BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

MAI THANH TÚ

CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN

TRÁCH Ở CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN KRÔNG PẮC,

TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

ĐẮK LẮK– 2022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN

TRÁCH Ở CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN KRÔNG PẮC,

TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành: QUẢN LÝ CÔNG

Mã số: 8 34 04 03

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

ĐẮK LẮK– 2022

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng cá nhân, dưới sự

giúp đỡ hướng dẫn khoa học của PGS. TS Nguyễn Thị Phượng. Tất cả các thông

tin số liệu, kết quả tự điều tra, khảo sát trong luận văn là trung thực và theo đúng

quy định.

Tác giả luận văn

Mai Thanh Tú

LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian học tập và nghiên cứu tại Phân viện Học viện hành chính

quốc gia khu vực Tây Nguyên, học viên xin cảm ơn Ban Giám đốc Học viện,

Phân viện, quý thầy cô giáo Khoa Sau Đại học, quý giảng viên đã trực tiếp giảng

dạy và hướng dẫn trong quá trình học tập tại Phân viện.

Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn Chính sách đối với những người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã từ thực tiễn Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk,

học viên xin bày tỏ lòng biết ơn PGS. TS Nguyễn Thị Phượng đã tận tình hướng

dẫn, hỗ trợ để học viên hoàn thành luận văn này.

Bên cạnh đó, tác giả cũng chân thành cảm ơn Phòng Nội vụ huyện Krông

Pắc, lãnh đạo và cán bộ UBND các xã, thị trấn trên địa bàn huyện, đã tạo điều

kiện giúp đỡ, cung cấp các tài liệu, số liệu. Đồng thời, bản thân tôi cũng gửi lời

cảm ơn đến các đồng nghiệp, bạn bè, gia đình đã khích lệ, động viên tôi trong

quá trình học tập và nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành đề tài luận văn theo

đúng mục tiêu kế hoạch đề ra.

Tác giả luận văn

Mai Thanh Tú

MỤC LỤC

Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục chữ viết tắt Danh mục bảng biểu MỞ ĐẦU

Trang 1 11

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH Ở CẤP XÃ

11 12 16 23

1.1 Cấp xã và vị trí, vai trò của cấp xã trong hệ thống chính trị cơ sở 1.2 Khái quát về người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã 1.3 Khái niệm chính sách 1.4. Các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách đối với người

30

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã Chương 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH CẤP XÃ TẠI HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

30

2.1. Điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội huyện Krông

Pắc, tỉnh Đắk Lắk.

35

62

70

2.2. Thực trạng thực hiện chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. 2.3. Đánh giá chung về chính sách và công tác quản lý nhà nước đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH Ở CẤP XÃ

70

3.1. Giải pháp bảo đảm thực hiện chính sách đối với những người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

83 90 92 96

3.2. Một số kiến nghị KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

KÝ HIỆU

CỤM TỪ VIẾT TẮT

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

CBCC

Cán bộ, công chức

CNTT

Công nghệ thông tin

GD&ĐT

Giáo dục và Đào tạo

HĐND

Hội đồng nhân dân

KH

Kế hoạch

Kế hoạch – Giao thông – Thủy lời –Nông lâm

KH-GT-TL-NLN

nghiệp

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

PV

Phỏng vấn

UBND

Ủy ban nhân dân

UBMTTQVN

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

UBKT

Ủy ban kiểm tra

DANH MỤC BẢNG BIỂU

TÊN BẢNG BIỂU

TRANG

41

Bảng 2.1 Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở huyện Krông Pắc phân theo chức danh trước ngày 01/01/2022

43

Bảng 2.2 Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở huyện Krông Pắc phân theo chức danh sau ngày 01/01/2022

45

Bảng 2.3 Kết quả đánh giá về số lượng người hoạt động không chuyên trách ở huyện Krông Pắc năm 2022

Bảng 2.4 Công tác thực hiện chế độ, chính sách 51

đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã

55

Bảng 2.5 Kết quả khảo sát về công tác đào tạo, bồi dưỡng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã

58

Bảng 2.6 Kết quả tổng hợp y kiến về công tác tuyển chọn và sử dụng những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

46

Hộp 2.1 Ý kiến về số lượng người hoạt động không chuyên trách so với chức danh theo quy định

52

Hộp 2.2 Ý kiến về chế độ, chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách cấp xã,

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm qua, cơ chế quản lý cán bộ, công chức cấp xã và người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được các cấp đặc biệt quan tâm, đã có

nhiều đổi mới và đạt được nhiều kết quả tích cực. Có thể thấy, những thành

công của cấp ủy, chính quyền địa phương cấp xã không thể không kể đến sự

đóng góp tích cực của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

Trong công việc thường ngày, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

luôn nêu cao tinh thần làm việc, sẵn sàng chia sẻ, gách vác trách nhiệm với cán

bộ, công chức cấp xã; không những vậy ngoài giải quyết các công việc hành

chính được phân công phụ trách thì đội ngũ người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã cũng gắn bó với phong trào ở thôn, buôn, tổ dân phố, tham gia

tích cực các hoạt động tại cơ sở.

Mặc dù vậy, một số quy định chính sách liên quan đến đội ngũ người hoạt

động không chuyên trách ở cấp xã vẫn còn nhiều bất cập, nhất là về cơ chế quản

lý, số lượng, tên gọi chức danh, tiêu chuẩn, chế độ phụ cấp và các chính sách

vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.

Đối với huyện Krông Pắc, các chủ trương, đường lối của Đảng chính sách

pháp luật và các quy định khác của các cấp liên quan đến chế độ chính sách

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được thực hiện đúng, đầy đủ, kịp

thời theo quy định về biên chế cũng như các chế độ phụ cấp, bồi dưỡng, đào tạo.

Nhờ đó đã động viên, khuyến khích được đội ngũ những người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã yên tâm công tác, tham gia tích cực các hoạt động ở cấp

xã góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh trật

tự an toàn xã hội tại địa bàn huyện. Tuy nhiên, trên thực tế do tác động của

nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, kết cấu hạ tầng kinh tế - chính trị - xã hội

khu vực tây nguyên nói chung, huyện Krông Pắc nói riêng vẫn chưa đồng bộ,

phát triển chưa cân đối. Bên cạnh đó, một số chính sách dành cho những người

1

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã vẫn còn nhiều bất cập như: mức phụ cấp

còn thấp so với khối lượng công việc, việc bồi dưỡng, đào tạo, bố trí, quy hoạch

còn hạn chế…. Trong khi đó, bối cảnh kinh tế phát triển nhanh, chất lượng cuộc

sống ngày càng được nâng cao. Những điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến

hiệu quả công việc, tạo ra tâm lý không an tâm công tác cho những người hoạt

động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn huyện. Từ thực trạng trên đặt ra

câu hỏi kết quả của thực hiện chính sách đối với đội ngũ không chuyên trách ở

cấp xã tại huyện Krông Pắc như thế nào? Các ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân?

Giải pháp nào để thực hiện các chính sách liên quan đến người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã hiệu quả nhằm tạo động lực để người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã gắn bó và yên tâm công tác? Từ những lý do đó, học viên

lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Chính sách đối với những người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã từ thực tiễn Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk” để làm

luận văn thạc sĩ ngành quản lý công.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Liên quan tới đề tài nghiên cứu đã có những công trình đã được công bố, có

thể kể đến những công trình sau:

2.1 Một số cuốn sách có liên quan về đổi mới nâng cao chất lượng đội

ngũ cán bộ và chính sách

Ðội ngũ cán bộ có vai trò chủ đạo trong tham mưu hoạch định chính sách,

trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng và thực thi luật pháp, quản lý mọi mặt

của đời sống xã hội. Cho nên, cán bộ và công tác cán bộ luôn giữ vai trò rất

quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của mọi quốc gia. Xác định được tầm

quan trọng của công tác cán bộ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước. Tác giả Cao Văn Thống, Vũ Trọng Lâm (2020), “Đổi mới và nâng cao

chất lượng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ trong giai đoạn mới”, nhà xuất

bản Chính trị quốc gia sự thật, đã trình bày một cách hệ thống quan điểm của C.

Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về đội ngũ cán

2

bộ và công tác cán bộ; thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ ở nước ta kể

từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay; những mặt mạnh, mặt yếu của đội

ngũ cán bộ và từng khâu trong công tác cán bộ, nguyên nhân khách quan, chủ

quan của tình trạng đó. Trên cơ sở đó, các tác giả đã đưa ra một số giải pháp

nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ Việt Nam đủ năng lực, trình độ, phẩm chất đạo

đức đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.[4]

Tác giả Ngô Thành Can, Nguyễn Thị Hồng Hải, Lưu Kiếm Thanh (2018),

“Công vụ và quản lý thực thi công vụ”, nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật,

đã đề cập đến quy định về công vụ, công chức, năng lực thực thi công vụ, mô

hình thực thi công vụ của tổ chức và cá nhân và các yếu tố ảnh hưởng từ đó đưa

ra những phương thức quản lý thực thi công vụ, theo mục tiêu theo quá trình và

theo kết quả; quản lý thực thi công vụ trong cơ quan hành chính nhà nước qua

đó giới thiệu các xu hướng cải cách chế độ công vụ, công chức trên thế giới và

Đề án đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức ở Việt Nam.[15]

Tác giả Võ Khánh Vinh (2020) với cuốn sách “Chính sách pháp luật -

Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật,

nội dung sách tập trung làm rõ những vấn đề lý luận chung về chính sách pháp

luật; các hình thức thực hiện chính sách pháp luật; các loại và các cấp độ chính

sách pháp luật. Đây là công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu, chất lượng

cao về chính sách pháp luật. Thông qua việc phân tích lý luận và thực tiễn trong

mối quan hệ qua lại, kết hợp với nhau, tác giả đưa ra các quan điểm và kiến nghị

cụ thể về vấn đề liên quan. Cuốn sách góp phần cung cấp những hiểu biết cần

thiết cho hoạt động xây dựng và thực hiện chính sách pháp luật ở nước ta.[27]

2.2 Một số bài báo, tạp chí viết về người hoạt động không chuyên trách ở

cấp xã

Trong bài viết “Phát huy vai trò cán bộ không chuyên trách cơ sở ở thị xã

Buôn Hồ” của tác giả Lê Hương trên báo Đắk Lắk điện tử (đăng ngày

26/10/2017) đã nhận định rằng đội ngũ hoạt động không chuyên trách là cầu nối

3

giữa người dân với cấp ủy, chính quyền, tổ chức đoàn thể. Trong những năm

qua đội ngũ cán bộ không chuyên trách ở thị xã Buôn Hồ đã phát huy vai trò,

trách nhiệm, tích cực đóng góp trong mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội ở địa

phương. Để phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ không chuyên

trách này, căn cứ Nghị quyết 33/2010/NQ-HĐND và Nghị quyết 146/2010/NQ-

HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk, thị xã Buôn Hồ đã hướng dẫn

UBND các xã, phường căn cứ nhu cầu thực tế của địa phương lựa chọn nhân sự

cán bộ không chuyên trách khối Đảng, khối chính quyền, đoàn thể gửi các cơ

quan có thẩm quyền thẩm định cho chủ trương và quyết định bố trí, phân công

công tác theo quy định; đồng thời, lập dự toán điều chỉnh, thực hiện chế độ,

chính sách đối với cán bộ không chuyên trách ở cấp xã, phường và ở thôn, buôn,

tổ dân phố.[11]

Bài báo “ Chế độ cán bộ không chuyên trách ở cơ sở: Ghi nhận tại Hội An”

của tác giả Lê Hiền trên báo Quảng Nam (đăng vào 01/2018) đã nêu lên thực

trạng về các chế độ đối với người hoạt động không chuyên trách cấp xã với mức

phụ cấp thấp, nhưng trách nhiệm công việc cao không khác gì so với cán bộ,

công chức cấp xã; bài báo đã đề cập đến những bất cập trong việc đề xuất, xây

dựng các quy định về công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí sử dụng

người hoạt động không chuyên trách cấp xã.[10]

Bài viết “Những bất cập trong việc thực hiện các chính sách đối với cán bộ

xã phường thị trấn và khóm, ấp” của tác giả Tuyết Nhung đăng trên trang Thông

tin điện tử của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh

Bạc Liêu (ngày 02/12/2012) bài viết đã đề cập đến các chế độ, chính sách đối

với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và đánh giá việc Nghị định

92/2009/NĐ-CP quy định về chức danh, một số chế độ, chính sách đối với cán

bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã là bước đột phá giải quyết những vấn đề bất cập về số lượng, chế

độ chính sách đối với cán bộ và những người hoạt động không chuyên trách ở

cơ sở, góp phần rất lớn để nâng cao chất lượng hoạt động và quyền lợi của đội 4

ngũ ở cơ sở. Tuy nhiên xét thực tế trong điều kiện hiện nay vẫn còn một khó

khăn, bất cập, theo quy định người hoạt động không chuyên trách ở cơ sở chưa

phải là cán bộ, nên không hưởng lương và các chế độ khác như cán bộ là phù

hợp, nhưng nếu áp dụng chung mức phụ cấp cho tất cả địa bàn trong cả nước là

chưa phù hợp. Từ đó đưa ra các kiến nghị như cần quy định các chức danh cán

bộ của các cơ quan Đảng như Tuyên giáo, Kiểm tra, Tổ chức, Chánh Văn phòng

Đảng ủy; tăng số lượng những người hoạt động không chuyên trách ở khóm ấp

từ không quá 03 người theo quy định tại khoản 3, Điều 19, Nghị định

92/2009/NĐ-CP lên không quá 07 người hoặc giao cho địa phương quyết định

số lượng những người hoạt động không chuyên trách ở khóm, ấp cho phù hợp

với tình hình và khả năng ngân sách của tỉnh; điều chỉnh tăng hệ số lương, mức

phụ cấp đối với cán bộ, công chức và những người hoạt động không chuyên

trách phù hợp với điều kiện thực tế và sự cống hiến của họ. Xã, phường, thị trấn

là một cấp hành chính. Vì vậy, cần có chính sách tinh giản biên chế cho cán bộ,

công chức cấp xã như cán bộ, công chức cấp huyện trở lên để giải quyết thỏa

đáng những cán bộ, công chức cấp xã công tác lâu năm bị hạn chế về trình độ,

năng lực và sức khỏe; đồng thời, từng bước trẻ hóa và nâng cao chất lượng cán

bộ, công chức cấp cơ sở. Chính phủ có chủ trương hỗ trợ kinh phí để đóng Bảo

hiểm xã hội và quy định những người hoạt động không chuyên trách thuộc đối

tượng bắt buộc đóng Bảo hiểm xã hội.[13]

2.3 Một số đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan đến chính sách đối

với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

Trần Anh Tuấn (2017) trong Đề tài khoa học cấp quốc gia “Nghiên cứu cơ

sở lý luận và thực tiễn phục vụ xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức

và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã” đã đi sâu vào đánh giá: số

lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ công chức và những người hoạt động không

chuyên trách cấp xã; thực trạng công tác quản lý, sử dụng đối với cán bộ công

chức và những người hoạt động không chuyên trách cấp xã và đánh giá chung

về những vấn đề đặt ra đối với việc kiện toàn đội ngũ CBCC và những người 5

hoạt động không chuyên trách cấp xã ở nước ta. Trên cơ sở đó, đề tài đã đưa ra

phương hướng, giải pháp xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức và

những người hoạt động không chuyên trách cấp xã.[19]

Lê Quốc Khánh và Nguyễn Thăng Long (2018) trong nghiên cứu về “Đội

ngũ cán bộ không chuyên trách ở Nghệ An: Thực trạng và giải pháp”, đã nghiên

cứu, đánh giá thực tiễn về chức năng, nhiệm vụ; vị trí việc làm những người

hoạt động không chuyên trách và đề xuất một số giải pháp như: thống nhất tên

gọi các chức danh, chuẩn hóa quy trình tuyển dụng, bổ sung quy định về chế độ

làm việc, hoàn thiện chính sách đãi ngộ.[12]

2.4 Một số luận văn, luận án có liên quan đến người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã

Phan Thị Nữ (2018), với luận văn thạc sĩ về “Thực hiện chính sách đối với

cán bộ không chuyên trách cấp xã trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà

Nẵng” đã tập trung vào các vấn đề: cán bộ không chuyên trách cấp xã, việc tổ

chức thực hiện chính sách đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã; nội dung

các bước trong tổ chức thực hiện chính sách và các nhân tố ảnh hưởng đến tổ

chức thực hiện chính sách đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã. Tác giả đã

đánh giá thực trạng việc tổ chức thực hiện chính sách đối với cán bộ không

chuyên trách tại các phường trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng và

qua đó rút ra những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại. Từ đó,

xây dựng phương hướng, đề xuất giải pháp và kiến nghị chủ yếu trong việc hoàn

thiện thực hiện chính sách đối với cán bộ không chuyên trách cấp trên địa bàn

quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng hiện nay.[14]

Nguyễn Ngọc Tiến (2020), với luận văn thạc sĩ về “Quản lý nhà nước đối

với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Triệu

Phong, tỉnh Quảng Trị” đã đánh giá rằng đây chính là đội ngũ đóng góp vai trò

quan trọng trong việc giúp cán bộ công chức cấp xã giải quyết tất cả các công

việc trong đời sống xã hội ở địa phương, cơ sở mang tính thường xuyên để đảm

6

bảo quyền và lợi ích, nguyện vọng chính đáng của người dân và doanh nghiệp.

Để phát triển đội ngũ này cả về số lượng và chất lượng, Nhà nước cần quan tâm

quản lý đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách cấp xã, tạo điều

kiện để xây dựng, sử dụng và phát huy một cách tốt nhất năng lực của đội ngũ

này. Thông qua nghiên cứu này, tác giả cũng đã đưa ra các định hướng và đề

xuất 05 nhóm giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối

với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Triệu

Phong, tỉnh Quảng Trị.[16]

Thông qua dữ liệu thu thập được trong quá trình thực hiện luận văn cho

thấy các công trình nghiên cứu trên đã đề cập, nghiên cứu đến nhiều góc độ khác

nhau và đa phần đều đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ

công chức nói chung ở nước ta hiện nay. Các tác giả trên đều đã phân tích một

cách hệ thống và tương đối toàn diện về người hoạt động không chuyên trách ở

cấp xã dưới góc độ lý luận và thực tiễn, cung cấp cho học viên những kiến thức,

hiểu biết nền tảng, phục vụ cho việc nghiên cứu về những người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã.

Việc phân tích, đánh giá về thực trạng những người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã được dựa trên những quy định chung và từ thực tiễn ở

huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Do đó công trình nghiên cứu của tác giả không

trùng lắp với các công trình nêu trên. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu của

các tác giả đều là cơ sở khoa học về lý luận và giải pháp để tác giả tham khảo,

so sánh và rút ra những nhận định khách quan đối với công trình nghiên cứu của

mình, cũng như đưa ra giải pháp đổi mới nhằm hoàn thiện các chế độ, chính

sách liên quan đến đối tượng này trong công trình nghiên cứu, góp phần nâng

cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy hành chính ở cơ sở.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích của luận văn:

Làm sáng tỏ cơ sở lý luận các chính sách liên quan đến người hoạt động

7

không chuyên trách ở cấp xã theo các quy định hiện nay; nêu lên thực trạng về

thực hiện chính sách của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

tại huyện Krông Pắc; nêu lên quan điểm, giải pháp nhằm thống nhất về số lượng

và tên gọi chức danh của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã từ

đó thực hiện tốt các chính sách đối với những người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã.

Nhiệm vụ của luận văn:

+ Phân tích các cơ cở lý luận về chính sách và công tác quản lý nhà nước

đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã hiện nay.

+ Phân tích thực trạng thực hiện chính sách và công tác quản lý nhà nước

đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã tại huyện Krông

Pắc hiện nay, nêu ra những điểm bất cấp, hạn chế cần khắc phục.

+ Xác định nguyên nhân và đề ra các giải pháp nhằm góp phần thống nhất

các chính sách và quản lý nhà nước đối với những người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã hiện nay tại huyện Krông Pắc.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu:

Các văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng những nội dung quy định liên

quan đến cơ sở lý luận về chính sách và công tác quản lý nhà nước đối với

những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; thực trạng về thực hiện

chính sách của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã ở huyện

Krông Pắc hiện nay.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Phạm vi không gian: Nghiên cứu được học viên thực hiện trên địa bàn

huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.

+ Phạm vi thời gian: Nghiên cứu được thực hiện từ năm 2019 đến

31/12/2022.

8

+ Phạm vi nội dung: Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu về các chính sách

và thực hiện chính sách, công tác quản lý nhà nước đối với những người hoạt

động không chuyên trách ở cấp xã trên huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận:

Luận văn được nghiên cứu dựa vào phương pháp luận chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, văn

bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đối với những người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã.

- Phương pháp nghiên cứu:

+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tổng hợp, kế thừa các kết quả nghiên

cứu lý thuyết cũng như thực tiễn về những người hoạt động không chuyên trách

ở cấp xã; các văn kiện của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

+ Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,

phương pháp lịch sử,….để nghiên cứu về tình hình thực hiện các chính sách và

công tác quản lý nhà nước đối với những người hoạt động không chuyên trách ở

cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.

- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Phương pháp này, học viên sử dụng

bảng hỏi lấy ý kiến của cán bộ, công chức và những người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã thuộc UBND các xã, thị trấn. Kết quả thu được 157 bảng

hỏi đầy đủ các thông tin theo yêu cầu của nghiên cứu.

- Phương pháp chuyên gia: Bên cạnh thu thập thông tin định lượng từ bảng

hỏi, học viên trực tiếp trao đổi, phỏng vấn và thảo luận với cán bộ quản lý trong

lĩnh vực hành chính cấp huyện, cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở

các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Krông Pắc. Trong quá trình triển khai trên

thực tế, học viên đã thực hiện phỏng vấn được 21 người.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

9

- Ý nghĩa lý luận:

Luận văn góp phần bổ sung nhằm hoàn thiện hơn các quy định về chính

sách và thực hiện chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách

ở cấp xã trong bối cảnh hiện nay.

- Ý nghĩa thực tiễn:

Tác giả của luận văn sẽ đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện

hơn các quy định về chức danh, chế độ, chính sách và việc thực hiện chính sách

đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói chung và tại

huyện Krông Pắc nói riêng trong giai đoạn hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được

kết cấu thành 3 chương cụ thể:

Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách đối với những người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đối với những người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã tại huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.

Chương 3: Giải pháp bảo đảm thực hiện chính sách đối với những người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

10

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI HOẠT

ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH Ở CẤP XÃ

1.1 Cấp xã và vị trí, vai trò của cấp xã trong hệ thống chính trị cơ sở

Ở nước ta hiện nay, hệ thống chính trị được cấu thành bởi ba thành tố: Tổ

chức Đảng, tổ chức Chính quyền, tổ chức Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã

hội. Đây là một chỉnh thể thống nhất, có sự gắn bó mật thiết với nhau dưới sự

lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Theo Điều 2 của Luật Tổ chức chính quyền địa năm 2015, đơn vị hành

chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay có bốn cấp, gồm:

Cấp tỉnh (Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương), cấp huyện (Huyện, quận, thị

xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương), cấp

xã (Xã, phường, thị trấn) và Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Cấp xã (gồm

xã, phường, thị trấn) được xác định là đơn vị hành chính cấp cơ sở địa phương.

Trong các cấp nói trên, cấp cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát

triển kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh, là cầu nối giữa Đảng với

nhân dân, trực tiếp nắm bắt tình hình, đưa đường lối, chủ trương của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào đời sống xã hội.

Theo Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015, chính quyền cấp xã có

nhiệm vụ sau:

- Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa bàn xã;

- Quyết định những vấn đề của xã trong phạm vi được phân quyền, phân

cấp theo quy định và quy định khác của pháp luật có liên quan;

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan hành chính nhà nước cấp trên

ủy quyền;

- Chịu trách nhiệm trước chính quyền địa phương cấp huyện về kết quả

thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở xã;

11

- Quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm phát huy quyền làm

chủ của Nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng và phát triển

kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn xã.

Tuy là cấp chính quyền, nhưng cấp xã là nơi mà chính quyền gần gũi với

nhân dân nhất. Hệ thống chính quyền cấp xã là cầu nối giữa nhà nước với nhân

dân sinh sống và làm việc trong xã, đại diện cho nhà nước, để thực thi quyền lực

nhà nước, đồng thời thực hiện triển khai, tổ chức chủ trương, đường lối, chính

sách của Đảng và pháp luật của nhà nước ở xã. Đặc biệt, chính quyền xã giữ vai

trò quan trọng trong việc thực hiện công tác quản lý các vấn đề phát triển xã hội

ở nông thôn. Hay nói cách khác, chính quyền cấp xã là cửa ngõ để chủ trương

của Đảng, chính sách của Nhà nước đi vào thực tiễn cuộc sống và cũng là đầu

vào để tiếp nhận nhu cầu, mong mỏi của nhân dân. Họ là lực lượng thực hiện

các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, đồng

thời là người huy động khả năng cộng đồng dân cư để thúc đẩy kinh tế - xã hội ở

địa phương, góp phần nâng cao khối đại đoàn kết toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã nói “Cấp xã là cấp gần gũi dân nhất, là nền tảng hành chính. Cấp xã

làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi”. Chính vì vậy, các cấp ngành cần

phải chú trọng quan tâm đến vai trò, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở

cấp này.

1.2 Khái quát về người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

1.2.1 Khái niệm người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008; Luật sửa đổi bổ sung một số điều

của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 không đề cập đến khái

niệm về người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Đồng thời tại Nghị định

số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ quy định về chế độ chính

sách đối với cán bộ, công chức cấp xã, thị trấn thì chỉ dùng thuật ngữ “Cán bộ

không chuyên trách cấp xã” bao gồm: Trưởng Ban Tổ chức đảng, Chủ nhiệm

Uỷ ban Kiểm tra đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo và 01 cán bộ Văn phòng Đảng

12

ủy; Phó Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy); Phó Chỉ

huy trưởng quân sự; Cán bộ kế hoạch - giao thông - thủy lợi - nông, lâm, ngư,

diêm nghiệp; Cán bộ lao động - thương binh và xã hội; Cán bộ dân số - gia đình

và trẻ em; Thủ quỹ - văn thư - lưu trữ; Cán bộ phụ trách đài truyền thanh; Cán

bộ quản lý nhà văn hóa; Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc; Phó các đoàn

thể cấp xã: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội

Nông dân, Hội Cựu chiến binh; Chủ tịch Hội Người cao tuổi; Chủ tịch Hội Chữ

thập đỏ Việt Nam”.

Khi Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính

phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công

chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp

xã và tại Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ về việc

sửa đổi, bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt

động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố; Thông tư số 13/2019/TT-

BNV ngày 06/11/2019 của Bộ Nội vụ về việc hướng dẫn một số quy định về cán

bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn,

tổ dân phố thì sử dụng thuật ngữ “người hoạt động không chuyên trách ở cấp

xã” thay cho thuật ngữ “Cán bộ không chuyên trách” theo Nghị định số

121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ.

Song có thể căn cứ vào Luật Cán bộ, công chức Luật sửa đổi bổ sung một

số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 và các văn bản

của Chính phủ, để xây dựng nên khái niệm như sau:

Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là những người làm việc tại

các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cấp xã và thôn, buôn, tổ dân phố

nhưng không phải là cán bộ, công chức cấp xã. Họ được bầu cử vào chức danh

hoặc được tuyển chọn ký hợp đồng lao động.

1.2.2 Vai trò của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

Trong hệ thống chính trị cấp cơ sở, không chỉ riêng đội ngũ cán bộ, công

13

chức mà những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là đội ngũ gần

dân, sát dân nhất, trực tiếp triển khai các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp

luật của nhà nước đến với nhân dân, góp phần thúc đẩy việc thực hiện các chủ

trương, chính sách, pháp luật đi vào thực tiễn của cuộc sống của địa phương.

Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là những người trực tiếp

thực hiện công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân chấp hành các

chủ trương, chính sách, pháp luật.

Những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là những người cư

trú, sinh sống và làm việc, gắn bó nhiều năm với các cộng đồng dân cư nơi họ

công tác. Do đó, đội ngũ này nắm rõ được tâm tư, nguyện vọng cũng như phong

tục tập quán của nhân dân ở địa phương mà họ công tác, sinh sống. Họ chính là

cầu nối giữa chính quyền với nhân dân trong việc tuyên truyền, vận động nhân

dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà

nước. Đồng thời, truyền tải những thắc mắc, kiến nghị, tâm tư và nguyện vọng

của người dân lên các cấp chính quyền. Tuy nhiên, bởi vì sự gần gũi giữa những

người hoạt động không chuyên trách với những người dân địa phương. Do đó,

tâm lý tình cảm sẽ có sự ảnh hưởng, chi phối phần nào đến hoạt động thực thi

công việc của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trong thực

tiễn ở các địa phương. Đây chính là điều kiện thuận lợi đối với họ trong việc

tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách pháp luật của nhà nước.

Đội ngũ những người không chuyên trách ở cấp xã còn là nguồn nhân lực

quan trọng, là đội ngũ kế thừa của cán bộ, công chức các cấp. Họ làm việc trong

các tổ chức chính trị và đoàn thể, là môi trường giúp cho họ có thể phát huy thế

mạnh của bản thân cũng như học tập và phát triển năng lực. Do đó, đã có không

ít cán bộ, công chức trưởng thành, là cán bộ lãnh đạo chủ chốt là những người

từng làm việc ở vị trí của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

14

1.2.3. Đặc điểm của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp

Thứ nhất, đội ngũ này phần lớn là những người sinh sống tại địa phương,

phần lớn họ trưởng thành từ thực tiễn hoạt động phong trào của địa phương hoặc

được tuyển chọn họ có kinh nghiệm trong thực tế, am hiểu về văn hóa, phong

tục tập quán của địa phương, được nhân dân, hội viên đoàn viên tin tưởng, tín

nhiệm.

Thứ hai, về cơ bản đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở

cấp xã có trình độ chính trị, đáp ứng theo quy định của các cấp về tiêu chuẩn,

năng lực trình độ và lịch sử chính trị. Trong thực tế thực hiện công việc, họ phát

huy được tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Thứ ba, vì chủ yếu trưởng thành từ các phong trào nên hầu hết những

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chưa được đào tạo bài bản, đúng

qui trình hay thực hiện việc chuẩn hóa đối với đội ngũ này. Vì vậy, những người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã sau khi được tuyển chọn thường được cử

đi đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nên năng lực thực hiện nhiệm vụ trong quản lý

nhà nước của đội ngũ này còn nhiều hạn chế nhất định.

Thứ tư, trình độ của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

đã từng bước được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, thực tế là với những người giàu

kinh nghiệm do trải qua quá trình công tác lâu dài, tuổi tác đã lớn thì bằng cấp

lại không cao. Còn với một số người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trẻ

có trình độ chuyên môn thì lại thiếu kinh nghiệm trong thực tiễn. Những điều

này đã khiến cho đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

gặp không ít khó khăn khi xử lý, giải quyết các công việc được phân công.

Thứ năm, những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã không được

hưởng lương, họ chỉ được hưởng một số phụ cấp, được tham gia các khóa học,

khóa đào tạo nghiệp vụ và một số chế độ khác theo quy định của pháp luật.

Thứ sáu, thời gian làm việc của người hoạt động không chuyên trách ở cấp

15

xã không quy định cụ thể, vì bản chất công việc của họ tại các cơ quan chính

quyền và đoàn thể là không thường xuyên và liên tục. Do đó, tính ổn định ở

những người hoạt động chuyên trách ở cấp xã thấp, số lượng người làm việc

thường xuyên thay đổi và biến động nhân sự.

1.3. Khái niệm chính sách

Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm như sau: “Chính sách là

những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực

hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất,

nội dung và phương hướng của Chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường

lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”

Các chính sách, công tác quản lý nhà nước liên quan đối với người hoạt

động không chuyên trách ở cấp xã

1.3.1 Chế độ phụ cấp, chế độ bảo hiểm xã hội và y tế

Qua từng giai đoạn khác nhau, với sự phát triển của đất nước, việc thực

hiện chính sách, chế độ, phụ cấp đối với người hoạt động không chuyên trách

cấp xã có những thay đổi khác nhau phù hợp với từng giai đoạn.

Năm 2003, thực hiện Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm

2003 của Chính phủ về quy định chế độ, chính sách của cán bộ, công chức ở xã,

phường, thị trấn. Theo Nghị định này, các quyền lợi dành cho “cán bộ không

chuyên trách” được hưởng phụ cấp hằng tháng.

Năm 2009, thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm

2009 về quy định chức danh, chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức và

những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng chế độ phụ

cấp theo quy định của từng chức danh do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định

với mức không vượt quá hệ số 1,0 mức lương tối thiểu chung; ngân sách trung

ương hỗ trợ các địa phương theo mức bình quân bằng 2/3 so với mức lương tối

thiểu chung cho mỗi người hoạt động không chuyên trách. Trong Nghị định này,

16

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được quy định cụ thể hơn về

nhiệm vụ cũng như quyền lợi khi làm việc. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai,

quyền lợi của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã còn nhiều

bất cập, chưa phù hợp. Do đó, Chính phủ đã đề xuất Chương trình tổng thể cải

cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 tại Nghị quyết số 30c/NQ-CP

ngày 08 tháng 11 năm 2011. Trong các nội dung đẩy mạnh cải cách chế độ công

vụ, công chức, Chính phủ đã xây dựng nội dung chỉ đạo về “Nghiên cứu sửa đổi

các quy định về chức danh, số lượng và chế độ, chính sách đối với cán bộ, công

chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp

xã”. Trên cơ sở đó, một trong những nhiệm vụ trọng tâm là “Đổi mới cơ chế

quản lý và chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức ở xã, phường,

thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”. Cụ thể là “sửa

đổi các quy định về chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã”.

Đến năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định 29/2013/NĐ-CP để sửa đổi

bổ sung về Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009. Tại Nghị

định này, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng chế độ phụ

cấp, chế độ bảo hiểm y tế mà những nghị định trước không đề cập. Cùng với sự

phát triển hoàn thiện dần của bộ máy chính quyền và đoàn thể các cấp, chế độ,

chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cũng dần được

quan tâm và điều chỉnh nhằm phù hợp hơn với tình hình thực tế.

Theo Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2019 Sửa đổi, bổ

sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, những người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã được hưởng chế độ phụ cấp, chế độ BHXH và chế độ BHYT.

Ngân sách nhà nước thực hiện khoán quỹ phụ cấp, bao gồm cả hỗ trợ BHXH và

BHYT để chi trả hàng tháng đối với những người hoạt động không chuyên trách

ở cấp xã theo Quyết định phân loại đơn vị hành chính xã như sau: Loại 1 được

khoán quỹ phụ cấp bằng 16,0 lần mức lương cơ sở; Loại 2 được khoán quỹ phụ 17

cấp bằng 13,7 lần mức lương cơ sở; Loại 3 được khoán quỹ phụ cấp bằng 11,4

lần mức lương cơ sở. Theo khoản 7 Điều 2 của nghị định này, những người hoạt

động không chuyên trách cấp xã thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.

1.3.2 Về chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đối với người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

Đào tạo, bồi dưỡng là khâu rất quan trọng trong công tác cán bộ nói chung,

những người hoạt động không chuyên trách nói riêng. Đào tạo là một quá trình

dài, còn bồi dưỡng là một giai đoạn ngắn nhằm cung cấp kiến thức mới cũng

như bổ trợ, nâng cao hơn các kiến thức, kỹ năng đã có sẵn của người theo học.

Đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, Chính phủ đã

ban hành Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức

danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,

phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Nghị

định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số

quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở

cấp xã, ở thôn tổ dân phố.

Theo khoản 2, Điều 12 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của

Chính phủ, những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng

chế độ đào tạo bồi dưỡng gồm: “Được cấp tài liệu học tập; Được hỗ trợ một

phần tiền ăn trong thời gian đi học tập trung; Được hỗ trợ chi phí đi lại từ cơ

quan đến nơi học tập”.

Căn cứ vào những Nghị định, văn bản hướng dẫn, địa phương ban hành và

xây dựng phương án, kế hoạch thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng

nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách

ở cấp xã dựa vào nhu cầu, tình tình thực tế của địa phương.

1.3.3 Về tuyển chọn và bố trí sắp xếp đối với người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã

18

Việc tổ chức tuyển chọn và tiếp nhận những đối tượng đáp ứng các yêu

cầu của công việc vào làm việc trong tổ chức thường là những người đang sinh

sống tại địa phương được nào thì được tuyển chọn làm việc tại địa phương đó.

Cần có sự phối hợp của các lực lượng có liên quan trong tuyển chọn, bố trí sắp

xếp đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Quá trình

tuyển chọn, bố trí sắp xếp những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

gắn với việc sắp xếp, bố trí căn cứ vào năng lực để phát huy tốt nhất khả năng

của những người này trong các tổ chức đoàn thể cấp xã.

Về số lượng, những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, theo

Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2019 Sửa đổi, bổ sung một

số quy định về CBCC cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã,

số lượng người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được bố trí theo Quyết

định phân loại đơn vị hành chính cấp xã: Xã loại 1 tối đa 14 người; Xã loại 2 tối

đa 12 người; Xã loại 3 tối đa 10 người.

Về chất lượng, cần xem xét dựa trên các mặt về: Phẩm chất chính trị, tư

tưởng, đạo đức lối sống, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng thực hiện công

việc….Ngoài ra còn có thể xem xét các yếu tố khác về mặt tuổi tác, dân tộc, tôn

giáo…. Các yếu tố này là cần thiết nhằm phát huy khả năng vận dụng khéo léo,

thành thạo những kiến thức và kinh nghiệm trong việc tuyên truyền, vận động

quần chúng nhân dân về chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà

nước cũng như nắm bắt được mong muốn, nguyện vọng của nhân dân để báo

cáo với lãnh đạo cấp xã.

1.3.4 Về chế độ làm việc đối với người hoạt động không chuyên trách ở

cấp xã

Về chế độ làm việc, do chưa có quy định của Chính phủ cũng như phụ cấp

hàng tháng còn quá thấp nên có nhiều địa phương không bắt buộc những người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã làm việc thời gian hành chính cả tuần.

Tùy vào quy định của mỗi địa phương, mỗi cơ quan đơn vị mà người hoạt động

19

không chuyên trách ở cấp xã có thể nghỉ 2-3 ngày/tuần, hoặc mỗi ngày chỉ làm

việc trong 1 buổi (thường là buổi sáng).

Sau khi Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2019 của

Chính phủ đã quy định rõ ràng hơn về số lượng, chức danh, nhiệm vụ, mức phụ

cấp và một số chế độ đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đã

phần nào khuyến khích, động viên và giúp những người này ý thức được quyền

lợi và trách nhiệm trong công việc. Vì vậy, việc đưa ra chính sách và thực hiện

chính sách sẽ tác động trực tiếp đến tâm lý, thái độ làm việc và hiệu quả công

việc của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã để đóng góp và sự

phát triển chung của địa phương. Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật do

cấp Trung ương ban hành thì các chủ thể thực hiện chính sách cấp Tỉnh, Huyện

sẽ dựa vào thực tế tại địa phương để triển khai các nội dung phù hợp.

1.3.5 Về chế độ cho thôi việc đối với người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã

Đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, chế độ thôi việc sẽ

được áp dụng theo quy định của pháp luật hiện hành. Hiện nay, khi người hoạt

động không chuyên trách ở cấp xã thôi việc sẽ được giải quyết theo quy định tại

Luật Cán bộ, công chức. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Cán bộ,

công chức và Luật Viên chức năm 2019. Theo Nghị định số 34/2019/NĐ-CP

ngày 24 tháng 4 năm 2019 Sửa đổi, bổ sung một số quy định về CBCC cấp xã

và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, số lượng

đội ngũ hoạt động không chuyên trách cấp xã đã có sự thay đổi theo chiều

hướng thu hẹp về số lượng. Khi Nghị định này có hiệu lực dẫn đến việc dôi dư

một bộ phận những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đã được tuyển

chọn vào làm việc theo quy định cũ.

Nhằm tạo thuận lợi cho việc thực hiện Nghị định số 34/2019/NĐ-CP của

Chính phủ, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 13/2019/TT-BNV ngày

6/11/2019 hướng dẫn một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người

20

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố. Theo Điều 14 của

thông tư này, Chủ tịch UBND cấp huyện tổng hợp và đề xuất với chủ tịch

UBND cấp tỉnh giải quyết chính sách cho người hoạt động không chuyên trách

ở cấp xã dôi dư do vượt quá quy định tại khoản 4 điều 2 Nghị định số

34/2019/NĐ-CP.

Thông tư cũng hướng dẫn rằng chủ tịch UBND tỉnh giải quyết chính sách

cho người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dôi dư dựa trên quy định tại

Điều 21 Nghị định 163/2016/NĐ-CP ngày 21 tháng 12 năm 2016 của Chính phủ

quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ngân sách nhà nước và khả năng

ngân sách của địa phương. Sau đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng

nhân dân cùng cấp xem xét, quyết định chi hỗ trợ thôi việc đối với người hoạt

động không chuyên trách ở cấp xã dôi dư.

Trên cơ sở đề xuất của UBND tỉnh, HĐND cùng cấp sẽ tiến hành họp, xem

xét và ban hành quy định về việc giải quyết chế độ hỗ trợ thôi việc đối với người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dôi dư.

Ngoài ra, theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014, người hoạt

động không chuyên trách ở cấp xã bắt buộc tham gia bảo hiểm xã hội nhưng chỉ

ở chế độ hưu trí và tử tuất, do đó việc những người hoạt động không chuyên

trách thôi việc họ sẽ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Trong khoản 3, điều

1, Nghị định 29/2013-NĐ quy định những người hoạt động không chuyên trách

ở các cấp xã được hưởng chế độ phụ cấp và chế độ bảo hiểm y tế, do đó, họ chỉ

được hưởng trợ cấp mà không được hưởng lương như cán bộ khác.

1.3.6 Công tác đánh giá, thi đua, khen thưởng và kỷ luật đối với người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, đánh giá được hiểu là một

hoạt động nhằm nhận định một đối tượng về mức độ hoàn thành nhiệm vụ, chất

lượng, hiệu quả công việc, trình độ, sự phát triển, kinh nghiệm được hình thành

ở thời điểm hiện tại đang được xem xét so với mục tiêu hay chuẩn mực đã được

21

xác lập.

Đánh giá cán bộ, công chức, viên chức và người lao động được xem là một

trong những bước quan trọng nhất và khó nhất trong công tác cán bộ, vì công tác

đánh giá có ảnh hưởng và có ý nghĩa quyết định đến tất cả các công tác trọng

yếu khác như tuyển chọn, bố trí, sử dụng, đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng, khen

thưởng, kỷ luật và thực hiện các chế độ, chính sách đối với cán bộ, đánh giá

đúng giúp cán bộ phát huy được năng lực, sở trường, ưu điểm, khắc phục hạn

chế, từ đó điều chỉnh hành vi phù hợp để tiến bộ trong công việc cũng như trong

rèn luyện đạo đức chính trị.

Bên cạnh đó, công tác kỷ luật cũng không thể thiếu trong việc thực hiện

chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

Tại Điều 118 của Bộ Luật Lao động đã quy định: “Kỷ luật lao động là

những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều hành sản xuất,

kinh doanh trong nội quy lao động”.

Kỷ luật lao động bao gồm các điều khoản quy định về hành vi của người

lao động trong các lĩnh vực có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ lao động,

như là: Số lượng, chất lượng công việc cần đạt được, thời gian làm việc, thời

gian nghỉ ngơi, giữ gìn trật tự tại nơi làm việc, an toàn lao động và vệ sinh lao

động, bảo vệ tài sản và bí mật công nghệ, kinh doanh của tổ chức, các hành vi vi

phạm pháp luật lao động và trách nhiệm vật chất.

Xét ở góc độ chung, thì người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cũng

là người lao động, do đó, kỷ luật lao động là một trong những chế định của pháp

luật nhằm đảm bảo duy trì các điều kiện lành mạnh trong quá trình hoạt động

của cơ quan nhà nước, các tổ chức và doanh nghiệp, chế định này là một bộ

phận cấu thành quan trọng trong hệ thống pháp luật lao động và cán bộ, công

chức hiện hành của Nhà nước ta.

Như vậy, thi đua, khen thưởng, kỷ luật là những công cụ và biện pháp quản

lý của cơ quan hành chính nhà nước trong quá trình sử dụng, xây dựng và phát 22

triển cán bộ, bao gồm cả những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

Điều này đã tạo nên sự động viên, khuyến khích họ phát huy tinh thần, khả năng

của mình cũng như làm giảm tình trạng vi phạm pháp luật trong thực hiện công

việc được giao và trong thực tiễn cuộc sống.

1.4. Các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách đối với người hoạt

động không chuyên trách ở cấp xã

1.4.1. Thể chế quản lý nhà nước, các chính sách, chế độ của địa phương

Thể chế là những văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng,

nhiệm vụ, cơ cấu, tổ chức, và các hoạt động của hệ thống chính quyền các cấp

trong bộ máy nhà nước. Thông qua các quy định, đội ngũ cán bộ, công chức,

viên chức và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thực hiện các

công việc được giao.

Thể chế quản lý, chế độ đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp

xã có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển về số lượng cũng như nâng cao chất

lượng của đội ngũ này. Thể chế chính sách nếu phù hợp, đáp ứng được nhu cầu

của đội ngũ này thì sẽ có tác động tích cực, phát huy được tính sáng tạo, gắn bó,

nhiệt huyết đối với việc thực hiện công việc trong thực hiện nhiệm vụ được

giao. Ngược lại, nếu chính sách không phù hợp, đội ngũ những người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã sẽ không yên tâm công tác, hoặc sẽ không mặn mà

gắn bó, cống hiến công sức của mình.

Bên cạnh đó, bản chất của vấn đề chính sách của Nhà nước hay địa phương

cũng ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi của chính sách đối với người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã. Chính sách càng phức tạp, thì mức độ khó khăn,

phức tạp trong thực thi càng lớn và hiệu quả thực thi chính sách sẽ bị ảnh hưởng.

Ngược lại, những chính sách càng rõ ràng, đối tượng mà chính sách điều chỉnh

càng ít thì việc thực thi càng dễ, hiệu quả càng cao. Ngoài ra, mức độ điều chỉnh

của chính sách đối với hành vi của đối tượng lớn hay nhỏ cũng ảnh hưởng đến

hiệu quả thực thi chính sách. Việc điều chỉnh một hành vi, một thói quen nào đó

23

của đối tượng chính sách là mục tiêu hướng đến của chính sách. Tuy nhiên, nếu

yêu cầu về sự thay đổi hành vi, thói quen đó không lớn thì hiệu quả chính sách

cao, nếu mức độ thay đổi hành vi và thói quen lớn thì hiệu quả sẽ thấp hơn.

1.4.2. Bối cảnh nền kinh tế quốc gia

Trong những năm qua, nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ

nghĩa ở Việt Nam đã tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở

mặt tích cực, kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa giúp cho đội

ngũ cán bộ nói chung, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói riêng

sự quyết đoán, tính tự giác, năng động sáng tạo trong thực hiện các nhiệm vụ.

Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa cũng mở ra nhiều

điều kiện thuận lợi cho phép đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp

xã tiếp cận được với tri thức bên ngoài thông qua các phương tiện, thiết bị điện

tử hiện đại như máy tính, điện thoại thông minh qua mạng internet. Đây là cơ

hội để đội ngũ này có điều kiện trao đổi, trau dồi, học hỏi thêm những kỹ năng,

kiến thức phục vụ cho công việc mà họ đang đảm nhiệm.

Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa trong thời đại số cũng

góp phần tạo điều kiện cho người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã tham

gia vào việc kinh doanh, bán hàng nhằm tăng thêm thu nhập cá nhân, qua đó góp

phần hỗ trợ thêm cho kinh tế của gia đình họ.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi nêu trên, kinh tế thị trường theo

định hướng Xã hội Chủ nghĩa cũng tồn tại những mặt trái của nó. Bởi khi yếu tố

kinh tế được đặt lên hàng đầu thì sẽ dễ làm cho người cán bộ sa ngã, tự diễn

biến – tự chuyển hóa. Mặt trái của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ

nghĩa đã làm cho một bộ phận cán bộ nói chung nảy sinh tư tưởng chủ quan, bảo

thủ, mắc bệnh thành tích, sa vào chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân. Từ đó,

làm ảnh hưởng tới thái độ, hiệu quả làm việc của chính bản thân họ. Hệ quả kéo

theo sẽ ảnh hưởng tới cả tập thể cơ quan, đơn vị nơi mà họ công tác.

Với tình hình thực tế hiện nay, mức phụ cấp của đội ngũ người hoạt động

24

không chuyên trách ở ấp xã còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu cuộc sống, thì

kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều cơ hội việc làm có

thu nhập cao hơn đã khiến cho một bộ phận đội ngũ này xin nghỉ việc hoặc

không thật sự yên tâm công tác. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc

thực hiện chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

1.4.3. Nguồn lực kinh tế của quốc gia và địa phương

Nguồn lực của quốc gia, địa phương là bao gồm nguồn lực kinh phí, nguồn

nhân lực, nguồn thông tin, … Để việc thực thi chính sách có đầy đủ và hiệu quả

hay không thì nguồn lực của quốc gia và địa phương là một yếu tố quan trọng

quyết định. Mặc dù chính sách được ban hành rất rõ ràng, cụ thể, nhưng nếu cơ

quan thực thi chính sách thiếu nguồn lực cần thiết, thì kết quả của việc thực thi

chính sách đó cũng không thể đạt được mục tiêu. Vì thế, bảo đảm nguồn lực cho

thực thi chính sách là yếu tố không thể thiếu để thực thi chính sách có hiệu quả.

Đó là: đầy đủ kinh phí, đầy đủ nhân lực (bao gồm số lượng và chất lượng), đầy

đủ thông tin (để xây dựng kế hoạch hoạt động phù hợp với thực tế). Ngoài ra,

một số nguồn lực khác ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách như các yếu tố cơ

sở vật chất, trang thiết bị…

Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, mỗi một quốc gia, mỗi một địa phương có

trình độ kinh tế phát triển, thì sẽ thúc đẩy các nguồn lực khác của quốc gia cùng

phát triển. Trong các nguồn lực quốc gia thì nguồn lực kinh tế là yếu tố quan

trọng nhất tác động đến thực hiện chính sách. Tình hình kinh tế quốc gia quyết

định đến mọi chính sách phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó. Một quốc

gia có nền kinh tế phát triển, Chính phủ sẽ có ngân sách và huy động các nguồn

lực trong nước và quốc tế để thực hiện các vấn đề an sinh xã hội cũng như việc

thực hiện các chính sách xã hội cho nhân dân ngày được nâng cao. Đối với quốc

gia có tiềm lực kinh tế mạnh, tăng trưởng kinh tế cao, thì Chính phủ sẽ có khả

năng hơn trong việc thực hiện các chính sách xã hội, đặc biệt là các chính sách

giảm nghèo, bảo trợ xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp... Tương tự

25

như vậy đối với một Quốc gia, một địa phương có tiềm lực kinh tế mạnh, khả

năng phát triển của nền kinh tế cao, thì ngân sách địa phương sẽ dồi dào hơn để

thực hiện các chính sách xã hội. Nếu không có hoặc không đủ tài chính, thì

không thể thực hiện được hoặc thực hiện không đầy đủ chính sách xã hội. Vì

vậy, mỗi quốc gia, mỗi địa phương việc tổ chức thực hiện chính sách xã hội phải

trên cơ sở đảm bảo đủ nguồn lực kinh tế cần thiết.

1.4.4. Trình độ, nhận thức, thái độ của những người thực thi chính sách

và người thụ hưởng chính sách

Như đã đề cập ở trên, nguồn nhân lực là yếu tố ảnh hưởng đến thực thi

chính sách. Trong xã hội càng phát triển, trình độ dân trí càng cao, mức sống

dân cư cao thì càng thuận lợi cho việc thực hiện chính sách xã hội. Bất cứ chính

sách nào cũng cần dựa vào chủ thể thực thi chính sách để thực hiện. Khi chính

sách được ban hành, người thực thi chính sách có thật sự hiểu, nắm vững chính

sách, có kế hoạch thực thi chính sách hiệu quả, có trách nhiệm với công việc và

có trình độ quản lý tốt là điều kiện quan trọng để thực thi chính sách có hiệu

quả. Hay nói cách khác là phẩm chất và năng lực của người thực thi chính sách

quyết định phần lớn hiệu quả của chính sách. Nếu người thực thi chính sách

thiếu tri thức và năng lực, không nắm vững chính sách sẽ dẫn đến sự sai sót

trong tuyên truyền và thực thi chính sách.

Việc tổ chức thực hiện một chính sách xã hội vào cuộc sống đạt kết quả

phụ thuộc không chỉ một cá nhân thực thi chính sách mà phụ thuộc cả vào tổ

chức bộ máy và năng lực hoạt động của các cơ quan chức năng và các công

chức, viên chức thực thi chính sách. Nếu bộ máy hành chính quan liêu, hoạt

động kém hiệu lực và kém hiệu quả thì sẽ cản trở lớn cho việc thực hiện chính

sách, không pháp huy được tác dụng của chính sách trong thực tiễn, làm sai lệch

các mục tiêu của chính sách hoặc hoàn toàn không thực hiện được mục tiêu của

chính sách. Do đó, để thực thi chính sách đạt hiệu quả mục tiêu đề ra, thì trình

độ nhận thức của cá nhân thực thi và bộ máy hành chính hoạt động đúng trách

26

nhiệm, quyền hạn, chức năng là điều kiện cần để thực hiện chính sách, đưa

chính sách vào thực tiễn cuộc sống.

Bên cạnh đó, để tổ chức thực thi chính sách đối với những người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã đòi hỏi các chính sách xã hội phải được phổ biến

và được sự hưởng ứng của nhân dân, trong đó sự nhận thức, hiểu biết chính sách

xã hội lại phụ thuộc vào trình độ học vấn của người thụ hưởng. Do đó, trình độ,

sự hiểu biết của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cũng sẽ tác động

đến hiệu quả của việc thực thi chính sách. Nếu người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã – người thụ hưởng trực tiếp chính sách tiếp nhận và ủng hộ chính

sách thì việc thực thi chính sách sẽ thuận lợi. Còn nếu họ không tiếp nhận chính

sách, không ủng hộ chính sách thì việc thực thi sẽ khó khăn, từ đó làm cho hiệu

quả thực thi chính sách sẽ giảm xuống. Một chính sách được ban hành, nếu

mang lại lợi ích thiết thực cho đối tượng thụ hưởng chính sách hoặc mức độ điều

chỉnh của chính sách đối với hành vi của đối tượng thụ hưởng chính sách không

lớn thì thường dễ được đối tượng thụ hưởng chính sách tiếp nhận, qua đó góp

phần nâng cao hiệu quả thực thi chính sách và ngược lại, nếu đối tượng thụ

hưởng chính sách cho rằng, chính sách đó không mang lại lợi ích cho họ, thậm

chí ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích của họ, thì đối tượng thụ hưởng chính sách

thường ít tiếp nhận chính sách, thậm chí là cản trở thực hiện chính sách.

Như vậy, để việc thực thi chính sách có hiệu quả thì việc hoạch định chính

sách phù hợp với sự phát triển của xã hội, thể hiện đúng đắn như cầu lợi ích cơ

bản của nhân dân và phù hợp với trình độ, hành vi nhận thức của người thực thi

và người thụ hưởng chính sách.

1.4.5. Yếu tố văn hóa, phong tục tập quán truyền thống

Yếu tố phong tục tập quán của những cộng động dân cư, vùng miền luôn có

những ảnh hưởng nhất định, chi phối hầu hết các mặt đời sống xã hội của những

con người sinh sống trong cộng đồng, vùng miền đó. Mặc dù hệ thống chính trị

cấp xã hoạt động dựa trên các quy định của pháp luật nhưng các hoạt động quản

27

lý nhà nước đối với nguồn nhân lực ở các địa phương chịu không ít ảnh hưởng

từ văn hóa của địa phương đó.

Văn hóa địa phương có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến quản lý nhà

nước đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Xét trên mặt

tích cực, giữa những người dân với nhưng người hoạt động không chuyên trách

ở cấp xã có sự gần gũi, hiểu biết lẫn nhau, có sự tương đồng về lối sống, cách

ứng xử… Do đó trong quá trình thực hiện hiện vụ ở cơ sở, người hoạt động

không chuyên trách không chuyên trách ở cấp xã có thể vận dụng được tinh thần

đoàn kết trong cán bộ và nhân dân, phát huy vai trò uy tín, tinh thần trách nhiệm

của mỗi người dân cũng như của những người hoạt động không chuyên trách ở

cấp xã. Thông qua việc hiểu biết về phong tục tập quán của nhân dân nơi cư trú,

vừa giúp người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thực hiện tốt công việc

được giao, vừa giúp họ nắm bắt tốt hơn tâm tư, nguyện vọng, ý kiến của nhân

dân về các chủ trương chính sách của Nhà nước. Ngoài ra, nếu nhận được sự

ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân địa phương, người hoạt động không chuyên trách

ở cấp xã lại có thêm động lực để thực hiện tốt hơn các công việc được cấp trên

phân công.

Bên cạnh những mặt tích cực, văn hóa làng xã cũng ảnh hưởng không nhỏ

đến tác phong, lối làm việc của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã về

thời gian làm việc, tác phong trong công tác, việc chấp hành ý thức tổ chức kỷ

luật của cơ quan đơn vị, vi tình làng nghĩa xóm mà nể nang né tránh, ngại va

chạm, chủ quan trong công việc, trong công tác cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ

đến hiệu quả làm việc, chất lượng công việc được giao.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc tiếp xúc va chạm với văn hóa bên

ngoài đã làm cho văn hóa địa phương có những thay đổi nhất định, điều này ít

nhiều cũng đã tác động tới những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

28

Tiểu kết chương 1

Chương 1 Thực hiện hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách đối với đội

ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Từ đó, luận văn đã

luận giải những vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, nêu và làm rõ những khái niệm, vai trò, vị trí và đặc điểm của

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; khái niệm về chính sách các

chính sách liên quan đến người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

Dưới góc độ của khoa học pháp lý, luận văn đã lý giải xác định các nội

dung về chính sách; công tác quản lý nhà nước liên quan đến những người hoạt

động không chuyên trách ở cấp xã.

Thứ hai, Luận văn đã đi phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực

thi chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã như

thể chế quản lý nhà nước, các chính sách, chế độ của địa phương; Bối cảnh nền

kinh tế quốc gia; Nguồn lực kinh tế của quốc gia và địa phương; Trình độ, nhận

thức, thái độ của những người thực thi chính sách và người thụ hưởng chính

sách; Yếu tố văn hóa, phong tục tập quán truyền thống để qua đó làm rõ hơn các

yếu tố ảnh hưởng trong việc thực hiện chính sách và công tác quản lý nhà nước

đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã từ đó hiện thực hóa chính

sách, đưa chính sách vào cuộc sống. Chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách

phụ thuộc nhiều vào năng lực của đối tượng thực thi chính sách và nhận thức

của người thụ hưởng chính sách. Thực trạng năng lực thực hiện chính sách bên

cạnh những ưu điểm còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Do đó, nghiên cứu vấn

đề lý luận và thực tiễn năng lực thực hiện chính sách có ý nghĩa khoa học, thiết

thực và cấp bách hiện nay.

Việc thực hiện hai nội dung trên vừa hoàn thành một phần mục tiêu của

luận văn đã đưa ra. Bên cạnh đó, việc hệ thống hóa cơ sở lý luận là tiền đề để

tiến hành nghiên cứu về thực trạng chính sách đối với những người không

chuyên trách ở cấp xã trong những chương tiếp theo của luận văn.

29

Chương 2

THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG

KHÔNG CHUYÊN TRÁCH CẤP XÃ TẠI HUYỆN KRÔNG PẮC,

TỈNH ĐẮK LẮK

2.1. Điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội huyện Krông Pắc,

tỉnh Đắk Lắk

2.1.1. Vị trí địa lý, tình hình dân cư và các đơn vị hành chính cấp xã

Huyện Krông Pắc cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột trên 30 km,

dọc theo Quốc lộ 26 về phía Đông tỉnh Đắk Lắk, có diện tích tự nhiên là 62.581

km. Về ranh giới, huyện Krông Pắc phía Đông giáp huyện Ea Kar, tỉnh Đắk

Lắk; phía Nam và Đông Nam giáp huyện Krông Bông; phía Tây giáp thành phố

Buôn Ma Thuột, phía Tây Bắc giáp huyện Cư Mgar, phía Bắc giáp thị xã Buôn

Hồ, tỉnh Đắk Lắk. Với vị trí tiếp giáp các huyện khác trong tỉnh và có Quốc lộ

26 trải dài theo chiều Đông – Tây nên huyện có nhiều thuận lợi trong việc giao

thương hàng hóa, phát triển kinh tế - xã hội.

Về dân số, trên địa bàn huyện có hơn 200 ngàn dân, gồm 35 dân tộc anh

em cùng sinh sống, trong đó dân tộc thiểu số có 75.950 nhân khẩu chiếm 36%

dân số toàn huyện. Tỷ lệ tăng dân số trung bình hàng năm khoảng 1,51%.

Krông Pắc là huyện có địa hình rộng, và nhiều đơn vị hành chính, sự

nghiệp. Trên địa bàn huyện có 16 đơn vị hành chính cấp xã (15 xã và 01 thị trấn

gồm 249 thôn, buôn, tổ dân phố; buôn đồng bào dân tộc thiểu số là 59 buôn; có

177 thôn, có 13 tổ dân phố). Trong 15 xã thì huyện có 03 xã thuộc vùng III, đời

sống của nhân dân ở các xã này còn gặp nhiều khó khăn.

2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội

Về kinh tế

Huyện Krông Pắc là một trong những địa phương có nền kinh tế phát triển

của tỉnh Đắk Lắk. Tổng giá trị sản xuất toàn nền kinh tế theo giá hiện hành ước 30

đạt 13.351 tỷ đồng/KH 13.330 tỷ đồng, đạt 100,16%. Tăng trưởng kinh tế

10,56% (kế hoạch đề ra 10%), trong đó: Nông, lâm nghiệp tăng 7,31% (kế

hoạch đề ra 6,25%); Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, xây dựng 16,01% (kế

hoạch đề ra 12,6%); Dịch vụ 13,63% (kế hoạch đề ra 14,7%).

Trên cơ sở những thuận lợi về điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã

hội của địa phương, trong những năm qua, dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo của Huyện

ủy và của chính quyền các cấp trong huyện, cơ cấu kinh tế của huyện Krông Pắc

tiếp tục có sự dịch chuyển đúng hướng, Thu nhập bình quân đầu người 45,30

triệu đồng/người/năm, đạt 100,02% kế hoạch. Tất cả các ngành kinh tế đều có

sự phát triển, trong đó Nông, lâm, ngư nghiệp, chiếm 55,73% (kế hoạch đề ra

55,68%); Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, chiếm 16,85% (kế

hoạch đề ra 16,5%); Dịch vụ, chiếm 27,42% (kế hoạch đề ra 27,82%).

Trong sản xuất nông, lâm nghiệp, phát huy tiềm năng, lợi thế còn địa

phương nên đạt được nhiều thành tựu. Huyện đã chủ động xây dựng các kế

hoạch sản xuất, giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, cũng như lịch thời vụ,

cơ cấu giống, phù hợp với điều kiện canh tác của từng vùng nhằm tăng năng

suất, nâng cao thu nhập trên cùng đơn vị diện tích. Cơ cấu mùa vụ chuyển biến

mạnh mẽ theo hướng tích cực, đưa các giống mới có năng suất cao, chất lượng

tốt, kháng sâu bệnh vào sản xuất, chú trọng sản xuất số lượng đi đôi với chất

lượng, gắn với thị trường đã góp phần tăng năng suất, sản lượng và tăng giá trị

thu nhập trên đơn vị diện tích canh tác.

Tổng diện tích gieo trồng thực hiện 61.257 ha (kế hoạch đề ra 60.411 ha),

đạt 101,4% kế hoạch, so với cùng kỳ năm 2019 tăng 1,4%. Tổng sản lượng

lương thực ước thực hiện 192.900 tấn (kế hoạch đề ra 192.000 tấn), đạt

100,47%, so với cùng kỳ năm 2019 tăng 5,18%.

Trên địa bàn huyện có nhiều loại cây trồng cho giá trị kinh tế cao như: Cà

phê, Hồ tiêu, Sầu riêng, Bơ, Mít,..., đặc biệt cây Sầu riêng được trồng xen trong

các vườn cà phê đã và đang mang lại nguồn thu nhập lớn cho nông dân, vùng

31

trong sâu riêng nhiều nhất hiện nay là Ea Yông, Ea Kênh, Ea Knuếc, Hòa Đông.

UBND huyện đã phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hợp tác

xã nông nghiệp hữu cơ huyện Krông Pắc hướng dẫn thực hiện cấp 20 mã vùng

trong cho 425 ha Sầu riêng trên địa bàn huyện, thực hiện thí điểm tại xã Ea

Yông và xã Ea Kênh. Tiếp tục triển khai các văn bản, hướng dẫn quy trình về

xây dựng nhà vùng trong cho một số cây trồng chủ lực và cây ăn quả trên địa

bàn huyện theo Luật trồng trọt năm 2018.

Trong chăn nuôi, Krông Pắc thực hiện nhanh tái cơ cấu chăn nuôi theo

hướng tập trung đầy mạnh phát triển chất lượng, chăn nuôi khép kín, không mùi;

từng bước chuyển chăn nuôi phân tán sang chăn nuôi tập trung, trang trại, gia

trại theo hướng công nghiệp. Thực hiện Kế hoạch tái cơ cấu lĩnh vực chăn nuôi

năm 2020 theo đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp; kêu gọi đầu tư của các

doanh nghiệp cho lĩnh vực chăn nuôi, hiện nay các doanh nghiệp đã tổ chức liên

kết theo chuỗi sản phẩm từ sản xuất đến thị trường tiêu thụ dưới hình thức chăn

nuôi gia công hợp tác doanh nghiệp và nông dân cùng làm.

Trong lĩnh vực Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp và xây dựng, tổng số

cơ sở sản xuất trên địa bàn huyện Krông Pắc là 1.210 cơ sở. Tổng giá trị sản

xuất theo giá hiện hành ước thực hiện 1.623 tỷ đồng. Giá trị sản xuất theo giá

hiện hành ngành xây dựng khoảng 627 tỷ đồng.

Trong lĩnh vực Thương mại - Dịch vụ, hoạt động kinh doanh hàng hóa và

dịch vụ đáp ứng được phần lớn nhu cầu của nhân dân. Dịch vụ vận tải, bưu

chính, viễn thông, ngân hàng... duy trì phát triển, chất lượng dịch vụ được nâng

cao, cơ bản đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân. Tổng số cơ sở dịch vụ 5965 cơ

sở, giá trị sản xuất theo giá hiện hành ngành dịch vụ 3.661 tỷ đồng, trong đó giá

trị sản xuất thương mại 1.900 tỷ đồng.

Về xã hội

Hiện nay, dân số toàn huyện gần 200 ngàn người, có 35 dân tộc cùng sinh

sống, với hơn 36% là người dân tộc thiểu số. Do đó, Công tác dân tộc được

32

Huyện ủy, UBND huyện và các cơ quan có thẩm quyền quan tâm thực hiện. Các

chương trình chính sách nhà nước đầu tư trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số

được triển khai thực hiện đảm bảo đúng quy định, theo kế hoạch và nguồn vốn

được cấp. Triển khai thực hiện các danh mục công trình năm 2020 theo Chương

trình 135 tại các xã: Ea Hiu, Ea Yiêng, Ea Uy, Tân Tiến, Vụ Bốn, Krông Búk và

xã Ea Phê với tổng số tiền 7.685 triệu đồng. Bên cạnh đó, huyện cũng đã thực

hiện tốt chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, tổ

chức gặp mặt người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, tặng 102 xuất quà

và khen thưởng cho 26 người có uy tín có thành tích tiêu biểu trong đồng bảo

dân tộc thiểu số; thăm hỏi ốm đau người có uy tín trong vùng đồng bảo dân tộc

thiểu số theo Quyết định 12/QĐ-TTg.

Đối với Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, huyện đã thành lập

Đoàn kiểm tra các mô hình giảm nghèo và các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất,

đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo tại các xã: Ea Hiu, Ea

Uy, Ea Yiêng, Vụ Bổn, Krông Búk, Ea Phê, Tân Tiến, Hòa Tiến. Triển khai hỗ

trợ các chương trình về giảm nghèo theo chương trình mục tiêu quốc gia lựa cho

các xã, thị trấn. Tổ chức hỗ trợ quà tết cho người nghèo, người khuyết tật, người

nhiễm chất độc da cam được 1.680 xuất với số tiền 317 triệu đồng; hỗ trợ người

thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo gặp khó khăn do di dịch Covid-19 với 4.876 hộ

(22.733 khẩu) với tổng kinh phí 17.050 triệu đồng hỗ trợ xây dựng 83 nhà vệ

sinh cho hộ nghèo tại 4 xã: Hòa An, Ea Knuếc, Ea Yông, Krông Búk và phân

hiệu (01 lớp học) trưởng Mẫu giáo Sao Mai, xã Vụ Bổn với tổng số tiền 330

triệu đồng.

Hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2019 thụ hưởng cho năm 2020 trên địa bàn

huyện có: 2.888 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 5,54%, tỷ lệ hộ cận nghèo chiếm 3,82%.

Trong công tác xây dựng nông thôn mới, với sự vào cuộc tích cực của các

cấp, các ngành, địa phương và sự hưởng ứng tích cực của nhân dân, doanh

nghiệp, phong trào nông thôn mới của huyện Krông Pắc đạt nhiều kết quả.

33

Trong 15 xã thuộc huyện có tổng số 259 tiêu chí đạt chuẩn và cơ bản đạt chuẩn

(252 tiểu chỉ đạt chuẩn, 07 tiêu chỉ tiêu chỉ cơ bản đạt chuẩn); bình quân 17,27

tiêu chí/xã đạt chuẩn và cơ bản đạt chuẩn.

Trong công tác Giáo dục và Đào tạo, Huyện ủy và UBND huyện đã chỉ

đạo đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và giảng dạy, tổ

chức kiểm tra chất lượng ở các đơn vị trường học. Bên cạnh đó, quan tâm bồi

dưỡng, phụ đạo học sinh yếu, giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh

dân tộc thiểu số, học sinh bỏ học để các em có điều kiện học hành. Thực hiện Đề

án sáp nhập, trong năm 2020 huyện đã sáp nhập 04 trường học trên địa bàn.

Hiện nay, trên địa bàn huyện có 97 trường thuộc huyện quản lý gồm 3 bậc

học: Mầm non 28 trường (05 trường tư thục), Tiểu học 45 trường; THCS là 22

trường; 01 phổ thông dân tộc nội trú; 01 trường Tiểu học và THCS. Tổng số lớp

là 1.545 lớp với 41.364 học sinh. Năm 2020 có 56/92 trường đạt chuẩn Quốc

gia. Tổng số cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên trường học thuộc huyện 3.482

người, trong đó có 248 cán bộ quản lý, 2.717 giáo viên, và 527 nhân viên. Theo

tiêu chuẩn quy định trong Luật giáo dục năm 2019, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn

73,2%, tỷ lệ giáo viên đạt trên chuẩn 10% [32].

Trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, huyện đã chỉ đạo phòng ban

chức năng hướng dẫn các cơ sở thực hiện tốt Luật khám, chữa bệnh; Luật Dược

và Luật Chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân; Luật an toàn thực phẩm theo quy

định; kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm đảm bảo vệ sinh an

toàn thực phẩm, không để xảy ra tình trạng ngộ độc thực phẩm trên địa bàn.

Trong năm 2020, số lượng người dân đóng bảo hiểm y tế theo Quyết định

của Thủ tướng Chính phủ đạt 86,09%; tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi tiêm đủ 8 loại

vắc xin đạt 95%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng (cân nặng theo tuổi)

giảm xuống còn 16,8%; tỷ lệ suất sinh hàng năm giảm 0,25%; tỷ lệ tăng dân số

tự nhiên 1%.

Trong lĩnh vực lao động, từ năm 2020 đến nay huyện đã giải quyết việc

34

làm mới cho hơn 3.226 lao động chưa có việc làm. Bên cạnh đó, huyện tiếp tục

thực hiện việc nâng cao trình cho người lao động, số học viên được đào tạo nghề

lên tới 400 người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo hiện đã chiếm 49%, tỷ lệ lao động

qua đào tạo nghề [32].

Với vị trí địa lý, đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của huyện Krông Pắc

và đặc biệt là sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương tạo

điều kiện thuận lợi để thực hiện các chính sách và công tác quản lý nhà nước

liên quan đến người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn huyện

Krông Pắc có nhiều chuyển biến tích cực, các chính sách được triển khai đồng

bộ, hiệu quả, kịp thời. Song là huyện có có 35 dân tộc anh em sinh sống, tỷ lệ hộ

nghèo chiếm 5,54%; cơ sở hạ tầng, địa hình đi lại ở một số xã vùng sâu, vùng xa

còn khó khăn nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện các chính sách,

nhất là các chính sách của địa phương hỗ trợ thêm hầu như chưa được triển khai,

thực hiện vì nguồn kinh phí còn hạn chế.

2.2. Thực trạng thực hiện chính sách đối với những người hoạt động

không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk

2.2.1. Về việc ban hành, thực hiện chính sách đối với người hoạt động

không chuyên trách

Thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ, từ năm 2010 đến 31/12/2022 tỉnh

Đắk Lắk đã ban hành nhiều văn bản triển khai thực hiện đối với những người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn tỉnh.

Để cụ thể hóa các nội dung quy định về những người hoạt động không

chuyên trách xã theo Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009

của Chính phủ, HĐND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành Nghị quyết số 33/2010/NQ-

HĐND ngày 10/12/2010 quy định về chức danh, số lượng, hệ số phụ cấp đối với

những người hoạt động không chuyên trách cấp xã, thôn, buôn, tổ dân phố và

sinh hoạt phí đối với một số chức danh cán bộ cơ sở (được sửa đổi, bổ sung tại

Nghị quyết số 146/2014/NQ-HĐND ngày 13/12/2014 và Nghị quyết số

35

14/2018/NQ-HĐND ngày 6/12/2018 của HĐND tỉnh). Theo các văn bản này,

người hoạt động không chuyên trách cấp xã có 18 chức danh, bao gồm: Trưởng

Ban Tổ chức, Trưởng Ban Tuyên giáo, Chủ nhiệm Ủy Ban Kiểm tra Đảng cơ sở

và cán bộ Văn phòng; Phó Trưởng Công an, Phó Chỉ huy trưởng Quân sự, cán

bộ Kế hoạch - Giao thông - Thủy lợi - Nông lâm nghiệp, cán bộ Văn thư - Lưu

trữ - Thủ quỹ, cán bộ phụ trách Đài Truyền thanh, cán bộ quản lý Nhà văn hóa,

cán bộ chuyên trách công tác Cải cách hành chính và Công an viên Thường trực

ở xã; Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam xã, Phó các đoàn thể cấp xã:

Đoàn Thanh niên, Hội liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh;

Chủ tịch Hội Người cao tuổi, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ.

Căn cứ Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2019 của

Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã

và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố. Hội đồng

nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 16/2021/NQ-HĐND ngày 20 tháng 12

năm 2021 quy định chức danh, số lượng, mức phụ cấp đối với người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã; mức phụ cấp đối với người hoạt động không

chuyên trách, mức bồi dưỡng người trực tiếp tham gia vào công việc của thôn,

buôn, tổ dân phố; mức khoán kinh phí hoạt động đối với Ủy ban Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã và mức hỗ trợ thôi việc đối

với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dôi dư trên địa bàn tỉnh.

Theo Khoản 1 Điều 1 của Nghị quyết số 16/2021/NQ-HĐND do Hội đồng

Nhân dân tỉnh Đắk Lắk ban hành, các chức danh người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk bao gồm 14 chức danh, cụ thể:

1) Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng ủy - Tổ chức;

2) Phụ trách Tuyên giáo - Dân vận;

3) Phụ trách Văn phòng Đảng ủy;

4) Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

36

5) Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự;

6) Phụ trách Văn thư - Lưu trữ - Thủ quỹ - Cải cách hành chính;

7) Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ;

8) Phó Chủ tịch Hội Nông dân;

9) Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh;

10) Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;

11) Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ;

12) Chủ tịch Hội Người cao tuổi;

13) Phụ trách Đài Truyền thanh - Nhà văn hóa;

14) Phụ trách Kế hoạch - Giao thông - Thủy lợi - Nông lâm nghiệp.

Tùy theo tình hình thực tế của từng địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân

các huyện, thị xã, thành phố bố trí số lượng người hoạt động không chuyên trách

ở cấp xã cho phù hợp với từng chức danh, nhưng không vượt quá số lượng

người hoạt động không chuyên trách quy định tại khoản 2 Điều này: Với xã loại

1 tối đa 14 người, xã loại 2 tối đa 12 người và xã loại 3 tối đa 10 người. Việc

xác định xã loại nào dựa theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk

Lắk về công nhận phân loại đơn vị hành chính cấp xã. Đối với các địa phương

có số lượng người được bố trí ít hơn các chức danh thì có thể bố trí kiêm nhiệm

chức danh.

Trước ngày 01/01/2022 việc thực hiện các chính sách đối và quản lý nhà

nước với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Đắk

Lắk nói chung, huyện Krông Pắc nói riêng được dựa trên cơ sở nội dung các văn

bản như: Nghị quyết số 33/2010/NQ-HĐND ngày 10/12/2010 của HĐND tỉnh

Đắk Lắk quy định chức danh, số lượng, hệ số phụ cấp đối với những người hoạt

động không chuyên trách cấp xã, thôn, buôn, tổ dân phố và sinh hoạt phí đối với

một số chức danh cán bộ cơ sở; Nghị quyết số 146/2014/NQ-HĐND ngày

37

13/12/2014 của HĐND tỉnh Đắk Lắk về sửa đổi, bổ sung một số Điều 1 Nghị

quyết 33/2010/NQ-HĐND ngày 10/12/2010 của HĐND tỉnh Đắk Lắk; Nghị

quyết 14/2018/NQ-HĐND ngày 06/12/2018 của HĐND tỉnh Đắk Lắk về sửa

đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 146/2014/NQ-HĐND ngày

13/12/2014 của HĐND tỉnh Đắk Lắk và các văn bản triển khai, hướng dẫn của

UBND tỉnh Đắk Lắk, Sở Nội vụ tỉnh Đắk Lắk.

Trong quá trình thực hiện chính sách đối với đội ngũ người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã giai đoạn này UBND huyện Krông Pắc cũng đã

chủ động, tích cực trong việc đề xuất, kiến nghị với UBND tỉnh và các sở ban

ngành liên quan về việc điều chỉnh nâng mức phụ cấp cũng như bổ sung các chế

độ khác đối với đội ngũ này.

Trong thời gian qua, đáng chú ý là việc UBND huyện Krông Pắc tham gia

ý kiến để triển khai thực hiện Nghị định 34/2019/NĐ-CP của Chính phủ. Sau

khi nhận được Công văn số 115/SNV-XDCQ ngày 22/01/2019 của Sở Nội vụ

tỉnh, UBND huyện đã chỉ đạo Phòng Nội vụ huyện chủ trì, phối hợp với Đảng

ủy, UBND các xã, thị trấn và các đơn vị liên quan rà soát, đánh giá và tham gia

ý kiến về các nội dung liên quan theo đề nghị của Sở Nội vụ tỉnh.

Căn cứ công văn số 3438/UBND-TH ngày 03/5/2019 của UBND tỉnh Đắk

Lắk về việc triển khai quy định về cán bộ, công chức cấp xã; chế độ chính sách

cho người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thôn buôn, TDP và căn cứ

công văn số 647/SNV-XDCQ ngày 07/5/2019 của Sở Nội vụ tỉnh Đắk Lắk về

việc triển khai thực hiện công văn số 3438/UBND-TH, UBND huyện đã tiến

hành rà soát và tổng hợp thành báo cáo số 177/BC-UBND ngày 28/5/2019 về

kết quả thực hiện các quy định về chức danh, số lượng, chế độ chính sách đối

với cán bộ, công chức và người hoạt động không chuyên trách cấp xã, cấp thôn

buôn, TDP trên địa bàn huyện Krông Pắc.

Theo Báo cáo của UBND huyện về thực hiện Nghị định 34/2019/NĐ-CP

của Chính phủ cần quy định những chức danh gồm: Đối với xã, thị trấn loại 1

38

quy định 14 chức danh sau (mỗi chức danh bố trí 01 người): Phó Trưởng Công

an (Nơi chưa có công an chính quy); Phó chỉ huy Trưởng Ban chỉ huy quân sự

cấp xã; Cán bộ Văn phòng Đảng uỷ; Phó Bí thư Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ

chí Minh cấp xã; Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh cấp xã; Phó Chủ tịch Hội

Liên hiệp phụ nữ cấp xã; Phó Chủ tịch Hội Nông dân cấp xã; Phó Chủ tịch

UBMTTQVN cấp xã, Văn thư - Thủ quỹ - Lưu trữ; Chủ tịch Hội người cao tuổi

cấp xã; Cán bộ Cải cách hành chính cấp xã; Cán bộ KH-GT-TL-NLN, Cán bộ

Đài truyền thanh; Chủ nhiệm UBKT Đảng ủy. Đối với xã loại 2 quy định 12

trong số 14 chức danh như đối với xã loại 1, giảm đi 02 chức danh đó là Cán bộ

Đài truyền thanh (có thể giao cho công chức Văn hóa - xã hội phụ trách không

hưởng thêm phụ cấp) và Chủ nhiệm UBKT Đảng ủy (có thể giao cho Phó Bí thư

Đảng ủy phụ trách không hưởng thêm phụ cấp).

Quá trình tổ chức triển khai thực hiện các quy định chính sách đối và công

tác quản lý nhà nước đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên

địa bàn huyện luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ Đắk Lắk,

UBND tỉnh Đắk Lắk, Thường trực Huyện uỷ, sự hướng dẫn của các Sở, Ban

ngành của tỉnh mà trực tiếp là Sở Nội vụ tỉnh Đắk Lắk; sự phối kết hợp của các

cơ quan, ban ngành, đoàn thể, Đảng ủy, chính quyền địa phương cấp cơ sở, cán

bộ và quần chúng nhân dân luôn đồng tình ủng hộ.

Hằng năm, UBND huyện Krông Pắc đã xây dựng kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội, gắn với xây dựng chính quyền, cải cách hành chính, nâng cao năng

lực cho đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

Sau ngày 01/01/2022, việc thực hiện các chính sách đối và quản lý nhà

nước với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Đắk

Lắk thực hiện theo Nghị quyết số 16/2021/NQ-HĐND ngày 20 tháng 12 năm

2021 quy định chức danh, số lượng, mức phụ cấp đối với người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã; mức phụ cấp đối với người hoạt động không

chuyên trách, mức bồi dưỡng người trực tiếp tham gia vào công việc của thôn,

39

buôn, tổ dân phố; mức khoán kinh phí hoạt động đối với Ủy ban Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã và mức hỗ trợ thôi việc đối

với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dôi dư trên địa bàn tỉnh.

Trong kỳ họp thứ 3 của HĐND huyện Krông Pắc khóa XII, HĐND huyện

đã ban hành Nghị quyết số 42/NQ-HĐND, ngày 24 tháng 12 năm 2021 về chỉ

tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh năm

2022. Trong đó, đã đưa ra mục tiêu về việc tuyển dụng, bố trí, sử dụng cán bộ,

công chức, viên chức đảm bảo đúng tiêu chuẩn vị trí việc làm. Tăng cường kỷ

cương, kỷ luật lao động, nâng cao trách nhiệm và hiệu quả công tác của cán bộ,

công chức, viên chức và người lao động.

Sau khi Hội đồng nhân tỉnh ban hành Nghị quyết số 16/2021/NQ-HĐND

ngày 20 tháng 12 năm 2021; Hội đồng nhân dân huyện ban hành Nghị quyết số

42/NQ-HĐND, ngày 24 tháng 12 năm 2021 về chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh

tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh năm 2022, UBND huyện Krông Pắc

đã tổ chức triển khai tại các hội nghị, ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo

các phòng ban chuyên môn, UBND các xã, thị trấn tổ chức phổ biến triển khai

thực hiện. Đồng thời, giao cho UBND các xã thị trấn tiến hành rà soát, sắp xếp

bố trí người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đảm bảo theo đúng số

lượng, bố trí con người vào làm các vị trí phù hợp với trình độ chuyên môn,

năng lực thực tiễn đảm bảo thực hiện nhiệm vụ hiệu quả và đồng bộ. Xem xét,

tinh giảm, cho thôi việc đối với các trường hợp không đảm bảo tiêu chuẩn.

Trong năm 2022, Huyện ủy Krông Pắc đã ban hành Đề án số 03-ĐA/HU

ngày 14/6/2022 về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp

của huyện Krông Pắc giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030. Đề án

này được áp dụng cho các đối tượng gồm cán bộ, công chức, viên chức, người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, được quy hoạch vào các chức danh lãnh

đạo, quản lý. Điều này thể hiện sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng bộ huyện

Krông Pắc đối với công tác cán bộ nói chung, người hoạt động không chuyên

40

trách ở cấp xã nói riêng. Đây cũng là căn cứ để UBND huyện xây dựng chương

trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công

chức, viên chức, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã của huyện Krông

Pắc giai đoạn 2022-2025 và giai đoạn tiếp theo.

2.2.2. Số lượng và chất lượng người hoạt động không chuyên trách ở cấp

Trước 01/01/2022, tổng số người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là

311 người, trong đó kiêm nhiệm 89, Đảng viên 261.

Bảng 2.1 Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở huyện

Krông Pắc phân theo chức danh trước ngày 01/01/2022

TÊN GỌI CÁC CHỨC DANH

Số lượng Kiêm nhiệm Đảng viên

I. Các chức danh quy định

311

261

89

Trưởng ban tổ chức Đảng

15

13

15

Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng

15

15

15

Trưởng ban tuyên giáo

13

13

13

Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam

23

3

21

Phó Bí thư Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

15

3

14

Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ

14

2

13

Phó Chủ tịch Hội Nông dân

16

6

14

Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh

16

0

13

Chủ tịch Hội người cao tuổi

16

1

10

Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ

15

2

12

Cán bộ Văn phòng Đảng ủy

17

5

17

Phó Trưởng công an (nơi chưa có công an chính

11

3

9

quy)

Công an viên thường trực (nơi chưa có công an

21

0

13

chính quy)

41

TÊN GỌI CÁC CHỨC DANH

Số lượng Kiêm nhiệm Đảng viên

Phó Chỉ huy trưởng quân sự

31

2

28

Cán bộ Kế hoạch – Giao thông – Thủy lợi – Nông

16

4

10

thôn mới

Cán bộ cải cách hành chính

15

5

11

Văn thư – Thủ quỹ - Lưu trữ

17

3

14

Cán bộ Đài truyền thanh

16

4

14

Cán bộ quản lý nhà văn hóa

9

5

5

II. Các chức danh quy định thêm

64

54

63

Trưởng khối dân vận

13

12

13

Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng

16

9

16

Cán bộ Tổ chức

11

11

11

Cán bộ Tuyên giáo

14

13

13

Cán bộ Dân vận

10

9

10

Nguồn: UBND huyện Krông Pắc năm 2020

Từ những số liệu trên cho thấy, chức danh có ít cán bộ nhất là Cán bộ đài

truyền thanh (9 người) và chức danh có nhiều số cán bộ nhất là Phó Chủ tịch

UBMTTQ (23 người) và hầu hết các chức danh đều kiêm nhiệm. Điều đó cho

thấy rằng, các vị trí chức danh đã được UBND huyện Krông Pắc tuyển chọn, bố

trí nhân sự để đảm nhận các công việc của chính quyền cấp xã.

Bảng thống kê cũng cho thấy tất cả các chức danh quy định và chức danh

quy định thêm đều được chính quyền cơ sở ở ở huyện Krông Pắc tuyển chọn, bố

trí nhân lực đảm nhiệm vị trí công tác. Trong các chức danh đó, chỉ có Công an

viên thường trực là không kiêm nhiệm, còn lại các chức danh khác đều được bố

trí kiêm nhiệm. Điều này vừa không làm gia tăng số lượng về nhân sự, để đảm

42

bảo số lượng theo đúng quy định .

Xét theo thời gian công tác tại các cơ quan, đơn vị ở địa phương, trong tổng

số 375 người hoạt động không chuyên trách cấp xã thì có: 137 người có thời

gian công tác dưới 5 năm, 194 người công tác từ 5-15 năm, 39 người công tác từ

16-30 năm, có 4 người công tác trên 30 năm . Qua số liệu này cho thấy phần lớn

những người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Krông

Pắc có thời gian công tác từ 5-15 năm chiếm số lượng nhiều nhất. Bên cạnh đó,

cũng có một bộ phận những người công tác từ 16-30 năm trở lên. Qua đây cũng

có thể nhận định rằng đa số người hoạt động chuyên trách được điều tra có gắn

bó lâu dài với công việc này không nhiều. Điều này có thể xuất phát bởi nhiều

nguyên nhân khác nhau sẽ được làm rõ ở phần tiếp theo của luận văn.

Xét về trình độ chuyên môn: Hiện nay, hầu hết những người hoạt động

không chuyên trách cấp xã đều có chuyên môn nhất định, số lượng những người

hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện có trình độ học vấn

12/12 là 100%; 100% là có bằng chuyên môn trung cấp, cao đẳng và đại học.

Điều này cho thấy rằng, chất lượng tuyển chọn người hoạt động không chuyên

trách cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc khá cao. Trình độ chuyện môn, bằng

cấp có thể đảm bảo được thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Sau 01/01/2022, tổng số người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên

địa bàn huyện 238, kiêm nhiệm 27, đảng viên 190.

Bảng 2.2 Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở huyện

Krông Pắc phân theo chức danh sau ngày 01/01/2022

TÊN GỌI CÁC CHỨC DANH

Số lượng Kiêm nhiệm Đảng viên

Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng ủy - Tổ chức

12

3

12

Phụ trách Tuyên giáo - Dân vận;

12

5

11

Phụ trách Văn phòng Đảng ủy;

16

5

16

Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

15

1

15

43

TÊN GỌI CÁC CHỨC DANH

Số lượng Kiêm nhiệm Đảng viên

Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự;

28

2

27

16

0

16

Phụ trách Văn thư - Lưu trữ - Thủ quỹ - Cải cách hành chính;

Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ;

15

1

12

Phó Chủ tịch Hội Nông dân;

15

2

13

Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh;

13

3

11

Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;

13

0

11

Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ;

11

1

9

Chủ tịch Hội Người cao tuổi;

16

0

14

Phụ trách Đài Truyền thanh - Nhà văn hóa;

14

3

11

14

1

12

Phụ trách Kế hoạch - Giao thông - Thủy lợi - Nông lâm nghiệp.

TỔNG CỘNG

211

27

190

Nguồn: UBND huyện Krông Pắc năm 2022

Từ các số liệu trên cho thấy sau ngày 01/01/2022, trên địa bàn huyện các

chức danh người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã không vượt quá số

lượng quy định theo đơn vị hành chính, các chức danh Phụ trách Văn thư - Lưu

trữ - Thủ quỹ - Cải cách hành chính; Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ

Chí Minh; Chủ tịch Hội Người cao tuổi thì không thực hiện việc kiêm nhiệm;

đối với các chức danh còn lại đều được cán bộ, công chức và người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã kiêm nhiệm.

Xét về trình độ chuyên môn:

Sau 01/01/2022 hầu hết những người hoạt động không chuyên trách cấp xã

đều có chuyên môn nhất định, số lượng những người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã trên địa bàn huyện có trình độ học vấn 12/12 là 93%; 93% là có

44

bằng chuyên môn sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và đại học. Điều này cho thấy

rằng, chất lượng người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện

Krông Pắc có trình độ chuyên môn thấp hơn trước 01/01/2022.

Nhằm làm rõ hơn thực trạng về số lượng người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, học viên đã thực hiện việc điều tra

phiếu hỏi với 157 người là CBCC và người hoạt động không chuyên trách ở cấp

xã trên địa bàn huyện với câu hỏi:

“Xin Anh/ Chị vui lòng cho biết ý kiến của mình về số lượng chức danh

những người hoạt động không chuyên trách dưới đây ở địa phương mình theo

bảng dưới đây?”.

Đánh giá cho thấy kết quả khảo sát như sau:

Bảng 2.3 Kết quả đánh giá về số lượng người hoạt động không chuyên

trách ở huyện Krông Pắc năm 2022

Đơn vị tính: %

Chức danh Thiếu Đánh giá Đủ Thừa

Phó chủ nhiệm ủy ban Kiểm tra Đảng ủy 15,9 82,2 1,9 – Tổ chức

11,5 10,8 14 7,6 86,6 89,2 86 89,2 1,9 0 0 3,2

Phụ trách Tuyên giáo – Dân vận Phụ trách Văn phòng – Đảng ủy Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tồ quốc Phó Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy Quân sự Phụ trách Văn thư – Lưu trữ - Thủ Quỹ - 16,6 82,2 1,3 Cải cách hành chính

8,3 8,9 9,6 10,8 12,7 10,8 91,1 91,1 90,4 88,5 87,3 88,5 0,6 0 0 0,6 0 0,6

Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Phó Chủ tịch Hội Nông dân Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Phó Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Chủ tịch Hội người cao tuổi Phụ trách Đài Truyền thanh- Văn hóa 14 86 0

45

Chức danh Thiếu Đánh giá Đủ Thừa

Phụ trách Kế hoạch – Giao Thông – 18,5 81,5 0 Thủy Lợi – Nông lâm nghiệp

Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả năm 2022

Theo số liệu thu thập được từ thực tế ở các địa phương trên địa bàn huyện

cho thấy đa phần ý kiến của những người được hỏi đều cho rằng số lượng người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là đủ với quy định của nhà nước cũng

như định mức được giao cho địa phương. Với 14 chức danh nêu trên, số người

lựa chọn nhận định “Đủ” đều chiếm trên 80% số người được hỏi, giao động từ

81,5 – 91,1%. Bên cạnh đó, vẫn còn một tỷ lệ nhỏ ý kiến cho rằng các chức

danh nói trên thiếu hoặc thừa. Điều này cho thấy mặc dù đa phần cấp xã đã bố

trí đủ số lượng người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thì vẫn còn một số

địa phương đang thiếu hoặc dôi dư.

Bên cạnh những thông tin thu được từ việc điều tra bảng hỏi, học viên còn

thực hiện phỏng vấn sâu một số cán bộ lãnh đạo cấp xã. Kết quả cũng cho thấy

có sự tương đồng với những nhận định trước đó. Với câu hỏi “Xin ông/bà cho

biết, số lượng chức danh những người hoạt động không chuyên trách của địa

phương, đơn vị nơi ông bà quản lý đã đầy đủ so với quy định hay chưa? Vì

sao?”

Kết quả phỏng vấn như sau:

Hộp 2.1 Ý kiến về số lượng người hoạt động không chuyên trách so với

chức danh theo quy định

Số lượng những người hoạt động không chuyên trách tại địa phương

theo chức danh quy định tại Nghị quyết 16 của HĐND tỉnh Đắk Lắk là chưa

đủ mà một người phải kiêm nhiệm nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau. (PV,

Nam, độ tuổi 30-40 tuổi, Phó Chủ tịch UBND xã)

Số lượng những người hoạt động không chuyên trách tại địa phương

46

hiện tại chưa đủ, vì vậy nhiều vị trí công việc phải do một kiêm nhiệm. (PV,

Nam, độ tuổi >40 tuổi, Phó Bí thư Đảng ủy xã)

Số lượng những người hoạt động không chuyên trách tại địa phương

hiện tại chưa đủ, một số đầu việc thiếu người làm thực tế. Vì vậy, xã phải hợp

đồng thêm để có đủ người làm, nhất là phục vụ ở bộ phận cải cách hành chính

(PV, Nam, độ tuổi >40 tuổi, Phó Bí thư Đảng ủy xã)

Người hoạt động không chuyên trách tại địa phương đang thiếu cán bộ

GT-TL_NN, cán bộ văn thư – lưu trữ - thủ quỹ - cải cách hành chính công

việc quá nhiều (PV, Nữ, độ tuổi >40 tuổi, Phó Chủ tịch UBND xã)

2.2.3 Chế độ phụ cấp, chế độ bảo hiểm xã hội và y tế

Năm 2009, thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm

2009 về quy định chức danh, chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức và

những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Nghị định 29/2013/NĐ-

CP để sửa đổi bổ sung về Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm

2009. HĐND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành Nghị quyết số 33/2010/NQ-HĐND

ngày 10/12/2010 quy định về chức danh, số lượng, hệ số phụ cấp đối với những

người hoạt động không chuyên trách cấp xã, thôn, buôn, tổ dân phố và sinh hoạt

phí đối với một số chức danh cán bộ cơ sở (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị quyết

số 146/2014/NQ-HĐND ngày 13/12/2014 và Nghị quyết số 14/2018/NQ-HĐND

ngày 6/12/2018 của HĐND tỉnh). Giai đoạn này người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã được hưởng hệ số phụ cấp từ quỹ phụ cấp đối với 18 chức danh

gồm: Trưởng Ban Tổ chức Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo, Chủ nhiệm Ủy ban

Kiểm tra Đảng, Trưởng Ban Dân vận, cán bộ Văn phòng Đảng ủy, Phó Công an,

Phó Chỉ huy trưởng Quân sự, cán bộ Văn thư - Lưu trữ - Thủ quỹ, cán bộ Kế

hoạch - Giao thông - Thủy lợi - Nông Lâm nghiệp, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt

trận Tổ quốc, Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh, Phó Chủ tịch Hội Nông dân,

Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Phó Bí thư Đoàn thanh niên, Chủ tịch Hội

Người cao tuổi, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ, cán bộ phụ trách Đài Truyền thanh,

47

cán bộ quản lý Nhà Văn hóa; hưởng hệ số bằng 1,27 lần mức lương cơ sở (bao

gồm cả 3% bảo hiểm y tế); Hệ số phụ cấp từ quỹ phụ cấp đối với cán bộ chuyên

trách công tác Cải cách hành chính hưởng hệ số bằng 1,23 lần mức lương cơ sở

(bao gồm cả 3% bảo hiểm y tế).

Theo đó tại Nghị quyết số 33/2010/NQ-HĐND, Nghị quyết số

146/2014/NQ-HĐND và Nghị quyết số 14/2018/NQ-HĐND của Hội đồng nhân

dân tỉnh Đắk Lắk, quy định: Hệ số phụ cấp đối với người hoạt động không

chuyên trách cấp xã từ 1,0 đến 1,27 lần mức lương cơ sở; mức sinh hoạt phí đối

với 05 chức danh quy định thêm từ 0,87 đến 1,0 lần mức lương cơ sở; hệ số phụ

cấp đặc thù vùng Tây Nguyên từ 0,03 đến 0,37 lần mức lương cơ sở. Tổng hệ

số/tháng là:

Cấp xã loại 1 bằng 36,95 lần mức lương cơ sở, trong đó ngân sách Trung

ương bằng 20,3 lần mức lương cơ sở, ngân sách tỉnh bằng 16,65 lần mức lương

cơ sở (gồm: hỗ trợ mức phụ cấp cho người hoạt động không chuyên trách là

7,06 lần mức lương cơ sở, hệ số phụ cấp đặc thù vùng Tây Nguyên là 4,71 lần

mức lương cơ sở và mức sinh hoạt phí cho 05 chức danh quy định thêm là 4,88

lần mức lương cơ sở);

- Cấp xã loại 2 bằng 34,31 lần mức lương cơ sở, trong đó ngân sách Trung

ương bằng 18,6 lần mức lương cơ sở, ngân sách tỉnh bằng 15,71 lần mức lương

cơ sở (gồm: hỗ trợ mức phụ cấp cho người hoạt động không chuyên trách là

6,49 lần mức lương cơ sở, hệ số phụ cấp đặc thù vùng Tây Nguyên là 4,34 lần

mức lương cơ sở và mức sinh hoạt phí cho 05 chức danh quy định thêm là 4,88

lần mức lương cơ sở).

Cấp xã loại 3 bằng 32,67 lần mức lương cơ sở, trong đó ngân sách Trung

ương bằng 17,6 lần mức lương cơ sở, ngân sách tỉnh bằng 15,07 lần mức lương

cơ sở (gồm: hỗ trợ mức phụ cấp cho người hoạt động không chuyên trách là

6,22 lần mức lương cơ sở, hệ số phụ cấp đặc thù vùng Tây Nguyên là 3,97 lần

mức lương cơ sở và mức sinh hoạt phí cho 05 chức danh quy định thêm là 4,88

48

lần mức lương cơ sở).

Về phụ cấp kiêm nhiệm chức danh, Nghị quyết số 146/2014/NQ-HĐND

quy định người hoạt động không chuyên trách cấp xã kiêm nhiệm người hoạt

động không chuyên trách cấp xã mà giảm được 01 người trong tổng số người

hoạt động không chuyên trách được giao ở cấp xã thì được hưởng 40% hệ số

phụ cấp của chức danh kiêm nhiệm, trường hợp kiêm nhiệm nhiều chức danh

cũng hưởng 01 mức cao nhất (quy định này là vận dung quy định tại Điều 10

Nghị định số 92/2009/NĐ-CP).

Tại Nghị quyết số 33/2010/NQ-HĐND, quy định mức hoạt động phí đối

với các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã như sau: Ủy ban MTTQVN là

8.000.000 đồng/năm; mỗi tổ chức: Hội Cựu chiến binh, Hội nông dân, Hội liên

hiệp Phụ nữ và Đoàn thanh niên là 7.000.000 đồng/năm. Thời điểm quy định

mức hoạt động phí là năm 2010 với mức lương cơ sở là 730.000 đồng/tháng, từ

năm 2010 đến nay đã 07 lần tăng lương cơ bản và đang thực hiện mức lương cơ

cở là 1.490.000 đồng/tháng.

Thực hiện Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2019 Sửa

đổi, bổ sung một số quy định về CBCC cấp xã và người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, những người hoạt động không chuyên

trách cấp xã được hưởng chế độ phụ cấp, chế độ BHXH và chế độ BHYT. Ngân

sách nhà nước thực hiện khoán quỹ phụ cấp, bao gồm cả hỗ trợ BHXH và

BHYT để chi trả hàng tháng đối với những người hoạt động không chuyên trách

cấp xã theo Quyết định phân loại đơn vị hành chính xã như sau: Loại 1 được

khoán quỹ phụ cấp bằng 16,0 lần mức lương cơ sở; Loại 2 được khoán quỹ phụ

cấp bằng 13,7 lần mức lương cơ sở; Loại 3 được khoán quỹ phụ cấp bằng 11,4

lần mức lương cơ sở. Theo khoản 7 Điều 2 của nghị định này, những người hoạt

động không chuyên trách cấp xã thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc [4].

Tuy nhiên về chính sách BHXH, BHYT đối với người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã chỉ được hưởng chế độ nghỉ hưu và tử tuất mà không được hưởng

49

chế độ thai sản, ốm đau… do đó phần nào gây thiệt thòi cho đối tượng người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn huyện nói riêng và cả nước

nói chung.

Thời điểm 01/01/2022 đến nay (31/12/2022), trên địa bàn tỉnh tiếp tục thực

hiện theo quy định của Chính phủ và Nghị quyết số 16/2021/NQ-HĐND ngày

20 tháng 12 năm 2021 quy định chức danh, số lượng, mức phụ cấp đối với

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; mức phụ cấp đối với người hoạt

động không chuyên trách, mức bồi dưỡng người trực tiếp tham gia vào công

việc của thôn, buôn, tổ dân phố; mức khoán kinh phí hoạt động đối với Ủy ban

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã và mức hỗ trợ

thôi việc đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dôi dư trên địa

bàn tỉnh. Thì người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng mức

phụ cấp hằng tháng bằng 1,64 lần mức lương cơ sở/chức danh, gồm: Phó Chủ

nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng ủy - Tổ chức; Phụ trách Tuyên giáo - Dân vận; Phụ

trách Văn phòng Đảng ủy; Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự; Phụ trách Văn thư - Lưu trữ - Thủ

quỹ - Cải cách hành chính. Các Chức danh được hưởng mức phụ cấp hằng tháng

bằng 1,30 lần mức lương cơ sở/chức danh, gồm: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp

Phụ nữ; Phó Chủ tịch Hội Nông dân; Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh; Phó Bí

thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ; Chủ

tịch Hội Người cao tuổi; Phụ trách Đài Truyền thanh - Nhà văn hóa; Phụ trách

Kế hoạch - Giao thông - Thủy lợi - Nông lâm nghiệp. Ngoài ra, trong trường

hợp Cán bộ, công chức cấp xã, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

kiêm nhiệm chức danh người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã mà giảm

được 01 người trong số lượng tối đa người hoạt động không chuyên trách ở cấp

xã, kể từ ngày cấp có thẩm quyền quyết định việc kiêm nhiệm thì được hưởng

50% mức phụ cấp của chức danh kiêm nhiệm người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã. Trường hợp kiêm nhiệm nhiều chức danh cũng chỉ được hưởng

một mức phụ cấp kiêm nhiệm cao nhất.

50

Bảng 2.4 Công tác thực hiện chế độ, chính sách

đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã

Đơn vị tính: %

Đánh giá

Nội dung

Đầy đủ, đáp ứng Chưa đầy đủ, chưa đáp ứng Chưa đày đủ, nhưng đã đáp ứng Đầy đủ, nhưng chưa đáp ứng

44,6 15,3 22,9 17,2

31,2 23,6 21,7 23,6 Chế độ phụ cấp và khoán kinh phí Chế độ đào tạo, bồi dưỡng và bảo hiểm xã hội

Chế độ làm việc 28,7 24,2 22,9 24,2

Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả năm 2022

Kết quả khảo sát từ thực tiễn cho thấy rằng ý kiến về 3 nội dung nêu trên

ở mức độ chưa đầy đủ, chưa đáp ứng nhu cầu chiếm tỷ lệ cao nhất. Cụ thể: đối

với chế độ phụ cấp và khoán kinh phí (44,6%); đối với chế độ đào tạo, bồi

dưỡng và bảo hiểm xã hội (31,2%); đối với chế độ làm việc (28,7%). Điều này

phản ánh thực tế rằng mặc dù địa phương đã thực hiện chế độ, chính sách dành

cho người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã theo các quy định của cấp

trên nhưng vẫn còn những khoảng trống về tính phù hợp so với nhu cầu của

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cũng như thực tiễn của địa

phương.

Bên cạnh việc thực hiện thu thập thông tin bằng bảng hỏi, học viên cũng đã

tiến hành phỏng vấn sâu đối với cán bộ lãnh đạo chính quyền cũng như đối với

chính người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã về chế độ chính sách. Kết

quả phỏng vấn cũng đã có sự tương đồng so với kết quả điều tra từ bảng hỏi với

câu hỏi “ Xin ông/bà cho biết, chính sách đối với những người hoạt động không

chuyên trách của địa phương, đơn vị nơi ông bà quản lý được thực hiện theo

những quy định nào?”

51

Kết quả phỏng vấn như sau:

Hộp 2.2 Ý kiến về chế độ, chính sách đối với người hoạt động không

chuyên trách cấp xã

Chính sách hiện có chưa đáp ứng được nhu cầu, mong muốn của người

hoạt động không chuyên trách. Kiêm nhiệm nhiều công việc nhưng thời gian

làm việc của người hoạt động không chuyên trách lại chỉ có 1 buổi/ngày nên

tiến độ công việc đôi khi không kịp thời. (PV, Nam, độ tuổi >40 tuổi, Bí thư -

Chủ tịch HĐND xã)

Số lượng những người hoạt động không chuyên trách tại địa phương

hiện tại chưa đủ, vì vậy nhiều vị trí công việc phải do một kiêm nhiệm. (PV,

Nam, độ tuổi >40 tuổi, Phó Bí thư Đảng ủy xã)

Chế độ phụ cấp thấp nên không đủ trang trải chi phí sinh hoạt với giá cả

ngày càng tăng lên. Họ phải làm thêm các công việc khác để bù đắp, trang trải

chi phí cho bản thân và gia đình. (PV, Nam, độ tuổi >40 tuổi, Phó Chủ tịch

HĐND xã)

Chế độ phụ cấp cho người hoạt động không chuyên trách thấp nên họ

chưa chuyên tâm vào thực hiện công việc. Mặt khác nếu chính sách thay đổi,

liệu người hoạt động không chuyên trách có còn được làm việc nữa hay

không? Nên họ không thực sự yên tâm công tác. (PV, Nam, độ tuổi >40 tuổi,

lãnh đạo cấp xã)

Người làm Văn thư – Lưu trữ _ Thủ quỹ - Cải cách hành chính công việc

quá nhiều, thời gian làm việc 100%, phụ cấp chỉ 2.250.000đ là chưa phù hợp

(PV, Nữ, độ tuổi >40 tuổi, Phó Chủ tịch UBND xã)

Phụ cấp hàng tháng thực hiện Theo Nghị quyết 16 của HĐND tỉnh là

thấp khoảng 2.000.000đ tháng, trung bình là 76.000đ/ngày. Chức danh UBKT

Đảng ủy đã không còn có phụ cấp như trước (PV, Nữ, <40 tuổi, Phó Bí thư

thường trực Đảng ủy xã – Chủ nhiệm UBKT)

52

Từ thực tế kết quả khảo sát cho thấy, có 34,4% số ký kiến cho rằng giữa

công việc với chính sách đãi ngộ là chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được nhu cầu

của cá nhân. Số ý kiến cho rằng chính sách đãi ngộ chưa đầy đủ, nhưng đã đáp

ứng được phần nào nhu cầu của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là

26,8%. Số ý kiến khác lại cho rằng mặc dù các chế độ đãi ngộ đầy đủ, nhưng

chưa đáp ứng được nhu cầu của họ là 18,5%. Một bộ phận ý kiến thì cho rằng

chế độ đãi ngộ đã đầy đủ, đáp ứng được nhu cầu của họ (20,4%). Điều này phản

ánh một thực tế rằng công việc của một bộ phận đội ngũ người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã là khá nặng, nhất là ở bộ phận văn thư – lưu trữ – cải cách

hành chính. Khi một người kiêm nhiệm từ 2 công việc trở lên, trong khi đó quỹ

thời gian thì có hạn, thì dù có năng lực tốt đến mức nào cũng khó mà hoàn thành

tốt tất cả các công việc. Dẫn đến, áp lực từ công việc quá nhiều, trong khi phụ

cấp kiêm nhiệm theo quy định chỉ nằm ở mức 50% của phụ cấp theo chức danh

mà họ kiêm nhiệm, nên ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả công việc mà họ thực

hiện.

2.2.4 Về chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đối với người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

Đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, Chính phủ đã

ban hành Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức

danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,

phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Nghị

định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số

quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở

cấp xã, ở thôn tổ dân phố.

Theo khoản 2, Điều 12 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của

Chính phủ, những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng

chế độ đào tạo bồi dưỡng gồm: “Được cấp tài liệu học tập; Được hỗ trợ một

53

phần tiền ăn trong thời gian đi học tập trung; Được hỗ trợ chi phí đi lại từ cơ

quan đến nơi học tập”.

Căn cứ vào những Nghị định, văn bản hướng dẫn, hằng năm UBND huyện

Krông Pắc đều chỉ đạo UBND cấp xã, xây dựng kế hoạch nhu cầu đào tạo, bồi

dưỡng cho cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã để

từng bước chuẩn hóa theo vị trí việc làm và điều kiện tiêu chuẩn đối với cán bộ,

công chức, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã theo tiêu chuẩn hiện

hành. Trên cơ sở đó UBND huyện ban hành và xây dựng hoạch thực hiện các

chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ những

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dựa vào nhu cầu, tình tình thực tế

của địa phương.

Nội dung đào tạo, bồi dưỡng khá đa dạng, bao gồm các lớp đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ (lớp Kiến thức quốc phòng, an ninh; lớp kiến thức tin học; lớp bồi dưỡng quản lý nhà nước; lớp bồi dưỡng tiếng dân tộc; lớp quản lý văn hóa; nghiệp vụ công an, quân sự, trung cấp lý luận, trung cấp hành chính…). Hình thức đào tạo đa phần là tập trung, giảng dạy trực tiếp. Một số khóa học thực hiện học từ xa. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng được UBND huyện quan tâm và đề ra kế hoạch thực hiện hằng năm cho thấy sự quan tâm của cấp chính quyền đến đội ngũ người lao động trong đó có những người hoạt động không chuyên trách cấp xã. Việc duy trì đào tạo, bồi dưỡng cũng là điều hết sức cần thiết và phù hợp trong bối cảnh hệ thống hành chính nhà nước đang kiện toàn, áp dụng khoa học công nghệ và thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.

Để làm rõ và có những đánh giá liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, Học viên đã tiến hành thực hiện nội dung khảo sát “ Xin Anh/ Chị vui lòng cho biết ý kiến của mình về công tác quản lý nhà nước đối với những người hoạt động không chuyên trách ở địa phương mình đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng”

54

Bảng 2.5 Kết quả khảo sát về công tác đào tạo, bồi dưỡng

những người hoạt động không chuyên trách cấp xã

Đơn vị tính: %

Đánh giá

Nội dung

Chưa đầy đủ, chưa đáp ứng Chưa đầy đủ, nhưng đã đáp ứng Đầy đủ, đáp ứng

Đầy đủ, nhưng chưa đáp ứng 28,7 24,8 Chương trình đào tạo, bồi dưỡng 24,8 21,7

29,9 25,5 Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng 17,2 27,4

18,5 25,5 32,5 23,6 Trang thiết bị cần thiết trong đào tạo, bồi dưỡng

14,6 22,9 34,4 28,0 Đội ngũ giảng viên hành chính và quản lý nhà nước

Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả năm 2022

Từ bảng số liệu mô tả kết quả khảo sát về công tác đào tạo, bồi dưỡng

những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cho thấy rằng các công tác

đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu công việc đạt trung bình là 56,5%;

trong đó, số lượng đánh giá đáp ứng yêu cầu đối với tiêu chí đội ngũ giảng viên

là cao nhất với 62,4%. Các chỉ tiêu còn lại chỉ đạt từ 53 đến 56%. Phần lớn các ý

kiến trả lời đều cho rằng công tác đào tạo bồi dưỡng cho đội ngũ người hoạt

động không chuyên trách cấp xã là đầy đủ nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu

của cá nhân, địa phương. Cụ thể: Đối với chương trình đào tạo bồi dưỡng là

28,7%; Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng là 29,9%; Trang thiết bị cần thiết phục

vụ đáp ứng yêu cầu trong khâu tổ chức đào tạo, bồi dưỡng là 32,5% và Đội ngũ

giảng viên là 34,4%. Bên cạnh đó, qua quan sát thực tiễn việc thực hiện nhiệm

vụ của người hoạt động không chuyên trách cho thấy rằng khối lượng công việc

mà họ đảm nhận rất nhiều, lại không nằm vào một lĩnh vực cố định như đối với

đội ngũ công chức cấp xã, dẫn đến việc bố trí thời gian, bố trí nội dung đào tạo,

bồi dưỡng cho đội ngũ này gặp không ít khó khăn. Ngoài ra, một bộ phần người

55

hoạt động không chuyên trách chưa thực sự gắn bó, chuyên tâm vào công việc

được giao. Do đó, hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa đạt được như

kỳ vọng của cá nhân cũng như của các cấp chính quyền.

2.2.5 Về tuyển chọn và bố trí sắp xếp đối với người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã

Về việc tuyển chọn, sắp xếp, bố trí lại nhân sự nói chung và những người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói riêng là nhiệm vụ quan trọng có ảnh

hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan.

Thực hiện chính sách vừa có tác động tới việc thực hiện công việc trong các cơ

quan đơn vị, vừa có tác động tới đội ngũ những người không hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã đang công tác tại đó. Do vậy, việc tuyển chọn, sắp xếp, bố

trí sao cho phù hợp trên các mặt đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước vừa phải

căn cứ vào quy định của pháp luật, vừa phải dựa trên nhu cầu thực tế của địa

phương cũng như năng lực chuyên môn, kỹ năng và công việc mà người không

chuyên trách ở cấp xã đảm nhiệm.

Căn cứ Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, Nghị định số 29/2013/NĐ-CP và

Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH ngày 27/5/2010

của Liên bộ, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội,

hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP. HĐND tỉnh Đắk Lắk đã ban

hành Nghị quyết số 33/2010/NQ-HĐND,Nghị quyết số 146/2014/NQ-HĐND và

Nghị quyết số 14/2018/NQ-HĐND. Trong đó quy định số lượng, chức danh, hệ

số phụ cấp đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn,

buôn, tổ dân phố; sinh hoạt phí đối với một số chức danh cán bộ cơ sở. Mức phụ

cấp kiêm nhiệm chức danh người hoạt động không chuyên trách ở cơ sở; mức

hoạt động phí đối với các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã.

Trong đó, Nghị quyết số 33/2010/NQ-HĐND quy định về số lượng những

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã như sau: Cấp xã loại 1 tối đa 22

người; loại 2 tối đã 20 người và loại 3 tối đa 19 người. Ngoài ra còn quy định

56

thêm 05 chức danh làm việc ở cấp xã nhưng không coi đây là những người hoạt

động không chuyên trách, được hưởng sinh hoạt phí, gồm Trưởng khối dân vận,

Phó Chủ nhiệm UBKT Đảng cơ sở, cán bộ Tổ chức, cán bộ Tuyên giáo và cán

bộ Dân vận (theo Công văn số 166-CV/TU ngày 11/7/2006 của Ban Thường vụ

Tỉnh ủy về việc thống nhất chủ trương bổ sung các chức danh và mức phụ cấp đối

với cán bộ không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn; Công văn số 2985/BNV-

CQĐP ngày 03/8/2006 của Bộ Nội vụ về việc bổ sung chức danh và mức phụ cấp

đối với cán bộ không chuyên trách ở cấp xã).

Thực hiện các văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh Đắk Lắk và của Huyện ủy

Krông Pắc, hàng năm UBND huyện Krông Pắc đều giao chỉ tiêu biên chế hành

chính cho Ủy ban nhân dân 15 xã và 01 thị trấn trên địa bàn huyện.

Kể từ ngày 01/01/2022 đến nay (31/12/2022), thực hiện Nghị quyết số

16/2021/NQ-HĐND ngày 20 tháng 12 năm 2021 của Hội đồng nhân dân tỉnh,

UBND huyện Krông Pắc đã tổ chức triển khai tại các hội nghị, ban hành các văn

bản hướng dẫn, chỉ đạo các phòng ban chuyên môn, UBND các xã, thị trấn tổ

chức phổ biến triển khai thực hiện. Đồng thời, giao cho UBND các xã thị trấn

tiến hành rà soát, sắp xếp bố trí người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

đảm bảo theo đúng số lượng, bố trí con người vào làm các vị trí phù hợp với

trình độ chuyên môn, năng lực thực tiễn đảm bảo thực hiện nhiệm vụ hiệu quả

và đồng bộ. Với tổng số 238 người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

Nhằm làm rõ hơn một số nội dung có liên quan đến công tác tuyển chọn,

bố trí sử dụng đối với người hoạt động không chuyên trách ở huyện Krông Pắc

hiện nay, học viên đã tiến hành thu thập ý kiến của những cán bộ, người hoạt

động không chuyên trách của địa phương thông qua 6 nội dung. Dựa vào kết quả

thu được cho thấy trong nội dung “Xây dựng tiêu chuẩn vị trí việc làm cho các

vị trí không chuyên trách cấp xã”, có 19,7% số ý kiến cho rằng chưa đầy đủ,

chưa đáp ứng được nhu cầu của cá nhân, nhu cầu của địa phương; có 24,2% số ý

kiến cho rằng nội dung này mặc dù đầy đủ, nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu;

57

số ý kiến cho rằng việc xây dựng tiêu chuẩn vị trí việc làm cho các vị trí không

chuyên trách cấp xã đã đầy đủ, đáp ứng được nhu cầu chiếm 24,8%; trong khi

đó, tỷ lệ ý kiến cho rằng nội dung này mặc dù chưa đầy đủ, nhưng đã đáp ứng

được nhu cầu của cá nhân cũng như nhu cầu của địa phương là 31,2%. Kết quả

thu được từ phỏng vấn sâu cũng cho thấy có 15/21 người được phỏng vấn cho

rằng các tiêu chuẩn vị trí việc làm cho các vị trí không chuyên trách cấp xã đã

đầy đủ, đáp ứng được nhu cầu của cá nhân những người đảm nhiệm công tác

này cũng như nhu cầu của các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Krông Pắc. Kết quả

khảo sát được thể hiện cụ thể ở bảng sau:

Bảng 2.6 Kết quả tổng hợp y kiến về công tác tuyển chọn và sử dụng

những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

Đơn vị tính: %

Nội dung

Đánh giá

Đầy đủ, đáp ứng

Chưa đầy đủ, chưa đáp ứng

Chưa đầy đủ, nhưng đã đáp ứng

Đầy đủ, nhưng chưa đáp ứng

19,7

31,2

24,2

24,8

10,8

34,4

27,4

27,4

11,5

31,8

22,3

34,4

16,6

26,1

24,2

33,1

Xây dựng tiêu chuẩn vị trí việc làm cho các vị trí không chuyên trách cấp xã Phối hợp giữa các lực lượng có liên quan trong tuyển chọn, sử dụng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã Tuyển chọn, sử dụng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã dựa trên nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh Xây dựng được phương thức tuyển chọn (thi tuyển, xét tuyển, hoặc kết hợp giữa xét tuyển và thi tuyển) phù hợp cho từng vị trí việc làm

58

Nội dung

Đánh giá

Đầy đủ, đáp ứng

Chưa đầy đủ, chưa đáp ứng

Chưa đầy đủ, nhưng đã đáp ứng

Đầy đủ, nhưng chưa đáp ứng

12,1

31,8

21,7

34,4

34,4

26,8

18,5

20,4

Phân công nhiệm vụ cho người được tuyển chọn bảo đảm phù hợp với năng lực và yêu cầu của vị trí việc làm Sử dụng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã gắn với việc thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ thỏa đáng, bảo đảm lợi ích chính đáng của họ và khuyến khích họ tận tâm với công việc.

Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả năm 2022

Quá trình nghiên cứu về thực trạng thực hiện chính sách đối với người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã ở Krông Pắc, học viên cũng đã thu thập

nhận định về sự phối hợp giữa các lực lượng, cơ quan đơn vị có liên quan trong

tuyển chọn, bố trí sử dụng đội ngũ này. Kết quả phân tích số liệu cho thấy có

10,8% số người cho rằng việc phối hợp giữa các lực lượng có liên quan trong

tuyển chọn, sử dụng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã là chưa

đầy đủ, chưa đáp ứng. Số người cho rằng nội dung này “Đầy đủ, nhưng chưa

đáp ứng” và “Đầy đủ, đáp ứng” chiếm tỷ lệ ngang nhau với 27,4%. Trong khi

đó, tỷ lệ ý kiến cho rằng chưa đầy đủ nhưng đã đáp ứng chiếm tỷ lệ cao nhất với

34,4%. Qua số liệu này cho thấy các cấp chính quyền, các đơn vị trên địa bàn

huyện Krông Pắc đã có sự phối hợp trong việc tuyển chọn, bố trí sử dụng người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

Đối với nội dung “Tuyển chọn, sử dụng những người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã dựa trên nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn

chức danh”, có 11,5% ý kiến cho rằng hoạt động này chưa đầy đủ, chưa đáp ứng

được nhu cầu của cá nhân, địa phương và có 22,3% ý kiến cho rằng đã đầy đủ

59

nhưng chưa đáp ứng. Trong khi đó, có 31,8% số ý kiến cho rằng mặc dù chưa

đầy đủ, nhưng đã đáp ứng và có tới 34,4% số ý kiến đánh giá rằng đã đầy đủ,

đáp ứng. Qua số liệu vừa nêu cũng như qua tham khảo một số báo cáo về người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã của UBND huyện Krông Pắc cho thấy

rằng các cấp có thẩm quyền đã thực hiện theo đúng quy định về tuyển chọn, sử

dụng những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dựa trên nhu cầu

công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh.

Trong quá trình tuyển chọn cán bộ nói chung, người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã nói riêng, khâu Xây dựng được phương thức tuyển chọn

(thi tuyển, xét tuyển, hoặc kết hợp giữa xét tuyển và thi tuyển) phù hợp cho từng

vị trí việc làm là một khâu quan trọng, trước hết đòi hòi phải tìm hiểu đầy đủ,

chính xác các quy định, hướng dẫn của nhà nước. Kết quả khảo sát về nội dung

này cho thấy số ý kiến cho rằng chưa đầy đủ, chưa đáp ứng chỉ chiếm 16,6%; số

ý kiến cho rằng mặc dù chưa đầy đủ, nhưng đã đáp ứng nhu cầu thực tế là

26,1%; số ý kiến cho rằng đầy đủ, nhưng chưa đáp ứng chiếm 24,2%. Chiếm tỷ

lệ cao nhất là số ý kiến cho rằng đã đầy đủ, đáp ứng được nhu cầu của cá nhân,

địa phương (33,1%). Qua số liệu này cho thấy việc việc xây dựng được phương

thức tuyển chọn (thi tuyển, xét tuyển, hoặc kết hợp giữa xét tuyển và thi tuyển)

phù hợp cho từng vị trí việc làm đã được xem xét kỹ lưỡng, đưa ra cách thức

thực hiện phù hợp với phần lớn nhu cầu của các địa phương cũng như đối với

những người tham gia dự tuyển.

Sau khi tuyển chọn, việc phân công nhiệm vụ cho người được tuyển chọn

bảo đảm phù hợp với năng lực và yêu cầu của vị trí việc làm là khâu quan trọng

để phát huy được năng lực của nhân sự cũng như đáp ứng được yêu cầu của

công việc tại các cơ quan đơn vị. Thông qua việc phân tích số liệu khảo sát cho

thấy số ý kiến cho rằng việc phân công nhiệm vụ cho người được tuyển chọn

chưa đầy đủ, chưa đáp ứng chiếm tỷ lệ nhỏ nhất với 12,1%; số ý kiến cho rằng

đầy đủ, nhưng chưa đáp ứng chiếm tỷ lệ là 21,7%. Trong khi đó, có tới 31,8%

cho rằng chưa đầy đủ, nhưng đã đáp ứng và 34,4% cho rằng đã đầy đủ, đáp ứng 60

được đúng yêu cầu về phân công công việc phù hợp với năng lực.

Qua những số liệu trên cho thấy rằng về cơ bản chính quyền các cấp trên

địa bàn huyện Krông Pắc đã thực hiện việc tuyển chọn, bố trí sử dụng đội ngũ

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đối với các chức danh theo đúng

quy định của Nghị quyết số 34/2019/NQ-CP của Chính Phủ và Nghị quyết số

16/2021/NQ-HĐND do HĐND tỉnh Đắk Lắk ban hành.

2.2.6 Về chế độ làm việc đối với người hoạt động không chuyên trách ở

cấp xã

Hiện nay, chưa có quy định cụ thể nào quy định về thời gian làm việc đối

với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Mà còn tùy vào tình hình

thực tế của địa phương để quy định thời gian làm việc phù hợp dựa trên cơ sở

thống nhất giữa các người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã với cấp thẩm

quyền theo phân cấp quản lý. Tuy nhiên nhìn vào thực tế, ở một số địa phương

có quy mô dân đông thường người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã có

thời gian làm việc như cán bộ, công chức cấp xã vào giờ hành chính các ngày

trong tuần. Nhưng bên cạnh đó một số địa phương ở các xã vùng sâu, vùng xa

đối với đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã với các chức

danh: Phụ trách Văn phòng Đảng ủy, Phụ trách Văn thư – Lưu trữ- Thủ quỹ-

CCHC; Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự xã thì làm việc 8h/ngày giống

cán bộ, công chức cấp xã; các chức danh còn lại chủ yếu làm 1 buổi/ ngày hoặc

làm việc khi có công việc chuẩn bị tổ chức hội nghị, tập huấn, kiểm tra…

2.2.7 Về chế độ cho thôi việc đối với người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã

Đối với những trường hợp người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dôi

dư theo quy định Khoản 5, Điều 2 Nghị quyết 16/2021/NQ-HĐND tỉnh Đắk Lắk

ban hành, mức hỗ trợ thôi việc đối với người hoạt động không chuyên trách cấp

xã dôi dư được thực hiện như sau: Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã;

05 chức danh cán bộ làm việc tại cấp xã nhưng không coi là người hoạt động

61

không chuyên trách ở cấp xã quy định tại điểm a khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số

33/2010/NQ-HĐND ngày 10/12/2010 của Hội đồng nhân dân tỉnh quy định về

chức danh, số lượng, hệ số phụ cấp đối với những người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã, thôn, buôn, tổ dân phố và sinh hoạt phí đối với một số chức danh

cán bộ cơ sở dôi dư, cứ mỗi năm công tác được hỗ trợ ½ tháng phụ cấp theo hệ số

phụ cấp hiện hưởng, mức hỗ trợ tối đa không quá 06 tháng phụ cấp. Thời gian

công tác từ 03 đến 06 tháng tính bằng ½ năm; từ 06 tháng đến 12 tháng tính bằng

01 năm; dưới 03 tháng không được hưởng hỗ trợ.

Ngoài mức hỗ trợ theo quy định tại Nghị quyết này, người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã dôi dư còn được hưởng các chế độ, chính sách khi

thôi việc theo quy định pháp luật hiện hành.

2.2.8 Công tác đánh giá, thi đua, khen thưởng và kỷ luật đối với người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

Căn cứ Nghị định 90/2020/NĐ-CP về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ,

công chức, viên chức thì đối tượng áp dụng chỉ thực hiện trên các đối tượng như cán

bộ, công chức, viên chức mà không đề cập đến người hoạt động không chuyên trách

ở cấp xã.

Do đó, khi xem xét, đánh giá, thi đua khen thưởng đối với người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã chỉ dựa trên các căn cứ pháp lý áp dụng đối với cán bộ,

công chức hoặc theo Luật Lao động hoặc theo điều lệ của các cơ quan Đảng, tổ chức

chính trị - xã hội; theo Luật Dân quân tự vệ 2019 (đối với chức danh Phó Chỉ huy

trưởng Ban Chỉ huy Quân sự xã) để thực hiện. Chính vì vậy trong công tác đánh giá,

khen thưởng, kỷ luật chưa chặt chẽ, chưa đảm bảo khoa học, sẽ dẫn đến việc đánh

giá tùy tiện, cảm tính.

2.3. Đánh giá chung về chính sách và công tác quản lý nhà nước đối với

những người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện

Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk

2.3.1. Kết quả đạt được

62

Quá trình tổ chức triển khai thực hiện các chính sách và công tác quản lý

nhà nước đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn

huyện luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ Đắk Lắk, UBND

tỉnh Đắk Lắk, Thường trực Huyện uỷ, sự hướng dẫn của các Sở, Ban ngành của

tỉnh mà trực tiếp là Sở Nội vụ tỉnh Đắk Lắk; sự phối kết hợp của các cơ quan,

ban ngành, đoàn thể, Đảng ủy, chính quyền địa phương cấp cơ sở, cán bộ và

quần chúng nhân dân luôn đồng tình ủng hộ.

Đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã có những chuyển

biến tích cực về nhận thức, quan điểm tư tưởng, kiến thức, trình độ chuyên môn

nghiệp vụ, lý luận chính trị và năng lực hoạt động thực tiễn; chấp hành nghiêm

chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có

tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, năng lực, trình độ, kỹ năng công

tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Việc bố trí kinh phí để thực hiện các chế độ chính sách luôn được đảm bảo

kịp thời, theo đúng định mức quy định. Nhất là các chế độ về phụ cấp hằng

tháng, BHYT, BHXH, đào tạo – bồi dưỡng được triển khai kịp thời hiệu quả,

đúng đối tượng.

Ngoài ra về mặt khách quan cho thấy, những quy định pháp lý về chức

năng, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động, chế độ chính sách của những người hoạt

động không chuyên trách ở cấp xã cũng đang từng bước được bổ sung và hoàn

thiện; công táctuyển chọn, bố trí, sử dụng những người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã được quan tâm; công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao nhận

thức, kỹ năng, cập nhật thông tin cho đội ngũ những người hoạt động không

chuyên trách; điều kiện, trang thiết bị phục vụ công tác văn phòng ngày càng

được quan tâm, đầu tư trong khả năng cho phép; việc bầu cử, phê chuẩn, bổ

nhiệm người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đã được thực hiện đúng

tiêu chuẩn, quy định, bước đầu bố trí công việc rất phù hợp với trình độ chuyên

môn được đào tạo; Việc quản lý, sử dụng đội ngũ người hoạt động không

63

chuyên trách ở cấp xã đã dần đi vào nề nếp, có phân công trách nhiệm với công

việc và vị trí công tác được giao vì vậy đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, góp

phần nâng cao chất lượng đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

2.3.2. Hạn chế

Huyện Krông Pắc hiện có 35 đồng bào dân tộc anh em trong cả nước cùng

về làm ăn sinh sống, an cư lập nghiệp trên địa bàn huyện, phong tục tập quán

mỗi dân tộc khác nhau, trình độ dân trí không đồng đều, cuộc sống chủ yếu là

sản xuất nông nghiệp, đời sống kinh tế của các hộ dân gặp rất nhiều khó khăn, tỷ

lệ hộ nghèo còn ở mức cao, tình trạng thiếu đất sản xuất đối với hộ đồng bào

dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều, một số thôn, tổ dân phố có diện tích tự nhiên quá

lớn, dân số đông, địa hình phức tạp, việc đi lại quản lý dân cư gặp nhiều khó

khăn; trong khi đó, chính sách phụ cấp chưa hợp lý còn quá thấp so với mặt

bằng thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn huyện, đời sống một bộ phận

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã còn gặp nhiều khó khăn; với mức

phụ cấp thấp cộng với việc địa hình đi lại khó khăn dẫn tới việc một số người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chưa tâm huyết với công việc, không

phát huy hết vai trò trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, còn chậm trễ trong

việc thực hiện công việc cấp trên giao và các công việc khác tại địa phương.

Đối với việc tuyển chọn, bầu cử vào làm các vị trí của chức danh người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chưa có chính sách phù hợp để thu hút

nguồn nhân lực, chưa có kế hoạch quy hoạch tạo nguồn sau khi người được

tuyển chọn, bầu cử vào các vị trí, chức danh. Ngoài ra, UBND huyện mặc dù

hằng năm đều có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đối với người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã, tuy nhiên nguồn kinh phí để thực hiện đào tạo – bồi

dưỡng còn hạn chế nên chưa đáp ứng nhu cầu nâng cao trình độ lý luận chính

trị, chuyên môn nghiệp vụ của người hoạt động không chuyên trách trách ở cấp

xã.

Chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể về việc đánh giá, nhận xét mức độ

64

hoàn thành nhiệm vụ, khen thưởng, kỷ luật đối với các đối với người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã để làm cơ sở quy hoạch các chức danh cao hơn

hoặc cử đi học để tạo nguồn, trong việc nhận xét đánh giá còn chung chung, cảm

tính, không có cơ sở pháp lý nên đôi lúc còn đánh giá chưa công bằng do đó ít

nhiều đã ảnh hưởng đến mục tiêu phấn đấu đối với người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã.

Mặt khác, một số người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đã lớn tuổi

hoặc còn trẻ tuổi thì kinh nghiệm chưa nhiều, chưa gắn bó với công việc; trình

độ chuyên môn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; còn chịu ảnh hưởng, chi phối

bởi phong tục, tập quán, văn hóa nên nhận thức chưa cao, chưa phát huy hết vai

trò, trách nhiệm với công việc; ít tham gia hoặc chưa kịp thời đưa ra các ý kiến,

kiến nghị lên các cơ quan có thẩm quyền quyết định các chính sách mà bản thân

được thụ hưởng nên ít nhiều cũng đã ảnh hưởng đến việc thực hiện các chính

sách liên quan đến người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn

huyện trong thời gian qua.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Những hạn chế, tồn tại trong thực hiện chính sách đối với những người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk

Lắk xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong nghiên cứu này, chúng tôi

phân chia thành hai nhóm gồm: Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ

quan.

Nhóm nguyên nhân khách quan:

Đối với những chủ trương chính sách liên quan đến những người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã như: phụ cấp; BHXH, BHYT;….thuộc thẩm quyền

quyết định từ Trung ương cho đến cấp tỉnh, còn hệ thống chính trị (tổ chức

Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể) cấp huyện thì chỉ có trách

nhiệm triển khai tổ chức thực hiện, tham mưu kiến nghị đối với cấp trên để thay

đổi bổ sung nên không thể chủ động triển khai thực hiện theo tình hình thực tế

65

của địa phương.

Do nguồn kinh phí đào tạo, bồi dưỡng của huyện còn hạn chế, nên việc đào

tạo bồi dưỡng để nâng cao trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp

vụ cho đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã số lượng

chưa nhiều, chưa kịp thời với nhu cầu học tập và nâng cao trình độ của đội ngũ

này.

Các quy định về chức năng, nhiệm vụ, chế độ công vụ chưa có văn bản quy

định cụ thể nên trong nhận thức chung về chức năng, nhiệm vụ đối với những

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chưa đầy đủ; dẫn đến tình trạng

trong lãnh đạo, chỉ đạo, phân công công tác cũng như trong việc kiến nghị bất

cập trong việc thực hiện các chính sách và công tác quản lý nhà nước đối với

những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chưa kịp thời, chưa phát

huy được hiệu quả trong việc thực thi chính sách và thụ hưởng chính sách.

Chính sách đối với việc kiêm nhiệm các chức danh còn thấp và nhiều mức

khác nhau dẫn đến hiệu quả của việc kiêm nhiệm trong thực tế chưa cao.

Nhóm nguyên nhân chủ quan:

Điều kiện văn hóa, phong tục tập quán làng xã, bản chất nông dân của họ

cũng tác động không nhỏ đến tâm lý, ý thức trách nhiệm, phong cách, thói quen,

lối làm việc của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trong quá

trình công tác nên hiệu quả công việc không cao, chất lượng đội ngũ chưa đáp

ứng yêu cầu công việc được giao. Đội ngũ này ít quan tâm hoặc không chủ động

trong việc đưa ra các kiến nghị lên cơ quan có thẩm quyền trong việc bổ sung,

hoàn thiện các chính sách đối với chức danh người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã để đảm bảo quyền và lợi ích khi làm việc.

Một bộ phận những người hoạt động không chuyên trách cấp xã có biểu

hiện dao động, không yên tâm công tác mà nguyên nhân chính là do quy định

của luật pháp về xác định địa vị pháp lý, chế độ chính sách chưa rõ ràng, chưa

cụ thể, chính sách còn thể hiện tính thiếu nhất quán nên đã tạo nên tâm lý thiếu 66

tin tưởng vì vị trí công tác không ổn định. Thể chế, hệ thống các văn bản pháp

luật về người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chậm được sửa đổi, bổ

sung, hoàn thiện. Nhiều nội dung liên quan đến đội ngũ này được quy định ở

nhiều văn bản pháp luật khác nhau, nên không bảo đảm tính thống nhất, tính

tương quan giữa các ngành, lĩnh vực.

Về cơ bản, đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách trẻ tuổi có

trình độ học vấn nhưng không đồng đều, lại được đào tạo từ nhiều nguồn nên

việc tiếp thu các chủ trương, chính sách, pháp luật còn hạn chế, nhất là về đường

lối của Đảng và quản lý nhà nước, trong khi chính họ là người trực tiếp thực

hiện công tác Đảng và quản lý nhà nước ở cơ sở. Một trong những yếu tố quan

trọng của người những người hoạt động không chuyên trách là kỹ năng và tính

chuyên nghiệp thì họ lại chưa được rèn luyện do kinh nghiệm công tác chưa

nhiều, làm việc theo chế độ không chuyên trách. Phần lớn họ thiếu khả năng độc

lập và còn phụ thuộc trong giải quyết công việc, thiếu quyết đoán trong xử lý

các tình huống quản lý và thiếu linh hoạt trong vận dụng chủ trương, đường lối,

chính sách, pháp luật vào thực tế địa phương. Không ít trong số họ còn chưa

nắm vững chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao, thậm chí không nắm

vững các quy định của pháp luật trong một số lĩnh vực. Hoặc đối với đối tượng

đã lớn tuổi có kinh nghiệm nhưng việc tiếp cận công nghệ hay trình độ chuyên

môn, việc tiếp thu các chủ trương, chính sách, pháp luật có phần bị hạn chế….

Từ đó dẫn đến sự chủ quan, trì trệ trong giải quyết một số công việc.

Chế độ phụ cấp, chế độ kiêm nhiệm còn thấp và chưa khuyến khích được

chế độ kiêm nhiệm; chưa có quy định về chế độ công vụ, phân công trách nhiệm

đối với người không chuyên trách. Thậm chí nhiều địa phương chưa phân biệt

được chế độ làm việc, nhiệm vụ và trách nhiệm giữa CBCC cấp xã với người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng

cho những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chưa được quy định cụ

thể, thậm chí một số địa phương chưa có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng.

67

Tiểu kết chương 2

Trong Chương 2, luận văn đã nghiên cứu và làm sáng tỏ nhiều nội dung

liên quan đến thực trạng thực hiện chính sách và công tác quản lý nhà nước đối

với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Krông

Pắc, tỉnh Đắk Lắk.

Trong chương 2 này, tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu đến thực trạng thực

hiện chính sách và công tác quản lý nhà nước đối với những đối với những

người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh

Đắk Lắk trên 5 khía cạnh: Chính sách về Phụ cấp, BHXH, BHYT luận văn đã đề

cập đến mức phụ cấp thấp chưa tương xứng với trách nhiệm công việc được

giao; chế độ BHXH, BHYT chưa đảm bảo quyền lợi của người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã nhất là về chế độ thanh toán khi nghỉ ốm đau, thai sản….;

công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa đáp ứng được nhu cầu nâng cao trình độ lý

luận, chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hành chính; công tác tuyển chọn

và sử dụng chưa có quy trình cụ thể, không có các tiêu chí của từng chức danh,

chưa có chính sách thu hút; chế độ thôi việc; công tác đánh giá, thi đua, khen

thưởng, kỷ luật chưa có quy định cụ thể, rõ ràng. Luận văn cũng đã đã dựng nên

bức tranh khái quát về đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở cấp

xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk về số lượng, chất lượng và cơ

cấu.

Ngoài việc sử dụng các số liệu từ báo cáo của UBND huyện, dựa trên kết

quả khảo sát, tác giả đã đánh giá kết quả thực hiện các nội dung quản lý nhà

nước đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Kết quả

nghiên cứu cho thấy rằng các cấp chính quyền ở huyện Krông Pắc đã triển khai

kịp thời và thực hiện có hiệu quả các chính sách đối với những người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã theo Nghị định của Chính phủ và Nghị quyết của

HĐND tỉnh Đắk Lắk. Luận văn cũng đã luận giải những kết quả đạt cũng như

những hạn chế trong việc thực hiện chính sách và công tác quản lý nhà nước đối

68

với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn hiện Krông Pắc.

Để từ đó làm cơ sở cho việc đề ra những giải pháp trong việc triển khai và đưa

ra các chính sách phù hợp đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

trên địa bàn huyện Krông Pắc ở chương 3.

69

Chương 3

GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI

HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH Ở CẤP XÃ

3.1. Giải pháp bảo đảm thực hiện chính sách đối với những người hoạt

động không chuyên trách ở cấp xã

3.1.1. Xây dựng và ban hành mới các quy định về chế độ, tiêu chuẩn của

những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; sắp xếp, bố trí đội ngũ

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã phù hợp với năng lực, trình độ

chuyên môn và kỹ năng làm việc của họ

Hiện nay, chế độ, tiêu chuẩn của những người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã ở nước ta được thực hiện theo Nghị định số 34/2019/NĐ-CP Sửa

đổi, bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố. Theo quy định, với xã loại 1

tối đa 14 người, xã loại 2 tối đa 12 người và xã loại 3 tối đa 10 người. Việc xác

định xã loại nào dựa theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về công

nhận phân loại đơn vị hành chính cấp xã. Đối với các địa phương có số lượng

người được bố trí ít hơn các chức danh thì có thể bố trí kiêm nhiệm chức danh.

Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi, chủ động, linh hoạt cho các địa phương

trong việc bố trí số lượng, chức danh theo tình hình thực tế tại địa phương đó.

Tuy nhiên, điều này dẫn đến sự không thống nhất trong tên gọi cũng như bố trí

nhân sự giữa các đơn vị hành chính khác nhau. Chính phủ chưa ban hành quy

định và cũng không giao cụ thể cho tỉnh quy định về việc tuyển chọn, quản lý,

sử dụng người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, nên dẫn đến một số địa

phương lúng túng trong việc tuyển chọn, bố trí, sắp xếp vào các chức danh,

không thống nhất theo quy định về trình độ đào tạo để tuyển chọn, bố trí, sắp

xếp.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả đối với hoạt động của những người hoạt

động không chuyên trách ở cấp xã, đồng thời giúp các chính quyền địa phương

70

các cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã, chính phủ cần ban hành quy định cụ thể về tên gọi của

chức danh, tiêu chuẩn của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

để các địa phương làm cơ sở thực hiện chế độ, tiêu chuẩn cho đội ngũ này. Từ

đó sẽ đảm bảo cho việc thực hiện các chính sách liên quan đến người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã đồng bộ, hiệu quả và khoa học.

Để việc sắp xếp bố trí đội ngũ cán bộ, người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã phù hợp với năng lực, trình độ chuyên môn và kỹ năng làm việc

của họ trước hết cả hệ thống chính trị cần phải vào cuộc có sự đồng thuận, quyết

tâm cao, hành động quyết liệt, hiệu quả. Lãnh đạo tập trung, thống nhất; thực

hiện thường xuyên, liên tục, tích cực, mạnh mẽ, có trọng tâm, trọng điểm, có lộ

trình, bước đi vững chắc, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài. Việc sắp xếp,

bố trí đối với đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cần dựa vào

các điều kiện như vị trí việc làm, số lượng, ngành nghề, độ tuổi nhằm đảm bảo

việc tuyển chọn, bố trí sắp xếp người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn vào làm việc tại UBND cấp xã phù hợp với

tình hình thực tế của địa phương và quy định của pháp luật. Ngoài ra việc sắp

xếp không chỉ đảm bảo phù hợp tại thời điểm tuyển chọn, bố trí mà việc bố trí

sắp xếp người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cần được chọn lọc, đảm

bảo tính kế thừa trong công tác bố trí, quy hoạch các chức danh sau này.

Đối với người hoạt động không chuyên trách cơ quan Đảng và các tổ

chức chính trị - xã hội, được hình thành từ quá trình thực hiện bầu cử, cần quy

định cụ thể quy trình nhân sự theo quy định của Đảng và Điều lệ của các đoàn

thể để địa phương làm cơ sở tổ chức tuyển dụng, lựa chọn được những người có

đủ trình độ, phẩm chất, năng lực, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ hiện nay. Còn

đối với người hoạt động không chuyên trách công tác bên khối cơ quan chính

quyền cấp xã thì nên xây dựng quy trình nhân sự theo quy định giống với đội

ngũ CBCC.

71

Đối với các chức danh kiêm nhiệm cần bố trí gắn với chuyên môn, có liên

quan đến công việc chính mà cán bộ, công chức hay người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã đang đảm nhiệm để đảm bảo cho công việc với chức danh

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, đồng thời tạo nên tính dây

chuyền, liên kết khi thực hiện công việc của đội ngũ này đối với công việc của

chính quyền cấp xã, hạn chế việc một người phải đảm nhận nhiều đầu công việc

dẫn đến chất lượng tham mưu, thực hiện nhiệm vụ được giao không đạt yêu cầu

theo vị trí việc làm.

Các vị trí đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn, chuyên ngành để thực hiện

được nhiệm vụ, cần đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao các kỹ năng làm việc; tạo môi

trường làm việc thuận lợi để phát huy năng lực, sở trường đáp ứng được yêu cầu

của công việc; đồng thời xây dựng kế hoạch đào tạo, nâng cao trình độ chuyên

môn, cử đi học các lớp ngắn hạn để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Đặc biệt, các

cấp chính quyền địa phương cần phương án cụ thể đào tạo, bồi dưỡng lâu dài

cho đội ngũ này song song với việc trang bị cho đội ngũ người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và trình độ

năng lực chuyên môn, nhất là năng lực tổ chức thực hiện và vận động quần

chúng nhân dân phải đi đôi với việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trẻ, cán

bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số để đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới.

Từ đó để tạo động lực phấn đấu, chính sách đào tạo – bồi dưỡng sẽ phát huy

hiệu quả.

3.1.2.Quy định về thời gian làm việc

Như đã trình bày nội dung tại mục 3.1.1 các văn bản của Chính phủ, Bộ

Nội vụ chỉ đề cập đến đến số lượng những người hoạt động không chuyên trách

ở cấp xã; phụ cấp khoán kinh phí với những người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã; chế độ đào tạo, bồi dưỡng và bảo hiểm xã hội đối với những

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã mà không đề cập đến thời gian

làm việc. Hiện nay ở các địa phương tự bố trí, sắp xếp người hoạt động không

72

chuyên trách ở cấp xã trong tổng số số lượng được giao và giữa chính quyền và

người lao động thực hiện thông qua việc ban hành Quyết định tuyển chọn, bố trí

vào làm vị trí của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã hoặc bằng hình

thức hợp đồng nhưng các văn bản không quy định hay yêu cầu cụ thể về thời

gian làm việc dẫn đến người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã làm việc

thường vào 01 buổi (chủ yếu là buổi sáng) hoặc đi làm khi có nhiệm vụ cần làm,

từ đó dẫn đến việc quản lý, đánh giá năng lực làm việc của đội ngũ này để làm

cơ sở xem xét cử đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch… có phần bị hạn chế. Mặt

khác, không có quy định chung về thời gian làm việc sẽ gây khó khăn cho các

cấp chính quyền địa phương trong công tác quản lý kỷ luật, kỷ cương hành

chính của đội ngũ này.

Để đảm bảo công tác quản lý đối với người hoạt động không chuyên trách

cấp xã, Chính phủ, Bộ Nội vụ, UBND cấp tỉnh cần có quy định cụ thể về thời

gian làm việc, thời gian làm việc trong ngày, thời gian làm việc trong tuần,

tháng, năm tương ứng với số tiền được hưởng để đảm bảo quyền lợi cho người

lao động. Đồng thời khi xây dựng quy định về thời gian làm việc của đội ngũ

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cần đảm bảo tính thống nhất về

thời gian làm việc giữa cấp xã của từng vùng miền, cũng như tạo sự linh hoạt

trong việc bố trí, sắp xếp thời gian làm việc giữa các địa phương có đặc thù, điều

kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội khác nhau.

3.1.3. Quy định về chế độ phụ cấp và công tác phí

Theo quy định hiện nay của Chính phủ và của HĐND tỉnh Đắk Lắk, mức

phụ cấp hàng tháng dành cho người hoạt động không chuyên trách cấp xã vào

khoảng 2 triệu đồng/ tháng, mức phụ cấp kiêm nhiệm không quá 50% chức danh

kiêm nhiệm. Bên cạnh đó, mặc dù được hưởng BHXH, nhưng chế độ lại khác so

với đội ngũ CBCC, cụ thể người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chỉ

được hưởng chế độ hưu trí, tử tuất nhưng lại không được hưởng chế độ ốm đau,

thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.

73

Đối với chế độ công tác phí được quy định tại Thông tư số 40/2017/TT-

BTC ngày 28/4/2017 của Bộ Tài chính thì đối tượng hưởng chế độ công tác phí

không bao gồm những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Do đó,

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chỉ được thanh toán chế độ công

tác phí khi được mời tham gia các nhiệm vụ như mời tham dự kỳ họp Hội đồng

nhân dân, họp các Ban của Hội đồng nhân dân, giám sát, tiếp xúc cử tri và đi

công tác thực hiện các nhiệm vụ khác của đại biểu Hội đồng nhân dân thì

Thường trực Hội đồng nhân dân cấp nào mời có trách nhiệm thanh toán tiền

công tác phí từ nguồn kinh phí hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp đó; hoặc

khi người hoạt động không chuyên trách được các cơ quan tiến hành tố tụng mời

ra làm nhân chứng trong các vụ án có liên quan đến công việc chuyên môn, thì

cơ quan tiến hành tố tụng thanh toán chi phí đi lại và các chi phí khác theo quy

định của pháp luật từ nguồn kinh phí của cơ quan tiến hành tố tụng; trường hợp

cơ quan, đơn vị có nhu cầu trưng tập người hoạt động không chuyên trách cấp

xã tham gia các đoàn công tác phối hợp liên ngành, liên cơ quan; thì được cơ

quan, đơn vị chủ trì đoàn công tác thanh toán tiền công tác phí theo quy định.

Tuy nhiên, trên thực tế trong quá trình công tác ngoài những nội dung trên người

hoạt động chuyên trách ở cấp xã còn phải đi công tác từ xã lên huyện hoặc từ xã

này qua xã khác để giải quyết các công việc liên quan nhưng không được thanh

toán chế độ công tác phí. Những điều này đã ảnh hưởng đến thu nhập, quyền lợi,

tâm lý của những người hoạt động không chuyên trách cấp xã.

Chính vì vậy, Chính phủ cần có quy định tăng chế độ phụ cấp đối với

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã có thâm niên công tác, cho người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, chế

độ công tác phí khi đi công tác đầy đủ như các đối tượng khác để những người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã yên tâm công tác, gắn bó lâu dài với địa

phương, tạo nguồn cho CBCC cấp xã.

3.1.4. Hoàn thiện các nguyên tắc, quy trình, thủ tục đánh giá, kỷ luật

hàng năm đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

74

Hoàn thiện các nguyên tắc, tiêu chí, thẩm quyền, trình tự, thủ tục đánh giá, kỷ

luật hàng năm đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên cơ sở đánh

giá nhận xét, có các hình thức khen thưởng, kỷ luật phù hợp với quá trình thực hiện

nhiệm vụ công tác của họ.

Việc đánh giá, nhận xét người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nhằm

phát huy những ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm, hạn chế, thiếu sót của đội

ngũ này để bố trí, sử dụng nguồn nhân lực hợp lý, góp phần thực hiện thắng lợi

nhiệm vụ trong hệ thống chính trị cấp xã. Tuy nhiên, đánh giá người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã là công việc rất khó, đòi hỏi phải công tâm khách quan.

Phải căn cứ vào tiêu chuẩn quy định và việc hoàn thành nhiệm vụ của người hoạt

động không chuyên trách ở cấp xã để đánh giá. Để đánh giá, nhận xét đúng người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thì cấp ủy, lãnh đạo chính quyền cấp xã cần

dựa vào tiêu chuẩn đối vơi người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đã được cụ

thể hoá cho phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của đảng bộ, cơ quan đơn vị. Lấy kết

quả, hiệu quả thực hiện công tác của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã,

cũng như dựa vào sự tín nhiệm của đảng viên, của quần chúng làm thước đo. Khi

thực hiện đánh giá, nhận xét, cần có phương pháp đánh giá, phân tích, nhận xét

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã một cách khách quan, khoa học, dân

chủ, công khai và trực tiếp.

Dựa trên nguyên tắc chung về đánh giá CBCC, việc hoàn thiện các nguyên tắc

đánh giá cần bảo đảm những điều sau:

+ Bảo đảm tính khách quan, công bằng, chính xác; không trù dập, thiên vị,

hình thức; việc đánh giá cần được thực hiện thường xuyên, liên tục, bảo đảm đúng

thẩm quyền quản lý.

+ Việc đánh giá, xếp loại chất lượng phải căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ

được giao và kết quả thực hiện nhiệm vụ, thể hiện thông qua công việc, sản phẩm cụ

thể; chất lượng sản phẩm, tiến độ và thái độ hoàn thành công việc.

+ Bảm đảm về mặt thời gian công tác trong năm đối với người hoạt động

75

không chuyên trách ở cấp xã được đánh giá theo quy định của CBCC.

Đối với tiêu chí đánh giá hằng năm dành cho người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã, cần dựa trên các mặt sau: Chính trị tư tưởng; đạo đức, lối sống; tác

phong, lề lối làm việc; ý thức tổ chức kỷ luật; kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.

Bên cạnh đó, về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đánh giá, kỷ luật hàng năm đối

với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cũng nên được quy định cụ thể

giống với đội ngũ CBCC. người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cũng được

đánh giá nhận xét bởi quản lý cấp xã cũng như người đứng đầu cơ quan đơn vị. Điều

này tạo nên sự thống nhất, minh bạch, công bằng, cụ thể trong việc đánh giá, nhận

xét đối với cán bộ cấp xã nói chung, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

nói riêng.

3.1.5 Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động tạo sự thống nhất

về nhận thức và hành động của các cấp ủy, chính quyền và người lao về mục

tiêu, yêu cầu, ý nghĩa của việc thực hiện chính sách đối với người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã

Công tác tuyên truyền, vận động là một hoạt động được xếp vị trí đầu tiên

trong quy trình tổ chức thực hiện chính sách, quyết định đến tổ chức thực hiện chính

sách. Chính vị vậy, trong tình hình hiện nay, không những phải đổi mới công tác

tuyên truyền về cả hình thức lẫn nội dung mà còn phải thực hiện tốt công tác tuyên

truyền, vận động để nhằm tạo ra sự sự thống nhất về nhận thức và hành động trong

các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người lao động và nhân dân về mục tiêu, yêu

cầu, ý nghĩa của việc thực hiện chính sách đối với người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã .

Muốn tuyên truyền, vận động có hiệu quả thì cơ quan có thẩm quyền phải lựa

chọn nội dung chính sách cần tập trung tuyên truyền, vận động chứ không được dàn

trải. Căn cứ mục tiêu, thể chế, phạm vi đối tượng, tầm quan trọng của chính sách, các

giải pháp, quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý của các đối tượng thụ hưởng chính sách…

để từ đó xây dựng nội dung tuyên truyền vận động phù hợp.

76

Trong tuyên truyền vận động, cần xác định rõ đối tượng được cung cấp thông

tin về về mục tiêu, yêu cầu, ý nghĩa của việc thực hiện chính sách đối với người hoạt

động không chuyên trách ở cấp xã mà xây dựng nội dung, phương pháp, cách thức

thực hiện tuyên truyền vận động cho phù hợp với năng lực tiếp cận, bối cảnh tiếp cận

thông tin của đối tượng đó và tình hình thực tế của địa phương. Các phương pháp

được lựa chọn phải mang lại hiệu quả cao, hình thức phải đa dạng, phong phú, tránh

phô trương, lãng phí thời gian, công sức và tiền của không cần thiết. Chẳng hạn, triển

khai thông qua các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện, thông qua các cuộc họp,

hội nghị phổ biến thông tin ........

Để thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động tạo sự thống nhất về nhận

thức và hành động trong các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người lao động và

nhân dân về mục tiêu, yêu cầu, ý nghĩa của việc thực hiện chính sách đối với người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã tại huyện Krông Pắc trong thời gian tới cần

thực hiện một số giải pháp như sau:

- Tập trung quán triệt đầy đủ và cụ thể hóa các văn bản về công tác cán bộ của

Đảng, Nhà nước đến cấp ủy, chính quyền, MTTQ và đoàn thể các cấp trong toàn

huyện nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức, ý chí và hành động. Chỉ đạo thực hiện

tốt việc nghiên cứu, quán triệt những quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp

xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

- Đổi mới nội dung tuyền truyền, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền gắn với

thực tiễn của địa phương về điều kiện kinh tế - xã hội, gắn với mục tiêu, nội dung

của chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ CBCC làm công tác tuyên

truyền, vận động; tăng cường đầu tư kinh phí, trang thiết bị, công nghệ phục vụ việc

phổ biến, tuyên truyền chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp

xã.

- Nâng cao nhận thức của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đối

với trách nhiệm và nghĩa vụ khi đảm nhận công việc.

77

Bên cạnh những người có nhận thức, thái độ tốt trong thực hiện công việc

được giao, vẫn còn một bộ phận chưa thực sự chuyên tâm vào công việc. Chính

vì vậy, việc nâng cao nhận thức cho đội ngũ người hoạt động không chuyên trách

ở cấp xã là điều hết sức cần thiết, bởi điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến sự

hoạt động của bộ máy chính quyền tại các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Krông

Pắc.

Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã phải nêu gương về tư tưởng

chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong công tác; nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật,

đoàn kết nội bộ... Trong công tác, cần đề cao ý thức trách nhiệm, tận tụy với

công việc; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chủ động, sáng tạo, hiểu và thực

hiện đúng chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tránh thực dụng vì lợi ích

cá nhân.

Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã phải tự ý thức trách nhiệm,

tự giác rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phương pháp làm việc; tinh thần

cầu thị tiến bộ, ham học hỏi. Thường xuyên tự đánh giá để rèn luyện, có thái độ

nghiêm khắc trong tự phê bình, lắng nghe, tiếp thu ý kiến đóng góp của đồng

nghiệp và quần chúng để hoàn thiện bản thân.

3.1.6 Bảo đảm phát huy hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân lực là

người hoạt động không chuyên trách cho tại cấp xã

Để bảo đảm phát huy hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân lực là

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cho phát triển kinh tế- xã hội tại cấp

xã trước hết việc bố trí phải đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

theo từng đơn vị hành chính không vượt quá số lượng được quy định.

Các chức danh phải đảm bảo về trình độ chuyên môn, kỹ năng; đội ngũ

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã phải có sự phối hợp đồng bộ với cán

bộ, công chức cấp xã tại đơn vị công tác, cùng tham gia các công việc theo trách

nhiệm, nhiệm vụ được giao của từng lĩnh vực phụ trách, được tiếp cận thông tin,

tham gia giúp việc, hỗ trợ cho công chức cấp xã hoặc cán bộ khối Đảng, các tổ

78

chức chính trị xã hội vào thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và công tác phát triển

kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng trên địa bàn huyện. Đặc biệt, đối

với mỗi chức danh người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, chính quyền địa

phương cần phải xác định rõ được vị trí, yêu cầu công việc của từng chức danh

phụ trách để từ đó có kế hoạch tuyển chọn, bố trí, sắp xếp phù hợp với số lượng

và tình hình thực tế tại địa phương. Lựa chọn các nhiệm vụ làm chưa tốt tại địa

phương để bố trí số lượng và chức danh phù hợp để hỗ trợ cho công chức cấp xã

trong việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn tại đơn vị hoặc tăng số lượng

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã bên khối Đảng các tổ chức chính trị

- đoàn thể thực hiện các nhiệm vụ tuyền truyền, vận động…Từ đó, để mỗi chức

danh người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được trực tiếp tham gia và có

sự phối hợp trong quá trình giải quyết các công việc chuyên môn của công chức

cấp xã hay công việc của các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể góp phần vào

việc phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo an ninh – chính trị, trật tự an toàn xã hội

tại địa phương.

Ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn theo vị trí việc làm ra, các

cấp ủy Đảng cần kịp thời thông tin tuyên truyền đến đội ngũ người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã để họ nắm bắt thông tin mục tiêu, định hướng của

Đảng các cấp để từ đó thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, đồng thời là một

kênh thông tin tuyên truyền đến các tầng lớp nhân dân trên địa bàn kịp thời, hiệu

quả, phù hợp, nhanh chóng và tiết kiệm.

Song song với việc lựa chọn, bố trí sắp xếp các chức danh đảm bảo về số

lượng và phù hợp với trình độ chuyên môn, chuyên ngành. Chính quyền địa

phương cấp huyện, cấp xã cần tăng cường công tác rà soát, kiểm tra, đánh giá

chất lượng người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã theo định kỳ hằng tháng,

hằng năm để có sự thay đổi, bố trí, sắp xếp phù hợp theo từng vị trí việc làm, có

kế hoạch tinh giảm khi không đáp ứng các điều kiện theo quy định hiện hành.

Đồng thời các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương cũng cần mở rộng phản

biện xã hội, thường xuyên trao đổi, lắng nghe tâm tư nguyện vọng và những 79

phản ánh của các tổ chức và của nhân dân địa phương về đội ngũ người hoạt

động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn để kịp thời có những biện pháp

giáo dục, quản lý chấn chính nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ

này ở địa phương mình.

Bên cạnh các chế độ chính sách theo quy định của Chính Phủ, của HĐND

– UBND tỉnh Đắk Lắk, dựa theo tình hình thực tế của địa phương, bố trí thời

gian làm việc hợp lý, có chính sách phù hợp tăng thêm mức thu nhập hàng tháng

cho đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, nhất là các chức danh

có vị trí việc làm như công chức cấp xã, để đội ngũ này yên tâm công tác, gắn

bó lâu dài với công việc, vị trí đảm nhận.

Định kỳ hằng năm sau khi tổ chức đánh giá, xếp loại, cần có các hình thức

biểu dương, khen thưởng kịp thời, xứng đáng đối với người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã để ghi nhận sự đóng góp của đội ngũ này trong việc thực

hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của địa phương. Hoạt động này nhằm phát

huy được vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã trong thực hiện công việc được giao, tạo động lực trong công việc,

tiếp tục phát huy, nâng cao năng lực tham gia tích cực thực hiện các nhiệm vụ,

làm mục tiêu phấn đấu, thăng tiến trong công việc.

3.1.7. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy và chính quyền cơ sở

trong việc thực hiện chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở

cấp xã

Để nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy và chính quyền cơ sở trong

việc thực hiện chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã, chú trọng nhiều hơn đến người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã. Tập trung làm tốt công tác đánh giá theo hướng: Xuyên

suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chỉ cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát,

công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương, coi trọng cả đức và

80

tài, trong đó đức là gốc; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện

nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.

Căn cứ những quy định của Đảng, Nhà nước, tập trung đánh giá theo

hướng xác định cụ thể công việc; bảo đảm lấy chất lượng, hiệu quả hoàn thành

chức trách, nhiệm vụ được giao làm thước do chủ yếu để đánh giá phẩm chất,

năng lực của người được đánh giá. Quan trọng hơn cả là phải đánh giá hiệu quả

công việc hiện tại của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, cũng như

triển vọng phát triển trong tương lai. Ban hành kịp thời các kế hoạch, chương

trình, đề án để triển khai và thực hiện hiệu quả các nội dung về công tác bố trí

sắp xếp đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã phù hợp với tình

hình thực tế của cấp mình. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện,

định kỳ tổ chức sơ kết đánh giá, rút kinh nghiệm và đề ra những phương hướng

điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ phù hợp với yêu cầu thực tiễn.

Các cấp ủy và chính quyền cấp xã cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm của

mình trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách theo chức vụ đảm nhiệm,

tránh chồng chéo, lấn sân hoặc lơ là, bỏ sót các nhiệm vụ đã được phân công

thực hiện. Cấp ủy, chính quyền cơ sở cần tập trung quán triệt đầy đủ và cụ thể

hóa các văn bản về công tác cán bộ của Đảng, Nhà nước đến chi bộ, các đơn vị,

và đoàn thể các cấp trong toàn huyện nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức, ý chí

và hành động. Chỉ đạo thực hiện tốt việc nghiên cứu, quán triệt những quan

điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả của chính sách đối với người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã, cần tiếp tục nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp

ủy và chính quyền cơ sở trong việc thực hiện chính sách dành cho đội ngũ này.

Trong hệ thống chính trị ở nước ta nói chung, cấp xã nói riêng, người

đứng đầu luôn có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với việc tổ chức triển khai thực

hiện các chủ trương, chính sách của trung ương và địa phương. Vì vậy, đòi hỏi

81

người đứng đầu của các đơn vị cần có tầm nhìn chiến lược, có khả năng đánh

giá, lựa chọn, tuyển chọn, bố trí, quy hoạch phù hợp đối với người hoạt động

không chuyên trách ở cấp xã để từ đó giúp mỗi vị trí việc làm của người hoạt

động không chuyên trách cấp xã phát huy được năng lực sở trường nhằm đảm

bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, phát huy cao vai trò, trách nhiệm và

tính tiên phong gương mẫu của Thủ trưởng đơn vị, không ngừng học tập và làm

theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh; thường xuyên tu dưỡng, rèn

luyện về mọi mặt, nhất là về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, tác phong

làm việc, trách nhiệm, đề cao tinh thần trong tự phê bình và phê bình; tự giác

nghiên cứu nâng cao trình độ kiến thức và năng lực thực tiễn, gương mẫu thực

hiện đạo đức công vụ, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.

Cấp ủy và chính quyền cấp xã là nơi tổ chức thực hiện chính sách đối với

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã do đó việc nhận thức được ý nghĩa

của chính sách, vai trò của việc tổ chức thực hiện chính sách trong đội ngũ người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là rất cần thiết. Từ thực tế cho thấy tổ chức

thực hiện chính sách có vai trò quyết định trong bảo đảm thực hiện thành công

mục tiêu của chính sách.

Cấp ủy, chính quyền cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng,

nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở

cấp xã, trong đó chú trọng nội dung về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hóa

của dân tộc, địa phương; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào tạo với rèn luyện

trong thực tiễn và đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ

Chí Minh. Thực hiện nghiêm chế độ đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị và cập

nhật kiến thức mới cho đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã để

nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống

đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Cấp ủy, chính quyền địa phương cần nâng cao chất lượng công tác tuyển

chọn, bố trí người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; trong đó phải căn cứ

82

vào yêu cầu, nhiệm vụ, vị trí việc làm, chi tiêu biên chế và thông qua thi tuyển

theo nguyên tắc công khai, minh bạch, khách quan và đúng pháp luật, đảm bảo

tính cạnh tranh.

Khi xây dựng kế hoạch tuyển chọn người hoạt động không chuyên trách ở

cấp xã phải phân tích, đánh giá nguồn nhân lực hiện tại và dự báo về nguồn nhân

lực tương lai; các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến nền hành chính công vụ đồng

thời gắn với việc cơ cấu lại tổ chức bộ máy và tính giản biên chế theo mục tiêu

đổi mới.

Bên cạnh đó, các cấp ủy và chính quyền, nhất là đối với cấp xã cần xây

dựng cơ chế, chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài có

trọng tâm, trọng điểm, chú trọng thu hút những người trẻ, có trình độ, năng lực

về công tác, phục vụ tại địa phương.

3.2. Một số kiến nghị

3.2.1 Đối với Chính phủ, Bộ Nội vụ

- Đề nghị Điều chỉnh tăng mức phụ cấp hàng tháng đối với những người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

Đây là một yêu cầu cấp thiết, mức phụ cấp cần được điều chỉnh cho phù

hợp với nhu cầu thực tế của cuộc sống để tạo động lực khuyến khích, động viên

đội ngũ tích cực tham gia công tác. Vì hiện nay mức phụ cấp quá thấp trong khi

khối lượng công việc nhiều, thời gian làm việc gần như bằng công việc của công

chức cấp xã dẫn đến nhiều thiệt thòi cho đội ngũ người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã như:

Được hưởng chế độ công tác phí khi đi công tác giống như chế độ công tác

phí của cán bộ, công chức. Tại Thông tư số 40/2017/TT-BTC ngày 28/4/2017

của Bộ Tài chính thì đối tượng hưởng chế độ công tác phí không bao gồm

những người hoạt động không chuyên trách cấp xã. Do đó, người hoạt động

không chuyên trách khi đi công tác không nằm trong quy định tại khoản 8,

83

khoản 9 Điều 3 Thông tư số 40/2017/TT-BTC “Đối với đại biểu Hội đồng nhân

dân các cấp và các đại biểu được Thường trực Hội đồng nhân dân các cấp mời

tham dự kỳ họp Hội đồng nhân dân, họp các Ban của Hội đồng nhân dân, giám

sát, tiếp xúc cử tri và đi công tác thực hiện các nhiệm vụ khác của đại biểu Hội

đồng nhân dân thì Thường trực Hội đồng nhân dân cấp nào mời có trách nhiệm

thanh toán tiền công tác phí từ nguồn kinh phí hoạt động của Hội đồng nhân dân

cấp đó.

Trường hợp cán bộ, công chức, viên chức và người lao động được các cơ

quan tiến hành tố tụng mời ra làm nhân chứng trong các vụ án có liên quan đến

công việc chuyên môn, thì cơ quan tiến hành tố tụng thanh toán chi phí đi lại và

các chi phí khác theo quy định của pháp luật từ nguồn kinh phí của cơ quan tiến

hành tố tụng” thì sẽ không được thanh toán tiền công tác phí. Điều đó tạo nên

những bất cập, vì trên thực tế đội ngũ người hoạt động không chuyên trách vẫn

đi công tác để giải quyết các công việc giữa cấp xã và huyện.

Xây dựng và thực hiện các chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Hằng năm, trên cơ sở rà soát,

đánh giá, kiểm tra các địa phương ngoài việc xây dựng kế hoạch đào tạo bồi

dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã thì cần xây dựng Kế hoạch đào tạo,

bồi dưỡng đối với các chức danh người hoạt động không chuyên trách cấp xã

một mặt giúp đội ngũ này được nâng cao trình độ hỗ trợ cho công việc đang

đảm nhận, từng bước đảm bảo cho đội ngũ người hoạt động không chuyên trách

có chuyên môn nghiệp vụ mang tính chuyên nghiệp, có phẩm chất tốt và đủ

năng lực thi hành công vụ, đáp ứng yêu cầu công tác theo từng vị trí việc làm.

Mặt khác xây dựng, chuẩn hóa và từng bước trẻ hóa đội ngũ người hoạt động

không chuyên trách cấp xã có đủ phẩm chất và năng lực, có tư duy khoa học,

sáng tạo, có đủ năng lực; tạo nguồn cho đội ngũ cán bộ, rong các nhiệm kỳ tiếp

theo góp phần vào xây dựng hệ thống chính trị, sự nghiệp phát triển kinh tế - xã

hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của địa phương.

84

Hướng dẫn cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đối với chức danh.

Đối với các chức danh bên khối Đảng, Đoàn thể thì thực hiện theo Điều lệ và

các quy định hiện hành về nhiệm vụ được giao, còn một số chức danh thuộc

khối chính quyền thì chưa có sự thống nhất rõ ràng về nhiệm vụ được giao còn

sự chống chéo công việc giữa người hoạt động không chuyên trách cấp xã và

công chức như chức danh: Văn thư – Lưu trữ - Thủ quỹ - Cải cách hành chính

nhiệm vụ công việc tương đồng như công việc của công chức Văn phòng –

Thống kê; nhiệm vụ của chức danh Đài Truyền thanh – Văn hóa tương đồng

như công chức Văn hóa – Xã hội, chức danh Kế hoạch – Giao thông – Thủy Lợi

– Nông lâm nghiệp tương đồng công việc của chức danh Địa chính – Nông

nghiệp – Xây dựng và Môi trường dẫn đến trách nhiệm công việc của các chức

danh này như một công chức cấp xã, nhưng quyền hạn trong quá trình tham mưu

hạn chế, chưa phát huy được vai trò, đôi lúc còn chưa phân định rõ ràng vì cho

rằng các nhiệm vụ đó các công chức cấp xã đã thực hiện. Do đó cần có quy định

cụ thể hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đối với chức danh người

hoạt động không chuyên trách thuộc khối chính quyền.

Bố trí thêm kinh phí hoạt động cho một số địa phương khó khăn. Thực tế

khảo sát cho thấy một số địa phương khó khăn không có đủ kinh phí để thực

hiện hỗ trợ thêm cho đội ngũ người hoạt động không chuyên trách đang công tác

tại địa phương. Do đó, người hoạt động không chuyên trách không thể chuyên

tâm, thời gian vào công việc, mà họ phải làm thêm các công việc khác bên ngoài

để trang trải cuộc sống.

Ưu tiên trong quá trình tuyển dụng công chức cấp xã. Theo điểm c, Khoản

2, Điều 1 Nghị định 34/2019/NĐ-CP ngày 25/6/2019 của Chính phủ thì khi

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã từ đủ 24 tháng trở lên đã hoàn

thành nhiệm vụ: được cộng 2,5 điểm vào kết quả điểm thi tại vòng 2. Số điểm

được cộng vào 2,5 điểm trên thang điểm 100 điểm là quá thấp, trong khi đội ngũ

này khi vào làm việc đã có kinh nghiệm, có sự phối hợp với các bộ phận khác

tại địa phương, được đào tạo và bồi dưỡng….. Do đó, cần có chính sách ưu tiên 85

phù hợp hơn như: xem người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trong

tuyển dụng công chức cấp xã thuộc các trường hợp đặc biệt trong tuyển dụng.

3.2.2 Đối với UBND tỉnh Đắk Lắk

- Tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện

chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Thông qua

những hoạt động này, UBND cấp huyện sẽ kịp thời phát hiện những hạn chế,

thiếu sót trong công tác tuyển dụng, bầu cử, bố trí sắp xếp, quy hoạch, đánh giá

trong thời gian qua để nhanh chóng khắc phục; cũng như kịp thời giải đáp các

vướng mắc của cấp xã trong quá trình thực hiện chính sách, từ đó chủ động giải

quyết hoặc tổng hợp đề xuất, kiến nghị cấp trên giải quyết.

- Quy định cụ thể về tên gọi chức danh, quy định về các chức danh được bố

trí kiêm nhiệm nhưng không hưởng thêm phụ cấp như: Chủ tịch Hội chữ thập đỏ

cấp xã, Trưởng Ban tổ chức Đảng ủy, Cán bộ quản lý Nhà văn hoá, Trưởng Ban

Tuyên giáo Đảng ủy,... đề nghị bố trí cho các chức danh cán bộ, công chức kiêm

nhiệm theo hướng giao thêm nhiệm vụ nhưng không được hưởng thêm phụ cấp.

Ví dụ như: Phó Bí thư Đảng ủy làm thêm nhiệm vụ của Trưởng ban Tuyên giáo

Đảng ủy, Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ làm thêm nhiệm vụ của Chủ tịch Hội

Chữ thập đỏ, công chức Văn hóa – Xã hội kiêm nhiệm Cán bộ Quản lý nhà văn

hóa….

3.2.3 Đối với UBND các xã, thị trấn

Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn là nơi trực tiếp thực hiện các chính sách

đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã. Do đó, Ủy ban nhân

dân các xã, thị trấn ngoài việc thực hiện đúng và đủ các chính sách, cần đồng

thời quan tâm, động viên, nắm bắt các tâm tư, nguyện vọng chính đáng của

những người hoạt động không chuyên trách cấp xã để kịp thời kiến nghị, đề xuất

cấp trên có điều chỉnh, bổ sung để hoàn thiện chính sách.

Chủ động nghiên cứu các văn bản và đánh giá kết quả tuyển dụng, bố trí,

sắp xếp, quy hoạch…từ tình hình thực tế tại địa phương để kịp thời có những 86

kiến nghị đề xuất phù hợp giúp cấp huyện, tỉnh làm cơ sở đánh giá, xây dựng

các chính sách phù hợp nhằm đảm bảo quyền lợi cho đội ngũ người hoạt động

không chuyên trách cấp xã hiện nay.

87

Tiểu kết chương 3

Tại chương 3 của luận văn, tác giả đã đề cập tới một số giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đối với người hoạt động không chuyên

trách cấp xã ở nước ta hiện nay nói chung và huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk

nói riêng.

Trong quá trình xây dựng các giải pháp học viên đề xuất các nội dung dựa

trên nguyên tắc: bảo đảm tính mục đích, bảo đảm tính hệ thống và đồng bộ, bảo

đảm tính kế thừa và phát triển, bảo đảm tính thực tiễn và khả thi. Các giải pháp

này được đề xuất căn cứ trên việc đánh giá những hạn chế trong việc tổ chức

thực hiện chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã tại

địa bàn huyện Krông Pắc; chỉ ra những hạn chế trong việc thực hiện các chính

sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, từ đó tìm ra những

nội dung chính sách chưa thực sự khoa học, còn chồng chéo trong công tác quản

lý; hay chỉ ra các điểm bất cập trong văn bản quy định của Chính phủ, Bộ Nội

vụ, UBND cấp tỉnh liên quan đến người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

để giải quyết các nội dung liên quan chính sách và công tác quản lý nhà nước

đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.…Ngoài việc đề xuất một

số kiến nghị đối với Chính phủ, Bộ Nội vụ, UBND tỉnh Đắk Lắk học viên cũng

đã đề xuất một số kiến nghị đối với trong việc bổ sung đầy đủ các quy định

trong việc bố trí, sắp xếp tuyển dụng người hoạt động không chuyên trách cấp

xã; thống nhất việc kiêm nhiệm giữa các chức danh, bổ sung kinh phí, chế độ

đào tạo bồi dưỡng để đảm bảo quyền lợi cho người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã.

Nhằm phát huy vai trò của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở

cấp xã trước hết cần phải tập trung xây dựng các chế độ chính sách phù hợp,

đảm bảo quyền lợi cho người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã hiện nay;

cần có kế hoạch điều chỉnh các quy định về công tác tuyển chọn, bố trí, sắp xếp,

phụ cấp…để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cũng như tạo động lực cho đội

88

ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã hiện đang công tác đã có

thâm niên.

Đặc biệt, để tiếp tục xây dựng phát triển hệ thống chính trị ở cấp cơ sở nói

chung và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói riêng cần có sự phối

hợp từ các cấp chính quyền trong việc hoàn thiện các chính sách cho đội ngũ

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã phù hợp với tình hình thực tế tại

địa phương, đảm bảo tính đồng bộ, khoa học, thống nhất.

89

KẾT LUẬN

Chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là một

vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình đổi mới và nâng cao hiệu

quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã nói chung và những người hoạt

động không chuyên trách ở cấp xã nói riêng.

Về cơ sở lý luận tác giả đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách và

những yếu tố tác động đến thực hiện các chính sách liên quan đến những người

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dựa trên các văn bản, quy định của

Đảng, Chính phủ, và các cấp ở địa phương. Trong đó luận văn đã luận giải và

làm rõ các khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã; khái niệm về chính sách và các quy định của Chính phủ, Bộ Nội

vụ về chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

Về cơ sở thực tiễn, tác giả đánh giá thực trạng việc tổ chức thực hiện

chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã tại các xã, thị

trấn trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Thông qua việc phân tích tình

hình thực hiện chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở

cấp xã, đánh giá những ưu điểm, hạn chế, đồng thời cũng chỉ ra nguyên nhân

của những hạn chế đó; đặc biệt trọng tâm của luận văn đã đề cập đến các chính

sách cho đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, những bất cập

của các văn bản, quy định của Chính phủ, Bộ Nội vụ, UBND cấp tỉnh, UBND

huyện, UBND cấp xã đối với công tác quản lý đội ngũ này. Trên cơ sở thực tiễn,

luận văn đã nêu lên những giải pháp chủ yếu trong việc hoàn thiện thực hiện

chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn

huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk hiện nay. Những giải pháp đưa ra dựa trên cơ sở

khoa học, bảo đảm tính mục đích, tính hệ thống và đồng bộ, tính kế thừa và phát

triển; tính khả thi, hợp lý và hiệu quả gắn liền với điều kiện thực tế khách quan

của địa phương. Có thể được vận dụng, áp dụng vào thực tiễn thực hiện chính

sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đang làm việc

90

trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.

Có thể thấy, việc thực hiện chính sách, nâng cao chất lượng đội ngũ

những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là nội dung quan trọng, đây

được xem là một trong những nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên và lâu

dài, đòi hỏi phải được nghiên cứu, đưa ra các giải pháp có tính khả thi cao trong

quá trình xây dựng, phát triển đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở

cấp xã, trong đó chú trọng quan tâm xây dựng và phát triển đội ngũ này đảm bảo

các điều kiện, tiêu chuẩn, phải thực sự là người có tài, có tâm, có tầm nhìn và

bản lĩnh, ý chí cách mạng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ trong

tình hình mới để đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội và xây

dựng hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng vững mạnh.

91

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương (2017), Nghị quyết số 18-NQ/TW về tiếp tục đổi

mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu

lực, hiệu quả.

2. Bộ Nội vụ-Bộ Tài chính- Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (2010),

Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH, ngày 27

tháng 5 năm 2010 về Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP

ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số

chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và những

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.

3. Chính phủ (2019), Nghị định số 34/2019/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số

quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố.

4. Cao Văn Thống, Vũ Trọng Lâm (2020), “Đổi mới và nâng cao chất lượng

đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ trong giai đoạn mới”, nhà xuất bản Chính

trị quốc gia sự thật.

5. HĐND huyện Krông Pắc (2022), Nghị quyết số 42/NQ-HĐND, ngày 24

tháng 12 năm 2021 về chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo

quốc phòng - an ninh năm 2022.

6. HĐND tỉnh Đắk Lắk (2010), Nghị quyết số 33/2010/NQ-HĐND, ngày 10

tháng 12 năm 2010 về Quy định chức danh, số lượng, hệ số phụ cấp đối với

những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, buôn, tổ dân phố

và sinh hoạt phí đối với một số chức danh cán bộ cơ sở.

7. HĐND tỉnh Đắk Lắk (2014), Nghị quyết số 146/2014/NQ-HĐND, ngày 13

tháng 12 năm 2014 về Sửa đổi, bổ sung một số Khoản của Điều 1 Nghị

quyết số 33/2010/NQ-HĐND ngày 10/12/2010 của Hội đồng nhân dân tỉnh

về quy định chức danh, số lượng, hệ số phụ cấp đối với những người hoạt

92

động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, buôn, tổ dân phố và sinh hoạt phí

đối với một số chức danh cán bộ cơ sở.

8. HĐND tỉnh Đắk Lắk (2018), Nghị quyết số 14/2018/NQ-HĐND, ngày 06

tháng 12 năm 2018 về Sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số

146/2014/NQ-HĐND, ngày 13/12/2014 của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk

về sửa đổi, bổ sung một số khoản tại Điều 1 Nghị quyết số 33/2010/NQ-

HĐND ngày 10/12/2010 của Hội đồng nhân dân tỉnh về quy định về chức

danh, số lượng, hệ số phụ cấp đối với những người hoạt động không chuyên

trách cấp xã, thôn, buôn, tổ dân phố và sinh hoạt phí đối với một số chức

danh cán bộ cơ sở.

9. HĐND tỉnh Đắk Lắk (2021), Nghị quyết số 16/2021/NQ-HĐND, ngày 20

tháng 12 năm 2021 quy định chức danh, số lượng, mức phụ cấp đối với

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; mức phụ cấp đối với người

hoạt động không chuyên trách, mức bồi dưỡng người trực tiếp tham gia vào

công việc của thôn, buôn, tổ dân phố; mức khoán kinh phí hoạt động đối với

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã và

mức hỗ trợ thôi việc đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã

dôi dư trên địa bàn tỉnh.

10. Lê Hiền ( 2018), “ Chế độ cán bộ không chuyên trách ở cơ sở: Ghi nhận tại

Hội An” bài đăng trên báo Quảng Nam (đăng vào 01/2018). Đường dẫn bài

viết: https//dbnd.quangnam.gov.vn.

11. Lê Hương (2017), “Phát huy vai trò cán bộ không chuyên trách cơ sở ở thị

xã Buôn Hồ”, bài đăng trên báo Đắk Lắk điện tử ngày 26/10/2017. Đường

dẫn bài viết: https://baodaklak.vn/channel/3482/201710/phat-huy-vai-tro-

can-bo-khong-chuyen-trach-co-so-o-thi-xa-buon-ho-5555517/.

12. Lê Quốc Khánh, Nguyễn Thăng Long (2018), “Đội ngũ cán bộ không

chuyên trách ở Nghệ An: Thực trạng và giải pháp”, bài viết đăng trên báo

Khoa học xã hội và Nhân văn Nghệ An, ngày 31/8/2018. Đường dẫn bài

93

viết: https://khxhnvnghean.gov.vn/?chitiet=1075&doi-ngu-can-bo-khong-

chuyen-trach-o-nghe-an--thuc-trang-va-giai-phap.html.

13. Tác giả Tuyết Nhung (2012), Bài viết “Những bất cập trong việc thực hiện

các chính sách đối với cán bộ xã phường thị trấn và khóm, ấp” đăng trên

trang Thông tin điện tử của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng

nhân dân tỉnh Bạc Liêu (ngày 02/12/2012).

14. Phan Thị Nữ (2018), “Thực hiện chính sách đối với cán bộ không chuyên

trách cấp xã trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng”, Luận văn

thạc sĩ Chính sách công, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.

15. Ngô Thành Can, Nguyễn Thị Hồng Hải, Lưu Kiếm Thanh (2018), “Công vụ

và quản lý thực thi công vụ”, nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật.

16. Nguyễn Ngọc Tiến (2020), “Quản lý nhà nước đối với những người hoạt

động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Triệu Phong, tỉnh

Quảng Trị”, luận văn thạc sĩ quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia,

Hà Nội.

17. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức.

18. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

19. Trần Anh Tuấn (2017), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ xây

dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức và người hoạt động không

chuyên trách ở cấp xã, Đề tài khoa học cấp quốc gia.

20. UBND huyện Krông Pắc (2019), Báo cáo số 177/BC-UBND về kết quả thực

hiện các quy định về chức danh, số lượng, chế độ chính sách đối với cán bộ,

công chức và người hoạt động không chuyên trách cấp xã, cấp thôn, buôn,

TDP trên địa bàn huyện Krông Pắc.

21. UBND huyện Krông Pắc (2019), Quyết định số 4475/QĐ-UBND, ngày 25

tháng 12 năm 2019 về ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức, viên chức năm 2020;

94

22. UBND huyện Krông Pắc (2020), Báo cáo số 311/BC-UBND ngày 17 tháng 7

năm 2020

23. UBND huyện Krông Pắc (2020), Quyết định số 8659/QĐ-UBND, ngày 28

tháng 12 năm 2020 về ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức, viên chức năm 2021.

24. UBND huyện Krông Pắc (2021), Báo cáo số 505/BC-UBND, ngày 18 tháng

12 năm 2020 về Tổng kết thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm

bảo quốc phòng - an ninh năm 2020 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2021.

25. UBND huyện Krông Pắc (2021), Báo cáo số 177/BC-UBND ngày 28 tháng

5 năm 2019 về Kết quả thực hiện các quy định về chức danh, số lượng, chế

độ chính sách đối với cán bộ, công chức và người hoạt động không chuyên

trách cấp xã, cấp thông buôn, TDP trên địa bàn huyện Krông Pắc.

26. UBND huyện Krông Pắc (2021), Báo cáo số 55/BC-UBND ngày 24 tháng

02 năm 2021 về Thống kê số lượng cán bộ công chức và những người hoạt

động không chuyên trách ở cấp xã.

27. Võ Khánh Vinh (2020) với cuốn sách “Chính sách pháp luật - Những vấn

đề lý luận và thực tiễn”, nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật.

28. Viện Từ điển học và Bách khoa toàn thư Việt Nam, Từ điển Bách khoa toàn

thư Việt Nam, Tập 1, Nxb Từ điển Bách khoa.

95

PHỤ LỤC

MẪU PHIẾU PHỎNG VẤN VÀ PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN

PHIẾU PHỎNG VẤN

(Dành cho Cán bộ, Công chức giữ chức vụ lãnh đạo các cấp)

Kính thưa Ông/ Bà.

Hiện nay, chúng tôi đang thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học về Chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã từ thực tiễn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Chúng tôi rất mong Ông/ Bà cho biết ý kiến của mình thông qua việc trả lời các câu hỏi dưới đây.

Khảo sát nhằm thu thập thông tin để thực hiện việc nghiên cứu khoa học, không sử dụng cho mục đích khác; danh tính của nguời cung cấp thông tin sẽ đuợc bảo mật.

Rất mong nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ của Ông/ Bà!

PHẦN 1. THÔNG TIN CÁ NHÂN

(Ông, bà vui lòng khoanh tròn vào nội dung thông tin cá nhân)

Giới tính người trả lời:

l. Nam

2. Nữ

Độ tuổi:

1. Duới 30 tuổi

2. Từ 30 đến duới 40 tuổi

3. Từ 40 tuổi trở lên

Trình độ học vấn:

1. Trung cấp

2. Cao đẳng

3. Đại học

4. Sau đại học

96

Chức vụ đang đảm nhiệm:………………………………………………

Thâm niên công tác:

1. Duới 5 năm

2. Từ 5 đến duới 10 năm

3. Từ 10 đến dưới 15 năm

4. Từ 15 đến dưới 20 năm

5. Từ 20 năm trở lên

PHẦN 2. NỘI DUNG CÂU HỎI

Câu 1: Xin ông/bà cho biết, số lượng chức danh những người hoạt động không chuyên trách của địa phương, đơn vị nơi ông bà quản lý đã đầy đủ so với quy định hay chưa? Vì sao?

Câu 2: Xin ông/bà cho biết, năng lực trình độ của những người hoạt động không chuyên trách của địa phương, đơn vị nơi ông bà quản lý đã đáp ứng được công việc hay chưa?

Câu 3: Xin ông/bà cho biết, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách của địa phương, đơn vị nơi ông bà quản lý được thực hiện theo những quy định nào?

Câu 4: Xin ông/bà cho biết, các chính sách hiện có đã đáp ứng được nhu cầu, mong muốn của những người hoạt động không chuyên trách chưa? Vì sao?

Câu 5: Theo ông/bà, những yếu tố nào ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách của địa phương, đơn vị nơi ông bà quản lý?

Câu 6: Xin ông/bà cho biết, việc thực hiện chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách của địa phương, đơn vị nơi ông bà quản lý gặp những khó khăn gì? Vì sao?

Câu 7: Xin ông/ bà cho biết ý kiến đề xuất, giải pháp của mình nhằm hoàn thiện chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk trong bối cảnh hiện nay và trong thời gian tới.

Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Ông/ Bà!

PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN

97

(Dành cho cán bộ, công chức, những người hoạt động không chuyên trách)

Kính thưa Anh/ Chị,

Hiện nay, chúng tôi đang thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học về Chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã từ thực tiễn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Chúng tôi rất mong Anh/ Chị cho biết ý kiến của mình thông qua việc trả lời các câu hỏi sau bằng cách khoanh tròn vào các con số tương ứng với phương án phù hợp nhất hoặc vui lòng ghi ý kiến khác (nếu có) vào phần còn trống.

Khảo sát nhằm thu thập thông tin để thực hiện việc nghiên cứu khoa học, không sử dụng cho mục đích khác; danh tính của nguời cung cấp thông tin sẽ đuợc bảo mật.

Rất mong nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ của Anh/ Chị!

PHẦN 1. THÔNG TIN CÁ NHÂN

Giới tính người trả lời:

l. Nam

2. Nữ

Độ tuổi:

1. Duới 30 tuổi

2. Từ 30 đến duới 40 tuổi

3. Từ 40 tuổi trở lên

Trình độ học vấn:

1. Trung cấp

2. Cao đẳng

3. Đại học

4. Sau đại học

Vị trí công tác:

1. Cán bộ, công chức.

2. Ngừời hoạt động không chuyên trách

98

Thâm niên công tác:

1. Dưới 5 năm.

2. Từ 5 đến duới 10 năm.

3. Từ 10 đến dưới 15 năm.

4. Từ 15 đến dưới 20 năm.

5. Từ 20 năm trở lên.

PHẦN 2. NỘI DUNG

Câu 1. Xin Anh/ Chị vui lòng cho biết ý kiến của mình về số lượng chức danh những người hoạt động không chuyên trách dưới đây ở địa phương mình theo bảng dưới đây:

Đánh giá Chức danh Thiếu Đủ Thừa

Phó chủ nhiệm ủy ban Kiểm tra Đảng ủy – Tổ chức 1 2 3

Phụ trách Tuyên giáo – Dân vận 1 2 3

Phụ trách Văn phòng – Đảng ủy 1 2 3

Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tồ quốc 1 2 3

Phó Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy Quân sự 1 2 3

1 2 3 Phụ trách Văn thư – Lưu trữ - Thủ Quỹ - Cải cách hành chính

Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ 1 2 3

Phó Chủ tịch Hội Nông dân 1 2 3

Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh 1 2 3

Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh 1 2 3

Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ 1 2 3

Chủ tịch Hội người cao tuổi 1 2 3

Phụ trách Đài Truyền thanh- Văn hóa 1 2 3

1 2 3 Phụ trách Kế hoạch – Giao Thông – Thủy Lợi – Nông lâm nghiệp

99

Câu 2. Xin Anh/ Chị vui lòng cho biết ý kiến của mình về công tác quản lý nhà nước đối với những người hoạt động không chuyên trách ở địa phương mình theo các mức độ sau:

1. Chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được thực tiễn phát triển của địa phương/ cá nhân

2. Chưa đày đủ, nhưng đã đáp ứng được thực tiễn phát triển của địa phương/ cá nhân.

3. Đầy đủ, nhưng chưa đáp ứng được thực tiễn phát triển của địa phương/ cá nhân .

4. Đầy đủ, đã đáp ứng được thực tiễn phát triển của địa phương/ cá nhân.

Về công tác tuyển chọn và sử dụng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã.

Nội dung Đánh giá

1 2 3 4

Xây dựng tiêu chuẩn vị trí việc làm cho các vị trí không chuyên trách cấp xã

1 2 3 4

Phối hợp giữa các lực lượng có liên quan trong tuyển chọn, sử dụng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã

1 2 3 4

Tuyển chọn, sử dụng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã dựa trên nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh

1 2 3 4

Xây dựng được phương thức tuyển chọn (thi tuyển, xét tuyển, hoặc kết họp giữa xét tuyển và thi tuyển) phù họp cho từng vị trí việc làm

1 2 3 4

Phân công nhiệm vụ cho người được tuyển chọn bảo đảm phù họp với năng lực và yêu cầu của vị trí việc làm

100

1 2 3 4

Sử dụng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã gắn với việc thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ thỏa đáng, bảo đảm lợi ích chính đáng của họ và khuyến khích họ tận tâm với công việc

Công tác đào tạo, bồi dưỡng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã

Nội dung Đánh giá

Chương trình đào tạo, bồi dưỡng 1 2 3 4

Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng 1 2 3 4

1 2 3 4 Trang thiết bị cần thiết phục vụ đáp ứng yêu cầu trong khâu tổ chức đào tạo, bồi dưỡng

1 2 3 4 Đội ngũ giảng viên hành chính và quản lý nhà nước

Công tác thực hiện chế độ, chính sách đối với những người hoạt động

không chuyên trách cấp xã

Nội dung Đánh giá

Chế độ phụ cấp và khoán kinh phí 1 2 3 4

Chế độ đào tạo, bồi dưỡng và bảo hiểm xã hội 1 2 3 4

Chế độ làm việc 1 2 3 4

Câu 3: Xin Anh/ Chị vui lòng cho biết những đề xuất của mình nhằm hoàn thiện chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk hiện nay và trong thời gian tới.

Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Anh/ Chị!

101