp sau, có sự phối

hợp chặt chẽ trong lực lượng vũ trang ba thứ quân, tạo ñược sức mạnh tổng hợp

ñánh tan âm mưu xoá vùng căn cứ ñịa, vùng giải phóng của ñịch, ñẩy ñịch vào thế

co cụm ở thị xã. Năm 1967, ta ñã giành ñược 21 buôn với 7.300 dân ở H2, H9, H6,

tổ chức 137 cuộc ñấu tranh trực diện với 36.624 lượt người tham gia, có 1.034 lính

ñào ngũ, rã ngũ về nhà, rải 54.000 truyền ñơn [15, tr. 108-109]. Do ñó kế hoạch

“bình ñịnh” của Mỹ bị quân dân Đăk Lăk cùng với quân dân miền Nam ñánh bại.

Sự thất bại của kế hoạch “bình ñịnh” ñược Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mc Namara

thú nhận: “Khi chúng ta cố gắng thúc ñẩy nhanh tiến ñộ của các cuộc bình ñịnh,

chúng ta chỉ càng bị thất bại nhanh hơn” [46, tr. 244].

2.3.3. Chiến tranh du kích trong Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968

Sau hai mùa khô thất bại nặng nề trên chiến trường miền Nam và trước dư

luận thế giới ngày càng phản ñối cuộc chiến tranh xâm lược, giới cầm quyền Mỹ bắt

ñầu dao ñộng, lúng túng. Trong bối cảnh ñó, các hội nghị của BCT nửa cuối năm

1967, ñặc biệt là Hội nghị BCHTƯ lần thứ 14 (1 - 1968) ñã chỉ rõ: “Cuộc kháng

chiến của ta lúc này cần phải và có thể tạo ra một chuyển biến lớn giữa lúc ñế quốc

Mỹ ñang ở thế ngập ngừng về chiến lược, giới cầm quyền Mỹ ñã dao ñộng và trong

thời ñiểm rất nhạy cảm của năm bầu cử Tổng thống Mỹ, ñể chuyển cách mạng và

chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi

quyết ñịnh, phải tạo một bước ngoặt lớn của cuộc chiến tranh. Phải tạo một bước

nhảy vọt bằng hướng chiến lược mới, giáng một ñòn bất ngờ thật mạnh vào ý chí

xâm lược của Mỹ” [9, tr. 68 - 69].

Trên chiến trường Đăk Lăk, Mỹ và chính quyền Sài Gòn sau khi “bình ñịnh”

không thành ñã quay về củng cố và tăng cường hệ thống phòng thủ liên hoàn, vững

chắc, nhất là tại thị xã Buôn Ma Thuột. Chúng xây dựng ở Buôn Ma Thuột 65 cứ

ñiểm kiên cố, có cả hầm ngầm chống hoả lực và giao cho quân ñịa phương trấn giữ

bảo vệ vòng ngoài. Những vùng ven Buôn Ma Thuột như Buôn Niêng, Buôn Giăng

Ré và trên Đường 14 ñi Plêiku có 800 tên Mỹ thuộc Lữ ñoàn 3 Sư ñoàn 2 lính thủy

ñánh bộ cơ ñộng càn quét từng ñợt, ñóng xen kẽ với lực lượng Nam Triều Tiên và

49

ñịa phương quân.

Sư ñoàn bộ binh 23 QĐSG biên chế ñủ 3 Trung ñoàn với một nửa lực lượng

ñồn trú tại nội thị và ven thị. Địch ñặt nhiều hi vọng vào các ñơn vị này, nhất là

Trung ñoàn 45 vốn ñược coi là thiện chiến. Các tiểu ñoàn thám báo, công binh, vận tải ñược bổ sung quân số và ñặt trong tình trạng sẵn sàng chiến ñấu (1).

Trên các trục Đường 21, 14, 21 “kéo dài” ñịch tổ chức các chốt chặn bảo vệ

cho QĐSG vận chuyển, tiếp tế vũ khí, quân trang, quân dụng và lương thực. Ban

ñêm, lực lượng cơ ñộng tiến hành tuần tiễu nghiêm ngặt, xe bọc thép chặn các cửa

ngõ vào nội thị.

Trong khi ñó, ta nhanh chóng củng cố thế trận và mở rộng vùng căn cứ cách

mạng, vùng giải phóng với hơn 16.000 dân [67, tr. 29], ñẩy mạnh việc xây dựng,

củng cố du kích và làng chiến ñấu. Du kích xã ñược trang bị thêm hoả lực (cối 60

ly, súng B40, súng bắn tỉa, súng trung liên) và thường xuyên phối hợp với lực lượng

vũ trang huyện, tỉnh bám ñánh ñịch nống ra. Thường xuyên có 1 ñến 2 trung ñội du

kích tuần tra, bảo vệ buôn, xã. Mặt khác, hệ thống bố phòng và hệ thống thông tin

phát hiện ñịch từ xa ñược tăng cường. Du kích ñóng vai trò chủ lực cùng với nhân

dân vùng căn cứ cách mạng cung cấp, vận chuyển vũ khí và lương thực chuẩn bị

cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. “Hậu cứ H10 chỉ có 1.000 dân ñã huy ñộng nhân

dân xay giã 35 tấn gạo, tham gia 19.000 ngày dân công. Hậu cứ H8 trên 3.000 dân

ñã nhập vào kho 100 tấn gạo” [16, tr. 90]. Hàng trăm tấn vũ khí và lương thực ñã

ñược chuyển về căn cứ an toàn.

Phong trào chiến tranh du kích vùng giải phóng phát triển là chỗ dựa, là niềm

tin cho nhân dân vùng tranh chấp. Từ ñó hầu hết các buôn, ấp vùng ven thị xã Buôn

Ma Thuột ñều “trở thành cơ sở chính trị, cơ sở ñịch vận, cơ sở kinh tế, cơ sở tình

báo của ta” [16, tr. 87]. Một số căn cứ lõm ngay sát nách ñịch như Đạt lý 2, Ea Na,

Buôn Đrơng, Quảng Nhiêu... cán bộ Tỉnh ủy, Thị ủy, lực lượng vũ trang tỉnh ñược

nhân dân che chở, nuôi dưỡng, chuẩn bị tiến công vào nội thị.

(1) Tính chung cả quân chủ lực và các sắc lính ñịa phương, số lượng quân ñịch trên ñịa bàn thị xã Buôn Ma

Thuột cuối năm 1867 khoảng 18.000 tên, tức là 5 người dân thì có một lính.

Trước khi bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, việc chuẩn bị thế trận ở

50

Buôn Ma Thuột ñược tiến hành tỉ mỉ và chu ñáo. Tỉnh ủy tăng cường cán bộ lãnh

ñạo trong thị xã Buôn Ma Thuột, cơ sở hoạt ñộng nội tuyến trong các cơ quan ñịch,

chuẩn bị mục tiêu, xây dựng ñội tự vệ mật, ñội “quyết tử”, ñội phát ñộng quần

chúng, ñội binh vận, ñội giao liên dẫn ñường cho bộ ñội và ñón ñoàn ñấu tranh

chính trị từ các huyện vào. Nhân dân chuẩn bị hầm bí mật cho cán bộ chỉ ñạo cuộc

ñấu tranh. Công tác chuẩn bị hết sức khẩn trương và bí mật.

Trước khi vào chiến dịch, thực hiện phương án kéo ñịch ra xa thị xã, từ ngày

5 ñến ngày 20 - 1 - 1968, du kích H9 cùng Tiểu ñoàn 301 ñánh ñịch trên Đường 21

(tập trung ở quận Lăk - ñịch gọi là quận Lạc Thiện). Tài liệu về “Tổng tiến công và

nổi dậy Mậu Thân 1968 tại Đăk Lăk” của VNCH thừa nhận: “Từ thượng tuần tháng

1-1968 ñịch ñã tham gia tăng cường hoạt ñộng chi khu Lạc Thiện” [65, tr. 3].

Cũng từ nguồn tài liệu này ñã tiết lộ: “Vì là ngày Tết và lệnh hưu chiến vừa

ñược ban bố nên ñối với ngày 29 - 1 tức ngày 30 Tết, toàn quân dân thị xã Buôn Ma

Thuột ñều là lo sắm sửa ñể ñón xuân, binh lính ñược giữ trực ở trong trại 30% quân

số ” [65, tr. 3]. Bất ngờ vào lúc 1h 45 phút, “Việt cộng mở cuộc tấn công vào thị xã.

Lực lượng tác chiến của ñịch có quân số khoảng 3.519 người gồm Trung ñoàn 33...,

Tiểu ñoàn 401 và 301 cơ ñộng, các ñại ñội ñịa phương huyện H4, H5, H6, H8 cùng

du kích” [65, tr. 3]. Các lực lượng ñược chia làm ba mũi tấn công vào thị xã, trong

ñó mũi thứ ba “do các ñại ñội ñịa phương phối hợp với du kích ñược lùng vào các

khu phố ñể chiếm dần” [65, tr. 3]. Lực lượng du kích tham gia cuộc Tổng tiến công

là hơn 1.200 người.

Đóng góp nổi bật của hoạt ñộng du kích chiến tranh ở thị xã Buôn Ma Thuột

trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 thuộc về lực lượng hoạt

ñộng nội tuyến. Hoạt ñộng nội tuyến là hình thức ñánh ñịch ñơn tuyến, hoàn toàn bí

mật. Các chiến sĩ nội tuyến nằm ngay trong các ñơn vị, cơ quan của chính quyền Sài

(1) Điều này ñược phản ánh thông qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn. Phiếu trình Tổng thống số

7215/NA/CT/M, ngày 24-8-1962 của Tỉnh trưởng Đăk Lăk về hoạt ñộng của Trung tâm huấn luyện biệt kích

EA-NAO ñã cho biết sự lo lắng của ban lãnh ñạo Trung tâm việc Việt cộng bí mật tung ñội nội tuyến hoạt ñộng

Gòn cấp tỉnh ở Đăk Lăk, tạo ñược sự tin tưởng của ñịch. Việc xây dựng cơ sở nội tuyến ñã ñược Đảng bộ Đăk Lăk tiến hành từ năm 1962 (1).

51

Năm 1966 - 1967, nhiều cán bộ cốt cán của cách mạng ñược phân công móc

nối vào các cơ quan ñầu não ñịch, hình thành một mạng lưới cơ sở nội tuyến quan trọng (1). Chính tài liệu của VNCH thừa nhận công tác nội tuyến của ta ñã ñược triển

khai trong các cơ quan chính quyền ñịa phương ñể nắm bắt tình hình ñịch. Báo cáo

Nguyệt ñể “A”, tháng 12 - 1966 của Toà hành chính tỉnh Đăk Lăk cho biết: “Chúng

còn lợi dụng phong trào tỵ nạn cộng sản cho cán bộ len lỏi vào ñể hoạt ñộng nội

tuyến và ngấm ngầm sách ñộng tinh thần ñấu tranh trong tương lai” [103, tr. 2].

Tiếp theo, Báo cáo Nguyệt ñể “A”, tháng 2 - 1967 viết: “Theo cung khai của một số

cán bộ Việt cộng thì chúng ñã và ñang cho một số cán bộ trung kiên ra giả dạng hồi

chánh ñể sống hợp pháp hầu dễ bề liên lạc hoạt ñộng gây cơ sở và dò la tình hình

của ta, hoặc xin vào làm tại các công sở chính quyền ñể làm nội tuyến” [105, tr. 2].

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, lực lượng nội

tuyến ñã báo cáo tin tức hành quân, tác chiến của ñịch, vẽ bản ñồ các vị trí ñóng

quân, vị trí hoả lực của các căn cứ ñịch tại thị xã Buôn Ma Thuột. Ngày 18 - 1 - 1968, cơ sở nội tuyến Nguyễn Luyện thực hiện vụ nổ tại kho Mai Hắc Đế (2), “ñánh

ở Trung tâm. “… Vì thiếu kiểm soát an ninh nên ñịch có thể tung ñội nội tuyến ñể phá hoại trong tương lai như

trường hợp ñã xảy ra tại Buôn Tang AP.770.937 và Buôn Chư AP.798.921 ñêm 19-5-1962” [82, tr. 3]. Qua ñó,

Trung tâm EA-NAO phải “ñiều tra số ñồng bào thượng ñã ñược võ trang và ñang tập trung tại Trung tâm EA-

NAO ñể gạn lọc các phần tử tay sai nội tuyến cho Việt Cộng” [82, tr. 7]. (1) Cở sở nội tuyến năm 1966 ñã có ở Sư bộ 23, Tiểu khu Đăk Lăk, kho Mai Hắc Đế, Tiểu khu ñoàn thám

kích, Khu thiết giáp, Sở chỉ huy Trung ñoàn 45, xã Lạc Giao và một số ấp. (2) Kho Mai Hắc Đế là kho ñạn lớn nhất Tây Nguyên lúc bấy giờ, nằm ở phía Tây Nam thị xã, cách Sư ñoàn

bộ 23 gần 1km. Do nhu cầu tăng cường tiềm lực quân sự cho Buôn Ma Thuột và ñể tránh bị thiệt hại lớn

trước các cuộc tấn công của quân dân các tỉnh ven biển miền Trung, tháng 12-1967, ñịch vận chuyển thêm

hàng ngàn tấn bom ñạn từ Nha Trang lên dự trữ ở ñây.

Về cấu trúc, kho Mai Hắc Đế là một hệ thống hầm ngầm kiên cố liên hoàn nằm chìm dưới mặt ñất.

Bên trên ñược ñắp bêtông thành từng dãy cao, gây khó khăn cho các loại ñạn cối và pháo mặt ñất của ta tấn

công từ xa. Xung quanh căn cứ là một hệ thống gồm nhiều lớp kẽm gai dày ñặc, có lính tuần tra canh gác

nghiêm ngặt suốt ngày ñêm. Với hệ thống cấu trúc và bố phòng nghiêm ngặt của kho Mai Hắc Đế, ta không

thể ñánh bằng bộ binh. Lần này phương án tối ưu nhất ñược Thường vụ Tỉnh uỷ nhất trí là dùng nội tuyến

ñánh bằng chất nổ, người thực hiện là ñồng chí Nguyễn Luyện – cơ sở cách mạng trong lực lượng sửa chữa

quân cụ của kho Mai Hắc Đế.

sập 12/16 nhà kho liên hoàn, phá hủy 4.000 tấn bom ñạn” [53, tr. 53].

52

Hơn một tuần sau, ngày 26 - 1 - 1968, cơ sở Nguyễn Sen tại Sư bộ 23 (1)

“ñánh sập phòng họp chỉ huy hành quân, diệt 50 tên sĩ quan, binh lính ñịch, gây

kinh hoàng trong hàng ngũ ñịch” [53, tr. 53]. Sau trận ñánh này, Nguyễn Sen chạy

ra căn cứ Ea Na an toàn và báo cáo tình hình cho Sở chỉ huy tiền phương của ta rồi

hôm sau dẫn ñường cho bộ ñội vào ñánh ñịch ở trong thị xã.

Ngoài những vụ nổ bất ngờ, táo bạo trên hoạt ñộng của lực lượng tự vệ mật

còn gây cho ñịch nỗi hoang mang, khiếp sợ. Nguyễn Hữu Trí - nguyên Thiếu tá

ñịch vận trong KCCM, người trực tiếp tham gia hoạt ñộng nội tuyến trong Mậu

Thân 1968 cho biết: “Nhiều tên ác ôn, mật vụ, chỉ ñiểm lợi hại bị trừng trị ñích

ñáng, trong ñó có tên Trung tá tham mưu trưởng Sư ñoàn 23, tên Ấn - tình báo

Mỹ... Quán cà phê Trúc, rạp chiếu bóng Lô Đô - nơi bọn sĩ quan thường lui tới cũng

bị ñánh mìn và lựu ñạn. Tình hình ñó khiến một số tên ác ôn ban ñêm không dám

ngủ tại nhà, mà phải ngủ tập trung ở khu quân sự ” [67, tr. 39].

Phối hợp với bộ ñội ñánh ñịch, ở các huyện, du kích cũng ñồng loạt tiến

công. Tại huyện H4, du kích ñánh chốt Buôn Hồ, khu dồn Đạt Hiếu, Buôn Trinh.

Huyện H5, du kích ñánh chiếm khu dồn Buôn Triă, phá khu dồn Quảng Nhiêu. Du

kích Huyện H6 ñánh chiếm khu Trung Hoà. Lực lượng Tiểu ñoàn công binh 312

và du kích các huyện ra phá ñường, cầu cống, chặn ñánh giao thông, diệt ñược

một số xe ñịch. Những hoạt ñộng ñánh phá của du kích H1 buộc chính quyền Sài

Gòn phải ñiều “một Trung ñoàn 45 nguỵ về lập các ñiểm chốt tại Khánh Dương

ñến Cư Kúc ñể ñối phó với du kích” [6, tr. 103], ñồng thời chúng phải huy ñộng

“1 Tiểu ñoàn quân Nam Triều Tiên lên chốt tại ñèo Phượng Hoàng ñể bảo vệ cho

các ñoàn xe tiếp tế của chúng từ Khánh Hoà lên Buôn Ma Thuột ñược an toàn khi

(1) Sáng ngày 26-1-1968, Trung sĩ Nguyễn Sen lái xe chở Trung tá trưởng phòng hành quân Sư ñoàn 23 ñến

Sư ñoàn bộ chủ trì cuộc họp chuẩn bị hành quân càn quét vùng căn cứ. Khi sĩ quan của phòng tham mưu

và các ñơn vị trực thuộc có mặt ñầy ñủ, ñồng chí Nguyễn Sen bóc một cây thuốc Rubi mời hết lượt từng

người. Sau ñó ñồng chí ñặt cây Rubi còn lại trên bàn nước, Nguyễn Sen rời phòng họp lên xe ra khỏi Sư

ñoàn. Mười lăm phút sau, khi chiếc xe Jeep mang bảng hiệu “Đại Bàng” lọt qua khỏi vọng gác cuối cùng

trên Đường 14, một tiếng nổ lớn phát ra từ cây thuốc Rubi, ñánh sập hoàn toàn tầng nhà nơi bọn sĩ quan

ñang họp.

qua ñèo” [6, tr. 103].

53

Bên cạnh hoạt ñộng vũ trang, lực lượng du kích còn có vai trò quan trọng hỗ

trợ quần chúng ñấu tranh chính trị trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân

(1968). Đoàn ñấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân gồm 18.000 người, trong

ñó ở cánh Bắc trên 6.000 người, phần lớn là ñồng bào các huyện H3, H4, H5, ở

cánh Nam có 2.500 người cả Kinh, Thượng ở huyện H10 và vùng ven thị xã H6.

Đông nhất và quyết liệt nhất là cánh Đông với 9.000 người, gồm ñồng bào Kinh ở

các khu dinh ñiền ñã ñược giải phóng và ñồng bào dân tộc M’Nông huyện H8, H9.

Tài liệu hoạt ñộng của các ñồng chí Nguyễn Lý và Nguyễn Thị Hoa, du kích

xã Khuê Ngọc Điền trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước của Ty Thông tin văn hoá,

Phòng Bảo tồn Bảo tàng, tỉnh Đăk Lăk cho biết: Cuộc hành quân của nhân dân các

xã của huyện H9 và ñội du kích bắt ñầu lúc 1h chiều ngày 28 Tết (tức ngày 27 - 1 - 1968), ñi theo ñường mòn ñể ñến cơ sở Từ Cung (1). Ngày mùng 1 Tết, ñoàn ñến ñồn ñiền CADA(2), du kích cung cấp gạo ñể ñồng bào nấu ăn. Đến 1giờ sáng Mùng

4 Tết, về ñến Buôn Kô Tam (cách thị xã Buôn Ma Thuột 15 km), ñoàn dừng lại

củng cố ñội hình, Trung ñội binh vận ñi trước ñể kêu gọi binh lính ñịch không bắn

vào ñoàn ñấu tranh; ñồng bào các dân tộc Kinh - Thượng ñi sau xen kẽ nhau, tổ

chức từng xã theo 4 hàng dọc. Quân ñịch thấy khí thế của ñồng bào lên cao liền bắn

xối xả vào ñoàn ñấu tranh, thậm chí chúng còn dùng ñến cả ñại liên. Tình hình diễn

ra căng thẳng, tuy nhiên người trước ngã xuống, người sau ñứng lên, ñoàn ñấu tranh

tiếp tục tiến tới. Má Hai - Người mẹ du kích Khuê Ngọc Điền - vác cờ Mặt trận ñi

ñầu, ñịch bắn Má bị thương, nhưng Má vẫn tiếp tục ñi tới. Đứng trước họng súng

ñại liên của quân Mỹ “lòng căm thù ñã giúp Má có thêm sức mạnh, Má ñạp tên Mỹ

ngã lăn ra”. Chị Bạn ôm con ñi ñấu tranh, ñịch bắn chết con, chị “ñau xót ñặt con

bên ñường, ñắp vội cho nó chiếc khăn quàng rồi ùa vào dòng người tiến lên phía

trước”. Anh Bùi Thế Châu “lao lên lấy thân mình bịt nòng súng trung liên của ñịch

ñể ñồng bào ñi qua”. Một số du kích khác làm nhiệm vụ liên lạc ñể tạo sự thống

nhất chung của ñoàn. Đoàn vượt qua ñược bốt ñịch ở Buôn Kô Tam và tiếp tục lên

ñến gần Ngã ba Hoà Bình (cách Buôn Ma Thuột 7km). Tuy nhiên, với quyết tâm

ngăn chặn bằng ñược ñoàn ñấu tranh của nhân dân, ñịch ñã cho trực thăng bắn xối (1) Xã Cư Bao, huyện Krông Buk ngày nay. (2) Trung tâm thị trấn Phước An ngày nay.

54

xả vào ñoàn người. Trước tình hình ác liệt ñó, 5h chiều cùng ngày du kích tổ chức ñồng bào chạy ra rừng cà phê và tìm cách ñưa ñồng bào trở lại Từ Cung (1).

Trên hướng Bắc, ñoàn biểu tình của xã Dlei Ya “có 60 du kích, trong ñó 25 nữ

cùng với 300 ñồng bào, không kể già trẻ, gái trai...vũ trang bằng cờ, khẩu hiệu, súng

ñạn, giáo mác, gậy gộc kéo vào quận lỵ Phú Nhơn. Khi ñoàn biểu tình kết thành ñội

ngũ rầm rập tiến vào quận lỵ, bọn ñịch dùng 3 xe tăng, 1 tiểu ñoàn bộ binh và một số

cảnh sát ra chặn ñường. Địch nổ súng vào ñoàn biểu tình làm một số người bị chết và

bị thương, 3 du kích ngã xuống. Cuộc biểu tình bị chúng ñàn áp ñẫm máu. Ác liệt

hơn chúng dùng 6 máy bay trút hàng trăm quả bom xuống ñoàn biểu tình... Căm phẫn

cao ñộ ñồng bào cùng với du kích lao lên ñánh chết một cố vấn Mỹ” [66, tr. 5].

Các cuộc ñấu tranh chính trị của quần chúng trong cuộc Tổng tiến công và

nổi dậy Mậu Thân (1968) ở Đăk Lăk một lần nữa khẳng ñịnh tinh thần dũng cảm,

kiên cường, bất khuất của ñồng bào các dân tộc Đăk Lăk. Để có ñược những thành

công trong phong trào này, không thể không nói ñến vai trò của lực lượng du kích

buôn xã. Là lực lượng tiếp thu chủ trương của Đảng bộ tỉnh, du kích cùng với lực

lượng vũ trang huyện ñã tổ chức, hỗ trợ nhân dân ñấu tranh; những du kích dũng

cảm, kiên cường không khiếp sợ quân Mỹ, không sợ hi sinh, luôn ñi ñầu ñoàn ñấu

tranh, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng của ñồng bào các dân tộc Tây

Nguyên. Chính những tấm gương dũng cảm của du kích như Má Hai, anh Châu, chị

Bạn ñã làm tăng ngọn lửa nhiệt huyết ñấu tranh của ñồng bào các dân tộc Đăk Lăk.

Đánh giá ñóng góp của lực lượng du kích trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy

Mậu Thân 1968 ở Đăk Lăk, Thường vụ Tỉnh ủy Đăk Lăk khẳng ñịnh: “Lực lượng

huyện và du kích chấp hành nghiêm chỉnh kế hoạch hiệp ñồng, ñánh ñầu, ñánh lên

tục, diệt ñược nhiều ñịch, phá nhiều phương tiện chiến tranh. Du kích, ñội công tác

diệt ác phá kiềm, hỗ trợ quần chúng tốt hơn” [16, tr. 96].

Sau ñợt 1, phong trào ñấu tranh chính trị tuy có bị tổn thất nhưng khí thế vẫn

vững vàng. Các xã, buôn tăng cường củng cố thế trận bố phòng, phát ñộng nhân dân

tập trung sản xuất ñể giải quyết lương thực bị thiếu hụt sau cuộc Tổng tiến công.

(1) Phỏng vấn Phạm Ngọc Sơn, Phó Giám ñốc Bảo tàng Tỉnh Đăk Lăk– nguyên là liên lạc viên tham gia ñoàn ñấu tranh chính trị cánh Đông Mậu Thân 1968 ở Đăk Lăk.

Tháng 5 - 1968, Tỉnh ủy ra Nghị quyết về phong trào chiến tranh du kích,

55

trong ñó chỉ rõ: “Các lực lượng vũ trang tỉnh ñẩy mạnh phong trào du kích chiến

tranh, ñưa du kích chiến tranh vào vùng yếu, vùng xung yếu và thị xã, hoạt ñộng sâu

vào nội thị, xây dựng lại cơ sở trong thị xã ” [15, tr. 123]. Thực hiện Nghị quyết của

Tỉnh ủy, lực lượng cách mạng trở về bám vùng ven ñể vừa củng cố lực lượng vừa giữ

thế tiến công, tiếp tục ñánh vào thị xã Buôn Ma Thuột. Đội du kích, tự vệ mật ở các

căn cứ lõm (Đạt Lý 2, Ea Na, Quảng Nhiêu...) làm tốt chức năng chống càn. Từ ñó,

các căn cứ lõm và các buôn vùng ven cánh Nam, cánh Đông ñã tạo thành một hành

lang quan trọng vây sát thị xã. Đây trở thành bàn ñạp ñể các ñội công tác thọc sâu vào

nội thị hoạt ñộng. Về phía ñịch cũng ñã nhận thấy những cố gắng mới của ta. Tờ trình

Nguyệt ñể “A” tháng 9 - 1968 của Toà hành chính tỉnh Đăk Lăk cho biết: “Xuyên

qua các tin tức ghi nhận thì ñịch vẫn mưu mô tập trung lực lượng, chờ cơ hội ta sơ hở

ñể tấn công các quận lỵ và tỉnh lỵ hầu gây tiếng vang, làm hậu thuẫn cho hoạt ñộng

chính trị của chúng trong cuộc hội ñàm Pari” [106, tr. 2].

Tại thị xã Buôn Ma Thuột ñịch phải tăng cường việc rào ấp và ñẩy mạnh

công tác huấn luyện quân sự cho nhân dân tự vệ nhằm ngăn chặn sự “xâm nhập

khuấy rối” của ta. Chính tài liệu của ñịch tiết lộ: “Riêng tại Thị xã, việc rào ấp ñể

ngăn chặn sự xâm nhập khuấy rối của ñịch cũng ñã thực hiện xong ñược 2.000

thước. Thêm vào ñó, công tác huấn luyện quân sự các toán nhân dân tự vệ toàn tỉnh

gồm 4.000 ñoàn viên ñã ñược tổ chức long trọng tại sân vận ñộng Ban Mê Thuột ”

[106, tr. 2].

Trước tình trạng một số ñơn vị hành chính “bất ổn về an ninh” chúng buộc

phải xây dựng tổ chức “Ngũ gia liên bảo” ñể bảo vệ khóm, ấp. Hơn nữa, chúng còn

phải huy ñộng các ban ngành trong tỉnh ñể các tổ chức này ñạt hiệu quả. Điều này

ñã ñược ñịch thừa nhận: “Ủy ban Nhân dân tự vệ Đăk Lăk ñã cho ñoàn công tác

hỗn hợp gồm nhân viên, cán bộ thuộc các ngành: Thông tin, Thanh niên, Cảnh sát,

Nghĩa quân và các viên chức hỗ trợ cho tổ chức “Ngũ gia liên bảo” ñạt kế hoạch

bảo vệ khóm, ấp có hiệu quả hơn” [106, tr. 2]. Kết thúc năm 1968, lực lượng huyện

và du kích diệt 2.712 tên, trong ñó có 56 tên Mỹ, bắn rơi và phá hủy nhiều máy bay

và phương tiện chiến tranh của ñịch.

Giai ñoạn 1965 - 1968 là giai ñoạn cuộc chiến tranh xâm lược của ñế quốc

Mỹ lan rộng ở cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam với tính chất và mức ñộ ác liệt.

56

Trong tình hình ñó, Đảng ta ñã nêu cao quyết tâm chống Mỹ và tiếp tục phương

châm ñánh lâu dài, giành thắng lợi từng bước. Dưới sự lãnh ñạo của Trung ương

Đảng, “phải ñẩy mạnh chiến tranh du kích tiêu hao, tiêu diệt ñịch khắp nơi”, phong

trào chiến tranh du kích ở Đăk Lăk ñã ñạt thắng lợi to lớn. Chiến tranh du kích ñã

góp phần tiêu hao, tiêu diệt sinh lực ñịch, qua ñó cùng với quân dân trong tỉnh làm

thất bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Đặc biệt, phong trào du kích vùng

ven thị xã Buôn Ma Thuột phát triển mạnh mẽ ñã hỗ trợ có hiệu quả các cuộc ñấu

tranh chính trị của quần chúng.

57

Chương 3

ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA LỊCH SỬ

VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

3.1. ĐẶC ĐIỂM

3.1.1. Kiên trì bám trụ và chủ ñộng tiến công ñịch

Trong chiến tranh chỉ có kiên trì tiến công mới hình thành ñược thế mạnh,

giữ vững và mở rộng quyền chủ ñộng, ñẩy ñịch vào thế yếu, thế bị ñộng. Lênin ñã

khẳng ñịnh: “Đứng trên quan ñiểm vô sản thì bá quyền lãnh ñạo trong chiến tranh

thuộc về bên nào kiên trì hơn cả, bên nào lợi dụng mọi cơ hội ñể tiến ñánh kẻ thù”

[69, tr. 220]. Tiến công là quy luật giành thắng lợi của cách mạng và chiến tranh

cách mạng ở nước ta, trước bất kỳ một kẻ thù nào. Nắm vững tư tưởng kiên quyết

thực hành chiến lược tiến công, chiến tranh du kích Đăk Lăk giai ñoạn chống chiến

lược “chiến tranh cục bộ” thể hiện rõ ñặc ñiểm kiên trì bám trụ và chủ ñộng tiến

công ñịch mọi lúc mọi nơi.

Tham gia chiến tranh du kích ña số là nhân dân, ñồng bào các dân tộc tại

chỗ. Họ tham gia ñấu tranh ñánh ñuổi ñế quốc Mỹ ñể bảo vệ chính buôn làng quê

hương của họ. Do ñó, dù cuộc kháng chiến có ác liệt, lực lượng dân quân du kích,

nhân dân trong buôn làng vẫn quyết tâm “một tấc không ñi, một ly không rời”. Cuối

năm 1966, ñế quốc Mỹ tăng cường càn quét, ñánh phá, kêu gọi chiêu hàng, chiêu

hồi. Chúng ném bom, bắn phá vào bất kỳ mục tiêu lớn nhỏ nào. Đặc biệt, “lần ñầu

tiên Mỹ dùng máy bay B52 thả bom hủy diệt, trong năm 1968 ñã 12 lần rải chất ñộc

vào vùng căn cứ” [3, tr. 94]. Kế hoạch triệt phá các căn cứ ñịa cách mạng ở Tây

Nguyên của VNCH tiết lộ: “Dùng không quân quan sát và hướng dẫn phi cơ rải

thuốc phá tất cả hoa màu, rẫy lúa trong vùng” [102, tr. 7]. Do ñó, ñời sống nhân dân

vùng căn cứ ñịa gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dầu vậy, du kích ñã cùng với nhân dân

vẫn kiên trì bám trụ, vượt qua mọi khó khăn ñể ñánh ñịch. “Vùng căn cứ, du kích

kiên trì bám trụ, ñịch ñến thì ñánh, ñịch lui lại sản xuất” [14, tr. 27]. Bộ Chỉ huy

quân sự tỉnh Đăk Lăk thừa nhận về tinh thần bám trụ của du kích trong KCCM:

“Địch càng ñánh phá tàn bạo bao nhiêu thì bản lĩnh chiến ñấu của cán bộ, du kích

58

càng vững vàng bấy nhiêu, một lòng bám ñất, bám dân chiến ñấu” [16, tr. 155].

Đội du kích xã Dlei Ya ñược Đảng bộ Đăk Lăk tuyên dương là “ngọn cờ

kiên trinh, bất khuất, ñánh giặc giữ nước”. Du kích Dlei Ya dù gặp rất nhiều khó

khăn nhưng vẫn luôn kiên trì bám ñánh ñịch liên tục, từ ñó giành ñược nhiều thắng

lợi. “Năm 1965, ñịch tăng cường số lượng bom ñạn và chất ñộc hoá học; chúng trút

xuống xã Dlei Ya càng ngày một nhiều thêm, mật ñộ càn quét cũng ngày càng tăng,

chiến tranh càng ác liệt. Song du kích vẫn quần bám ñịch liên tục, ñã bẻ gãy nhiều

mũi tấn công của ñịch” [66, tr. 2].

Chiến tranh du kích ở Đăk Lăk giai ñoạn chống chiến lược “chiến tranh cục

bộ” luôn chủ ñộng tiến công ñịch. Ở vùng giải phóng, khi chưa có ñịch, du kích tập

trung củng cố buôn xã củng cố thế trận phòng thủ, bố phòng, xây dựng làng chiến

ñấu, cùng nhân dân sản xuất, cất giấu lương thực, chuẩn bị nơi sơ tán nhân dân khi

có chiến sự. Khi ñịch ñến, du kích bám chắc ñịch, tìm chỗ sơ hở hoặc lừa ñịch vào

thế trận bố phòng ñã làm sẵn ñể tiêu hao, tiêu diệt sinh lực ñịch và phương tiện

chiến tranh. Du kích và tự vệ mật ở vùng tranh chấp và trong ñô thị tổ chức thành

các ñơn vị nhỏ lẻ, trang bị gọn, chủ ñộng và bí mật tiêu diệt những tên ác ôn trong

bộ máy quân ñội và cơ quan chính quyền Sài Gòn ở Đăk Lăk.

Trong thư gửi Hội nghị dân quân du kích năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh

viết: “Chiến thuật du kích là phải luôn luôn giữ quyền chủ ñộng, phải tìm ñịch mà

ñánh, phải luôn khuấy rối ñịch” [77, tr. 78]. Thực hiện lời dạy của Hồ Chủ tịch, dân

quân du kích Đăk Lăk trong giai ñoạn chống chiến lược “chiến tranh cục bộ” ñã

luôn chủ ñộng tiến công ñịch, làm cho quân Mỹ và QĐSG ăn không ngon, ngủ

không yên, ñi ñến ñâu cũng bị du kích ñánh.

Để xây dựng tinh thần kiên trì bám trụ và chủ ñộng tiến công ñịch trong

phong trào du kích chiến tranh ở Đăk Lăk, công tác giáo dục tư tưởng chính trị

ñược Đảng bộ Đăk Lăk tiến hành thường xuyên. Đây là công tác ñược ñặt lên vị trí

hàng ñầu, ñúng như tinh thần chỉ ñạo của Khu ủy V: “Phải tăng cường công tác giáo

dục chính trị tư tưởng cao cho bộ ñội ñịa phương và dân quân du kích, tự vệ, thường

xuyên giáo dục thời sự, chính sách, không ngừng nâng cao quyết tâm ñánh ñịch và

tinh thần tấn công ñịch ” [24, tr. 5].

59

3.1.2. Chiến tranh du kích phát triển trên cả ba vùng, ñặc biệt phát triển

mạnh ở vùng rừng núi

Đăk Lăk là ñịa bàn có cả ba vùng chiến lược: miền núi, nông thôn ñồng bằng

và ñô thị, trong ñó miền núi là ñịa bàn có phong trào cách mạng phát triển sớm và

mạnh hơn cả, trở thành căn cứ ñịa cách mạng vững chắc ñể xây dựng lực lượng và tổ

chức hậu cần. Vùng Bắc Buôn Hồ có căn cứ Dlei Ya và vùng phía Nam Buôn Ma

Thuột có căn cứ H9. Từ hai khu căn cứ cách mạng này phong trào chiến tranh du kích

có ñiều kiện phát triển mạnh, thường xuyên khuấy rối, tiêu diệt ñịch. Điều này ñã

ñược thừa nhận trong Nguyệt trình của Bộ Nội vụ VNCH về tình hình an ninh chính

trị từng ñịa phương trong toàn quốc năm 1964: “Địch tăng gia hoạt ñộng tại vùng Bắc

và Đông Bắc quận Buôn Hồ và vùng Nam Ban Mê Thuột, 2 vùng tương ñối xung

yếu, thường bị uy hiếp” [94, tr. 25], hoặc “ñịch ñã lợi dụng các sơ hở ñịa phương,

tăng gia quấy rối tại vùng Nam Ban Mê Thuột và Đông Bắc Buôn Hồ” [94, tr. 25].

Trên ñịa bàn rộng lớn từ căn cứ kháng chiến phía Bắc ñến căn cứ phía Nam,

quân và dân trong tỉnh phát ñộng toàn dân dựa vào ñịa hình hiểm trở của núi rừng

lập các tuyến bố phòng hỗn hợp (vũ khí thô sơ và vũ khí chất nổ) tự ñộng hoặc có

người ñiều khiển kết hợp với xây dựng công sự chiến ñấu. Chính tài liệu của chính

quyền Sài Gòn cho biết: “Trong các khu an toàn của ñịch thường có cảnh giới xa,

gần cùng các chướng ngại vật thiên nhiên hoặc nhân tạo... Những con ñường

thường bị ñặt mìn, gài bẫy, cắm chông” [102, tr. 10]. Mặt khác, du kích chọn những

nơi ñịch có khả năng xâm nhập như ñoạn ñộc ñạo, núi cao, khúc cua khuất tầm nhìn

ñể lập khu bố phòng “chết” ñánh ñịch. Du kích các buôn, xã tổ chức phòng tránh

cho nhân dân bằng cách lập ra các làng bí mật trong rừng sâu, khi bị quân Mỹ và

quân ñội VNCH tấn công thì chuyển nhân dân và tài sản về phía sau. Toàn bộ du

kích ñược huy ñộng ñánh ñịch bằng mọi thứ vũ khí có sẵn như chông thò, bẫy ñá,

ná tên tẩm thuốc ñộc, súng, mìn tự tạo... buộc quân ñịch sa vào thế bị ñộng ñối phó.

Các ñội du kích tiêu biểu cho vùng rừng núi có du kích Dlêi Ya (H4), du kích Khuê

Ngọc Điền (H9), du kích xã 1, 2, 3 (H10)...

Đối với vùng ñồng bằng và ñô thị, du kích và tự vệ mật ñược tổ chức biên

60

chế rất linh hoạt, thành từng tổ, tiểu ñội, trang bị vũ khí gọn nhẹ, “ñánh trúng, rút

nhanh”, bí mật an toàn. Lực lượng này làm nhiệm vụ chủ yếu là nắm chắc âm mưu

ñịch, thủ ñoạn và tình hình mọi mặt của chúng, hỗ trợ nhân dân ñấu tranh, có lúc

diệt ác ôn, cảnh cáo bọn tề ñiệp hoặc diệt những lực lượng nhỏ của ñịch. Đây là

hình thức hoạt ñộng ta biết ñịch mà ñịch không biết ta nên ñánh rất hiểm, ñạt hiểu

quả lớn. Tài liệu của ñịch cay ñắng thừa nhận: “Cán bộ tinh thần bị dao ñộng, cầu

an trước sức tăng gia uy hiếp của ñịch” [95, tr. 1], hay, “nhược ñiểm của ta gần ñây,

trong khi Việt cộng ñã chuyển hướng và tăng cường những hoạt ñộng vũ trang

khủng bố, ám sát lẻ tẻ, có một số cán bộ bước ñầu hoang mang, dao ñộng cầu an...

Xuất hiện thế bị ñộng lúng túng trong sự ñối phó với ñịch nhất là khi Việt cộng mở

những hoạt ñộng vũ trang lẻ tẻ có tính chất du kích chiến” [102, tr. 29].

Chiến tranh du kích Đăk Lăk giai ñoạn chống chiến lược “chiến tranh cục

bộ” phát triển mạnh ở vùng miền núi, vùng giải phóng, vùng căn cứ ñịa cách mạng

cũng là ñi ñúng quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam. Khi thế và lực của

cách mạng chưa lớn mạnh, quân dân ta phải dựa vào ñịa thế hiểm trở của núi rừng,

kéo quân Mỹ lên khu vực nơi mà ta có thế mạnh, còn Mỹ bị hạn chế mà ñánh. Phải

triệt ñể tận dụng ñiều kiện của ñịa hình, từ ñó xây dựng thế trận tiêu diệt ñịch theo

hướng phát huy ưu ñiểm của ta và hạn chế thế mạnh của ñịch. Đúng như ñồng chí

Lê Duẩn nhận ñịnh: “Tác chiến trên chiến trường rừng núi là ñiều bắt buộc ñối với

quân Mỹ, vì ở ñây ưu thế về binh khí, kỹ thuật của chúng ñều giảm hiệu lực, các

nhược ñiểm của chúng dễ bộc lộ. Còn ñối với ta, rừng núi là căn cứ, là nơi lực

lượng quân sự của ta xây dựng hùng hậu, là chiến trường mà ta quen thuộc và có thế

mạnh ñể tiêu diệt cả quân Mỹ lẫn quân nguỵ” [29, tr. 131].

3.1.3. Có sự phối hợp tác chiến chặt chẽ giữa du kích với bộ ñội ñịa

phương và bộ ñội chủ lực

Giai ñoạn 1965 - 1968, chiến tranh du kích ở Đăk Lăk ñược xây dựng rộng

khắp, mỗi xã có từ 1 ñến 2 ñại ñội du kích, thôn buôn xây dựng 1 ñến 2 trung ñội

dân quân du kích với cách ñánh phong phú, bên cạnh ñó còn có sự tham gia của

ñồng bào các dân tộc Tây Nguyên ở khắp mọi nơi. Cho nên quân Mỹ và QĐSG ñi

ñến ñâu cũng vấp phải sự tấn công của du kích, ñó là ñiều khiến Mỹ phải thú nhận

61

“ở ñâu cũng có ñịch”. Dân quân du kích Đăk Lăk chiến ñấu với tinh thần một người

cũng tiến công, tiến công bằng mọi phương tiện, vũ khí, với cách ñánh muôn hình

vạn trạng ñã gây cho ñịch nhiều thương vong, ñồng thời buộc chúng phải dàn mỏng

lực lượng bị ñộng ñối phó.

Lực lượng vũ trang ñứng chân trên ñịa bàn Đăk Lăk giai ñoạn này gồm có bộ

ñội chủ lực của Mặt trận Tây Nguyên và bộ ñội ñịa phương của tỉnh và các huyện.

Cách ñánh của các lực lượng này là dùng một hoặc nhiều ñơn vị tập trung hình

thành những quả ñấm mạnh trong từng trận ñánh hoặc trong từng chiến dịch tiêu

diệt từng ñơn vị, từng căn cứ ñịch, phá vỡ từng mảng hệ thống phòng ngự hoặc phá

tan các mũi tiến công của ñịch. Đây là cách ñánh tiêu diệt góp phần trực tiếp quyết

ñịnh ñánh bại hoàn toàn quân ñịch.

Thực tiễn chiến tranh du kích từ 1965 ñến 1968 của quân dân Đăk Lăk có sự

phối hợp chặt chẽ giữa dân quân du kích với bộ ñội ñịa phương và bộ ñội chủ lực.

Điều này ñã ñược thừa nhận trong Báo cáo Nguyệt ñể “A” tháng 5 - 1967 của Toà

hành chính tỉnh Đăk Lăk: “Qua các cuộc hành quân có chạm súng của ta với quân

ñội... trên lãnh thổ Đăk Lăk kết hợp với những tin tức ghi nhận về phương diện

quân sự ñịch có phối hợp lực lượng chủ lực, ñịa phương, dân quân du kích và

những phần tử võ trang phân chia vùng bám sát các ñồn bốt ta, phục kích trên các lộ

trình ta thường sử dụng hành quân” [103, tr. 6]. Chính nhờ sự khéo léo kết hợp tác

chiến giữa các lực lượng nên ñã tạo sức mạnh tổng hợp ñể giành thắng lợi từng

bước. Đúng như Nghị quyết Hội nghị lần thứ VI Khu ủy V (mở rộng) tháng 3-1967

chỉ ñạo: “Tăng cường về chất lượng và số lượng bộ ñội ñịa phương ñủ sức ñẩy

mạnh tác chiến kết hợp cùng du kích tiêu diệt ñịch chống càn quét, “bình ñịnh”, lấn

chiếm, phá ấp chiến lược, phá kìm kẹp, mở rộng vùng giải phóng, giữ vững thế làm

chủ của ta, tạo ñiều kiện cho chủ lực chủ ñộng tác chiến, ñồng thời trở thành lực

lượng trực tiếp bổ sung cho chủ lực” [37, tr. 575].

Bộ ñội tỉnh, huyện và du kích ñều là lực lượng quan trọng của chiến tranh

nhân dân ñịa phương. Trong ñó, bộ ñội tỉnh, huyện là lực lượng cơ ñộng, du kích là

lực lượng tại chỗ. Bộ ñội huyện có nhiệm vụ phối hợp với bộ ñội tỉnh và du kích

ñánh ñịch càn quét, giữ thế làm chủ của huyện, từng lúc hiệp ñồng với chiến trường

62

chung ñánh vào vùng ñịch hoặc kìm chân, căng kéo ñịch tạo cho quân chủ lực diệt

ñịch. Du kích H9 có nhiều trận kết hợp tác chiến cùng Tiểu ñoàn 301 trên Đường

21. Du kích Dlêi Ya phối hợp tác chiến cùng Đại ñội bộ binh 303, V67... Kết thúc

năm 1967, lực lượng du kích Đăk Lăk tham gia ñánh 61 trận/117 trận của lực lượng

vũ trang tỉnh, trong ñó ñộc lập tác chiến 17 trận, phá 12 ấp chiến lược, diệt 14 tên

ñịch, làm bị thương 29 tên, bắn rơi và bị thương 6 máy bay [15, tr. 108]. Phần lớn

số trận ñánh của phong trào chiến tranh du kích là sự phối hợp tác chiến của dân

quân du kích với bộ ñội ñịa phương và bộ ñội chủ lực.

Trong hoạt ñộng ñánh phá giao thông, sự kết hợp tác chiến giữa du kích các

huyện với lực lượng công binh là rất nhịp nhàng, phục vụ ñắc lực mục ñích phá hoại

giao thông, tiêu diệt xe cơ giới, ngăn sự chi viện ứng cứu của Mỹ. Năm 1967, du kích

các huyện H4, H5, H8, H9, H10 có tuyến giao thông thuận lợi ñã phối hợp với các tổ

công binh huyện, tỉnh làm nhiệm vụ ñào phá ñường, phá cầu. Trung bình mỗi xã, du

kích ñào từ 500 ñến 1000m ñường, phá 1 - 2 cây cầu và diệt 3 xe cơ giới. Trong cuộc

Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân (1968), Đại ñội công binh 312 và du kích các

huyện ñã phá ñường, cầu cống, chặn ñánh giao thông và phá hủy ñược một số xe ñịch.

Sự hiệp ñồng chặt chẽ và thống nhất giữa các lực lượng trên chiến trường tạo

thành sức mạnh tổng hợp quan trọng, từ ñó hình thành một lực lượng bao gồm ñầy ñủ

các mặt chiến ñấu và phục vụ chiến ñấu, ñảm bảo ñánh thắng ñịch trong mọi tình

huống. Dân quân du kích Đăk Lăk ñã làm tốt nhiệm vụ ñánh, căng kéo và dàn mỏng

lực lượng ñịa phương của ñịch, tạo ñiều kiện bộ ñội chủ lực ta tiến công tiêu diệt chủ

lực ñịch. Chính sự kết hợp tác chiến chặt chẽ, nhịp nhàng giữa dân quân du kích, bộ ñội

ñịa phương và bộ ñội chủ lực ñã giúp cho Đăk Lăk giữ vững thế trận và tạo ra ñược

chỗ ñứng cho các lực lượng kháng chiến, trên cơ sở ñó, mở ñược những chiến dịch lớn

trên ñịa bàn. Đúng như Quân ủy Trung ương ñã tổng kết từ thực tiễn chiến trường miền

Nam: “Đẩy mạnh chiến tranh du kích ñến trình ñộ cao, phối hợp tác chiến giữa dân

quân du kích, bộ ñội ñịa phương và một bộ phận quân chủ lực” [69, tr. 233].

3.2. Ý NGHĨA LỊCH SỬ

3.2.1. Chiến tranh du kích góp phần làm phá sản chiến lược “chiến tranh

cục bộ” của Mỹ ở Đăk Lăk

63

Chiến tranh du kích góp phần ñánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của

Mỹ trên chiến trường Đăk Lăk ñược thể hiện sinh ñộng và cụ thể:

- Góp phần ñánh bại các cuộc càn quét và “bình ñịnh”

Ở vùng giải phóng, vùng căn cứ ñịa cách mạng, Mỹ và quân ñội ñịa phương

VNCH thường mở các cuộc càn quét lớn nhằm “tìm diệt” các ñơn vị chủ lực của

tỉnh và Mặt trận Tây Nguyên, ñánh phá triệt hạ kinh tế vùng căn cứ, vùng giải

phóng, xúc tát dân về các trại tập trung. Chiến lược “bình ñịnh” của Mỹ cũng nhằm

ñánh vào cơ sở và giành dân ở nông thôn. Để ñánh bại âm mưu này, Đảng bộ Đăk

Lăk ñã kịp thời phát ñộng phong trào “ba bám”: “Đảng bám dân, dân bám ñất, du

kích và bộ ñội bám ñịch”, kiên quyết ñánh bại các cuộc càn quét, “bình ñịnh” của

ñịch. Ở vùng giải phóng, vùng căn cứ, phong trào chiến tranh du kích phát ñộng

nhân dân xây dựng làng chiến ñấu, hầm trú ẩn, hầm bí mật; bố phòng vũ khí tự tạo,

vũ khí chất nổ, phục kích những nơi ñịch hành quân, xâm nhập. Các biện pháp trên

ñã ngăn chặn có hiệu quả các cuộc càn quét, “bình ñịnh” của ñịch. Đánh giá vai trò

của du kích trong việc giữ dân, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk viết: “Du kích ñã

giữ vai trò quan trọng và quyết ñịnh ñến việc giữ dân, giữ vững vùng giải phóng”

[16, tr. 75], hoặc “du kích vùng nào cũng diệt ñược ñịch, bảo vệ dân, bảo vệ ñược

vùng căn cứ” [16, tr. 76].

- Chống chiến tranh gián ñiệp

Chiến tranh gián ñiệp là một bộ phận của chiến tranh xâm lược ñược Mỹ và

VNCH ñặc biệt quan tâm phát triển. Ngay từ năm 1962, Mỹ ñã xây dựng Trung tâm

EA - NAO ở thị xã Buôn Ma Thuột ñể huấn luyện biệt kích. Chính quyền Ngô Đình

Diệm tiết lộ: “ Lực lượng yểm trợ (biệt kích) thường ñược tung vào các vùng bất an

ninh ñể tìm, bám sát và tiêu diệt ñịch bằng du kích chiến” [82, tr. 1- 2]. Hơn nữa,

Mỹ còn lợi dụng và củng cố tổ chức phản ñộng FULRO, thông qua tổ chức này ñể

tung gián ñiệp, biệt kích, thám báo vào vùng ta làm chủ, móc nối với bọn phản ñộng

tại chỗ, tiến hành ñánh phá các hoạt ñộng phá hoại hậu phương cách mạng, chỉ ñiểm

cho không quân, pháo binh, bộ binh ñánh phá. Quân dân Đăk Lăk dựa vào thế trận

chiến tranh du kích ñể chống chiến tranh gián ñiệp có hiệu quả. Đồng bào các dân

tộc thiểu số thường xuyên ñược giáo dục ý thức cảnh giác cách mạng. Từ ñó, họ trở

64

thành lực lượng phát hiện, khống chế và quản lý các ñối tượng nghi vấn mới xâm

nhập vào ñịa phương. Hơn nữa, họ còn tham gia truy bắt kịp thời những tên gián

ñiệp, biệt kích, thám báo nằm vùng ñể làm trong sạch nội bộ nhân dân. Địch ñã

nhận thấy du kích ñịa phương Đăk Lăk bám sát các buôn, ấp ñể tuyên truyền cách

mạng. Báo cáo Nguyệt ñể “A” tháng 2-1967 của Toà hành chính tỉnh Đăk Lăk viết:

“Các toán võ trang, du kích ñịa phương di chuyển xâm nhập bám sát các buôn ấp

vùng xôi ñậu, kém an ninh ñể tuyên truyền ñề cao Mặt trận giải phóng miền Nam ”

[105, tr. 2]. Báo cáo Nguyệt ñể “A” tháng 11-1967 cho biết thêm: “Đơn vị võ trang

của ñịch từ cấp tiểu ñến trung và ñại ñội vẫn thường xuyên bám sát các buôn, ấp

kém an ninh ñể tuyên truyền, thu góp lương thực, bắt cán bộ thôn ấp, thanh niên

mang gạo ñi vào mật khu ñể huấn luyện” [105, tr. 1].

- Đánh bại chiến thuật “trực thăng vận”

Chiến thuật “trực thăng vận” ñược Mỹ và VNCH sử dụng trong các cuộc

hành quân tìm diệt ñể cơ ñộng lực lượng nhanh chóng, hình thành các mũi bao vây,

vu hồi bên sườn, phía sau ñối phương. Địch còn sử dụng chiến thuật này trong các

cuộc vận chuyển tiếp tế, chuyên chở thương binh, thả và bốc biệt kích vào sâu vùng

căn cứ cách mạng, hoặc trong các phi vụ tuyên truyền chiến tranh tâm lý. Trên thực

tế những năm 1966-1968, quân Mỹ ñã liên tục cho trực thăng ñánh phá vùng căn cứ

H9, H10, H5. Độc ác hơn, chúng còn cho máy bay rải chất ñộc hoá học, hủy diệt

hoa màu của nhân dân ñể triệt phá cơ sở kinh tế cách mạng. Dưới sự lãnh ñạo của

Đảng bộ Đăk Lăk, du kích các xã, buôn ñã nghiên cứu quy luật hoạt ñộng của trực

thăng ñịch, dùng súng trường bắn rơi nhiều máy bay, mở ra phong trào bắn máy bay

trong tỉnh. Chiến tranh du kích vùng giải phóng ñã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

“kiên quyết trừng trị máy bay trinh sát L19 và máy bay ñi thả chất ñộc hoá học”

[22, tr. 3].

3.2.2. Chiến tranh du kích ở Đăk Lăk củng cố và tăng cường tình ñoàn

kết chiến ñấu của ñồng bào các dân tộc Tây Nguyên

Do phải thường xuyên ñối phó với thiên nhiên khắc nghiệt, với thú dữ, với

kẻ thù xâm lược nên ñồng bào các dân tộc Tây Nguyên từ già ñến trẻ, từ phụ nữ ñến

trẻ em ñều luôn có một thứ vũ khí tuỳ thân, ñều biết cắm chông, gài thò, làm bẫy...

65

Khi phải ñối phó với mối nguy hiểm hoặc kẻ thù nào, cả buôn làng ñều tham gia

chiến ñấu. “Toàn dân vũ trang, toàn dân chiến ñấu” ñã trở thành truyền thống quý

báu của ñồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Đây là cơ sở rất thuận lợi ñể

xây dựng và củng cố thế trận chiến tranh nhân dân và cũng là một thế mạnh của

phong trào chiến tranh du kích trên chiến trường Tây Nguyên.

Đăk Lăk là tỉnh có nhiều thành phần dân tộc. Thực dân Pháp cũng như ñế

quốc Mỹ dùng mọi cách bưng bít, xuyên tạc không cho ánh sáng cách mạng ñến với

ñồng bào. Âm mưu và thủ ñoạn của chúng là chia rẽ Kinh - Thượng ñể dễ bề cai trị,

nắm giữ ñồng bào các dân tộc thiểu số. Muốn làm cách mạng, không có con ñường

nào khác là phải bám vào dân tuyên tuyền, giác ngộ, phát ñộng quần chúng xây

dựng cơ sở. Quán triệt tư tưởng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng bộ

Đăk Lăk ñã phát ñộng mọi tầng lớp quần chúng ñoàn kết ñứng lên ñấu tranh dựa

vào thế trận chiến tranh du kích.

Chiến tranh du kích giai ñoạn 1965 - 1968 ñược xây dựng rộng khắp trên cả

ba vùng: Vùng giải phóng, vùng tranh chấp và vùng ñịch kiểm soát. Tùy vào ñặc

ñiểm của từng vùng ta xây dựng lực lượng du kích chiến tranh phù hợp. Phong trào

du kích chiến tranh thu hút ñược rộng rãi các dân tộc tham gia, từ Kinh, Êñê, J’Rai,

M’Nông..., tất cả già trẻ, trai gái cùng ñoàn kết một lòng dựa vào buôn làng bố

phòng ñể chiến ñấu. Đồng bào các dân tộc Đăk Lăk ai cũng muốn cầm vũ khí,

muốn ñảm nhận bất cứ một công việc gì, không quản ngại khó khăn, nguy hiểm ñể

giúp sức mình vào việc ñánh ñổ ñế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Thanh niên

thì cầm súng giết giặc, canh gác, người già vót chông, bố phòng, chị em phụ nữ sản

xuất và vận chuyển lương thực... Với tinh thần anh dũng và trí thông minh, họ dựa

vào ñịa hình, ñịa vật sáng tạo nhiều cách ñánh ñịch hiệu quả. Có thể nói chiến tranh

du kích giai ñoạn này là biểu hiện sinh ñộng của phong trào toàn dân vũ trang, toàn

dân ñánh giặc. Tổng bí thư Lê Duẩn ñã từng chỉ ra: “Muốn phát huy chỗ mạnh, cái

sở trường của mình ñể ñánh ñịch, thắng ñịch thì phải phát ñộng chiến tranh du kích

toàn dân, toàn diện và lâu dài” [29, tr. 63].

Để ñảm bảo bí mật, bất ngờ trong ñánh phục kích ở vùng dân cư cần dựa

chắc vào ñồng bào ñể bịt tai, che mắt ñịch. Kinh nghiệm cho thấy, không có cách

66

nào giữ bí mật tốt hơn là việc ñộng viên ñồng bào cùng tham gia, giúp ñỡ du kích.

Đồng bào nắm rất chắc những tên tề ñiệp phản ñộng ñịa phương, lại hiểu rõ quy luật

hoạt ñộng hàng ngày và ñiểm mạnh, yếu cũng như những sơ hở của chúng. Từ ñó,

ñồng bào có nhiều khả năng giúp du kích ñánh lạc hướng ñịch, khống chế, giám sát

những tên tề ñiệp phản ñộng, phong toả bao vây tin tức..., che chở và giúp ñỡ cho

du kích. Có thể nói rằng, chính phong trào chiến tranh du kích ñã tập hợp ñông ñảo

quần chúng nhân dân, phát huy ñược sức mạnh toàn dân, qua ñó củng cố và tăng

cường sự ñoàn kết của các dân tộc Tây Nguyên.

3.2.3. Chiến tranh du kích ở Đăk Lăk tạo chỗ ñứng chân và hỗ trợ cho

bộ ñội chủ lực

Lực lượng bộ ñội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên (B3) chi viện cho chiến

trường Đăk Lăk gồm có Trung ñoàn 33, Tiểu ñoàn 39 hoả tiễn (ĐKB) và Tiểu ñoàn

320. Du kích chiến tranh Đăk Lăk phục vụ ñắc lực cho bộ ñội chủ lực Mặt trận Tây

Nguyên chiến ñấu trên hướng trọng ñiểm của chiến dịch chung hay trên từng ñịa

bàn. Du kích, tự vệ ñảm nhiệm việc bảo ñảm an ninh cho bộ ñội hành quân, trú

quân, cơ ñộng lực lượng và tiếp tế, tải thương... Điều này ñã ñược thừa nhận trong

Báo cáo Nguyệt ñể “A” tháng 2 - 1967 của Toà hành chính tỉnh Đăk Lăk: “Tiểu

ñoàn chủ lực tỉnh Tây Ninh (C/320) di chuyển ñến Đăk Lăk, các huyện ủy, lực

lượng võ trang ñịa phương, du kích và các cán binh nằm vùng gia tăng nỗ lực thu

góp lúa gạo, chuẩn bị lương thực với lực lượng khác thường” [105, tr. 5]. Đặc biệt

do am hiểu sâu sắc ñịa hình, tình hình ñịch, du kích, tự vệ vùng ven, vùng ñịch kiểm

soát ñã cung cấp những tài liệu chính xác giúp bộ ñội chủ lực chuẩn bị chiến trường

nhanh chóng và chính xác. Chính tài liệu của VNCH thừa nhận: “Ở miền rừng núi,

kinh nghiệm cho ta thấy Việt cộng thu thập ñược nhiều tin tức xác thực hơn ta nhờ

chúng biết dùng người ñịa phương ñể cung cấp tin tức” [102, tr. 10].

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân (1968), khi ñánh vào thị xã

Buôn Ma Thuột du kích, tự vệ mật ñã dẫn ñường cho quân chủ lực tiến ñánh các cơ

quan của ñịch. Lực lượng nội tuyến cung cấp những thông tin chính xác về tình

hình quân ñịch, bố trí lực lượng và hoả lực ñịch như thế nào, ở ñâu.

Trong chiến ñấu tiến công ñịch, du kích ñi ñầu dẫn ñường, ñánh vòng ngoài,

67

tiêu diệt lực lượng bảo an, tạo ñiều kiện quân chủ lực Mặt trận Tây Nguyên ñánh

chủ lực ñịch. Hơn nữa, chiến tranh du kích góp phần căng kéo ñịch, khiến ñịch

không thể tập trung lực lượng tác chiến ở một chiến trường cụ thể mà phải dàn

mỏng lực lượng bị ñộng ñối phó với ta. Khi quân Mỹ gặp khó khăn gọi sự chi viện

từ chiến trường khác, dân quân du kích chặn ñánh góp phần làm chậm trễ sự chi

viện ñó. Du kích Huyện H1 ñã làm tốt nhiệm vụ ngăn chặn sự tiếp viện của QĐSG

từ Khánh Hoà lên Đăk Lăk trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968. Sự hỗ

trợ có hiệu quả của thế trận chiến tranh du kích Đăk Lăk góp phần vào những thắng

lợi vẻ vang của quân chủ lực ñứng chân trên ñịa bàn.

Thực tiễn cuộc kháng chiến của nhân dân Đăk Lăk ñã khẳng ñịnh vai trò

quan trọng của phong trào chiến tranh du kích. Chính từ phong trào này ñã huy

ñộng sự tham gia, giúp ñỡ to lớn của nhân dân, ñồng bào các dân tộc ñối với hoạt

ñộng tác chiến của quân chủ lực. Do ñặc ñiểm này mà Tổng thống Mỹ Kennedy ñã

nhận xét: “Sự giúp ñỡ quân sự của Mỹ ở Đông Dương dù ñến ñâu cũng không thể

chinh phục ñược một kẻ thù vừa ở khắp nơi, vừa không thấy ở ñâu cả, một kẻ thù là

con ñẻ của nhân dân, ñược nhân dân ñồng tình che giấu và giúp ñỡ” [46, tr. 12].

3.3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM

3.3.1. Phát huy vai trò và sức mạnh tổng hợp của các già làng, trưởng

bản, chức sắc tôn giáo có uy tín trong việc xây dựng thế trận chiến tranh du

kích ở ñịa phương

Sau Hiệp ñịnh Genève, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành thiết

lập chế ñộ cai trị và củng cố tổ chức bộ máy tay sai từ tỉnh ñến huyện và các xã

buôn tại Đăk Lăk. Tuy nhiên, trên thực tế chúng chỉ mới thiết lập ñược chính quyền

ở những vùng trung tâm quận lỵ có ñường giao thông thuận tiện, còn những vùng

sâu, nơi có ñịa hình hiểm trở, giao thông khó khăn thì ñó mới chỉ là những “nơi ta

chưa ñặt chân ñến hoặc chỉ ñi phớt qua” [102, tr. 18] – chính quyền Sài Gòn thừa

nhận. Dựa vào hạn chế này của quân ñội VNCH, cách mạng xác ñịnh xây dựng chỗ

ñứng chân phải bắt ñầu từ những vùng rừng núi, mà vùng này chủ yếu là ñịa bàn

sinh sống của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên.

Xây dựng và củng cố thế trận chiến tranh du kích ở Đắk Lăk bị chi phối bởi

68

một số ñặc ñiểm dân cư và văn hoá của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên như:

- Trình ñộ học vấn của ñồng bào các dân tộc còn thấp, thật thà, dễ tin người

và còn bị nhiều phong tục, tập quán lạc hậu kìm hãm. Hơn thế nữa, thực dân Pháp

và ñế quốc Mỹ luôn tìm mọi cách lợi dụng, mua chuộc, kích ñộng gây thù hằn, chia

rẽ các dân tộc, chia rẽ Kinh - Thượng ñể dễ bề cai trị.

- Do sự khác nhau về thành phần tộc người nên tiếng nói, phong tục, tập

quán của từng dân tộc có sự khác nhau.

- Đồng bào các dân tộc Đăk Lăk sống phân tán, các buôn làng cách xa nhau,

nhiều buôn ở những vùng rừng núi hiểm trở, heo hút. Mỗi buôn, làng có người ñứng

ñầu gọi là già làng, trưởng bản hay chủ làng, bên cạnh ñó còn có thầy cúng, chức

sắc tôn giáo, ñây là những người có uy tín ñối với ñồng bào. Mọi người trong buôn,

làng gần như nghe theo sự hướng dẫn, chỉ ñạo của bộ phận tầng lớp trên này.

“Tiếng nói của già làng, chủ làng có tác dụng với quần chúng. Hầu như mọi việc

làm ăn, sinh sống trong buôn, làng ñều do các già làng quyết ñịnh” [19, tr. 90].

Ngay từ những ngày ñầu của cuộc KCCM, cứu nước, ñể xây dựng cơ sở

cách mạng, Đảng bộ Đăk Lăk ñã xây dựng ñội ngũ cán bộ trung kiên tại các buôn

làng ñể tuyên truyền ñường lối cách mạng của Đảng ñến với ñồng bào. Ban ñầu,

cán bộ cách mạng phải cải trang, học tiếng nói, cách sinh hoạt và hiểu phong tục,

tập quán của ñồng bào, “nhiều cán bộ cải trang ñóng khố, cà răng căng tai, cùng

nhân dân phát rẫy làm nương, nên ñược nhân dân yêu mến, che chở bảo vệ” [54, tr.

5]. Đối tượng vận ñộng cách mạng trước tiên là các chủ làng, chủ buôn, già làng,

những người có uy tín trong làng. Để từ ñó, họ trở thành nòng cốt xây dựng cơ sở

cách mạng, trở thành những “tuyên truyền viên” hiệu quả nhất trong thế trận chiến

tranh nhân dân.

Mạnh dạn tranh thủ, phát huy vai trò tầng lớp trên ñể tạo ñiều kiện ñi sâu vào

quần chúng, qua ñó nhanh chóng phát triển lực lượng là việc làm phù hợp với ñặc

ñiểm kinh tế - xã hội của Đăk Lăk. Tuy nhiên, sau khi tranh thủ ñược tầng lớp trên,

cần phải dựa chắc vào quần chúng thì phong trào du kích chiến tranh mới có hiệu

quả, vững chắc. Làm ñược như vậy cũng tức là thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị

cán bộ miền núi tháng 8 - 1966: “Vấn ñề ñoàn kết với lớp trên người dân tộc có một

69

ý nghĩa lớn trong sách lược của Đảng” [59, tr. 16].

3.3.2. Xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh ñể làm nòng cốt cho chiến

tranh du kích phát triển

Để tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, bên cạnh các biện pháp quân

sự, Mỹ còn tiến hành các biện pháp chính trị, kinh tế hòng mua chuộc, lôi kéo người

dân. Cải cách ñiền ñịa lập các “khu dinh ñiền”, chính sách “tố cộng, diệt cộng”,

quốc sách “Ấp chiến lược”, “Ấp tân sinh”, chiến lược “bình ñịnh”... xét cho cùng

ñều nhằm phá căn cứ lòng dân, triệt phá cơ sở chính trị cách mạng. Trong quá trình

xây dựng và tiến hành chiến tranh du kích, Đảng bộ Đăk Lăk luôn quán triệt

phương châm tin dân và dựa vào dân, dựa vào thực lực cách mạng tại chỗ, qua ñó

tập hợp và thu hút ñông ñảo ñồng bào các dân tộc thiểu số Đăk Lăk tham gia kháng

chiến.

“Đảng tin dân, dựa vào dân, thì dân tin Đảng, gắn bó mật thiết với Đảng”

[19, tr. 79]. Cho nên, dù hoàn cảnh khó khăn, ác liệt, ñồng bào các dân tộc Đăk Lăk

vẫn một lòng theo cách mạng. Trong các năm 1965 - 1968, lực lượng bảo an ñịch

liên tục tổ chức các cuộc càn quét vào buôn làng, có tháng chúng càn tới 3 lần với

quân số từ 1 ñại ñội lên 1 tiểu ñoàn tăng cường, mang tính chất hủy diệt cao. “Địch

cố tìm mọi cách ñể lừa bắt bằng ñược ñồng bào. Chúng phục kích các khu rẫy,... ñốt

hết nhà cửa, kho tàng, bắn chết hết gà heo...” [64, tr. 2]. Mặc dầu vậy, ñồng bào các

dân tộc Đăk Lăk vẫn “một lòng thủy chung với cách mạng”, khi lương thực ñã cạn,

ñồng bào “ñi ñào củ mài, củ nâu, lấy nấm ăn thay cơm, ñốt tranh thay muối, lấy rạ

rơm làm chăn ñắp” [64, tr. 2].

Xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu, thà hi sinh tính mạng ñể bảo vệ cán bộ,

bảo vệ cách mạng như Y Ơn, Y Bếch, Y Tôn... “Tất cả ñảng viên dân tộc ñều kiên

cường, bất khuất trong ñấu tranh chống ñịch, ñảng viên bị ñánh ñập, bị tra tấn thà

chết không khai báo ñể bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng, quần chúng nhân dân che

chở, nuôi dấu cán bộ. Tuy ñịch ñánh phá ác liệt nhưng không có chi bộ nào bể vỡ,

các cơ quan tỉnh, huyện bám sát trong dân ñược an toàn” [54, tr. 5].

Thực tiễn sinh ñộng nói trên càng chứng tỏ bài học ñầu tiên trong công tác

vận ñộng quần chúng xây dựng lực lượng cách mạng là bài học “tin dân và dựa vào

70

dân”. Ở Tây Nguyên, trong giai ñoạn hiện nay bài học này càng ñược quán triệt ñể

xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh, củng cố tình ñoàn kết giữa các dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ñã từng dạy: “Du kích muốn thắng phải có nhân dân

ủng hộ. Muốn nhân dân ủng hộ phải tốt với nhân dân” [77, tr. 70 ]. Nhận thức sâu

sắc lời dạy của Bác Hồ, hoạt ñộng tác chiến của quân dân Đăk Lăk luôn gắn chặt

với nhiệm vụ bảo vệ dân, bảo vệ cơ sở.

Có nơi du kích chọn ñiểm ñặt mìn không thích hợp, nguỵ trang dây mìn chưa

khéo, ñánh ñịch xong không xoá dấu vết, kẻ ñịch phát hiện có du kích hoạt ñộng,

chúng liền khủng bố, bắt bớ, ñánh ñập, ñốt phá nhà cửa của nhân dân. Hậu quả là có

nơi nhân dân oán du kích, bất hợp tác với du kích vì sợ liên luỵ. Du kích rơi vào

tình trạng mất chỗ dựa. Bài học xương máu rút ra ở ñây là phải kết hợp ñược nhiệm

vụ ñánh ñịch và bảo vệ dân, bảo vệ cơ sở. Ngày nay, Chính phủ Việt Nam có nhiều

dự án khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên ở Tây Nguyên, cũng như có nhiều khu

công nghiệp ñặt cơ sở ở ñây. Để ñược nhân dân ủng hộ, Chính phủ cần kết hợp khai

thác kinh tế với việc chăm lo, ñảm bảo sức khoẻ, ñời sống vật chất cũng như tinh

thần của ñồng bào các dân tộc.

3.3.3. Tận dụng triệt ñể ñịa hình ñể lựa chọn phương thức tấn công ñịch

một cách linh hoạt, hiệu quả

Đăk Lăk là tỉnh có núi rừng bạt ngàn cùng với những con ñèo, khúc cua

khuất tầm nhìn. Khai thác triệt ñể ñiều kiện ñịa hình này, chiến tranh du kích Đăk

Lăk ñã giành thắng lợi lớn trong KCCM.

Rừng Đăk Lăk nằm dọc theo các trục ñường giao thông, dân quân du kích

khéo lợi dụng những cánh rừng làm nơi che giấu lực lượng, bố phòng ñánh giao

thông hoặc ñánh ñịch khi chúng hành quân. Du kích mang theo cung tên, ná lúc ñón

ñầu ñịch, lúc từ phía sau hoặc bên sườn bắn ñến. Tên ná không có tiếng ñộng nên

khi quân Mỹ phát hiện mình bị bắn thì du kích ñã theo ñường mòn trốn vào rừng.

Có lúc cả trung ñội hoặc ñại ñội ñịch ñi lùng sục nhưng khi một vài tên ñịch bị

trúng tên tẩm thuốc ñộc ngã lăn ra chết thì cả ñội vội vã rút lui. Du kích với lực

lượng nhỏ, trang bị thích hợp, lợi dụng sự kín ñáo, che khuất của núi rừng ñể tiếp

cận ñịch một cách bí mật, bất ngờ, thực hiện bao vây, luồn sâu chia cắt quân ñịch.

71

Về lợi thế của núi rừng trong thế trận chiến tranh du kích, Bộ Tổng tham mưu cho

rằng: “Với ñịa thế hiểm trở, với tài luồn rừng lội suối, leo ñèo, vượt núi của người

Tây Nguyên, du kích ở Tây Nguyên có một lợi thế rất lớn là dễ dàng thấy ñịch và

bám ñịch, nhưng ñịch không thấy ñược du kích, chỉ khi bị ñánh mới biết, lúc ñó du

kích ñã biến vào rừng” [19, tr. 129]. Chính ñối phương cũng nhận thấy ưu thế của

rừng núi trong thế trận chiến tranh du kích ở Đăk Lăk. Tờ trình Nguyệt ñể “A”

tháng 9 - 1968 của Toà hành chính tỉnh Đăk Lăk thừa nhận: “Nhờ ñất ñai rộng lớn,

rừng núi âm u, nên ñịch ñã lợi dụng ẩn núp, trốn né ...” [106, tr. 11].

Lợi dụng những sườn núi cao cheo leo, những ñoạn dốc dựng ñứng, du kích

và nhân dân khuân ñá, hoặc cưa những khúc gỗ lớn bố trí thành từng ñống. Khi có

ñịch ñến giật liền giây ñể ñá và cây lăn xuống tiêu hao, tiêu diệt sinh lực ñịch. Bẫy

ñá và bẫy chông thường bố trí liên tiếp nhau. Khi ñịch ñi ñến cụm cuối cùng mới

giật dây cho ñá lăn, ñịch hốt hoảng chạy lui liền bị các cụm phía sau ñánh liên tiếp.

Đối với những khúc cua khuất tầm nhìn hoặc ñường ñèo, chiến thuật của

chiến tranh du kích là bố phòng bom, bộc phá, mìn ñánh giao thông ñể ngăn chặn

quân chi viện hoặc cắt ñứt tiếp tế lương thực giữa các khu vực. Chính tài liệu của

chính quyền Sài Gòn tiết lộ: “Việt cộng phá hoại các giao thông trên Quốc lộ 14,

20, 21, khiến sự tiếp tế cho Cao nguyên Trung phần có phần chậm trễ và thiếu thốn”

[102, tr. 47].

Chiến tranh du kích ở Đăk Lăk trong giai ñoạn chống chiến lược “chiến

tranh cục bộ” không chỉ ñánh ở núi cao, rừng rậm mà còn ñánh ở nông thôn, ñồng

bằng. Ở những bãi cỏ trên ñường ñi hoặc ở ven ñường hành quân của Mỹ, du kích

cắm bãi chông cao 20 - 30 cm, nếu không ñề phòng chúng sẽ xóc chông vào chân.

Đối với những làng chiến ñấu, nhân dân bố phòng những bãi chông dài hàng trăm

mét, quân Mỹ không thể nào tiến vào làng lùng sục. Ở ven ñường ñi nếu có hàng

rào, du kích thường bố phòng mang cung (thò). Đây là vũ khí vốn ñể cài bẫy săn thú

dữ của ñồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Du kích dùng mang cung cài trên hàng

rào, vô tình chạm phải tên sẽ xuyên thủng bắp chân, nếu cài mang cung cao hơn, tên

sẽ xuyên qua bụng, qua ngực ñịch. Đây thật sự là nỗi ám ảnh của quân Mỹ khi phải

chiến ñấu với thế trận chiến tranh du kích Tây Nguyên.

72

Ưu ñiểm nổi bật của du kích ñánh giặc trên ñịa bàn của họ là tính cơ ñộng,

linh hoạt trong hoạt ñộng tác chiến. Họ thuộc từng con ñường mòn, từng khúc sông,

khe suối, từng gốc cây, mô ñất, những chỗ nào khó vượt qua, những chỗ nào dễ dàng

cho luồn lách... họ ñều thuộc lòng. Nên họ tận dụng triệt ñể các yếu tố ñó ñể ñánh

ñịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng ñịnh: “Quân du kích ñược dân chúng ủng hộ,

thuộc ñịa hình, ñịa thế, khéo lợi dụng ñêm tối, mưa nắng, khéo xếp ñặt kế hoạch, nên

du kích vẫn có thể ñánh ñược ñế quốc” [49, tr. 469]. Kẻ ñịch bị ñộng ñối phó, không

nắm ñược ñịa hình và lực lượng tiến hành chiến tranh du kích. Đó là lý do giải thích

vì sao tờ Tuần Tin tức Mỹ ñã nhận ñịnh: “Người Mỹ liệu có thể trực tiếp hay gián

tiếp ñương ñầu thực sự với cuộc chiến tranh du kích này một cách thắng lợi ñược

không, trên một ñịa bàn mà họ không biết gì về ñịa hình và kẻ thù ?” [68, tr. 373].

Trong cuộc KCCP, binh lính Pháp ñã viết thư nói với nhau rằng: “Ở Việt

Nam các hang ñá, các bụi cây nào, ao nào cũng có cái chết ẩn ở ñó” [48, tr. 270].

Đến cuộc KCCM, quân dân Đăk Lăk biến những cánh rừng, con ñèo, khúc cua

thành những ñiểm diệt Mỹ. Chính tài liệu của chính quyền Sài Gòn ñã thú nhận nỗi

sợ rừng núi của binh sĩ VNCH: “Nếu ta chú trọng ñến hoạt ñộng du kích... thì ta có

thể buộc binh sĩ ñịch ñi ñến tình trạng khiếp sợ rừng núi như hiện trạng của binh sĩ

ta” [102, tr. 14].

Thắng lợi trong việc ñập tan chiến lược “chiến tranh cục bộ” là kết quả của

tinh thần quyết ñánh và quyết thắng giặc Mỹ của ñồng bào các dân tộc tỉnh Đăk

Lăk. Quân dân Đăk Lăk khôn khéo phát huy thế hiểm yếu của núi rừng, lợi dụng

ñịa hình bày sẵn thế trận, vận dụng sáng tạo phương châm chỉ ñạo tác chiến của

Đảng, buộc ñịch phải ñánh theo cách ñánh của ta ở nơi ta ñã lựa chọn. Chiến thắng

trước chiến lược “chiến tranh cục bộ” của ñế quốc Mỹ chứng minh tính ưu việt của

thế trận chiến tranh du kích. Chỉ trong một thời gian không dài, quân và dân Đăk

Lăk ñã làm thay ñổi cơ bản về thế trận, làm chuyển biến nhanh chóng tương quan

lực lượng giữa ta và ñịch trên chiến trường Đăk Lăk.

73

KẾT LUẬN

Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ xâm lược gian khổ, ác liệt, giai ñoạn

chống “chiến tranh cục bộ” là ñỉnh cao của cuộc ñụng ñầu lịch sử giữa nhân dân

Việt Nam với ñế quốc Mỹ. Đây là giai ñoạn quân dân Đăk Lăk cũng như quân dân

cả nước ta phải trực tiếp ñương ñầu với ñội quân viễn chinh Mỹ - một ñội quân

hùng mạnh chưa từng bị thua trận trong các cuộc chiến tranh trước ñó. Đi cùng ñạo

quân ñông ñảo và thiện chiến ñó, một khối lượng khổng lồ các loại vũ khí và

phương tiện chiến tranh hiện ñại nhất của Mỹ (trừ vũ khí hạt nhân) ñã ñược ñưa ra

sử dụng. Mặc dù ñến tháng 2 - 1966, Lữ ñoàn dù 173 - ñơn vị lính Mỹ ñầu tiên mới

có mặt ở Đăk Lăk nhưng ngay từ ñầu năm 1965, quân ñội ñịch ñã tiến hành hàng

trăm cuộc càn quét vào các vùng giải phóng, khu căn cứ ñịa của ta nhằm tiêu diệt

lực lượng cách mạng. Kết hợp với hành quân ñánh phá, ñịch còn ñẩy mạnh các hoạt

ñộng gián ñiệp, chiến tranh tâm lý, ñặc biệt là lợi dụng tổ chức FULRO ñể gây sự

chia rẽ trong các dân tộc anh em sinh sống trên ñịa bàn Đăk Lăk.

Dưới sự lãnh ñạo của Trung ương Đảng, Khu ủy V, trực tiếp là Mặt trận Tây

Nguyên và Tỉnh ủy Đăk Lăk, phong trào chiến tranh du kích ñược triển khai rộng

rãi trên cả ba vùng chiến lược, tạo thành thế trận “thiên la ñịa võng” ñể tiêu hao và

tiêu diệt sinh lực ñịch. Chiến tranh du kích Đăk Lăk giai ñoạn chống chiến lược

“chiến tranh cục bộ” diễn ra với nhiều quy mô khác nhau; từ từng người, từng tổ,

tiểu ñội, ñến nhiều trung ñội phối hợp với nhau trên nhiều ñịa bàn, trên mọi ñịa

hình, ñánh ñịch bằng mọi loại vũ khí, phương tiện có trong tay, bằng cả sức mạnh

quân sự và chính trị. Sức mạnh của lối ñánh du kích ñược ví như những mũi kim

sắc nhọn châm vào cơ thể của ñội quân xâm lược và tay sai, làm cho quân ñịch lúng

túng, hoang mang, nhức nhối, bị ñộng ñối phó mà không gỡ ra ñược. Cách ñánh ñó

thể hiện tính tích cực, chủ ñộng tiến công ñịch. Đó là lý do giải thích vì sao “trên

chiến trường, chiến tranh du kích miền Nam thực sự và thường xuyên là nỗi kinh

hoàng của ñội quân xâm lược Mỹ và tay sai” [9, tr. 166].

Chiến tranh du kích giai ñoạn 1965 - 1968 ở Đăk Lăk thực hiện ñược nhiệm

vụ tiêu hao quân ñịch, tiêu diệt từng bộ phận nhỏ sinh lực ñịch và phương tiện chiến

74

tranh của chúng, ñồng thời ñánh phá cơ sở hậu phương của ñịch. Hậu phương ñịch

không ổn ñịnh, quân Mỹ và QĐSG ở Đăk Lăk “ăn không ngon, ngủ không yên” bởi

những vụ quấy rối, phục kích. Cuộc ñấu tranh của ñồng bào các dân tộc thiểu số Đăk

Lăk buộc chúng phải thường xuyên thay ñổi kế hoạch càn quét, xúc tát dân ở vùng

giải phóng và vùng tranh chấp. Chiến tranh du kích hỗ trợ quần chúng ñấu tranh

chính trị và binh vận, tiêu hao quân ñội VNCH ở Đăk Lăk, làm suy yếu nguỵ quyền.

Chiến tranh du kích ở Đăk Lăk thể hiện rõ tính chất toàn dân ñánh giặc.

Chiến trường Đăk Lăk giai ñoạn chống chiến lược “chiến tranh cục bộ” có sự tham

gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân, không phân biệt tôn giáo, dân tộc, già trẻ,

trai gái, miền núi hay thành thị. Bất kỳ người nào có ý thức căm thù giặc ñều ñứng

lên cầm vũ khí giết giặc lập công. Tinh thần anh dũng và trí thông minh của nhân

dân ñã sáng tạo ra nhiều cách ñánh phong phú, ñạt hiệu quả cao trong việc tiêu hao,

tiêu diệt sinh lực ñịch. Từ ñó, tạo thế trận thuận lợi cho bộ ñội chủ lực thực hiện

những trận ñánh tiêu diệt lớn. Thắng lợi về mặt quân sự ở Đăk Lăk trước chiến lược

“chiến tranh cục bộ” ñã chứng minh nghệ thuật chiến tranh cách mạng là phải biết

tổ chức các ñội du kích cùng với các lực lượng vũ trang khác ñể giành chiến thắng.

Đăk Lăk là một tỉnh có sự ña dạng về thành phần tộc người (42 dân tộc anh

em sinh sống trên ñịa bàn). Trong KCCM vai trò của các già làng, trưởng bản ñã

ñược phát huy triệt ñể. Đảng ta ñã thành công trong việc tăng cường khối ñoàn kết

toàn dân, phát huy sức mạnh của tất cả thành phần dân tộc trong cuộc chiến ñấu

chống giặc ngoại xâm. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vấn

ñề ñoàn kết các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên là vô cùng quan

trọng nhằm hướng ñến xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ

văn minh. Trong bối cảnh các thế lực thù ñịch luôn luôn tìm cách chia rẽ Kinh -

Thượng, phá vỡ khối ñoàn kết các dân tộc ở Đăk Lăk nói riêng, Tây Nguyên nói

chung, nhất là sau một số sự kiện diễn ra năm 2000 và 2004, bài học về xây dựng cơ

sở chính trị vững mạnh ở các ñịa bàn thôn, buôn ñến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Chiến tranh ñã ñi qua hơn 1/3 thế kỷ song nhiều vấn ñề liên quan ñến cuộc

kháng chiến chống Mỹ ở Đăk Lăk và Tây Nguyên cần ñược tiếp tục nghiên cứu.

Hiện nay, ñi cùng với việc nghiên cứu, vấn ñề bảo vệ, bảo tồn hệ thống di tích lịch

75

sử ñang ñược ñặt ra. Cần phải có kế hoạch khảo sát những ñịa ñiểm tiêu biểu trong

kháng chiến chống Mỹ ñể từ ñó có kế hoạch khoanh vùng bảo vệ. Qua ñó, khôi

phục và tôn tạo lại những di tích ñiển hình nhằm mục ñích khai thác, phát huy giá

trị giáo dục truyền thống lịch sử ñối với các tầng lớp nhân dân, ñặc biệt là thế hệ trẻ.

Bên cạnh ñó, phải có những chủ trương, chính sách phát triển vùng căn cứ cũ, vùng

ñặc biệt khó khăn, hỗ trợ cho ñồng bào vùng sâu, vùng xa phát triển kinh tế - xã hội,

ñồng thời có những giải pháp thích hợp nhằm xây dựng thế trận quốc phòng an ninh

vững chắc ở Đăk Lăk nói riêng và Tây Nguyên nói chung.

76

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. F. Ăngghen, V.I. Lênin, J.Stalin (1970), Bàn về chiến tranh nhân dân, Nxb Sự

thật, Hà Nội.

2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Chư M’Gar (1999), Lịch sử Đảng bộ và nhân

dân huyện Chư M’Gar trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-

1975), Nxb CTQG, Hà Nội.

3. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Krông Bông (2001), Lịch sử Đảng bộ huyện

Krông Bông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975),

Nxb CTQG, Hà Nội.

4. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Krông Năng (2003), Lịch sử Đảng bộ huyện

Krông Năng (1954-1975), Nxb CTQG, Hà Nội.

5. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Lăk (1995), Lịch sử ñấu tranh giải phóng dân tộc

của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Lăk (1945-1975), Đăk Lăk.

6. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện M’Drăk (1998), Lịch sử ñấu tranh của Đảng bộ

và nhân dân các dân tộc huyện M’Drăk (1954-1975), Đăk Lăk.

7. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đăk Lăk (2002), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đăk Lăk

(1930 - 1954), Nxb CTQG, Hà Nội.

8. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đăk Lăk (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đăk Lăk

(1954 - 1975), Nxb CTQG, Hà Nội.

9. Ban Chỉ ñạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết cuộc

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học, Nxb CTQG, Hà Nội.

10. Ban Chỉ ñạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách

mạng Việt Nam (1945-1975) - Thắng lợi và bài học, Nxb CTQG, Hà Nội.

11. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định (1991), Chiến tranh du kích trên chiến

trường Bình Định (1945-1975), Bình Định.

12. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk (1969), Bản tin một năm thắng lợi to lớn và

toàn diện của quân và dân Đăk Lăk, TLLT Ban Khoa học lịch sử quân sự,

Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk.

77

13. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk (1973), Thành tích ñội du kích Khuê Ngọc Điền,

TLLT Ban Khoa học lịch sử quân sự, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk.

14. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk (2003), Lịch sử Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk

Lăk, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk.

15. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk (1994), Đăk Lăk - 30 năm chiến tranh giải

phóng, tập II, kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Đăk Lăk.

16. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk (1998), Tổng kết chiến tranh du kích trên

chiến trường Đăk Lăk 1945 - 1975, Đăk Lăk.

17. Bộ Quốc phòng (1996), Chiến tranh nhân dân ñịa phương trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), Nxb QĐND, Hà Nội.

18. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương chiến

tranh nhân dân Việt Nam (1954 - 1975), Nxb QĐND, Hà Nội.

19. Bộ Tổng tham mưu (1998), Chuyên ñề ñặc trưng của chiến tranh du kích ở chiến

trường Tây Nguyên trong kháng chiến chống Pháp, Nxb QĐND, Hà Nội.

20. Bộ Tổng tham mưu (2000), Tổng kết cách ñánh của lực lượng dân quân du kích

- tự vệ trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và ñế quốc Mỹ

(1945 - 1975), Nxb QĐND, Hà Nội.

21. Bộ Tổng tham mưu, Cục Dân quân tự vệ (2007), Anh hùng lực lượng vũ trang

nhân dân (Cán bộ, chiến sĩ dân quân, tự vệ), Nxb QDND, Hà Nội.

22. Bộ Tư lệnh Quân khu V (1967), Dự thảo phương hướng, nhiệm vụ sắp ñến cho

lực lượng vũ trang, nửa vũ trang trong tỉnh Đăk Lăk từ tháng 7 - 12 - 1967,

cặp hồ sơ Đăk Lăk, TLLT Quân khu V, Đà Nẵng.

23. Bộ Tư lệnh Quân khu V (1967), Kế hoạch xây dựng phát triển du kích chiến

tranh và bộ ñội huyện của Bộ Chỉ huy quân sự Tỉnh Đăk Lăk năm 1967,

cặp hồ sơ Đăk Lăk, TLLT Quân khu V, Đà Nẵng.

24. Bộ Tư lệnh Quân khu V (1967), Chỉ thị gấp rút ñẩy mạnh phong trào nhân dân du

kích chiến tranh phát triển cao ñều rộng và toàn diện hơn nữa ñể giành thắng

lợi to lớn trong năm 1967, cặp hồ sơ Đăk Lăk, TLLT Quân khu V, Đà Nẵng.

78

25. Bộ Tư lệnh Quân khu V (1989), Khu 5 30 năm chiến tranh giải phóng, tập 2,

Bộ Tư lệnh Quân khu V, Đà Nẵng.

26. Bộ Tư lệnh Quân khu V (1999), Một số kinh nghiệm chỉ ñạo chiến tranh nhân

dân ñịa phương ở khu V trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 -

1975), Nxb QĐND, Hà Nội.

27. Bộ Tư lệnh Quân khu V (1999), Những trận ñánh ñiển hình trên chiến trường

Khu V, tập VI, Nxb QĐND, Hà Nội.

28. Gabrien Côn-cô (2003), Giải phẫu một cuộc chiến tranh, Nxb QĐND, Hà Nội.

29. Lê Duẩn (1985), Thư vào Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.

30. Lê Duẩn (1993), Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 15, Nxb CTQG, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 22, Nxb CTQG, Hà Nội,

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 24, Nxb CTQG, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 26, Nxb CTQG, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 27, Nxb CTQG, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 28, Nxb CTQG, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 29, Nxb CTQG, Hà Nội.

39. Philíp B. Đavitson (1995), Những bí mật của cuộc chiến tranh Việt Nam, Nxb

CTQG, Hà Nội

40. Trần Bá Đệ, Lê Cung (2007), Giáo trình Lịch sử Việt Nam, Tập VII, 1954 -

1975, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

41. Võ Nguyên Giáp (1974), Dân quân tự vệ, một lực lượng chiến lược, Nxb Sự

thật, Hà Nội.

42. Võ Nguyên Giáp (2005), Lịch sử Quân ñội nhân dân Việt Nam, Nxb QĐND, Hà Nội.

43. Đặng Vũ Hiệp (2000), Ký ức Tây Nguyên, Nxb QĐND, Hà Nội.

44. Nguyễn Văn Hoa, Phạm Hồng Việt (1997), Hiểu thêm lịch sử qua các hồi ký, kí

sự, tuỳ bút, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

45. Tường Hữu (2005), Sự thật về cuộc chiến tranh Việt Nam, Nxb Công an nhân

79

dân, Hà Nội.

46. Mai-cơn Mac-lai (1995), Việt Nam - Cuộc chiến tranh mười ngàn ngày, Nxb

Sự thật, Hà Nội.

47. Robert S. Mc Namara (1995), Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và những bài

học về Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.

48. Hồ Chí Minh (1970), Về ñấu tranh vũ trang và các lực lượng vũ tranh nhân

dân, Nxb QĐND, Hà Nội.

49. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội.

50. Chu Văn Phái (2005), Chiến tranh du kích ở Đăk Lăk (1945 - 1954), Luận văn

Thạc sĩ Sử học, Đại học Sư phạm Huế, Huế.

51. Nguyễn Cơ Thạch (1986), Vì sao Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược

Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.

52. Hoàng Minh Thảo (2004), Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến

chống Mỹ cứu nước và bảo vệ Tổ quốc, Nxb QĐND, Hà Nội.

53. Thị ủy Buôn Ma Thuột (1994), Lịch sử ñấu tranh giải phóng của Đảng bộ và

nhân dân thị xã Buôn Ma Thuột, tập 2 (1954 - 1975), Đăk Lăk.

54. Tỉnh ủy Đăk Lăk (1964), Tình hình cách mạng Đăk Lăk 1955 - 1964, TLLT

Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Đăk Lăk, ký hiệu 146 - D11 - 01C.

55. Tỉnh ủy Đăk Lăk (1964), Trích Nghị quyết Hội nghị Thường vụ Khu ủy mở

rộng lần thứ VII, họp từ ngày 11 ñến ngày 26 - 6 - 1964, TLLT Ban Nghiên

cứu lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Đăk Lăk.

56. Tỉnh ủy Đăk Lăk (1964), Báo cáo tình hình ñấu tranh chính trị, quân sự Khu V

(1954-1964), TLLT Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Đăk Lăk.

57. Tỉnh ủy Đăk Lăk (1965), Nghị quyết Hội nghị Khu ủy V (mở rộng) lần thứ IV,

tháng 5-1965. TLLT Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Đăk Lăk.

58. Tỉnh ủy Đăk Lăk (1965), Nghị quyết Hội nghị Khu ủy V mở rộng lần thứ 2,

tháng 7 - 1965 về tình hình và nhiệm vụ quân sự hiện nay, TLLT Ban

Nghiên cứu lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Đăk Lăk.

59. Tỉnh ủy Đăk Lăk (1966), Tình hình và nhiệm vụ xây dựng căn cứ ñịa miền núi,

80

TLLT Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Đăk Lăk.

60. Tỉnh ủy Đăk Lăk (1966), Nghị quyết Hội nghị Khu ủy V lần thứ 8, năm 1966.

TLLT Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Đăk Lăk.

61. Tỉnh ủy Đăk Lăk (1967), Kế hoạch hoạt ñộng toàn diện mùa thu, tháng 7- 9

năm 1967, TLLT Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Đăk Lăk.

62. Tỉnh ủy Đăk Lăk (1967), Hồi ký của ñồng chí Bảy Hữu, Bí thư Tỉnh ủy Phú

Khánh, TLLT Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng,Tỉnh ủy Đăk Lăk.

63. Tỉnh ủy Đăk Lăk (1967), Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Khu ủy V (mở rộng),

tháng 3 - 1967, TLLT Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Đăk Lăk.

64. Tỉnh ủy Đăk Lăk (1968), Nghị quyết Hội nghị Khu ủy lần thứ 7 (từ ngày 11 ñến

ngày 12 - 4 -1968), TLLT Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Đăk Lăk.

65. Tỉnh ủy Đăk Lăk (1968), Một số tư liệu về Đăk Lăk - Ban Mê Thuật trong Mậu

Thân (Bộ Tổng tham mưu quân ñội Sài Gòn xuất bản), TLLT Ban Nghiên

cứu lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Đăk Lăk.

66. Tỉnh ủy Đăk Lăk (1968), Dlei Ya - Ngọn lửa kiên trinh, TLLT Ban Nghiên cứu

lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Đăk Lăk.

67. Nguyễn Hữu Trí (1995), Buôn Ma Thuột xuân Mậu Thân 1968, Sở Khoa học

công nghệ và môi trường Đăk Lăk, Đăk Lăk.

68. Trần Trọng Trung (2005), Nhà Trắng với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam,

Nxb CTQG, Hà Nội.

69. Nguyễn Xuân Tú (2003), Đảng chỉ ñạo giành thắng lợi từng bước trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ cứu nước thời kỳ 1965 - 1975, Nxb Lao ñộng, Hà Nội.

70. Phạm Hồng Sơn (2004), Nghệ thuật ñánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam,

Nxb QĐND, Hà Nội

71. Viện Lịch sử Đảng - Hội ñồng biên soạn Lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến

(1992), Nam Trung Bộ kháng chiến (1945 - 1975), Hà Nội.

72. Viện Lịch sử Đảng (2002), Lịch sử biên niên Xứ ủy và Trung ương Cục miền

Nam (1954-1975), Nxb CTQG, Hà Nội.

73. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1997), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ,

81

cứu nước (1954 - 1975), tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội.

74. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1999), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ,

cứu nước (1954 - 1975), tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội.

75. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2001), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ,

cứu nước (1954 - 1975), tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội.

76. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2002), Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Nxb

QĐND, Hà Nội.

77. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2004), 60 năm quân ñội nhân dân Việt Nam,

Nxb QĐND, Hà Nội.

78. Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (1995), Lịch

sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2 (1954 - 1975), Nxb CTQG, Hà Nội.

79. Việt Nam Cộng hoà (1955), Kế hoạch bình ñịnh Cao Nguyên, TLLT Ban

Nghiên cứu lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Đăk Lăk, ký hiệu 25-D2-10.

80. Việt Nam Cộng hoà (1960), Dự án kế hoạch tác chiến tại miền thượng du,

TLLT Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Đăk Lăk, ký hiệu 15-D1-15.

81. Việt Nam Cộng hoà (1962), Mật ñiện ñến số 62/NA/QV/M, ngày 3 - 3 - 1962

của Tỉnh trưởng Đăk Lăk gửi Biệt bộ Tham mưu trưởng phủ Tổng thống,

TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 14810.

82. Việt Nam Cộng hoà (1962), Phiếu trình số 7215/NA/CT/M, ngày 24 - 8 - 1962 của tỉnh

Đăk Lăk về Trung tâm EA-NAO, TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu Đệ I CH 7274.

83. Việt Nam Cộng hoà (1962), Phiếu trình số 2746/NA/CT/M, ngày 8 - 9 - 1962

của tỉnh Đăk Lăk, TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu Đệ I CH 7274.

84. Việt Nam Cộng hoà (1962), Tài liệu của Phủ Thủ tướng, Phủ Tổng ủy dinh

ñiền và Nông vụ về an ninh tại các dinh ñiền năm 1962 - 1964, TTLTQG

II, Tp HCM, ký hiệu PTT 15071.

85. Việt Nam Cộng hoà (1963), Báo cáo tin tức số 1646/NA/CT/I/M, ngày 11 - 6 -

1963 của Toà Hành chính tỉnh Đăk Lăk gửi Bộ Nội vụ, TTLTQG II, Tp

HCM, ký hiệu PTT 14831.

86. Việt Nam Cộng hoà (1963), Công ñiện số 496-BAN/CT/I6M, ngày 31 - 12 -

82

1963 của Trung tướng Tổng Trưởng Bộ An ninh gửi Tư lệnh các Vùng

chiến thuật 1,2,3,4, TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 14878.

87. Việt Nam Cộng hoà (1963), Phiếu gởi số 368-DĐ/VP/2, ngày 27 - 2 - 1963 của Phủ

Tổng ủy dinh ñiền và nông vụ, TTLTQG II, Tp HCM, Ký hiệu Đệ I CH 15874.

88. Việt Nam Cộng hoà (1963), Tập lưu công ñiện mật tháng 7 ñến tháng 12 năm

1963 của các phủ, bộ gửi Tỉnh trưởng các tỉnh Cao nguyên Trung phần,

TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 1317.

89. Việt Nam Cộng hoà (1963), Nguyệt trình tháng 11 năm 1963 Tỉnh trưởng tỉnh

Đăk Lăk, TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 53.

90. Việt Nam Cộng hoà (1963), Tập phiếu trình của Phủ Tổng ủy Tân sinh nông

thôn, TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 63.

91. Việt Nam Cộng hoà (1964), Báo cáo số 1568/VP/3/M về tình hình an ninh và hoạt

ñộng của Việt cộng tháng 7 - 1964, TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 14890.

92. Việt Nam Cộng hoà (1964), Tập tài liệu của Võ phòng dân vụ Vùng II chiến thuật về

tình hình an ninh tại các tỉnh 1964, TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 15080.

93. Việt Nam Cộng hoà (1964), Bản tin tức hàng ngày số 715/PTT/VoP/QV/3, ngày 30-

12-1964 ñệ trình Thủ tướng, TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 14853.

94. Việt Nam Cộng hoà (1964), Nguyệt trình của Bộ Nội vụ: Tình hình an ninh chính

trị của các ñịa phương năm 1964, TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 15024.

95. Việt Nam Cộng hoà (1965), Bản tin tức ngày 26-1-1965 ñệ trình Phủ Thủ tướng, số

055-TPP/VoP.QV/QS, TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 15135.

96. Việt Nam Cộng hoà (1965), Bản tin chiến sự ngày 14-2-1965 ñệ trình Phủ Thủ

tướng, số 098/PTT/VoP/QV/QS, TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 15135.

97. Việt Nam Cộng hoà (1965), Phiếu trình Thủ tướng số 1738/M, ngày 18-2-1965 về

tình hình tỉnh Đăk Lăk 1-1965, TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 15135.

98. Việt Nam Cộng hoà (1965), Phiếu trình Thủ tướng số 3379/M, ngày 31-3-1965 về

tình hình tỉnh Đăk Lăk tháng 2-1965, TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 15648.

99. Việt Nam Cộng hoà (1965), Công ñiện số 16028/TCSQG/S1/A-K, ngày 26-4-

1965, TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 15648.

83

100. Việt Nam Cộng hoà (1965), Công ñiện số 4764/NA/CT1/K, ngày 6-5-1965 của

Tỉnh trưởng tỉnh Đăk Lăk, TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 15648.

101. Việt Nam Cộng hoà (1965), Công văn mật số 34356/TCSQG/SI/A/K, ngày 6-

8-1965 của Tổng Giám ñốc Cảnh sát Quốc gia gửi Bộ Nội vụ Sài Gòn,

TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 15162.

102. Việt Nam Cộng hoà (1965), Kế hoạch ñối phó, triệt phá các căn cứ mật khu

VC. ở Trung Nguyên Trung phần của Bộ Quân lực - Bộ Tư lệnh quân lực,

TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 15234.

103. Việt Nam Cộng hoà (1966), Báo cáo nguyệt ñể “A” tháng 1 ñến tháng 12 năm

1966 của Tỉnh trưởng tỉnh Đăk Lăk, TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 256.

104. Việt Nam Cộng hòa (1966), Tập tin tức, ñiện báo, báo cắt các báo, hãng thông

tấn xã trong và ngoài nước về cuộc khủng hoảng chính trị tại Việt Nam

Cộng hòa, TTLTQGII, Tp HCM, Ký hiệu PTT 3169.

105. Việt Nam Cộng hoà (1967), Báo cáo nguyệt ñể “A” tháng 1 ñến tháng 12 năm

1967 của Tỉnh trưởng tỉnh Đăk Lăk, TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 364.

106. Việt Nam Cộng hoà (1968), Tờ trình nguyệt ñể “A” tháng 9-12 năm 1968 của

Tỉnh trưởng tỉnh Đăk Lăk , TTLTQG II, Tp HCM, ký hiệu PTT 408.

Nhân chứng

107. Đại tá Hoàng Bôn - Nguyên Trưởng Ban Lịch sử quân sự Bộ Chỉ huy quân

sự tỉnh Đăk Lăk, người tham gia biên soạn nhiều công trình lịch sử quân

sự ñịa phương.

108. Thiếu tướng YBlốc Êban - Người giữ nhiều chức vụ quan trọng trong các tổ

chức kháng chiến tỉnh Đăk Lăk.

109. Ama H’Loan - Nguyên Bí thư huyện H9 trong kháng chiến chống Mỹ.

110. Thượng tá Y Mlia - Nguyên Chỉ huy trưởng công an huyện Krông Bông.

111. Ama H’Nga - Nguyên Chủ tịch hội ñồng nhân dân huyện Krông Bông.

112. Đại tá KPă Song - Nguyên Chỉ huy trưởng Cơ quan quân sự huyện Krông

84

Bông.

113. Phạm Ngọc Sơn - Liên lạc viên trong căn cứ ñịa Krông Bông giai ñoạn 1965-

1968, tham gia cuộc ñấu tranh nhập thị trong Xuân Mậu Thân (1968).

114. Nguyễn Hữu Trí - Nguyên Thiếu tá hoạt ñộng ñịch vận trong kháng chiến

chống Mỹ, người trực tiếp tham gia hoạt ñộng nội tuyến trong Xuân Mậu

Thân (1968).

85

PHỤ LỤC

Phụ lục 1:

GIA LAI

PHÚ YÊN

KHÁNH HÒA

LÂM ĐỒNG

Ranh giới tỉnh

Đường

Khu căn cứ của ta

SÔNG BÉ

Vùng ta giải phóng

Vùng ñịch chiếm ñóng

Biên giới

VÙNG GIẢI PHÓNG NÔNG THÔN ĐĂK LĂK 1964 - 1965

Nguồn: Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đăk Lăk

P 1

Phụ lục 2:

TRẬN PHỤC KÍCH GIAO THÔNG CỦA TIỂU ĐỘI DU KÍCH

XÃ KRÔNG NÔ H10

Ngày 19 tháng 5 năm 1963

Nguồn: Bộ Tư lệnh Quân khu V (1999), Những trận ñánh ñiển hình

trên chiến trường Khu V, Nxb. QĐND, Hà Nội.

P 2

Phụ lục 3:

TRẬN PHỤC KÍCH BẮN MÁY BAY THẤP CỦA

DU KÍCH XÃ KHUÊ NGỌC ĐIỀN - ĐẮK LẮK

Nguồn: Bộ Tư lệnh Quân khu V (1999), Những trận ñánh ñiển hình trên chiến trường Khu V, Nxb. QĐND, Hà Nội.

P 3

Phụ lục 4:

MỘT SỐ ẢNH CHỤP

Đội du kích xã Khuê Ngọc Điền - huyện Krông Bông Nguồn: Bảo tàng tỉnh Đăk Lăk.

Đồng bào các dân tộc Đăk Lăk tham gia kháng chiến chống Mỹ

Nguồn: Bảo tàng tỉnh Đăk Lăk.

P 4

Đồng bào Đăk Lăk tham gia cuộc ñấu tranh nhập thị trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Nguồn: Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk.

P 5

Hang ñá Đăk Tuar - huyện Krông Bông - Đăk Lăk. ( Ảnh của tác giả)

P 6

Chông treo Nguồn: Bảo tàng tỉnh Đăk Lăk

Bàn chông Nguồn: Bảo tàng tỉnh Đăk Lăk

P 7

Hàng rào tre Nguồn: Bảo tàng tỉnh Đăk Lăk

P 8

Mìn vướng (Ảnh của tác giả)

Bộc phá khối

P 9

(Ảnh của tác giả)

Thủ pháo bằng ống tre (Ảnh của tác giả)

Mìn DN 12

P 10

(Ảnh của tác giả)

Mìn ĐH10 (Ảnh của tác giả)

Mìn MO

P 11

(Ảnh của tác giả)

Mìn muỗi 65 (Ảnh của tác giả)

Mìn ñạp

P 12

(Ảnh của tác giả)

Mìn tự ñộng (Ảnh của tác giả)

P 13

Phụ lục 5: Ảnh chụp một số tài liệu lưu trữ

Bản tin tức số 02295 NA/ACL/BTT/4, ngày 18-3-1963 của Tỉnh trưởng tỉnh Đăk Lăk. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu tài liệu PTT 14831.

P 14

P 15

Báo cáo tin tức số 1646/NA/CT/I/M, ngày 11-6-1963 của Tỉnh trưởng tỉnh Đăk Lăk. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu tài liệu PTT 14831.

P 16

P 17

Phiếu trình Thủ tướng Tình hình tỉnh Đăk Lăk tháng 12 - 1964 của Võ Phòng. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu tài liệu PTT 15135.

P 18

Công ñiện số 33908 TCSQG/SI/A/K, ngày 5-8-1965 của Nha Tổng Giám ñốc Cảnh sát Quốc gia. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu tài liệu PTT 15648.

P 19

Công ñiện số 34356 TCSQG/SI/A/K, ngày 6-8-1965

của Nha Tổng Giám ñốc Cảnh sát Quốc gia.

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu tài liệu PTT 15648

P 20

P 21

Kế hoạch ñối phó, triệt phá các căn cứ mật khu Việt cộng ở Trung Nguyên Trung

phần của Bộ Quân lực – Bộ Tư lệnh quân lực, VNCH.

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu tài liệu PTT 15234.

P 22

Báo cáo Nguyệt ñể “A” tháng 3 - 1967 của Toà hành chính tỉnh Đăk Lăk.

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu tài liệu PTT 364.

P 23

P 24

P 25

Báo cáo Nguyệt ñể “A” tháng 5 - 1967 của Toà hành chính tỉnh Đăk Lăk.

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu tài liệu PTT 364.

P 26

P 27

P 28

Báo cáo Nguyệt ñể “A” tháng 10-1967 của Toà hành chính tỉnh Đăk Lăk . Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu tài liệu PTT 364.

P 29

P 30

Báo cáo Nguyệt ñể “A” tháng 11-1967 của Toà hành chính tỉnh Đăk Lăk . Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu tài liệu PTT 364.

P 31

P 32

Nghị quyết Hội nghị Khu ủy V lần thứ IV (mở rộng) tháng 5-1965. Nguồn: Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Đăk Lăk.

P 33

P 34

Vài nét về ñồng chí Nguyễn Thị Hoa - du kích xã Khuê Ngọc Điền

trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước.

Nguồn: Ban Khoa học lịch sử, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk.

P 35

P 36

Vài nét về những hoạt ñộng của ñồng chí Nguyễn Lý - du kích xã Khuê Ngọc Điền trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước. Nguồn: Ban Khoa học lịch sử, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Lăk.

P 37