BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
MAI THANH TÚ
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN
TRÁCH Ở CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN KRÔNG PẮC,
TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
ĐẮK LẮK– 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN
TRÁCH Ở CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN KRÔNG PẮC,
TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 8 34 04 03
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ PHƯỢNG
ĐẮK LẮK– 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng cá nhân, dưới sự
giúp đỡ hướng dẫn khoa học của PGS. TS Nguyễn Thị Phượng. Tất cả các thông
tin số liệu, kết quả tự điều tra, khảo sát trong luận văn là trung thực và theo đúng
quy định.
Tác giả luận văn
Mai Thanh Tú
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập và nghiên cứu tại Phân viện Học viện hành chính
quốc gia khu vực Tây Nguyên, học viên xin cảm ơn Ban Giám đốc Học viện,
Phân viện, quý thầy cô giáo Khoa Sau Đại học, quý giảng viên đã trực tiếp giảng
dạy và hướng dẫn trong quá trình học tập tại Phân viện.
Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn Chính sách đối với những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã từ thực tiễn Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk,
học viên xin bày tỏ lòng biết ơn PGS. TS Nguyễn Thị Phượng đã tận tình hướng
dẫn, hỗ trợ để học viên hoàn thành luận văn này.
Bên cạnh đó, tác giả cũng chân thành cảm ơn Phòng Nội vụ huyện Krông
Pắc, lãnh đạo và cán bộ UBND các xã, thị trấn trên địa bàn huyện, đã tạo điều
kiện giúp đỡ, cung cấp các tài liệu, số liệu. Đồng thời, bản thân tôi cũng gửi lời
cảm ơn đến các đồng nghiệp, bạn bè, gia đình đã khích lệ, động viên tôi trong
quá trình học tập và nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành đề tài luận văn theo
đúng mục tiêu kế hoạch đề ra.
Tác giả luận văn
Mai Thanh Tú
MỤC LỤC
Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục chữ viết tắt Danh mục bảng biểu MỞ ĐẦU
Trang 1 11
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH Ở CẤP XÃ
11 12 16 23
1.1 Cấp xã và vị trí, vai trò của cấp xã trong hệ thống chính trị cơ sở 1.2 Khái quát về người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã 1.3 Khái niệm chính sách 1.4. Các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách đối với người
30
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã Chương 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH CẤP XÃ TẠI HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK
30
2.1. Điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội huyện Krông
Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
35
62
70
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. 2.3. Đánh giá chung về chính sách và công tác quản lý nhà nước đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH Ở CẤP XÃ
70
3.1. Giải pháp bảo đảm thực hiện chính sách đối với những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
83 90 92 96
3.2. Một số kiến nghị KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
KÝ HIỆU
CỤM TỪ VIẾT TẮT
BHXH
Bảo hiểm xã hội
BHYT
Bảo hiểm y tế
CBCC
Cán bộ, công chức
CNTT
Công nghệ thông tin
GD&ĐT
Giáo dục và Đào tạo
HĐND
Hội đồng nhân dân
KH
Kế hoạch
Kế hoạch – Giao thông – Thủy lời –Nông lâm
KH-GT-TL-NLN
nghiệp
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
PV
Phỏng vấn
UBND
Ủy ban nhân dân
UBMTTQVN
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
UBKT
Ủy ban kiểm tra
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÊN BẢNG BIỂU
TRANG
41
Bảng 2.1 Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở huyện Krông Pắc phân theo chức danh trước ngày 01/01/2022
43
Bảng 2.2 Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở huyện Krông Pắc phân theo chức danh sau ngày 01/01/2022
45
Bảng 2.3 Kết quả đánh giá về số lượng người hoạt động không chuyên trách ở huyện Krông Pắc năm 2022
Bảng 2.4 Công tác thực hiện chế độ, chính sách 51
đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã
55
Bảng 2.5 Kết quả khảo sát về công tác đào tạo, bồi dưỡng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã
58
Bảng 2.6 Kết quả tổng hợp y kiến về công tác tuyển chọn và sử dụng những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
46
Hộp 2.1 Ý kiến về số lượng người hoạt động không chuyên trách so với chức danh theo quy định
52
Hộp 2.2 Ý kiến về chế độ, chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách cấp xã,
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, cơ chế quản lý cán bộ, công chức cấp xã và người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được các cấp đặc biệt quan tâm, đã có
nhiều đổi mới và đạt được nhiều kết quả tích cực. Có thể thấy, những thành
công của cấp ủy, chính quyền địa phương cấp xã không thể không kể đến sự
đóng góp tích cực của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
Trong công việc thường ngày, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
luôn nêu cao tinh thần làm việc, sẵn sàng chia sẻ, gách vác trách nhiệm với cán
bộ, công chức cấp xã; không những vậy ngoài giải quyết các công việc hành
chính được phân công phụ trách thì đội ngũ người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã cũng gắn bó với phong trào ở thôn, buôn, tổ dân phố, tham gia
tích cực các hoạt động tại cơ sở.
Mặc dù vậy, một số quy định chính sách liên quan đến đội ngũ người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã vẫn còn nhiều bất cập, nhất là về cơ chế quản
lý, số lượng, tên gọi chức danh, tiêu chuẩn, chế độ phụ cấp và các chính sách
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
Đối với huyện Krông Pắc, các chủ trương, đường lối của Đảng chính sách
pháp luật và các quy định khác của các cấp liên quan đến chế độ chính sách
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được thực hiện đúng, đầy đủ, kịp
thời theo quy định về biên chế cũng như các chế độ phụ cấp, bồi dưỡng, đào tạo.
Nhờ đó đã động viên, khuyến khích được đội ngũ những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã yên tâm công tác, tham gia tích cực các hoạt động ở cấp
xã góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh trật
tự an toàn xã hội tại địa bàn huyện. Tuy nhiên, trên thực tế do tác động của
nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, kết cấu hạ tầng kinh tế - chính trị - xã hội
khu vực tây nguyên nói chung, huyện Krông Pắc nói riêng vẫn chưa đồng bộ,
phát triển chưa cân đối. Bên cạnh đó, một số chính sách dành cho những người
1
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã vẫn còn nhiều bất cập như: mức phụ cấp
còn thấp so với khối lượng công việc, việc bồi dưỡng, đào tạo, bố trí, quy hoạch
còn hạn chế…. Trong khi đó, bối cảnh kinh tế phát triển nhanh, chất lượng cuộc
sống ngày càng được nâng cao. Những điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến
hiệu quả công việc, tạo ra tâm lý không an tâm công tác cho những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn huyện. Từ thực trạng trên đặt ra
câu hỏi kết quả của thực hiện chính sách đối với đội ngũ không chuyên trách ở
cấp xã tại huyện Krông Pắc như thế nào? Các ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân?
Giải pháp nào để thực hiện các chính sách liên quan đến người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã hiệu quả nhằm tạo động lực để người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã gắn bó và yên tâm công tác? Từ những lý do đó, học viên
lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Chính sách đối với những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã từ thực tiễn Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk” để làm
luận văn thạc sĩ ngành quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan tới đề tài nghiên cứu đã có những công trình đã được công bố, có
thể kể đến những công trình sau:
2.1 Một số cuốn sách có liên quan về đổi mới nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ và chính sách
Ðội ngũ cán bộ có vai trò chủ đạo trong tham mưu hoạch định chính sách,
trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng và thực thi luật pháp, quản lý mọi mặt
của đời sống xã hội. Cho nên, cán bộ và công tác cán bộ luôn giữ vai trò rất
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của mọi quốc gia. Xác định được tầm
quan trọng của công tác cán bộ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Tác giả Cao Văn Thống, Vũ Trọng Lâm (2020), “Đổi mới và nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ trong giai đoạn mới”, nhà xuất
bản Chính trị quốc gia sự thật, đã trình bày một cách hệ thống quan điểm của C.
Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về đội ngũ cán
2
bộ và công tác cán bộ; thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ ở nước ta kể
từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay; những mặt mạnh, mặt yếu của đội
ngũ cán bộ và từng khâu trong công tác cán bộ, nguyên nhân khách quan, chủ
quan của tình trạng đó. Trên cơ sở đó, các tác giả đã đưa ra một số giải pháp
nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ Việt Nam đủ năng lực, trình độ, phẩm chất đạo
đức đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.[4]
Tác giả Ngô Thành Can, Nguyễn Thị Hồng Hải, Lưu Kiếm Thanh (2018),
“Công vụ và quản lý thực thi công vụ”, nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật,
đã đề cập đến quy định về công vụ, công chức, năng lực thực thi công vụ, mô
hình thực thi công vụ của tổ chức và cá nhân và các yếu tố ảnh hưởng từ đó đưa
ra những phương thức quản lý thực thi công vụ, theo mục tiêu theo quá trình và
theo kết quả; quản lý thực thi công vụ trong cơ quan hành chính nhà nước qua
đó giới thiệu các xu hướng cải cách chế độ công vụ, công chức trên thế giới và
Đề án đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức ở Việt Nam.[15]
Tác giả Võ Khánh Vinh (2020) với cuốn sách “Chính sách pháp luật -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật,
nội dung sách tập trung làm rõ những vấn đề lý luận chung về chính sách pháp
luật; các hình thức thực hiện chính sách pháp luật; các loại và các cấp độ chính
sách pháp luật. Đây là công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu, chất lượng
cao về chính sách pháp luật. Thông qua việc phân tích lý luận và thực tiễn trong
mối quan hệ qua lại, kết hợp với nhau, tác giả đưa ra các quan điểm và kiến nghị
cụ thể về vấn đề liên quan. Cuốn sách góp phần cung cấp những hiểu biết cần
thiết cho hoạt động xây dựng và thực hiện chính sách pháp luật ở nước ta.[27]
2.2 Một số bài báo, tạp chí viết về người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã
Trong bài viết “Phát huy vai trò cán bộ không chuyên trách cơ sở ở thị xã
Buôn Hồ” của tác giả Lê Hương trên báo Đắk Lắk điện tử (đăng ngày
26/10/2017) đã nhận định rằng đội ngũ hoạt động không chuyên trách là cầu nối
3
giữa người dân với cấp ủy, chính quyền, tổ chức đoàn thể. Trong những năm
qua đội ngũ cán bộ không chuyên trách ở thị xã Buôn Hồ đã phát huy vai trò,
trách nhiệm, tích cực đóng góp trong mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội ở địa
phương. Để phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ không chuyên
trách này, căn cứ Nghị quyết 33/2010/NQ-HĐND và Nghị quyết 146/2010/NQ-
HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk, thị xã Buôn Hồ đã hướng dẫn
UBND các xã, phường căn cứ nhu cầu thực tế của địa phương lựa chọn nhân sự
cán bộ không chuyên trách khối Đảng, khối chính quyền, đoàn thể gửi các cơ
quan có thẩm quyền thẩm định cho chủ trương và quyết định bố trí, phân công
công tác theo quy định; đồng thời, lập dự toán điều chỉnh, thực hiện chế độ,
chính sách đối với cán bộ không chuyên trách ở cấp xã, phường và ở thôn, buôn,
tổ dân phố.[11]
Bài báo “ Chế độ cán bộ không chuyên trách ở cơ sở: Ghi nhận tại Hội An”
của tác giả Lê Hiền trên báo Quảng Nam (đăng vào 01/2018) đã nêu lên thực
trạng về các chế độ đối với người hoạt động không chuyên trách cấp xã với mức
phụ cấp thấp, nhưng trách nhiệm công việc cao không khác gì so với cán bộ,
công chức cấp xã; bài báo đã đề cập đến những bất cập trong việc đề xuất, xây
dựng các quy định về công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí sử dụng
người hoạt động không chuyên trách cấp xã.[10]
Bài viết “Những bất cập trong việc thực hiện các chính sách đối với cán bộ
xã phường thị trấn và khóm, ấp” của tác giả Tuyết Nhung đăng trên trang Thông
tin điện tử của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh
Bạc Liêu (ngày 02/12/2012) bài viết đã đề cập đến các chế độ, chính sách đối
với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và đánh giá việc Nghị định
92/2009/NĐ-CP quy định về chức danh, một số chế độ, chính sách đối với cán
bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã là bước đột phá giải quyết những vấn đề bất cập về số lượng, chế
độ chính sách đối với cán bộ và những người hoạt động không chuyên trách ở
cơ sở, góp phần rất lớn để nâng cao chất lượng hoạt động và quyền lợi của đội 4
ngũ ở cơ sở. Tuy nhiên xét thực tế trong điều kiện hiện nay vẫn còn một khó
khăn, bất cập, theo quy định người hoạt động không chuyên trách ở cơ sở chưa
phải là cán bộ, nên không hưởng lương và các chế độ khác như cán bộ là phù
hợp, nhưng nếu áp dụng chung mức phụ cấp cho tất cả địa bàn trong cả nước là
chưa phù hợp. Từ đó đưa ra các kiến nghị như cần quy định các chức danh cán
bộ của các cơ quan Đảng như Tuyên giáo, Kiểm tra, Tổ chức, Chánh Văn phòng
Đảng ủy; tăng số lượng những người hoạt động không chuyên trách ở khóm ấp
từ không quá 03 người theo quy định tại khoản 3, Điều 19, Nghị định
92/2009/NĐ-CP lên không quá 07 người hoặc giao cho địa phương quyết định
số lượng những người hoạt động không chuyên trách ở khóm, ấp cho phù hợp
với tình hình và khả năng ngân sách của tỉnh; điều chỉnh tăng hệ số lương, mức
phụ cấp đối với cán bộ, công chức và những người hoạt động không chuyên
trách phù hợp với điều kiện thực tế và sự cống hiến của họ. Xã, phường, thị trấn
là một cấp hành chính. Vì vậy, cần có chính sách tinh giản biên chế cho cán bộ,
công chức cấp xã như cán bộ, công chức cấp huyện trở lên để giải quyết thỏa
đáng những cán bộ, công chức cấp xã công tác lâu năm bị hạn chế về trình độ,
năng lực và sức khỏe; đồng thời, từng bước trẻ hóa và nâng cao chất lượng cán
bộ, công chức cấp cơ sở. Chính phủ có chủ trương hỗ trợ kinh phí để đóng Bảo
hiểm xã hội và quy định những người hoạt động không chuyên trách thuộc đối
tượng bắt buộc đóng Bảo hiểm xã hội.[13]
2.3 Một số đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan đến chính sách đối
với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Trần Anh Tuấn (2017) trong Đề tài khoa học cấp quốc gia “Nghiên cứu cơ
sở lý luận và thực tiễn phục vụ xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức
và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã” đã đi sâu vào đánh giá: số
lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ công chức và những người hoạt động không
chuyên trách cấp xã; thực trạng công tác quản lý, sử dụng đối với cán bộ công
chức và những người hoạt động không chuyên trách cấp xã và đánh giá chung
về những vấn đề đặt ra đối với việc kiện toàn đội ngũ CBCC và những người 5
hoạt động không chuyên trách cấp xã ở nước ta. Trên cơ sở đó, đề tài đã đưa ra
phương hướng, giải pháp xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức và
những người hoạt động không chuyên trách cấp xã.[19]
Lê Quốc Khánh và Nguyễn Thăng Long (2018) trong nghiên cứu về “Đội
ngũ cán bộ không chuyên trách ở Nghệ An: Thực trạng và giải pháp”, đã nghiên
cứu, đánh giá thực tiễn về chức năng, nhiệm vụ; vị trí việc làm những người
hoạt động không chuyên trách và đề xuất một số giải pháp như: thống nhất tên
gọi các chức danh, chuẩn hóa quy trình tuyển dụng, bổ sung quy định về chế độ
làm việc, hoàn thiện chính sách đãi ngộ.[12]
2.4 Một số luận văn, luận án có liên quan đến người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã
Phan Thị Nữ (2018), với luận văn thạc sĩ về “Thực hiện chính sách đối với
cán bộ không chuyên trách cấp xã trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà
Nẵng” đã tập trung vào các vấn đề: cán bộ không chuyên trách cấp xã, việc tổ
chức thực hiện chính sách đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã; nội dung
các bước trong tổ chức thực hiện chính sách và các nhân tố ảnh hưởng đến tổ
chức thực hiện chính sách đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã. Tác giả đã
đánh giá thực trạng việc tổ chức thực hiện chính sách đối với cán bộ không
chuyên trách tại các phường trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng và
qua đó rút ra những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại. Từ đó,
xây dựng phương hướng, đề xuất giải pháp và kiến nghị chủ yếu trong việc hoàn
thiện thực hiện chính sách đối với cán bộ không chuyên trách cấp trên địa bàn
quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng hiện nay.[14]
Nguyễn Ngọc Tiến (2020), với luận văn thạc sĩ về “Quản lý nhà nước đối
với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị” đã đánh giá rằng đây chính là đội ngũ đóng góp vai trò
quan trọng trong việc giúp cán bộ công chức cấp xã giải quyết tất cả các công
việc trong đời sống xã hội ở địa phương, cơ sở mang tính thường xuyên để đảm
6
bảo quyền và lợi ích, nguyện vọng chính đáng của người dân và doanh nghiệp.
Để phát triển đội ngũ này cả về số lượng và chất lượng, Nhà nước cần quan tâm
quản lý đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách cấp xã, tạo điều
kiện để xây dựng, sử dụng và phát huy một cách tốt nhất năng lực của đội ngũ
này. Thông qua nghiên cứu này, tác giả cũng đã đưa ra các định hướng và đề
xuất 05 nhóm giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối
với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị.[16]
Thông qua dữ liệu thu thập được trong quá trình thực hiện luận văn cho
thấy các công trình nghiên cứu trên đã đề cập, nghiên cứu đến nhiều góc độ khác
nhau và đa phần đều đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
công chức nói chung ở nước ta hiện nay. Các tác giả trên đều đã phân tích một
cách hệ thống và tương đối toàn diện về người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã dưới góc độ lý luận và thực tiễn, cung cấp cho học viên những kiến thức,
hiểu biết nền tảng, phục vụ cho việc nghiên cứu về những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã.
Việc phân tích, đánh giá về thực trạng những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã được dựa trên những quy định chung và từ thực tiễn ở
huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Do đó công trình nghiên cứu của tác giả không
trùng lắp với các công trình nêu trên. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu của
các tác giả đều là cơ sở khoa học về lý luận và giải pháp để tác giả tham khảo,
so sánh và rút ra những nhận định khách quan đối với công trình nghiên cứu của
mình, cũng như đưa ra giải pháp đổi mới nhằm hoàn thiện các chế độ, chính
sách liên quan đến đối tượng này trong công trình nghiên cứu, góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy hành chính ở cơ sở.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của luận văn:
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận các chính sách liên quan đến người hoạt động
7
không chuyên trách ở cấp xã theo các quy định hiện nay; nêu lên thực trạng về
thực hiện chính sách của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
tại huyện Krông Pắc; nêu lên quan điểm, giải pháp nhằm thống nhất về số lượng
và tên gọi chức danh của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã từ
đó thực hiện tốt các chính sách đối với những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã.
Nhiệm vụ của luận văn:
+ Phân tích các cơ cở lý luận về chính sách và công tác quản lý nhà nước
đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã hiện nay.
+ Phân tích thực trạng thực hiện chính sách và công tác quản lý nhà nước
đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã tại huyện Krông
Pắc hiện nay, nêu ra những điểm bất cấp, hạn chế cần khắc phục.
+ Xác định nguyên nhân và đề ra các giải pháp nhằm góp phần thống nhất
các chính sách và quản lý nhà nước đối với những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã hiện nay tại huyện Krông Pắc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Các văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng những nội dung quy định liên
quan đến cơ sở lý luận về chính sách và công tác quản lý nhà nước đối với
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; thực trạng về thực hiện
chính sách của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã ở huyện
Krông Pắc hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Nghiên cứu được học viên thực hiện trên địa bàn
huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
+ Phạm vi thời gian: Nghiên cứu được thực hiện từ năm 2019 đến
31/12/2022.
8
+ Phạm vi nội dung: Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu về các chính sách
và thực hiện chính sách, công tác quản lý nhà nước đối với những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã trên huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận:
Luận văn được nghiên cứu dựa vào phương pháp luận chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, văn
bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đối với những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tổng hợp, kế thừa các kết quả nghiên
cứu lý thuyết cũng như thực tiễn về những người hoạt động không chuyên trách
ở cấp xã; các văn kiện của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
+ Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp lịch sử,….để nghiên cứu về tình hình thực hiện các chính sách và
công tác quản lý nhà nước đối với những người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Phương pháp này, học viên sử dụng
bảng hỏi lấy ý kiến của cán bộ, công chức và những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã thuộc UBND các xã, thị trấn. Kết quả thu được 157 bảng
hỏi đầy đủ các thông tin theo yêu cầu của nghiên cứu.
- Phương pháp chuyên gia: Bên cạnh thu thập thông tin định lượng từ bảng
hỏi, học viên trực tiếp trao đổi, phỏng vấn và thảo luận với cán bộ quản lý trong
lĩnh vực hành chính cấp huyện, cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở
các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Krông Pắc. Trong quá trình triển khai trên
thực tế, học viên đã thực hiện phỏng vấn được 21 người.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
9
- Ý nghĩa lý luận:
Luận văn góp phần bổ sung nhằm hoàn thiện hơn các quy định về chính
sách và thực hiện chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách
ở cấp xã trong bối cảnh hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Tác giả của luận văn sẽ đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện
hơn các quy định về chức danh, chế độ, chính sách và việc thực hiện chính sách
đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói chung và tại
huyện Krông Pắc nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành 3 chương cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách đối với những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đối với những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã tại huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Giải pháp bảo đảm thực hiện chính sách đối với những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI HOẠT
ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH Ở CẤP XÃ
1.1 Cấp xã và vị trí, vai trò của cấp xã trong hệ thống chính trị cơ sở
Ở nước ta hiện nay, hệ thống chính trị được cấu thành bởi ba thành tố: Tổ
chức Đảng, tổ chức Chính quyền, tổ chức Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã
hội. Đây là một chỉnh thể thống nhất, có sự gắn bó mật thiết với nhau dưới sự
lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Theo Điều 2 của Luật Tổ chức chính quyền địa năm 2015, đơn vị hành
chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay có bốn cấp, gồm:
Cấp tỉnh (Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương), cấp huyện (Huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương), cấp
xã (Xã, phường, thị trấn) và Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Cấp xã (gồm
xã, phường, thị trấn) được xác định là đơn vị hành chính cấp cơ sở địa phương.
Trong các cấp nói trên, cấp cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh, là cầu nối giữa Đảng với
nhân dân, trực tiếp nắm bắt tình hình, đưa đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào đời sống xã hội.
Theo Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015, chính quyền cấp xã có
nhiệm vụ sau:
- Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa bàn xã;
- Quyết định những vấn đề của xã trong phạm vi được phân quyền, phân
cấp theo quy định và quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan hành chính nhà nước cấp trên
ủy quyền;
- Chịu trách nhiệm trước chính quyền địa phương cấp huyện về kết quả
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở xã;
11
- Quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm phát huy quyền làm
chủ của Nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng và phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn xã.
Tuy là cấp chính quyền, nhưng cấp xã là nơi mà chính quyền gần gũi với
nhân dân nhất. Hệ thống chính quyền cấp xã là cầu nối giữa nhà nước với nhân
dân sinh sống và làm việc trong xã, đại diện cho nhà nước, để thực thi quyền lực
nhà nước, đồng thời thực hiện triển khai, tổ chức chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của nhà nước ở xã. Đặc biệt, chính quyền xã giữ vai
trò quan trọng trong việc thực hiện công tác quản lý các vấn đề phát triển xã hội
ở nông thôn. Hay nói cách khác, chính quyền cấp xã là cửa ngõ để chủ trương
của Đảng, chính sách của Nhà nước đi vào thực tiễn cuộc sống và cũng là đầu
vào để tiếp nhận nhu cầu, mong mỏi của nhân dân. Họ là lực lượng thực hiện
các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, đồng
thời là người huy động khả năng cộng đồng dân cư để thúc đẩy kinh tế - xã hội ở
địa phương, góp phần nâng cao khối đại đoàn kết toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói “Cấp xã là cấp gần gũi dân nhất, là nền tảng hành chính. Cấp xã
làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi”. Chính vì vậy, các cấp ngành cần
phải chú trọng quan tâm đến vai trò, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở
cấp này.
1.2 Khái quát về người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
1.2.1 Khái niệm người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008; Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 không đề cập đến khái
niệm về người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Đồng thời tại Nghị định
số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ quy định về chế độ chính
sách đối với cán bộ, công chức cấp xã, thị trấn thì chỉ dùng thuật ngữ “Cán bộ
không chuyên trách cấp xã” bao gồm: Trưởng Ban Tổ chức đảng, Chủ nhiệm
Uỷ ban Kiểm tra đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo và 01 cán bộ Văn phòng Đảng
12
ủy; Phó Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy); Phó Chỉ
huy trưởng quân sự; Cán bộ kế hoạch - giao thông - thủy lợi - nông, lâm, ngư,
diêm nghiệp; Cán bộ lao động - thương binh và xã hội; Cán bộ dân số - gia đình
và trẻ em; Thủ quỹ - văn thư - lưu trữ; Cán bộ phụ trách đài truyền thanh; Cán
bộ quản lý nhà văn hóa; Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc; Phó các đoàn
thể cấp xã: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội
Nông dân, Hội Cựu chiến binh; Chủ tịch Hội Người cao tuổi; Chủ tịch Hội Chữ
thập đỏ Việt Nam”.
Khi Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính
phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công
chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã và tại Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ về việc
sửa đổi, bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố; Thông tư số 13/2019/TT-
BNV ngày 06/11/2019 của Bộ Nội vụ về việc hướng dẫn một số quy định về cán
bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn,
tổ dân phố thì sử dụng thuật ngữ “người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã” thay cho thuật ngữ “Cán bộ không chuyên trách” theo Nghị định số
121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ.
Song có thể căn cứ vào Luật Cán bộ, công chức Luật sửa đổi bổ sung một
số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 và các văn bản
của Chính phủ, để xây dựng nên khái niệm như sau:
Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là những người làm việc tại
các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cấp xã và thôn, buôn, tổ dân phố
nhưng không phải là cán bộ, công chức cấp xã. Họ được bầu cử vào chức danh
hoặc được tuyển chọn ký hợp đồng lao động.
1.2.2 Vai trò của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Trong hệ thống chính trị cấp cơ sở, không chỉ riêng đội ngũ cán bộ, công
13
chức mà những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là đội ngũ gần
dân, sát dân nhất, trực tiếp triển khai các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của nhà nước đến với nhân dân, góp phần thúc đẩy việc thực hiện các chủ
trương, chính sách, pháp luật đi vào thực tiễn của cuộc sống của địa phương.
Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là những người trực tiếp
thực hiện công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân chấp hành các
chủ trương, chính sách, pháp luật.
Những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là những người cư
trú, sinh sống và làm việc, gắn bó nhiều năm với các cộng đồng dân cư nơi họ
công tác. Do đó, đội ngũ này nắm rõ được tâm tư, nguyện vọng cũng như phong
tục tập quán của nhân dân ở địa phương mà họ công tác, sinh sống. Họ chính là
cầu nối giữa chính quyền với nhân dân trong việc tuyên truyền, vận động nhân
dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước. Đồng thời, truyền tải những thắc mắc, kiến nghị, tâm tư và nguyện vọng
của người dân lên các cấp chính quyền. Tuy nhiên, bởi vì sự gần gũi giữa những
người hoạt động không chuyên trách với những người dân địa phương. Do đó,
tâm lý tình cảm sẽ có sự ảnh hưởng, chi phối phần nào đến hoạt động thực thi
công việc của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trong thực
tiễn ở các địa phương. Đây chính là điều kiện thuận lợi đối với họ trong việc
tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của nhà nước.
Đội ngũ những người không chuyên trách ở cấp xã còn là nguồn nhân lực
quan trọng, là đội ngũ kế thừa của cán bộ, công chức các cấp. Họ làm việc trong
các tổ chức chính trị và đoàn thể, là môi trường giúp cho họ có thể phát huy thế
mạnh của bản thân cũng như học tập và phát triển năng lực. Do đó, đã có không
ít cán bộ, công chức trưởng thành, là cán bộ lãnh đạo chủ chốt là những người
từng làm việc ở vị trí của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
14
1.2.3. Đặc điểm của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã
Thứ nhất, đội ngũ này phần lớn là những người sinh sống tại địa phương,
phần lớn họ trưởng thành từ thực tiễn hoạt động phong trào của địa phương hoặc
được tuyển chọn họ có kinh nghiệm trong thực tế, am hiểu về văn hóa, phong
tục tập quán của địa phương, được nhân dân, hội viên đoàn viên tin tưởng, tín
nhiệm.
Thứ hai, về cơ bản đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã có trình độ chính trị, đáp ứng theo quy định của các cấp về tiêu chuẩn,
năng lực trình độ và lịch sử chính trị. Trong thực tế thực hiện công việc, họ phát
huy được tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Thứ ba, vì chủ yếu trưởng thành từ các phong trào nên hầu hết những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chưa được đào tạo bài bản, đúng
qui trình hay thực hiện việc chuẩn hóa đối với đội ngũ này. Vì vậy, những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã sau khi được tuyển chọn thường được cử
đi đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nên năng lực thực hiện nhiệm vụ trong quản lý
nhà nước của đội ngũ này còn nhiều hạn chế nhất định.
Thứ tư, trình độ của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
đã từng bước được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, thực tế là với những người giàu
kinh nghiệm do trải qua quá trình công tác lâu dài, tuổi tác đã lớn thì bằng cấp
lại không cao. Còn với một số người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trẻ
có trình độ chuyên môn thì lại thiếu kinh nghiệm trong thực tiễn. Những điều
này đã khiến cho đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
gặp không ít khó khăn khi xử lý, giải quyết các công việc được phân công.
Thứ năm, những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã không được
hưởng lương, họ chỉ được hưởng một số phụ cấp, được tham gia các khóa học,
khóa đào tạo nghiệp vụ và một số chế độ khác theo quy định của pháp luật.
Thứ sáu, thời gian làm việc của người hoạt động không chuyên trách ở cấp
15
xã không quy định cụ thể, vì bản chất công việc của họ tại các cơ quan chính
quyền và đoàn thể là không thường xuyên và liên tục. Do đó, tính ổn định ở
những người hoạt động chuyên trách ở cấp xã thấp, số lượng người làm việc
thường xuyên thay đổi và biến động nhân sự.
1.3. Khái niệm chính sách
Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm như sau: “Chính sách là
những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực
hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất,
nội dung và phương hướng của Chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường
lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”
Các chính sách, công tác quản lý nhà nước liên quan đối với người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã
1.3.1 Chế độ phụ cấp, chế độ bảo hiểm xã hội và y tế
Qua từng giai đoạn khác nhau, với sự phát triển của đất nước, việc thực
hiện chính sách, chế độ, phụ cấp đối với người hoạt động không chuyên trách
cấp xã có những thay đổi khác nhau phù hợp với từng giai đoạn.
Năm 2003, thực hiện Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm
2003 của Chính phủ về quy định chế độ, chính sách của cán bộ, công chức ở xã,
phường, thị trấn. Theo Nghị định này, các quyền lợi dành cho “cán bộ không
chuyên trách” được hưởng phụ cấp hằng tháng.
Năm 2009, thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm
2009 về quy định chức danh, chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức và
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng chế độ phụ
cấp theo quy định của từng chức danh do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định
với mức không vượt quá hệ số 1,0 mức lương tối thiểu chung; ngân sách trung
ương hỗ trợ các địa phương theo mức bình quân bằng 2/3 so với mức lương tối
thiểu chung cho mỗi người hoạt động không chuyên trách. Trong Nghị định này,
16
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được quy định cụ thể hơn về
nhiệm vụ cũng như quyền lợi khi làm việc. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai,
quyền lợi của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã còn nhiều
bất cập, chưa phù hợp. Do đó, Chính phủ đã đề xuất Chương trình tổng thể cải
cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 tại Nghị quyết số 30c/NQ-CP
ngày 08 tháng 11 năm 2011. Trong các nội dung đẩy mạnh cải cách chế độ công
vụ, công chức, Chính phủ đã xây dựng nội dung chỉ đạo về “Nghiên cứu sửa đổi
các quy định về chức danh, số lượng và chế độ, chính sách đối với cán bộ, công
chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã”. Trên cơ sở đó, một trong những nhiệm vụ trọng tâm là “Đổi mới cơ chế
quản lý và chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức ở xã, phường,
thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”. Cụ thể là “sửa
đổi các quy định về chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã”.
Đến năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị định 29/2013/NĐ-CP để sửa đổi
bổ sung về Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009. Tại Nghị
định này, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng chế độ phụ
cấp, chế độ bảo hiểm y tế mà những nghị định trước không đề cập. Cùng với sự
phát triển hoàn thiện dần của bộ máy chính quyền và đoàn thể các cấp, chế độ,
chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cũng dần được
quan tâm và điều chỉnh nhằm phù hợp hơn với tình hình thực tế.
Theo Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2019 Sửa đổi, bổ
sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã được hưởng chế độ phụ cấp, chế độ BHXH và chế độ BHYT.
Ngân sách nhà nước thực hiện khoán quỹ phụ cấp, bao gồm cả hỗ trợ BHXH và
BHYT để chi trả hàng tháng đối với những người hoạt động không chuyên trách
ở cấp xã theo Quyết định phân loại đơn vị hành chính xã như sau: Loại 1 được
khoán quỹ phụ cấp bằng 16,0 lần mức lương cơ sở; Loại 2 được khoán quỹ phụ 17
cấp bằng 13,7 lần mức lương cơ sở; Loại 3 được khoán quỹ phụ cấp bằng 11,4
lần mức lương cơ sở. Theo khoản 7 Điều 2 của nghị định này, những người hoạt
động không chuyên trách cấp xã thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.
1.3.2 Về chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đối với người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Đào tạo, bồi dưỡng là khâu rất quan trọng trong công tác cán bộ nói chung,
những người hoạt động không chuyên trách nói riêng. Đào tạo là một quá trình
dài, còn bồi dưỡng là một giai đoạn ngắn nhằm cung cấp kiến thức mới cũng
như bổ trợ, nâng cao hơn các kiến thức, kỹ năng đã có sẵn của người theo học.
Đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức
danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,
phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Nghị
định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã, ở thôn tổ dân phố.
Theo khoản 2, Điều 12 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của
Chính phủ, những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng
chế độ đào tạo bồi dưỡng gồm: “Được cấp tài liệu học tập; Được hỗ trợ một
phần tiền ăn trong thời gian đi học tập trung; Được hỗ trợ chi phí đi lại từ cơ
quan đến nơi học tập”.
Căn cứ vào những Nghị định, văn bản hướng dẫn, địa phương ban hành và
xây dựng phương án, kế hoạch thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng
nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách
ở cấp xã dựa vào nhu cầu, tình tình thực tế của địa phương.
1.3.3 Về tuyển chọn và bố trí sắp xếp đối với người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã
18
Việc tổ chức tuyển chọn và tiếp nhận những đối tượng đáp ứng các yêu
cầu của công việc vào làm việc trong tổ chức thường là những người đang sinh
sống tại địa phương được nào thì được tuyển chọn làm việc tại địa phương đó.
Cần có sự phối hợp của các lực lượng có liên quan trong tuyển chọn, bố trí sắp
xếp đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Quá trình
tuyển chọn, bố trí sắp xếp những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
gắn với việc sắp xếp, bố trí căn cứ vào năng lực để phát huy tốt nhất khả năng
của những người này trong các tổ chức đoàn thể cấp xã.
Về số lượng, những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, theo
Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2019 Sửa đổi, bổ sung một
số quy định về CBCC cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã,
số lượng người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được bố trí theo Quyết
định phân loại đơn vị hành chính cấp xã: Xã loại 1 tối đa 14 người; Xã loại 2 tối
đa 12 người; Xã loại 3 tối đa 10 người.
Về chất lượng, cần xem xét dựa trên các mặt về: Phẩm chất chính trị, tư
tưởng, đạo đức lối sống, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng thực hiện công
việc….Ngoài ra còn có thể xem xét các yếu tố khác về mặt tuổi tác, dân tộc, tôn
giáo…. Các yếu tố này là cần thiết nhằm phát huy khả năng vận dụng khéo léo,
thành thạo những kiến thức và kinh nghiệm trong việc tuyên truyền, vận động
quần chúng nhân dân về chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà
nước cũng như nắm bắt được mong muốn, nguyện vọng của nhân dân để báo
cáo với lãnh đạo cấp xã.
1.3.4 Về chế độ làm việc đối với người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã
Về chế độ làm việc, do chưa có quy định của Chính phủ cũng như phụ cấp
hàng tháng còn quá thấp nên có nhiều địa phương không bắt buộc những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã làm việc thời gian hành chính cả tuần.
Tùy vào quy định của mỗi địa phương, mỗi cơ quan đơn vị mà người hoạt động
19
không chuyên trách ở cấp xã có thể nghỉ 2-3 ngày/tuần, hoặc mỗi ngày chỉ làm
việc trong 1 buổi (thường là buổi sáng).
Sau khi Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2019 của
Chính phủ đã quy định rõ ràng hơn về số lượng, chức danh, nhiệm vụ, mức phụ
cấp và một số chế độ đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đã
phần nào khuyến khích, động viên và giúp những người này ý thức được quyền
lợi và trách nhiệm trong công việc. Vì vậy, việc đưa ra chính sách và thực hiện
chính sách sẽ tác động trực tiếp đến tâm lý, thái độ làm việc và hiệu quả công
việc của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã để đóng góp và sự
phát triển chung của địa phương. Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật do
cấp Trung ương ban hành thì các chủ thể thực hiện chính sách cấp Tỉnh, Huyện
sẽ dựa vào thực tế tại địa phương để triển khai các nội dung phù hợp.
1.3.5 Về chế độ cho thôi việc đối với người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã
Đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, chế độ thôi việc sẽ
được áp dụng theo quy định của pháp luật hiện hành. Hiện nay, khi người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã thôi việc sẽ được giải quyết theo quy định tại
Luật Cán bộ, công chức. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Cán bộ,
công chức và Luật Viên chức năm 2019. Theo Nghị định số 34/2019/NĐ-CP
ngày 24 tháng 4 năm 2019 Sửa đổi, bổ sung một số quy định về CBCC cấp xã
và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, số lượng
đội ngũ hoạt động không chuyên trách cấp xã đã có sự thay đổi theo chiều
hướng thu hẹp về số lượng. Khi Nghị định này có hiệu lực dẫn đến việc dôi dư
một bộ phận những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đã được tuyển
chọn vào làm việc theo quy định cũ.
Nhằm tạo thuận lợi cho việc thực hiện Nghị định số 34/2019/NĐ-CP của
Chính phủ, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 13/2019/TT-BNV ngày
6/11/2019 hướng dẫn một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người
20
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố. Theo Điều 14 của
thông tư này, Chủ tịch UBND cấp huyện tổng hợp và đề xuất với chủ tịch
UBND cấp tỉnh giải quyết chính sách cho người hoạt động không chuyên trách
ở cấp xã dôi dư do vượt quá quy định tại khoản 4 điều 2 Nghị định số
34/2019/NĐ-CP.
Thông tư cũng hướng dẫn rằng chủ tịch UBND tỉnh giải quyết chính sách
cho người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dôi dư dựa trên quy định tại
Điều 21 Nghị định 163/2016/NĐ-CP ngày 21 tháng 12 năm 2016 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ngân sách nhà nước và khả năng
ngân sách của địa phương. Sau đó, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng
nhân dân cùng cấp xem xét, quyết định chi hỗ trợ thôi việc đối với người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã dôi dư.
Trên cơ sở đề xuất của UBND tỉnh, HĐND cùng cấp sẽ tiến hành họp, xem
xét và ban hành quy định về việc giải quyết chế độ hỗ trợ thôi việc đối với người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dôi dư.
Ngoài ra, theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014, người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã bắt buộc tham gia bảo hiểm xã hội nhưng chỉ
ở chế độ hưu trí và tử tuất, do đó việc những người hoạt động không chuyên
trách thôi việc họ sẽ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Trong khoản 3, điều
1, Nghị định 29/2013-NĐ quy định những người hoạt động không chuyên trách
ở các cấp xã được hưởng chế độ phụ cấp và chế độ bảo hiểm y tế, do đó, họ chỉ
được hưởng trợ cấp mà không được hưởng lương như cán bộ khác.
1.3.6 Công tác đánh giá, thi đua, khen thưởng và kỷ luật đối với người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, đánh giá được hiểu là một
hoạt động nhằm nhận định một đối tượng về mức độ hoàn thành nhiệm vụ, chất
lượng, hiệu quả công việc, trình độ, sự phát triển, kinh nghiệm được hình thành
ở thời điểm hiện tại đang được xem xét so với mục tiêu hay chuẩn mực đã được
21
xác lập.
Đánh giá cán bộ, công chức, viên chức và người lao động được xem là một
trong những bước quan trọng nhất và khó nhất trong công tác cán bộ, vì công tác
đánh giá có ảnh hưởng và có ý nghĩa quyết định đến tất cả các công tác trọng
yếu khác như tuyển chọn, bố trí, sử dụng, đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng, khen
thưởng, kỷ luật và thực hiện các chế độ, chính sách đối với cán bộ, đánh giá
đúng giúp cán bộ phát huy được năng lực, sở trường, ưu điểm, khắc phục hạn
chế, từ đó điều chỉnh hành vi phù hợp để tiến bộ trong công việc cũng như trong
rèn luyện đạo đức chính trị.
Bên cạnh đó, công tác kỷ luật cũng không thể thiếu trong việc thực hiện
chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
Tại Điều 118 của Bộ Luật Lao động đã quy định: “Kỷ luật lao động là
những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều hành sản xuất,
kinh doanh trong nội quy lao động”.
Kỷ luật lao động bao gồm các điều khoản quy định về hành vi của người
lao động trong các lĩnh vực có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ lao động,
như là: Số lượng, chất lượng công việc cần đạt được, thời gian làm việc, thời
gian nghỉ ngơi, giữ gìn trật tự tại nơi làm việc, an toàn lao động và vệ sinh lao
động, bảo vệ tài sản và bí mật công nghệ, kinh doanh của tổ chức, các hành vi vi
phạm pháp luật lao động và trách nhiệm vật chất.
Xét ở góc độ chung, thì người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cũng
là người lao động, do đó, kỷ luật lao động là một trong những chế định của pháp
luật nhằm đảm bảo duy trì các điều kiện lành mạnh trong quá trình hoạt động
của cơ quan nhà nước, các tổ chức và doanh nghiệp, chế định này là một bộ
phận cấu thành quan trọng trong hệ thống pháp luật lao động và cán bộ, công
chức hiện hành của Nhà nước ta.
Như vậy, thi đua, khen thưởng, kỷ luật là những công cụ và biện pháp quản
lý của cơ quan hành chính nhà nước trong quá trình sử dụng, xây dựng và phát 22
triển cán bộ, bao gồm cả những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
Điều này đã tạo nên sự động viên, khuyến khích họ phát huy tinh thần, khả năng
của mình cũng như làm giảm tình trạng vi phạm pháp luật trong thực hiện công
việc được giao và trong thực tiễn cuộc sống.
1.4. Các yếu tố tác động đến thực hiện chính sách đối với người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã
1.4.1. Thể chế quản lý nhà nước, các chính sách, chế độ của địa phương
Thể chế là những văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng,
nhiệm vụ, cơ cấu, tổ chức, và các hoạt động của hệ thống chính quyền các cấp
trong bộ máy nhà nước. Thông qua các quy định, đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thực hiện các
công việc được giao.
Thể chế quản lý, chế độ đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển về số lượng cũng như nâng cao chất
lượng của đội ngũ này. Thể chế chính sách nếu phù hợp, đáp ứng được nhu cầu
của đội ngũ này thì sẽ có tác động tích cực, phát huy được tính sáng tạo, gắn bó,
nhiệt huyết đối với việc thực hiện công việc trong thực hiện nhiệm vụ được
giao. Ngược lại, nếu chính sách không phù hợp, đội ngũ những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã sẽ không yên tâm công tác, hoặc sẽ không mặn mà
gắn bó, cống hiến công sức của mình.
Bên cạnh đó, bản chất của vấn đề chính sách của Nhà nước hay địa phương
cũng ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi của chính sách đối với người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã. Chính sách càng phức tạp, thì mức độ khó khăn,
phức tạp trong thực thi càng lớn và hiệu quả thực thi chính sách sẽ bị ảnh hưởng.
Ngược lại, những chính sách càng rõ ràng, đối tượng mà chính sách điều chỉnh
càng ít thì việc thực thi càng dễ, hiệu quả càng cao. Ngoài ra, mức độ điều chỉnh
của chính sách đối với hành vi của đối tượng lớn hay nhỏ cũng ảnh hưởng đến
hiệu quả thực thi chính sách. Việc điều chỉnh một hành vi, một thói quen nào đó
23
của đối tượng chính sách là mục tiêu hướng đến của chính sách. Tuy nhiên, nếu
yêu cầu về sự thay đổi hành vi, thói quen đó không lớn thì hiệu quả chính sách
cao, nếu mức độ thay đổi hành vi và thói quen lớn thì hiệu quả sẽ thấp hơn.
1.4.2. Bối cảnh nền kinh tế quốc gia
Trong những năm qua, nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ
nghĩa ở Việt Nam đã tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở
mặt tích cực, kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa giúp cho đội
ngũ cán bộ nói chung, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói riêng
sự quyết đoán, tính tự giác, năng động sáng tạo trong thực hiện các nhiệm vụ.
Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa cũng mở ra nhiều
điều kiện thuận lợi cho phép đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã tiếp cận được với tri thức bên ngoài thông qua các phương tiện, thiết bị điện
tử hiện đại như máy tính, điện thoại thông minh qua mạng internet. Đây là cơ
hội để đội ngũ này có điều kiện trao đổi, trau dồi, học hỏi thêm những kỹ năng,
kiến thức phục vụ cho công việc mà họ đang đảm nhiệm.
Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa trong thời đại số cũng
góp phần tạo điều kiện cho người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã tham
gia vào việc kinh doanh, bán hàng nhằm tăng thêm thu nhập cá nhân, qua đó góp
phần hỗ trợ thêm cho kinh tế của gia đình họ.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi nêu trên, kinh tế thị trường theo
định hướng Xã hội Chủ nghĩa cũng tồn tại những mặt trái của nó. Bởi khi yếu tố
kinh tế được đặt lên hàng đầu thì sẽ dễ làm cho người cán bộ sa ngã, tự diễn
biến – tự chuyển hóa. Mặt trái của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa đã làm cho một bộ phận cán bộ nói chung nảy sinh tư tưởng chủ quan, bảo
thủ, mắc bệnh thành tích, sa vào chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân. Từ đó,
làm ảnh hưởng tới thái độ, hiệu quả làm việc của chính bản thân họ. Hệ quả kéo
theo sẽ ảnh hưởng tới cả tập thể cơ quan, đơn vị nơi mà họ công tác.
Với tình hình thực tế hiện nay, mức phụ cấp của đội ngũ người hoạt động
24
không chuyên trách ở ấp xã còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu cuộc sống, thì
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều cơ hội việc làm có
thu nhập cao hơn đã khiến cho một bộ phận đội ngũ này xin nghỉ việc hoặc
không thật sự yên tâm công tác. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc
thực hiện chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
1.4.3. Nguồn lực kinh tế của quốc gia và địa phương
Nguồn lực của quốc gia, địa phương là bao gồm nguồn lực kinh phí, nguồn
nhân lực, nguồn thông tin, … Để việc thực thi chính sách có đầy đủ và hiệu quả
hay không thì nguồn lực của quốc gia và địa phương là một yếu tố quan trọng
quyết định. Mặc dù chính sách được ban hành rất rõ ràng, cụ thể, nhưng nếu cơ
quan thực thi chính sách thiếu nguồn lực cần thiết, thì kết quả của việc thực thi
chính sách đó cũng không thể đạt được mục tiêu. Vì thế, bảo đảm nguồn lực cho
thực thi chính sách là yếu tố không thể thiếu để thực thi chính sách có hiệu quả.
Đó là: đầy đủ kinh phí, đầy đủ nhân lực (bao gồm số lượng và chất lượng), đầy
đủ thông tin (để xây dựng kế hoạch hoạt động phù hợp với thực tế). Ngoài ra,
một số nguồn lực khác ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách như các yếu tố cơ
sở vật chất, trang thiết bị…
Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, mỗi một quốc gia, mỗi một địa phương có
trình độ kinh tế phát triển, thì sẽ thúc đẩy các nguồn lực khác của quốc gia cùng
phát triển. Trong các nguồn lực quốc gia thì nguồn lực kinh tế là yếu tố quan
trọng nhất tác động đến thực hiện chính sách. Tình hình kinh tế quốc gia quyết
định đến mọi chính sách phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đó. Một quốc
gia có nền kinh tế phát triển, Chính phủ sẽ có ngân sách và huy động các nguồn
lực trong nước và quốc tế để thực hiện các vấn đề an sinh xã hội cũng như việc
thực hiện các chính sách xã hội cho nhân dân ngày được nâng cao. Đối với quốc
gia có tiềm lực kinh tế mạnh, tăng trưởng kinh tế cao, thì Chính phủ sẽ có khả
năng hơn trong việc thực hiện các chính sách xã hội, đặc biệt là các chính sách
giảm nghèo, bảo trợ xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp... Tương tự
25
như vậy đối với một Quốc gia, một địa phương có tiềm lực kinh tế mạnh, khả
năng phát triển của nền kinh tế cao, thì ngân sách địa phương sẽ dồi dào hơn để
thực hiện các chính sách xã hội. Nếu không có hoặc không đủ tài chính, thì
không thể thực hiện được hoặc thực hiện không đầy đủ chính sách xã hội. Vì
vậy, mỗi quốc gia, mỗi địa phương việc tổ chức thực hiện chính sách xã hội phải
trên cơ sở đảm bảo đủ nguồn lực kinh tế cần thiết.
1.4.4. Trình độ, nhận thức, thái độ của những người thực thi chính sách
và người thụ hưởng chính sách
Như đã đề cập ở trên, nguồn nhân lực là yếu tố ảnh hưởng đến thực thi
chính sách. Trong xã hội càng phát triển, trình độ dân trí càng cao, mức sống
dân cư cao thì càng thuận lợi cho việc thực hiện chính sách xã hội. Bất cứ chính
sách nào cũng cần dựa vào chủ thể thực thi chính sách để thực hiện. Khi chính
sách được ban hành, người thực thi chính sách có thật sự hiểu, nắm vững chính
sách, có kế hoạch thực thi chính sách hiệu quả, có trách nhiệm với công việc và
có trình độ quản lý tốt là điều kiện quan trọng để thực thi chính sách có hiệu
quả. Hay nói cách khác là phẩm chất và năng lực của người thực thi chính sách
quyết định phần lớn hiệu quả của chính sách. Nếu người thực thi chính sách
thiếu tri thức và năng lực, không nắm vững chính sách sẽ dẫn đến sự sai sót
trong tuyên truyền và thực thi chính sách.
Việc tổ chức thực hiện một chính sách xã hội vào cuộc sống đạt kết quả
phụ thuộc không chỉ một cá nhân thực thi chính sách mà phụ thuộc cả vào tổ
chức bộ máy và năng lực hoạt động của các cơ quan chức năng và các công
chức, viên chức thực thi chính sách. Nếu bộ máy hành chính quan liêu, hoạt
động kém hiệu lực và kém hiệu quả thì sẽ cản trở lớn cho việc thực hiện chính
sách, không pháp huy được tác dụng của chính sách trong thực tiễn, làm sai lệch
các mục tiêu của chính sách hoặc hoàn toàn không thực hiện được mục tiêu của
chính sách. Do đó, để thực thi chính sách đạt hiệu quả mục tiêu đề ra, thì trình
độ nhận thức của cá nhân thực thi và bộ máy hành chính hoạt động đúng trách
26
nhiệm, quyền hạn, chức năng là điều kiện cần để thực hiện chính sách, đưa
chính sách vào thực tiễn cuộc sống.
Bên cạnh đó, để tổ chức thực thi chính sách đối với những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã đòi hỏi các chính sách xã hội phải được phổ biến
và được sự hưởng ứng của nhân dân, trong đó sự nhận thức, hiểu biết chính sách
xã hội lại phụ thuộc vào trình độ học vấn của người thụ hưởng. Do đó, trình độ,
sự hiểu biết của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cũng sẽ tác động
đến hiệu quả của việc thực thi chính sách. Nếu người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã – người thụ hưởng trực tiếp chính sách tiếp nhận và ủng hộ chính
sách thì việc thực thi chính sách sẽ thuận lợi. Còn nếu họ không tiếp nhận chính
sách, không ủng hộ chính sách thì việc thực thi sẽ khó khăn, từ đó làm cho hiệu
quả thực thi chính sách sẽ giảm xuống. Một chính sách được ban hành, nếu
mang lại lợi ích thiết thực cho đối tượng thụ hưởng chính sách hoặc mức độ điều
chỉnh của chính sách đối với hành vi của đối tượng thụ hưởng chính sách không
lớn thì thường dễ được đối tượng thụ hưởng chính sách tiếp nhận, qua đó góp
phần nâng cao hiệu quả thực thi chính sách và ngược lại, nếu đối tượng thụ
hưởng chính sách cho rằng, chính sách đó không mang lại lợi ích cho họ, thậm
chí ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích của họ, thì đối tượng thụ hưởng chính sách
thường ít tiếp nhận chính sách, thậm chí là cản trở thực hiện chính sách.
Như vậy, để việc thực thi chính sách có hiệu quả thì việc hoạch định chính
sách phù hợp với sự phát triển của xã hội, thể hiện đúng đắn như cầu lợi ích cơ
bản của nhân dân và phù hợp với trình độ, hành vi nhận thức của người thực thi
và người thụ hưởng chính sách.
1.4.5. Yếu tố văn hóa, phong tục tập quán truyền thống
Yếu tố phong tục tập quán của những cộng động dân cư, vùng miền luôn có
những ảnh hưởng nhất định, chi phối hầu hết các mặt đời sống xã hội của những
con người sinh sống trong cộng đồng, vùng miền đó. Mặc dù hệ thống chính trị
cấp xã hoạt động dựa trên các quy định của pháp luật nhưng các hoạt động quản
27
lý nhà nước đối với nguồn nhân lực ở các địa phương chịu không ít ảnh hưởng
từ văn hóa của địa phương đó.
Văn hóa địa phương có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến quản lý nhà
nước đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Xét trên mặt
tích cực, giữa những người dân với nhưng người hoạt động không chuyên trách
ở cấp xã có sự gần gũi, hiểu biết lẫn nhau, có sự tương đồng về lối sống, cách
ứng xử… Do đó trong quá trình thực hiện hiện vụ ở cơ sở, người hoạt động
không chuyên trách không chuyên trách ở cấp xã có thể vận dụng được tinh thần
đoàn kết trong cán bộ và nhân dân, phát huy vai trò uy tín, tinh thần trách nhiệm
của mỗi người dân cũng như của những người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã. Thông qua việc hiểu biết về phong tục tập quán của nhân dân nơi cư trú,
vừa giúp người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thực hiện tốt công việc
được giao, vừa giúp họ nắm bắt tốt hơn tâm tư, nguyện vọng, ý kiến của nhân
dân về các chủ trương chính sách của Nhà nước. Ngoài ra, nếu nhận được sự
ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân địa phương, người hoạt động không chuyên trách
ở cấp xã lại có thêm động lực để thực hiện tốt hơn các công việc được cấp trên
phân công.
Bên cạnh những mặt tích cực, văn hóa làng xã cũng ảnh hưởng không nhỏ
đến tác phong, lối làm việc của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã về
thời gian làm việc, tác phong trong công tác, việc chấp hành ý thức tổ chức kỷ
luật của cơ quan đơn vị, vi tình làng nghĩa xóm mà nể nang né tránh, ngại va
chạm, chủ quan trong công việc, trong công tác cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ
đến hiệu quả làm việc, chất lượng công việc được giao.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc tiếp xúc va chạm với văn hóa bên
ngoài đã làm cho văn hóa địa phương có những thay đổi nhất định, điều này ít
nhiều cũng đã tác động tới những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
28
Tiểu kết chương 1
Chương 1 Thực hiện hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách đối với đội
ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Từ đó, luận văn đã
luận giải những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, nêu và làm rõ những khái niệm, vai trò, vị trí và đặc điểm của
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; khái niệm về chính sách các
chính sách liên quan đến người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
Dưới góc độ của khoa học pháp lý, luận văn đã lý giải xác định các nội
dung về chính sách; công tác quản lý nhà nước liên quan đến những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã.
Thứ hai, Luận văn đã đi phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực
thi chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã như
thể chế quản lý nhà nước, các chính sách, chế độ của địa phương; Bối cảnh nền
kinh tế quốc gia; Nguồn lực kinh tế của quốc gia và địa phương; Trình độ, nhận
thức, thái độ của những người thực thi chính sách và người thụ hưởng chính
sách; Yếu tố văn hóa, phong tục tập quán truyền thống để qua đó làm rõ hơn các
yếu tố ảnh hưởng trong việc thực hiện chính sách và công tác quản lý nhà nước
đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã từ đó hiện thực hóa chính
sách, đưa chính sách vào cuộc sống. Chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách
phụ thuộc nhiều vào năng lực của đối tượng thực thi chính sách và nhận thức
của người thụ hưởng chính sách. Thực trạng năng lực thực hiện chính sách bên
cạnh những ưu điểm còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Do đó, nghiên cứu vấn
đề lý luận và thực tiễn năng lực thực hiện chính sách có ý nghĩa khoa học, thiết
thực và cấp bách hiện nay.
Việc thực hiện hai nội dung trên vừa hoàn thành một phần mục tiêu của
luận văn đã đưa ra. Bên cạnh đó, việc hệ thống hóa cơ sở lý luận là tiền đề để
tiến hành nghiên cứu về thực trạng chính sách đối với những người không
chuyên trách ở cấp xã trong những chương tiếp theo của luận văn.
29
Chương 2
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI HOẠT ĐỘNG
KHÔNG CHUYÊN TRÁCH CẤP XÃ TẠI HUYỆN KRÔNG PẮC,
TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội huyện Krông Pắc,
tỉnh Đắk Lắk
2.1.1. Vị trí địa lý, tình hình dân cư và các đơn vị hành chính cấp xã
Huyện Krông Pắc cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột trên 30 km,
dọc theo Quốc lộ 26 về phía Đông tỉnh Đắk Lắk, có diện tích tự nhiên là 62.581
km. Về ranh giới, huyện Krông Pắc phía Đông giáp huyện Ea Kar, tỉnh Đắk
Lắk; phía Nam và Đông Nam giáp huyện Krông Bông; phía Tây giáp thành phố
Buôn Ma Thuột, phía Tây Bắc giáp huyện Cư Mgar, phía Bắc giáp thị xã Buôn
Hồ, tỉnh Đắk Lắk. Với vị trí tiếp giáp các huyện khác trong tỉnh và có Quốc lộ
26 trải dài theo chiều Đông – Tây nên huyện có nhiều thuận lợi trong việc giao
thương hàng hóa, phát triển kinh tế - xã hội.
Về dân số, trên địa bàn huyện có hơn 200 ngàn dân, gồm 35 dân tộc anh
em cùng sinh sống, trong đó dân tộc thiểu số có 75.950 nhân khẩu chiếm 36%
dân số toàn huyện. Tỷ lệ tăng dân số trung bình hàng năm khoảng 1,51%.
Krông Pắc là huyện có địa hình rộng, và nhiều đơn vị hành chính, sự
nghiệp. Trên địa bàn huyện có 16 đơn vị hành chính cấp xã (15 xã và 01 thị trấn
gồm 249 thôn, buôn, tổ dân phố; buôn đồng bào dân tộc thiểu số là 59 buôn; có
177 thôn, có 13 tổ dân phố). Trong 15 xã thì huyện có 03 xã thuộc vùng III, đời
sống của nhân dân ở các xã này còn gặp nhiều khó khăn.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Về kinh tế
Huyện Krông Pắc là một trong những địa phương có nền kinh tế phát triển
của tỉnh Đắk Lắk. Tổng giá trị sản xuất toàn nền kinh tế theo giá hiện hành ước 30
đạt 13.351 tỷ đồng/KH 13.330 tỷ đồng, đạt 100,16%. Tăng trưởng kinh tế
10,56% (kế hoạch đề ra 10%), trong đó: Nông, lâm nghiệp tăng 7,31% (kế
hoạch đề ra 6,25%); Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, xây dựng 16,01% (kế
hoạch đề ra 12,6%); Dịch vụ 13,63% (kế hoạch đề ra 14,7%).
Trên cơ sở những thuận lợi về điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã
hội của địa phương, trong những năm qua, dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo của Huyện
ủy và của chính quyền các cấp trong huyện, cơ cấu kinh tế của huyện Krông Pắc
tiếp tục có sự dịch chuyển đúng hướng, Thu nhập bình quân đầu người 45,30
triệu đồng/người/năm, đạt 100,02% kế hoạch. Tất cả các ngành kinh tế đều có
sự phát triển, trong đó Nông, lâm, ngư nghiệp, chiếm 55,73% (kế hoạch đề ra
55,68%); Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, chiếm 16,85% (kế
hoạch đề ra 16,5%); Dịch vụ, chiếm 27,42% (kế hoạch đề ra 27,82%).
Trong sản xuất nông, lâm nghiệp, phát huy tiềm năng, lợi thế còn địa
phương nên đạt được nhiều thành tựu. Huyện đã chủ động xây dựng các kế
hoạch sản xuất, giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, cũng như lịch thời vụ,
cơ cấu giống, phù hợp với điều kiện canh tác của từng vùng nhằm tăng năng
suất, nâng cao thu nhập trên cùng đơn vị diện tích. Cơ cấu mùa vụ chuyển biến
mạnh mẽ theo hướng tích cực, đưa các giống mới có năng suất cao, chất lượng
tốt, kháng sâu bệnh vào sản xuất, chú trọng sản xuất số lượng đi đôi với chất
lượng, gắn với thị trường đã góp phần tăng năng suất, sản lượng và tăng giá trị
thu nhập trên đơn vị diện tích canh tác.
Tổng diện tích gieo trồng thực hiện 61.257 ha (kế hoạch đề ra 60.411 ha),
đạt 101,4% kế hoạch, so với cùng kỳ năm 2019 tăng 1,4%. Tổng sản lượng
lương thực ước thực hiện 192.900 tấn (kế hoạch đề ra 192.000 tấn), đạt
100,47%, so với cùng kỳ năm 2019 tăng 5,18%.
Trên địa bàn huyện có nhiều loại cây trồng cho giá trị kinh tế cao như: Cà
phê, Hồ tiêu, Sầu riêng, Bơ, Mít,..., đặc biệt cây Sầu riêng được trồng xen trong
các vườn cà phê đã và đang mang lại nguồn thu nhập lớn cho nông dân, vùng
31
trong sâu riêng nhiều nhất hiện nay là Ea Yông, Ea Kênh, Ea Knuếc, Hòa Đông.
UBND huyện đã phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hợp tác
xã nông nghiệp hữu cơ huyện Krông Pắc hướng dẫn thực hiện cấp 20 mã vùng
trong cho 425 ha Sầu riêng trên địa bàn huyện, thực hiện thí điểm tại xã Ea
Yông và xã Ea Kênh. Tiếp tục triển khai các văn bản, hướng dẫn quy trình về
xây dựng nhà vùng trong cho một số cây trồng chủ lực và cây ăn quả trên địa
bàn huyện theo Luật trồng trọt năm 2018.
Trong chăn nuôi, Krông Pắc thực hiện nhanh tái cơ cấu chăn nuôi theo
hướng tập trung đầy mạnh phát triển chất lượng, chăn nuôi khép kín, không mùi;
từng bước chuyển chăn nuôi phân tán sang chăn nuôi tập trung, trang trại, gia
trại theo hướng công nghiệp. Thực hiện Kế hoạch tái cơ cấu lĩnh vực chăn nuôi
năm 2020 theo đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp; kêu gọi đầu tư của các
doanh nghiệp cho lĩnh vực chăn nuôi, hiện nay các doanh nghiệp đã tổ chức liên
kết theo chuỗi sản phẩm từ sản xuất đến thị trường tiêu thụ dưới hình thức chăn
nuôi gia công hợp tác doanh nghiệp và nông dân cùng làm.
Trong lĩnh vực Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp và xây dựng, tổng số
cơ sở sản xuất trên địa bàn huyện Krông Pắc là 1.210 cơ sở. Tổng giá trị sản
xuất theo giá hiện hành ước thực hiện 1.623 tỷ đồng. Giá trị sản xuất theo giá
hiện hành ngành xây dựng khoảng 627 tỷ đồng.
Trong lĩnh vực Thương mại - Dịch vụ, hoạt động kinh doanh hàng hóa và
dịch vụ đáp ứng được phần lớn nhu cầu của nhân dân. Dịch vụ vận tải, bưu
chính, viễn thông, ngân hàng... duy trì phát triển, chất lượng dịch vụ được nâng
cao, cơ bản đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân. Tổng số cơ sở dịch vụ 5965 cơ
sở, giá trị sản xuất theo giá hiện hành ngành dịch vụ 3.661 tỷ đồng, trong đó giá
trị sản xuất thương mại 1.900 tỷ đồng.
Về xã hội
Hiện nay, dân số toàn huyện gần 200 ngàn người, có 35 dân tộc cùng sinh
sống, với hơn 36% là người dân tộc thiểu số. Do đó, Công tác dân tộc được
32
Huyện ủy, UBND huyện và các cơ quan có thẩm quyền quan tâm thực hiện. Các
chương trình chính sách nhà nước đầu tư trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số
được triển khai thực hiện đảm bảo đúng quy định, theo kế hoạch và nguồn vốn
được cấp. Triển khai thực hiện các danh mục công trình năm 2020 theo Chương
trình 135 tại các xã: Ea Hiu, Ea Yiêng, Ea Uy, Tân Tiến, Vụ Bốn, Krông Búk và
xã Ea Phê với tổng số tiền 7.685 triệu đồng. Bên cạnh đó, huyện cũng đã thực
hiện tốt chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, tổ
chức gặp mặt người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, tặng 102 xuất quà
và khen thưởng cho 26 người có uy tín có thành tích tiêu biểu trong đồng bảo
dân tộc thiểu số; thăm hỏi ốm đau người có uy tín trong vùng đồng bảo dân tộc
thiểu số theo Quyết định 12/QĐ-TTg.
Đối với Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, huyện đã thành lập
Đoàn kiểm tra các mô hình giảm nghèo và các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất,
đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo tại các xã: Ea Hiu, Ea
Uy, Ea Yiêng, Vụ Bổn, Krông Búk, Ea Phê, Tân Tiến, Hòa Tiến. Triển khai hỗ
trợ các chương trình về giảm nghèo theo chương trình mục tiêu quốc gia lựa cho
các xã, thị trấn. Tổ chức hỗ trợ quà tết cho người nghèo, người khuyết tật, người
nhiễm chất độc da cam được 1.680 xuất với số tiền 317 triệu đồng; hỗ trợ người
thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo gặp khó khăn do di dịch Covid-19 với 4.876 hộ
(22.733 khẩu) với tổng kinh phí 17.050 triệu đồng hỗ trợ xây dựng 83 nhà vệ
sinh cho hộ nghèo tại 4 xã: Hòa An, Ea Knuếc, Ea Yông, Krông Búk và phân
hiệu (01 lớp học) trưởng Mẫu giáo Sao Mai, xã Vụ Bổn với tổng số tiền 330
triệu đồng.
Hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2019 thụ hưởng cho năm 2020 trên địa bàn
huyện có: 2.888 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 5,54%, tỷ lệ hộ cận nghèo chiếm 3,82%.
Trong công tác xây dựng nông thôn mới, với sự vào cuộc tích cực của các
cấp, các ngành, địa phương và sự hưởng ứng tích cực của nhân dân, doanh
nghiệp, phong trào nông thôn mới của huyện Krông Pắc đạt nhiều kết quả.
33
Trong 15 xã thuộc huyện có tổng số 259 tiêu chí đạt chuẩn và cơ bản đạt chuẩn
(252 tiểu chỉ đạt chuẩn, 07 tiêu chỉ tiêu chỉ cơ bản đạt chuẩn); bình quân 17,27
tiêu chí/xã đạt chuẩn và cơ bản đạt chuẩn.
Trong công tác Giáo dục và Đào tạo, Huyện ủy và UBND huyện đã chỉ
đạo đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và giảng dạy, tổ
chức kiểm tra chất lượng ở các đơn vị trường học. Bên cạnh đó, quan tâm bồi
dưỡng, phụ đạo học sinh yếu, giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh
dân tộc thiểu số, học sinh bỏ học để các em có điều kiện học hành. Thực hiện Đề
án sáp nhập, trong năm 2020 huyện đã sáp nhập 04 trường học trên địa bàn.
Hiện nay, trên địa bàn huyện có 97 trường thuộc huyện quản lý gồm 3 bậc
học: Mầm non 28 trường (05 trường tư thục), Tiểu học 45 trường; THCS là 22
trường; 01 phổ thông dân tộc nội trú; 01 trường Tiểu học và THCS. Tổng số lớp
là 1.545 lớp với 41.364 học sinh. Năm 2020 có 56/92 trường đạt chuẩn Quốc
gia. Tổng số cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên trường học thuộc huyện 3.482
người, trong đó có 248 cán bộ quản lý, 2.717 giáo viên, và 527 nhân viên. Theo
tiêu chuẩn quy định trong Luật giáo dục năm 2019, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn
73,2%, tỷ lệ giáo viên đạt trên chuẩn 10% [32].
Trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, huyện đã chỉ đạo phòng ban
chức năng hướng dẫn các cơ sở thực hiện tốt Luật khám, chữa bệnh; Luật Dược
và Luật Chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân; Luật an toàn thực phẩm theo quy
định; kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm, không để xảy ra tình trạng ngộ độc thực phẩm trên địa bàn.
Trong năm 2020, số lượng người dân đóng bảo hiểm y tế theo Quyết định
của Thủ tướng Chính phủ đạt 86,09%; tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi tiêm đủ 8 loại
vắc xin đạt 95%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng (cân nặng theo tuổi)
giảm xuống còn 16,8%; tỷ lệ suất sinh hàng năm giảm 0,25%; tỷ lệ tăng dân số
tự nhiên 1%.
Trong lĩnh vực lao động, từ năm 2020 đến nay huyện đã giải quyết việc
34
làm mới cho hơn 3.226 lao động chưa có việc làm. Bên cạnh đó, huyện tiếp tục
thực hiện việc nâng cao trình cho người lao động, số học viên được đào tạo nghề
lên tới 400 người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo hiện đã chiếm 49%, tỷ lệ lao động
qua đào tạo nghề [32].
Với vị trí địa lý, đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của huyện Krông Pắc
và đặc biệt là sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương tạo
điều kiện thuận lợi để thực hiện các chính sách và công tác quản lý nhà nước
liên quan đến người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn huyện
Krông Pắc có nhiều chuyển biến tích cực, các chính sách được triển khai đồng
bộ, hiệu quả, kịp thời. Song là huyện có có 35 dân tộc anh em sinh sống, tỷ lệ hộ
nghèo chiếm 5,54%; cơ sở hạ tầng, địa hình đi lại ở một số xã vùng sâu, vùng xa
còn khó khăn nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện các chính sách,
nhất là các chính sách của địa phương hỗ trợ thêm hầu như chưa được triển khai,
thực hiện vì nguồn kinh phí còn hạn chế.
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách đối với những người hoạt động
không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk
2.2.1. Về việc ban hành, thực hiện chính sách đối với người hoạt động
không chuyên trách
Thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ, từ năm 2010 đến 31/12/2022 tỉnh
Đắk Lắk đã ban hành nhiều văn bản triển khai thực hiện đối với những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn tỉnh.
Để cụ thể hóa các nội dung quy định về những người hoạt động không
chuyên trách xã theo Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009
của Chính phủ, HĐND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành Nghị quyết số 33/2010/NQ-
HĐND ngày 10/12/2010 quy định về chức danh, số lượng, hệ số phụ cấp đối với
những người hoạt động không chuyên trách cấp xã, thôn, buôn, tổ dân phố và
sinh hoạt phí đối với một số chức danh cán bộ cơ sở (được sửa đổi, bổ sung tại
Nghị quyết số 146/2014/NQ-HĐND ngày 13/12/2014 và Nghị quyết số
35
14/2018/NQ-HĐND ngày 6/12/2018 của HĐND tỉnh). Theo các văn bản này,
người hoạt động không chuyên trách cấp xã có 18 chức danh, bao gồm: Trưởng
Ban Tổ chức, Trưởng Ban Tuyên giáo, Chủ nhiệm Ủy Ban Kiểm tra Đảng cơ sở
và cán bộ Văn phòng; Phó Trưởng Công an, Phó Chỉ huy trưởng Quân sự, cán
bộ Kế hoạch - Giao thông - Thủy lợi - Nông lâm nghiệp, cán bộ Văn thư - Lưu
trữ - Thủ quỹ, cán bộ phụ trách Đài Truyền thanh, cán bộ quản lý Nhà văn hóa,
cán bộ chuyên trách công tác Cải cách hành chính và Công an viên Thường trực
ở xã; Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam xã, Phó các đoàn thể cấp xã:
Đoàn Thanh niên, Hội liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh;
Chủ tịch Hội Người cao tuổi, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ.
Căn cứ Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2019 của
Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã
và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố. Hội đồng
nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 16/2021/NQ-HĐND ngày 20 tháng 12
năm 2021 quy định chức danh, số lượng, mức phụ cấp đối với người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã; mức phụ cấp đối với người hoạt động không
chuyên trách, mức bồi dưỡng người trực tiếp tham gia vào công việc của thôn,
buôn, tổ dân phố; mức khoán kinh phí hoạt động đối với Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã và mức hỗ trợ thôi việc đối
với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dôi dư trên địa bàn tỉnh.
Theo Khoản 1 Điều 1 của Nghị quyết số 16/2021/NQ-HĐND do Hội đồng
Nhân dân tỉnh Đắk Lắk ban hành, các chức danh người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk bao gồm 14 chức danh, cụ thể:
1) Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng ủy - Tổ chức;
2) Phụ trách Tuyên giáo - Dân vận;
3) Phụ trách Văn phòng Đảng ủy;
4) Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
36
5) Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự;
6) Phụ trách Văn thư - Lưu trữ - Thủ quỹ - Cải cách hành chính;
7) Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ;
8) Phó Chủ tịch Hội Nông dân;
9) Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh;
10) Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
11) Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ;
12) Chủ tịch Hội Người cao tuổi;
13) Phụ trách Đài Truyền thanh - Nhà văn hóa;
14) Phụ trách Kế hoạch - Giao thông - Thủy lợi - Nông lâm nghiệp.
Tùy theo tình hình thực tế của từng địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
các huyện, thị xã, thành phố bố trí số lượng người hoạt động không chuyên trách
ở cấp xã cho phù hợp với từng chức danh, nhưng không vượt quá số lượng
người hoạt động không chuyên trách quy định tại khoản 2 Điều này: Với xã loại
1 tối đa 14 người, xã loại 2 tối đa 12 người và xã loại 3 tối đa 10 người. Việc
xác định xã loại nào dựa theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk
Lắk về công nhận phân loại đơn vị hành chính cấp xã. Đối với các địa phương
có số lượng người được bố trí ít hơn các chức danh thì có thể bố trí kiêm nhiệm
chức danh.
Trước ngày 01/01/2022 việc thực hiện các chính sách đối và quản lý nhà
nước với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk nói chung, huyện Krông Pắc nói riêng được dựa trên cơ sở nội dung các văn
bản như: Nghị quyết số 33/2010/NQ-HĐND ngày 10/12/2010 của HĐND tỉnh
Đắk Lắk quy định chức danh, số lượng, hệ số phụ cấp đối với những người hoạt
động không chuyên trách cấp xã, thôn, buôn, tổ dân phố và sinh hoạt phí đối với
một số chức danh cán bộ cơ sở; Nghị quyết số 146/2014/NQ-HĐND ngày
37
13/12/2014 của HĐND tỉnh Đắk Lắk về sửa đổi, bổ sung một số Điều 1 Nghị
quyết 33/2010/NQ-HĐND ngày 10/12/2010 của HĐND tỉnh Đắk Lắk; Nghị
quyết 14/2018/NQ-HĐND ngày 06/12/2018 của HĐND tỉnh Đắk Lắk về sửa
đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 146/2014/NQ-HĐND ngày
13/12/2014 của HĐND tỉnh Đắk Lắk và các văn bản triển khai, hướng dẫn của
UBND tỉnh Đắk Lắk, Sở Nội vụ tỉnh Đắk Lắk.
Trong quá trình thực hiện chính sách đối với đội ngũ người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã giai đoạn này UBND huyện Krông Pắc cũng đã
chủ động, tích cực trong việc đề xuất, kiến nghị với UBND tỉnh và các sở ban
ngành liên quan về việc điều chỉnh nâng mức phụ cấp cũng như bổ sung các chế
độ khác đối với đội ngũ này.
Trong thời gian qua, đáng chú ý là việc UBND huyện Krông Pắc tham gia
ý kiến để triển khai thực hiện Nghị định 34/2019/NĐ-CP của Chính phủ. Sau
khi nhận được Công văn số 115/SNV-XDCQ ngày 22/01/2019 của Sở Nội vụ
tỉnh, UBND huyện đã chỉ đạo Phòng Nội vụ huyện chủ trì, phối hợp với Đảng
ủy, UBND các xã, thị trấn và các đơn vị liên quan rà soát, đánh giá và tham gia
ý kiến về các nội dung liên quan theo đề nghị của Sở Nội vụ tỉnh.
Căn cứ công văn số 3438/UBND-TH ngày 03/5/2019 của UBND tỉnh Đắk
Lắk về việc triển khai quy định về cán bộ, công chức cấp xã; chế độ chính sách
cho người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thôn buôn, TDP và căn cứ
công văn số 647/SNV-XDCQ ngày 07/5/2019 của Sở Nội vụ tỉnh Đắk Lắk về
việc triển khai thực hiện công văn số 3438/UBND-TH, UBND huyện đã tiến
hành rà soát và tổng hợp thành báo cáo số 177/BC-UBND ngày 28/5/2019 về
kết quả thực hiện các quy định về chức danh, số lượng, chế độ chính sách đối
với cán bộ, công chức và người hoạt động không chuyên trách cấp xã, cấp thôn
buôn, TDP trên địa bàn huyện Krông Pắc.
Theo Báo cáo của UBND huyện về thực hiện Nghị định 34/2019/NĐ-CP
của Chính phủ cần quy định những chức danh gồm: Đối với xã, thị trấn loại 1
38
quy định 14 chức danh sau (mỗi chức danh bố trí 01 người): Phó Trưởng Công
an (Nơi chưa có công an chính quy); Phó chỉ huy Trưởng Ban chỉ huy quân sự
cấp xã; Cán bộ Văn phòng Đảng uỷ; Phó Bí thư Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ
chí Minh cấp xã; Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh cấp xã; Phó Chủ tịch Hội
Liên hiệp phụ nữ cấp xã; Phó Chủ tịch Hội Nông dân cấp xã; Phó Chủ tịch
UBMTTQVN cấp xã, Văn thư - Thủ quỹ - Lưu trữ; Chủ tịch Hội người cao tuổi
cấp xã; Cán bộ Cải cách hành chính cấp xã; Cán bộ KH-GT-TL-NLN, Cán bộ
Đài truyền thanh; Chủ nhiệm UBKT Đảng ủy. Đối với xã loại 2 quy định 12
trong số 14 chức danh như đối với xã loại 1, giảm đi 02 chức danh đó là Cán bộ
Đài truyền thanh (có thể giao cho công chức Văn hóa - xã hội phụ trách không
hưởng thêm phụ cấp) và Chủ nhiệm UBKT Đảng ủy (có thể giao cho Phó Bí thư
Đảng ủy phụ trách không hưởng thêm phụ cấp).
Quá trình tổ chức triển khai thực hiện các quy định chính sách đối và công
tác quản lý nhà nước đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên
địa bàn huyện luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ Đắk Lắk,
UBND tỉnh Đắk Lắk, Thường trực Huyện uỷ, sự hướng dẫn của các Sở, Ban
ngành của tỉnh mà trực tiếp là Sở Nội vụ tỉnh Đắk Lắk; sự phối kết hợp của các
cơ quan, ban ngành, đoàn thể, Đảng ủy, chính quyền địa phương cấp cơ sở, cán
bộ và quần chúng nhân dân luôn đồng tình ủng hộ.
Hằng năm, UBND huyện Krông Pắc đã xây dựng kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội, gắn với xây dựng chính quyền, cải cách hành chính, nâng cao năng
lực cho đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
Sau ngày 01/01/2022, việc thực hiện các chính sách đối và quản lý nhà
nước với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk thực hiện theo Nghị quyết số 16/2021/NQ-HĐND ngày 20 tháng 12 năm
2021 quy định chức danh, số lượng, mức phụ cấp đối với người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã; mức phụ cấp đối với người hoạt động không
chuyên trách, mức bồi dưỡng người trực tiếp tham gia vào công việc của thôn,
39
buôn, tổ dân phố; mức khoán kinh phí hoạt động đối với Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã và mức hỗ trợ thôi việc đối
với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dôi dư trên địa bàn tỉnh.
Trong kỳ họp thứ 3 của HĐND huyện Krông Pắc khóa XII, HĐND huyện
đã ban hành Nghị quyết số 42/NQ-HĐND, ngày 24 tháng 12 năm 2021 về chỉ
tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh năm
2022. Trong đó, đã đưa ra mục tiêu về việc tuyển dụng, bố trí, sử dụng cán bộ,
công chức, viên chức đảm bảo đúng tiêu chuẩn vị trí việc làm. Tăng cường kỷ
cương, kỷ luật lao động, nâng cao trách nhiệm và hiệu quả công tác của cán bộ,
công chức, viên chức và người lao động.
Sau khi Hội đồng nhân tỉnh ban hành Nghị quyết số 16/2021/NQ-HĐND
ngày 20 tháng 12 năm 2021; Hội đồng nhân dân huyện ban hành Nghị quyết số
42/NQ-HĐND, ngày 24 tháng 12 năm 2021 về chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh năm 2022, UBND huyện Krông Pắc
đã tổ chức triển khai tại các hội nghị, ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo
các phòng ban chuyên môn, UBND các xã, thị trấn tổ chức phổ biến triển khai
thực hiện. Đồng thời, giao cho UBND các xã thị trấn tiến hành rà soát, sắp xếp
bố trí người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đảm bảo theo đúng số
lượng, bố trí con người vào làm các vị trí phù hợp với trình độ chuyên môn,
năng lực thực tiễn đảm bảo thực hiện nhiệm vụ hiệu quả và đồng bộ. Xem xét,
tinh giảm, cho thôi việc đối với các trường hợp không đảm bảo tiêu chuẩn.
Trong năm 2022, Huyện ủy Krông Pắc đã ban hành Đề án số 03-ĐA/HU
ngày 14/6/2022 về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp
của huyện Krông Pắc giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030. Đề án
này được áp dụng cho các đối tượng gồm cán bộ, công chức, viên chức, người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, được quy hoạch vào các chức danh lãnh
đạo, quản lý. Điều này thể hiện sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng bộ huyện
Krông Pắc đối với công tác cán bộ nói chung, người hoạt động không chuyên
40
trách ở cấp xã nói riêng. Đây cũng là căn cứ để UBND huyện xây dựng chương
trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công
chức, viên chức, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã của huyện Krông
Pắc giai đoạn 2022-2025 và giai đoạn tiếp theo.
2.2.2. Số lượng và chất lượng người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã
Trước 01/01/2022, tổng số người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là
311 người, trong đó kiêm nhiệm 89, Đảng viên 261.
Bảng 2.1 Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở huyện
Krông Pắc phân theo chức danh trước ngày 01/01/2022
TÊN GỌI CÁC CHỨC DANH
Số lượng Kiêm nhiệm Đảng viên
I. Các chức danh quy định
311
261
89
Trưởng ban tổ chức Đảng
15
13
15
Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng
15
15
15
Trưởng ban tuyên giáo
13
13
13
Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam
23
3
21
Phó Bí thư Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
15
3
14
Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ
14
2
13
Phó Chủ tịch Hội Nông dân
16
6
14
Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh
16
0
13
Chủ tịch Hội người cao tuổi
16
1
10
Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ
15
2
12
Cán bộ Văn phòng Đảng ủy
17
5
17
Phó Trưởng công an (nơi chưa có công an chính
11
3
9
quy)
Công an viên thường trực (nơi chưa có công an
21
0
13
chính quy)
41
TÊN GỌI CÁC CHỨC DANH
Số lượng Kiêm nhiệm Đảng viên
Phó Chỉ huy trưởng quân sự
31
2
28
Cán bộ Kế hoạch – Giao thông – Thủy lợi – Nông
16
4
10
thôn mới
Cán bộ cải cách hành chính
15
5
11
Văn thư – Thủ quỹ - Lưu trữ
17
3
14
Cán bộ Đài truyền thanh
16
4
14
Cán bộ quản lý nhà văn hóa
9
5
5
II. Các chức danh quy định thêm
64
54
63
Trưởng khối dân vận
13
12
13
Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng
16
9
16
Cán bộ Tổ chức
11
11
11
Cán bộ Tuyên giáo
14
13
13
Cán bộ Dân vận
10
9
10
Nguồn: UBND huyện Krông Pắc năm 2020
Từ những số liệu trên cho thấy, chức danh có ít cán bộ nhất là Cán bộ đài
truyền thanh (9 người) và chức danh có nhiều số cán bộ nhất là Phó Chủ tịch
UBMTTQ (23 người) và hầu hết các chức danh đều kiêm nhiệm. Điều đó cho
thấy rằng, các vị trí chức danh đã được UBND huyện Krông Pắc tuyển chọn, bố
trí nhân sự để đảm nhận các công việc của chính quyền cấp xã.
Bảng thống kê cũng cho thấy tất cả các chức danh quy định và chức danh
quy định thêm đều được chính quyền cơ sở ở ở huyện Krông Pắc tuyển chọn, bố
trí nhân lực đảm nhiệm vị trí công tác. Trong các chức danh đó, chỉ có Công an
viên thường trực là không kiêm nhiệm, còn lại các chức danh khác đều được bố
trí kiêm nhiệm. Điều này vừa không làm gia tăng số lượng về nhân sự, để đảm
42
bảo số lượng theo đúng quy định .
Xét theo thời gian công tác tại các cơ quan, đơn vị ở địa phương, trong tổng
số 375 người hoạt động không chuyên trách cấp xã thì có: 137 người có thời
gian công tác dưới 5 năm, 194 người công tác từ 5-15 năm, 39 người công tác từ
16-30 năm, có 4 người công tác trên 30 năm . Qua số liệu này cho thấy phần lớn
những người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Krông
Pắc có thời gian công tác từ 5-15 năm chiếm số lượng nhiều nhất. Bên cạnh đó,
cũng có một bộ phận những người công tác từ 16-30 năm trở lên. Qua đây cũng
có thể nhận định rằng đa số người hoạt động chuyên trách được điều tra có gắn
bó lâu dài với công việc này không nhiều. Điều này có thể xuất phát bởi nhiều
nguyên nhân khác nhau sẽ được làm rõ ở phần tiếp theo của luận văn.
Xét về trình độ chuyên môn: Hiện nay, hầu hết những người hoạt động
không chuyên trách cấp xã đều có chuyên môn nhất định, số lượng những người
hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện có trình độ học vấn
12/12 là 100%; 100% là có bằng chuyên môn trung cấp, cao đẳng và đại học.
Điều này cho thấy rằng, chất lượng tuyển chọn người hoạt động không chuyên
trách cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc khá cao. Trình độ chuyện môn, bằng
cấp có thể đảm bảo được thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Sau 01/01/2022, tổng số người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên
địa bàn huyện 238, kiêm nhiệm 27, đảng viên 190.
Bảng 2.2 Số lượng người hoạt động không chuyên trách ở huyện
Krông Pắc phân theo chức danh sau ngày 01/01/2022
TÊN GỌI CÁC CHỨC DANH
Số lượng Kiêm nhiệm Đảng viên
Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng ủy - Tổ chức
12
3
12
Phụ trách Tuyên giáo - Dân vận;
12
5
11
Phụ trách Văn phòng Đảng ủy;
16
5
16
Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
15
1
15
43
TÊN GỌI CÁC CHỨC DANH
Số lượng Kiêm nhiệm Đảng viên
Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự;
28
2
27
16
0
16
Phụ trách Văn thư - Lưu trữ - Thủ quỹ - Cải cách hành chính;
Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ;
15
1
12
Phó Chủ tịch Hội Nông dân;
15
2
13
Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh;
13
3
11
Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
13
0
11
Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ;
11
1
9
Chủ tịch Hội Người cao tuổi;
16
0
14
Phụ trách Đài Truyền thanh - Nhà văn hóa;
14
3
11
14
1
12
Phụ trách Kế hoạch - Giao thông - Thủy lợi - Nông lâm nghiệp.
TỔNG CỘNG
211
27
190
Nguồn: UBND huyện Krông Pắc năm 2022
Từ các số liệu trên cho thấy sau ngày 01/01/2022, trên địa bàn huyện các
chức danh người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã không vượt quá số
lượng quy định theo đơn vị hành chính, các chức danh Phụ trách Văn thư - Lưu
trữ - Thủ quỹ - Cải cách hành chính; Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh; Chủ tịch Hội Người cao tuổi thì không thực hiện việc kiêm nhiệm;
đối với các chức danh còn lại đều được cán bộ, công chức và người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã kiêm nhiệm.
Xét về trình độ chuyên môn:
Sau 01/01/2022 hầu hết những người hoạt động không chuyên trách cấp xã
đều có chuyên môn nhất định, số lượng những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã trên địa bàn huyện có trình độ học vấn 12/12 là 93%; 93% là có
44
bằng chuyên môn sơ cấp, trung cấp, cao đẳng và đại học. Điều này cho thấy
rằng, chất lượng người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện
Krông Pắc có trình độ chuyên môn thấp hơn trước 01/01/2022.
Nhằm làm rõ hơn thực trạng về số lượng người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, học viên đã thực hiện việc điều tra
phiếu hỏi với 157 người là CBCC và người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã trên địa bàn huyện với câu hỏi:
“Xin Anh/ Chị vui lòng cho biết ý kiến của mình về số lượng chức danh
những người hoạt động không chuyên trách dưới đây ở địa phương mình theo
bảng dưới đây?”.
Đánh giá cho thấy kết quả khảo sát như sau:
Bảng 2.3 Kết quả đánh giá về số lượng người hoạt động không chuyên
trách ở huyện Krông Pắc năm 2022
Đơn vị tính: %
Chức danh Thiếu Đánh giá Đủ Thừa
Phó chủ nhiệm ủy ban Kiểm tra Đảng ủy 15,9 82,2 1,9 – Tổ chức
11,5 10,8 14 7,6 86,6 89,2 86 89,2 1,9 0 0 3,2
Phụ trách Tuyên giáo – Dân vận Phụ trách Văn phòng – Đảng ủy Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tồ quốc Phó Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy Quân sự Phụ trách Văn thư – Lưu trữ - Thủ Quỹ - 16,6 82,2 1,3 Cải cách hành chính
8,3 8,9 9,6 10,8 12,7 10,8 91,1 91,1 90,4 88,5 87,3 88,5 0,6 0 0 0,6 0 0,6
Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Phó Chủ tịch Hội Nông dân Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Phó Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Chủ tịch Hội người cao tuổi Phụ trách Đài Truyền thanh- Văn hóa 14 86 0
45
Chức danh Thiếu Đánh giá Đủ Thừa
Phụ trách Kế hoạch – Giao Thông – 18,5 81,5 0 Thủy Lợi – Nông lâm nghiệp
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả năm 2022
Theo số liệu thu thập được từ thực tế ở các địa phương trên địa bàn huyện
cho thấy đa phần ý kiến của những người được hỏi đều cho rằng số lượng người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là đủ với quy định của nhà nước cũng
như định mức được giao cho địa phương. Với 14 chức danh nêu trên, số người
lựa chọn nhận định “Đủ” đều chiếm trên 80% số người được hỏi, giao động từ
81,5 – 91,1%. Bên cạnh đó, vẫn còn một tỷ lệ nhỏ ý kiến cho rằng các chức
danh nói trên thiếu hoặc thừa. Điều này cho thấy mặc dù đa phần cấp xã đã bố
trí đủ số lượng người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thì vẫn còn một số
địa phương đang thiếu hoặc dôi dư.
Bên cạnh những thông tin thu được từ việc điều tra bảng hỏi, học viên còn
thực hiện phỏng vấn sâu một số cán bộ lãnh đạo cấp xã. Kết quả cũng cho thấy
có sự tương đồng với những nhận định trước đó. Với câu hỏi “Xin ông/bà cho
biết, số lượng chức danh những người hoạt động không chuyên trách của địa
phương, đơn vị nơi ông bà quản lý đã đầy đủ so với quy định hay chưa? Vì
sao?”
Kết quả phỏng vấn như sau:
Hộp 2.1 Ý kiến về số lượng người hoạt động không chuyên trách so với
chức danh theo quy định
Số lượng những người hoạt động không chuyên trách tại địa phương
theo chức danh quy định tại Nghị quyết 16 của HĐND tỉnh Đắk Lắk là chưa
đủ mà một người phải kiêm nhiệm nhiều nội dung, lĩnh vực khác nhau. (PV,
Nam, độ tuổi 30-40 tuổi, Phó Chủ tịch UBND xã)
Số lượng những người hoạt động không chuyên trách tại địa phương
46
hiện tại chưa đủ, vì vậy nhiều vị trí công việc phải do một kiêm nhiệm. (PV,
Nam, độ tuổi >40 tuổi, Phó Bí thư Đảng ủy xã)
Số lượng những người hoạt động không chuyên trách tại địa phương
hiện tại chưa đủ, một số đầu việc thiếu người làm thực tế. Vì vậy, xã phải hợp
đồng thêm để có đủ người làm, nhất là phục vụ ở bộ phận cải cách hành chính
(PV, Nam, độ tuổi >40 tuổi, Phó Bí thư Đảng ủy xã)
Người hoạt động không chuyên trách tại địa phương đang thiếu cán bộ
GT-TL_NN, cán bộ văn thư – lưu trữ - thủ quỹ - cải cách hành chính công
việc quá nhiều (PV, Nữ, độ tuổi >40 tuổi, Phó Chủ tịch UBND xã)
2.2.3 Chế độ phụ cấp, chế độ bảo hiểm xã hội và y tế
Năm 2009, thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm
2009 về quy định chức danh, chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức và
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Nghị định 29/2013/NĐ-
CP để sửa đổi bổ sung về Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm
2009. HĐND tỉnh Đắk Lắk đã ban hành Nghị quyết số 33/2010/NQ-HĐND
ngày 10/12/2010 quy định về chức danh, số lượng, hệ số phụ cấp đối với những
người hoạt động không chuyên trách cấp xã, thôn, buôn, tổ dân phố và sinh hoạt
phí đối với một số chức danh cán bộ cơ sở (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị quyết
số 146/2014/NQ-HĐND ngày 13/12/2014 và Nghị quyết số 14/2018/NQ-HĐND
ngày 6/12/2018 của HĐND tỉnh). Giai đoạn này người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã được hưởng hệ số phụ cấp từ quỹ phụ cấp đối với 18 chức danh
gồm: Trưởng Ban Tổ chức Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo, Chủ nhiệm Ủy ban
Kiểm tra Đảng, Trưởng Ban Dân vận, cán bộ Văn phòng Đảng ủy, Phó Công an,
Phó Chỉ huy trưởng Quân sự, cán bộ Văn thư - Lưu trữ - Thủ quỹ, cán bộ Kế
hoạch - Giao thông - Thủy lợi - Nông Lâm nghiệp, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc, Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh, Phó Chủ tịch Hội Nông dân,
Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Phó Bí thư Đoàn thanh niên, Chủ tịch Hội
Người cao tuổi, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ, cán bộ phụ trách Đài Truyền thanh,
47
cán bộ quản lý Nhà Văn hóa; hưởng hệ số bằng 1,27 lần mức lương cơ sở (bao
gồm cả 3% bảo hiểm y tế); Hệ số phụ cấp từ quỹ phụ cấp đối với cán bộ chuyên
trách công tác Cải cách hành chính hưởng hệ số bằng 1,23 lần mức lương cơ sở
(bao gồm cả 3% bảo hiểm y tế).
Theo đó tại Nghị quyết số 33/2010/NQ-HĐND, Nghị quyết số
146/2014/NQ-HĐND và Nghị quyết số 14/2018/NQ-HĐND của Hội đồng nhân
dân tỉnh Đắk Lắk, quy định: Hệ số phụ cấp đối với người hoạt động không
chuyên trách cấp xã từ 1,0 đến 1,27 lần mức lương cơ sở; mức sinh hoạt phí đối
với 05 chức danh quy định thêm từ 0,87 đến 1,0 lần mức lương cơ sở; hệ số phụ
cấp đặc thù vùng Tây Nguyên từ 0,03 đến 0,37 lần mức lương cơ sở. Tổng hệ
số/tháng là:
Cấp xã loại 1 bằng 36,95 lần mức lương cơ sở, trong đó ngân sách Trung
ương bằng 20,3 lần mức lương cơ sở, ngân sách tỉnh bằng 16,65 lần mức lương
cơ sở (gồm: hỗ trợ mức phụ cấp cho người hoạt động không chuyên trách là
7,06 lần mức lương cơ sở, hệ số phụ cấp đặc thù vùng Tây Nguyên là 4,71 lần
mức lương cơ sở và mức sinh hoạt phí cho 05 chức danh quy định thêm là 4,88
lần mức lương cơ sở);
- Cấp xã loại 2 bằng 34,31 lần mức lương cơ sở, trong đó ngân sách Trung
ương bằng 18,6 lần mức lương cơ sở, ngân sách tỉnh bằng 15,71 lần mức lương
cơ sở (gồm: hỗ trợ mức phụ cấp cho người hoạt động không chuyên trách là
6,49 lần mức lương cơ sở, hệ số phụ cấp đặc thù vùng Tây Nguyên là 4,34 lần
mức lương cơ sở và mức sinh hoạt phí cho 05 chức danh quy định thêm là 4,88
lần mức lương cơ sở).
Cấp xã loại 3 bằng 32,67 lần mức lương cơ sở, trong đó ngân sách Trung
ương bằng 17,6 lần mức lương cơ sở, ngân sách tỉnh bằng 15,07 lần mức lương
cơ sở (gồm: hỗ trợ mức phụ cấp cho người hoạt động không chuyên trách là
6,22 lần mức lương cơ sở, hệ số phụ cấp đặc thù vùng Tây Nguyên là 3,97 lần
mức lương cơ sở và mức sinh hoạt phí cho 05 chức danh quy định thêm là 4,88
48
lần mức lương cơ sở).
Về phụ cấp kiêm nhiệm chức danh, Nghị quyết số 146/2014/NQ-HĐND
quy định người hoạt động không chuyên trách cấp xã kiêm nhiệm người hoạt
động không chuyên trách cấp xã mà giảm được 01 người trong tổng số người
hoạt động không chuyên trách được giao ở cấp xã thì được hưởng 40% hệ số
phụ cấp của chức danh kiêm nhiệm, trường hợp kiêm nhiệm nhiều chức danh
cũng hưởng 01 mức cao nhất (quy định này là vận dung quy định tại Điều 10
Nghị định số 92/2009/NĐ-CP).
Tại Nghị quyết số 33/2010/NQ-HĐND, quy định mức hoạt động phí đối
với các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã như sau: Ủy ban MTTQVN là
8.000.000 đồng/năm; mỗi tổ chức: Hội Cựu chiến binh, Hội nông dân, Hội liên
hiệp Phụ nữ và Đoàn thanh niên là 7.000.000 đồng/năm. Thời điểm quy định
mức hoạt động phí là năm 2010 với mức lương cơ sở là 730.000 đồng/tháng, từ
năm 2010 đến nay đã 07 lần tăng lương cơ bản và đang thực hiện mức lương cơ
cở là 1.490.000 đồng/tháng.
Thực hiện Nghị định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2019 Sửa
đổi, bổ sung một số quy định về CBCC cấp xã và người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, những người hoạt động không chuyên
trách cấp xã được hưởng chế độ phụ cấp, chế độ BHXH và chế độ BHYT. Ngân
sách nhà nước thực hiện khoán quỹ phụ cấp, bao gồm cả hỗ trợ BHXH và
BHYT để chi trả hàng tháng đối với những người hoạt động không chuyên trách
cấp xã theo Quyết định phân loại đơn vị hành chính xã như sau: Loại 1 được
khoán quỹ phụ cấp bằng 16,0 lần mức lương cơ sở; Loại 2 được khoán quỹ phụ
cấp bằng 13,7 lần mức lương cơ sở; Loại 3 được khoán quỹ phụ cấp bằng 11,4
lần mức lương cơ sở. Theo khoản 7 Điều 2 của nghị định này, những người hoạt
động không chuyên trách cấp xã thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc [4].
Tuy nhiên về chính sách BHXH, BHYT đối với người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã chỉ được hưởng chế độ nghỉ hưu và tử tuất mà không được hưởng
49
chế độ thai sản, ốm đau… do đó phần nào gây thiệt thòi cho đối tượng người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn huyện nói riêng và cả nước
nói chung.
Thời điểm 01/01/2022 đến nay (31/12/2022), trên địa bàn tỉnh tiếp tục thực
hiện theo quy định của Chính phủ và Nghị quyết số 16/2021/NQ-HĐND ngày
20 tháng 12 năm 2021 quy định chức danh, số lượng, mức phụ cấp đối với
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; mức phụ cấp đối với người hoạt
động không chuyên trách, mức bồi dưỡng người trực tiếp tham gia vào công
việc của thôn, buôn, tổ dân phố; mức khoán kinh phí hoạt động đối với Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã và mức hỗ trợ
thôi việc đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dôi dư trên địa
bàn tỉnh. Thì người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng mức
phụ cấp hằng tháng bằng 1,64 lần mức lương cơ sở/chức danh, gồm: Phó Chủ
nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng ủy - Tổ chức; Phụ trách Tuyên giáo - Dân vận; Phụ
trách Văn phòng Đảng ủy; Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự; Phụ trách Văn thư - Lưu trữ - Thủ
quỹ - Cải cách hành chính. Các Chức danh được hưởng mức phụ cấp hằng tháng
bằng 1,30 lần mức lương cơ sở/chức danh, gồm: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp
Phụ nữ; Phó Chủ tịch Hội Nông dân; Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh; Phó Bí
thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ; Chủ
tịch Hội Người cao tuổi; Phụ trách Đài Truyền thanh - Nhà văn hóa; Phụ trách
Kế hoạch - Giao thông - Thủy lợi - Nông lâm nghiệp. Ngoài ra, trong trường
hợp Cán bộ, công chức cấp xã, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
kiêm nhiệm chức danh người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã mà giảm
được 01 người trong số lượng tối đa người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã, kể từ ngày cấp có thẩm quyền quyết định việc kiêm nhiệm thì được hưởng
50% mức phụ cấp của chức danh kiêm nhiệm người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã. Trường hợp kiêm nhiệm nhiều chức danh cũng chỉ được hưởng
một mức phụ cấp kiêm nhiệm cao nhất.
50
Bảng 2.4 Công tác thực hiện chế độ, chính sách
đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã
Đơn vị tính: %
Đánh giá
Nội dung
Đầy đủ, đáp ứng Chưa đầy đủ, chưa đáp ứng Chưa đày đủ, nhưng đã đáp ứng Đầy đủ, nhưng chưa đáp ứng
44,6 15,3 22,9 17,2
31,2 23,6 21,7 23,6 Chế độ phụ cấp và khoán kinh phí Chế độ đào tạo, bồi dưỡng và bảo hiểm xã hội
Chế độ làm việc 28,7 24,2 22,9 24,2
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả năm 2022
Kết quả khảo sát từ thực tiễn cho thấy rằng ý kiến về 3 nội dung nêu trên
ở mức độ chưa đầy đủ, chưa đáp ứng nhu cầu chiếm tỷ lệ cao nhất. Cụ thể: đối
với chế độ phụ cấp và khoán kinh phí (44,6%); đối với chế độ đào tạo, bồi
dưỡng và bảo hiểm xã hội (31,2%); đối với chế độ làm việc (28,7%). Điều này
phản ánh thực tế rằng mặc dù địa phương đã thực hiện chế độ, chính sách dành
cho người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã theo các quy định của cấp
trên nhưng vẫn còn những khoảng trống về tính phù hợp so với nhu cầu của
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cũng như thực tiễn của địa
phương.
Bên cạnh việc thực hiện thu thập thông tin bằng bảng hỏi, học viên cũng đã
tiến hành phỏng vấn sâu đối với cán bộ lãnh đạo chính quyền cũng như đối với
chính người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã về chế độ chính sách. Kết
quả phỏng vấn cũng đã có sự tương đồng so với kết quả điều tra từ bảng hỏi với
câu hỏi “ Xin ông/bà cho biết, chính sách đối với những người hoạt động không
chuyên trách của địa phương, đơn vị nơi ông bà quản lý được thực hiện theo
những quy định nào?”
51
Kết quả phỏng vấn như sau:
Hộp 2.2 Ý kiến về chế độ, chính sách đối với người hoạt động không
chuyên trách cấp xã
Chính sách hiện có chưa đáp ứng được nhu cầu, mong muốn của người
hoạt động không chuyên trách. Kiêm nhiệm nhiều công việc nhưng thời gian
làm việc của người hoạt động không chuyên trách lại chỉ có 1 buổi/ngày nên
tiến độ công việc đôi khi không kịp thời. (PV, Nam, độ tuổi >40 tuổi, Bí thư -
Chủ tịch HĐND xã)
Số lượng những người hoạt động không chuyên trách tại địa phương
hiện tại chưa đủ, vì vậy nhiều vị trí công việc phải do một kiêm nhiệm. (PV,
Nam, độ tuổi >40 tuổi, Phó Bí thư Đảng ủy xã)
Chế độ phụ cấp thấp nên không đủ trang trải chi phí sinh hoạt với giá cả
ngày càng tăng lên. Họ phải làm thêm các công việc khác để bù đắp, trang trải
chi phí cho bản thân và gia đình. (PV, Nam, độ tuổi >40 tuổi, Phó Chủ tịch
HĐND xã)
Chế độ phụ cấp cho người hoạt động không chuyên trách thấp nên họ
chưa chuyên tâm vào thực hiện công việc. Mặt khác nếu chính sách thay đổi,
liệu người hoạt động không chuyên trách có còn được làm việc nữa hay
không? Nên họ không thực sự yên tâm công tác. (PV, Nam, độ tuổi >40 tuổi,
lãnh đạo cấp xã)
Người làm Văn thư – Lưu trữ _ Thủ quỹ - Cải cách hành chính công việc
quá nhiều, thời gian làm việc 100%, phụ cấp chỉ 2.250.000đ là chưa phù hợp
(PV, Nữ, độ tuổi >40 tuổi, Phó Chủ tịch UBND xã)
Phụ cấp hàng tháng thực hiện Theo Nghị quyết 16 của HĐND tỉnh là
thấp khoảng 2.000.000đ tháng, trung bình là 76.000đ/ngày. Chức danh UBKT
Đảng ủy đã không còn có phụ cấp như trước (PV, Nữ, <40 tuổi, Phó Bí thư
thường trực Đảng ủy xã – Chủ nhiệm UBKT)
52
Từ thực tế kết quả khảo sát cho thấy, có 34,4% số ký kiến cho rằng giữa
công việc với chính sách đãi ngộ là chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được nhu cầu
của cá nhân. Số ý kiến cho rằng chính sách đãi ngộ chưa đầy đủ, nhưng đã đáp
ứng được phần nào nhu cầu của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là
26,8%. Số ý kiến khác lại cho rằng mặc dù các chế độ đãi ngộ đầy đủ, nhưng
chưa đáp ứng được nhu cầu của họ là 18,5%. Một bộ phận ý kiến thì cho rằng
chế độ đãi ngộ đã đầy đủ, đáp ứng được nhu cầu của họ (20,4%). Điều này phản
ánh một thực tế rằng công việc của một bộ phận đội ngũ người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã là khá nặng, nhất là ở bộ phận văn thư – lưu trữ – cải cách
hành chính. Khi một người kiêm nhiệm từ 2 công việc trở lên, trong khi đó quỹ
thời gian thì có hạn, thì dù có năng lực tốt đến mức nào cũng khó mà hoàn thành
tốt tất cả các công việc. Dẫn đến, áp lực từ công việc quá nhiều, trong khi phụ
cấp kiêm nhiệm theo quy định chỉ nằm ở mức 50% của phụ cấp theo chức danh
mà họ kiêm nhiệm, nên ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả công việc mà họ thực
hiện.
2.2.4 Về chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đối với người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức
danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,
phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Nghị
định số 34/2019/NĐ-CP ngày 24/4/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã, ở thôn tổ dân phố.
Theo khoản 2, Điều 12 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của
Chính phủ, những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng
chế độ đào tạo bồi dưỡng gồm: “Được cấp tài liệu học tập; Được hỗ trợ một
53
phần tiền ăn trong thời gian đi học tập trung; Được hỗ trợ chi phí đi lại từ cơ
quan đến nơi học tập”.
Căn cứ vào những Nghị định, văn bản hướng dẫn, hằng năm UBND huyện
Krông Pắc đều chỉ đạo UBND cấp xã, xây dựng kế hoạch nhu cầu đào tạo, bồi
dưỡng cho cán bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã để
từng bước chuẩn hóa theo vị trí việc làm và điều kiện tiêu chuẩn đối với cán bộ,
công chức, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã theo tiêu chuẩn hiện
hành. Trên cơ sở đó UBND huyện ban hành và xây dựng hoạch thực hiện các
chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dựa vào nhu cầu, tình tình thực tế
của địa phương.
Nội dung đào tạo, bồi dưỡng khá đa dạng, bao gồm các lớp đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ (lớp Kiến thức quốc phòng, an ninh; lớp kiến thức tin học; lớp bồi dưỡng quản lý nhà nước; lớp bồi dưỡng tiếng dân tộc; lớp quản lý văn hóa; nghiệp vụ công an, quân sự, trung cấp lý luận, trung cấp hành chính…). Hình thức đào tạo đa phần là tập trung, giảng dạy trực tiếp. Một số khóa học thực hiện học từ xa. Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng được UBND huyện quan tâm và đề ra kế hoạch thực hiện hằng năm cho thấy sự quan tâm của cấp chính quyền đến đội ngũ người lao động trong đó có những người hoạt động không chuyên trách cấp xã. Việc duy trì đào tạo, bồi dưỡng cũng là điều hết sức cần thiết và phù hợp trong bối cảnh hệ thống hành chính nhà nước đang kiện toàn, áp dụng khoa học công nghệ và thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
Để làm rõ và có những đánh giá liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, Học viên đã tiến hành thực hiện nội dung khảo sát “ Xin Anh/ Chị vui lòng cho biết ý kiến của mình về công tác quản lý nhà nước đối với những người hoạt động không chuyên trách ở địa phương mình đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng”
54
Bảng 2.5 Kết quả khảo sát về công tác đào tạo, bồi dưỡng
những người hoạt động không chuyên trách cấp xã
Đơn vị tính: %
Đánh giá
Nội dung
Chưa đầy đủ, chưa đáp ứng Chưa đầy đủ, nhưng đã đáp ứng Đầy đủ, đáp ứng
Đầy đủ, nhưng chưa đáp ứng 28,7 24,8 Chương trình đào tạo, bồi dưỡng 24,8 21,7
29,9 25,5 Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng 17,2 27,4
18,5 25,5 32,5 23,6 Trang thiết bị cần thiết trong đào tạo, bồi dưỡng
14,6 22,9 34,4 28,0 Đội ngũ giảng viên hành chính và quản lý nhà nước
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả năm 2022
Từ bảng số liệu mô tả kết quả khảo sát về công tác đào tạo, bồi dưỡng
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cho thấy rằng các công tác
đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu công việc đạt trung bình là 56,5%;
trong đó, số lượng đánh giá đáp ứng yêu cầu đối với tiêu chí đội ngũ giảng viên
là cao nhất với 62,4%. Các chỉ tiêu còn lại chỉ đạt từ 53 đến 56%. Phần lớn các ý
kiến trả lời đều cho rằng công tác đào tạo bồi dưỡng cho đội ngũ người hoạt
động không chuyên trách cấp xã là đầy đủ nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu
của cá nhân, địa phương. Cụ thể: Đối với chương trình đào tạo bồi dưỡng là
28,7%; Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng là 29,9%; Trang thiết bị cần thiết phục
vụ đáp ứng yêu cầu trong khâu tổ chức đào tạo, bồi dưỡng là 32,5% và Đội ngũ
giảng viên là 34,4%. Bên cạnh đó, qua quan sát thực tiễn việc thực hiện nhiệm
vụ của người hoạt động không chuyên trách cho thấy rằng khối lượng công việc
mà họ đảm nhận rất nhiều, lại không nằm vào một lĩnh vực cố định như đối với
đội ngũ công chức cấp xã, dẫn đến việc bố trí thời gian, bố trí nội dung đào tạo,
bồi dưỡng cho đội ngũ này gặp không ít khó khăn. Ngoài ra, một bộ phần người
55
hoạt động không chuyên trách chưa thực sự gắn bó, chuyên tâm vào công việc
được giao. Do đó, hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa đạt được như
kỳ vọng của cá nhân cũng như của các cấp chính quyền.
2.2.5 Về tuyển chọn và bố trí sắp xếp đối với người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã
Về việc tuyển chọn, sắp xếp, bố trí lại nhân sự nói chung và những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói riêng là nhiệm vụ quan trọng có ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan.
Thực hiện chính sách vừa có tác động tới việc thực hiện công việc trong các cơ
quan đơn vị, vừa có tác động tới đội ngũ những người không hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã đang công tác tại đó. Do vậy, việc tuyển chọn, sắp xếp, bố
trí sao cho phù hợp trên các mặt đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước vừa phải
căn cứ vào quy định của pháp luật, vừa phải dựa trên nhu cầu thực tế của địa
phương cũng như năng lực chuyên môn, kỹ năng và công việc mà người không
chuyên trách ở cấp xã đảm nhiệm.
Căn cứ Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, Nghị định số 29/2013/NĐ-CP và
Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH ngày 27/5/2010
của Liên bộ, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội,
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP. HĐND tỉnh Đắk Lắk đã ban
hành Nghị quyết số 33/2010/NQ-HĐND,Nghị quyết số 146/2014/NQ-HĐND và
Nghị quyết số 14/2018/NQ-HĐND. Trong đó quy định số lượng, chức danh, hệ
số phụ cấp đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn,
buôn, tổ dân phố; sinh hoạt phí đối với một số chức danh cán bộ cơ sở. Mức phụ
cấp kiêm nhiệm chức danh người hoạt động không chuyên trách ở cơ sở; mức
hoạt động phí đối với các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã.
Trong đó, Nghị quyết số 33/2010/NQ-HĐND quy định về số lượng những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã như sau: Cấp xã loại 1 tối đa 22
người; loại 2 tối đã 20 người và loại 3 tối đa 19 người. Ngoài ra còn quy định
56
thêm 05 chức danh làm việc ở cấp xã nhưng không coi đây là những người hoạt
động không chuyên trách, được hưởng sinh hoạt phí, gồm Trưởng khối dân vận,
Phó Chủ nhiệm UBKT Đảng cơ sở, cán bộ Tổ chức, cán bộ Tuyên giáo và cán
bộ Dân vận (theo Công văn số 166-CV/TU ngày 11/7/2006 của Ban Thường vụ
Tỉnh ủy về việc thống nhất chủ trương bổ sung các chức danh và mức phụ cấp đối
với cán bộ không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn; Công văn số 2985/BNV-
CQĐP ngày 03/8/2006 của Bộ Nội vụ về việc bổ sung chức danh và mức phụ cấp
đối với cán bộ không chuyên trách ở cấp xã).
Thực hiện các văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh Đắk Lắk và của Huyện ủy
Krông Pắc, hàng năm UBND huyện Krông Pắc đều giao chỉ tiêu biên chế hành
chính cho Ủy ban nhân dân 15 xã và 01 thị trấn trên địa bàn huyện.
Kể từ ngày 01/01/2022 đến nay (31/12/2022), thực hiện Nghị quyết số
16/2021/NQ-HĐND ngày 20 tháng 12 năm 2021 của Hội đồng nhân dân tỉnh,
UBND huyện Krông Pắc đã tổ chức triển khai tại các hội nghị, ban hành các văn
bản hướng dẫn, chỉ đạo các phòng ban chuyên môn, UBND các xã, thị trấn tổ
chức phổ biến triển khai thực hiện. Đồng thời, giao cho UBND các xã thị trấn
tiến hành rà soát, sắp xếp bố trí người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
đảm bảo theo đúng số lượng, bố trí con người vào làm các vị trí phù hợp với
trình độ chuyên môn, năng lực thực tiễn đảm bảo thực hiện nhiệm vụ hiệu quả
và đồng bộ. Với tổng số 238 người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
Nhằm làm rõ hơn một số nội dung có liên quan đến công tác tuyển chọn,
bố trí sử dụng đối với người hoạt động không chuyên trách ở huyện Krông Pắc
hiện nay, học viên đã tiến hành thu thập ý kiến của những cán bộ, người hoạt
động không chuyên trách của địa phương thông qua 6 nội dung. Dựa vào kết quả
thu được cho thấy trong nội dung “Xây dựng tiêu chuẩn vị trí việc làm cho các
vị trí không chuyên trách cấp xã”, có 19,7% số ý kiến cho rằng chưa đầy đủ,
chưa đáp ứng được nhu cầu của cá nhân, nhu cầu của địa phương; có 24,2% số ý
kiến cho rằng nội dung này mặc dù đầy đủ, nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu;
57
số ý kiến cho rằng việc xây dựng tiêu chuẩn vị trí việc làm cho các vị trí không
chuyên trách cấp xã đã đầy đủ, đáp ứng được nhu cầu chiếm 24,8%; trong khi
đó, tỷ lệ ý kiến cho rằng nội dung này mặc dù chưa đầy đủ, nhưng đã đáp ứng
được nhu cầu của cá nhân cũng như nhu cầu của địa phương là 31,2%. Kết quả
thu được từ phỏng vấn sâu cũng cho thấy có 15/21 người được phỏng vấn cho
rằng các tiêu chuẩn vị trí việc làm cho các vị trí không chuyên trách cấp xã đã
đầy đủ, đáp ứng được nhu cầu của cá nhân những người đảm nhiệm công tác
này cũng như nhu cầu của các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Krông Pắc. Kết quả
khảo sát được thể hiện cụ thể ở bảng sau:
Bảng 2.6 Kết quả tổng hợp y kiến về công tác tuyển chọn và sử dụng
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Đơn vị tính: %
Nội dung
Đánh giá
Đầy đủ, đáp ứng
Chưa đầy đủ, chưa đáp ứng
Chưa đầy đủ, nhưng đã đáp ứng
Đầy đủ, nhưng chưa đáp ứng
19,7
31,2
24,2
24,8
10,8
34,4
27,4
27,4
11,5
31,8
22,3
34,4
16,6
26,1
24,2
33,1
Xây dựng tiêu chuẩn vị trí việc làm cho các vị trí không chuyên trách cấp xã Phối hợp giữa các lực lượng có liên quan trong tuyển chọn, sử dụng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã Tuyển chọn, sử dụng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã dựa trên nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh Xây dựng được phương thức tuyển chọn (thi tuyển, xét tuyển, hoặc kết hợp giữa xét tuyển và thi tuyển) phù hợp cho từng vị trí việc làm
58
Nội dung
Đánh giá
Đầy đủ, đáp ứng
Chưa đầy đủ, chưa đáp ứng
Chưa đầy đủ, nhưng đã đáp ứng
Đầy đủ, nhưng chưa đáp ứng
12,1
31,8
21,7
34,4
34,4
26,8
18,5
20,4
Phân công nhiệm vụ cho người được tuyển chọn bảo đảm phù hợp với năng lực và yêu cầu của vị trí việc làm Sử dụng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã gắn với việc thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ thỏa đáng, bảo đảm lợi ích chính đáng của họ và khuyến khích họ tận tâm với công việc.
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả năm 2022
Quá trình nghiên cứu về thực trạng thực hiện chính sách đối với người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã ở Krông Pắc, học viên cũng đã thu thập
nhận định về sự phối hợp giữa các lực lượng, cơ quan đơn vị có liên quan trong
tuyển chọn, bố trí sử dụng đội ngũ này. Kết quả phân tích số liệu cho thấy có
10,8% số người cho rằng việc phối hợp giữa các lực lượng có liên quan trong
tuyển chọn, sử dụng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã là chưa
đầy đủ, chưa đáp ứng. Số người cho rằng nội dung này “Đầy đủ, nhưng chưa
đáp ứng” và “Đầy đủ, đáp ứng” chiếm tỷ lệ ngang nhau với 27,4%. Trong khi
đó, tỷ lệ ý kiến cho rằng chưa đầy đủ nhưng đã đáp ứng chiếm tỷ lệ cao nhất với
34,4%. Qua số liệu này cho thấy các cấp chính quyền, các đơn vị trên địa bàn
huyện Krông Pắc đã có sự phối hợp trong việc tuyển chọn, bố trí sử dụng người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
Đối với nội dung “Tuyển chọn, sử dụng những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã dựa trên nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn
chức danh”, có 11,5% ý kiến cho rằng hoạt động này chưa đầy đủ, chưa đáp ứng
được nhu cầu của cá nhân, địa phương và có 22,3% ý kiến cho rằng đã đầy đủ
59
nhưng chưa đáp ứng. Trong khi đó, có 31,8% số ý kiến cho rằng mặc dù chưa
đầy đủ, nhưng đã đáp ứng và có tới 34,4% số ý kiến đánh giá rằng đã đầy đủ,
đáp ứng. Qua số liệu vừa nêu cũng như qua tham khảo một số báo cáo về người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã của UBND huyện Krông Pắc cho thấy
rằng các cấp có thẩm quyền đã thực hiện theo đúng quy định về tuyển chọn, sử
dụng những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dựa trên nhu cầu
công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh.
Trong quá trình tuyển chọn cán bộ nói chung, người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã nói riêng, khâu Xây dựng được phương thức tuyển chọn
(thi tuyển, xét tuyển, hoặc kết hợp giữa xét tuyển và thi tuyển) phù hợp cho từng
vị trí việc làm là một khâu quan trọng, trước hết đòi hòi phải tìm hiểu đầy đủ,
chính xác các quy định, hướng dẫn của nhà nước. Kết quả khảo sát về nội dung
này cho thấy số ý kiến cho rằng chưa đầy đủ, chưa đáp ứng chỉ chiếm 16,6%; số
ý kiến cho rằng mặc dù chưa đầy đủ, nhưng đã đáp ứng nhu cầu thực tế là
26,1%; số ý kiến cho rằng đầy đủ, nhưng chưa đáp ứng chiếm 24,2%. Chiếm tỷ
lệ cao nhất là số ý kiến cho rằng đã đầy đủ, đáp ứng được nhu cầu của cá nhân,
địa phương (33,1%). Qua số liệu này cho thấy việc việc xây dựng được phương
thức tuyển chọn (thi tuyển, xét tuyển, hoặc kết hợp giữa xét tuyển và thi tuyển)
phù hợp cho từng vị trí việc làm đã được xem xét kỹ lưỡng, đưa ra cách thức
thực hiện phù hợp với phần lớn nhu cầu của các địa phương cũng như đối với
những người tham gia dự tuyển.
Sau khi tuyển chọn, việc phân công nhiệm vụ cho người được tuyển chọn
bảo đảm phù hợp với năng lực và yêu cầu của vị trí việc làm là khâu quan trọng
để phát huy được năng lực của nhân sự cũng như đáp ứng được yêu cầu của
công việc tại các cơ quan đơn vị. Thông qua việc phân tích số liệu khảo sát cho
thấy số ý kiến cho rằng việc phân công nhiệm vụ cho người được tuyển chọn
chưa đầy đủ, chưa đáp ứng chiếm tỷ lệ nhỏ nhất với 12,1%; số ý kiến cho rằng
đầy đủ, nhưng chưa đáp ứng chiếm tỷ lệ là 21,7%. Trong khi đó, có tới 31,8%
cho rằng chưa đầy đủ, nhưng đã đáp ứng và 34,4% cho rằng đã đầy đủ, đáp ứng 60
được đúng yêu cầu về phân công công việc phù hợp với năng lực.
Qua những số liệu trên cho thấy rằng về cơ bản chính quyền các cấp trên
địa bàn huyện Krông Pắc đã thực hiện việc tuyển chọn, bố trí sử dụng đội ngũ
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đối với các chức danh theo đúng
quy định của Nghị quyết số 34/2019/NQ-CP của Chính Phủ và Nghị quyết số
16/2021/NQ-HĐND do HĐND tỉnh Đắk Lắk ban hành.
2.2.6 Về chế độ làm việc đối với người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã
Hiện nay, chưa có quy định cụ thể nào quy định về thời gian làm việc đối
với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Mà còn tùy vào tình hình
thực tế của địa phương để quy định thời gian làm việc phù hợp dựa trên cơ sở
thống nhất giữa các người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã với cấp thẩm
quyền theo phân cấp quản lý. Tuy nhiên nhìn vào thực tế, ở một số địa phương
có quy mô dân đông thường người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã có
thời gian làm việc như cán bộ, công chức cấp xã vào giờ hành chính các ngày
trong tuần. Nhưng bên cạnh đó một số địa phương ở các xã vùng sâu, vùng xa
đối với đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã với các chức
danh: Phụ trách Văn phòng Đảng ủy, Phụ trách Văn thư – Lưu trữ- Thủ quỹ-
CCHC; Phó Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự xã thì làm việc 8h/ngày giống
cán bộ, công chức cấp xã; các chức danh còn lại chủ yếu làm 1 buổi/ ngày hoặc
làm việc khi có công việc chuẩn bị tổ chức hội nghị, tập huấn, kiểm tra…
2.2.7 Về chế độ cho thôi việc đối với người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã
Đối với những trường hợp người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dôi
dư theo quy định Khoản 5, Điều 2 Nghị quyết 16/2021/NQ-HĐND tỉnh Đắk Lắk
ban hành, mức hỗ trợ thôi việc đối với người hoạt động không chuyên trách cấp
xã dôi dư được thực hiện như sau: Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã;
05 chức danh cán bộ làm việc tại cấp xã nhưng không coi là người hoạt động
61
không chuyên trách ở cấp xã quy định tại điểm a khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số
33/2010/NQ-HĐND ngày 10/12/2010 của Hội đồng nhân dân tỉnh quy định về
chức danh, số lượng, hệ số phụ cấp đối với những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã, thôn, buôn, tổ dân phố và sinh hoạt phí đối với một số chức danh
cán bộ cơ sở dôi dư, cứ mỗi năm công tác được hỗ trợ ½ tháng phụ cấp theo hệ số
phụ cấp hiện hưởng, mức hỗ trợ tối đa không quá 06 tháng phụ cấp. Thời gian
công tác từ 03 đến 06 tháng tính bằng ½ năm; từ 06 tháng đến 12 tháng tính bằng
01 năm; dưới 03 tháng không được hưởng hỗ trợ.
Ngoài mức hỗ trợ theo quy định tại Nghị quyết này, người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã dôi dư còn được hưởng các chế độ, chính sách khi
thôi việc theo quy định pháp luật hiện hành.
2.2.8 Công tác đánh giá, thi đua, khen thưởng và kỷ luật đối với người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Căn cứ Nghị định 90/2020/NĐ-CP về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ,
công chức, viên chức thì đối tượng áp dụng chỉ thực hiện trên các đối tượng như cán
bộ, công chức, viên chức mà không đề cập đến người hoạt động không chuyên trách
ở cấp xã.
Do đó, khi xem xét, đánh giá, thi đua khen thưởng đối với người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã chỉ dựa trên các căn cứ pháp lý áp dụng đối với cán bộ,
công chức hoặc theo Luật Lao động hoặc theo điều lệ của các cơ quan Đảng, tổ chức
chính trị - xã hội; theo Luật Dân quân tự vệ 2019 (đối với chức danh Phó Chỉ huy
trưởng Ban Chỉ huy Quân sự xã) để thực hiện. Chính vì vậy trong công tác đánh giá,
khen thưởng, kỷ luật chưa chặt chẽ, chưa đảm bảo khoa học, sẽ dẫn đến việc đánh
giá tùy tiện, cảm tính.
2.3. Đánh giá chung về chính sách và công tác quản lý nhà nước đối với
những người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện
Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk
2.3.1. Kết quả đạt được
62
Quá trình tổ chức triển khai thực hiện các chính sách và công tác quản lý
nhà nước đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn
huyện luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ Đắk Lắk, UBND
tỉnh Đắk Lắk, Thường trực Huyện uỷ, sự hướng dẫn của các Sở, Ban ngành của
tỉnh mà trực tiếp là Sở Nội vụ tỉnh Đắk Lắk; sự phối kết hợp của các cơ quan,
ban ngành, đoàn thể, Đảng ủy, chính quyền địa phương cấp cơ sở, cán bộ và
quần chúng nhân dân luôn đồng tình ủng hộ.
Đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã có những chuyển
biến tích cực về nhận thức, quan điểm tư tưởng, kiến thức, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, lý luận chính trị và năng lực hoạt động thực tiễn; chấp hành nghiêm
chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có
tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, năng lực, trình độ, kỹ năng công
tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Việc bố trí kinh phí để thực hiện các chế độ chính sách luôn được đảm bảo
kịp thời, theo đúng định mức quy định. Nhất là các chế độ về phụ cấp hằng
tháng, BHYT, BHXH, đào tạo – bồi dưỡng được triển khai kịp thời hiệu quả,
đúng đối tượng.
Ngoài ra về mặt khách quan cho thấy, những quy định pháp lý về chức
năng, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động, chế độ chính sách của những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã cũng đang từng bước được bổ sung và hoàn
thiện; công táctuyển chọn, bố trí, sử dụng những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã được quan tâm; công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao nhận
thức, kỹ năng, cập nhật thông tin cho đội ngũ những người hoạt động không
chuyên trách; điều kiện, trang thiết bị phục vụ công tác văn phòng ngày càng
được quan tâm, đầu tư trong khả năng cho phép; việc bầu cử, phê chuẩn, bổ
nhiệm người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đã được thực hiện đúng
tiêu chuẩn, quy định, bước đầu bố trí công việc rất phù hợp với trình độ chuyên
môn được đào tạo; Việc quản lý, sử dụng đội ngũ người hoạt động không
63
chuyên trách ở cấp xã đã dần đi vào nề nếp, có phân công trách nhiệm với công
việc và vị trí công tác được giao vì vậy đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, góp
phần nâng cao chất lượng đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
2.3.2. Hạn chế
Huyện Krông Pắc hiện có 35 đồng bào dân tộc anh em trong cả nước cùng
về làm ăn sinh sống, an cư lập nghiệp trên địa bàn huyện, phong tục tập quán
mỗi dân tộc khác nhau, trình độ dân trí không đồng đều, cuộc sống chủ yếu là
sản xuất nông nghiệp, đời sống kinh tế của các hộ dân gặp rất nhiều khó khăn, tỷ
lệ hộ nghèo còn ở mức cao, tình trạng thiếu đất sản xuất đối với hộ đồng bào
dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều, một số thôn, tổ dân phố có diện tích tự nhiên quá
lớn, dân số đông, địa hình phức tạp, việc đi lại quản lý dân cư gặp nhiều khó
khăn; trong khi đó, chính sách phụ cấp chưa hợp lý còn quá thấp so với mặt
bằng thu nhập bình quân đầu người trên địa bàn huyện, đời sống một bộ phận
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã còn gặp nhiều khó khăn; với mức
phụ cấp thấp cộng với việc địa hình đi lại khó khăn dẫn tới việc một số người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chưa tâm huyết với công việc, không
phát huy hết vai trò trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, còn chậm trễ trong
việc thực hiện công việc cấp trên giao và các công việc khác tại địa phương.
Đối với việc tuyển chọn, bầu cử vào làm các vị trí của chức danh người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chưa có chính sách phù hợp để thu hút
nguồn nhân lực, chưa có kế hoạch quy hoạch tạo nguồn sau khi người được
tuyển chọn, bầu cử vào các vị trí, chức danh. Ngoài ra, UBND huyện mặc dù
hằng năm đều có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đối với người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã, tuy nhiên nguồn kinh phí để thực hiện đào tạo – bồi
dưỡng còn hạn chế nên chưa đáp ứng nhu cầu nâng cao trình độ lý luận chính
trị, chuyên môn nghiệp vụ của người hoạt động không chuyên trách trách ở cấp
xã.
Chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể về việc đánh giá, nhận xét mức độ
64
hoàn thành nhiệm vụ, khen thưởng, kỷ luật đối với các đối với người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã để làm cơ sở quy hoạch các chức danh cao hơn
hoặc cử đi học để tạo nguồn, trong việc nhận xét đánh giá còn chung chung, cảm
tính, không có cơ sở pháp lý nên đôi lúc còn đánh giá chưa công bằng do đó ít
nhiều đã ảnh hưởng đến mục tiêu phấn đấu đối với người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã.
Mặt khác, một số người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đã lớn tuổi
hoặc còn trẻ tuổi thì kinh nghiệm chưa nhiều, chưa gắn bó với công việc; trình
độ chuyên môn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; còn chịu ảnh hưởng, chi phối
bởi phong tục, tập quán, văn hóa nên nhận thức chưa cao, chưa phát huy hết vai
trò, trách nhiệm với công việc; ít tham gia hoặc chưa kịp thời đưa ra các ý kiến,
kiến nghị lên các cơ quan có thẩm quyền quyết định các chính sách mà bản thân
được thụ hưởng nên ít nhiều cũng đã ảnh hưởng đến việc thực hiện các chính
sách liên quan đến người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn
huyện trong thời gian qua.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Những hạn chế, tồn tại trong thực hiện chính sách đối với những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk
Lắk xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong nghiên cứu này, chúng tôi
phân chia thành hai nhóm gồm: Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ
quan.
Nhóm nguyên nhân khách quan:
Đối với những chủ trương chính sách liên quan đến những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã như: phụ cấp; BHXH, BHYT;….thuộc thẩm quyền
quyết định từ Trung ương cho đến cấp tỉnh, còn hệ thống chính trị (tổ chức
Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể) cấp huyện thì chỉ có trách
nhiệm triển khai tổ chức thực hiện, tham mưu kiến nghị đối với cấp trên để thay
đổi bổ sung nên không thể chủ động triển khai thực hiện theo tình hình thực tế
65
của địa phương.
Do nguồn kinh phí đào tạo, bồi dưỡng của huyện còn hạn chế, nên việc đào
tạo bồi dưỡng để nâng cao trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp
vụ cho đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã số lượng
chưa nhiều, chưa kịp thời với nhu cầu học tập và nâng cao trình độ của đội ngũ
này.
Các quy định về chức năng, nhiệm vụ, chế độ công vụ chưa có văn bản quy
định cụ thể nên trong nhận thức chung về chức năng, nhiệm vụ đối với những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chưa đầy đủ; dẫn đến tình trạng
trong lãnh đạo, chỉ đạo, phân công công tác cũng như trong việc kiến nghị bất
cập trong việc thực hiện các chính sách và công tác quản lý nhà nước đối với
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chưa kịp thời, chưa phát
huy được hiệu quả trong việc thực thi chính sách và thụ hưởng chính sách.
Chính sách đối với việc kiêm nhiệm các chức danh còn thấp và nhiều mức
khác nhau dẫn đến hiệu quả của việc kiêm nhiệm trong thực tế chưa cao.
Nhóm nguyên nhân chủ quan:
Điều kiện văn hóa, phong tục tập quán làng xã, bản chất nông dân của họ
cũng tác động không nhỏ đến tâm lý, ý thức trách nhiệm, phong cách, thói quen,
lối làm việc của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trong quá
trình công tác nên hiệu quả công việc không cao, chất lượng đội ngũ chưa đáp
ứng yêu cầu công việc được giao. Đội ngũ này ít quan tâm hoặc không chủ động
trong việc đưa ra các kiến nghị lên cơ quan có thẩm quyền trong việc bổ sung,
hoàn thiện các chính sách đối với chức danh người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã để đảm bảo quyền và lợi ích khi làm việc.
Một bộ phận những người hoạt động không chuyên trách cấp xã có biểu
hiện dao động, không yên tâm công tác mà nguyên nhân chính là do quy định
của luật pháp về xác định địa vị pháp lý, chế độ chính sách chưa rõ ràng, chưa
cụ thể, chính sách còn thể hiện tính thiếu nhất quán nên đã tạo nên tâm lý thiếu 66
tin tưởng vì vị trí công tác không ổn định. Thể chế, hệ thống các văn bản pháp
luật về người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chậm được sửa đổi, bổ
sung, hoàn thiện. Nhiều nội dung liên quan đến đội ngũ này được quy định ở
nhiều văn bản pháp luật khác nhau, nên không bảo đảm tính thống nhất, tính
tương quan giữa các ngành, lĩnh vực.
Về cơ bản, đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách trẻ tuổi có
trình độ học vấn nhưng không đồng đều, lại được đào tạo từ nhiều nguồn nên
việc tiếp thu các chủ trương, chính sách, pháp luật còn hạn chế, nhất là về đường
lối của Đảng và quản lý nhà nước, trong khi chính họ là người trực tiếp thực
hiện công tác Đảng và quản lý nhà nước ở cơ sở. Một trong những yếu tố quan
trọng của người những người hoạt động không chuyên trách là kỹ năng và tính
chuyên nghiệp thì họ lại chưa được rèn luyện do kinh nghiệm công tác chưa
nhiều, làm việc theo chế độ không chuyên trách. Phần lớn họ thiếu khả năng độc
lập và còn phụ thuộc trong giải quyết công việc, thiếu quyết đoán trong xử lý
các tình huống quản lý và thiếu linh hoạt trong vận dụng chủ trương, đường lối,
chính sách, pháp luật vào thực tế địa phương. Không ít trong số họ còn chưa
nắm vững chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao, thậm chí không nắm
vững các quy định của pháp luật trong một số lĩnh vực. Hoặc đối với đối tượng
đã lớn tuổi có kinh nghiệm nhưng việc tiếp cận công nghệ hay trình độ chuyên
môn, việc tiếp thu các chủ trương, chính sách, pháp luật có phần bị hạn chế….
Từ đó dẫn đến sự chủ quan, trì trệ trong giải quyết một số công việc.
Chế độ phụ cấp, chế độ kiêm nhiệm còn thấp và chưa khuyến khích được
chế độ kiêm nhiệm; chưa có quy định về chế độ công vụ, phân công trách nhiệm
đối với người không chuyên trách. Thậm chí nhiều địa phương chưa phân biệt
được chế độ làm việc, nhiệm vụ và trách nhiệm giữa CBCC cấp xã với người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng
cho những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chưa được quy định cụ
thể, thậm chí một số địa phương chưa có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng.
67
Tiểu kết chương 2
Trong Chương 2, luận văn đã nghiên cứu và làm sáng tỏ nhiều nội dung
liên quan đến thực trạng thực hiện chính sách và công tác quản lý nhà nước đối
với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Krông
Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
Trong chương 2 này, tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu đến thực trạng thực
hiện chính sách và công tác quản lý nhà nước đối với những đối với những
người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh
Đắk Lắk trên 5 khía cạnh: Chính sách về Phụ cấp, BHXH, BHYT luận văn đã đề
cập đến mức phụ cấp thấp chưa tương xứng với trách nhiệm công việc được
giao; chế độ BHXH, BHYT chưa đảm bảo quyền lợi của người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã nhất là về chế độ thanh toán khi nghỉ ốm đau, thai sản….;
công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa đáp ứng được nhu cầu nâng cao trình độ lý
luận, chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hành chính; công tác tuyển chọn
và sử dụng chưa có quy trình cụ thể, không có các tiêu chí của từng chức danh,
chưa có chính sách thu hút; chế độ thôi việc; công tác đánh giá, thi đua, khen
thưởng, kỷ luật chưa có quy định cụ thể, rõ ràng. Luận văn cũng đã đã dựng nên
bức tranh khái quát về đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk về số lượng, chất lượng và cơ
cấu.
Ngoài việc sử dụng các số liệu từ báo cáo của UBND huyện, dựa trên kết
quả khảo sát, tác giả đã đánh giá kết quả thực hiện các nội dung quản lý nhà
nước đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Kết quả
nghiên cứu cho thấy rằng các cấp chính quyền ở huyện Krông Pắc đã triển khai
kịp thời và thực hiện có hiệu quả các chính sách đối với những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã theo Nghị định của Chính phủ và Nghị quyết của
HĐND tỉnh Đắk Lắk. Luận văn cũng đã luận giải những kết quả đạt cũng như
những hạn chế trong việc thực hiện chính sách và công tác quản lý nhà nước đối
68
với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn hiện Krông Pắc.
Để từ đó làm cơ sở cho việc đề ra những giải pháp trong việc triển khai và đưa
ra các chính sách phù hợp đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
trên địa bàn huyện Krông Pắc ở chương 3.
69
Chương 3
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI
HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH Ở CẤP XÃ
3.1. Giải pháp bảo đảm thực hiện chính sách đối với những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã
3.1.1. Xây dựng và ban hành mới các quy định về chế độ, tiêu chuẩn của
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; sắp xếp, bố trí đội ngũ
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã phù hợp với năng lực, trình độ
chuyên môn và kỹ năng làm việc của họ
Hiện nay, chế độ, tiêu chuẩn của những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã ở nước ta được thực hiện theo Nghị định số 34/2019/NĐ-CP Sửa
đổi, bổ sung một số quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố. Theo quy định, với xã loại 1
tối đa 14 người, xã loại 2 tối đa 12 người và xã loại 3 tối đa 10 người. Việc xác
định xã loại nào dựa theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về công
nhận phân loại đơn vị hành chính cấp xã. Đối với các địa phương có số lượng
người được bố trí ít hơn các chức danh thì có thể bố trí kiêm nhiệm chức danh.
Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi, chủ động, linh hoạt cho các địa phương
trong việc bố trí số lượng, chức danh theo tình hình thực tế tại địa phương đó.
Tuy nhiên, điều này dẫn đến sự không thống nhất trong tên gọi cũng như bố trí
nhân sự giữa các đơn vị hành chính khác nhau. Chính phủ chưa ban hành quy
định và cũng không giao cụ thể cho tỉnh quy định về việc tuyển chọn, quản lý,
sử dụng người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, nên dẫn đến một số địa
phương lúng túng trong việc tuyển chọn, bố trí, sắp xếp vào các chức danh,
không thống nhất theo quy định về trình độ đào tạo để tuyển chọn, bố trí, sắp
xếp.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả đối với hoạt động của những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã, đồng thời giúp các chính quyền địa phương
70
các cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã, chính phủ cần ban hành quy định cụ thể về tên gọi của
chức danh, tiêu chuẩn của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
để các địa phương làm cơ sở thực hiện chế độ, tiêu chuẩn cho đội ngũ này. Từ
đó sẽ đảm bảo cho việc thực hiện các chính sách liên quan đến người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã đồng bộ, hiệu quả và khoa học.
Để việc sắp xếp bố trí đội ngũ cán bộ, người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã phù hợp với năng lực, trình độ chuyên môn và kỹ năng làm việc
của họ trước hết cả hệ thống chính trị cần phải vào cuộc có sự đồng thuận, quyết
tâm cao, hành động quyết liệt, hiệu quả. Lãnh đạo tập trung, thống nhất; thực
hiện thường xuyên, liên tục, tích cực, mạnh mẽ, có trọng tâm, trọng điểm, có lộ
trình, bước đi vững chắc, đáp ứng yêu cầu cả trước mắt và lâu dài. Việc sắp xếp,
bố trí đối với đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cần dựa vào
các điều kiện như vị trí việc làm, số lượng, ngành nghề, độ tuổi nhằm đảm bảo
việc tuyển chọn, bố trí sắp xếp người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn vào làm việc tại UBND cấp xã phù hợp với
tình hình thực tế của địa phương và quy định của pháp luật. Ngoài ra việc sắp
xếp không chỉ đảm bảo phù hợp tại thời điểm tuyển chọn, bố trí mà việc bố trí
sắp xếp người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cần được chọn lọc, đảm
bảo tính kế thừa trong công tác bố trí, quy hoạch các chức danh sau này.
Đối với người hoạt động không chuyên trách cơ quan Đảng và các tổ
chức chính trị - xã hội, được hình thành từ quá trình thực hiện bầu cử, cần quy
định cụ thể quy trình nhân sự theo quy định của Đảng và Điều lệ của các đoàn
thể để địa phương làm cơ sở tổ chức tuyển dụng, lựa chọn được những người có
đủ trình độ, phẩm chất, năng lực, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ hiện nay. Còn
đối với người hoạt động không chuyên trách công tác bên khối cơ quan chính
quyền cấp xã thì nên xây dựng quy trình nhân sự theo quy định giống với đội
ngũ CBCC.
71
Đối với các chức danh kiêm nhiệm cần bố trí gắn với chuyên môn, có liên
quan đến công việc chính mà cán bộ, công chức hay người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã đang đảm nhiệm để đảm bảo cho công việc với chức danh
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, đồng thời tạo nên tính dây
chuyền, liên kết khi thực hiện công việc của đội ngũ này đối với công việc của
chính quyền cấp xã, hạn chế việc một người phải đảm nhận nhiều đầu công việc
dẫn đến chất lượng tham mưu, thực hiện nhiệm vụ được giao không đạt yêu cầu
theo vị trí việc làm.
Các vị trí đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn, chuyên ngành để thực hiện
được nhiệm vụ, cần đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao các kỹ năng làm việc; tạo môi
trường làm việc thuận lợi để phát huy năng lực, sở trường đáp ứng được yêu cầu
của công việc; đồng thời xây dựng kế hoạch đào tạo, nâng cao trình độ chuyên
môn, cử đi học các lớp ngắn hạn để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Đặc biệt, các
cấp chính quyền địa phương cần phương án cụ thể đào tạo, bồi dưỡng lâu dài
cho đội ngũ này song song với việc trang bị cho đội ngũ người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và trình độ
năng lực chuyên môn, nhất là năng lực tổ chức thực hiện và vận động quần
chúng nhân dân phải đi đôi với việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trẻ, cán
bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số để đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới.
Từ đó để tạo động lực phấn đấu, chính sách đào tạo – bồi dưỡng sẽ phát huy
hiệu quả.
3.1.2.Quy định về thời gian làm việc
Như đã trình bày nội dung tại mục 3.1.1 các văn bản của Chính phủ, Bộ
Nội vụ chỉ đề cập đến đến số lượng những người hoạt động không chuyên trách
ở cấp xã; phụ cấp khoán kinh phí với những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã; chế độ đào tạo, bồi dưỡng và bảo hiểm xã hội đối với những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã mà không đề cập đến thời gian
làm việc. Hiện nay ở các địa phương tự bố trí, sắp xếp người hoạt động không
72
chuyên trách ở cấp xã trong tổng số số lượng được giao và giữa chính quyền và
người lao động thực hiện thông qua việc ban hành Quyết định tuyển chọn, bố trí
vào làm vị trí của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã hoặc bằng hình
thức hợp đồng nhưng các văn bản không quy định hay yêu cầu cụ thể về thời
gian làm việc dẫn đến người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã làm việc
thường vào 01 buổi (chủ yếu là buổi sáng) hoặc đi làm khi có nhiệm vụ cần làm,
từ đó dẫn đến việc quản lý, đánh giá năng lực làm việc của đội ngũ này để làm
cơ sở xem xét cử đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch… có phần bị hạn chế. Mặt
khác, không có quy định chung về thời gian làm việc sẽ gây khó khăn cho các
cấp chính quyền địa phương trong công tác quản lý kỷ luật, kỷ cương hành
chính của đội ngũ này.
Để đảm bảo công tác quản lý đối với người hoạt động không chuyên trách
cấp xã, Chính phủ, Bộ Nội vụ, UBND cấp tỉnh cần có quy định cụ thể về thời
gian làm việc, thời gian làm việc trong ngày, thời gian làm việc trong tuần,
tháng, năm tương ứng với số tiền được hưởng để đảm bảo quyền lợi cho người
lao động. Đồng thời khi xây dựng quy định về thời gian làm việc của đội ngũ
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cần đảm bảo tính thống nhất về
thời gian làm việc giữa cấp xã của từng vùng miền, cũng như tạo sự linh hoạt
trong việc bố trí, sắp xếp thời gian làm việc giữa các địa phương có đặc thù, điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội khác nhau.
3.1.3. Quy định về chế độ phụ cấp và công tác phí
Theo quy định hiện nay của Chính phủ và của HĐND tỉnh Đắk Lắk, mức
phụ cấp hàng tháng dành cho người hoạt động không chuyên trách cấp xã vào
khoảng 2 triệu đồng/ tháng, mức phụ cấp kiêm nhiệm không quá 50% chức danh
kiêm nhiệm. Bên cạnh đó, mặc dù được hưởng BHXH, nhưng chế độ lại khác so
với đội ngũ CBCC, cụ thể người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chỉ
được hưởng chế độ hưu trí, tử tuất nhưng lại không được hưởng chế độ ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
73
Đối với chế độ công tác phí được quy định tại Thông tư số 40/2017/TT-
BTC ngày 28/4/2017 của Bộ Tài chính thì đối tượng hưởng chế độ công tác phí
không bao gồm những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Do đó,
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chỉ được thanh toán chế độ công
tác phí khi được mời tham gia các nhiệm vụ như mời tham dự kỳ họp Hội đồng
nhân dân, họp các Ban của Hội đồng nhân dân, giám sát, tiếp xúc cử tri và đi
công tác thực hiện các nhiệm vụ khác của đại biểu Hội đồng nhân dân thì
Thường trực Hội đồng nhân dân cấp nào mời có trách nhiệm thanh toán tiền
công tác phí từ nguồn kinh phí hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp đó; hoặc
khi người hoạt động không chuyên trách được các cơ quan tiến hành tố tụng mời
ra làm nhân chứng trong các vụ án có liên quan đến công việc chuyên môn, thì
cơ quan tiến hành tố tụng thanh toán chi phí đi lại và các chi phí khác theo quy
định của pháp luật từ nguồn kinh phí của cơ quan tiến hành tố tụng; trường hợp
cơ quan, đơn vị có nhu cầu trưng tập người hoạt động không chuyên trách cấp
xã tham gia các đoàn công tác phối hợp liên ngành, liên cơ quan; thì được cơ
quan, đơn vị chủ trì đoàn công tác thanh toán tiền công tác phí theo quy định.
Tuy nhiên, trên thực tế trong quá trình công tác ngoài những nội dung trên người
hoạt động chuyên trách ở cấp xã còn phải đi công tác từ xã lên huyện hoặc từ xã
này qua xã khác để giải quyết các công việc liên quan nhưng không được thanh
toán chế độ công tác phí. Những điều này đã ảnh hưởng đến thu nhập, quyền lợi,
tâm lý của những người hoạt động không chuyên trách cấp xã.
Chính vì vậy, Chính phủ cần có quy định tăng chế độ phụ cấp đối với
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã có thâm niên công tác, cho người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, chế
độ công tác phí khi đi công tác đầy đủ như các đối tượng khác để những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã yên tâm công tác, gắn bó lâu dài với địa
phương, tạo nguồn cho CBCC cấp xã.
3.1.4. Hoàn thiện các nguyên tắc, quy trình, thủ tục đánh giá, kỷ luật
hàng năm đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
74
Hoàn thiện các nguyên tắc, tiêu chí, thẩm quyền, trình tự, thủ tục đánh giá, kỷ
luật hàng năm đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên cơ sở đánh
giá nhận xét, có các hình thức khen thưởng, kỷ luật phù hợp với quá trình thực hiện
nhiệm vụ công tác của họ.
Việc đánh giá, nhận xét người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nhằm
phát huy những ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm, hạn chế, thiếu sót của đội
ngũ này để bố trí, sử dụng nguồn nhân lực hợp lý, góp phần thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ trong hệ thống chính trị cấp xã. Tuy nhiên, đánh giá người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã là công việc rất khó, đòi hỏi phải công tâm khách quan.
Phải căn cứ vào tiêu chuẩn quy định và việc hoàn thành nhiệm vụ của người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã để đánh giá. Để đánh giá, nhận xét đúng người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thì cấp ủy, lãnh đạo chính quyền cấp xã cần
dựa vào tiêu chuẩn đối vơi người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đã được cụ
thể hoá cho phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của đảng bộ, cơ quan đơn vị. Lấy kết
quả, hiệu quả thực hiện công tác của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã,
cũng như dựa vào sự tín nhiệm của đảng viên, của quần chúng làm thước đo. Khi
thực hiện đánh giá, nhận xét, cần có phương pháp đánh giá, phân tích, nhận xét
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã một cách khách quan, khoa học, dân
chủ, công khai và trực tiếp.
Dựa trên nguyên tắc chung về đánh giá CBCC, việc hoàn thiện các nguyên tắc
đánh giá cần bảo đảm những điều sau:
+ Bảo đảm tính khách quan, công bằng, chính xác; không trù dập, thiên vị,
hình thức; việc đánh giá cần được thực hiện thường xuyên, liên tục, bảo đảm đúng
thẩm quyền quản lý.
+ Việc đánh giá, xếp loại chất lượng phải căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ
được giao và kết quả thực hiện nhiệm vụ, thể hiện thông qua công việc, sản phẩm cụ
thể; chất lượng sản phẩm, tiến độ và thái độ hoàn thành công việc.
+ Bảm đảm về mặt thời gian công tác trong năm đối với người hoạt động
75
không chuyên trách ở cấp xã được đánh giá theo quy định của CBCC.
Đối với tiêu chí đánh giá hằng năm dành cho người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã, cần dựa trên các mặt sau: Chính trị tư tưởng; đạo đức, lối sống; tác
phong, lề lối làm việc; ý thức tổ chức kỷ luật; kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh đó, về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đánh giá, kỷ luật hàng năm đối
với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cũng nên được quy định cụ thể
giống với đội ngũ CBCC. người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cũng được
đánh giá nhận xét bởi quản lý cấp xã cũng như người đứng đầu cơ quan đơn vị. Điều
này tạo nên sự thống nhất, minh bạch, công bằng, cụ thể trong việc đánh giá, nhận
xét đối với cán bộ cấp xã nói chung, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
nói riêng.
3.1.5 Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động tạo sự thống nhất
về nhận thức và hành động của các cấp ủy, chính quyền và người lao về mục
tiêu, yêu cầu, ý nghĩa của việc thực hiện chính sách đối với người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã
Công tác tuyên truyền, vận động là một hoạt động được xếp vị trí đầu tiên
trong quy trình tổ chức thực hiện chính sách, quyết định đến tổ chức thực hiện chính
sách. Chính vị vậy, trong tình hình hiện nay, không những phải đổi mới công tác
tuyên truyền về cả hình thức lẫn nội dung mà còn phải thực hiện tốt công tác tuyên
truyền, vận động để nhằm tạo ra sự sự thống nhất về nhận thức và hành động trong
các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người lao động và nhân dân về mục tiêu, yêu
cầu, ý nghĩa của việc thực hiện chính sách đối với người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã .
Muốn tuyên truyền, vận động có hiệu quả thì cơ quan có thẩm quyền phải lựa
chọn nội dung chính sách cần tập trung tuyên truyền, vận động chứ không được dàn
trải. Căn cứ mục tiêu, thể chế, phạm vi đối tượng, tầm quan trọng của chính sách, các
giải pháp, quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý của các đối tượng thụ hưởng chính sách…
để từ đó xây dựng nội dung tuyên truyền vận động phù hợp.
76
Trong tuyên truyền vận động, cần xác định rõ đối tượng được cung cấp thông
tin về về mục tiêu, yêu cầu, ý nghĩa của việc thực hiện chính sách đối với người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã mà xây dựng nội dung, phương pháp, cách thức
thực hiện tuyên truyền vận động cho phù hợp với năng lực tiếp cận, bối cảnh tiếp cận
thông tin của đối tượng đó và tình hình thực tế của địa phương. Các phương pháp
được lựa chọn phải mang lại hiệu quả cao, hình thức phải đa dạng, phong phú, tránh
phô trương, lãng phí thời gian, công sức và tiền của không cần thiết. Chẳng hạn, triển
khai thông qua các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện, thông qua các cuộc họp,
hội nghị phổ biến thông tin ........
Để thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động tạo sự thống nhất về nhận
thức và hành động trong các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người lao động và
nhân dân về mục tiêu, yêu cầu, ý nghĩa của việc thực hiện chính sách đối với người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã tại huyện Krông Pắc trong thời gian tới cần
thực hiện một số giải pháp như sau:
- Tập trung quán triệt đầy đủ và cụ thể hóa các văn bản về công tác cán bộ của
Đảng, Nhà nước đến cấp ủy, chính quyền, MTTQ và đoàn thể các cấp trong toàn
huyện nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức, ý chí và hành động. Chỉ đạo thực hiện
tốt việc nghiên cứu, quán triệt những quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp
xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Đổi mới nội dung tuyền truyền, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền gắn với
thực tiễn của địa phương về điều kiện kinh tế - xã hội, gắn với mục tiêu, nội dung
của chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ CBCC làm công tác tuyên
truyền, vận động; tăng cường đầu tư kinh phí, trang thiết bị, công nghệ phục vụ việc
phổ biến, tuyên truyền chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã.
- Nâng cao nhận thức của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đối
với trách nhiệm và nghĩa vụ khi đảm nhận công việc.
77
Bên cạnh những người có nhận thức, thái độ tốt trong thực hiện công việc
được giao, vẫn còn một bộ phận chưa thực sự chuyên tâm vào công việc. Chính
vì vậy, việc nâng cao nhận thức cho đội ngũ người hoạt động không chuyên trách
ở cấp xã là điều hết sức cần thiết, bởi điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến sự
hoạt động của bộ máy chính quyền tại các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Krông
Pắc.
Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã phải nêu gương về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong công tác; nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật,
đoàn kết nội bộ... Trong công tác, cần đề cao ý thức trách nhiệm, tận tụy với
công việc; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chủ động, sáng tạo, hiểu và thực
hiện đúng chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tránh thực dụng vì lợi ích
cá nhân.
Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã phải tự ý thức trách nhiệm,
tự giác rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phương pháp làm việc; tinh thần
cầu thị tiến bộ, ham học hỏi. Thường xuyên tự đánh giá để rèn luyện, có thái độ
nghiêm khắc trong tự phê bình, lắng nghe, tiếp thu ý kiến đóng góp của đồng
nghiệp và quần chúng để hoàn thiện bản thân.
3.1.6 Bảo đảm phát huy hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân lực là
người hoạt động không chuyên trách cho tại cấp xã
Để bảo đảm phát huy hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân lực là
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cho phát triển kinh tế- xã hội tại cấp
xã trước hết việc bố trí phải đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
theo từng đơn vị hành chính không vượt quá số lượng được quy định.
Các chức danh phải đảm bảo về trình độ chuyên môn, kỹ năng; đội ngũ
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã phải có sự phối hợp đồng bộ với cán
bộ, công chức cấp xã tại đơn vị công tác, cùng tham gia các công việc theo trách
nhiệm, nhiệm vụ được giao của từng lĩnh vực phụ trách, được tiếp cận thông tin,
tham gia giúp việc, hỗ trợ cho công chức cấp xã hoặc cán bộ khối Đảng, các tổ
78
chức chính trị xã hội vào thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và công tác phát triển
kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng trên địa bàn huyện. Đặc biệt, đối
với mỗi chức danh người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, chính quyền địa
phương cần phải xác định rõ được vị trí, yêu cầu công việc của từng chức danh
phụ trách để từ đó có kế hoạch tuyển chọn, bố trí, sắp xếp phù hợp với số lượng
và tình hình thực tế tại địa phương. Lựa chọn các nhiệm vụ làm chưa tốt tại địa
phương để bố trí số lượng và chức danh phù hợp để hỗ trợ cho công chức cấp xã
trong việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn tại đơn vị hoặc tăng số lượng
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã bên khối Đảng các tổ chức chính trị
- đoàn thể thực hiện các nhiệm vụ tuyền truyền, vận động…Từ đó, để mỗi chức
danh người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được trực tiếp tham gia và có
sự phối hợp trong quá trình giải quyết các công việc chuyên môn của công chức
cấp xã hay công việc của các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể góp phần vào
việc phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo an ninh – chính trị, trật tự an toàn xã hội
tại địa phương.
Ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn theo vị trí việc làm ra, các
cấp ủy Đảng cần kịp thời thông tin tuyên truyền đến đội ngũ người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã để họ nắm bắt thông tin mục tiêu, định hướng của
Đảng các cấp để từ đó thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, đồng thời là một
kênh thông tin tuyên truyền đến các tầng lớp nhân dân trên địa bàn kịp thời, hiệu
quả, phù hợp, nhanh chóng và tiết kiệm.
Song song với việc lựa chọn, bố trí sắp xếp các chức danh đảm bảo về số
lượng và phù hợp với trình độ chuyên môn, chuyên ngành. Chính quyền địa
phương cấp huyện, cấp xã cần tăng cường công tác rà soát, kiểm tra, đánh giá
chất lượng người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã theo định kỳ hằng tháng,
hằng năm để có sự thay đổi, bố trí, sắp xếp phù hợp theo từng vị trí việc làm, có
kế hoạch tinh giảm khi không đáp ứng các điều kiện theo quy định hiện hành.
Đồng thời các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương cũng cần mở rộng phản
biện xã hội, thường xuyên trao đổi, lắng nghe tâm tư nguyện vọng và những 79
phản ánh của các tổ chức và của nhân dân địa phương về đội ngũ người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn để kịp thời có những biện pháp
giáo dục, quản lý chấn chính nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ
này ở địa phương mình.
Bên cạnh các chế độ chính sách theo quy định của Chính Phủ, của HĐND
– UBND tỉnh Đắk Lắk, dựa theo tình hình thực tế của địa phương, bố trí thời
gian làm việc hợp lý, có chính sách phù hợp tăng thêm mức thu nhập hàng tháng
cho đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, nhất là các chức danh
có vị trí việc làm như công chức cấp xã, để đội ngũ này yên tâm công tác, gắn
bó lâu dài với công việc, vị trí đảm nhận.
Định kỳ hằng năm sau khi tổ chức đánh giá, xếp loại, cần có các hình thức
biểu dương, khen thưởng kịp thời, xứng đáng đối với người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã để ghi nhận sự đóng góp của đội ngũ này trong việc thực
hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của địa phương. Hoạt động này nhằm phát
huy được vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã trong thực hiện công việc được giao, tạo động lực trong công việc,
tiếp tục phát huy, nâng cao năng lực tham gia tích cực thực hiện các nhiệm vụ,
làm mục tiêu phấn đấu, thăng tiến trong công việc.
3.1.7. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy và chính quyền cơ sở
trong việc thực hiện chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã
Để nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy và chính quyền cơ sở trong
việc thực hiện chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã, chú trọng nhiều hơn đến người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã. Tập trung làm tốt công tác đánh giá theo hướng: Xuyên
suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chỉ cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát,
công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương, coi trọng cả đức và
80
tài, trong đó đức là gốc; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện
nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.
Căn cứ những quy định của Đảng, Nhà nước, tập trung đánh giá theo
hướng xác định cụ thể công việc; bảo đảm lấy chất lượng, hiệu quả hoàn thành
chức trách, nhiệm vụ được giao làm thước do chủ yếu để đánh giá phẩm chất,
năng lực của người được đánh giá. Quan trọng hơn cả là phải đánh giá hiệu quả
công việc hiện tại của người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, cũng như
triển vọng phát triển trong tương lai. Ban hành kịp thời các kế hoạch, chương
trình, đề án để triển khai và thực hiện hiệu quả các nội dung về công tác bố trí
sắp xếp đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã phù hợp với tình
hình thực tế của cấp mình. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện,
định kỳ tổ chức sơ kết đánh giá, rút kinh nghiệm và đề ra những phương hướng
điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Các cấp ủy và chính quyền cấp xã cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm của
mình trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách theo chức vụ đảm nhiệm,
tránh chồng chéo, lấn sân hoặc lơ là, bỏ sót các nhiệm vụ đã được phân công
thực hiện. Cấp ủy, chính quyền cơ sở cần tập trung quán triệt đầy đủ và cụ thể
hóa các văn bản về công tác cán bộ của Đảng, Nhà nước đến chi bộ, các đơn vị,
và đoàn thể các cấp trong toàn huyện nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức, ý chí
và hành động. Chỉ đạo thực hiện tốt việc nghiên cứu, quán triệt những quan
điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhằm phát huy hơn nữa hiệu quả của chính sách đối với người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã, cần tiếp tục nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp
ủy và chính quyền cơ sở trong việc thực hiện chính sách dành cho đội ngũ này.
Trong hệ thống chính trị ở nước ta nói chung, cấp xã nói riêng, người
đứng đầu luôn có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với việc tổ chức triển khai thực
hiện các chủ trương, chính sách của trung ương và địa phương. Vì vậy, đòi hỏi
81
người đứng đầu của các đơn vị cần có tầm nhìn chiến lược, có khả năng đánh
giá, lựa chọn, tuyển chọn, bố trí, quy hoạch phù hợp đối với người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã để từ đó giúp mỗi vị trí việc làm của người hoạt
động không chuyên trách cấp xã phát huy được năng lực sở trường nhằm đảm
bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, phát huy cao vai trò, trách nhiệm và
tính tiên phong gương mẫu của Thủ trưởng đơn vị, không ngừng học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh; thường xuyên tu dưỡng, rèn
luyện về mọi mặt, nhất là về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, tác phong
làm việc, trách nhiệm, đề cao tinh thần trong tự phê bình và phê bình; tự giác
nghiên cứu nâng cao trình độ kiến thức và năng lực thực tiễn, gương mẫu thực
hiện đạo đức công vụ, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.
Cấp ủy và chính quyền cấp xã là nơi tổ chức thực hiện chính sách đối với
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã do đó việc nhận thức được ý nghĩa
của chính sách, vai trò của việc tổ chức thực hiện chính sách trong đội ngũ người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là rất cần thiết. Từ thực tế cho thấy tổ chức
thực hiện chính sách có vai trò quyết định trong bảo đảm thực hiện thành công
mục tiêu của chính sách.
Cấp ủy, chính quyền cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã, trong đó chú trọng nội dung về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hóa
của dân tộc, địa phương; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào tạo với rèn luyện
trong thực tiễn và đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh. Thực hiện nghiêm chế độ đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị và cập
nhật kiến thức mới cho đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã để
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Cấp ủy, chính quyền địa phương cần nâng cao chất lượng công tác tuyển
chọn, bố trí người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; trong đó phải căn cứ
82
vào yêu cầu, nhiệm vụ, vị trí việc làm, chi tiêu biên chế và thông qua thi tuyển
theo nguyên tắc công khai, minh bạch, khách quan và đúng pháp luật, đảm bảo
tính cạnh tranh.
Khi xây dựng kế hoạch tuyển chọn người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã phải phân tích, đánh giá nguồn nhân lực hiện tại và dự báo về nguồn nhân
lực tương lai; các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến nền hành chính công vụ đồng
thời gắn với việc cơ cấu lại tổ chức bộ máy và tính giản biên chế theo mục tiêu
đổi mới.
Bên cạnh đó, các cấp ủy và chính quyền, nhất là đối với cấp xã cần xây
dựng cơ chế, chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài có
trọng tâm, trọng điểm, chú trọng thu hút những người trẻ, có trình độ, năng lực
về công tác, phục vụ tại địa phương.
3.2. Một số kiến nghị
3.2.1 Đối với Chính phủ, Bộ Nội vụ
- Đề nghị Điều chỉnh tăng mức phụ cấp hàng tháng đối với những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
Đây là một yêu cầu cấp thiết, mức phụ cấp cần được điều chỉnh cho phù
hợp với nhu cầu thực tế của cuộc sống để tạo động lực khuyến khích, động viên
đội ngũ tích cực tham gia công tác. Vì hiện nay mức phụ cấp quá thấp trong khi
khối lượng công việc nhiều, thời gian làm việc gần như bằng công việc của công
chức cấp xã dẫn đến nhiều thiệt thòi cho đội ngũ người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã như:
Được hưởng chế độ công tác phí khi đi công tác giống như chế độ công tác
phí của cán bộ, công chức. Tại Thông tư số 40/2017/TT-BTC ngày 28/4/2017
của Bộ Tài chính thì đối tượng hưởng chế độ công tác phí không bao gồm
những người hoạt động không chuyên trách cấp xã. Do đó, người hoạt động
không chuyên trách khi đi công tác không nằm trong quy định tại khoản 8,
83
khoản 9 Điều 3 Thông tư số 40/2017/TT-BTC “Đối với đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp và các đại biểu được Thường trực Hội đồng nhân dân các cấp mời
tham dự kỳ họp Hội đồng nhân dân, họp các Ban của Hội đồng nhân dân, giám
sát, tiếp xúc cử tri và đi công tác thực hiện các nhiệm vụ khác của đại biểu Hội
đồng nhân dân thì Thường trực Hội đồng nhân dân cấp nào mời có trách nhiệm
thanh toán tiền công tác phí từ nguồn kinh phí hoạt động của Hội đồng nhân dân
cấp đó.
Trường hợp cán bộ, công chức, viên chức và người lao động được các cơ
quan tiến hành tố tụng mời ra làm nhân chứng trong các vụ án có liên quan đến
công việc chuyên môn, thì cơ quan tiến hành tố tụng thanh toán chi phí đi lại và
các chi phí khác theo quy định của pháp luật từ nguồn kinh phí của cơ quan tiến
hành tố tụng” thì sẽ không được thanh toán tiền công tác phí. Điều đó tạo nên
những bất cập, vì trên thực tế đội ngũ người hoạt động không chuyên trách vẫn
đi công tác để giải quyết các công việc giữa cấp xã và huyện.
Xây dựng và thực hiện các chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Hằng năm, trên cơ sở rà soát,
đánh giá, kiểm tra các địa phương ngoài việc xây dựng kế hoạch đào tạo bồi
dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã thì cần xây dựng Kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng đối với các chức danh người hoạt động không chuyên trách cấp xã
một mặt giúp đội ngũ này được nâng cao trình độ hỗ trợ cho công việc đang
đảm nhận, từng bước đảm bảo cho đội ngũ người hoạt động không chuyên trách
có chuyên môn nghiệp vụ mang tính chuyên nghiệp, có phẩm chất tốt và đủ
năng lực thi hành công vụ, đáp ứng yêu cầu công tác theo từng vị trí việc làm.
Mặt khác xây dựng, chuẩn hóa và từng bước trẻ hóa đội ngũ người hoạt động
không chuyên trách cấp xã có đủ phẩm chất và năng lực, có tư duy khoa học,
sáng tạo, có đủ năng lực; tạo nguồn cho đội ngũ cán bộ, rong các nhiệm kỳ tiếp
theo góp phần vào xây dựng hệ thống chính trị, sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh của địa phương.
84
Hướng dẫn cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đối với chức danh.
Đối với các chức danh bên khối Đảng, Đoàn thể thì thực hiện theo Điều lệ và
các quy định hiện hành về nhiệm vụ được giao, còn một số chức danh thuộc
khối chính quyền thì chưa có sự thống nhất rõ ràng về nhiệm vụ được giao còn
sự chống chéo công việc giữa người hoạt động không chuyên trách cấp xã và
công chức như chức danh: Văn thư – Lưu trữ - Thủ quỹ - Cải cách hành chính
nhiệm vụ công việc tương đồng như công việc của công chức Văn phòng –
Thống kê; nhiệm vụ của chức danh Đài Truyền thanh – Văn hóa tương đồng
như công chức Văn hóa – Xã hội, chức danh Kế hoạch – Giao thông – Thủy Lợi
– Nông lâm nghiệp tương đồng công việc của chức danh Địa chính – Nông
nghiệp – Xây dựng và Môi trường dẫn đến trách nhiệm công việc của các chức
danh này như một công chức cấp xã, nhưng quyền hạn trong quá trình tham mưu
hạn chế, chưa phát huy được vai trò, đôi lúc còn chưa phân định rõ ràng vì cho
rằng các nhiệm vụ đó các công chức cấp xã đã thực hiện. Do đó cần có quy định
cụ thể hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đối với chức danh người
hoạt động không chuyên trách thuộc khối chính quyền.
Bố trí thêm kinh phí hoạt động cho một số địa phương khó khăn. Thực tế
khảo sát cho thấy một số địa phương khó khăn không có đủ kinh phí để thực
hiện hỗ trợ thêm cho đội ngũ người hoạt động không chuyên trách đang công tác
tại địa phương. Do đó, người hoạt động không chuyên trách không thể chuyên
tâm, thời gian vào công việc, mà họ phải làm thêm các công việc khác bên ngoài
để trang trải cuộc sống.
Ưu tiên trong quá trình tuyển dụng công chức cấp xã. Theo điểm c, Khoản
2, Điều 1 Nghị định 34/2019/NĐ-CP ngày 25/6/2019 của Chính phủ thì khi
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã từ đủ 24 tháng trở lên đã hoàn
thành nhiệm vụ: được cộng 2,5 điểm vào kết quả điểm thi tại vòng 2. Số điểm
được cộng vào 2,5 điểm trên thang điểm 100 điểm là quá thấp, trong khi đội ngũ
này khi vào làm việc đã có kinh nghiệm, có sự phối hợp với các bộ phận khác
tại địa phương, được đào tạo và bồi dưỡng….. Do đó, cần có chính sách ưu tiên 85
phù hợp hơn như: xem người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trong
tuyển dụng công chức cấp xã thuộc các trường hợp đặc biệt trong tuyển dụng.
3.2.2 Đối với UBND tỉnh Đắk Lắk
- Tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Thông qua
những hoạt động này, UBND cấp huyện sẽ kịp thời phát hiện những hạn chế,
thiếu sót trong công tác tuyển dụng, bầu cử, bố trí sắp xếp, quy hoạch, đánh giá
trong thời gian qua để nhanh chóng khắc phục; cũng như kịp thời giải đáp các
vướng mắc của cấp xã trong quá trình thực hiện chính sách, từ đó chủ động giải
quyết hoặc tổng hợp đề xuất, kiến nghị cấp trên giải quyết.
- Quy định cụ thể về tên gọi chức danh, quy định về các chức danh được bố
trí kiêm nhiệm nhưng không hưởng thêm phụ cấp như: Chủ tịch Hội chữ thập đỏ
cấp xã, Trưởng Ban tổ chức Đảng ủy, Cán bộ quản lý Nhà văn hoá, Trưởng Ban
Tuyên giáo Đảng ủy,... đề nghị bố trí cho các chức danh cán bộ, công chức kiêm
nhiệm theo hướng giao thêm nhiệm vụ nhưng không được hưởng thêm phụ cấp.
Ví dụ như: Phó Bí thư Đảng ủy làm thêm nhiệm vụ của Trưởng ban Tuyên giáo
Đảng ủy, Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ làm thêm nhiệm vụ của Chủ tịch Hội
Chữ thập đỏ, công chức Văn hóa – Xã hội kiêm nhiệm Cán bộ Quản lý nhà văn
hóa….
3.2.3 Đối với UBND các xã, thị trấn
Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn là nơi trực tiếp thực hiện các chính sách
đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã. Do đó, Ủy ban nhân
dân các xã, thị trấn ngoài việc thực hiện đúng và đủ các chính sách, cần đồng
thời quan tâm, động viên, nắm bắt các tâm tư, nguyện vọng chính đáng của
những người hoạt động không chuyên trách cấp xã để kịp thời kiến nghị, đề xuất
cấp trên có điều chỉnh, bổ sung để hoàn thiện chính sách.
Chủ động nghiên cứu các văn bản và đánh giá kết quả tuyển dụng, bố trí,
sắp xếp, quy hoạch…từ tình hình thực tế tại địa phương để kịp thời có những 86
kiến nghị đề xuất phù hợp giúp cấp huyện, tỉnh làm cơ sở đánh giá, xây dựng
các chính sách phù hợp nhằm đảm bảo quyền lợi cho đội ngũ người hoạt động
không chuyên trách cấp xã hiện nay.
87
Tiểu kết chương 3
Tại chương 3 của luận văn, tác giả đã đề cập tới một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đối với người hoạt động không chuyên
trách cấp xã ở nước ta hiện nay nói chung và huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk
nói riêng.
Trong quá trình xây dựng các giải pháp học viên đề xuất các nội dung dựa
trên nguyên tắc: bảo đảm tính mục đích, bảo đảm tính hệ thống và đồng bộ, bảo
đảm tính kế thừa và phát triển, bảo đảm tính thực tiễn và khả thi. Các giải pháp
này được đề xuất căn cứ trên việc đánh giá những hạn chế trong việc tổ chức
thực hiện chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã tại
địa bàn huyện Krông Pắc; chỉ ra những hạn chế trong việc thực hiện các chính
sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, từ đó tìm ra những
nội dung chính sách chưa thực sự khoa học, còn chồng chéo trong công tác quản
lý; hay chỉ ra các điểm bất cập trong văn bản quy định của Chính phủ, Bộ Nội
vụ, UBND cấp tỉnh liên quan đến người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
để giải quyết các nội dung liên quan chính sách và công tác quản lý nhà nước
đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.…Ngoài việc đề xuất một
số kiến nghị đối với Chính phủ, Bộ Nội vụ, UBND tỉnh Đắk Lắk học viên cũng
đã đề xuất một số kiến nghị đối với trong việc bổ sung đầy đủ các quy định
trong việc bố trí, sắp xếp tuyển dụng người hoạt động không chuyên trách cấp
xã; thống nhất việc kiêm nhiệm giữa các chức danh, bổ sung kinh phí, chế độ
đào tạo bồi dưỡng để đảm bảo quyền lợi cho người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã.
Nhằm phát huy vai trò của đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã trước hết cần phải tập trung xây dựng các chế độ chính sách phù hợp,
đảm bảo quyền lợi cho người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã hiện nay;
cần có kế hoạch điều chỉnh các quy định về công tác tuyển chọn, bố trí, sắp xếp,
phụ cấp…để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cũng như tạo động lực cho đội
88
ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã hiện đang công tác đã có
thâm niên.
Đặc biệt, để tiếp tục xây dựng phát triển hệ thống chính trị ở cấp cơ sở nói
chung và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói riêng cần có sự phối
hợp từ các cấp chính quyền trong việc hoàn thiện các chính sách cho đội ngũ
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã phù hợp với tình hình thực tế tại
địa phương, đảm bảo tính đồng bộ, khoa học, thống nhất.
89
KẾT LUẬN
Chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là một
vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình đổi mới và nâng cao hiệu
quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã nói chung và những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã nói riêng.
Về cơ sở lý luận tác giả đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách và
những yếu tố tác động đến thực hiện các chính sách liên quan đến những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã dựa trên các văn bản, quy định của
Đảng, Chính phủ, và các cấp ở địa phương. Trong đó luận văn đã luận giải và
làm rõ các khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã; khái niệm về chính sách và các quy định của Chính phủ, Bộ Nội
vụ về chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
Về cơ sở thực tiễn, tác giả đánh giá thực trạng việc tổ chức thực hiện
chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã tại các xã, thị
trấn trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Thông qua việc phân tích tình
hình thực hiện chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã, đánh giá những ưu điểm, hạn chế, đồng thời cũng chỉ ra nguyên nhân
của những hạn chế đó; đặc biệt trọng tâm của luận văn đã đề cập đến các chính
sách cho đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, những bất cập
của các văn bản, quy định của Chính phủ, Bộ Nội vụ, UBND cấp tỉnh, UBND
huyện, UBND cấp xã đối với công tác quản lý đội ngũ này. Trên cơ sở thực tiễn,
luận văn đã nêu lên những giải pháp chủ yếu trong việc hoàn thiện thực hiện
chính sách đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn
huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk hiện nay. Những giải pháp đưa ra dựa trên cơ sở
khoa học, bảo đảm tính mục đích, tính hệ thống và đồng bộ, tính kế thừa và phát
triển; tính khả thi, hợp lý và hiệu quả gắn liền với điều kiện thực tế khách quan
của địa phương. Có thể được vận dụng, áp dụng vào thực tiễn thực hiện chính
sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đang làm việc
90
trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.
Có thể thấy, việc thực hiện chính sách, nâng cao chất lượng đội ngũ
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là nội dung quan trọng, đây
được xem là một trong những nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên và lâu
dài, đòi hỏi phải được nghiên cứu, đưa ra các giải pháp có tính khả thi cao trong
quá trình xây dựng, phát triển đội ngũ người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã, trong đó chú trọng quan tâm xây dựng và phát triển đội ngũ này đảm bảo
các điều kiện, tiêu chuẩn, phải thực sự là người có tài, có tâm, có tầm nhìn và
bản lĩnh, ý chí cách mạng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ trong
tình hình mới để đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội và xây
dựng hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng vững mạnh.
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương (2017), Nghị quyết số 18-NQ/TW về tiếp tục đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả.
2. Bộ Nội vụ-Bộ Tài chính- Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (2010),
Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH, ngày 27
tháng 5 năm 2010 về Hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP
ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số
chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
3. Chính phủ (2019), Nghị định số 34/2019/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số
quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố.
4. Cao Văn Thống, Vũ Trọng Lâm (2020), “Đổi mới và nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ trong giai đoạn mới”, nhà xuất bản Chính
trị quốc gia sự thật.
5. HĐND huyện Krông Pắc (2022), Nghị quyết số 42/NQ-HĐND, ngày 24
tháng 12 năm 2021 về chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo
quốc phòng - an ninh năm 2022.
6. HĐND tỉnh Đắk Lắk (2010), Nghị quyết số 33/2010/NQ-HĐND, ngày 10
tháng 12 năm 2010 về Quy định chức danh, số lượng, hệ số phụ cấp đối với
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, buôn, tổ dân phố
và sinh hoạt phí đối với một số chức danh cán bộ cơ sở.
7. HĐND tỉnh Đắk Lắk (2014), Nghị quyết số 146/2014/NQ-HĐND, ngày 13
tháng 12 năm 2014 về Sửa đổi, bổ sung một số Khoản của Điều 1 Nghị
quyết số 33/2010/NQ-HĐND ngày 10/12/2010 của Hội đồng nhân dân tỉnh
về quy định chức danh, số lượng, hệ số phụ cấp đối với những người hoạt
92
động không chuyên trách ở cấp xã, thôn, buôn, tổ dân phố và sinh hoạt phí
đối với một số chức danh cán bộ cơ sở.
8. HĐND tỉnh Đắk Lắk (2018), Nghị quyết số 14/2018/NQ-HĐND, ngày 06
tháng 12 năm 2018 về Sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số
146/2014/NQ-HĐND, ngày 13/12/2014 của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk
về sửa đổi, bổ sung một số khoản tại Điều 1 Nghị quyết số 33/2010/NQ-
HĐND ngày 10/12/2010 của Hội đồng nhân dân tỉnh về quy định về chức
danh, số lượng, hệ số phụ cấp đối với những người hoạt động không chuyên
trách cấp xã, thôn, buôn, tổ dân phố và sinh hoạt phí đối với một số chức
danh cán bộ cơ sở.
9. HĐND tỉnh Đắk Lắk (2021), Nghị quyết số 16/2021/NQ-HĐND, ngày 20
tháng 12 năm 2021 quy định chức danh, số lượng, mức phụ cấp đối với
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; mức phụ cấp đối với người
hoạt động không chuyên trách, mức bồi dưỡng người trực tiếp tham gia vào
công việc của thôn, buôn, tổ dân phố; mức khoán kinh phí hoạt động đối với
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã và
mức hỗ trợ thôi việc đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
dôi dư trên địa bàn tỉnh.
10. Lê Hiền ( 2018), “ Chế độ cán bộ không chuyên trách ở cơ sở: Ghi nhận tại
Hội An” bài đăng trên báo Quảng Nam (đăng vào 01/2018). Đường dẫn bài
viết: https//dbnd.quangnam.gov.vn.
11. Lê Hương (2017), “Phát huy vai trò cán bộ không chuyên trách cơ sở ở thị
xã Buôn Hồ”, bài đăng trên báo Đắk Lắk điện tử ngày 26/10/2017. Đường
dẫn bài viết: https://baodaklak.vn/channel/3482/201710/phat-huy-vai-tro-
can-bo-khong-chuyen-trach-co-so-o-thi-xa-buon-ho-5555517/.
12. Lê Quốc Khánh, Nguyễn Thăng Long (2018), “Đội ngũ cán bộ không
chuyên trách ở Nghệ An: Thực trạng và giải pháp”, bài viết đăng trên báo
Khoa học xã hội và Nhân văn Nghệ An, ngày 31/8/2018. Đường dẫn bài
93
viết: https://khxhnvnghean.gov.vn/?chitiet=1075&doi-ngu-can-bo-khong-
chuyen-trach-o-nghe-an--thuc-trang-va-giai-phap.html.
13. Tác giả Tuyết Nhung (2012), Bài viết “Những bất cập trong việc thực hiện
các chính sách đối với cán bộ xã phường thị trấn và khóm, ấp” đăng trên
trang Thông tin điện tử của Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng
nhân dân tỉnh Bạc Liêu (ngày 02/12/2012).
14. Phan Thị Nữ (2018), “Thực hiện chính sách đối với cán bộ không chuyên
trách cấp xã trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng”, Luận văn
thạc sĩ Chính sách công, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
15. Ngô Thành Can, Nguyễn Thị Hồng Hải, Lưu Kiếm Thanh (2018), “Công vụ
và quản lý thực thi công vụ”, nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật.
16. Nguyễn Ngọc Tiến (2020), “Quản lý nhà nước đối với những người hoạt
động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị”, luận văn thạc sĩ quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia,
Hà Nội.
17. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức.
18. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
19. Trần Anh Tuấn (2017), Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ xây
dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức và người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã, Đề tài khoa học cấp quốc gia.
20. UBND huyện Krông Pắc (2019), Báo cáo số 177/BC-UBND về kết quả thực
hiện các quy định về chức danh, số lượng, chế độ chính sách đối với cán bộ,
công chức và người hoạt động không chuyên trách cấp xã, cấp thôn, buôn,
TDP trên địa bàn huyện Krông Pắc.
21. UBND huyện Krông Pắc (2019), Quyết định số 4475/QĐ-UBND, ngày 25
tháng 12 năm 2019 về ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức năm 2020;
94
22. UBND huyện Krông Pắc (2020), Báo cáo số 311/BC-UBND ngày 17 tháng 7
năm 2020
23. UBND huyện Krông Pắc (2020), Quyết định số 8659/QĐ-UBND, ngày 28
tháng 12 năm 2020 về ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức năm 2021.
24. UBND huyện Krông Pắc (2021), Báo cáo số 505/BC-UBND, ngày 18 tháng
12 năm 2020 về Tổng kết thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm
bảo quốc phòng - an ninh năm 2020 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2021.
25. UBND huyện Krông Pắc (2021), Báo cáo số 177/BC-UBND ngày 28 tháng
5 năm 2019 về Kết quả thực hiện các quy định về chức danh, số lượng, chế
độ chính sách đối với cán bộ, công chức và người hoạt động không chuyên
trách cấp xã, cấp thông buôn, TDP trên địa bàn huyện Krông Pắc.
26. UBND huyện Krông Pắc (2021), Báo cáo số 55/BC-UBND ngày 24 tháng
02 năm 2021 về Thống kê số lượng cán bộ công chức và những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã.
27. Võ Khánh Vinh (2020) với cuốn sách “Chính sách pháp luật - Những vấn
đề lý luận và thực tiễn”, nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật.
28. Viện Từ điển học và Bách khoa toàn thư Việt Nam, Từ điển Bách khoa toàn
thư Việt Nam, Tập 1, Nxb Từ điển Bách khoa.
95
PHỤ LỤC
MẪU PHIẾU PHỎNG VẤN VÀ PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN
PHIẾU PHỎNG VẤN
(Dành cho Cán bộ, Công chức giữ chức vụ lãnh đạo các cấp)
Kính thưa Ông/ Bà.
Hiện nay, chúng tôi đang thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học về Chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã từ thực tiễn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Chúng tôi rất mong Ông/ Bà cho biết ý kiến của mình thông qua việc trả lời các câu hỏi dưới đây.
Khảo sát nhằm thu thập thông tin để thực hiện việc nghiên cứu khoa học, không sử dụng cho mục đích khác; danh tính của nguời cung cấp thông tin sẽ đuợc bảo mật.
Rất mong nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ của Ông/ Bà!
PHẦN 1. THÔNG TIN CÁ NHÂN
(Ông, bà vui lòng khoanh tròn vào nội dung thông tin cá nhân)
Giới tính người trả lời:
l. Nam
2. Nữ
Độ tuổi:
1. Duới 30 tuổi
2. Từ 30 đến duới 40 tuổi
3. Từ 40 tuổi trở lên
Trình độ học vấn:
1. Trung cấp
2. Cao đẳng
3. Đại học
4. Sau đại học
96
Chức vụ đang đảm nhiệm:………………………………………………
Thâm niên công tác:
1. Duới 5 năm
2. Từ 5 đến duới 10 năm
3. Từ 10 đến dưới 15 năm
4. Từ 15 đến dưới 20 năm
5. Từ 20 năm trở lên
PHẦN 2. NỘI DUNG CÂU HỎI
Câu 1: Xin ông/bà cho biết, số lượng chức danh những người hoạt động không chuyên trách của địa phương, đơn vị nơi ông bà quản lý đã đầy đủ so với quy định hay chưa? Vì sao?
Câu 2: Xin ông/bà cho biết, năng lực trình độ của những người hoạt động không chuyên trách của địa phương, đơn vị nơi ông bà quản lý đã đáp ứng được công việc hay chưa?
Câu 3: Xin ông/bà cho biết, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách của địa phương, đơn vị nơi ông bà quản lý được thực hiện theo những quy định nào?
Câu 4: Xin ông/bà cho biết, các chính sách hiện có đã đáp ứng được nhu cầu, mong muốn của những người hoạt động không chuyên trách chưa? Vì sao?
Câu 5: Theo ông/bà, những yếu tố nào ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách của địa phương, đơn vị nơi ông bà quản lý?
Câu 6: Xin ông/bà cho biết, việc thực hiện chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách của địa phương, đơn vị nơi ông bà quản lý gặp những khó khăn gì? Vì sao?
Câu 7: Xin ông/ bà cho biết ý kiến đề xuất, giải pháp của mình nhằm hoàn thiện chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk trong bối cảnh hiện nay và trong thời gian tới.
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Ông/ Bà!
PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN
97
(Dành cho cán bộ, công chức, những người hoạt động không chuyên trách)
Kính thưa Anh/ Chị,
Hiện nay, chúng tôi đang thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học về Chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã từ thực tiễn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Chúng tôi rất mong Anh/ Chị cho biết ý kiến của mình thông qua việc trả lời các câu hỏi sau bằng cách khoanh tròn vào các con số tương ứng với phương án phù hợp nhất hoặc vui lòng ghi ý kiến khác (nếu có) vào phần còn trống.
Khảo sát nhằm thu thập thông tin để thực hiện việc nghiên cứu khoa học, không sử dụng cho mục đích khác; danh tính của nguời cung cấp thông tin sẽ đuợc bảo mật.
Rất mong nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ của Anh/ Chị!
PHẦN 1. THÔNG TIN CÁ NHÂN
Giới tính người trả lời:
l. Nam
2. Nữ
Độ tuổi:
1. Duới 30 tuổi
2. Từ 30 đến duới 40 tuổi
3. Từ 40 tuổi trở lên
Trình độ học vấn:
1. Trung cấp
2. Cao đẳng
3. Đại học
4. Sau đại học
Vị trí công tác:
1. Cán bộ, công chức.
2. Ngừời hoạt động không chuyên trách
98
Thâm niên công tác:
1. Dưới 5 năm.
2. Từ 5 đến duới 10 năm.
3. Từ 10 đến dưới 15 năm.
4. Từ 15 đến dưới 20 năm.
5. Từ 20 năm trở lên.
PHẦN 2. NỘI DUNG
Câu 1. Xin Anh/ Chị vui lòng cho biết ý kiến của mình về số lượng chức danh những người hoạt động không chuyên trách dưới đây ở địa phương mình theo bảng dưới đây:
Đánh giá Chức danh Thiếu Đủ Thừa
Phó chủ nhiệm ủy ban Kiểm tra Đảng ủy – Tổ chức 1 2 3
Phụ trách Tuyên giáo – Dân vận 1 2 3
Phụ trách Văn phòng – Đảng ủy 1 2 3
Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tồ quốc 1 2 3
Phó Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy Quân sự 1 2 3
1 2 3 Phụ trách Văn thư – Lưu trữ - Thủ Quỹ - Cải cách hành chính
Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ 1 2 3
Phó Chủ tịch Hội Nông dân 1 2 3
Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh 1 2 3
Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh 1 2 3
Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ 1 2 3
Chủ tịch Hội người cao tuổi 1 2 3
Phụ trách Đài Truyền thanh- Văn hóa 1 2 3
1 2 3 Phụ trách Kế hoạch – Giao Thông – Thủy Lợi – Nông lâm nghiệp
99
Câu 2. Xin Anh/ Chị vui lòng cho biết ý kiến của mình về công tác quản lý nhà nước đối với những người hoạt động không chuyên trách ở địa phương mình theo các mức độ sau:
1. Chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được thực tiễn phát triển của địa phương/ cá nhân
2. Chưa đày đủ, nhưng đã đáp ứng được thực tiễn phát triển của địa phương/ cá nhân.
3. Đầy đủ, nhưng chưa đáp ứng được thực tiễn phát triển của địa phương/ cá nhân .
4. Đầy đủ, đã đáp ứng được thực tiễn phát triển của địa phương/ cá nhân.
Về công tác tuyển chọn và sử dụng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã.
Nội dung Đánh giá
1 2 3 4
Xây dựng tiêu chuẩn vị trí việc làm cho các vị trí không chuyên trách cấp xã
1 2 3 4
Phối hợp giữa các lực lượng có liên quan trong tuyển chọn, sử dụng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã
1 2 3 4
Tuyển chọn, sử dụng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã dựa trên nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh
1 2 3 4
Xây dựng được phương thức tuyển chọn (thi tuyển, xét tuyển, hoặc kết họp giữa xét tuyển và thi tuyển) phù họp cho từng vị trí việc làm
1 2 3 4
Phân công nhiệm vụ cho người được tuyển chọn bảo đảm phù họp với năng lực và yêu cầu của vị trí việc làm
100
1 2 3 4
Sử dụng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã gắn với việc thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ thỏa đáng, bảo đảm lợi ích chính đáng của họ và khuyến khích họ tận tâm với công việc
Công tác đào tạo, bồi dưỡng những người hoạt động không chuyên trách cấp xã
Nội dung Đánh giá
Chương trình đào tạo, bồi dưỡng 1 2 3 4
Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng 1 2 3 4
1 2 3 4 Trang thiết bị cần thiết phục vụ đáp ứng yêu cầu trong khâu tổ chức đào tạo, bồi dưỡng
1 2 3 4 Đội ngũ giảng viên hành chính và quản lý nhà nước
Công tác thực hiện chế độ, chính sách đối với những người hoạt động
không chuyên trách cấp xã
Nội dung Đánh giá
Chế độ phụ cấp và khoán kinh phí 1 2 3 4
Chế độ đào tạo, bồi dưỡng và bảo hiểm xã hội 1 2 3 4
Chế độ làm việc 1 2 3 4
Câu 3: Xin Anh/ Chị vui lòng cho biết những đề xuất của mình nhằm hoàn thiện chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã trên địa bàn huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk hiện nay và trong thời gian tới.
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Anh/ Chị!