ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
VŨ THỊ MAI
VẤN ĐỀ VẬN DỤNG LÍ LUẬN
VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG TRUYỆN KIỀU
VÀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC CỦA NGUYỄN DU
(LÊ ĐÌNH KỴ)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
VŨ THỊ MAI
VẤN ĐỀ VẬN DỤNG LÍ LUẬN
VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG TRUYỆN KIỀU
VÀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC CỦA NGUYỄN DU
(LÊ ĐÌNH KỴ)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Trần Nho Thìn
THÁI NGUYÊN - 2017
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận
văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn
Vũ Thị Mai
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian theo học ở trường Đại học Khoa học - Đại học
Thái Nguyên và dặc biệt trong khoảng thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp,
tôi đã nhận được sự giúp đỡ về mặt vật chất, tinh thần, kiến thức và những
kinh nghiệm quý báu từ gia đình, thầy cô và bạn bè. Qua đây, tôi xin trân
trọng bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến:
GS.TS Trần Nho Thìn, người thầy đã tận tâm chỉ bảo, hướng dẫn và
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Quí thầy cô trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên giảng dạy
các chuyên đề cho lớp cao học Văn học Việt Nam K9D đã hết lòng truyền đạt
kiến thức và những kinh nghiệm quý báu khi chúng tôi theo học.
Đặc biệt, tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp đã luôn ủng hộ, động viên, tạo điều kiện, quan tâm giúp đỡ để tôi
có thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn
Vũ Thị Mai
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii
MỤC LỤC ....................................................................................................... iv
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 3
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu .......................................................... 9
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ................................................... 10
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 11
6. Cấu trúc của luận văn .............................................................................. 11
7. Đóng góp của luận văn ............................................................................ 11
Chương 1. VẤN ĐỀ VẬN DỤNG LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA HIỆN
THỰC TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM
VÀ TRUYỆN KIỀU ................................................................... 12
1.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945: khái niệm chủ
nghĩa tả chân .............................................................................................. 13
1.1.1. Hải Triều gắn chủ nghĩa tả chân xã hội với giá trị phản ánh,
tố cáo hiện thực, giá trị nhân sinh ........................................................ 14
1.1.2. Đinh Gia Trinh và vấn đề chi tiết chân thực, phong phú của tiểu
thuyết Pháp .............................................................................................. 17
1.1.3. Đào Duy Anh, Nguyễn Bách Khoa với lý luận và phương pháp
nghiên cứu phương Tây .......................................................................... 19
1.2. Giai đoạn sau 1945 đến năm 1970 (trước khi Lê Đình Kỵ công bố
cuốn sách) .................................................................................................... 22
1.2.1. Hoài Thanh (1949) trong “Quyền sống của con người trong
Truyện Kiều” tiếp tục vận dụng quan niệm phản ánh hiện thực nhưng
chưa có ý thức về chủ nghĩa hiện thực .................................................... 22
iv
1.2.2. Trương Tửu và Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du (1956) vẫn
chỉ vận dụng quan niệm về phản ánh các phương diện hiện thực nhất
là đấu tranh giai cấp ................................................................................ 24
1.2.3. Các giáo trình lý luận văn học biên soạn theo lý luận Liên Xô về
các phương pháp sáng tác: chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ
nghĩa hiện thực, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa được giới thiệu ở
Việt Nam .................................................................................................. 25
1.2.4. Các bài viết thể nghiệm của Lê Đình Kỵ những năm 1960 về
Truyện Kiều .............................................................................................. 29
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 32
Chương 2. NỘI DUNG CÔNG TRÌNH “TRUYỆN KIỀU VÀ CHỦ
NGHĨA HIỆN THỰC CỦA NGUYỄN DU” - ........................ 33
2.1. Giới thiệu về Lê Đình Kỵ ..................................................................... 33
2.2. Chủ nghĩa hiện thực và vấn đề phản ánh hiện thực ............................. 35
2.3. Nội dung cuốn sách .............................................................................. 39
2.3.1. Cơ sở tư tưởng thẩm mĩ của Truyện Kiều ..................................... 41
2.3.2. Vấn đề điển hình hóa trong Truyện Kiều ...................................... 52
2.4. Giá trị nổi bật của công trình ............................................................... 61
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 66
Chương 3. CÁC Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA GIỚI NGHIÊN CỨU VỀ
CÔNG TRÌNH TRUYỆN KIỀU VÀ CHỦ NGHĨA HIỆN
THỰC CỦA NGUYỄN DU CỦA LÊ ĐÌNH KỴ ..................... 67
3.1. Đánh giá vấn đề có hay không chủ nghĩa hiện thực trong văn trung
đại Việt Nam ............................................................................................... 67
3.2. Đánh giá về công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của
Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ ........................................................................ 79
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 85
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 93
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Truyện Kiều là kiệt tác văn chương của dân tộc, có sức sống lâu bền,
sức lan tỏa rộng rãi. Do cấu trúc văn bản chứa đựng nhiều giá trị to lớn, nên
từ lâu Truyện Kiều đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành: sử
học, văn hóa học, xã hội học, khoa học văn chương… Tính riêng, trong
nghiên cứu văn học, Truyện Kiều đã có một đời sống rất sinh động. Có thể
nói, lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều là lịch sử của những cách đọc, các diễn giải
văn bản. Lịch sử ấy vô cùng phong phú, đa dạng và cũng rất phức tạp do phải
đi qua nhiều bộ lọc ý thức hệ và hệ hình tri thức. Không phải ngẫu nhiên, có
nhà nghiên cứu, ví Truyện Kiều là phòng thí nghiệm của các lý thuyết; những
lý thuyết mới một khi được du nhập vào Việt Nam nếu muốn chứng tỏ được
“quyền lực” của nó trong thực tiễn thì trước hết nó phải được thử nghiệm ở
việc đọc Kiều. Thành công của lý thuyết mới, bởi thế, là ở chỗ, nó phải đọc ra
được ý nghĩa khả thể trong văn bản Truyện Kiều, mà các cách tiếp cận trước
đó chưa chú ý đến hay chưa biết đến. Đến nay, Truyện Kiều vẫn không ngừng
được đọc lại, được tái diễn giải từ những khung tri thức - lý thuyết mới.
Bên cạnh hoạt động đọc lại, diễn giải lại Truyện Kiều từ điểm nhìn mới,
nhu cầu vẽ lại bức tranh tiếp nhận Truyện Kiều trải dài mấy trăm năm với
nhiều khúc quành lịch sử, vẫn luôn được đặt ra. Có rất nhiều khoảng trống
trong lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều chưa được lấp đầy, hay làm sáng tỏ,
chẳng hạn như việc tiếp nhận Truyện Kiều ở đô thị miền Nam trước 1975 gần
đây đã được quan tâm dựng lại song hãy còn dừng ở những nét sơ lược….
Trong tình hình ấy, việc đúc rút từ các nghiên cứu Truyện Kiều trong quá khứ
thành những khung mẫu đọc, chỉ ra những cách đọc riêng, điển hình cho mỗi
giai đoạn/thời đại, những giới hạn của mỗi cách đọc… là thực sự cần thiết.
Bất kỳ một nghiên cứu nghiêm túc, đích thực nào, cũng bắt đầu từ việc chỉ ra
2
một cách thực chứng không chỉ những thành công, mà quan trọng hơn, cần
phải chỉ ra những giới hạn của các nghiên cứu trước đó. Luận văn này lựa
chọn một thời điểm tiếp nhận, một trường hợp diễn giải Truyện Kiều, như một
sự chuẩn bị/khởi đầu cho các thể nghiệm đọc có thể có về sau của cá nhân
người viết.
Luận văn không có tham vọng đem lại những khám phá mới Truyện
Kiều từ một khung lý thuyết thời thượng nào đó, nghĩa là không vận dụng lý
luận mới để đọc lại Kiều. Tác giả luận văn chỉ mong muốn góp một tiếng nói
vào việc tổng kết một cách đọc tiêu biểu về Truyện Kiều thập niên 60 - 70 ở
miền Bắc Việt Nam: Trường hợp Lê Đình Kỵ với công trình Truyện Kiều và
chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du (1970). Sở dĩ chọn Lê Đình Kỵ bởi vì
ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của lối nghiên cứu văn học theo
xã hội học mác xít, mà Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là
công trình thành công nhất của Lê Đình Kỵ trong việc vận dụng lý luận chủ
nghĩa hiện thực để đọc Truyện Kiều. “Nghiên cứu Truyện Kiều trong mối
tương quan với chủ nghĩa hiện thực tức cũng là nghiên cứu phương pháp sáng
tác của tác phẩm cổ điển lớn nhất của nền văn học dân tộc” (Lê Đình Kỵ).
Với Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, Lê Đình Kỵ đã thực
sự tạo được một dấu mốc đối với ngành Kiều học Việt Nam.
Với tư cách là giáo viên THPT giảng dạy bộ môn Ngữ văn, nghiên cứu
“Vấn đề vận dụng lí luận về chủ nghĩa hiện thực trong Truyện Kiều và chủ
nghĩa hiện thực của Nguyễn Du”(Lê Đình Kỵ) sẽ giúp người viết luận văn
này có cơ hội trải nghiệm cách đọc của các nhà nghiên cứu đi trước, từ đó
hiểu sâu sắc thêm những chân giá trị của tác phẩm Truyện Kiều đã được thời
gian khẳng định, để ứng dụng vào hoạt động dạy học, đọc hiểu các trích đoạn
Truyện Kiều ở bậc học mà tác giả luận văn đang gắn bó.
3
2. Lịch sử vấn đề
Công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du được
khởi thảo từ năm 1965, công bố đầu thập niên 70, đây là giai đoạn phản ánh
luận Lênin/mỹ học Mác - Lê nin đã được giới thiệu ở Việt Nam tương đối rộng
rãi. Ngoài các ý kiến bàn về văn học nghệ thuật Mác, Ăng ghen, Lê nin, còn có
ý kiến của Mao Trạch Đông, Gorki…. Bộ Nguyên lý mĩ học Mác - Lê nin (2
tập, Hoàng Xuân Nhị dịch) của Viện Hàn lâm Khoa học Liên xô cũng đã được
xuất bản đầu những năm 60. Đặc biệt, năm 1962 bộ Nguyên lí lí luận văn học
(2 tập) của L.I.Timofeev do Lê Đình Kỵ, Cao Xuân Hạo, Bùi Khánh Thế,
Nguyễn Hải Hà, Minh Hải, Nhữ Thành dịch, cũng đã chính thức hiện diện
trong đời sống học thuật miền Bắc…. Tính đến năm 1970, về mặt lý luận,
nhiều vấn đề của phản ánh luận Lenin, của phương pháp sáng tác hiện thực xã
hội chủ nghĩa đã được giới nghiên cứu văn học Việt Nam tiếp nhận, chuyển
ngữ và bước đầu quan tâm vận dụng vào nghiên cứu thực tiễn lịch sử văn học
dân tộc, trong đó có đóng góp của dịch giả, nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ.
Ngay sau khi Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du xuất
hiện, vấn đề vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực vào nghiên cứu Truyện
Kiều của Lê Đình Kỵ đã được một số nhà nghiên cứu lưu ý tuy nhiên tính đến
trước những năm 2000 phần lớn các đánh giá về công trình của Lê Đình Kỵ
còn sơ lược và một số nhận định chưa thỏa đảng.
Trong một bài đọc sách năm 1971, Cao Huy Đỉnh ghi nhận Truyện
Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du “có những phát hiện mới về
Truyện Kiều có khả năng thuyết phục bạn đọc thực sự” [8], Lê Đình Kỵ vận
dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn lịch sử thẩm mỹ Việt Nam
nhuần nhị, công trình này “là một cống hiến đáng kể vào lịch sử nghiên cứu
Nguyễn Du, Truyện Kiều và văn học cổ điển Việt Nam” [8, tr.138]. Bên cạnh
đó, Cao Huy Đỉnh cũng cho rằng, Lê Đình Kỵ còn lúng túng trong việc xác
định phương pháp sáng tác cơ bản của Nguyễn Du và Truyện Kiều: “tác giả
4
xuất phát từ những tiêu chuẩn của phương pháp hiện thực chủ nghĩa ở trong
văn học phương Tây, ở trong văn học Nga thế kỉ XIX để tìm hiểu Truyện
Kiều…”, chưa “chỉ ra được cuộc sống Việt Nam thực sự đã thấm vào Truyện
Kiều ở chỗ nào với cái dạng vốn có của nó,” Cao Huy Đỉnh nhấn mạnh
“chừng nào mà không chỉ ra được những nguyên mẫu của Truyện Kiều ở
trong xã hội Việt Nam thế kỉ XVIII hay ở trong chính thời đại và môi trường
sống của Nguyễn Du, thì chừng ấy khó lòng mà nói đến một chủ nghĩa hiện
thực của Nguyễn Du” ([8, tr.138]. Rõ ràng, chủ nghĩa hiện thực trong văn học
là một vấn đề được quan tâm cả ở bình diện lý luận và thực tiễn. Có lẽ ở thời
điểm công bố công trình của Lê Đình Kỵ, cách hiểu về chủ nghĩa hiện thực,
chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa chưa đạt được một nhận thức chung,
chưa có tiếng nói đồng thuận trong giới, nhưng đã có những chỉ dấu cho thấy
nó đã được quan tâm luận giải từ nhiều phía. Chủ nghĩa hiện thực không chỉ
là câu chuyện của những nhà lý luận văn học, những nhà nghiên cứu văn học
sử thời cận hiện đại, mà còn là vấn đề của những nghiên cứu về văn học dân
gian, văn học cổ điển. Nói cách khác, đó là một vấn đề trung tâm của các
nghiên cứu văn học. Đúng như một nhà nghiên cứu thập niên 70 khẳng định:
“vấn đề đặt ra cho chúng ta hiện nay trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử văn học là
xem xét trước thời kỳ chủ nghĩa hiện thực phê phán những năm 30, trong văn
học Việt Nam đã có chủ nghĩa hiện thực hay chưa, nếu có thì nó xuất hiện từ bao
giờ và chủ nghĩa hiện thực đó hình thành trong những điều kiện lịch sử nào, đặc
tính và nội dung của nó ra sao…” [4, tr.101]. “Ít có phạm trù lý thuyết nào lại
được bàn cãi nhiều như phạm trù chủ nghĩa hiện thực” [1].
Sau Cao Huy Đỉnh, Đỗ Đức Dục trong bài “Suy nghĩ về vấn đề sự xuất
hiện của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam” thừa nhận có một “chủ
nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du”, song ông cũng nhận định rằng, công
trình của Lê Đình Kỵ chưa nêu được “quá trình hình thành của chủ nghĩa hiện
thực trong văn học Việt Nam” [4, tr.101].
5
“Chung quanh vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lịch sử văn học Việt
Nam” [2], Nguyễn Đình Chú nhìn thấy sự phát triển về tư tưởng học thuật của
Lê Đình Kỵ từ bài viết đầu tiên tìm hiểu phương pháp sáng tác Truyện Kiều
năm 1963 đến năm 1970: Lê Đình Kỵ vượt qua giai đoạn bước đầu tìm hiểu,
ra mắt bạn đọc công trình quy mô hơn Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực
của Nguyễn Du. Cũng như Nguyễn Đình Chú, Trần Đình Sử trong “Thời gian
nghệ thuật trong Truyện Kiều và cảm quan hiện thực của Nguyễn Du” khẳng
định: Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là một công trình
sâu sắc và công phu [54].
Sau khi khảo sát bước đầu lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều, Trần Nho
Thìn trong một bài viết khẳng định xu hướng tất yếu của việc cần thiết phải
“nghiên cứu và giảng dạy văn học trung đại từ góc độ văn hóa” [60] như một
sự bổ sung cho các phương pháp nghiên cứu trước kia, một mặt khách quan
ghi nhận việc vận dụng khái niệm “chủ nghĩa hiện thực” (phương pháp sáng
tác) trong thập kỉ 60, 70 để phân tích Truyện Kiều là “một nỗ lực mới nhằm
khoa học hóa công việc nghiên cứu” nhưng mặt khác, tác giả tiểu luận cũng
thẳng thắn chỉ ra rằng,”việc đưa những tiêu chí của chủ nghĩa hiên thực - một
trào lưu văn học phương Tây ở giữa thế kỉ XIX vốn có những đặc trưng loại
hình rất khác so với văn học trung đại Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ
XIX để mô tả Truyện Kiều là một việc khá mạo hiểm và thực tế đã bộc lộ
những bất cập”. “Hướng đi này mặc nhận rằng Nguyễn Du, một tác gia văn
học trung đại, cũng hướng về “chủ nghĩa hiện thực” như một tác gia hiện thực
chủ nghĩa bất kì. Từ đây những điểm có sự trùng khít thì kết luận về sự hiện
diện của chủ nghĩa hiện thực trong sáng tác của Nguyễn Du, còn những nơi
nào không có sự trùng khít thì giải thích là có sự ràng buộc níu kéo của mĩ
học truyền thống. Cách tiếp cận này thực chất đã biến Truyện Kiều từ một
chỉnh thể nghệ thuật thành một thực thể đầy mâu thuẫn, thiếu thống nhất, nơi
chứa đựng những phương pháp sáng tác khác nhau). Nói chung, bài viết của
6
Trần Nho Thìn, chưa đi sâu đánh giá chi tiết công trình của Lê Đình Kỵ mà
chỉ tập trung xem xét tổng quan về lịch sử của sự ứng dụng các hệ thống lý
luận khác nhau vào nghiên cứu Truyện Kiều, trong đó việc vận dụng việc lý
luận chủ nghĩa hiện thực chỉ là một đường hướng. Điểm mấu chốt trong bài
viết này của Trần Nho Thìn là chỉ những những bất cập có thể có và cần
rút kinh nghiệm đối với các cách tiếp cận trước kia; theo tác giả, nghiên
cứu Truyện Kiều cần tính tới đặc trưng văn hóa thời đại Nguyễn Du, cần
thận trọng để tránh những cách giải thích có tính suy diễn, gán ghép, hiện
đại hóa tác phẩm: “lỗi không phải do phương pháp nghiên cứu được sử
dụng mà là do người nghiên cứu, do ý thức về tính lịch sử cụ thể của đối
tượng chưa đầy đủ” [60, tr.49].
Cũng như Trần Nho Thìn, Phạm Quang Long khi bàn “Về sự hình
thành của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam”, đã nhận xét: “Có thể
nói công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là một cái
mốc quan trọng của giới nghiên cứu về Nguyễn Du nói chung, Truyện Kiều nói
riêng. Với công trình này nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp cho giới nghiên cứu
văn học Việt Nam trung cận đại trong cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu từ góc
nhìn tư duy văn học của thời đại, từ cá tính sáng tạo của nhà văn và hệ thống thi
pháp thể loại. Từ việc giải mã cơ sở tư tưởng thẩm mĩ của tác giả Truyện Kiều
nhà nghiên cứu đã lý giải các thao tác điển hình hoá nhân vật của Nguyễn Du
dưới ánh sáng của lý thuyết thể loại và phương pháp nghệ thuật. Có thể nói cho
đến nay chưa có ai viết về điển hình hoá của Truyện Kiều thú vị như Lê Đình
Kỵ, sau hơn 30 năm công trình của ông xuất hiện.... Những phần viết về điển
hình hoá, ngôn ngữ nhân vật của Lê Đình Kỵ rất tinh tế, hấp dẫn nhưng đáng tiếc
là do đã xác định theo hướng chứng minh có một chủ nghĩa hiện thực trong
Truyện Kiều, dù đó là thứ chủ nghĩa hiện thực có điều kiện thì một khi hướng
nghiên cứu đã chưa chính xác thì những chi tiết, những thao tác dù có sâu sắc
đến đâu nó bị hạn chế tác dụng. Đó là điều đáng tiếc” [40].
7
Năm 2006, Nhà xuất bản Giáo dục cho in và phát hành Tuyển tập Lê Đình
Kỵ. Trong “Lời giới thiệu” cho cuốn sách này, Huỳnh Như Phương cung cấp
thêm chi tiết: nhan đề Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du do
nhà xuất bản thêm vào ba chữ sau (“của Nguyễn Du”), dù vậy thì dụng ý nhấn
mạnh mối quan hệ của kiệt tác này với những đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực
vẫn không thể ghi ngờ. Huỳnh Như Phương xem Truyện Kiều và chủ nghĩa
hiện thực là đỉnh cao của sự nghiệp học thuật của Lê Đình Kỵ, “ở đây không
chỉ tư duy khái quát và khả năng kiến giải của một nhà lý luận mà còn cả sự
cảm thụ tinh tế, năng lực phân tích sắc sảo của một ngòi bút phê bình... Thời
Lê Đình Kỵ viết cuốn sách này, ở nước ta không phải không có xu hướng vận
dụng những tiêu chí của chủ nghĩa hiện thực phương Tây vào việc nghiên cứu
những giá trị của văn học cổ điển Việt Nam và đã không tránh khỏi ít nhiều
khiên cưỡng. Chính Lê Đình Kỵ cũng nhận thấy rằng chủ nghĩa hiện thực là
cái áo quá chật so với cơ thể cường tráng của Truyện Kiều: trong một bản in ở
Nhà xuất bản Cửu Long năm 1988, ông đã không ngần ngại đổi tên cuốn sách
này là Truyện Kiều, đỉnh cao văn học. Thành ra, không thể phủ nhận là có
một độ chênh nhất định giữa lý thuyết của chủ nghĩa hiện thực và thế giới
nghệ thuật của Nguyễn Du. Âu đó cũng là nỗi ám ảnh của một thời” [48].
Nhưng đúng như Trần Đình Sử đã nhận xét một cách thỏa đáng, Lê Đình Kỵ
đã "vượt lên cái khung ông tự đặt cho mình" [55, tr. 344].
Năm 2013 Trịnh Bá Đĩnh trong Lịch sử lí luận phê bình văn học Việt
Nam đã có một số đánh giá sâu sắc và khách quan về Lê Đình Kỵ cũng như
đóng góp của Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du. Theo tác
giả này, Lê Đình Kỵ là một hiện tượng nổi bật trong đời sống lí luận phê bình
văn học thập kỉ 60, các công trình của ông về chủ nghĩa hiện thực đều gây
được chú ý, gây nên những cuộc bàn cãi sôi nổi: Truyện Kiều và chủ nghĩa
hiện thực của Nguyễn Du là “đỉnh cao nhất” [9, tr.169] trong sự nghiệp học
thuật của Lê Đình Kỵ, “là tác phẩm sáng giá nhất”, tiêu biểu cho cách mà Lê
8
Đình Kỵ vận dụng chủ nghĩa hiện thực để phê bình văn học [9, tr.171]. Để
làm rõ hơn quan điểm của mình, Trịnh Bá Đĩnh nhấn mạnh: Lê Đình Kỵ xuất
phát từ những nguyên lý có sẵn của lí luận về chủ nghĩa hiện thực để viết
công trình của mình, tuy nhiên phải thấy rằng Lê Đình Kỵ không chọn con
đường minh họa giản đơn các nguyên lý về chủ nghĩa của nước ngoài. Mặc dù
chỉ dành năm trang viết về Lê Đình Kỵ và Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện
thực của Nguyễn Du trong công trình bàn thảo về tiến trình lịch sử lý luận phê
bình Việt Nam từ khởi nguồn đến hiện đại, song những đánh giá của Trịnh Bá
Đĩnh và đặc biệt là những nỗ lực giới thiệu tuyển tập của Huỳnh Như Phương
trước đó có thể xem là một bước chuyển rõ rệt nhằm đánh giá lại, công bằng
hơn về Lê Đình Kỵ và những đóng góp của ông đối với nền lý luận phê bình
văn học Việt Nam.
Công bằng, thì trước Huỳnh Như Phương (2006), và Trịnh Bá Đĩnh
(2013), đã có một số tác giả, đã có những động thái đánh dấu một hướng đọc
lại Lê Đình Kỵ. Có thể kể đến bài viết Đọc lại Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện
thực của Nguyễn Du của Nguyễn Lộc (in trong Truyện Kiều và chủ nghĩa
hiện thực, nxb. Hội Nhà văn, 1992); Một đời lao động tận tụy và sáng tạo (in
trong Lê Đình Kỵ - Phê bình nghiên cứu văn học, Nxb. Giáo dục, 1998) của
Nguyễn Văn Hạnh, Thi pháp Truyện Kiều (Nxb. Giáo dục, 2005) của Trần
Đình Sử … Các bài viết, chuyên luận này đều tập trung khẳng định sự đóng
góp xuất sắc của Lê Đình Kỵ cho ngành Kiều học, những thành công nổi trội
của Lê Đình Kỵ khi vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực, chia sẻ với sự dè
đặt của ông trước những vấn đề hóc búa trong nghiên cứu Truyện Kiều….
Nhìn lại quá trình tiếp nhận công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện
thực của Nguyễn Du chúng tôi rút ra mấy nhận xét sau.
Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam là một trong
những vấn đề trung tâm của các nghiên cứu, thảo luận thập niên 60, 70, 80.
Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là công trình vận dụng lý
9
luận hiện thực chủ nghĩa để nghiên cứu một trường hợp đỉnh cao của văn học
cổ điển. Hầu hết các ý kiến về công trình này đều ghi nhận cách đặt vấn đề
mới mẻ của Lê Đình Kỵ.
Phần lớn các ý kiến về Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của
Nguyễn Du nếu không phải là bài điểm sách, đọc sách thì cũng chỉ là một nội
dung nhỏ trong một tiểu luận/bài viết đặt những vấn đề bao trùm, khái quát,
phức tạp hơn. Chưa có một cuốn sách riêng nào lấy Truyện Kiều và chủ nghĩa
hiện thực của Nguyễn Du làm đối tượng nghiên cứu độc lập. Trước năm
2000, nhiều ý kiến đánh giá về Lê Đình Kỵ còn thiếu khách quan, có chỗ vẫn
giữ định kiến đối với ông, những hiểu lầm về ông, kể từ cuộc thảo luận ồn ào
mà chiều hướng chính là phê phán cuốn giáo trình Các phương pháp nghệ
thuật trước đó của Lê Đình Kỵ (1962). Sau năm 2000, việc đánh giá Lê Đình
Kỵ nói chung và Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du diễn ra
theo chiều hướng khách quan, khoa học hơn.
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu cơ bản của đề tài là vấn đề vận dụng lí luận chủ
nghĩa hiện thực trong nghiên cứu Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của
Nguyễn Du.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của luận văn là đánh giá những thành công và chưa
thành công; ý nghĩa và đóng góp của công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa
hiện thực của Nguyễn Du trong lịch sử trưởng thành, phát triển của ngành
Kiều học. Nói rộng là chỉ ra khung tri thức mà tác giả Lê Đình Kỵ đã sử dụng,
có những thế mạnh, ưu điểm và cả giới hạn gì trong việc đọc, diễn giải Truyện
Kiều, kiệt tác văn chương của dân tộc.
10
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở xác định mục tiêu nêu trên, nhiệm vụ cụ thể mà luận văn
cần thực hiện trước hết là cung cấp cái nhìn tổng quan về cách tiếp cận vấn đề
chủ nghĩa hiện thực của Truyện Kiều trước thập niên 70 và trong chừng mực
nhất định là việc nghiên cứu văn học Việt Nam nói chung từ hệ thống lý luận
ấy. Quan trọng hơn nữa là phải trình bày được đầy đủ nội dung chính yếu của
công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê Đình
Kỵ để làm cơ sở cho việc đúc kết những bài học về việc vận dụng lý luận chủ
nghĩa hiện thực trong nghiên cứu Truyện Kiều của tác giả; đồng thời với
nhiệm vụ này là xem xét một cách khách quan các ý kiến đánh giá của giới
nghiên cứu về công trình này, phân tích lý giải những thành công, giới hạn,
những điểm hợp lý và chưa hợp lý trong các ý kiến đánh giá đó.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ đối tượng, phạm vi, mục tiêu nghiên cứu trên đây, luận
văn khi triển khai sẽ phải sử dụng tổng hợp, phối hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu. Cụ thể:
- Phương pháp xã hội học được sử dụng để xác định, đánh giá, lý giải
các cách tiếp cận Truyện Kiều; việc tiếp nhận công trình Truyện Kiều và chủ
nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ trong đời sống học thuật
trong và sau thập niên 70.
- Phương pháp tiểu sử học được sử dụng để mô tả, giới thiệu về tác giả
Lê Đình Kỵ, nhằm tạo ra một cơ sở để hiểu đúng hơn những đóng góp và hạn
chế của tác giả Lê Đình Kỵ trong công trình mà luận văn lấy làm đối tượng
nghiên cứu.
- Phương pháp văn hóa học được sử dụng phối hợp với phương pháp xã
hội học để nhìn nhận các diễn giải Truyện Kiều như những hoạt động văn hóa
gắn liền với những mẫu người văn hóa; như những sinh hoạt văn hóa xã hội
chịu sự chi phối của ý thức hệ.
11
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh để khảo sát mối liên
hệ giữa nội dung bàn luận trong Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn
Du với một số quan điểm liên quan của tác giả khác trong văn học sử dân tộc.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là công trình của Lê Đình Kỵ -
Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du xuất bản năm 1970 (Nhà
xuất bản khoa học xã hội).
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận gồm 3 chương
Chương 1. Vấn đề vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực trong nghiên
cứu văn học Việt Nam và Truyện Kiều
Chương 2. Nội dung công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực
của Nguyễn Du - vận dụng lý luận về chủ nghĩa hiện thực.
Chương 3. Các ý kiến đánh giá của giới nghiên cứu về công trình
Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ.
7. Đóng góp của luận văn
Luận văn có hai đóng góp nhỏ.
Một là, đúc kết bài học hữu ích về việc vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện
thực trong nghiên cứu Truyện Kiều của Lê Đình Kỵ với công trình Truyện
Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du.
Hai là, khẳng định công trình này của Lê Đình Kỵ là một điển hình của
phương pháp đọc lại văn học cổ điển từ lý luận chủ nghĩa hiện thực xã hội
chủ nghĩa, thứ lý luận vốn thịnh hành và có quyền lực diễn giải các hiện
tượng văn học bất kể là hiện tại hay quá khứ lúc bấy giờ ở miền Bắc.
12
Chương 1
VẤN ĐỀ VẬN DỤNG LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC
TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM VÀ TRUYỆN KIỀU
Trước khi bàn về vấn đề vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực trong
nghiên cứu văn học Việt Nam và Truyện Kiều hồi đầu thế kỉ XX, thiết tưởng
cũng nên trình bày rõ về nội hàm của các thuật ngữ mà luận văn hướng đến
thảo luận: Chủ nghĩa hiện thực và các khái niệm liên quan - Chủ nghĩa hiện
thực phê phán, Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa….
“Theo nghĩa hẹp, khái niệm chủ nghĩa hiện thực được dùng để chỉ một
phương pháp nghệ thuật, hay một khuynh hướng, một trào lưu văn học có nội
dung chặt chẽ” [10, tr.54] với các nguyên tắc mỹ học như sau: mô tả cuộc
sống bằng hình tượng và điển hình hóa; thừa nhận và tái hiện chân thực sự tác
động qua lại giữ con người và môi trường sống, tính cách và hoàn cảnh; coi
trọng những chi tiết cụ thể và độ chính xác của chúng trong việc mô tả con
người và cuộc sống, chú ý khách quan hóa những điều được mô tả… “Ngoài
chi tiết chân thực, chủ nghĩa hiện thực còn đòi hỏi một sự tái hiện chân thực
những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình” [45], Mác nhấn
mạnh: “chỉ có thế giới được hiểu biết y như nó tồn tại mới là hiện thực”.
Thuật ngữ, chủ nghĩa hiện thực phê phán, như tên gọi của nó, “nhấn mạnh
khuynh hướng phê phán, tố cáo”, “tinh thần phê phán toàn bộ hệ thống các
quan hệ xã hội, các hiện thực mâu thuẫn giữa chế độ tư sản với các chuẩn
mực nhân tính đúng như nó có trong thực tế”. Còn khái niệm chủ nghĩa hiện
thực xã hội chủ nghĩa được dùng để chỉ phương pháp pháp sáng tác có các
đặc điểm như: lấy “thế giới quan Mác-Lênin làm cơ sở triết học, nguyên lý
tính đảng vô sản làm nguyên tắc chỉ đạo”, chủ trương “miêu tả hiện thực một
cách chân thực lịch sử cụ thể trong quá trình phát triển biện chứng của nó”,
coi việc đấu tranh nhằm khẳng định bằng nghệ thuật những cái mới, cái tích
13
cực trong cuộc sống là nhiệm vụ chủ yếu của sự phản ánh thực tại [10, tr.54].
Ở Việt Nam, càng về sau, lý luận về chủ nghĩa hiện thực được hiểu là chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Trong khuôn khổ luận văn, dưới đây chúng tôi điểm lại đôi nét về việc
vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực vào nghiên cứu văn học sử Việt Nam
giai đoạn trước 1970.
1.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945: khái niệm chủ
nghĩa tả chân
Từ trước năm 1945, lý luận chủ nghĩa hiện thực đã được vận dụng vào
việc phân tích, đánh giá văn học Việt Nam, từ văn học dân gian, cổ-trung đại
đến văn học hiện đại.
Đầu thế kỉ XX, trong đời sống báo chí, sáng tác, phê bình văn học Việt
Nam xuất hiện khái niệm “tả thực”, “tả chân” với ý nghĩa khu biệt với thứ văn
chương ước lệ, khuôn sáo của văn học trung đại. Các tác giả đầu tiên đề cập
đến khái niệm này và vận dụng nó trong phê bình, đánh giá là Thiếu Sơn,
Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Học…
Giới thiệu “Một lối văn mới: Sống chết mặc bay” [50], Phạm Quỳnh đã
có nhận xét: Trong học giới, báo giới ta, chắc ai cũng đã biết tên ông Phạm
Duy Tốn. Ông là một người rất nhiệt thành với văn chương quốc ngữ, và đã
biệt lập ra một lối văn riêng lấy sự tả chân làm cốt. Mỗi bài văn của ông như
một tấm ảnh phản chiếu cái chân tương như hệt. Ông tin rằng phàm văn
chương đã tả được hết cái thực, là tự khắc có cái sức cảm động vô cùng,
không cần phải nghị luận xa xôi. Văn chương ta xưa nay thường lấy sự mập
mờ phảng phất làm hay, càng phiếu diễu bao nhiêu càng huyền diệu bấy nhiêu
nên ít dụng lối tả thực, coi là tầm thường. Nay xét văn học họa học của Thái
Tây, phần nhiều lại trọng lối tả thực hơn là lối phá bút. Quốc văn ta sau này
tất chịu ảnh hưởng của văn Tây nhiều, lối tả thực rồi tất mỗi ngày một thịnh
hành. Như bài văn ông Phạm Duy Tốn sau này cũng gọi là một bài tả thực
14
tuyệt khéo… Văn tả thực mà được như vậy cũng đã khéo thay. Bản báo đăng
bài này mà có lời khen ông Phạm Duy Tốn đã có công với quốc văn”. Ở một
bài viết khác, “Lối tả chân trong văn chương”, Phạm Quỳnh cũng có những
nhận xét tương tự, ông nói: “Văn chương đời nay thường trọng lối tả thực hơn
lối phá bút…” [51] Xuất phát từ quan niệm trọng lối tả thực như vậy, nên điều
lệ của một cuộc thi sáng tác tiểu thuyết trên Nam phong tạp chí năm 1918 đã
yêu cầu: “tiểu thuyết phải làm theo lối châu Âu…. Phải dùng phép tả thực,
không được bịa đặt những chi tiết hoang đường, kỳ quái. Trọng nhất là tả
được cái tâm lý người ta cùng cái tình trạng trong xã hội” [52].
Thiếu Sơn trong Phê bình cảo luận (1933), nhận thấy do ảnh hưởng
của khoa học nên tiểu thuyết coi trọng việc tả thực: “gần đây khắp văn
chương thế giới đâu đâu cũng có cái phong trào tả thực. Mà cái phong trào
này là nguyên lai tự cái tri thức nhân loại nó đã tiến hóa theo khoa học tới một
cái trình độ khác cao. Nhưng tả thực là thế nào? Tả thực là đem những sự mắt
thấy tai nghe cho vào văn chương sách vở. Nhà cổ điển chỉ tả những hiện
tượng đại đồng của tâm giới. Nhà lãng mạn chỉ tả những mối tình cảm mơ
màng của thi nhân. Còn nhà văn học tả thực thì chẳng chịu bỏ sót một cái gì
là không nói đến. Tâm giới cũng tả mà ngoại giới cũng tả…..Trong phái tả
thực đã có người chịu khó trà trộn vào những hạng người lao động thợ
thuyền, lẩn quẩn ở những nơi đầu đường xó chợ, cốt để tìm tòi học hỏi
cho biết cái sinh hoạt của khắp các hạng người trong xã hội… Như ý tôi,
thì tả thực là nên, nhưng phải tả hết cả sự thực, chớ nên nói cái này mà bỏ
cái kia” [56, tr.59-60].
1.1.1. Hải Triều gắn chủ nghĩa tả chân xã hội với giá trị phản ánh, tố
cáo hiện thực, giá trị nhân sinh
Nói về lý luận chủ nghĩa tả chân, không thể không nhắc đến Hải
Triều, người có công đầu trong việc xây dựng nền lý luận phê bình văn
học mác xít ở ta.
15
Trong bài “Sự tiến hóa của văn học và sự tiến hóa của nhân sinh” Hải
Triều đã dùng duy vật biện chứng pháp phê bình cái quan hệ của sự tiến hóa
về văn học và sự tiến hóa về nhân sinh” [67]. Hải Triều quan niệm văn học
quan hệ chặt chẽ với xã hội, văn học là một bộ phận của thượng tầng kiết
thiết, “văn học là cái biểu hiện của nhân sinh, không biểu hiện được nhân sinh
thì không ra văn học”, “nếu nền kinh tế của xã hội biến đổi thì nền văn học
cũng biến đổi theo”. Đứng trên lập trường này, Hải Triều đề cao văn học gắn
với nhân sinh, phê phán thứ: văn học tự nhiên chủ nghĩa, lãng mạn chủ nghĩa,
tượng trưng chủ nghĩa, duy mỹ chủ nghĩa, nghệ thuật thuần túy.
Đối với Hải Triều, văn học có chức năng phô diễn tư tưởng, mà tư
tưởng là cái phản ảnh của vật chất [68]; hoàn cảnh vật chất chi phối sự sáng
tạo văn chương; văn chương là sản phẩm của xã hội, thời đại, “phát nguyên
của nghệ thuật là trong sự sống” [70], “không có nhà văn nào có thể thoát li ra
khỏi sinh hoạt xã hội mà sáng tác văn chương được” [75]. Thời đại biến đổi
thì văn học biến đối theo, muốn cắt nghĩa văn học phải căn cứ vào xã hội,
nhân sinh: “diễn tả cho đúng cái tư tưởng, cái ý chí tình cảm của mỗi giai cấp,
mỗi thời đại trong lịch sử là một cái sứ mệnh tối cao của nhà văn học chân
chính, dẫu ở đời nào cũng thế, ở xứ nào cũng thế” [69].
Hải Triều chủ trương lấy nghệ thuật phụng sự cho nhân sinh: “nghệ
thuật chân chính - theo Hải Triều - là cái nghệ thuật vị nhân sinh” [70]. Ông
tán thành quan điểm của L.Tolstoi cho rằng văn nghệ sĩ phải “chỉ cho loài
người thấy con đường giải thoát khỏi những khốn khổ ngày nay và tìm những
cái mới mẻ hơn”. Nghệ sĩ đích thực là người lấy nhân sinh, dân sinh làm cứu
cánh cho nghệ thuật, là người thuộc về quần chúng nhân dân, “giữa cuộc phân
tranh của xã hội, trước những vấn đề sống còn của thời đại, nhân loại đang
mong mỏi”, nghệ sĩ phải biết diễn dịch nỗi lòng của họ, “làm sao mà những
sự đau thương, mong mỏi, sự buồn giận, sự vui sướng trong tâm khảm họ đều
vẽ lên thành những bức tranh linh hoạt chan chứa tình cảm” [71], diễn tả bằng
những câu văn chân thật, cứng cỏi, mạnh bạo”, “bình dị mà thiết thực” [72].
16
Theo Hải Triều, tập truyện Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan là tác
phẩm đã “mở ra một kỉ nguyên mới cho các tư triều văn nghệ tả thiệt về xã
hội ở nước ta”. Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan có hai đặc điểm: về hình
thức,khuynh hướng về tả thực; về nội dung, khuynh hướng về xã hội. “Hình
thức và nội dung đi đôi với nhau thì tác phẩm mới có giá trị. Xem văn Kép Tư
Bền, chúng ta nhận thấy rõ tác giả đã đứng về mặt tả thực chủ nghĩa
(réalisme). Với những câu văn rất thành thực, chắc chắn, hí hởn, ngộ nghĩnh,
nhiều khi cục cằn thô bỉ nữa, chúng ta phải phục Nguyễn Quân là một nhà kể
chuyện rất thiệt và rất có duyên. Về phương diện tả thực, có thể nói tác giả đã
đạt đến mục đích một phần lớn rồi vậy”. Nghệ thuật tả thực chủ nghĩa, như
Hải Triều yêu cầu, là thứ nghệ thuật vị xã hội đích sinh hoạt”. [73]
Cần phân biệt ở Hải Triều hai loại tả thực chủ nghĩa. Một loại tả thực
chủ nghĩa như Nguyễn Công Hoan và một loại như M.Gorki [74]. Hải Triều
gọi khuynh hướng tả thực của Gorki là chủ nghĩa tả thực xã hội, “cốt ở sự tả
một cách chân thực, rành mạch những thực trạng quá khứ hay hiện tại, làm
thế nào cho sự tả thực ấy có thể đưa quần chúng đến chỗ giác ngộ tranh đấu
để kiến thiết xã hội chủ nghĩa” [73]. Tả thực xã hội hay tả thực xã hội chủ
nghĩa (như sáng tác của Gorki, Lan Khai) trong các diễn giải của Hải Triều
chính là một thuật ngữ chỉ phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa: “văn
chương của giai cấp vô sản là văn chương tả thực xã hội” [75]. Hải Triều
khẳng định: “chủ nghĩa tả thực xã hội luôn luôn thừa nhận mỗi tác phẩm đều
có một khuynh hướng, nhưng chủ nghĩa tả thực xã hội hết sức kiêng kị những
xu hướng chủ quan, độc đoán, cơ giới, những tư tưởng cố định, những tín
điều bất dịch mà tác giả đã vụng về ấn ghép vào câu chuyện… Một nhà văn
khuynh hướng về chủ nghĩa tả thực xã hội chỉ nên phụng sự sự thật, chớ nên
buộc sự thật phải phụng sự mình” [76].
Qua các bài bút chiến, phê bình của Hải Triều, chúng ta có thể rút ra
đặc điểm của mỹ học tả thực chủ nghĩa ở Hải Triều gồm đặc điểm sau: tác
phẩm phải có khuynh hướng tả thực và nội dung xã hội; lấy cuộc đời thực tế,
những điều mắt thấy tai nghe làm chất liệu; quan sát tỉ mỉ những người,
17
những việc ở xung quanh, chú ý miêu tả chi tiết, phơi bày chân thực cảnh đời,
tình đời; phê phán cái hèn mạt, cái xấu xa, thành kiến hủ bại, cái xã hội cũ kỹ;
quan tâm tả cái đau thương sầu khổ của hạng người nghèo khổ, bênh vực giai
cấp cần lao, nhen nhóm lên “một chút tình đối với nhân loại” và giác ngộ
quần chúng đấu tranh đánh đổ “thế giới cũ” (chống lại xã hội thực dân phong
kiến, tố cáo cái ác, cái xấu của xã hội đó, nhằm lật đổ nó), xây dựng xã hội
chủ nghĩa.
Có thể nói, Hải Triều không chỉ là nhà phê bình có lý luận về chủ nghĩa
hiện thực/tả thực xã hội chủ nghĩa, ông tiếp thu tả thực chủ nghĩa của phương
Tây, Liên xô, đồng thời còn là người vận dụng nhất quán lý luận tả thực chủ
nghĩa như một điểm tựa phê bình các hiện tượng, các quan điểm nghệ thuật vị
nghệ thuật, thoát li hiện thực thập niên 30. Cách vận dụng lý luận của Hải Triều,
về đại thể, mang màu sắc thực dụng, chủ yếu hướng tới phục vụ chính trị, cách
mạng. Đây cũng chính là một trong những lý do khiến ông được tôn vinh là nhà
văn chiến sĩ, nhà văn cách mạng, nhà văn tiên phong của nền văn học mới.
1.1.2. Đinh Gia Trinh và vấn đề chi tiết chân thực, phong phú của tiểu
thuyết Pháp
Đinh Gia Trinh là nhà phê bình văn học, khuôn mặt nổi bật của nhóm
trí thức Thanh Nghị. Sự vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực ở trường hợp
Đinh Gia Trinh thể hiện rõ nhất trong các bàn thảo của ông về tiểu thuyết Việt
Nam cận đại.
Trong bài viết “Đọc tiểu thuyết Việt Nam cận đại” đăng trên tạp chí
Thanh Nghị số 26 năm 1942, Đinh Gia Trinh có nhắc đến một tín hiệu khởi
sắc của tiểu thuyết xứ ta: “gần đây trong sự sản xuất tiểu thuyết của xứ ta,
người thức giả đã nhận thấy một ít tác phẩm có giá trị và một vài hoan nghênh
của công chúng” [66]. Tác phẩm có giá trị và gây được húng thú với độc giả
mà Đinh Gia Trinh khen ngợi, chính là thứ tiểu thuyết có khuynh hướng tả
thực, được ông định danh là “tiểu thuyết tả chân” [66].
18
Đặc điểm của tiểu thuyết tả chân được Đinh Gia Trinh mô tả như sau.
Trước hết về chủ thể sáng tác: nhà tiểu thuyết “tìm tài liệu ở đời xung quanh”,
kể về những hoàn cảnh, nhân vật, xã hội trong đó nhà tiểu thuyết và độc giả
sống. Tiểu thuyết tả thực, là tiểu thuyết phản ánh “chân tượng của xã hội”,
được xây dựng trên cơ sở sự thực xung quanh chứ không phải hoàn toàn là
tưởng tượng, “nhân tạo”: “nội dung các tiểu thuyết Việt Nam cận đại cho ta
hiểu được đời sống vật chất và tinh thần xã hội Việt Nam, hay nói ngược lại,
đời sống vật chất và tinh thần của xã hội Việt Nam cận đại khiến ta hiểu được
tính cách nội dung của tiểu thuyết Việt Nam mới” [66]. Như thế, theo Đinh Gia
Trinh, điểm quan trọng nhất của tiểu thuyết tả chân là phải có giá trị hiện thực,
nội dung của nó phải toát lên cái không khí đặc trưng của thời đại bằng các nét
vẽ chân thực, gần gũi. “Tiểu thuyết đựng những nguyện vọng, những phản ánh
của đời sống tinh thần và vật chất của xã hội. Muốn suy xét một dân tộc, một
nhà mỹ học khuyên ta, nên để ý đến nền âm nhạc và lối kiến trúc của nước ấy.
Ta phải thêm vào: nên xét đến văn chương của nước ấy và nhất là môn tiểu
thuyết của nước họ”- Đinh Gia Trinh lưu ý [66]. Về điểm này, Đinh Gia Trinh
đã đặt tiểu thuyết ngang với một tác phẩm lịch sử, và nhà tiểu thuyết như một
sử gia của thời đại. Đọc tiểu thuyết tả chân cũng như đọc lịch sử.
Cũng Đinh Gia Trinh trong bài “Tính cách văn chương Việt Nam trước
thời kỳ Âu hóa” [65] chỉ ra mấy đặc điểm có tính cách phương pháp luận để
chúng ta hiểu thêm phương pháp sáng tác của Truyện Kiều. Theo Đinh Gia
Trinh, ở ta tư duy khoa học rất yếu ớt, tựa như không đáng kể, “Ở nước ta,
khoa học không phát triển mạnh nên lý trí không được hướng thượng, triết
học không năng thay đổi, và văn chương chỉ quanh quẩn với mấy ý tưởng
khuôn mẫu bất di dịch được xã hội thâu nhận đã lâu đời.” [65]. Nhận xét này
của Đinh Gia Trinh giúp ta có thêm cơ sở để phân biệt và đánh giá đúng hơn
tư tưởng định mệnh trong Truyện Kiều. Cũng theo tác giả Đinh Gia Trinh, xã
hội Việt Nam đóng kín, nhà văn xưa không ưa tả cảnh tỉ mỉ, văn chương Việt
19
Nam thiên về sự diễn hoặc ngụ những tư tưởng luân lý và sự tả những niềm
riêng của một người, văn chương Việt Nam thiên về tính cách một "văn
chương của trường hợp" chẳng hạn “Ôn Như viết quyển Cung oán,
Nguyễn Du viết quyển Kim Vân Kiều, là để tả một cách kín đáo chút tâm
sự đau đớn của mình …
Rõ ràng, lập trường và đích đến của Hải Triều khác với Đinh Gia Trinh.
Một đằng đứng trên quan điểm Mác xít, ra sức vận dụng chủ nghĩa Mác vào
thực tiễn Việt Nam, tự nhận lãnh lấy sứ mệnh của một nhà văn tham dự vào
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh cho sự thắng lợi của chủ nghĩa
hiện thực xã hội chủ nghĩa, cho nền văn học mới. Còn một đằng túy thuần túy
bàn về tư duy nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực, tư duy tả chân chứ không
chủ ý khai thác một cách thực dụng vấn đề tả thực vào phục vụ đấu tranh cách
mạng, đánh đổ chế độ phong kiến thực dân; không phải ngẫu nhiên trong lịch
sử lý luận văn học cách mạng, Đinh Gia Trinh là một tên tuổi ít được nhắc
đến như Hải Triều.
1.1.3. Đào Duy Anh, Nguyễn Bách Khoa với lý luận và phương pháp
nghiên cứu phương Tây
Xét riêng trong lĩnh vực Kiều học trước 1945. Có thể xem Phạm
Quỳnh, Đào Duy Anh, Nguyễn Bách Khoa là những tác giả tiêu biểu cho
khuynh hướng tiếp thu lý luận và phương pháp nghiên cứu phương Tây vào
đánh giá, định giá Truyện Kiều.
Mở đầu bài “Truyện Kiều” in trên Nam Phong số 30 (1919), Phạm
Quỳnh cho rằng, văn chương Nôm ở ta vốn nghèo nàn nhưng tình cờ sản xuất
được bộ sách quý, do đó không thể lấy cái “tỉ lệ thường của văn chương
Nôm” mà đánh giá Truyện Kiều, “phải dùng phép phê bình khảo cứu của văn
học Thái Tây mới mong phát biểu được cái đặc sắc, bày tỏ được cái giá trị của
một nền tuyệt tác trong quốc văn Việt Nam” [53]. Dựa theo phương pháp
nghiên cứu phương Tây, Phạm Quỳnh lần lượt xét mấy vấn đề: Cội rễ Truyện
20
Kiều, Lịch sử tác giả, Tâm lí cô Kiều và Văn chương Truyện Kiều. Ngoài
cách tiếp cận tiểu sử học của Sainte-Beuve, điểm đáng lưu ý trong hệ tiêu
chuẩn đánh giá Truyện Kiều của Phạm Quỳnh, là tác giả đã chú ý đến khuynh
hướng tả thực của tác phẩm: “văn chương ta vẫn có tiếng là không biết tả
thực, hay chuộng những hoang đường huyền diệu. Văn chương Truyện Kiều
thời không thế; chỗ nào nên tả thực rõ ra nét bút tả thực, mà vẫn có cái vẻ
trang nghiêm thanh nhã”, như mấy đoạn tả về lầu xanh, tả Kiều đang tắm…
[53]. Tiêu chí miêu tả nhân vật sống động như thật được Phạm Quỳnh đề cao.
Ông viết, theo phê bình văn học của Thái Tây, muốn biết nhà văn có tài
không cần xem xét “những nhân vật mô tả có vẻ linh hoạt như người sống
hiển nhiên không… đọc những bộ tiểu thuyết có tiếng của Thái Tây thường
có cái cảm giác như thế, như người trong truyện là người sống thật, đương
hành động ở trước mặt mình”. Mặc dù không nói đến nghệ thuật điển hình
hóa, nhưng những dòng nhận xét sau đây của Phạm Quỳnh cho thấy ông đề
cao tính cách điển hình của Kiều: “Cụ Tiên Điền ta đặt ra chuyện Thúy Kiều
thật cũng đáng là một tay sáng tạo tuyệt luân, vì cô Kiều đã thành một nhân
vật não nùng ở trong tình giới người nước ta, thành một người bạn bi thu thê
thảm của biết bao nhiêu kẻ bạch mệnh tài tình từ hơn một trăm năm tới giờ và
cho đến muôn đời về sau nữa” [53].
Sau tiểu luận của Phạm Quỳnh, một nghiên cứu công phu đáng chú ý
khác về Truyện Kiều là Khảo luận về Kim Vân Kiều của Đào Duy Anh, cuốn
sách được viết năm 1943. Đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật của
Nguyễn Du, Đào Duy Anh cho thấy ông quan tâm đến sự mô tả chân thực các
tính cách nhân vật: “văn chương Truyện Kiều tả nhiều tình cảnh phức tạp, mà
tả giống hệt, khiến hạng người nào đọc cũng tuồng như nhận được có chỗ
giống với tình cảm của mình ít nhiều… Truyện Kiều là tác phẩm đầu tiên làm
chứng rằng, nước ta có thể sản xuất được một thứ văn học chung cho các
hạng người trong xã hội”. Xét về phương pháp, Đào Duy Anh là một trong
21
những người đầu tiên hồi đầu thế kỉ thực hành so sánh hai văn bản Truyện
Kiều và Kim Vân Kiều truyện, ông tránh được lối bình phẩm thiên về luân lý
đạo đức thường thấy ở các nhà nho (ngoài Đào Duy Anh có thể kể đến Rơnê
Crayxắc với “Truyện Kiều và xã hội Á Đông”…).
Trước 1945, nhà nghiên cứu Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa công
bố nhiều bài viết, công trình về Truyện Kiều như: Triết lý Truyện Kiều (Đông
Tây tuần báo, 1931), Nguyễn Du và Truyện Kiều (Văn mới, 1942), Văn
chương Truyện Kiều (1945). Xuyên suốt những công trình này ta thấy
Nguyễn Bách Khoa đã đứng từ nhiều góc độ để tiếp cận Truyện Kiều, trong
đó có cả sự vận dụng lý luận phương Tây. Bài Triết lý Truyện Kiều đứng từ
góc độ Phật giáo để soi sáng nội dung tương tưởng chủ đạo và số phận của
nhân vật chính. Nhưng thành công đáng chú ý nhất của Nguyễn Bách Khoa
chính là ông đã vận dụng “phương pháp khoa học, khí cụ khoa học” để khám
phá cái đẹp, chất thơ của Truyện Kiều. Trong Nguyễn Du và Truyện Kiều, Văn
chương Truyện Kiều ông phê phán các cách đọc truyền thống, không đưa
người ta đến chân tướng nghệ thuật của nó, và đề xuất cách đọc mới: “Cái đẹp
hay chất thơ của Truyện Kiều, ta cũng chỉ có thể thương thức được bằng
phương pháp khoa học, bằng khí cụ khoa học” [38]. Phương pháp khoa học
mà Nguyễn Bách Khoa nói đến ở đây chính là phân tâm học… Nguyễn Bách
Khoa khẳng định: “các nhà tâm lý học hiện đại đều công nhận, cá tính đặc
xuất của một người không ở cõi hữu thức mà chính là ở tiềm thức của người
ấy… Tiềm thức là cốt tủy của con người”, nghệ sĩ có chỗ hơn người là khi
sáng tạo họ “đập vỡ tan tành cái cùm xích của bản ngã hữu thức”, họ chỉ
“sống bằng tiềm thức, bằng bản năng”, bổn phận của nhà phê bình không phải
chỉ “đi tìm tâm sự nhà văn trong tác phẩm văn chương” mà phải tìm hiểu đến
cá tính nhà văn - “vì cái này mới là tất cả nhà văn, cái này mới thành thực,
mới không bị che đậy hoặc xuyên tạc. Nó là cái phần sâu thẳm nhất, tiềm tàng
nhất, mạnh mẽ nhất”, “tác phẩm là một khát vọng bị dồn ép được thể hiện ra
22
của người nghệ sĩ”. Nhờ phương pháp khoa học mới này, Nguyễn Bách Khoa
đã chỉ ra được cái vô thức, cái cốt tủy, cái bản sắc làm nên thiên tài Nguyễn
Du và kiệt tác Truyện Kiều, đem lại cho độc giả những trải nghiệm mới về tác
giả, tác phẩm trước đấy chưa thấy, thêm nữa phương pháp của Nguyễn Bách
Khoa đã hạn chế được lối bình phẩm chủ quan, tùy tiện. Đôi dòng sau của tác
giả cho thấy đầy đủ đóng góp của ông: “bằng phương pháp khoa học tôi đã
tìm đến nguồn gốc sự cấu tạo ra cá tính Nguyễn Du và do đó khám phá ra
được huyết thống, thời đại cùng đẳng cấp Nguyễn Du. Tôi đã thiết định mối
liên lạc giữa ông và tác phẩm văn chương của ông, không phải cái liên lạc hờ
hững ở một khía cạnh (tâm sự), mà cái liên lạc toàn khối ở các mặt, các góc
cạnh, ở cả trung tâm điểm. Mối liên lạc ấy đã chứng thực rằng văn chương chỉ
là phản ảnh của con người và con người chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh…”
Tuy nhiên, công bằng phải thấy rằng bên cạnh những đóng góp mới mẻ, cũng
có nhiều chỗ tác giả diễn giải còn gượng ép.
1.2. Giai đoạn sau 1945 đến năm 1970 (trước khi Lê Đình Kỵ công bố
cuốn sách)
Sau 1945, xu hướng vận dụng lý luận phản ánh/chủ nghĩa hiện thực vào
nghiên cứu Truyện Kiều bộc lộ rất rõ nét. Có thể coi đây là đặc điểm nổi bật,
xét về mặt phương pháp tiếp cận Truyện Kiều, ở miền Bắc, trong sự đối sánh
với miền Nam - khu vực thịnh hành của các phương pháp như phê bình hiện
sinh chủ nghĩa, hiện tượng luận, phân tâm học…
1.2.1. Hoài Thanh (1949) trong “Quyền sống của con người trong Truyện
Kiều” tiếp tục vận dụng quan niệm phản ánh hiện thực nhưng chưa có ý
thức về chủ nghĩa hiện thực
Công trình đáng kể đầu tiên trong giai đoạn sau 1945 vận dụng lý luận
chủ nghĩa hiện thực xem xét Truyện Kiều là Quyền sống của con người trong
Truyện Kiều (Hội Văn hóa Việt Nam xuất bản, 1949) của Hoài Thanh.
23
Hoài Thanh viết Quyền sống của con người trong Truyện Kiều [57]
xuất phát từ tâm thế của thời đại - “kiểm điểm” lại di sản văn học quá khứ
theo hướng gạn đục khơi trong. Hoài Thanh băn khoăn địa vị của Nguyễn Du
trong kháng chiến và cách mạng chưa minh bạch, trong khi: “thời đại của
chúng ta có những điều kiện để định ngôi thứ cho Truyện Kiều…”[57] và
người cách mạng có thể mời Nguyễn Du vào mặt trận Liên Việt. Lập trường
của Hoài Thanh là lập trường mác xít, phương pháp chủ yếu của ông là xã hội
học. Điều này thể hiện rõ trong những bàn về của ông về thái độ của Nguyễn
Du đối với quyền sống con người. Trong khi phân tích nhân vật, Hoài Thanh
cho thấy ông đã tiếp nhận lý luận chủ nghĩa hiện thực để xem xét mối tương
quan giữa tính cách và hoàn cảnh, lý giải mối quan hệ tác động giữ con người
và môi trường sống thời phong kiến. Vấn đề trung tâm trong công trình của
Hoài Thanh là vấn đề quyền sống của con người, cũng tức là vấn con người
và hoàn cảnh sống. Hoài Thanh phân tích sâu sắc môi trường sống phong kiến
thời suy, ông cũng chỉ rõ số thân phận con người, quyền sống của con người
trong hoàn cảnh đó. Ông viết: Kiều là một người rất phiền cho trật tự phong
kiến; trật tự phong kiến, nhất là thời suy, là một thứ trật tự chà đạp lên con
người, không thừa nhận quyền sống của con người, chế độ ấy rất sợ tài; Kiều
là một người thực, sống thực trong tâm trí Nguyễn Du, cho đến khi Kiều chết,
cái chết của Kiều cũng là cái chết của một người đã sống thực, “thân thế trầm
luân của Thúy Kiều là một lời tố cáo những gì nhơ nhớp độc ác trong trật tự
phong kiến”, “Kiều là tiếng ta thán của Nguyễn Du và của bao nhiêu người
ngột thở trong cái khuôn phong kiến”. Đòi hỏi của Hoài Thanh là phải có ý
thức phản phong mạnh mẽ, vì lẽ này ông phê phán Nguyễn Du đã nửa vởi
không theo đuổi đến cùng khuynh hướng phản phong, không dám ước mơ
triệt để (thể hiện qua nhân vật Từ Hải)… Viết Quyền sống của con người
trong Truyện Kiều, Hoài Thanh dụng tâm dùng Truyện Kiều như một khí cụ
đấu tranh giai cấp. Chiến lược phê bình Truyện Kiều của Hoài Thanh, xét cho
cùng là nhằm phục vụ cho cuộc kháng chiến phản đế phản phong (mục đích
24
chính trị ẩn sau vấn đề phê bình văn học). Đây chính là nguyên nhân chính đưa
ông đến tư tưởng muốn mời Nguyễn Du vào mặt trận Liên Việt: “chúng ta chỉ
biết chắc một điều là trong mặt trận dân tộc thống nhất phải có con người ấy,
chúng ta mời Nguyễn Du vào Hội Liên Việt … ở một nơi nào đó trong tâm trí
chúng ta ít nhiều Nguyễn Du vẫn còn sống. Phê bình Nguyễn Du tức là chúng ta
gián tiếp phê bình chúng ta vậy. Vì lẽ đó, cho nên mặc dù giữa lúc này công việc
kháng chiến bề bộn cũng nên để một ít thì giờ để phê bình Nguyễn Du” [57].
1.2.2. Trương Tửu và Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du (1956) vẫn chỉ
vận dụng quan niệm về phản ánh các phương diện hiện thực nhất là đấu
tranh giai cấp
Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du là công trình tiêu biểu cho lối tiếp
cận duy vật sử quan mác xít. Ngay Lời nói đầu sách, Trương Tửu đã trích dẫn
ý kiến của Mao Trạch Đông và xem đó là “ý kiến căn bản soi đường” cho
người nghiên cứu phê bình văn học. Có thể xem Truyện Kiều và thời đại
Nguyễn Du là công trình đánh dấu sự đọc lại, nghiên cứu lại Truyện Kiều
“dưới ánh sáng của tư tưởng văn nghệ Marx-Lenin”. Trương Tửu thành thực:
“Hơn mười năm trước tôi đã viết và cho xuất bản cuốn Nguyễn Du và Truyện
Kiều (1943) và cuốn Văn chương Truyện Kiều (1944)…. Trong hai tập tiểu
luận này, tôi đã cố gắng phân tích và phê phán Truyện Kiều theo quan điểm
đấu tranh giai cấp. Nhưng vì hồi ấy trình độ lý luận còn ấu trĩ, lập trường
chính trị còn lệch lạc, tôi đã áp dụng phương pháp phê bình văn học mác xít
một cách còn phiến diện, gò ép, máy móc, nên đã có những nhận định sai lầm,
căn bản khi tìm hiểu và phê phán tác phẩm của Nguyễn Du… Từ sau cách
mạng tháng Tám, được học tập thêm lý luận văn nghệ Marx-Lenin- Mao
Trạch Đông… tôi đã có dịp chỉnh lí lại những điều ấy”. Như vậy là, sau
1945, Trương Tửu ngả hẳn sang phương pháp xã hội học mác xít, nghĩa là
ông đã không chọn con đường khoa học riêng như trước, để nhập vào bè
diễn ngôn chung của thời đại, sử dụng khung lý thuyết chung của giới phê
bình mác xít miền Bắc.
25
Trên cơ sở lý luận văn nghệ mác xít, Trương Tửu cắt nghĩa lại, giải
thích khác về sức hấp dẫn của Truyện Kiều. Theo ông sở dĩ nhiều người nông
dân thích Truyện Kiều vì “tác giả Nguyễn Du đứng về phía các tầng lớp nhân
dân chống phong kiến ở đương thời, đã phản ảnh trung thành và ca tụng nhiệt
liệt một cuộc khởi nghĩa vĩ đại nhất của nông dân Việt Nam trong lịch sử -
cuộc khởi nghĩa Tây Sơn với tất cả ưu và nhược điểm của nó”. Khác với cách
tiếp cận phân tâm học như trước 1945, giờ đây Trương Tửu thấy rằng “phê
bình văn học là một phương diện của đấu tranh giai cấp trên mặt trận ý thức
hệ”. Cũng vì thế ông cho rằng, “toàn bộ đời sống ý thức của Nguyễn Du hình
thành song song với toàn bộ quá trình thành bại của phong trào Tây Sơn”,
Nguyễn Du đã phản ánh vào tác phẩm một vài cục diện cốt yếu của phong
trào này, - theo Trương Tửu - “nếu không nghiên cứu Nguyễn Du như một
hiện tượng tâm lý phản ánh phong trào Tây Sơn thì sự thành công bền bỉ của
Truyện Kiều trong nông dân Việt Nam là một điều bí ẩn không giải thích
được”. Rõ ràng là dù cách đặt vấn đề khác nhau, nhưng nội dung đấu tranh
giai cấp phản ánh trong tác phẩm của Nguyễn Du đều là mối quan tâm diễn
dịch hàng đầu của Trương Tửu và Hoài Thanh khi phê bình.
1.2.3. Các giáo trình lý luận văn học biên soạn theo lý luận Liên Xô về các
phương pháp sáng tác: chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa
hiện thực, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa được giới thiệu ở Việt Nam
Sau 1954, nhất là từ những năm 1960, việc du nhập lý luận văn học từ
Liên Xô và một phần lý luận văn học từ Trung Quốc (vẫn là chịu ảnh hưởng
của lý luận Liên Xô), khiến lý luận chủ nghĩa hiện thực đầy đủ, hệ thống hơn
so với lý luận trước cách mạng. Về sách có thể kể đến Bàn về văn học nghệ
thuật (1955) của Mao Trạch Đông do Nam Mộc dịch, Hình tượng nghệ thuật
(1961) của A.A.Raduvin, A.A. Bagienova, bộ Nguyên lý mỹ học Mác - Lê nin
(2 tập, 1960, 1961) do Hoàng Xuân Nhị dịch, Phê phán những khuyh hướng
chủ yếu trong nghệ thuật và mĩ học phản động tư sản hiện đại (1962) của
26
P.S.Torophimov, Nguyên lý lý luận văn học (1962) của L.I.Timofeev do Lê
Đình Kỵ, Cao Xuân Hạo, Bùi Khánh Thế, Nguyễn Hải Hà, Minh Hải, Nhữ
Thành dịch… Về bài báo, có thể kể đến “Những quan điểm mỹ học của
C.Mác, Ph. Ăng - ghen (1960), “Vấn đề điển hình và vấn đề thể hiện tính cách
con người trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa (1961), “Những đặc điểm
quan trọng của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa” (1964),… ngoài ra còn rất
nhiều sách bàn về kinh nghiệm sáng tác của các nhà văn nước ngoài
(Maiakopxki, Erenbua, Lão Xá, Mao Thuẫn, Polevoi…).
Điều đáng nói là, tính đến những năm 60, vấn đề phương pháp sáng tác
văn học nghệ thuật đã được quan tâm dịch, giới thiệu và nghiên cứu, giảng
dạy ở ta. Cuốn C.Mác, F.Ăng-ghen Về văn học nghệ thuật do nhà xuất bản Sự
thật ấn hành năm 1958, giới thiệu những ý kiến của Mác và Ăng ghen về văn
học nghệ thuật; trong đó dành cả Chương VII - Đấu tranh cho chủ nghĩa hiện
thực, giới thiệu vấn đề chủ nghĩa hiện thực của Ban dắc, chủ nghĩa hiện thực
Anh, Đức… Cuốn Mác, Ăng-ghen, Lê nin và Văn học, nghệ thuật của giăng
Phơ-rê-vin (Nxb. Sự thật) năm 1961 cũng nằm trong mạch chung đó, đúc kết
một số vấn đề về phương pháp hiện thực phê phán, hiện thực xã hội chủ
nghĩa. Bộ Nguyên lý lý luận văn học gồm 2 tập giới thiệu rất kĩ lưỡng một số
vấn đề về phương pháp sáng tác, kiểu sáng tác, nhất là phương pháp hiện thực
chủ nghĩa được mô tả nhiều chiều. Riêng về phương pháp hiện thực xã hội
chủ nghĩa đến giai đoạn này đã giới thiệu tương đối hệ thống: ngoài các công
trình dịch thuật, các giáo trình lý luận văn học ở bậc đại học cũng tập trung
luận giải phương pháp này. Có thể kể đến như bộ Những nguyên lý về lý luận
văn học của Đại học Tổng hợp gồm 4 tập, trong đó tập 4 biên soạn về Các
phương pháp nghệ thuật (1962) do Lê Đình Kỵ thực hiện; bộ Cơ sở lý luận
văn học/Nguyên lý văn học (4 tập, 1965) do Tổ bộ môn Lý luận văn học các
trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Đại học Tổng hợp biên soạn. Ngoài phần
nguyên lý chung, tác phẩm, thể loại văn học, bộ sách dành riêng một tập bàn
27
về phương pháp sáng tác và trào lưu văn học do Lê Đình Kỵ (các nội dung:
chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực) và Nguyễn Văn
Hạnh viết. Các giáo trình như Sơ thảo nguyên lý văn học (1958) của Nguyễn
Lương Ngọc đều dành riêng các chương bàn về vấn đề phản ánh hiện thực của
văn học, hình tượng điển hình và vấn đề điển hình hóa nhân vật… Bên cạnh bộ
giáo trình do Lê Đình Kỵ tham gia biên soạn phần phương pháp sáng tác, cùng
cần kể đến cuốn Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật (196) của
Hồng Chương, giới thiệu sự hình thành của các phương pháp sáng tác qua các
thời kỳ lịch sử và những đặc điểm của các phương pháp sáng tác đó…
Xuất phát từ quan niệm về sự tiến bộ của văn học cùng sự độc tôn
phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa, con đường sáng tác và nghiên cứu
văn học theo hướng hiện thực chủ nghĩa ở Việt Nam thời hiện đại có thể hình
dung, gần như là một con đường thẳng, liên tục và tất yếu” với ba giai đoạn
chính: đi từ nghiên cứu về chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa hiện thực phê phán
đến khẳng định, đề cao chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Khái niệm chủ
nghĩa hiện thực ở đây được hiểu là một phương pháp nghệ thuật, một khuynh
hướng hay trào lưu văn học mô tả cuộc sống trung thành với bản chất cuộc
sống và bằng phương pháp điển hình hóa các sự kiện, nhân vật; quan tâm lý
giải mối quan hệ tác động qua lại giữa con người, tính cách và hoàn cảnh, coi
trọng các chi tiết cụ thể…Các nguyên tắc mỹ học cơ bản của chủ nghĩa hiện
thực phê phán cơ bản giống như như chủ nghĩa hiện thực, song có điểm khác
với chủ nghĩa hiện thực ở chỗ, nó chú trọng phân tích phê phán, tố cáo trong
cảm thụ và mô tả thực tại. Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa được các nhà
lý luận văn học Mác xít mô tả là một phương pháp tiến bộ, ra đời và phát triển
gắn liền với lý tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa, với hệ tư tưởng
Mác-Lenin của giai cấp vô sản. Có thể nói, lý luận chủ nghĩa hiện thực xã hội
chủ nghĩa như một sự tiếp nối của lý luận chủ nghĩa hiện thực ở chế độ xã hội
xã hội chủ nghĩa. Đối với chế độ xã hội phong kiến hay thực dân phong kiến,
28
các nhà lý luận mác xít khuyến khích đấu tranh phê phán, bóc trần cái xấu, cái
ác của hiện thực xã hội (mục đích chính trị khá lộ liễu trong chủ trương này:
phải làm cách mạng lật đổ các chế độ đó). Nhưng đối với hiện thực chế độ xã
hội chủ nghĩa, lý luận chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa cho rằng nhiệm
vụ chủ yếu của phản ánh thực tại là khẳng định bằng nghệ thuật những mặt
tích cực, đi lên, tương lai tốt đẹp của xã hội xã hội.
Về điểm này, trong bài “Thực tại, cái thực và vấn đề chủ nghĩa hiện
thực trong văn học Việt Nam trung cận đại”, Trần Đình Hượu đã có những
đánh giá mang tổng quát về một xu hướng nghiên cứu văn học như sau:
“Những vấn đề liên quan đến chủ nghĩa hiện thực - trong những năm 30 gọi là
chủ nghĩa tả chân - mới đặt ra trong giới phê bình và nghiên cứu văn học Việt
Nam. Lúc đầu vấn đề đó chỉ liên quan đến văn học hiện đại. Từ những năm
50, vấn đề chủ nghĩa hiện thực, tính hiện thực mới thành sự quan tâm hàng
đầu của các nhà nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam trung cận đại. Mọi
người đi tìm sự hiện diện của chủ nghĩa hiện thực, những khuynh hướng,
những yếu tố hiện thực. Lý do của hoat động tìm kiếm công phu đó là một
nhận thức về con đường phát triển của văn học: chủ nghĩa hiện thực là một
quy luật, văn học bất cứ dân tộc nào, sớm hay muộn cũng sẽ đi tới đó. Một
nền văn học đã trưởng đến trình độ nhất định tất phải có, không cả chủ nghĩa
thì cũng là những hình thức chưa trọn vẹn: những khuynh hướng, những yếu
tố hiện thực. Sự tiến bộ của văn học về sau, chỉ có thể bắt nguồn từ những
khuynh hướng, yếu tố đó.” (tr.11).
Con đường nghiên cứu của Lê Đình Kỵ tất nhiên cũng nằm trong xu
hướng và nhận thức chung của thời đại, chứ không hoàn toàn là một hướng đi
riêng lẻ.
Thực vậy, việc dịch thuật, giới thiệu lý luận văn học Liên Xô ở miền
Bắc ngày càng phong phú. Đến thập niên 60, lý luận về chủ nghĩa hiện thực
xã hội chủ nghĩa được hiểu như một phương pháp sáng tác đã giới thiệu tương
29
đối hoàn chỉnh, có tính hệ thống hơn nhiều so với lý luận trước 1945 và trước
1954. Cụ thể: trước đây, giới phê bình chỉ nói tả chân xã hội, còn bây giờ,
người ta bàn về quan hệ thế giới quan và phương pháp sáng tác, về lý luận
điển hình hóa, nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, sự chân thực của
chi tiết… chính nhờ thế mà Lê Đình Kỵ có chỗ dựa lý luận để triển khai công
trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du mà nội dung của nó
so với các cách thực hành nghiên cứu trước, rõ ràng là có tính lý luận hơn
trước và có phương pháp luận cụ thể.
1.2.4. Các bài viết thể nghiệm của Lê Đình Kỵ những năm 1960 về Truyện Kiều
Không phải đến năm 1970, Lê Đình Kỵ mới vận dụng lý luận chủ
nghĩa hiện thực vào nghiên cứu Truyện Kiều. Từ những năm 60 ông đã có
những thể nghiệm bước đầu về việc xem xét phương pháp sáng tác của
Nguyễn Du qua Truyện Kiều.
Năm 1963 Lê Đình Đình Kỵ cho in bài “Bước đầu tìm hiểu phương
pháp sáng tác Truyện Kiều”. Mở đầu nhà nghiên cứu này khẳng định và
chứng minh tư tưởng định mệnh bao quát và chi phối toàn bộ câu chuyện,
đồng thời cũng chỉ ra sự xung đột giữa lý tưởng thẩm mỹ, thế giới quan và
thiên kiến của thời đại, môi trường sống. Điểm đáng chú ý trong lý giải của
Lê Đình Kỵ ở chỗ, ông cho rằng mặc dù Nguyễn Du tỏ ra tin tưởng vào định
mệnh, song “ý nghĩa khách quan của Truyện Kiều đã làm sụp đổ những mưu
toan giải thích chủ quan của tác giả dựa vào tư tưởng duy tâm định mệnh”
(tr.33), thiên tài của Nguyễn Du đã “khiến cho câu chuyện có nhiều yếu tố
thần bí mà vẫn mang được ý nghĩa sâu xa của cuộc đời” (tr33).
Qua phân tích sơ bộ tâm quá trình lý nhân vật, chi tiết hiện thực chủ
nghĩa, biện pháp ước lệ, nhân tố thần linh, yếu tố ngẫu nhiên, Lê Đình Kỵ có
mấy nhận xét quan trọng: “nếu Nguyễn Du đã tiến gần đến chủ nghĩa hiện
thực thông qua những chi tiết hiện thực chủ nghĩa sinh động về ngoại hình để
mô tả các nhân vật Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà từ bên trong, thì trong sự
30
phác họa chân dung một số nhân vật chính nổi bật lên là bút pháp ước lệ, cách
điệu (nhan sác Thúy Vân, Thúy Kiều, tướng mạo Từ Hải)”, “ý nghĩa khái
quát thật là rạng rỡ nhưng mặt cá thể hóa những câu thơ vẫn tài tình”. Từ đây,
Lê Đình Kỵ đã có những kết luận đáng chú ý. Theo ông, “Do Truyện Kiều
chịu ảnh hưởng trực tiếp của các truyền thống văn học dân gian, các truyện
Nôm khuyết danh và có nội dung xã hội tâm lý khái quát, chân thực, sinh
động, chúng tôi đi đến kết luận có tính chất giả thuyết này: phương pháp của
Truyện Kiều nằm giữa phong cách văn học dân gian và chủ nghĩa hiện thực”,
“Truyện Kiều chưa phải là hiện thực chủ nghĩa” [17].
Nhân kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du (1965), Lê Đình Kỵ công
bố tiểu luận rất công phu “Quan điểm đạo đức - thẩm mỹ của Nguyễn Du”
(Qua nhân vật Thúy Kiều) [19]. Nội dung của bài viết này, sau tiếp tục được
phát triển sâu rộng hơn thành một vấn đề trong công trình Truyện Kiều và chủ
nghĩa hiện thực của Nguyễn Du. Ở đây, Lê Đình Kỳ có một vài nhận xét cho
thấy phương pháp sáng tác trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đi gần tới chủ
nghĩa hiện thực: “Qua thân thế Thúy Kiều, Nguyễn Du không chỉ bắt gặp tâm
sự của mình, mà trước hết là đã tìm thấy hình ảnh của cuộc đời trước mắt, của
vận mệnh con người…”, tâm sự của Nguyễn Du trở thành giá trị thẩm mỹ khi
nó “gắn liền với vấn đề chung của thời đại, của nhân dân mình”. Tiếp thu Kim
Vân Kiều truyện, Nguyễn Du không minh họa giản đơn cho các nguyên lý đạo
đức có sẵn mà nhào nặn nhân vật của mình bằng chất liệu của chính cuộc đời,
bằng chính những điều trông thấy, “Thúy Kiều hấp dẫn Nguyễn Du trước hết
vì Kiều là con người của cuộc đời thực”, “Lý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Du
cắm sâu vào đời sống thực”, “Truyện Kiều đã biện hộ cho quyền sống của
người phụ nữ và đã đạt tới chiều sâu của sự khái quát chưa từng thấy trong
văn học thời phong kiến”, “Truyện Kiều có ý nghĩa hiện thực sâu sắc…” [17].
Ngoài hai bài viết kể trên, trong thập niên 60, Lê Đình Kỵ cũng có một
số nghiên cứu khác như “Nhân vật Truyện Kiều”. Ở đó ông bàn về các nhân
31
vật Hoạn Thư, Thúc Sinh, Kim Trọng, Từ Hải, Thúy Kiều từ quan điểm điển
hình hóa nhân. Đến năm 1970, nội dung của tiểu luận này được sửa chữa, bổ
sung để thành một nội dung trong Chương III (phần A) của công trình Truyện
Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du. Ngoài các bài viết, thì trong
không ít trang sách của bộ giáo trình Cơ sở lý luận văn học do Lê Đình Kỵ
tham gia biên soạn hoặc đảm nhận chính, ta bắt những phân tích ngắn gọn
Truyện Kiều để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận hiện thực chủ nghĩa.
Tựu trung, trước 1970, về Nguyễn Du đã có nhiều nghiên cứu “bước
đệm”. Mối tương quan giữa Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực tức là vấn đề
phương pháp sáng tác của Nguyễn Du, là một đề tài được Lê Đình Kỵ quan
tâm theo đuổi bền bỉ. Công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của
Nguyễn Du vừa có tính lý luận, ở chỗ nó đúc kết lại một số nguyên tắc mỹ
học của chủ nghĩa hiện thực, đóng góp vào việc làm sáng tỏ vấn đề phương
pháp sáng tác đang còn mới mẻ, vừa là sự ứng dụng lý luận chủ nghĩa hiện
thực đã được Lê Đình Kỵ giới thiệu, trình bày trong các giáo trình, vào soi
sáng tác phẩm lớn nhất của nền văn học dân tộc.
32
Tiểu kết chương 1
Lý luận về chủ nghĩa hiện thực được du nhập và vận dụng vào nghiên
vào nghiên cứu văn học sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Trước 1945, chủ
nghĩa hiện thực xuất hiện dưới tên gọi chủ nghĩa tả chân hay xu hướng tả
thực. Tiêu biểu cho sự thực hành phê bình văn học dựa trên quan điểm của
chủ nghĩa tả chân có thể kể đến Phạm Quỳnh, Thiếu Sơn, Hải Triều, Đinh Gia
Trinh… Riêng trong lĩnh vực Kiều học, các công trình của Đào Duy Anh,
Nguyễn Bách Khoa… có thể xem là đại diện cho khuynh hướng hiện đại hóa
cách đọc Truyện Kiều. Sau năm 1945, cùng với sự giới thiệu ngày càng phong
phú và có hệ thống về lý luận phản ánh/chủ nghĩa hiện thực, các nghiên cứu
về Truyện Kiều từ lý luận chủ nghĩa hiện thực đã có nhiều thành tựu mới. Bên
cạnh nghiên cứu của Hoài Thanh, Trương Tửu,.. phải kể đến những đóng góp
của Lê Đình Kỵ. Ngay từ giữa thập niên 60 Lê Đình Kỵ đã có những thể
nghiệm đọc Truyện Kiều từ phương pháp sáng tác. Tuy vậy, phản đến thập
niên 70, sự vận dụng lý luận về phương pháp chủ nghĩa hiện thực ở Lê Đình
Kỵ, vào nghiên cứu Truyện Kiều mới nhuần nhuyễn, có thành tựu và gây
được chú ý.
33
Chương 2
NỘI DUNG CÔNG TRÌNH
“TRUYỆN KIỀU VÀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC CỦA NGUYỄN DU”
2.1. Giới thiệu về Lê Đình Kỵ
Dịch giả, nhà lý luận và phê bình văn học Lê Đình Kỵ sinh năm 1923
tại xã Điện Bàn, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Theo lời tự thuật của Lê
Đình Kỵ, cha ông là nông dân, có học qua chữ Nho, mẹ tần tảo vất vả. Tuổi
thơ của Lê Đình Kỵ khá thiệt thòi vì trong nhà không có sách vở gì. Lê Đình
Kỵ học tiểu học ở Huế, trung học ở Sài Gòn [48; tr.9].
Trước năm 1954 ông tham gia cách mạng; sau đó làm giáo viên dạy
văn học. Năm 1955 ông tập kết ra Bắc, giảng dạy trung học phổ thông ở Hà
Nội rồi Thái Nguyên. Từ năm 1958 Lê Đình Kỵ được mời giảng dạy bộ môn
Lý luận văn học tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội) [37]. Sau năm 1975, ông là giảng viên
trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP. Hồ Chí Minh cho đến lúc
nghỉ hưu. Năm 1984, Lê Đình Kỵ được phong hàm Giáo sư, năm 1988 được
trao tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân; Giải thưởng Nhà nước về văn học
nghệ thuật năm 2001.
Là người thành thạo tiếng Pháp, tiếng Nga, dịch giả Lê Đình Kỵ có
nhiều đóng góp quan trọng ngay từ giai đoạn đầu xây dựng ngành lý luận văn
học mác xít ở bậc Đại học.
Như ta biết, hệ thống lý luận văn học thịnh hành ở miền Bắc Việt Nam
thập niên 50 - 70 chủ yếu được du nhập từ Liên xô và Trung Quốc. Về mặt
này, không thể không nhắc đến Lê Đình Kỵ trong vai trò chủ biên dịch bộ
sách nổi tiếng Nguyên lý lý luận văn học của L.Timofeev (2 tập), xuất bản
năm 1960. Bộ sách này được giới đại học tham khảo rộng rãi, có ảnh hưởng
tới cách tư duy của nhiều thế hệ nghiên cứu văn học. Lê Đình Kỵ cũng là tác
giả của cuốn giáo trình Các phương pháp nghệ thuật - tức tập 4 (1962) của bộ
34
giáo trình Cơ sở lý luận văn học văn học được giảng dạy ở Đại học Tổng hợp
Hà Nội. Ngoài ra, ông còn tham gia biên soạn nội dung phương pháp sáng tác
trong bộ Cơ sở lý luận văn học do các giảng viên Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội chủ trì. Có thể nói, Lê Đình Kỵ là một trong những chuyên gia về
phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật.
Năm 1983, Lê Đình Kỵ còn đảm nhận trách nhiệm biên soạn tri thức về
lịch sử hình thành, phát triển và nội dung cơ bản của đường lối văn nghệ của
Đảng Cộng sản Việt Nam vào giáo trình lý luận văn học, giảng dạy chính
thức ở bậc đại học.
Ngoài đóng góp trong việc du nhập hệ tri thức mỹ học, lý luận văn học
của Liên xô vào Việt Nam, Lê Đình Kỵ còn là tác giả của nhiều công trình
nghiên cứu văn học cổ điển và hiện đại gây được chú ý trong giới nghiên cứu
và giảng dạy văn học, như các nghiên cứu về Truyện Kiều, Tố Hữu, văn nghệ
thời Mỹ ngụy, Thơ mới….
Các công trình của Lê Đình Kỵ gồm có: Phương pháp nghệ thuật
(1962, Nxb. Giáo dục), Đường vào thơ (1969, Nxb. Giáo dục), Truyền Kiều
và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du (1970, Nxb. Khoa học xã hội), Cơ sở
lý luận văn học, tập 4 (1971, Nxb. Giáo dục), Sáng mắt sáng lòng (1978, Nxb.
Giáo dục), Thơ Tố Hữu (1979, Nxb. Đại học), Cơ sở lý luận văn học, tập 5
(1984, Nxb. Đại học), Tìm hiểu văn học (1984, Nxb.TP. Hồ Chí Minh),
Nguyên lý văn học (1986, Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh),
Phương pháp sáng tác (1986, Nxb.TP. Hồ Chí Minh), Nguyên lý văn học
(1986, Trường), Nhìn lại tư tưởng văn nghệ thời Mỹ ngụy (1988, Nxb.TP. Hồ
Chí Minh), Hiểu đúng đắn Truyện Kiều (1988, Nxb. Đồng Tháp), Thơ mới,
những bước thăng trầm (1988, Nxb.TP. Hồ Chí Minh), Thơ với Xuân Diệu,
Chế Lan Viên, Hoài Thanh (1988, Nxb. Cửu Long), Trên đường văn học (2
tập, 1995, Nxb. Văn học), Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt
Nam (1998, Nxb. Giáo dục)…
Trên đại thể, có thể thấy, Lê Đình Kỵ là một nhà nghiên cứu xã hội học
văn học mác xít. Ông đi theo cách mạng, phổ biến quan điểm mác xít trong
35
dịch thuật lý luận văn học, nghiên cứu, giảng dạy văn học; đồng thời Lê Đình
Kỵ cũng là người nhiệt tình đấu tranh bảo vệ quan điểm mác xít - lê nin nít
trong văn nghệ, tích cực trong đấu tranh phê phán quan điểm văn nghệ của
miền Nam Việt Nam 1954 - 1975. Mặc dù trước sau theo lập trường mác xít,
nhưng xét kỹ sự vận dụng, diễn giải của Lê Đình Kỵ trong nghiên cứu văn
học, dễ thấy ông có nhiều quan điểm đi trước và mềm mại hơn đối với không
ít đồng nghiệp đương thời.
2.2. Chủ nghĩa hiện thực và vấn đề phản ánh hiện thực
Trên thế giới, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực được đặt ra từ thế kỉ XIX.
Ở Việt Nam, phải đến những năm 20, 30 của thế kỉ XX, vấn đề chủ nghĩa
hiện thực mới được đề cập, và ban đầu nó được bàn đến dưới cái tên chủ
nghĩa tả thực và phải đến thập niên 50, lý luận về chủ nghĩa hiện thực mới
được thảo luận rộng rãi trong các sinh hoạt học thuật, các nghiên cứu ứng
dụng vào lĩnh vực lịch sử văn học...
Từ điển thuật ngữ văn học do nhóm Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi chủ biên giải thích thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực theo hai nghĩa.
Nghĩa rộng: dùng để xác định quan hệ giữa tác phẩm văn học đối với hiện
thực, với ý nghĩa này, khái niệm chủ nghĩa hiện thực gần như đồng nghĩa với
khái niệm sự thật đời sống, bởi tác phẩm nào cũng phản ánh hiện thực. Nghĩa
hẹp: dùng để chỉ một phương pháp nghệ thuật, hay một khuynh hướng, một
trào lưu văn học có các nguyên tắc mỹ học sau: thừa nhận sự tác động qua lại
giữa con người và môi trường sống, giữa tính cách và hoàn cảnh, các hình
tượng hiện thực chủ nghĩa hướng tới tái hiện chân thực các mối quan hệ
khách quan của con người và hoàn cảnh; cùng với sự điển hình hóa nghệ
thuật, coi trọng nhưng chi tiết cụ thể và độ chính xác của chúng trong việc mô
tả con người và cuộc sống, coi trọng sự khách quan hóa những điều được mô
tả, làm cho chúng tự nói lên tiếng nói của mình [10, tr.54-55].
Quan niệm về chủ nghĩa hiện thực theo nghĩa rộng của Từ điển thuật ngữ
văn học cũng là quan niệm, nhận thức chung của Lê Đình Kỵ từ thập niên 60, 70.
36
Năm 1962, Lê Đình Kỵ công bố tập 4 của bộ giáo trình Những nguyên
lý về lý luận văn học (Nxb. Giáo dục), tập trung bàn về các phương pháp nghệ
thuật. Thảo luận về chủ nghĩa hiện thực, sau khi dẫn ra một số định nghĩa của
một số nhà văn, nhà mỹ học Nga, Lê Đình Kỵ cho rằng, cần phải nghiên cứu
chủ nghĩa hiện thực như là một phương pháp sáng tác có những đặc trưng
riêng. Một số đặc trưng này, theo Lê Đình Kỵ đã được các nhà kinh điển mác
xít như Max, Engels chỉ ra. Engels định nghĩa: “theo ý tôi, ngoài sự chính xác
của các chi tiết, chủ nghĩa hiện thực còn bao hàm sự chính xác trong sự tái
hiện những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình”, “mỗi tính
cách là một điển hình, nhưng đồng thời cũng là một cá nhân riêng biệt”,
“khuynh hướng phải toát ra chính ngay từ tình thế và kết cấu, chứ không phải
cần phải nói toạc ra, và tác giả không bắt buộc phải cung cấp sẵn cả cho độc
giả cái giải pháp lịch sử của các xung đột xã hội mà mình mô tả”…. Nói
chung, đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực là sự mô tả chính xác và khách
quan, là sự thể hiện nhân vật trong môi trường cụ thể lịch sử, kết hợp hữu cơ
tính khái quát và tính cá thể thông qua cá tính cụ thể sinh động làm nổi bật ý
nghĩa xã hội của nhân vật [15, tr.69-70], ngoài ra, chủ nghĩa hiện thực còn có
một nguyên tắc mỹ học khác là thiên về khắc họa tính độc lập nội tại và sự
phát triển tự thân của tính cách, “phục tùng logic nội tại của nhân vật có nghĩa
là phục tùng chân lý cuộc sống”. Bên cạnh giá trị nhận thức, các tác phẩm
thuộc phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa còn có giá trị nhân đạo.
Ngay trong công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn
Du, nhiều lần Lê Đình Kỵ đã giới thuyết, giải thích về chủ nghĩa hiện thực
như là cơ sở lý luận cho hệ vấn đề mà ông đặt ra và nỗ lực chứng minh, lý
giải qua Truyện Kiều.
Lê Đình Kỵ quan niệm, “chủ nghĩa hiện thực là sự phản ánh cuộc sống
trong hình thái của bản thân cuộc sống, nhà văn nhìn thẳng vào cuộc sống
theo phương châm có thế nào nói thế ấy, nhưng không tự nhiên chủ nghĩa…”
37
[22, tr.389]. Chủ nghĩa hiện thực nắm bắt và thể hiện thực tại qua nghệ thuật
điển hình hóa và chịu sự chi phối của lý tưởng nhà văn. “Điển hình hóa chính
là sự khái quát hóa từ thực tế đời sống, một sự thu nhặt có cân nhắc, có chọn
lọc, có tái tạo. Nó là cách tiếp cận và xử lý thực tại khác sự lý tưởng hóa ngay
từ điểm xuất phát” [22, tr.389]. Điển hình hóa trong hiện thực chủ nghĩa, vận
động qua cái cá thể. Nhân vật điển hình hiện ra như là tổng hòa của những
mối quan hệ xã hội nhất định, sự chân thực của các chi tiết là tiền đề của điển
hình hóa hiện thực chủ nghĩa.
Lê Đình Kỵ khẳng định: “chủ nghĩa hiện thực phản ánh hiện thực xã
hội và thế giới nội tâm con người một cách đầy đủ và chính xác nhất, tái hiện
thực tại đúng như nó có, không lý tưởng hóa, cũng không phóng đại theo lối
châm biếm. Sự phản ánh hiện thực chủ nghĩa không dừng lại ở việc tái hiện
hình thức bên ngoài, mà đi sâu vào bản chất của những hiện tượng được miêu
tả, nhằm nắm bắt ‘những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển
hình’, soi rọi vào hoạt động bên trong của con người, với tư cách là ‘tổng hòa
của những quan hệ xã hội. Cuối cùng đó là sự phản ánh dựa vào những hình
thái của chính đời sống, nghĩa là qua sự thật của sự kiện, của các chi tiết mà
bộc lộ cái có tính quy luật, cái điển hình” [22, tr.7].
Trở lên chúng tôi đã giới thiệu những nét cơ bản về lý luận chủ nghĩa
hiện thực trong cách hiểu chung (từ điển) và cách diễn giải riêng của Lê Đình
Kỵ. Có một vấn đề khác, thiết nghĩ cũng cần lưu ý: sự tiếp nhận, vận dụng lý
luận đó vào thực tiễn nghiên cứu và phê bình văn học (bao gồm cả trường hợp
Lê Đình Kỵ với Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du). Phải
nói ngay rằng, sự tiếp nhận và vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực vào thực
tiễn văn học dân tộc, bên cạnh ý nghĩa học thuật, thì tính chất chính trị thực
dụng biểu hiện rất rõ.
Lý luận chủ nghĩa hiện thực được lưu hành rộng rãi trong đời sống học
thuật ở ta trước 1986, không phải là thứ lý luận thuần túy theo mô hình Liên
xô, mà có cả sự lai ghép với lý luận chủ nghĩa hiện thực mang màu sắc Trung
38
Quốc. Bên cạnh những công trình mỹ học và lý luận văn học được giới
chuyên môn dịch trực tiếp từ tiếng Nga, còn có những thực hành dịch thuật,
giới thiệu các quan điểm văn học của giới học thuật, sáng tác, quản lý văn
nghệ ở Trung Quốc (đơn cử như các ý kiến bàn về văn học nghệ thuật của
Mao Trạch Đông hay trường hợp Đặng Thai Mai viết Văn học khái luận, một
công trình tiêu biểu của lý luận văn học mác xít buổi đầu, dựa theo cách diễn
giải của giới học thuật Trung Quốc…).
Chủ nghĩa hiện xã hội chủ nghĩa đi vào Việt Nam có tính chất đặc biệt
ở chỗ, nó gắn liền với vấn đề đấu tranh cách mạng. Ngay từ khi đặt chân vào
Việt Nam nó đã không tách rời những vấn đề chính trị, tư tưởng hệ của thời
đại. Trước hết, lý luận chủ nghĩa hiện thực được truyền bá bởi các nhà hoạt
động cách mạng, những người theo lý tưởng cộng sản. Thứ nữa, việc giới
thiệu lý luận này hướng đến mục tiêu lớn nhất là: đánh đổ văn học duy tâm,
phong kiến, tư sản, chủ nghĩa lãng mạn, tượng trưng, siêu thực, “làm cho chủ
nghĩa tả thực xã hội chủ nghĩa thắng”. Phương pháp sáng tác hiện thực xã hội
chủ nghĩa có vai trò chính trị của nó (khẩu hiệu văn học là vũ khí sắc bén):
bên cạnh việc đấu tranh về tông phái văn nghệ, nó còn tham gia xây dựng nền
văn học nghệ thuật mới, nền văn hóa hiện thực xã hội chủ nghĩa; phê phán xã
hội cũ, khẳng định con người mới, cuộc sống mới, khẳng định tính đảng cộng
sản, tính ưu việt của chế độ mới - rộng hơn là tham gia khẳng định tính tất
yếu của việc tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa. Do phải gánh nhiệm vụ chính trị
như thế, phương pháp sáng tác hiện thực xã hôi chủ nghĩa thường thiên về
miêu tả những cái có lợi cho ta, tránh miêu tả những cái bất lợi cho cách
mạng. Nhiệm vụ này đã được Trường Chinh khẳng định: “hiện thực xã hội
chủ nghĩa là một phương pháp sáng tác văn nghệ tả sự thật trong xã hội đang
phát triển theo những quy luật khách quan dẫn đến chủ nghĩa xã hội… Thái
độ của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là thái độ khách quan. Có những
sự thật khách quan không có lợi cho ta, ví dụ: một trận ta thua chẳng hạn, ta
có nên tả đúng không?Có thể tả một trận ta thua, nhưng phải làm cho người
39
xem nhận thấy các chiến sĩ của ta đã anh dũng hy sinh như thế nào, vì sao ta
thua, trong cái thua ấy đâu là phần ta thắng và mặc dù thua, binh sĩ ta vẫn
không hề nao núng, vì ai nấy đều hăm hở học tập, rút kinh nghiệm để chuẩn
bị giành thắng lợi trong những trận tới” .
Chính Lê Đình Kỵ trong khi vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực vào
xem xét trường hợp Truyện Kiều cũng không hoàn toàn đứng trên quan điểm
học thuật để giải quyết vấn đề văn học mà chịu sự chi phối của ý thức hệ bấy
giờ. Trong Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, nhiều lần tác
giả dẫn các ý kiến bàn về phương pháp sáng tác chủ nghĩa hiện thực [xã hội
chủ nghĩa] của các nhà kinh điển Mác xít và khẳng định cần phải quát triệt
quan điểm mác xít về vị trí của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong
nền văn nghệ mới.
2.3. Nội dung cuốn sách
Ngay từ tên gọi và Lời nói đầu của công trình Truyện Kiều và chủ
nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, Lê Đình Kỵ đã khẳng định mục tiêu của ông
là đặt Truyện Kiều trong mối quan hệ với chủ nghĩa hiện thực để xem xét. Ở
đây, khái niệm chủ nghĩa hiện thực được ông hiểu là một phương pháp sáng
tác tiến bộ, một bước tiến của lịch sử tư duy nghệ thuật. Chính ở điểm này,
chúng ta thấy, Lê Đình Kỵ đã tự đặt ông vào một trong những vấn đề trung
tâm của mỹ được một nhận thức chung trong giới văn học ở ta lúc bấy giờ:
“vấn đề phương pháp sáng tác là một vấn đề rất phức tạp và còn khá mới mẻ
trong tình hình lý luận và nghiên cứu của ta….” [22]. Phải đặt công trình của
Lê Đình Kỵ vào bối cảnh ấy mới thấy được khó khăn, bản lĩnh và cùng đóng
góp của tác giả, cả trên phương diện lý luận lẫn thực hành vận dụng lý luận
vào nghiên cứu tác phẩm cổ điển lớn nhất của văn học dân tộc ta.
Lê Đình Kỵ đã phân tích, thảo luận xung quanh rất nhiều cách hiểu về
chủ nghĩa hiện thực. Ông phê phán cách hiểu quá rộng hoặc quá hẹp về khái
niệm này. Theo ông, nếu hiểu chủ nghĩa hiện thực là đặc điểm của các tác
phẩm có nội dung xã hội chân thực sinh động là xu hướng mở rộng giới hạn
40
của chủ nghĩa hiện thực đến vô hạn độ, tước bỏ nội dung cụ thể lịch sử của
chủ nghĩa hiện thực: “coi chủ nghĩa hiện thực là thành tựu tất yếu của mọi tác
phẩm văn nghệ có giá trị, tức là đánh đồng nội dung và phương pháp, đánh
đồng chân lý cuộc sống với chủ nghĩa hiện thực” [22], đồng nhất chủ nghĩa
hiện thực với bản chất văn học.
Trên cơ sở nội dung của phương pháp hiện hiện thực chủ nghĩa đã được
giới thuyết kĩ lưỡng cùng kinh nghiệm lịch sử về các bước ngoặt văn học trên
thế giới, soi chiếu vào Truyện Kiều, Lê Đình Kỵ nhận thấy, “Truyện Kiều đã
đặt nền móng đầu tiên vững chắc cho sự phát triển của nền văn học hiện thực
chủ nghĩa ở nước ta [22, tr.7].
Phương pháp nghiên cứu của Lê Đình Kỵ có thể hình dung như sau:
Trước tiên, nhà nghiên cứu, xác định đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực ở
Truyện Kiều - bối cảnh ra đời của chủ nghĩa hiện Nguyễn Du. Luận điểm
trung tâm của người viết hướng tới, là khẳng định “ở Truyện Kiều có sự xen
kẽ, sự đấu tranh giằng xé giữa xu hướng hiện thực chủ nghĩa và những nề nếp
đã thành thông lệ…. Thông qua những khuôn khổ, những quy ước định sẵn,
Nguyễn Du đã tìm được con đường dẫn tới chủ nghĩa hiện thực” [22, tr.7].
Bác bỏ ý kiến nghi ngờ giá trị phản ánh xã hội của Truyện Kiều vì cho tác
phẩm này chỉ là sự vay mượn, thuật chuyện nước ngoài, Lê Đình Kỵ chỉ ra
rằng, Nguyễn Du viết Truyện Kiều bằng sự thể nghiệm của bản thân, Truyện
Kiều là một sáng tạo của Nguyễn Du, một sản phẩm của xã hội và của thời đại
Nguyễn Du, tác phẩm phản ánh “con người Việt Nam” cảm nghĩ của người
Việt Nam, xã hội Việt Nam”. Ông lưu ý: “Chủ nghĩa hiện thực của Truyện
Kiều gắn chặt với những truyền thống văn học lâu đời của dân tộc, cho nên có
thể bao dung những nhân tố ước lệ, tượng trưng. Tìm hiểu phương pháp sáng
tác của Truyện Kiều trong mối tương quan với chủ nghĩa hiện thực, tức là xác
định tính truyền thống và tính cách tân của tác phẩm, đồng thời tìm hiểu
những hạn chế quy định bởi chính truyền thống ấy” [22, tr.9].
41
Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là sự vận dụng
những nguyên lý phổ biến về chủ nghĩa hiện hiện thực soi rọi vào Truyện
Kiều, điều này thể hiện ra thành hai phần chính của cuốn sách: cơ sở tư tưởng
thẩm mỹ của Truyện Kiều và vấn đề điển hình hóa.
2.3.1. Cơ sở tư tưởng thẩm mĩ của Truyện Kiều
Nội dung chính của vấn đề cơ sở thẩm mỹ của Truyện Kiều là sự vận
dụng nguyên lý về vấn đề hoàn cảnh điển hình theo mô hình của Engel nhằm
mô tả những điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam thời đại Nguyễn Du. Cơ sở
thẩm mỹ của Truyện Kiều trong lý giải của Lê Đình Kỵ tập trung vào mấy
phương diện sau: thân thế và thời đại Nguyễn Du, thế giới quan và phương
pháp sáng tác của Truyện Kiều…
2.3.1.1 Nguyễn Du và thời đại
Bàn về thân thế và thời đại Nguyễn Du, công trình hướng đến mấy kết
luận đáng chú ý như sau.
Trước hết về thân thế, Nguyễn Du xuất thân sinh năm 1766, trong một
gia đình quý tộc, có truyền thống khoa cử, lớn lên ở Thăng Long:
“Nguyễn Du mồ côi từ thuở bé, vừa đến tuổi khôn lớn thì anh em bị tai
biến dồn dập, bản thân trải qua 15 năm lưu lạc, chắc chắn cũng là những
năm Nguyễn Du được sống gần gũi với nhân dân, có dịp thông cảm với
những cơ cực của nhân dân” [22, tr.22].
Về thời đại, Nguyễn Du sống trong giai đoạn chế độ phong kiến khủng
hoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX: cương thưởng đảo ngược, loạn kiêu
binh, nông dân khởi nghĩa…. Ông “lớn lên dưới triều đại Trịnh Sâm khi ở
triều đại này đã nảy nở những mầm biến loạn có ảnh hưởng quyết định đến
vận mệnh của gia đình Nguyễn Du sau này” [22, tr.24]. Cuộc khởi nghĩa của
anh em Tây Sơn có ảnh hưởng lớn đến Nguyễn Du, giúp ông hiểu sâu sắc hơn
về bộ mặt của bọn thống trị phong kiến đồng thời cũng khơi dậy ở con người
nghệ sĩ Nguyễn Du những ước mơ giải phóng, mặc dù có lúc ông có thái độ
42
đối địch với phong trào Tây Sơn. Nguyễn Du sinh trưởng trong gia đình quý
tộc, cha và anh làm tể tướng, họ hàng nhiều người đỗ đạt, làm quan, khi vua
Lê chúa Trịnh sụp đổ, “Nguyễn Du mưu toan khôi phục lại tiền triều, chống
lại Tây Sơn.” [22, tr.44]. Về mặt này, ông “đã hành động như một nhà nho bị
ràng buộc bởi quan niệm ‘trung thần bất sự nhị quân”. Tuy nhiên, cũng cần
thấy rằng, thái độ chính trị của Nguyễn Du không cứng nhắc, cuộc đời và thơ
văn chữ Hán của đại thi hào, cho thấy ông không coi Tây Sơn là “quốc thù, vô
đạo”, ông cũng không hề hăng hái, hay thực sự kiên trì chống Tây Sơn. Lý
giải về thái độ chính trị của Nguyễn Du, theo Lê Đình Kỵ không thể nhận
định đơn giản, một chiều.
Xem xét thái độ làm quan, thái độ với nhân dân, đối với con người và
cuộc đời, cũng như phẩm chất của Nguyễn Du, Lê Đình Kỵ đi đến nhận xét:
“thế giới quan của Nguyễn Du có nhiều mâu thuẫn giằng xé, nhiều điều
không xác định, không dứt khoát”: “tư tưởng của Nguyễn Du, về căn bản, là
tư tưởng của một nhà nho phong kiến, trải qua một cuộc đời chìm nổi lao
lung, đã tiếp thu được những xu hướng nhân đạo chủ nghĩa của thời đại,
những xu hướng này ở vào một bản chất nghệ sĩ như của Nguyễn Du, trở
thành đặc biệt mạnh mẽ và sâu sắc” [22, tr.74], Nguyễn Du quan tâm đến
những người nghèo khổ, với kiếp sống lao khổ.
2.3.1.2. Thế giới quan và phương pháp sáng tác
Sau khi mô tả những điều kiện lịch của xã hội Việt Nam cuối thế kỉ
XVIII đầu thế kỉ XIX, cuộc đời và con người Nguyễn Du (chương 1), Lê
Đình Kỵ đặt vấn đề: phương pháp sáng tác tiến bộ của Truyện Kiều đã dựa
vào thế giới quan nào?, cơ sở hình thành thế giới quan đó. Để trả lời và lý giải
những vấn đề này, nhà nghiên cứu đi sâu phân tích triết lý Truyện Kiều, thơ
chữ Hán - “một thứ nhật kí ghi lại tâm sự và cảm nghĩ trực tiếp và sâu sắc của
Nguyễn Du”, đối chiếu với cuộc đời của nhà thơ mà sử sách và gia phả họ
Nguyễn Tiên điền ghi lại.
43
Theo Lê Đình Kỵ, thế giới quan và phương pháp sáng tác của Nguyễn
Du có những mâu thuẫn phức tạp. Tư tưởng triết học, tư tưởng định mệnh của
Truyện Kiều là chủ nghĩa định mệnh: chủ nghĩa định mệnh ảnh hưởng đến mở
đầu, diễn biến, kết cấu của Truyện Kiều; cái kết có hậu của Truyện Kiều
không chỉ là mơ ước của con người mà là “ý muốn của một lực lượng thần bí,
có tên là ‘hội chủ’ và được tiền định qua lời tiên tri của Đạm Tiên và của Tam
Hợp đạo cô” [22, tr.103], điều này chính là những hạn chế tư tưởng nghệ
thuật của Truyện Kiều.
Có thể hình dung tính chất mâu thuẫn phức tạp trong thế giới quan
Nguyễn Du như sau: chủ nghĩa định mệnh của Truyện Kiều bắt nguồn từ tư
tưởng thiên mệnh của đạo Nho, đồng thời cũng bắt nguồn từ tư tưởng luân hồi
nhân quả của nhà Phật. Đạo Nho chủ trương thiên mệnh nhưng lại đề cao
hành động; đạo Phật thừa nhận tác dụng của tu tâm, tức là hành động và ý
thức con người nhưng lại thừa nhận tác động của những lực lược huyền bí
siêu hình, giải thích họa phúc của con người hoàn toàn thần bí. Chữ mệnh ở
Truyện Kiều dù hiểu theo nghĩa nào cũng là một triết lý tiêu cực. “Tư tưởng
thiên mệnh và nghiệp báo là sản phẩm tất yếu của xã hội phong kiến và nhằm
duy trì trật tự phong kiến. Xã hội phong kiến nước ta là xã hội nông nghiệp
lạc hậu” [22, tr.107], con người nông nghiệp quanh năm làm ăn theo sự tuần
hoàn của thời tiết, theo một định luật bất di bất dịch như xã hội xung quanh,
điều này đưa đến tư tưởng định mệnh; khi chiến tranh thiên tai bệnh tật xảy
ra, con người nông nghiệp đều bất lực như nhau và không lý giải được, họ tin
vào số mệnh, định mệnh. Lê Đình Kỵ nhấn mạnh: thời đại Nguyễn Du là thời
đại có nhiều biến cố xã hội dữ dội, “nếu có thời nào dễ đẻ ra tư tưởng nghiệp
báo thì đúng đó là thời Nguyễn Du” [22, tr.108].
Tuy vậy, băn khoăn của Lê Đình Kỵ không chỉ ở chỗ vạch ra tác hại
của chủ nghĩa định mệnh nói chung, mà là xác định đúng mức vị trí và tác
dụng của tư tưởng định mệnh trong Truyện Kiều, tìm hiểu thái độ phức tạp
của Nguyễn Du đối với tư tưởng định mệnh ấy.
44
Đi sâu vào biểu hiện cụ thể của tư tưởng định mệnh, Lê Đình Kỵ bàn
về chữ tài, chữ mệnh và chữ tâm
Chữ tài
Theo Lê Đình Kỵ Truyện Kiều viết ra để chứng minh cho thuyết “tài
mệnh tương đố”, cho thuyết “hồng nhan bạc mệnh”. Trong thời đại Nguyễn
Du, thuyết này có giá trị hiện thực của nó, tuy nhiên Nguyễn Du đã gán cho
nó một ý nghĩa duy tâm siêu hình, vĩnh viễn hóa một sự thực chỉ phổ biến
trong xã hội có áp bức bóc lột giai cấp, do đó trong tư tưởng chủ quan
Nguyễn Du có mâu thuẫn, đưa đến mâu thuẫn với ý nghĩa khách quan của
hình tượng, tác phẩm. Hệ quả của chủ nghĩa định mệnh, chủ nghĩa tiên
nghiệm, sự trung thành với thuyết tài mệnh tương đố, đã đưa đến những hậu
quả (hạn chế) sau:
Thứ nhất, lý tưởng hóa theo hướng trao cho nhân vật những nét hoặc
quá dồn ép, hoặc thừa thãi, không gắn liền với bản chất nội tại của tính cách,
ví dụ Nguyễn Du đã dồn không chỉ sắc đẹp mà đủ mọi tài hoa cho Kiều; dụng
ý của Nguyễn Du là tạo ra cho tác phẩm cái không khí tài tử giai nhân, nên từ
Đạm Tiên đến Từ Hải, Kim Trọng… dưới ngòi bút của ông đều trở thành
những người tài hoa, bậc kỳ tài. Nguyễn Du đã dồn ép vào nhân vật của
mình những nét mà tính cách không đòi hỏi, nhà thơ tô vẽ cái tài của nhân
vật để chứng minh cho lý thuyết tiên nghiệm- định mệnh. Trên thực tế,
người đọc trân trọng Thúy Kiều hay Đạm Tiên bởi vì trước hết họ tượng
trưng cho phận đàn bà, cho con người bị vùi dập trong xã hội cũ, chứ
không phải vì lý thuyết siêu hình.
Thứ hai, do gò ép theo lý thuyết về chữ tài mà Nguyễn Du đã thu hẹp ý
nghĩa xã hội của vấn đề hay tính cách nhân vật. Chẳng hạn, số phận của Đạm
Tiên là một vấn đề xã hội, nhưng trong miêu tả của Nguyễn Du lại nổi bật
45
hơn ở khía cạnh hồng nhan bạc mệnh của nó. Do quá bận tâm chứng minh cái
tài của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã rơi và khiên cưỡng, làm giảm giá trị tố cáo
xã hội ở nhân vật này…
Thứ ba, vì đặt vấn đề chữ tài một cách tiên nghiệm cho nên khi thể hiện
nó vào nhân vật, Nguyễn Du đã tỏ ra không nhất quán, và chuyển tài thành
tình. Lê Đình Kỵ nhấn mạnh: “Vấn đề tài trong Truyện Kiều là vấn đề tài hoa,
tài tình. Thực chất chữ tài trong Truyện Kiều là chữ tình. Thúy Kiều chịu oan
khổ đầu đuôi cũng là do muốn sống cho ra sống, do chữ tình đối với đời, đối
với người khác và đối với chính mình” [22, tr.121-122].
Lê Đình Kỵ đi đến những kết luận trên đây là dựa trên cơ sở phân tích
ý nghĩa khách quan của hình tượng và của tác phẩm. Cũng dựa vào đó, ông
cho rằng, nếu bỏ qua cái vỏ siêu hình, thuyết tài mệnh tương đố cũng có cơ sở
khách quan và có giá trị tố cáo. Xã hội phong kiến thời Nguyễn Du vốn không
dung nạp tài năng, vua Gia Long bãi bỏ chức trạng nguyên vì sợ kẻ có tài,
nhiều người tài năng, nhiều bậc khai quốc công thần bị hãm hại, trong xã hội
cũ đa tài thường đa nạn, ở Truyện Kiều, Từ Hải và Thúy Kiều đều là những
hiện thân của con người tài hoa trong xã hội cũ. Chủ đề tài mệnh trong Truyện
Kiều có nội dung xã hội còn bởi vì, Nguyễn Duy không lạc hướng quá lâu vào
ý nghĩa siêu hình, đại thi hào đã “quan niệm được rằng, chuyện tài hoa của
mình với chuyện tình người, tình đời là một. Mâu thuẫn chuyển sang giữa
tình và mệnh, nghĩa là giữa quyển sống của con người với chế độ xã hội.
Xuyên qua và rũ sạch được gấm vóc lụa là của chuyện tài hoa, vấn đề xã hội
đặt ra trở thành cháy bỏng, không ai có thể lẩn tránh được” [22, tr.124].
Chữ mệnh
Bàn về chữ mệnh. Phân tích cấu trúc tác phẩm, Lê Đình Kỵ nhận thấy.
một mặt Nguyễn Du đã vạch ra những kẻ thù hiện thực của Thúy Kiều trong
46
xã hội phong kiến (đồng tiền, những lũ sai nha, Mã Giám Sinh, Sở Khanh,
Hoạn Thư, Bạc Bà Bạc Hạnh, …) nhưng mặt khác, khi rút ra những khái quát
triết lý thì Nguyễn Du lại nhấn mạnh chủ yếu vào “số mệnh”. Vậy, phải hiểu
chữ mệnh này là cái chế độ phong kiến, “Nguyễn Du khẳng định mệnh tức là
khẳng định tính tất yếu xã hội của trật tự phong kiến. Đối với Nguyễn Du,
hành động của bọn sai nha cũng tất yếu như mưu sâu của Hoạn Thư hay như
cái tài kinh luân của Hồ Tôn Hiến. Mệnh là cái không thể tránh được, điều đó
có nghĩa là sự có mặt của bọn người kia trong xã hội là diều không thể tránh
được và có những nạn nhân của bọn chúng cũng là điều không thể tránh
được” [22, tr.125]; “chữ mệnh của Nguyễn Du còn hiểu theo cái nghĩa sự may
rủi cá nhân mà nhân dân thông thường đã hiểu;. “chữ mệnh trong ý nghĩa
ngẫu nhiên này không hề phủ nhận chữ mệnh trong ý nghĩa tất yếu nói trên.
Đây là sự thống nhất của mâu thuẫn” [22, tr.125].
Đánh chung, về vị trí, mức độ chi phối của tư tưởng định mệnh trong
Truyện Kiều, theo Lê Đình Kỵ: tuy tư tưởng định mệnh bao quát, không chỉ
thể hiện ở những lời phát biểu trực tiếp mà ít nhiều đã đi vào hình tượng và
kết cấu nhưng đó “không phải là cảm hứng chủ đạo của tác phẩm, không phải
là động lực nội tại của sáng tác của Nguyễn Du. Động lực sáng tác của
Nguyễn Du là mối xúc cảm trước thời cuộc, trước những điều trông thấy”, cái
mà Nguyễn Du gọi là chuyện bể dâu là những biến động cụ thể mà bản thân
Nguyễn Du đã chứng kiến [22, tr.127]. Về thái độ của Nguyễn Du đối với
thuyết định mệnh. Trước hết, Nguyễn Du tin ở định mệnh, nói nhiều đến định
mệnh một cách sâu sắc, nhà thơ gửi gắm tư tưởng định mệnh đậm nét qua các
nhân vật như Đạm Tiên, Sư Tam Hợp. Tuy nhiên, Lê Đình Kỵ chỉ ra rằng,
thái độ ấy của Nguyễn Du “chỉ là cục bộ” [22, tr.131], trong cuộc tranh chấp
giữa tài tình và mệnh, “Nguyễn Du đã rất mực đề cao tài tình”, “trong thái độ
của Nguyễn Du đối với định mệnh, có phần cam chịu, nhưng cái phần nhiều
hơn là xót xa, căm giận, phẫn uất. Mỗi lần Kiều nói đến trời là mỗi lần ta
47
được nghe tiếng kêu thương đứt ruột… trong thái độ của Nguyễn Du đối với
định mệnh, bên cạnh mặt tiêu cực, còn có ý nghĩa tố cáo nhất định. Nguyễn
Du đã vô tình hay cố ý đã tuyên truyền cho định mệnh, nhưng Nguyễn Du
cũng đã buộc tội định mệnh. Mâu thuẫn này vẫn có mặt thống nhất của nó:
Nguyễn Du xót xa cho thân phận con người, căm ghét những lực lượng giày
xéo lên con người, nhưng lại không giải thích nổi vì sao mà các lực lượng này
cứ ngự trị trong cuộc sống, Nguyễn Du không biết làm thế nào để đánh đổ cái
lực lượng ấy và lấy cái gì để thay thế vào. Đó là tấn bi kịch của Nguyễn Du và
cũng là hạn chế chung của thời trước… Đối với chúng ta ngày nay, thì rõ
ràng, cái mà Nguyễn Du gọi là mệnh không gì khác hơn là cái trật tự vô nhân
đạo của chế độ phong kiến, nó là chính danh thủ phạm đã gây nên kiếp sống
oan khổ của Kiều. Nhưng Nguyễn Du và những người đương thời của ông thì
không hiểu được thế nào là chế độ xã hội…. mọi việc đòi hỏi phải được truy
tìm nguyên nhân, cuộc sống đòi hỏi được giải thích. Nguyễn Du giải thích nó
bằng số mệnh” [22, tr.132- 133].
Lê Đình Kỵ chỉ ra những ràng buộc của Nguyễn Du với hệ ý thức
đương thời, những hạn chế trong tư tưởng triết lý của tác phẩm, song ông
cũng luôn thấy Nguyễn Du đã vượt lên những giới hạn thông thường để đưa
Truyện Kiều đến gần hơn với chủ nghĩa hiện thực. Cũng là tư tưởng định
mệnh nhưng ở Nguyễn Du màu sắc siêu hình giảm đi rất nhiều, thay vào đó là
hiện thực khách quan và nội dung xã hội. Cũng là nói về chữ mệnh nhưng ở
Nguyễn Du là một sự hỗn hợp cả Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Cũng là giải
thích chiều hướng số phận nhân vật bằng thuyết định mệnh nhưng cái mệnh
này gần với trật tự vô nhân đạo của xã hội cũ.
Chữ Tâm
Vấn đề chữ Tâm giữ một vị trí quan trong trong tư tưởng Truyện Kiều
và các diễn giải về Truyện Kiều.
48
Gần đây, trong công trình Thả một bè lau (tập hợp các bài giảng về
Truyện Kiều dưới cái nhìn thiền quán trong hai năm 1992, 1993), Thích Nhất
Hạnh đã có một số kiến giải thú vị về chữ Tâm.
Theo Thích Nhất Hạnh, viết Truyện Kiều, Nguyễn Du thể hiện tư tưởng
tài mệnh tương đố, đồng thời cụ Nguyễn cũng muốn khuyên người đời, không
nên cậy vào tài mình, “bởi vì khi có tài mà không có đức, không tu, không
biết giấu tài của mình đi mà cứ khoe khoang, hợm hĩnh, cho mình là giỏi thì
tai nạn sẽ đến với mình và mình sẽ đâu khổ rất nhiều” [11, tr.6]. Mầm mống
của tai nạn, đau khổ là nghiệp: “khi mình đã có những tham, giận, kiêu căng
trong người rồi thì ‘Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa’… vì vậy phải quay
về tu sửa tâm mình, vun bồi gốc rễ của cái thiện trong tâm mình.... Thiện căn
là một danh từ của Phật học, có nghĩa là gốc rễ của cái thiện. Cụ Nguyễn Du
thấy tu tâm là điều quan trọng phải làm. ‘Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia
mới bằng ba chữ tài’: một người có tâm lành, biết tu học thì sẽ có hạnh phúc
và mang lại hạnh phúc cho người khác nhiều hơn (bằng ba) những người có
tài mà không có tâm lành” [11, tr.6].
Cách diễn giải trên đây của Thích Nhất Hạnh rất khác với những đánh
giá của Lê Đình Kỵ về vấn đề tu tâm, tu hành, lý thuyết nghiệp báo, nhân quả
của Nguyễn Du trong công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của
Nguyễn Du. Nếu Thích Nhất Hạnh tán đồng với Nguyễn Du cho rằng tu tâm
là con đường đúng đắn để con người đạt được hạnh phúc, thì Lê Đình Kỵ lại
quan niệm thay vì lựa chọn giải pháp tu tâm (thỏa hiệp) để giải quyết vấn đề
xã hội lớn lao, Nguyễn Du cần phải lựa chọn con đường đấu tranh đánh đổ xã
hội phong kiến thối nát. Cách diễn giải như thế của Lê Đình Kỵ là một biểu
hiện đậm nét của thế giới quan cách mạng. Đối với các nhà mác xít thì vấn đề
chính không phải “giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, mà vấn đề là
cải tạo thế giới” (C.Mác).
Thực vậy, đi sâu vào cấu trúc Truyện Kiều, Lê Đình Kỵ phát hiện vấn
đề tài, mệnh ở Nguyễn Du thường được nhìn nhận và giải quyết từ góc độ chữ
Tâm. Chữ Tâm đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nhân vật và cấu
49
trúc tác phẩm, gần như mọi vấn đề trong Truyện Kiều đều có thể quy về chữ
Tâm. Ông viết: “Cái vấn đề xã hội lớn lao mà Nguyễn Du đã đặt ra qua kiếp
sống trầm luân của Kiều, cái mâu thuẫn giữa khát vọng của con người và xã
hội cũ, Nguyễn Du đã biến nó thành mâu thuẫn giữa tài tình và mệnh. Và mâu
thuẫn này, cuối cùng Nguyễn Du muốn giải quyết bằng chữ tâm” [22, tr.137]:
“Chữ Tâm ở Truyện Kiều có tính chất hỗn hợp”, tiếp thu cả từ Nho giáo lẫn
Phật giáo [22,tr. 139].
Chữ tâm ở Kiều biểu hiện đa dạng thành chữ hiếu, chữ nhân, chữ trinh,
chữ trung. Chữ tâm ở Truyện Kiều cũng có những hạn chế nhất định. Chẳng
hạn ở việc Nguyễn Du xử lý mối quan hệ giữa Kiều và Kim Trọng. Tố Như
đã cho Kiều vứt bỏ tài tình, bằng lòng làm vợ hờ của Kim Trọng, về vấn đề
này, Lê Đình Kỵ nhận định “Nguyễn Du lại tiến thêm một bước nữa trong
việc đã thỏa hiệp với trật tự cũ, từ bỏ cái quá khứ ma đưa lối quỷ đưa đường
và thôi không còn là mình nữa” [22, tr.141], “Nguyễn Du muốn ta hiểu rằng
đoạn đoàn viên là phần thưởng của chữ tâm của Kiều… các tình tiết của đoạn
đoàn viên đều xoay chung quanh cái trục chính là chữ trinh…Nếu việc thôi
không đánh đàn là một hành động tượng trưng thì việc từ chối ân ái với Kim
Trọng là một quyết định thực tế, và tất cả nói lên sự thắng lợi của tâm, sự phá
sản của tài tình… chữ tâm của Kiều đã bị giày xéo không thương tiếc” [22,
tr.143]. Nguyễn Du khác với nhiều nhà nho khác ở chỗ, ông đã không ngại
kéo nhân vật trung tâm ra khỏi dòng đời vẩn đục, qua nhân vật Kim Trọng tác
giả kêu gọi mọi người lấy lòng quân tử mà gạn đục khơi trong, Nguyễn Du
đưa ra đoạn đoàn viên là để chiêu tuyết cho Kiều. Song, Nguyễn Du cũng rơi
vào nửa vời khi không dám để cho cái quan niệm táo báo về chữ trinh ở Kim
Trọng được thực hiện, nghĩa là không dám để Kiều đường hoàng lấy Kim
Trọng, “điều đáng nói là Nguyễn Du muốn qua sự khước từ của Kiều, đề cao
chữ tâm, làm sáng rực tính không tà dâm của Kiều” [22, tr.145]. Lê Đình Kỵ
kết luận: Nguyễn Du dùng đến số mệnh để giải thích sự đời, để Kiều tránh bớt
được sự phê phán từ bình diện đạo đức, “điều đó dù sao cũng có thể hiểu
50
được. Đến khi Nguyễn Du tìm lối thoát trong chữ tâm thì mọi sự đều bị đảo
lộn. Nguyễn Du muốn làm một sự hỗn hợp, định trộn lẫn tâm với trung,
hiếu, tiết, nghĩa, nhưng càng lập luận càng tỏ ra lúng túng. Rốt cuộc,
Nguyễn Du lại trở về nguyên nghĩa của chữ tâm, tu tâm, tu hành… Nguyễn
Du muốn rằng trong Truyện Kiều bàng bạc một không khí tu hành, càng về
cuối càng rõ hơn” [22, tr.146].
Sau khi phân tích cơ sở lịch sử xã hội của việc hình thành thuyết định
mệnh trong Truyện Kiều cũng như biểu hiện của thuyết định mệnh trong tác
phẩm, vị trí của tư tưởng định mệnh và thái độ của Nguyễn Du đối với tư
tưởng này, nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ thảo luận về chủ nghĩa nhân đạo và
chân lý đời sống. Có thể rút ra năm kết luận đáng chú ý sau.
Một là, “con người và thế giới quan của Nguyễn Du, đầy mâu thuẫn”,
mâu thuẫn này để lại dấu ấn trong các tác phẩm Nguyễn Du, bao gồm từ
Truyện Kiều đến Văn chiêu hồn và phần thơ chữ Hán. “Truyện Kiều chứa chất
mâu thuẫn, nhưng là mâu thuẫn có nguồn gốc ngay từ cuộc sống xã hội đương
thời, và điều này xét về một mặt nào đó, cũng là dấu hiệu của tính hiện thực
của tác phẩm” [22, tr.160]. Nguyễn Du đưa vào tác phẩm tư tưởng định mệnh
nhưng không nhắm mắt trước sự thật đời sống, không xuyên tạc sự thật hay
bao che cho lợi ích ích kỷ của giai cấp quý tộc.
Hai là, “tâm sự của Nguyễn Du, những yêu ghét của Nguyễn Du, xét cho
cùng vẫn là nhất quán và hữu cơ với nhau…”, “chủ đề cơ bản nhất ở Nguyễn
Du: đó là những bức tranh về kiếp sống quằn quại trong xã hội cũ, là tiếng kêu
đứt ruột trước vận mệnh con người, là những khao khát bừng lên hay chỉ mới le
lói về một cuộc sống chân thật và trong sạch, tự do và xứng đáng, cuối cùng là
lòng căm ghét những bọn đầu trâu mặt ngựa….” [22, tr.164].
Ba là, cảm hứng chủ đạo của Truyện Kiều là cảm hứng về thân phận
con người trong xã hội phong kiến đầy áp bức bất công. Làm nền cho lý
tưởng đạo đức thẩm mỹ của Nguyễn Du là chủ nghĩa nhân đạo, nó là kết tinh
51
cao nhất của yêu cầu giải phóng của thời đại” [22, tr.164]. Tư tưởng nhân đạo
là linh hồn, động lực nội tại của sáng tác Nguyễn Du, là bộ phận hợp thành
của thế giới quan nhà thơ.
Bốn là, “chủ nghĩa nhân đạo làm nền tảng cho sự nắm bắt chân lý đời
sống ở Truyện Kiều, ngược lại chân lý đời sống là điều kiện để cho chủ nghĩa
nhân đạo phát huy tất cả tác dụng và tự bộc lộ qua những biểu hiện phong phú
phức tạp nhất của nó” [22, tr.185], Nguyễn Du xây dựng nhân vật bằng chính
chất liệu của cuộc đời, bằng chính “những điều trông thấy”, nhà thơ không
bằng lòng minh họa cho những giáo điều về đạo đức hay lý tưởng hóa một
chiều, nhà thơ đứng vững trên mảnh đất thực tế để thể hiện nhân vật. Chủ
nghĩa nhân đạo ở Nguyễn Du đã đưa nhà thơ vượt qua giới hạn của thời đại
mình, vượt qua giới hạn ràng buộc của mỹ học đương thời; tư tưởng nhân đạo
đã giúp Nguyễn Du có bản lĩnh nhìn thẳng vào thực tế, chủ nghĩa nhân đạo
của Nguyễn Du gắn bó với chủ nghĩa hiện thực, đó là thứ chủ nghĩa nhân đạo
“bám chặt lấy cuộc sống và những con người” sống thực với những thăm
trầm, vinh nhục của nó [22, tr.189]. “Nguyễn Du không cắt đứt với truyền
thống nhưng cũng không giậm chân tại chỗ. Nguyễn Du đã đi đến một sự kết
hợp tài tình và ngay khi sử dụng những khuôn khổ có sẵn, nhà thơ bao giờ
cũng biết tái tạo, biết đưa vào đấy hơi thở của cuộc sống, sự rung cảm của
những tấm lòng, những động cơ thúc đẩy hành động” [22, tr.190]. “Truyện
Kiều là tiếng nói mới mẻ cất lên từ xã hội cũ, tiếng nói ấy đã làm đảo lộn khá
nhiều giá trị đương thời, nhưng cũng nhanh chóng được thừa nhận, nhờ có
sức không cưỡng lại nổi của chính chân lý cuộc sống” [22, tr.190].
Năm là, lý tưởng thẩm mỹ tiến bộ của Nguyễn Du không đóng khung
trong một nhân vật Thúy Kiều mà bao trùm các nhân vật khác, trực tiếp nhất
là các nhân vật chính diện: Kim Trọng, Từ Hải. Lý tưởng thẩm mỹ của
52
Nguyễn Du đã hình thành trong vòng vây của mỹ học phong kiến, lý tưởng ấy
có mối quan hệ hữu cơ với tâm hồn và thiên tài Nguyễn Du, với quan niệm
mới mẻ về nghệ thuật ở Nguyễn Du.
Từ cách phân tích, lý giải của Lê Đình Kỵ, chúng ta thấy rằng: nghiên
cứu tác phẩm theo hướng đặt nó vào hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh lịch sử xã
hội để xem xét, là thế mạnh của nghiên cứu xã hội học nói chung, đồng thời
đây cũng là phương pháp phổ biến trong nghiên cứu phê bình các hiện tượng
văn học ở miền Bắc thập niên 60, 70. Sau này, các nghiên cứu theo hướng thi
pháp học đã nhấn mạnh vào các phương diện văn bản nhưng hầu như coi nhẹ
các yếu tố ngoài văn bản như vậy.
2.3.2. Vấn đề điển hình hóa trong Truyện Kiều
Bên cạnh cơ sở thẩm mỹ của Truyện Kiều (thân thế và thời đại Nguyễn
Du, thế giới quan và phương pháp sáng tác), thì vấn đề điển hình hóa trong
Truyện Kiều là một hệ vấn đề lớn thứ hai được Lê Đình Kỵ tập trung phân
tích, đánh giá, lý giải.
2.3.2.1. Nhân vật và xã hội
Đặt vấn đề điển hình hóa nhân vật không thể không dựa vào mối quan
hệ giữa nhân vật ấy với thực tại xã hội. Do đó, vấn đề đầu tiên mà Lê Đình
Kỵ cần phải xác lập là mối quan giữa nhân vật Truyện Kiều và xã hội. Chỉ khi
nào xác lập được mối quan hệ này cùng với việc thừa nhận một chủ nghĩa
hiện thực trong tác phẩm (nội dung xã hội của tác phẩm), sự thành công về
xây dựng nhân vật có chiều sâu khái quát thì vấn đề điển hình hóa nhân vật
mới có cơ sở vững vàng.
Mở đầu chương 3, Lê Đình Kỵ khẳng định, thành tựu không thể chối
cãi được của Truyện Kiều là “đã xây dựng được những nhân vật bất hủ và đã
phản ánh một cách sâu sắc thực tế xã hội đương thời, hai mặt này gắn chặt với
nhau” [22, tr.228].
Chủ nghĩa hiện thực đòi hỏi tác phẩm phải là tấm gương phản ánh xã
hội. Sự phản ánh này được thực hiện thông qua các nhân vật, cụ thể qua tính
cách, tâm lý, chiều hướng số phân của nhân vật. Nhân vật Truyện Kiều là
53
“những con người sống thực trong một xã hội có thực”, quan hệ giữa các
nhân vật trong truyện là quan hệ xã hội.
Theo Lê Đình Kỵ, các nhân vật Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh hợp
thành một tuyến nhân vật phản diện, chúng thuộc về hạng buôn thịt bán
người, và đều là những con người có thực trong xã hội cũ. Tú Bà là trùm lưu
manh, thực hiện chủ trương của mụ có Mã Giám Sinh là người chuyên thu
xếp các vụ mua bán, Sở Khanh chuyên lừa gạt. Cũng thuộc về hệ thống nhân
vật phản diện còn có Hồ Tôn Hiến, Hoạn Thư…. Lê Đình Kỵ gọi Hồ Tôn
Hiến là một tay Sở Khanh cỡ lớn, Sở Khanh cao cấp, Hoạn Thư là một điển
hình ghen tuông, có một không hai, “cái tên Hoạn Thư đã trở thành một danh
từ chung bất hủ mà Nguyễn Du đã đóng góp vào vốn từ vựng Việt Nam”.
Nhận xét nhân vật Thúc Sinh, Lê Đình Kỵ cho rằng, “trong ba người đàn ông
đã giữ một vai trò quan trọng trong đời Kiều, Thúc Sinh là vô nghĩa nhất,
nhưng cũng là một nhân vật hiện thực hơn cả”. Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú
Bà, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến đều là những nhân vật hiện thực chủ
nghĩa, những nhân vật mang nhiều nét lấy thẳng từ cuộc sống.
Sau Thúy Kiều, Kim Trọng là nhân vật chính của Truyện Kiều, “Kim
Trọng là người tình nhân số một”, là “môn đồ hư hỏng trong cửa Khổng sân
Trình”, “cái mà Kim Trọng mất đi trên con đường làm quan thì Kim Trọng lại
được gấp bội về mặt làm người… Kim Trọng càng trọn vẹn sắt son chung
thủy thì tầm mắt lại được mở rộng ra”. Lê Đình Kỵ nhấn mạnh: Kim Trọng
không phải là nhân vật hiện thực chủ nghĩa, mà là nhân vật đã đi vào địa hạt
lý tưởng, mơ ước. Tấn bi kịch của thời đại Nguyễn Du được thể hiện qua
nhân vật Từ Hải, “Nguyễn Du đã gửi gắm mơ ước và sức phản kháng của
mình vào nhân vật Từ Hải. Nguyễn Du đã chắp cho Từ Hải đôi cánh của chủ
nghĩa lãng mạn cách mạng. Từ Hải vút lên trên xã hội cũ như con chim đại
bàng kiêu hãnh” [22, tr.267], “cái chết đứng của Từ Hải là một bài học lịch sử
lớn, một lời tố cáo uất ức, nghẹn ngào, căm giận”. Khác với Kim Trọng, Từ
54
Hải bước vào câu chuyện mang lại một âm hưởng mới lạ: âm hưởng anh hùng
ca. Nhưng Từ Hải và Kim Trọng giống nhau ở chỗ, họ đều là nhân vật lý
tưởng. Lê Đình Kỵ nhận thấy, Kim Trọng là người mà ngoài tình yêu ra
không còn biết gì nữa, Truyện Kiều sẽ bị một lỗ hổng lớn nếu thiếu Từ Hải,
thiếu cái ước mơ của Từ Hải. “Nhưng cả Kim Trọng và Từ Hải đều lơ lửng
trên không. Mà Nguyễn Du thì không chịu lơ lửng như thế, cho nên phải có
nhân vật Thúy Kiều. Kiều là cái thước đo, là sự kiểm nghiệm cái tính thực tại
của những lý tưởng gửi vào Kim Trọng và Từ Hải. Kiều đã đến với Kim
Trọng và Kiều sẽ vươn tới Từ Hải”, Thúy Kiều phải chết theo Từ Hải vì cuộc
thí nghiệm đó đã hoàn thành, Kiều gục ngã vì đã đi đến tận cùng của cuộc
phiêu lưu. Nguyễn Du đã gửi tất cả tấm lòng yêu đời, đau đời, thương đời vào
con người Kiều.
Xét nội dung của Truyện Kiều, Lê Đình Kỵ đã hướng đến khẳng định
giá trị hiện thực của tác phẩm. Truyện Kiều mở đầu và kết thúc bằng tư tưởng
định mệnh, nhưng đây không phải là cảm hứng, tư tưởng chủ đạo của tác
phẩm, điểm xuất phát của sáng tác Nguyễn Du, trong lý giải của Lê Đình Kỵ,
chính là “thực tế của cuộc sống” [22, tr.281]. Sở dĩ Truyện Kiều có sức lay
động sâu xa lòng người vì nó đi đã vượt lên cái nhìn đạo đức phong kiến giáo
điều để đi đến hiện thực chủ nghĩa, Nguyễn Du không đứng trên lập trường
đạo đức luân lý để xây dựng nhân vật; đằng sau triết lý thần bí duy tâm về
mệnh là “sự thật sâu xa về đời sống và về con người” [22, tr.281]. Nguyễn Du
viết Truyện Kiều trong tâm trạng của một người trải qua một cuộc bể dâu và
đã thể nghiệm, trông thấy những điều đau đớn lòng. Từ lý giải như thế Lê
Đình Kỵ hướng nghiên cứu của mình đến bốn tổng kết quan trọng: thứ nhất là
có một xã hội Truyện Kiều, đó là xã hội phong kiến giày xéo lên con người,
coi nhân phẩm và tính mạng con người như cỏ rác, ở đó tất cả đạo lý đều bị
đảo lộn, mọi thứ đều bị phân lý, chia lỳ như chính mối tình, cuộc đời của
Kiều; thứ hai, Truyện Kiều đã tố cáo một cách trực tiếp và sâu sắc thế lực của
đồng tiền, thế lực đồng tiền gắn với bọn quan lại bất lương, với lũ bán thịt
55
buôn người, với sự trụy lạc, với những sự lừa gạt kiểu Sở Khanh hay Hồ Tôn
Hiến; thứ ba, Truyện Kiều là tiếng kêu xé ruột của con người bị đày đọa trong
chế độ cũ, là bằng chứng về nỗi đau khổ của con người bị giày xéo trong tình
yêu, tình cảm gia đình, trong những khát vọng bình thường nhất, chưa bao
giờ, trong lịch sử văn học Việt Nam trước kia, vấn đề xã hội, vấn đề con
người lại được đặt ra một cách trực diện, khẩn trương, thống thiết như trong
Truyện Kiều, Nguyễn Du đứng về phía những người bị áp bức, sỉ nhục để
thuật lại đời Kiều; thứ tư, vấn đề thân phận con người trong xã hội cũ,
Nguyễn Du đã giải quyết theo hai hướng hoàn toàn trái ngược nhau, hướng
thứ nhất là đề cao chữ tâm, hướng thứ hai là để cho Từ Hải nổi dậy, một giải
pháp đi ngược lại chữ tâm.
Tóm lại, Nguyễn Du đã thành công trong sự phản ánh thực tại, khái
quát hóa cuộc sống. Những vấn đề xã hội, vấn đề thân phận con người được
đặt ra trong Truyện Kiều có ý nghĩa lâu dài, ám ảnh. Chương III là chương
viết công phu, cho thấy nhiều tìm tòi, cách cắt nghĩa mới, đây là chương có
sức hấp dẫn và có sức thuyết phục cao của Lê Đình Kỵ.
2.3.2.2. Điển hình hóa theo hướng hiện thực chủ nghĩa
Sự thành công của Nguyễn Du trong phản ánh thực tế xã hội phong
kiến, thân phận con người trong xã hội cũ gắn liền với sự thể hiện khách quan
những nhân vật điển hình sinh động, những nhân vật sống thực. Chương IV
của công trình tập trung làm sáng tỏ nghệ thuật điển hình hóa theo phương
pháp hiện thực chủ nghĩa của Nguyễn Du.
Lê Đình Kỵ định nghĩa điển hình hóa như sau: “điển hình hóa chính là
sự khái quát hóa từ thực tế đời sống, một sự thu nhặt có cân nhắc, có chọn lọc,
có tái tạo. Nó là cách tiếp cận và xử lý thực tại khác với sự lý tưởng hóa ngay
từ điểm xuất phát” [22, tr.389].
Khi xây dựng nhân vật, Nguyễn Du đã giữ được tính cách khách quan,
chân thực. Nhà thơ không nói thay, làm thay các nhân vật của mình. Tính
cách của Mã Giám Sinh, Sở Khanh chẳng hạn, được bộc lộ dần dần qua ngôn
56
ngữ, hành động của chúng một cách tự nhiên. Tính cách các nhân vật Truyện
Kiều có âm vang xã hội và có giá trị phản ánh. Nguyễn Du có cảm tình với
nhân vật trung tâm đã đành, nhưng nhà thơ cũng nhập vai các nhân vật Hồ
Tôn Hiến, Hoan Thư để lột tả bản chất của chúng. Nhân vật Truyện Kiều ít
khi là sản phẩm của sự chủ quan tùy tiện, ví như khi khắc họa chân dung
Thúc Sinh, ngoài thái độ mỉa mai, có chỗ Nguyễn Du cũng tán thành, dành
cho Thúc Sinh những lời đẹp đẽ. “Ở Nguyễn Du, tính khách quan đi đôi với
một tính khuynh hướng rõ rệt, nhưng khuynh hướng ở đây ‘toát ra từ tình thế
và kết cấu, chứ không cần phải nói toạc ra’ (Engels) [22, tr.317].
Lê Đình Kỵ tán thành và khẳng định luận điểm có tính nhận diện
phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa: “chủ nghĩa hiện thực yêu cầu nhà
văn phải miêu tả những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình”. Nhân
vật của Nguyễn Du có tầm khái quát hiện thực rộng lớn. Có được thành công
này là do Nguyễn Du đã biết đặt các nhân vật của mình vào những mối quan
hệ thực tế, quan hệ với nhau hay với hoàn cảnh, đúng theo yêu cầu của điển
hình hóa theo hướng hiện thực chủ nghĩa.
Vậy hoàn cảnh điển hình trong Truyện Kiều thể hiện ra sao? Theo Lê
Đình Kỵ, “Truyện Kiều là bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội Việt Nam,
phản ánh những quan hệ xã hội thực tế gắn liền với chế độ phong kiến Việt
nam trên bước đường suy vong của nó. Những quan hệ này làm nên hoàn
cảnh điển hình, làm nên cái bối cảnh thực cho hoạt động của các nhân vật,
qua đó tính cách các nhân vật được phơi bày nổi bật lên và có ý nghĩa điển
hình sinh động. Tính cách điển hình được xác định qua hoàn cảnh điển hình,
ngược lại hoàn cảnh điển hình không phải là cái bối cảnh hoàn toàn thụ động
mà chính cũng là hình thành từ các tính cách điển hình theo một mối tác động
qua lại biện chứng. Trừ Kim Trọng là nhân vật thuần túy lý tưởng, còn lại các
nhân Truyện Kiều trực tiếp hay gián tiếp đều tiêu biểu cho những lực lượng xã
hội nhất định” [22, tr.318-319].
57
Lê Đình Kỵ chỉ ra cơ sở giai cấp của hệ thống nhân vật. Tú Bà, Mã
Giám Sinh, Sở Khanh thuộc phường buôn phấn bán hương; Hồ Tôn Hiến là
đại biểu của lực lượng thoái hóa, đối kháng trực tiếp với lực lượng tiến bộ
nhất trong xã hội Truyện Kiều mà Từ Hải và Thúy Kiều là đại diện. “Sự đánh
gen của Hoạn Thư là một sự phản ánh giai cấp hết sức độc đáo” [22, tr.321],
chuyện ghen tuông thường tình dưới ngòi bút Nguyễn Du mang nội dung xã
hội cụ thể, nếu đem tách rời nó khỏi bản chất giai cấp của Hoạn Thư thì
không sao giải thích nổi diễn biến của sự việc, thái độ lép vế của Thúc Sinh
và sự khuất phục tuyệt đối của Thúy Kiều. Thúc Sinh xuất thân từ gia đình
phú thương, có tâm lý cơ hội chủ nghĩa, là đại biểu cho lực lượng trung gian,
chơi vơi giữa phía bên này là Từ Hải, Kim Trọng và phía bên kia là bọn đầu
trâu mặt ngựa.
Đồng thời Lê Đình Kỵ cũng cho thấy, Nguyễn Du không gò ép lời nói,
hành động của nhân vật vào các tiêu chuẩn đạo đức có sẵn mà “luôn đặt lên
hàng đầu việc soi sáng hoạt động bên trong của nhân vật” [22, tr.325]. Qua so
sánh với cách xây dựng nhân vật của Thanh Tâm Tài Nhân trong Kim Vân
Kiều truyện và với phương thức biểu đạt của một số thể loại khác như ngâm
khúc, Lê Đình Kỵ khẳng định Nguyễn Du đã có bước tiến và thành công khi
đi sâu miêu tả, soi rọi thế giới nội tâm của nhân vật. Nguyễn Du khai thác thế
giới tâm tình của nhân vật theo hướng soi sáng tính cách nhân vật: “tính cách
các nhân vật Truyện Kiều đều được xác định và có tính thống nhất chặt chẽ.
Nguyễn Du đã lấy lại hầu hết các nhân vật của Kim Vân Kiều truyện, lược bỏ
một chi tiết này, nhấn mạnh mặt kia, sáng tạo thêm những nét khác cốt soi
sáng nhân vật từ bên trong” [22, tr.335]. Ví dụ, so với Thanh Tâm Tài Nhân,
Nguyễn Du đã lược bỏ rất nhiều tình tiết miêu tả Kim Trọng một cách chủ
nghĩa tự nhiên như nguyên tác để điển hình hóa Kim Trọng như một người
tình chung thủy và phong nhã, phù hợp với Kiều; cũng như vậy đối với Từ
Hải, Nguyễn Du thay vì tô đậm Từ Hải như một tên giặc cỏ, nổi dậy chống lại
58
triều đình vì vàng lụa, vì mĩ nhân như Kim Vân Kiều truyện đã làm, đã xây
dựng Từ Hải thành một kẻ trượng phu có khí phách, có tấm lòng hào hiệp.
Nhân vật Truyện Kiều, dưới ngòi bút của Nguyễn Du, có mối quan hệ
tác động qua lại, quy định lẫn nhau, qua nhân vật này có thể hiểu các nhân vật
khác, và ngược lại, các nhân vật hiện ra trong thế động nội tại biện chứng.…
Nguyễn Du lựa chọn và sử dụng đắc địa nhiều chi tiết hiện thực: “Ở Truyện
Kiều, chân lý nghệ thuật không chỉ dừng lại ở cái đại thể, mà đã đi vào tiểu
tiết và cả chi tiết” [22, tr.366], lần đầu tiên trong lịch sử văn học Nguyễn Du
đã biết “thông qua những chi tiết ngoại hình để đào sâu vào tâm lý bên trong
của nhân vật”, khó có thể hình dung được đầy đủ về Mã Giám Sinh nếu thiếu
đi chi tiết “mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”, hay Tú Bà với cái vẻ “lờn
lợt màu da”, Sở Khanh “chải chuốt dịu dàng”…. Đấy là một vài minh chứng
cho thấy đóng góp quan trọng của Nguyễn Du đối với truyền thống hiện thực
chủ nghĩa của nền văn học dân tộc.
Chủ nghĩa hiện thực hình thành còn đòi hỏi một tiền đề khác là sự phát
triển của ngôn ngữ dân tộc. Truyện Kiều ra đời trong thế kỉ XIX, kết tinh
trong nó những thành tựu phát triển vượt bậc của ngôn ngữ dân tộc từ truyện
thơ Nôm, “ngôn ngữ Truyện Kiều kết hợp được cái diễm lệ tao nhã của những
áng ngâm tiêu biểu và cái mặn mà ý vị của lời ăn tiếng nói hàng ngày”, “cái
sức vang, sức gợi lạ lùng của ca dao, cái hàm súc đậm đà trong hình ảnh và
trong suy tưởng của các thể thơ phú cổ điển. Chưa bao giờ khả năng tiếng
Việt được biểu hiện đầy đủ như trong Truyện Kiều… Nguyễn Du là bậc thầy
vô song của ngôn ngữ dân tộc” [22, tr.376]. So với sự điển hình hóa hiện thực
chủ nghĩa, ngôn ngữ Truyện Kiều đã thể hiện được sức mạnh tuyệt vời của nó
trong việc thể hiện thực tại sinh động, nó miêu tả được thành công những
rung động tinh vi, những tình cảm tế nhị, những ẩn tình phức tạp, những cung
bậc xúc cảm đa dạng của lòng người, lột tả được. Nguyễn Du sử dụng điêu
luyện ngôn ngữ hiện thực, ngôn ngữ nhân vật, có nhiều mặt sáng tạo về bút
59
pháp tả thực để lột tả bản chất tính cách, diễn tả nội tâm của các nhân vật.
“Có thể nói Truyện Kiều đã đạt tới một chủ nghĩa hiện thực tâm lý cao nhất
trong nền văn học dân tộc quá khứ” [22, tr.387].
Rõ ràng, công trình của Lê Đình Kỵ mới chủ yếu dựa vào các nhân vật
phản diện để triển khai phân tích điển hình hóa theo hướng hiện thực chủ nghĩa
vì chỉ các nhân vật này mới có những nét phù hợp với lý luận về điển hình hóa
hiện thực. Tuy nhiên, đến các nhân vật chính diện thì Lê Đình Kỵ không dùng
khái niệm “điển hình hóa” nữa mà xếp họ vào mục ràng buộc mỹ học đương
thời. Lý do dễ hiểu, các nhân vật chính diện không được Nguyễn Du miêu tả
phù hợp với công thức về nhân vật điển hình của chủ nghĩa hiện thực.
2.3.2.3. Những ràng buộc của mĩ học đương thời
Đây là nội dung chính của chương V, cũng là chương cuối cùng của
công trình.
Ở các chương trên Lê Đình Kỵ đã chứng minh Truyện Kiều đã đi tới
chủ nghĩa hiện thực. Mở đầu chương V, như một cách tổng kết lại hệ thống
luận điểm của mình, Lê Đình Kỵ khẳng định, “có thể nói đến một chủ nghĩa
hiên thực của Nguyễn Du, nhưng là một cách có điều kiện” [22, tr.388]. Chủ
nghĩa hiện thực ở Truyện Kiều là chủ nghĩa hiện thực sơ khai, hình thành trên
cơ sở chủ nghĩa quy phạm, tính cách điệu, ước lệ của mỹ học phong kiến, nó
thoát thai từ xu hướng lý tưởng hóa và chủ nghĩa giáo huấn trong truyền
thống truyện thơ Nôm đương thời.
Truyện Kiều có nội dung tố cáo xã hội sâu sắc, nhưng chưa thể xem đó
là “chủ nghĩa nghĩa hiện thực ở giai đoạn phát triển cao”. Đó không phải là
chủ nghĩa hiện thực phê phán, vì những điều kiện hình thành của phương
pháp sáng tác này chưa xuất hiện. “Chủ nghĩa hiện thực của Truyện Kiều là
chủ nghĩa hiện thực trong hình thái phát triển đầu tiên của nó”, có những hạn
chế, thiếu nhất quán và đầy mâu thuẫn.
Đặt Truyện Kiều vào hoàn cảnh văn hóa xã hội đương thời, Lê Đình Kỵ
chỉ ra Truyện Kiều của Nguyễn Du chịu sự ràng buộc của hệ thống mỹ học
phong kiến. Biểu hiện như sau:
60
Truyện Kiều chịu ảnh hưởng khá rõ của sự lý tưởng hóa cổ truyền.
Nhân vật Truyện Kiều, có những nhân vật lý tưởng như Kim Trọng, các tình
tiết gặp gỡ, tỏ tình của Kiều và Kim Trọng cũng diễn ra với đầy đủ những nét
lý tưởng, nói chung Kim Trọng là một tình nhân lý tưởng, tình yêu của chàng
là tình yêu lý tưởng. Ngay đến nhân vật Từ Hải dù có sức nặng hơn Kim
Trọng nhưng những nét vẽ Từ Hải của Nguyễn Du cũng không tránh được sự
lý tưởng hóa, trừu tượng hóa. “Không phải là điều tình cờ mà hai nhân vật
chính diện tiêu biểu nhất trong Truyện Kiều đều là hai nhân vật lý tưởng. Tình
yêu của Kim Trọng, khí khách của Từ Hải trong xã hội cũ, cũng hiếm hoi như
sao buổi sớm, tác giả đành phải nâng hiện thực lên bằng mơ ước của mình…
Ngay đối với Thúy Kiều, không phải Nguyễn Du đã tránh được hòa toàn sự lý
tưởng hóa” [22, tr.396], có điều ở Nguyễn Du, tính lý tưởng không làm cho
nhân vật kém chân thực, cũng không đưa tác phẩm vào lối mòn của chủ nghĩa
giáo huấn khô khan. Kết thúc truyện càng không phải là điển hình hóa theo
phương pháp hiện thực, hiểu theo nghĩa là sự phản ánh cuộc sống như nó vốn
có, là sự khái quát hóa từ thực tại xã hội. Nguyễn Du kết truyện xuất phát từ
mơ ước, lý tưởng, tức là đã xa rời chủ nghĩa hiên thực trong ý nghĩa nghiêm ngặt
của phương phương pháp sáng tác tiến bộ này. Nguyễn Du không thể thoát khỏi
xu hướng lý tưởng hóa nhân vật thường thấy trong văn học cổ trung đại, bởi ông
bị vây trong quan niệm văn dĩ tải đạo: “Quan niệm văn dĩ tải đạo của nền văn
học thời phong kiến tất yếu đưa đến sự lý tưởng hóa” [22, tr.398].
Một biểu hiện khác của sự chi phối của hệ thống mỹ học phong kiến
đối với Truyện Kiều là xu hướng ước lệ, tượng trưng, cách điệu còn khá rõ
nét. Nguyễn Du sử dụng nhiều điển cổ, hình ảnh biểu tượng, ẩn dụ có sẵn
trong kho tàng văn chương chung; sử dụng nhiều công thức, khuôn sáo trong
tả tình, tả cảnh, nhà thơ mở đầu và kết truyện một cách công thức, kết cấu
truyện theo công thức ước lệ thường thấy ở các truyện Nôm, sử dụng nhiều
chi tiết ngẫu nhiên ít nhiều ước lệ…. Tất nhiên, điều này “không làm mất giá
61
trị chân thực của Truyện Kiều mà chỉ tạo nên cho Truyện Kiều một bộ mặt cụ
thể riêng biệt gắn liền với hoàn cảnh lịch sử của tác phẩm lúc ra đời và với
truyền thống văn học lâu đời” [22, tr.401- 402].
Do chịu ảnh hưởng ràng buộc của mỹ học đương thời nên chủ nghĩa
hiện thực của Truyện Kiều có những hạn chế, giới hạn. Trước hết, “Truyện
Kiều chưa đặt tới tính cụ thể lịch sử thường thấy trong các tác phẩm hiện thực
hiện đại” [22, tr.424], có thể nói đến một chủ nghĩa hiện thực tâm lý ở Truyện
Kiều song cần thấy rằng, ở đấy “Nguyễn Du chưa chú trọng đến các quá trình
tâm lý” [22, tr.434], đôi chỗ còn để cho đạo đức, hành động lấn át tâm lý [22,
tr.436-437], Nguyễn Du thành công trong sự khái quát hóa, thiên về mặt khái
quát, nhưng về mặt tính cá thể chưa đạt được bao nhiêu, ý thức về cá nhân
trong Truyện Kiều chỉ mới là manh nha, chưa thành chủ nghĩa cá nhân, mức
độ cá thế hóa trong sự khai thác tâm lý còn có giới hạn. Do bị quy định bởi
chính những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể thời đại, Nguyễn Du không thể
vượt qua những giới hạn của một phương pháp có tính chất quá độ, không thể
vươn tới chủ nghĩa hiện thực hiện đại. “Truyện Kiều thuộc phạm trù văn học
quá độ” [22, tr.460].
Nói chung, Nguyễn Du là người đặt nền móng cho sự ra đời và phát
triển của chủ nghĩa hiện thực ở Việt Nam nhưng “trong Truyện Kiều có sự
giằng xé giữa lý tưởng thẩm mỹ hiện thực chủ nghĩa và các xu hướng bên
ngoài chủ nghĩa hiện thực” [22, tr.451].
2.4. Giá trị nổi bật của công trình
Công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du có hai
đóng góp nổi bật.
Thứ nhất, với một tư duy lý luận sắc bén, một vốn hiểu biết sâu sắc về
lịch sử văn học, Lê Đình Kỵ đã chỉ ra và phân tích thuyết phục vị trí của
Truyện Kiều: tác phẩm này là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử văn học dân tộc,
“đặt nền móng đầu tiên vững chắc cho sự phát triển của nền văn học hiện thực
chủ nghĩa ở nước ta” [22, tr.7], chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du chịu sự ràng
62
buộc của mỹ học đương thời: “cái lớn của Nguyễn Du không phải. ở chỗ cắt đứt
liên hệ với nền văn học quá khứ và đương thời, mà ở chỗ, thông qua những
khuôn khổ, những quy ước định sẵn, Nguyễn Du đã tìm được con đường dẫn tới
chủ nghĩa hiện thực, bằng sự kết hợp sinh động, tài tình” [22, tr.7].
Thứ hai, Lê Đình Kỵ đã chỉ ra được cái hay cái đẹp, cái tài tình của
nghệ thuật Truyện Kiều và diễn đạt vẻ đẹp ấy bằng một văn phong hấp dẫn,
khúc chiết.
Ông chỉ ra thành công của Nguyễn Du trong sử dụng các chi tiết, đi vào
phân tích tính cụ thể sinh động trong bút pháp miêu tả, khắc họa tâm lý nhân
vật của Nguyễn Du rồi tiến đến nhận định khái quát, khẳng định công lao của
Nguyễn Du, sự mới mẻ của Truyện Kiểu. Chẳng hạn phần viết về tính chân
thực của sự thể hiện, bút pháp, ngôn ngữ (chương 4, phần 2): “Đối với
Nguyễn Du, một nét mặt, một màu da, một dáng điệu, một cử chỉ, một tư thế,
không chỉ là cái bên ngoài, mà thông qua đó có thể làm hiển hiện ra cái thần
của nhân vật… Nguyễn Du chú trọng ghi lại những cái còn tươi rói chất sống
ấy và chỉ với vài nét là nhân bật được khắc họa” [22, tr.367]; “Truyện Kiều
kết trong nó cái thanh tao, trau chuốt của Hoa tiên, cái thướt tha kiều diễm mà
rất xao động của văn Chinh phụ ngâm, và cái tươi mới phóng khoáng của văn
Sơ kính tân trang” [22, tr.375], “ngôn ngữ Truyện Kiều kết hợp được cái diễm
lệ tao nhã của những áng ngâm tiêu biểu và cái mặn mà ý vị của lời ăn tiếng
nói hàng ngày. Văn chương Truyện Kiều có được cái sức vang, sức gợi lạ
lùng của ca dao, cái hàm súc đậm đà trong hình ảnh và trong suy tưởng của
các thể thơ phú cổ điển. Chưa bao giờ khả năng tiếng Việt được biểu hiện đầy
đủ như trong Truyện Kiều. Cũng chưa bao giờ thể thơ lục bát lại nhịp nhàng,
uyển chuyển, óng chuốt thiên biến vạn hóa như với Truyện Kiều’ [22, tr.376].
Giọng điệu và ngôn ngữ bình thơ của Lê Đình Kỵ rất giàu cảm xúc và đặc
biệt tinh tế, chẳng hạn đoạn tác giả bình về nhịp sống, nhịp đậm của trái tim
nhân vật: “chưa bao giờ một tác phẩm văn học Việt Nam thời phong kiến mà
63
lại có được cái nhịp sống gấp rút, khẩn trương như trong Truyện Kiều… chưa
bao gờ cái bước đi của thời gian lại hiện ra một cách không phương cứu chữa
- nhói vào trái tim người như thế, vừa thúc giục, vừa hối hả, vừa tiếc rẻ mênh
mông.. Đã!Đã!Đã… Nguyễn Du như kêu lên với chúng ta. ‘Cuộc sống trôi
qua.!’ Không phải là chuyện quang âm thấm thoát, chuyện ngựa chạy qua cửa
sổ, mà là cái bước đi như sờ mó được của thời gian, cái dấu vết của nó hằn lên
trên những hy vọng, chờ mong, đau thương, khổ nhục của con người và bàng
bạc khắp nơi, khắp chốn” [22, tr.171] Rõ ràng, Lê Đình Kỵ đã điểm rất trúng
những thành công về nghệ thuật của Truyện Kiều, đã chỉ ra cái sở trường, cái
tài nghệ vô song của Nguyễn Du trong phân tích và diễn tả tâm lý, số phận
của nhân vật.
Ngòi bút của Lê Đình Kỵ không chỉ tinh tế, nhạy cảm mà còn thực sự
uyên bác. Nếu không phải là một chuyên gia về phương pháp sáng tác, và am
hiểu thực tiễn văn học, Lê Đình Kỵ không thể có những xét ngắn gọn và
chính xác như sau: “quan niệm văn dĩ tải đạo của văn học thời phong kiến tất
yếu đưa đến sự lý tưởng hóa. Nhân vật tượng trưng cho chính nghĩa hay gian
tà, bị lý tưởng hóa đã đành, mà ngay cả những nhân vật không trực tiếp ‘chở
đạo’ đến cho người dời cũng bị lý tưởng hóa. Điều này không có gì lạ, bởi vì
ngoài lý tưởng trung hiếu tiết nghĩa, lại có những lý tưởng khác: tài tử giai
nhân, cầm kỳ thi tửu, ngư tiều canh mục… [22,tr.398], “trước chủ nghĩa hiện
thực, điển hình hóa gắn liền với lý tưởng hóa. Nó xuất phát từ tiền đề chủ
quan, từ quan niệm tiên nghiệm trước khi xuất phát từ sự kiện đời sống. Lý
tưởng hóa không nhất thiết là làm cho đẹp hơn, cho đạo đức hơn, nhằm đạt tới
cái toàn mỹ toàn thiện, mà có thể là làm cho xấu hơn, cho đạt cái xấu mẫu
mực, cái xấu lý tưởng. Nghĩa là sự lý tưởng hóa bao gồm cái chính diện cũng
như cái phản diện, cái thiện cũng như cái ác” [22, tr.400]; “với chủ nghĩa hiện
thực, mọi khuôn khổ đều bị nứt rạn, những quy phạm đều phá sản trước sự
thật sinh động, muôn màu vẻ của đời sống, chủ nghĩa hiện thực không chấp
64
nhận những con đường mòn, sự vẽ vời trang sức. Chân lý cuộc sống tự nó đã
hấp dẫn rồi” [22, tr.403].
Văn của Lê Đình Kỵ giàu cảm xúc, những đoạn viết về vẻ đẹp của
Truyện Kiều, tài năng của Nguyễn Du, đã thể hiện rõ một niềm say mê,
ngưỡng mộ tài năng bậc thầy của đại thi hào dân tộc. Đơn cử đoạn phân tích
sau: “câu thơ Kiều thường thỉ uyển chuyển thướt tha, ngọt ngào tình tứ,
nhưng khi cần gắn liền với cuộc đời của Từ Hải, nó không thể không mang
khí thế mới. Cảm hứng của truyện đã thay đổi, đòi hỏi người nghệ sĩ phải
vươn tới nữa, tự vượt lên mình. Nguyễn Du tỏ ra không chỉ sở trường ở việc
thể hiện những tình tự riêng tây, những rung động khát khao của những trái
tim yêu đương, những bâng khuâng rạo rực sau đắm của mối tình đầu, những
nỗi buồn man mác hay tái tê, những thương nhớ thường tình và những đau
khổ cũng không kém thường tình. Nguyễn Du tự nâng mình lên đến cảm
hứng sử thi, với những bút pháp và âm hưởng thích hợp để thể hiện cái hùng
tráng của bước đi rung chuyển của những đoàn quân, của tiếng reo hò chứa
chan hy vọng của quần chúng đã nổi dậy, mặc dù về chủ quan, Nguyễn Du
chưa hẳn đã có ý thứ đúng đắn về sự chuyển mình của lịch sử. Phải vùng lên
như Từ Hải đã vùng lên. Và chúng ta đã có những đoạn văn hào hùng sảng
khoải, xứng đáng với một bản anh hùng ca chân chính. Tính đa dạng trong bút
của Nguyễn Du được quy định bởi những tình huống cụ thể và những tâm
trạng cụ thể” [22, tr.381].
Không còn nghi ngờ gì nữa, bên cạnh một điểm tựa lý luận sắc bén,
linh hoạt, Lê Đình Kỵ đã cho thấy sở trường của ông trong việc thẩm bình
nghệ thuật khắc họa nhân vật, ngôn ngữ và bút pháp của Nguyễn Du. Văn của
Lê Đình Kỵ giàu cảm xúc mà vẫn rất chặt chẽ, khúc chiết, do đó cũng giàu
sức thuyết phục.
Không phải đến Lê Đình Kỵ nội dung xã hội của Truyện Kiều mới
được làm sáng tỏ. Hoài Thanh cũng hướng các nghiên cứu của mình tới giá trị
hiện thực của Truyện Kiều tuy nhiên ông chọn con đường đi từ xã hội học
65
chính trị, thiên về vấn đề giai cấp luận. Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa cũng
tiếp cận Truyện Kiều từ bình diện xã hội học, chỉ ra được giá trị phản ánh xã
hội của Truyện Kiều. Nhưng phải nói rằng, chỉ đến khi nghiên cứu phương
pháp sáng tác chủ nghĩa hiện thực như Lê Đình Kỵ mới có một bước tiến theo
hướng tăng cường sự khám phá chất văn chương của tác phẩm, với năng lực
phê bình tinh tế, cảm nhận sâu sắc. Nếu nghiên cứu của Hoài Thanh trong
“Quyền sống của con người trong Truyện Kiều” mới chạm đến một số nét
nghệ thuật ngôn từ của Truyện Kiều, Trương Tửu trong Truyện Kiều và thời
đại Nguyễn Du chỉ nhấn mạnh nội dung tư tưởng của tác phẩm thì phải ghi
nhận rằng, đến Lê Đình Kỵ đã có một bước tiến rõ rệt, ở đây Lê Đình Kỵ đã
bàn sâu sắc về mỹ học của Truyện Kiều.
66
Tiểu kết chương 2
Lê Đình Kỵ vừa dịch thuật, dạy học, vừa viết nghiên cứu phê bình văn
học. Các công trình dịch thuật, nghiên cứu phê bình, và giáo trình mà ông
đảm nhiệm biên soạn ở bậc đại học được tiến hành trong không khí học thuật
đặc biệt của miền Bắc: tiếp nhận hệ thống lý luận văn học Liên xô và quan
điểm văn nghệ Diên An, phê phán các học thuyết tư sản, đấu tranh cho chủ
nghĩa xã hội thắng…
Xét riêng về mặt học thuật, có thể nói, Lê Đình Kỵ có nhiều đóng góp
trong việc du nhập hệ tri thức mỹ học, lý luận văn học của Liên xô vào Việt
Nam. Ông là một nhà nghiên cứu xã hội học văn học mác xít tiêu biểu; là một
trong những chuyên gia về phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật.
Công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du cho thấy ông
là một nhà nghiên cứu có phương pháp và cũng nhờ có phương pháp nên
nghiên cứu của ông chứa đựng nhiều luận điểm có lý, mới mẻ. Lê Đình Kỵ có
một vốn hiểu biết sâu sắc về lịch sử thế kỉ XVIII- XIX, cuộc đời Nguyễn Du,
căn cứ vào văn bản và hệ thống hình tượng trong Truyện Kiều để khẳng định,
sự xuất hiện của một chủ nghĩa hiện thực phôi thai, một chủ nghĩa hiện thực
trong giai đoạn sơ kì của nó. Bên cạnh những phân tích lý giải thuyết phục về
nội dung xã hội, tác giả đã có nhiều phát hiện tinh tế về nội dung mỹ học của
tác phẩm.
67
Chương 3
CÁC Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA
GIỚI NGHIÊN CỨU VỀ CÔNG TRÌNH TRUYỆN KIỀU VÀ
CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC CỦA NGUYỄN DU CỦA LÊ ĐÌNH KỴ
3.1. Đánh giá vấn đề có hay không chủ nghĩa hiện thực trong văn trung
đại Việt Nam
Chủ nghĩa hiện thực trong văn học trung đại Việt Nam là một vấn đề
lớn, thu hút sự quan tâm lý giải của nhiều nhà nghiên cứu thập niên 70, tuy
nhiên cách giải quyết vấn đề này vẫn còn nhiều do dự, chưa thể nói là đã xong
xuôi, triệt để và có sự thống nhất cao trong giới, nếu không muốn nói là phân
hóa, cách biệt nhau.
N.Konrat, Viện sĩ, nhà phương Đông học nổi tiếng người Nga đã từng
đặt vấn đề này trong một bối cảnh rộng lớn là các nền văn học phương Đông
[13] từ cái nhìn so sánh với các nền văn học châu Âu. Theo Konrat, thuật ngữ
chủ nghĩa hiện thực được dùng phổ biến trong các công trình lịch sử và lý
luận văn học, hầu như các nghiên cứu về văn học quá khứ đều đề cập đến chủ
nghĩa hiện thực, “bất kể người ta đang nói về văn học của một dân tộc nào đó
thuộc châu Âu hay châu Á, bất kể đó là nền văn học của thế kỉ XIX hay văn
học trung thế kỉ, thậm chí cả văn học của thế giới cổ đại” [13, tr.326], nó gần
như bị biến thành phạm trù tuyệt đối tồn tại trong lịch sử nói chung, mà không
phụ thuộc vào lịch sử kinh tế xã hội, văn hóa cụ thể, đặc thù.
Cũng theo Konrat, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực lần đầu tiên đặt ra và
được sử dụng để mô tả nền văn học Pháp giữa thế kỉ XIX, nhất là với các
sáng tác của Balzac, Flaubert. Khái niệm này cũng đã được sử dụng khá thích
hợp vào thời kỳ tương tự với văn học Nga, văn học Anh và một số nền văn
học châu Âu khác nữa. Bối cảnh đặc thù, cụ thể đưa đến sự ra đời của chủ
nghĩa hiện thực (trong văn học Pháp) là thời kỳ thinh trị của chủ nghĩa tư bản:
68
“văn học hiện thực chủ nghĩa đã chịu ơn bối cảnh thời đại theo cái nghĩa mà
nó nhận được trong phương pháp sáng tạo của văn học hiện thực phê phán…
chủ nghĩa hiện thực Pháp thế kỉ XIX cần phải được hiểu như một phương
pháp khám hiện thực trong tất cả sự phức tạp và sự đối kháng của các lực
lượng đang hoạt động trong đó” [13, tr.327-328].
Như vậy, xét về mặt nguyên tắc và về mặt lịch sử, chỉ có thể vận dụng
thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực để mô tả các hiện tượng văn học ngoài Pháp
(như ở Anh, Nga….) nếu như những điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa
trong nền văn học đó tương ứng với các điều kiện mà ta đã quan sát được ở
Pháp. Điều đó có nghĩa là, chỉ có thể nói đến một chủ nghĩa hiện thực ở các
nền văn học phương Đông nếu như ta có thể tìm thấy những điều kiện hình
thành và vận hành sự thống trị của chủ nghĩa tư bản. Nhưng những điều kiện
như vậy, theo Konrat, “chỉ có ở một nước phương Đông duy nhất là nước
Nhật Bản” [13, tr.329], ở phương Đông chỉ có Nhật Bản từ sau cách mạng
Meiji đã đi lên con đường chủ nghĩa tư bản. Do đó, không khó để mô tả một
dòng văn học hiện thực chủ nghĩa đúng nghĩa ở Nhật Bản.
Còn ở các nước khác ở phương Đông, thì vấn đề phức tạp hơn nhiều,
trình độ phát triển của các nước không đồng đều nhau, phần lớn các nước này
do bị trở thành thuộc địa, nửa thuộc địa nên chế độ phong kiến chậm bị phá
sản và việc phát triển các quan hệ tư bản chủ nghĩa cũng chậm chạp, hạn chế
và bị biến dạng. Một trong những biểu hiện của biến dạng, đó là sự hình thành
tầng lớp tư sản mại bản, tư sản dân tộc. Tầng lớp này không trưởng thành do
sự lạc hậu về kinh tế, chính trị. Đặc điểm này quy định diện mạo của văn học
hiện thực chủ nghĩa ở phương Đông.
Konrat lưu ý, trên đại thể các nước phương Đông tiến đến văn học hiện
thực chủ nghĩa thường chậm hơn các nước tiên tiến phương Tây, tuy nhiên
vẫn có một số nhà văn cá biệt “không phải đi theo đằng sau các phong trào
trung của văn học hiện thực chủ nghĩa” ở châu Âu mà “song hành cùng với
69
chung và trong chừng mực nào đó có thể nói là áp gần với trình độ chung”
[13, tr.333]. Vấn đề quan trọng khác đặt ra ở đây là, phải chăng chúng ta có
thể áp dụng thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực đối với văn học của thời kỳ khác,
xuất hiện trong những điều kiện khác (không phải thời đại của chủ nghĩa tư
bản, mà là thời đại phong kiến chẳng hạn)? Konrat cho rằng, việc áp dụng này
sẽ làm mất đi nội dung lịch sử cụ thể của nó. Cần thận trọng tron g việc áp
dụng khái niệm này đối với văn học trước thế kỉ XIX. Có thể nói đến văn học
hiện thực, văn học hướng đến hiện thực trong lịch sử ở nhiều giai đoạn nhưng
thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực chỉ nên dành cho một trường hợp trong số đó.
Văn học hiện thực nói chung có thể được xác định bởi những yếu tố hay
nguyên tắc đặc trưng cấu tạo nên chủ nghĩa hiện thực như một phương pháp
sáng tác, sau: nhà văn xuất phát từ thực tế, say mê cái khách quan, hướng đến
sáng tạo cái điển hình và tiêu biểu cho một loại hiện tượng… Tóm lại, từ ý kiến
của Konrat rút ra tiểu kết: có thể nói đến văn học hiện thực, văn học hướng đến
hiện thực đờ sống thời trung đại, chứ không nên nói đến một chủ nghĩa hiện
thực, theo nghĩa hiện đại của thuật ngữ này, trong văn học trung đại.
Có lẽ Hồng Chương là người đầu tiên đặt vấn đề “truyền thống hiện
thực trong văn học Việt Nam” trong công trình Phương pháp sáng tác trong
văn học nghệ thuật xuất bản năm 1962 (Nxb. Sự thật). Ở công trình này,
Hồng Chương cho rằng, văn học Việt Nam vốn giàu tính hiện thực: “từ
Nguyễn Trãi người mở đầu cho nền văn học cổ điển Việt Nam cho đến
Nguyễn Du đỉnh cao nhất của nền văn học đó, chúng ta thấy có rất nhiều yếu
tố hiện thực…” (tr.222), Truyện Kiều “có nhiều giá trị hiện thực chủ nghĩa”,
Truyện Kiều “đánh dấu một bước quan trọng trong sự trưởng thành và chín
muồi của yếu tố hiện thực chủ nghĩa trong văn học nước ta” (tr.226), yếu tố
hiện thực này ngày càng lớn dần cùng với sự phát triển của văn học dân tộc.
Tiến thêm một bước, sau khi phân tích hoàn cảnh lịch sử xã hội thế kỉ XVIII,
XIX (chế độ phong kiến khủng hoảng, kinh tế hàng hóa phát triển, cá tính và
70
tư tưởng đòi quyền sống ngày càng nảy nở…) Hồng Chương nhận định: mầm
mống của chủ nghĩa hiện thực trong văn học nước ta nảy sinh hồi cuối thể kỉ
XVIII, đầu thế kỉ XIX, “với Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du… chủ nghĩa hiện
thực đã bắt đầu thành hình trong văn học Việt Nam… Truyền thống hiện thực
chủ nghĩa này được Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương… kế tục trong những
điều kiện nước ta bị thực dân Pháp chiếm đóng hồi cuối thế kỉ XIX” (tr.233).
Ngoài công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du
của Lê Đình Kỵ, và một số nghiên cứu khẳng định sự xuất hiện của chủ nghĩa
hiện thực phê phán, tính đến thập niên 60, 70, ở ta, vấn đề hình thành và phát
triển chủ nghĩa hiện thực trong nền văn học dân tộc gần như chưa được quan
tâm chú ý, điều này tạo ra một cục diện là chỉ thấy sự tiếp nhận, ảnh hưởng từ
bên ngoài đối với sự hình thành chủ nghĩa hiện thực phê phán, mà chưa thấy
được những mối liên hệ nguồn cội giữa nó với nền văn học quá khứ. Ý thức
rõ về khoảng trống này, trong một nghiên cứu có tính chất bước đầu năm
1971Đỗ Đức Dục đã bày tỏ “Suy nghĩ về vấn đề sự xuất hiện của chủ nghĩa
hiện thực trong văn học Việt Nam” [4]. Ông khẳng định: “Chủ nghĩa hiện
thực phê phán của những năm 30 tất nhiên không phải chỉ hình thành do ảnh
hưởng của văn học bên ngoài, mà điều chủ yếu cần phải khẳng định là nó có
nguồn gốc từ bên trong những truyền thống vững chắc của văn học nghệ thuật
Việt Nam” (tr.102). Lần ngược lại truyền thống văn học ấy, Đỗ Đức Dục
đánh giá, từ thế kỉ X đến thế kỉ XVIII “chủ nghĩa hiện thực vẫn chưa có điều
kiện để hình thành… nói như vậy không có nghĩa là ở các thời đại trên đã
không xuất hiện những yếu tố hiện thực chủ nghĩa rải rác trong những tác
phẩm văn học có giá trị như Lĩnh Nam chích quái, Thánh Tông di thảo,
Truyền kỳ mạn lục…”, Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ văn, Bình Ngô đại
cáo [4, tr.103]. Trước đó, trong bài “Tính cách điển hình trong Hoàng Lê nhất
thống chí” Đỗ Đức Dục cũng đã nhấn mạnh: “tiểu thuyết Hoàng Lê nhất
thống chí đã đặt được một trình độ khá cao trong việc xây dựng chủ nghĩa
hiện thực trong văn học Việt Nam thời Lê mạt…” [6]
71
Nhìn chung, quan điểm của Đỗ Đức Dục là thừa nhận, có một chủ
nghĩa hiện thực trong văn học trung đại thời đại Nguyễn Du. Cụ thể, đến thời
Lê mạt - Tây Sơn từ sự chuyển biến xã hội và tư tưởng lớn lao xuất hiện cả
một phong trào văn học nghệ thuật hết sức phong phú chưa từng thấy trong
lịch sử, phong phú về nội dung, đề tài cũng như về mặt khuynh hướng,
phương pháp nghệ thuật, và thể loại, về mặt sáng tác dân gian cũng như về
sáng tác bác học. Chính trên cơ sở của phong trào đó đã hình thành, ở bước
đầu tiên của nó, chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam với tính cách là
một phương pháp nghệ thuật, một trào lưu văn học rộng rãi, có thể gọi là chủ
nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du vì Nguyễn Du là người đại biểu lớn nhất,
Truyện Kiều và một phần thơ chữ Hán của Nguyễn Du là sự thể hiện rực rỡ
nhất. Song chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du tất nhiên cũng là kết tinh,
là biểu hiện tập trung của bao nhiêu yếu tố hiện thực chủ nghĩa đã từng xuất
hiện trong văn học nghệ thuật các thời đại trước, cũng như nó đã chịu ảnh
hưởng của những xu hướng khác trong văn học nghệ thuật đương thời [6,
tr.107]. Bàn về đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực trung đại Việt Nam, Đỗ Đức
Dục cho rằng, “chủ nghĩa nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam thời Lê
mạt-Tây Sơn, hình thành trong những điều kiện lịch sử xã hội đặc biệt của
dân tộc, lẽ tất nhiên vừa mang những nét phổ biến giống chủ nghĩa hiện thực
trong văn học phương Tây thời Phục hưng vừa mang những nét riêng biệt,
độc đáo của nó” [4, tr.109]. Ở Việt Nam chủ nghĩa hiện thực xuất hiện chậm
hơn so với các nước phương Tây trên dưới hai thế kỉ, do sự phát triển chậm
chạp, trì trệ của đời sống xã hội Việt Nam thời phong kiến, và do đến cuối thế
kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản mới chỉ manh nha, vì thế tuy có
phổ biến nhưng nó còn mang tính tự phát, tản mạn, chất phác và mang nhiều
hạn chế [5]. Tương tự như Đỗ Đực Dục, Cao Huy Đỉnh khi đọc Truyện Kiều
và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ cũng tương đối nhất
trí với nhiều kết luận của tác giả công trình, ví như ông chia sẻ với quan điểm
nhìn nhận rằng, “xu thế tiến đến chủ nghĩa hiện thực của văn học Việt Nam ở
trong thời đại Nguyễn Du” [8].
72
Cùng quan tâm đến truyền thống chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt
Nam, tác giả Vũ Đức Phúc trong bài “Trào lưu hiện thực chủ nghĩa trong văn
học Việt Nam từ 1930 đến 1945” [47] đã chỉ ra rằng, từ thế kỉ XVI, đặc biệt từ
đầu thế kỉ XVIII trở đi văn học Việt Nam đã “có nhiều tác phẩm có những yếu tố
hiện thực tạo nên một truyền thống có ảnh hưởng rõ rệt đến trào lưu hiện thực
sau năm 1930” [47, tr.58]. Cơ sở của sự hình thành những tác phẩm có yếu tố
hiện thực là sự khủng hoảng, suy sụp kéo dài của chế độ phong kiến. Tuy nhiên,
Vũ Đức Phúc lại không cho rằng đã có một chủ nghĩa hiện thực chung thế kỉ ở
Việt Nam. Ông viết: “văn học Việt Nam có đặc trưng riêng của nó, các trào lưu
vốn khá phức tạp. Vấn đề có hay không một trào lưu hiện thực trong văn học các
thế kỉ XVIII, XIX ở Việt Nam, vẫn còn là một vấn đề phải bàn cãi…có những
nhà thơ nhà văn lớn nhất như Nguyễn Du, nhưng nếu đánh giá họ là hiện thực
thì cũng hơi gò ép, cũng như không thể dùng nguyên tắc sáng tác của Banzac để
đo và quyết định giá trị của Dante” [47, tr.40].
Gần quan điểm với Vũ Đức Phúc, Nguyễn Lộc trong Văn học Việt Nam
nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX (tập 2) [41] sau khi phân tích nghệ
thuật điển hình hóa, đã đi đến nhận định “Nguyễn Du một mặt vẫn kế thừa
truyền thống, một mặt lại phá vỡ truyền thống để đi đến chủ nghĩa hiện thực.
Nhưng cuối cùng Nguyễn Du vẫn dừng lại trước ngưỡng cửa của chủ nghĩa
hiện thực chứ chưa đi vào được quỹ đạo của nó” [41, tr.191]. Xem thế, để thấy
rằng, đối với Nguyễn Lộc, một tác phẩm đỉnh cao của văn học cổ điển như
Truyện Kiều cũng chỉ mới đứng trước cửa của chủ nghĩa hiện thực thì khó có
thể hình dung được một chủ nghĩa hiện thực thời trung đại, ở bên ngoài các
sáng tác của Nguyễn Du, nhất là Truyện Kiều. Thực vậy, Nguyễn Lộc từng
phát biểu ý kiến khẳng định, Tú Xương mới là nhà thơ đã thực sự đi được vào
quỹ đạo của chủ nghĩa hiện thực” [42], về điểm này, trước đó, Nguyễn Đức
Đàn đã bày tỏ ý kiến đồng tình [7]: “sang thời kỳ cận đại, trong những điều
kiện lịch sử mới xuất hiện nhiều nhân tố hiện thực mới, tiền thân của chủ nghĩa
hiện thực phê phán… Trong giai đoạn này, Tú Xương là nhà thơ tiêu biểu
nhất”, thơ Tú Xương thể hiện một “chủ nghĩa hiện thực sâu sắc” [7].
73
Tiếp sau bài của Đỗ Đức Dục, Vũ Đức Phúc, Nguyễn Lộc, Nguyễn
Đình Chú trong bài “Chung quanh vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lịch sử
văn học Việt Nam (Thời kỳ trước chủ nghĩa hiện thực phê phán 1930-1945)
[2] đã sơ kết tình hình nghiên cứu lịch sử hình thành và sự vận dụng lý luận
chủ nghĩa hiện thực vào thực tiễn văn học dân tộc đồng thời đặt ra nhiều vấn
đề chờ đợi những lý giải sâu sắc, có sức thuyết phục cao hơn. Trước hết tác
giả Nguyễn Đình Chú chất vấn cơ sở thực tế đưa đến việc khẳng định, “chủ
nghĩa hiện thực có mặt trong văn học Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ
XIX, trong Truyện Kiều của Nguyễn Du và Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô
gia văn phái” [2, tr.113], ông viết: những nhà nghiên cứu say sưa đuổi theo
kết luận này đã bỏ qua tính đặc thù của văn học quá khứ, là sự hình thành các
trường phái, các chủ nghĩa không diễn ra một cách rõ nét như trong lịch sử
văn học phương Tây; ở phương Đông sự thay thế các hình thái kinh tế xa hội
không dứt khoát, rõ nét như ở nhiều nước phương Tây.
Năm 1982, Nguyễn Thế Việt trong bài “Từ phương pháp tiếp cận đến
việc lý giải sự xuất hiện một lưu phái văn học” (Tạp chí Văn học số 6/1982)
quan niệm có một chủ nghĩa hiện thực thời trung địa Việt Nam, khi tác giả
khu biệt rằng, “khác với sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực phê phán trong
văn học phương Tây tế kỉ XIX, chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam
thời kỳ này xuất hiện trong sự ly với các phạm trù thẩm mỹ có tính ‘mô đéc”,
‘quy phạm’ của truyền thống văn học cổ điển Á Đông.
Năm 1983, tác giả Trần Nho Thìn góp thêm một tiếng nói đáng chú ý
vào cuộc thảo luận còn dang dở về vấn đề thời điểm hình thành của chủ nghĩa
hiện thực trong văn học dân tộc. Trong bài viết có nhan đề “Tìm hiểu tính
luận đề trong Truyện Kiều để xem xét vấn đề có hay không chủ nghĩa hiện
thực ở tác phẩm này” [59], để làm cơ sở cho việc lý giải trường hợp Truyện
Kiều, trước tiên Trần Nho Thìn trình bày ngắn gọn nội hàm thuật ngữ chủ
nghĩa hiện thực. Sau đó ông lưu ý, việc vận dụng công thức chủ nghĩa hiện
74
thực của Engels vào soi sáng thực tiễn văn học dân tộc cần thận trọng, bởi ví
như vấn đề tính cách điển hình và hoàn cảnh điển hình có điểm khó khăn, chỉ
có thể định tính chứ khó có thể định lượng. Ngoài ra cách hiểu và vận dụng
nguyên tắc về sự chân thực của chi tiết cũng có những phức tạp,đấy là chưa
nói đến các nguyên tắc khác như điển hình hóa… Theo Trần Nho Thìn, cần
quan tâm đến tính đặc thù trong việc xem xét mốc hình thành chủ nghĩa hiện
thực trong văn học Việt Nam: ở ta, không có cách mạng tư sản, cũng không
có một cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật nào theo kiểu Copecnic mở đầu,
cho đến thế kỉ XIX thế giới quan duy tâm siêu hình vẫn thống ngự đời sống tư
tưởng chứ không phải thế giới quan duy vật khoa học: “trong một bối cảnh
thế giới quan như thế thật khó mà xuất hiện một xu hướng văn học phản ánh
thực tại theo tinh thần nghiên cứu, phân tích như văn học phương Tây đã làm
ở thế kỉ XIX” [59, tr.25]; hơn nữa, văn học viết Việt Nam trong nhiều thế kỉ
vận động dưới sự chi phối của mỹ học Nho giáo (văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn
chí) thiên về bộc lộ chí, tâm chủ quan hơn là quan sát và phân tích thực tại,
“tình hình này là một trong các nguyên nhân quan trọng khiến cho văn học
mở đường đi vào quy đạo của chủ nghĩa hiện thực hết sức khó khăn” [59,
tr.26]. Xét riêng trường hợp Truyện Kiều, Trần Nho Thìn chỉ ra rằng, Truyện
Kiều có tính luận đề (tài mệnh tương đố), “tính luận đề là một biểu hiện của
thế giới quan duy tâm, siêu hình”, nhìn từ phương diện này có thể nói:
“Truyện Kiều chưa phải là tác phẩm hiện thực chủ nghĩa” [59, tr.36] sau đó
mở rộng phạm vi nghiên cứu, tác giả bài viết rút ra kết luận: “vấn đề chủ
nghĩa hiện thực gắn liền với vấn đề loại hình học lịch sử của văn học. Nó tồn
tại tương ứng với giai đoạn từ thời kỳ cận đại trở đi trong lịch sử. Trước đó, ở
giai đoạn trung đại, chưa thể có một thứ chủ nghĩa hiện thực nào hết… Thật
sai lầm nếu có ai hiểu rằng, có thể có chủ nghĩa hiện thực phương Đông trong
giai đoạn văn học trung cổ” [59, tr.36].
75
Tiếp sau quan điểm của tác giả Trần Nho Thìn, đầu thập niên 90 Trần
Đình Hượu công bố bài viết “Thực tại, cái thực và vấn đề chủ nghĩa hiện thực
trong văn học Việt Nam trung cận đại” [12], góp thêm một cách lý giải sâu
sắc về vấn đề đang đặt ra. Có thể nói phải đến Trần Nho Thìn và Trần Đình
Hượu, vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học trung đại mới được trả về
đúng bản chất của nó, tránh được cách vận dụng cứng nhắc lý luận về chủ
nghĩa hiện thực vào thực tiễn văn học cổ đồng thời cũng tránh được lối hiện
đại hóa hệ thống mỹ học cổ điển thường thấy.
Xem xét cả sáng tác và lý luận văn học thời trung đại, Trần Đình Hượu
nhận thấy, ở thời trung đại một số bậc đại nho đã bàn về cái thực, thực tại
trong văn học, mối quan hệ giữa văn học và thế nước tục dân, ví như Ngô Thì
Nhậm yêu cầu văn chương phải có tác dụng giúp đời, nhà văn cần “biết nắm
lấy cái thực làm cốt tử, rồi dùng đẹp đẽ trang sức thêm”. Như thế, đối với Ngô
Thì Nhậm, văn chương cần hướng vào thực tại, “nhưng thực là thế nào, thực
tại là gì? Nắm lấy cái thực, hướng về thực tại đã phải là có khuynh hướng
hiện thực chưa?.” [12, tr.27] Trần Đình Hượu cho rằng, trong văn học trung
cận đại Việt Nam “không có một phong trào văn học hiện thực chủ nghĩa”
như chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX ở Pháp. Chủ nghĩa hiện thực Pháp hình
thành khi chủ nghĩa tư bản định hình thành thể chế thống trị, “ở nước ta từ thế
kỉ X đến thế kỉ XIX chưa có những điều kiện xã hội đó. Hơn thế nữa, nền văn
học gồm thơ, phú, và các thể loại cổ văn còn thông dụng ở ta cho đến cuối thế
kỉ XIX thậm chí đầu thế kỉ XX, hầu như không thể đi đôi được với một chủ
nghĩa hiện thực kiểu đó [kiểu Pháp]” [12, tr.28]. Trần Đình Hượu lưu ý, thực
tại trong văn học trung đại Việt Nam có khi được hình dung qua khái niệm
“cảnh”, quan hệ giữa thực tại và văn học trở thành quan hệ giữa cảnh và tình;
đối với người trung đại tình là cái bên trong của người sáng tác, tình quyết
định cảnh, “trong lòng có cảm xúc thực sự” từ đó mới “lấy tình tham cảnh”
[12, tr.30], văn chương ở trong tâm mà ra, tâm trở thành cái máy lọc đối với
76
cảnh. Nhà nho xưa quan tâm tới chí, tâm, tình, đạo, chứ không phải quan tâm,
quan sát và tìm hiểu thực tại. Trần Đình Hượu nhấn mạnh: văn học trung đại
có nói đến cái chân, cái thực, nhưng phải hiểu rằng “cái thực mà họ nói chính
là sự trung thực với tâm chứ không phải thực với cảnh” [12, tr.35], thực trong
phản ánh trung thực hiện thực khách quan như lý luận văn học hiện đại định
nghĩa. Văn học trung đại chịu ảnh hưởng trực tiếp của Nho giáo, một “học
thuyết coi trọng thực tại, ghét những chuyện viển vông” [12, tr.41]. “Đối với
Nho giáo, Văn là đặc biệt quan trọng nhưng không tách rời Tâm, Đạo”, văn
học trung đại không tách thực tại ra khỏi tâm, đạo, nó “theo đuổi cái thần chứ
không phải cái thực, bằng con đường của dưỡng tâm chứ không phải ghi
chép, mô tả khách quan, nền văn học ấy không phải hiện thực mà cũng không
chuẩn bị tiến lên theo hướng hiện thực” [12, tr.41-41]. Cách diễn giải của
Trần Đình Hượu chỉ ra cho ta thấy rằng: khái niệm “thực” của văn học trung
đại cần phải hiểu là thực với tâm của mình, ví dụ, nói yêu nước thương dân
thì mình phải thực tâm, đừng dối trá, lòng không có tình cảm đó nhưng miệng
cứ nói thì không chân thực.
Suy nghĩ về vị trí văn học sử của Truyện Kiều, Trần Đình Hượu khẳng
định: “Muốn giải quyết vấn đề có hay không có chủ nghĩa hiện thực trong văn
học Việt Nam trước thế kỉ XX tất phải bàn về Truyện Kiều” [12, tr.49], “Cả
Truyện Kiều là những mảnh đời sống động, mỗi nhân vật trong từng hoàn
cảnh, từng tình huống đều có tâm trạng, đều suy nghĩ hành động đúng như
trong cuộc đời phải thế. Mỗi nhân vật như Tú Bà, Sở Khanh, Hoạn Thư đã trở
thành điển hình cho tính cách từng loại người. Từ một quyển tiểu thuyết tầm
thường của Thanh Tâm Tài Nhân, cụ Tiên Điền đã xây dựng nên một truyện
thơ tuyệt tác. Từ tài năng phi thường đó mới có vấn đề chủ nghĩa hiện thực
trong văn học Việt Nam trung cận đại.” [12, tr.49]. Ghi nhận đóng góp của Lê
Đình Kỵ, nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu viết: “Lê Đình Kỵ và Phan Ngọc
dùng hai phương pháp khác nhau phát hiện rất thấu đáo nghệ thuật của
77
Nguyễn Du trong Truyện Kiều và cả hai đều thấy không phải dễ dàng coi
Nguyễn Du là nhà văn hiện thực chủ nghĩa, nếu như không hiểu chủ nghĩa
hiện thực một cách linh hoạt….”. Trên tinh thần ấy, Trần Đình Hượu bày tỏ
một quan điểm khác, ông viết: “Truyện Kiều vẫn cứ là một tuyệt tác mà vẫn
không phải là hiện thực chủ nghĩa. Nó phát huy tuyệt vời những di sản nghệ
thuật cũ chứ không phải mở ra con đường mới. Tình trạng phát triển đô thị và
các quan hệ kinh tế-xã hội của phương Đông lúc đó chưa cho phép ra đời
những tiền đề của chủ nghĩa hiện thực.” [12, tr.65]. “Thể chế chuyên chế
phương Đông cản trở việc khẳng định các quan hệ tư bản chủ nghĩa, còn tồn
tại cho đến thế kỉ XIX và vị trí độc tôn của Nho giáo ngăn cản sự hình thành
của chủ nghĩa hiện thực” [12, tr.81].
Trên đại thể, có hai ý kiến về vấn đề có hay không chủ nghĩa hiện thực
trong văn học trung đại Việt Nam. Tương ứng với hai ý kiến này là hai cách
hiểu về thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực. Một đằng hiểu khái niệm này theo
nghĩa rộng, thừa nhận có một truyền thống chủ nghĩa hiện thực trong văn học
trung đại, thậm chí bao gồm cả văn học dân gian, tức là gần như đồng nhất
chủ nghĩa hiện thực với bản chất của văn học. Một đằng hiểu hẹp hơn, hoặc
giới hạn chủ nghĩa hiện thực trong một số hiện tượng như Truyện Kiều/thời
đại Nguyễn Du, Hoàng Lê nhất thống chí… hoặc xem chủ nghĩa hiện thực chỉ
xuất hiện trong những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể [như nó vốn đã từng nảy
sinh ở Pháp], với sự tan rã của chế độ phong kiến, sự nảy nở của tầng lớp tư
sản, sự phát triển của kinh tế hàng hóa, sự hình thành của thế giới quan khoa
học, và sự thoát khỏi hệ thống mỹ học của Nho giáo… Điểm chung của hai
quan điểm này là đều xuất phát từ lý luận, lấy lý luận, đối chiếu với lý luận để
đánh giá về thực tiễn.
Theo chúng tôi, để có thêm một cơ sở thực tiễn đặng trả lời câu hỏi có
hay không chủ nghĩa hiện thực trong văn học trung đại Việt Nam, cần lưu ý
về kiểu tư duy nghệ thuật của nhà nho trung đại trong việc miêu tả và thể hiện
con người.
78
Xét riêng mảng truyện thơ Nôm. So với thơ vịnh sử - thường ít khi
miêu tả, khắc họa con người với chân dung hay tính cách cụ thể, thì ở
truyện thơ Nôm bác học (và ngâm khúc) “chúng ta có thể bắt gặp các nhân
vật với chân dung ngoại hình, với ngôn ngữ, tính cách, số phận riêng” [62,
tr.101], nhân vật được miêu tả trong các mối quan hệ xã hội khác nhau. Ở
truyện thơ Nôm bác học, hệ thống các nhân vật đường phân loại thành hai
nhóm khác nhau; sự phân loại này phản ánh một nguyên tắc tư duy của
người sáng tác trung đại: tư duy phân loại [62, tr.103]. Đối với các nhân
vật chính diện, nhà nho (tác giả) thường dành thiện cảm khi miêu tả ngoại
hình hay trần thuật về chiều hướng con đường đời của nhân vật đó, trong
khi đối với loại nhân vật phản diện, họ thường có ác cảm, thể hiện trong
thái độ căm ghét khinh miệt, phê phán chúng. Nhân vật chính diện thường
được nhà nho gắn với “bảng giá trị có liên quan đến sắc đẹp, tài năng, và
nhân cách cao thượng, phi thường.” [62, tr.107], trong khi đó, nhân vật
phải diện thường được các tác giả đặt ra ngoài bảng giá trị này. Để khắc
họa hai hệ thống nhân vật chính diện và phản diện, các tác giả truyện thơ
Nôm bác học thường dùng hai hệ thống phương tiện nghệ thuật khác nhau:
một đằng được miêu tả bằng bút pháp ước lệ, tượng trưng đậm nét; một
đằng được khắc họa bằng phút pháp hiện thực, đặt nhân vật vào cuộc sống
hàng ngày, miêu tả chúng sao cho cụ thể, giống như thực.
Nếu không chú ý, việc thể hiện con người trong văn học thời cổ gắn
liền với kiểu tư duy phân loại của nhà nho (thể hiện ở ba cấp độ: ngôn ngữ tác
giả, cấu tạo giá trị cho nhân vật và các phương tiện nghệ thuật được sử dụng
để miêu tả), rất dễ xảy ra tình trạng, gán ghép thô thiển nghệ thuật khắc họa
nhân vật của truyện thơ Nôm vào các hệ thống lý luận hiện đại, như chủ nghĩa
hiện thực, tức là đã xem thường cái lôgic nghệ thuật độc đáo của tác phẩm
truyện thơ trung đại, bỏ qua kiểu tư duy phân loại của nhà nho. Cách đọc hiện
đại hóa - diễn giải các dữ liệu trung đại theo lý luận hiện đại, hay cốt sao cho
79
khớp với một các nguyên tắc mỹ học của một phương pháp sáng tác hiện đại
nào đó, dễ đi đến ngộ nhận về sự hiện diện của chủ nghĩa hiện thực trong văn
học cổ-trung đại.
3.2. Đánh giá về công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của
Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ
Như luận văn đã trình bày ở Chương 1, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện
thực của Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ là công trình gây được tiếng vang ngay
từ khi xuất hiện.
Đánh giá về những đóng góp của Lê Đình Kỵ
Hầu hết các ý kiến thảo luận về Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực
của Nguyễn Du đều ghi nhận những tìm tòi, phát hiện mới mẻ của Lê Đình
Kỵ. Cao Huy Đỉnh khẳng định “Lê Đình Kỵ đã có những phát hiện mới về
Truyện Kiều có khả năng thuyết phục bạn đọc thực sự” [8], xác định vị trí của
công trình trong sự phát triển của ngành Kiều học, Cao Huy Đỉnh viết: đây là
một cống hiến đáng kể vào lịch sử nghiên cứu Nguyễn Du, Truyện Kiều và
văn học cổ điển Việt Nam” [8, tr.138].
Xét riêng về vị trí của Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn
Du trong sự nghiệp học thuật của Lê Đình Kỵ, Nguyễn Đình Chú cho rằng,
Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là công trình quy mô, vượt
qua giai đoạn bước đầu tìm hiểu phương pháp sáng tác Truyện Kiều hồi năm
1963 [2] của tác giả. Định vị rõ hơn, Trịnh Bá Đĩnh nhấn mạnh: Truyện Kiều
và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là đỉnh cao nhất, tác phẩm sáng giá nhất
trong sự nghiệp của Lê Đình Kỵ, “đây là công trình thú vị tiêu biểu cho cách
mà Lê Đình Kỵ vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực để phê bình văn học” [8,
tr.169-172]. Còn Huỳnh Như Phương viết: Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực
của Nguyễn Du “được xem như đỉnh cao trong sự nghiệp trước tác của ông”,
đây “là một công trình thể hiện đầy đủ bút lục của một nhà nghiên cứu có uy
tín. Cuốn sách gợi cho ta ý nghĩ rằng, có lẽ trong đời mình, mỗi nhà nghiên cứu
chỉ cần viết nên một cuốn sách thật đích đáng” [48].
80
Theo Nguyễn Lộc [41], đặt Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của
Nguyễn Du vào “đợt kỉ niệm 200 sinh Nguyễn Du” sẽ thấy, công trình này
cùng với nhiều tiểu luận của các tác giả khác như Hà Huy Giáp, Hoài Thanh,
Trần Văn Giàu, Nguyễn Khánh Toàn…đi sâu hơn vào nội dung xã hội của tác
phẩm và vấn đề thế giới quan, phương pháp sáng tác. Nguyễn Lộc đánh giá:
“Chuyên luận Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê
Đình Kỵ là một đề tài có chất lý luận. Có thể nói, Lê Đình Kỵ là người đầu
tiên đã mở ra một hướng nghiên cứu mới: nghiên cứu Truyện Kiều trong
tương quan với phương pháp sáng tác của nhà thơ. Với ngòi bút phân tích sắc
sảo của một nhà phê bình, từ góc độ phương pháp sáng tác, Lê Đình Kỵ đã có
những phát hiện về Truyện Kiều mà những nhà nghiên cứu Truyện Kiều
những giai đoạn trước chưa có… Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của
Nguyễn Du giúp người đọc hiểu sâu hơn những giá trị độc đáo của một nhà
thơ thiên tài” [41, tr.261]. Sau này khi “Đọc lại Truyện Kiều và chủ nghĩa
hiện thực của Nguyễn Du”, Nguyễn Lộc vẫn giữ quan điểm khẳng định đóng
góp của Lê Đình Kỵ, ông viết: “Ở công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện
thực của Nguyễn Du, từ góc độ phương pháp sáng tác, Lê Đình Kỵ đã có
những phát hiện và lý giải mới mẻ, sắc sảo, thuyết phục trên nhiều vấn đề về
lí tưởng thẩm mỹ, về chủ nghĩa nhân đạo và sự thể hiện chân lí đời sống, về
cách thể hiện nhân vật, về điển hình hóa, về thời gian và không gian nghệ
thuật, về tính lịch sử cụ thể của Truyện Kiều” [41, tr.351].
Bàn về các luận cứ, luận chứng trong Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện
thực của Nguyễn Du, Cao Huy Đỉnh thừa nhận vốn hiểu biết sâu sắc, rộng rãi
của người viết: tác giả đã huy động nhiều tri thức về con người, tác phẩm và
thời đại của Nguyễn Du để lý giải, cắt nghĩa, chỉ ra nhiều vấn đề, ông đã miêu
tả được một cách nhất quán cái khối thống nhất hữu cơ của Truyện Kiều
nhưng lại chồng chéo nhiều mâu thuẫn phức tạp, và “kiên trì soi đi soi lại
nhiều lần đối tượng của mình từ nhiều góc độ ánh sáng khác nhau (lịch sử, xã
81
hội, tâm lý, thẩm mĩ, văn học….)” [8]. Trần Đình Sử cũng khẳng định Lê
Đình Kỵ có nhiều đóng góp mới mẻ: “Thành công đáng kể của Lê Đình Kỵ là
ông đã vận dụng nhuần nhuyễn các khái niệm tính cách, cá tính, hoàn cảnh,
chi tiết để phân tích tính thống nhất toàn vẹn, sinh động của các nhân vật
Truyện Kiều. Có thể nói đó là sự nghiên cứu thi pháp Truyện Kiều theo thi
pháp của chủ nghĩa hiện thực. Đồng thời đối chiếu với thi pháp của chủ
nghĩa hiện thực cũng làm cho nhà nghiên cứu thấy rõ nhiều đặc trưng nghệ
thuật riêng của Truyện Kiều mà ông gọi là “những ràng buộc của mỹ học
đương thời…" [55].
Nhìn lại các ý kiến đánh giá nhân vật Truyện Kiều trong thế kỉ XX,
Trần Nho Thìn đã chỉ ra cách tiếp cận riêng của Lê Đình Kỵ so với Phan
Ngọc, Trần Đình Sử: trong khi Phan Ngọc đứng từ quan điểm thao tác luận,
Trần Đình Sử nhìn từ góc độ tự sự học thì Lê Đình Kỵ xuất phát từ điểm nhìn
giai cấp luận và “phản ánh luận để tìm cội nguồn đã gây ra những mâu thuẫn
trong cách đánh giá nhân vật Truyện Kiều, nhất là nhân vật Thúy Kiều”, “xem
xét tương quan giữa tác phẩm và hiện thực khách quan” [62, tr.378-379].
Nhìn chung “mỗi nhà nghiên cứu có một cách tiếp cận riêng và theo cách
riêng đã chỉ ra một cách đúng đắn bản chất của phong phú, nhiều chiều của
nhân vật Truyện Kiều, điều đã tạo nên sức sống mãnh liệt cho chúng”. Gần
với quan điểm của Trần Nho Thìn, Trịnh Bá Đĩnh lý giải, từ góc nhìn lý luận
hiện thực chủ nghĩa, Lê Đình Kỵ đã có những phát hiện thú vị, “song dường
như phần giá trị nhất của công trình lại là những chỗ ông viết về nghệ thuật
thơ của Nguyễn Du. Ngòi bút phê bình dường như trội hơn ngòi bút lí luận là
điều có thể thấy rõ trong cuốn sách” [9]. Còn Huỳnh Như Phương bình luận:
“Nhìn Truyện Kiều như một cấu trúc thẩm mỹ nằm trong toàn bộ thế giới
nghệ thuật của Nguyễn Du và là sản phẩm của một hoàn cảnh xã hội - lịch sử
nhất định, Lê Đình Kỵ đã trình bày và biện giải một cách thuyết phục cơ sở tư
tưởng - thẩm mỹ cũng như quan niệm về con người và nghệ thuật của nhà
82
thơ. Tác giả cuốn sách đã chỉ ra đâu là huyền thoại và đâu là thực chất trong
triết lý về Tài, Mệnh, Tâm của Truyện Kiều. Những trang hay nhất của cuốn
sách được dành để viết về thế giới nhân vật đa dạng và sống động của Nguyễn
Du, từ Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải cho đến Tú Bà, Hoạn Thư, Mã Giám
Sinh… Với giọng văn uyển chuyển và nhuần nhị, những trang sách này có thể
xem là một dẫn chứng điển hình về sự tiếp nhận Truyện Kiều từ chỗ đứng của
một con người hiện đại có tầm văn hóa cao. Và từ niềm xác tín trên con
đường nghiên cứu của mình, Lê Đình Kỵ đã bày tỏ một thái độ nồng nhiệt đối
với cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa của Nguyễn Du trong việc nhìn nhận thế
giới và con người” [48, tr.15].
Nhận xét về ngôn ngữ phê bình của Lê Đình Kỵ, nhà nghiên cứu Cao
Huy Đỉnh khẳng định công trình của Lê Đình Kỵ có chất văn, logic, “nguồn
tư liệu dồi dào”, “ngôn ngữ mềm mỏng, mạch văn tinh tế, nếp cảm nghĩ cặn
kẽ, sâu sắc” [8].
Thảo luận về những giới hạn của công trình
Theo Cao Huy Đỉnh, Lê Đình Kỵ “còn lúng túng trong việc xác định
phương pháp sáng tác cơ bản của Nguyễn Du và Truyện Kiều” [8, tr.138]. Hạn
chế khác là: Lê Đình Kỵ đã lấy tiêu chuẩn của phương pháp hiện thực chủ nghĩa
ở văn học phương Tây, văn học Nga thế kỉ XIX để tìm hiểu Truyện Kiều; quá đề
cao phương pháp sáng tác chủ nghĩa hiện thực, xem chủ nghĩa hiện thực đứng
nhất, đừng sau nó là chủ nghĩa cổ điển, sáng tác kiểu dân gian, “gán cho chủ
nghĩa hiện thực cái độc quyển có thế giới quan tiến bộ, có ý nghĩa xã hội lịch sử,
có chân lý đời sống và có khả năng cá thể hóa hình tượng” [8].
Tác giả chưa chỉ ra được nội dung cuộc sống Việt Nam hiện tại, hàng
ngày đã đi vào Truyện Kiều ở chỗ nào với cái dạng vốn có của nó, chưa chỉ ra
những nguyên mẫu của trong xã hội Việt Nam thế kỉ XVIII hay trong chính
thời đại và môi trường sống của Nguyễn Du đã chuyển hóa vào bản thân hình
tượng của Truyện Kiều, Lê Đình Kỵ mới chỉ dừng lại ở cái gọi là “tinh thần
83
Việt Nam” do đó việc tác giả nói đến một chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du
hẳn là chưa có cơ sở vững chắc. Mục tiêu của Lê Đình Kỵ là đi tìm chủ nghĩa
hiện thực trong Truyện Kiều nhưng vì chưa nắm bắt được tiêu chuẩn đặc thù
của phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa, nên càng đi sâu khảo sát cơ
cấu Truyện Kiều, Lê Đình Kỵ lại càng trông thấy một thứ chủ nghĩa lý tưởng,
chủ nghĩa cổ điển hơn là chủ nghĩa hiện thực. Cao Huy Đỉnh gọi hành trình
này là “chỗ thiếu thanh thoát nhất của cuốn sách, khiến chúng ta chưa hiểu hết
được chủ kiến của tác giả” [8, tr.138]. Đối với Cao Huy Đỉnh, tiêu chí cốt yếu
để nhận diện chủ nghĩa hiện thực là quá trình và phương thức chuyển hóa
từ thực tiễn đến văn học và ngược lại. Nguyễn Lộc cũng nhận định: nhược
điểm khá rõ trong công trình của Lê Đình Kỵ là tính hệ thống không được
chặt chẽ, “Lê Đình Kỵ dường như vẫn lấy một tiêu chuẩn có sẵn nào đó về
chủ nghĩa hiện thực của nước ngoài rồi đối chiếu so sánh với Truyện Kiều,
chứ chưa xuất phát từ quy luật vận động nội tại của văn học dân tộc để
nghiên cứu nó” [41, tr.262].
Tương tự như Cao Huy Đỉnh, Huỳnh Như Phương khái quát khách
quan: “Vấn đề chủ nghĩa hiện thực phương Đông nói chung, chủ nghĩa hiện
thực trong văn học cổ Việt Nam nói riêng, cho đến nay, chưa phải đã được
bàn luận thấu đáo. Thời Lê Đình Kỵ viết cuốn sách này, ở ta không phải
không có xu hướng vận dụng những tiêu chí của chủ nghĩa hiện thực phương
Tây vào nghiên cứu những giá trị của văn học cổ điển Việt Nam và đã không
tránh khỏi ít nhiều khiên cưỡng. Chính Lê Đình Kỵ cũng nhận thấy rằng, chủ
nghĩa hiện thực là cái áo quá chật so với cơ thể cường tráng của Truyện Kiều”
[48, tr.16]. Bản thân Lê Đình Kỵ, sau này, trong một bài trả lời phỏng vấn
cũng thú nhận: ông muốn “thuyết phục người đọc rằng Truyện Kiều vĩ đại
không chỉ vì phương pháp sáng tác mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác.
Bởi vì thực ra những gì mà Nguyễn Du thể hiện qua Truyện Kiều khiến chúng
ta chỉ có thể hình dung đến một chủ nghĩa hiện thực phôi thai, một chủ nghĩa
hiện thực trong giai đoạn sơ kì của nó mà thôi” [37, tr.11]
84
Chọn cách đặt vấn đề khác với Cao Huy Đỉnh, Đỗ Đức Dục cùng nhiều
nhà nghiên cứu muốn truy tìm sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực trong văn
học Việt Nam trước những năm 30 của thế kỉ XX. Nhìn từ yêu cầu đó, ông đã
cho rằng, công trình của Lê Đình Kỵ còn có khiếm khuyết chưa được lấp đầy:
“đến nay, khi mà việc biên soạn một cuốn lịch sử văn học Việt Nam đang
chính thức được tiến hành, thiết tưởng việc nghiên cứu những vấn đề trào lưu
văn học, phương pháp sáng tác văn học, như về sự xuất hiện của chủ nghĩa
hiện thực trong văn học Việt Nam là một điều rất cần thiết. Gần đây cuốn
sách Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ đã
một phần đề cập tới vấn đề đó, nhưng tiếc rằng tác giả chưa có ý kiến thật dứt
khoát, nhất là chưa nhằm nêu lên quá trình hình thành của chủ nghĩa hiện thực
trong văn học Việt Nam” [4, tr.100-101].
85
Tiểu kết chương 3
Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là công trình thành
công nhất của Lê Đình Kỵ. Nhiều vấn đề đặt ra từ công trình này, ngay từ khi
công bố, đã thu hút sự quan tâm, bàn thảo của giới nghiên cứu lý luận và lịch
sử văn học. Các ý kiến về vấn đề có hay không chủ nghĩa hiện thực trong văn
học trung đại, hay về những hạn chế và thành công của Lê Đình Kỵ khi vận
dụng lý luận về phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa vào nghiên cứu
Truyện Kiều có sự phân hóa rõ rệt.
Ngày nay nhìn lại, chúng ta thấy, thành công và giới hạn của Truyện
Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du cũng chính là ưu điểm và giới
hạn của một cách đọc, một cách tiếp cận tác phẩm. Bên cạnh cách tiếp cận từ
phương pháp sáng tác, từ phản ánh luận, còn có nhiều cách diễn giải khác.
Không có phương pháp vạn năng. Mỗi cách đọc, cách tiếp cận cho thấy một
vài khía cạnh, vẻ đẹp vốn rất phong phú, phức tạp tiềm tại trong cấu trúc ngôn
từ và hình tượng của văn bản.
86
KẾT LUẬN
1. Lê Đình Kỵ là nhà lý luận phê bình văn học theo khuynh hướng xã
hội học mác xít. Ông tích cực đưa tới giới nghiên cứu nhiều văn bản về chủ
nghĩa hiện thực cũng như góp phần gợi cảm hứng cho các nghiên cứu văn học
sử về sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực trong lịch sử văn học dân tộc. Lê
Đình Kỵ không dừng lại ở việc dịch thuật, viết giáo trình về các phương pháp
sáng tác văn học nghệ thuật, trong đó bao gồm cả chủ nghĩa hiện thực, mà còn
vận dụng lý luận về chủ nghĩa hiện thực vào nghiên cứu văn học cổ điển, đặt
ra những vấn đề lớn có tính phương pháp luận trong việc lý giải các hiện
tượng lớn, tiêu biểu của văn học quá khứ.
2. Từ những năm 60 Lê Đình Kỵ đã có những nghiên cứu thử nghiệm
về phương pháp sáng tác của Truyện Kiều. Có thể tìm thấy những bước đi đầu
tiên của ông trong một số bài tạp chí chuyên ngành và tiểu luận bàn về nhân
vật Truyện Kiều, triết lý, thế giới quan của nhà văn nhân kỉ niệm 200 năm
năm sinh Nguyễn Du, bên cạnh đó có thể thấy từ lâu Truyện Kiều luôn là chất
liệu thích hợp dẫn vào các vấn đề lý luận về phương pháp sáng tác trong các
giáo trình mà Lê Đình Kỵ tham gia biên soạn. Chẳn hạn như vấn đề điển hình
hóa, khi nghiên cứu và diễn giải phương thức điển hình hóa, Lê Đình Kỵ
thường xuyên nhắc đến trường hợp Truyện Kiều như một ví dụ tiêu biểu và
thích hợp nhất để soi sáng vấn đề.
3. Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là công trình
đỉnh cao trong sự nghiệp của Lê Đình Kỵ. Công trình này là sự tiếp nối, phát
triển sâu sắc và có hệ thống các nghiên cứu thể nghiệm trước đó của Lê Đình
Kỵ. Đúng như Nguyễn Lộc nhận định: đây là công trình có tính chất lý luận,
ở đó rất nhiều lần Lê Đình Kỵ giới thuyết về nguyên tắc mỹ học của chủ
nghĩa hiện thực, cũng như cung cấp một vài khía cạnh về phương pháp luận
trong việc xác định nội dung xã hội - giai cấp của Truyện Kiều.
87
Ngay “Lời nói đầu” của công trình, Lê Đình Kỵ đã giải thích bản chất
hướng tiếp cận của ông: “Nghiên cứu Truyện Kiều trong mối tương quan với
chủ nghĩa hiên thực, tức cũng là nghiên cứu phương pháp sáng tác của tác
phẩm cổ điển lớn nhất của nền văn học dân tộc”. Nhìn từ góc độ này, Truyện
Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du thực sự “đã ra một hướng nghiên
cứu mới: nghiên cứu Truyện Kiều trong mối tương quan với phương pháp
sáng tác của nhà thơ”.
4. Điểm mạnh trong Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn
Du là cái nhìn lý luận sâu sắc. Chính sự am hiểu những vấn đề lý luận của chủ
nghĩa hiện thực, hiểu như một phương pháp sáng tác, đã giúp Lê Đình Kỵ tổ
chức công trình của mình theo một hệ thống diễn giải chặt chẽ: “Nhìn Truyện
Kiều như một cấu trúc thẩm mỹ nằm trong toàn bộ thế giới nghệ thuật của
Nguyễn Du và là sản phẩm của một hoàn cảnh xã hội - lịch sử nhất định, Lê
Đình Kỵ đã trình bày và biện giải một cách thuyết phục cơ sở tư tưởng - thẩm
mỹ cũng như quan niệm về con người và nghệ thuật của nhà thơ” [48, tr.15],
từ đó ông bàn sâu về nội dung xã hội Truyện Kiều cũng như về nghệ thuật
điển hình hóa theo hướng hiện thực chủ nghĩa…
Khác với các nghiên cứu xem văn học trung đại thiếu tinh thần tả chân,
hoặc xem Truyện Kiểu chỉ mới đứng ở ngưỡng cửa của chủ nghĩa hiện thực,
bằng hệ thống lý luận mạch lạc, kinh nghiệm văn học sử phong phú, Lê Đình
Kỵ đã lập luận, phân tích và chứng minh Truyện Kiều có một vị quan trọng
trong việc hình thành chủ nghĩa hiện thực của văn học dân tộc ta. Tư tưởng
chính mà Lê Đình Kỵ thể hiển trong công trình tâm huyết của mình được hiểu
như sau, ông xem: “Truyện Kiều là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử văn học
dân tộc, và kinh nghiệm của lịch sử văn học các nước cho biết rằng trong
những bước ngoặt như thế thường là gắn liền với chủ nghĩa hiện thực; ít ra thì
cũng là biểu hiện một cố gắng vươn tới chủ nghĩa hiện thực. Truyện Kiều đã
đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của nền văn học hiện thực chủ
88
nghĩa ở nước ta… Ở Truyện Kiều có sự xen kẽ, sự đấu tranh giằng xé giữa xu
hướng hiện thực chủ nghĩa và những nền nếp đã thành thông lệ. Cái lớn của
Nguyễn Du không phải ở chỗ cắt đứt mọi liên hệ với nền văn học quá khứ và
đương thời, mà là ở chỗ, thông qua những khuôn khổ, những quy ước định
sẵn, Nguyễn Du đã tìm được con đường dẫn tới chủ nghĩa hiện thực, bằng sự
kết hợp sinh động, tài tình”, “chủ nghĩa hiện thực của Truyện Kiều là chủ
nghĩa hiện thực hình thành trong vòng vây của những quan điểm và thực tế
sáng tác không phải hiện thực”, giới hạn của chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn
Du gắn liền với truyền thống không phải hiện thực chủ nghĩa này”. Rõ ràng
Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là một tiếng nói khác,
một cách tiếp cận mới mẻ, đặt ra được nhiều vấn đề học thuật có thể được tiếp
tục thảo luận sâu thêm.
5. Trong khi có ý kiến còn băn khoăn cho rằng, đặt vấn đề phương pháp
sáng tác là dễ rơi vào tình trạng minh họa, rập khuôn lý thuyết, lấy tiêu
chuẩn của nền văn học khác để đo nền văn học trong nước, lấy những điều
kiện lịch sử xã hội của phương Tây nơi nảy sinh chủ nghĩa hiện thực gán
ghép vào văn học Việt Nam, mà “bỏ qua đặc tính Việt Nam của vấn đề” thì
Lê Đình Kỵ đã cho thấy qua Chương 1 và rải rác ở nhiều chương khác của
công trình, một ngữ cảnh đặc thù làm nảy sinh thế giới quan, phương pháp
sáng tác tiến bộ của Nguyễn Du. Lê Đình Kỵ đã chỉ ra, “chủ nghĩa hiện
thực của Truyện Kiều gắn chặt với truyền thống văn học lâu đời của dân
tộc”, những hạn chế và điểm tiến bộ của kiệt tác này do chính lịch sử quy
định. Lê Đình Kỵ không máy móc đòi hỏi sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực
ở Việt Nam nói chung, của Truyện Kiều nói riêng, nhất thiết phải gắn liền
với chủ nghĩa tư bản như ở châu Âu, trong cái nhìn của ông, phương pháp
sáng tác của Nguyễn Du có tính đặc thù dân tộc và Truyện Kiều có tính quá
độ, vừa trong vòng, chịu sự ràng buộc của mỹ học phong kiến vừa muốn
thoát khỏi và vượt lên hệ thống đó.
89
6. Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du lấy trọng tâm
nội dung xã hội, nội dung phản ánh của Truyện Kiều, mối liên hệ giữa tác
phẩm và thực tại đời sống làm đối tượng diễn giải, phân tích. Đây cũng chính
là một đặc trưng của phương pháp xã hội học văn học, của nhãn quan quyết
định luận thịnh hành thập niên 60, 70 ở miền Bắc. Theo Lê Đình Kỵ, Truyện
Kiều đã thể hiện khách quan chân thực đời sống, quan tâm phô diễn nội tâm
và xây dựng tính cách nhân vật bằng điển hình hóa, thừa nhận sự tác động qua
lại giữa con ngươi và môi trường sống, coi trọng những chi tiết cụ thể trong
việc mô tả đời sống và nhân vật… Lê Đình Kỵ nhấn mạnh quan điểm của
ông: “Nội dung Truyện Kiều trước hết là chân lý đời sống, không phải là đạo
đức lý tưởng đạt tới bằng con đường lý tưởng hóa… Truyện Kiều là một
truyện thuộc phàm trù xã hội-tâm lý chứ không phải phạm trù đạo đức”.
7. Mặc dù tập trung vào nội dung xã hội của Truyện Kiều, song Lê
Đình Kỵ không xem nhẹ phương diện nghệ thuật của tác phẩm: “Không thể
tách rời nghệ thuật vô song của Truyện Kiều với lý tưởng thẩm mỹ của
Nguyễn Du. Không thể tách rời tính chân thực sinh động của các nhân vật với
phương pháp điển hình hóa trong truyện. Và cái ngôn ngữ kỳ diệu của Truyện
Kiều phong phú, uyển chuyển, đầy sức biểu hiện như thế, là vì nó chất chứa
cái chân lý đời sống mà Nguyễn Du tự đặt cho mình nhiệm vụ phải thể hiện”.
Ông không chỉ thành công trong việc diễn giải có chiều sâu về nội dung xã
hội mà còn có nhưng trang viết hấp dẫn về nghệ thuật của Truyện Kiều. Trịnh
Bá Đĩnh đánh giá, “dường như phần giá trị nhất của công trình là những chỗ
ông viết về nghệ thuật thơ của Nguyễn Du” [9, tr.172].
8. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, việc nghiên cứu Truyện Kiều trong
tương quan với chủ nghĩa hiện thực, như cách làm của Lê Đình Kỵ, chỉ là một
cách tiếp cận Truyện Kiều, một cách lý giải những đóng góp, hạn chế của
Nguyễn Du thể hiện trong kiệt tác này. Cách tiếp cận của Lê Đình Kỵ có
nhiều mặt tích cực, khả thủ, tuy nhiên nó không phải là chìa khóa vạn năng để
90
tìm hiểu mọi hiện tượng văn học quá khứ, văn học cổ-trung đại Việt Nam,
càng không thể thay thế các cách tiếp cận khác. Có bao nhiêu hệ thống lý
thuyết thì có thể có bấy nhiêu kết luận khác nhau về Truyện Kiều.
Nói riêng về việc vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực vào xem xét
Truyện Kiều, chúng ta thấy cần có một thái độ thận trọng, bởi chẳng hạn, nếu
thừa nhận Truyện Kiều là một tác phẩm có tính luận đề thì sẽ thấy, khó có thể
đưa đến một nhận định nào đó về chủ nghĩa hiện thực của Truyện Kiều, hiểu
theo nghĩa nghiêm ngặt của thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực. Nhà nghiên cứu
Huỳnh Như Phương khi viết “Lời nói đầu” cho Tuyển tập Lê Đình Kỵ cho
rằng có độ chênh nhất định giữa lý thuyết của chủ nghĩa hiện thực với phương
pháp, thế giới nghệ thuật của Nguyễn Du. Tác giả Huỳnh Như Phương cung
cấp thêm chi tiết, Lê Định Kỵ sau này cũng thấy rằng “chủ nghĩa hiện thực là
cái áo quá chật so với cơ thể cường tráng của Truyện Kiều”, và trong bản in
đầu tiên do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành, cái nhan đề Truyện Kiều
và chủ nghĩa hiên thực của Nguyễn Du do Nhà xuất bản thêm vào ba chữ sau
(của Nguyễn Du), và trong một bản in ở Nhà xuất bản Cửu Long năm 1988,
Lê Đình Kỵ đã không ngần ngại đổi tên cuốn sách của ông thành Truyện
Kiều, đỉnh cao văn học. Bài học được rút ra ở đây là: “Vấn đề chủ nghĩa hiện
thực gắn liền với vấn đề loại hình học lịch sử của văn học… Không thể nhầm
lẫn giữa khuynh hướng mang đậm tính xã hội trong nội dung đề tài và cảm
hứng sáng tạo với chủ nghĩa hiện thực như một kiểu tư duy, kiểu sáng tác”
[62, tr.264]. Một điểm chưa ổn trong nghiên cứu của Lê Đình Kỵ chính là ông
cứ muốn khái quát, ép tác phẩm vào khung chủ nghĩa hiện thực theo tiêu chí
của văn học phương Tây, chưa chú ý đầy đủ đến đặc thù của văn học trung
đại Việt Nam vốn có những đặc trưng rất riêng.
Một điểm bất cập khác trong là Lê Đình Kỵ có phần quá đề cao, nói
không muốn nói là tuyệt đối hóa chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa hiện thực xã
hội chủ nghĩa so với các phương pháp sáng tác khác. Ông xem đây là một
91
phương pháp sáng tác tiến bộ, một bước tiến lịch sử của tư duy nghệ thuật
của loài người, là thành tựu lịch sử của cả một quá trình lâu dài, điều đó có
phần chấp nhận được, song đi đến coi nhẹ và xếp các phương pháp khác
như chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa cổ điển,…. ở hàng hai, hàng ba thì có
phần thái quá.
Trong “Lời nói đầu” của công trình, Lê Đình Kỵ đã thể hiện nhiệm
vụ xuyên suốt của ông là: xác định những thành tựu cũng như nhược điểm
của Truyện Kiều về mặt nội dung tư tưởng và phương pháp nghệ thuật phải
gắn với tính thời sự của “công cuộc cách mạng văn hóa và tư tưởng nói
chung và nói riêng là cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn học nghệ thuật hiện
nay”. Chủ trương của Lê Đình Kỵ là: “tiếp thu có phê phán di sản văn học
nghệ thuật dân tộc đấu tranh cho chủ nghĩa hiện thực (Lê Đình Kỵ nhấn
mạnh), bảo vệ chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, chống lại mọi xu
hướng duy tâm phản động nhằm đưa văn học đi đến chỗ thoát ly cuộc sống,
thoát ly chính trị” (tr.13).
Ngày nay nhìn lại, chúng ta thấy rằng: việc vận dụng lý luận về chủ
nghĩa hiện thực vào nghiên cứu Truyện Kiều như Lê Đình Kỵ đã làm, là một
cách vận dụng có phần thô thiển vì tính chất phục vụ chính trị của nó. Thêm
nữa, cần phải thấy rằng, mọi phương pháp sáng tác đều bình đẳng, đều có
đóng góp, tìm tòi riêng về hiện thực, không thể thay thế. Về mặt này, Cao
Huy Đỉnh từng lưu ý: không nên gán cho chủ nghĩa hiện thực cái độc quyển
có thế giới quan tiến bộ, có ý nghĩa xã hội lịch sử, có chân lý của đời sống và
có khả năng cá thể hóa hình thường, trong khi các phương pháp khác thì
không thể vươn tới.
Lý luận văn học hiện đại và thực tiễn lịch sử văn học đã chứng minh
giá trị của tác phẩm văn học không nhất thiết phụ thuộc vào sự phản ánh hiện
thực bằng những hình thức của bản thân đời sống. Ngoài phương pháp phản
ánh, thi pháp huyền thoại, việc sử dụng yếu tố thần kỳ, kỳ ảo của thần thoại,
92
truyện cổ tích vẫn được nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật hiện đại lớn khai
thác và có hiệu quả thẩm mỹ tích cực.
Nghiên cứu trường hợp vận dụng lý luận về chủ nghĩa hiện thực vào
việc đọc Truyện Kiều là một dịp hiểu sâu sắc hơn lý thuyết tiếp nhận và sự
tiếp nhận lý luận về chủ nghĩa hiện thực ở Việt Nam. Mỗi độc giả, mỗi thời
đại lại có một cách tiếp nhận, đọc văn bản riêng. Và các cách đọc bổ sung cho
nhau, không có cách đọc nào là tuyệt đối, từ đó, bài học rút ra cho người đọc,
người học, người dạy văn là cần tham khảo, so sánh càng nhiều kiểu đọc càng
tốt, để tiếp cận chân lý.
93
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1981), “Nhìn chủ nghĩa hiện thực trong sự vận động
lịch sử”, Tạp chí Văn học, số 4, tháng 7&8.
2. Nguyễn Đình Chú (1979), “Chung quanh vấn đề chủ nghĩa hiện thực
trong lịch sử văn học Việt Nam” (Thời kỳ trước chủ nghĩa hiện thực phê
phán 1930-1945), Tạp chí Văn học số 4, tháng 7&8.
3. Đỗ Đức Dục,(1989) “Về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du”, Nxb.
Văn học, H.
4. Đỗ Đức Dục (1971), “Suy nghĩ về vấn đề sự xuất hiện của chủ nghĩa
hiện thực trong văn học Việt Nam”, Tạp chí Văn học số 4, tháng 7 &8.
5. Đỗ Đức Dục (1982), “Trở lại vấn đề xuất hiện của chủ nghĩa hiên thực
trong văn học Việt Nam”, Tạp chí Văn học số 01.
6. Đỗ Đức Dục (1968), “Tính cách điển hình trong Hoàng Lê nhất thống
chí”, Tạp chí Văn học số 9.
7. Nguyễn Đức Đàn (1968), Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt
Nam, Nxb. Khoa học xã hội.
8. Cao Huy Đỉnh (1971), “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn
Du”, Tạp chí Văn học số 3, tháng 5&6.
9. Trịnh Bá Đĩnh (2013), Lịch sử lí luận phê bình văn học Việt Nam, Nxb.
Khoa học xã hội
10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyên Khắc Phi chủ biên (1992), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb. Giáo dục.
11. Thích Nhất Hạnh (2005), Thả một bè lau (Truyện Kiều dưới cái nhìn
thiền quán). Nxb. Tôn giáo
12. Trần Đình Hượu (1990) “Thực tại cái thực và vấn đề chủ nghĩa hiện thực
Văn học Việt Nam trung cận đại”/ Văn học và hiện thực, Nxb. Khoa học
xã hội, H
13. N.Konrat (1997), Phương Đông và phương Tây, Nxb. Giáo dục
94
14. Lê Đình Kỵ lược dịch (1960), “Cuộc thảo luận về chủ nghĩa hiện thực ở
Liên Xô”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 4
15. Lê Đình Kỵ (1962), Phương pháp nghệ thuật, Nxb, Giáo dục
16. Lê Đình Kỵ (1963), “Mấy đính chính cần thiết về bài phê bình các
phương pháp nghệ thuật”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 2-1963
17. Lê Đình Kỵ, “Bước đầu tìm hiểu phương pháp sáng tác Truyện Kiều” ,
Tạp chí Văn nghệ số 4/1963
18. Lê Đình Kỵ (1965), “ Nguyễn Du và đạo đức phong kiến qua nhân vật
Thúy Kiều”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 9.
19. Lê Đình Kỵ (1965), “Quan điểm đạo đức - thẩm mỹ của Nguyễn Du”,
Tạp chí Văn học số 9.
20. Lê Đình Kỵ (1967), “Tính khách quan của thể hiện nhân vật trong
Truyện Kiều”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 4
21. Lê Đình Kỵ (1969), Đường vào thơ, Nxb. Văn học
22. Lê Đình Kỵ (1970), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du,
Nxb. Khoa học xã hội
23. Lê Đình Kỵ (1970), Cơ sở lý luận văn học, tập 4 (Phương pháp sáng tác
và trào lưu văn học). Nxb. Giáo dục
24. Lê Đình Kỵ (1978), Sáng mắt sáng lòng, Nxb. Giáo dục
25. Lê Đình Kỵ (1979), Thơ Tố Hữu, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
26. Lê Đình Kỵ (1984), Tìm hiểu văn học, Nxb. TP. Hồ Chí Minh
27. Lê Đình Kỵ (1984), “Từ trong di sản văn học nghĩ về tư tưởng sáng tác
của cha ông”, Nghiên cứu văn học số 1
28. Lê Đình Kỵ (1986), Phương pháp sáng tác, Trường Đại học Tổng hợp
TP. Hồ Chí Minh
29. Lê Đình Kỵ (1987), Nhìn lại tư tưởng văn nghệ thời Mỹ ngụy, Nxb. TP.
Hồ Chí Minh
30. Lê Đình Kỵ (1988), Thơ với Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoài Thanh,
Nxb. Cửu Long.
95
31. Lê Đình Kỵ (1988), Hiểu đúng đắn Truyện Kiều, Hội Văn nghệ Đồng Tháp
32. Lê Đình Kỵ (1988), Thơ mới những bước thăm trầm, Nxb. TP. Hồ Chí Minh
33. Lê Đình Kỵ (1991), “Đối thoại với văn hóa dân gian và bản lĩnh của
người viết về Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp” , Tạp chí Nghiên cứu
văn học số 5.
34. Lê Đình Kỵ (1995), Trên đường văn học, Nxb. Văn học.
35. Lê Đình Kỵ (1998), Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam,
Nxb. Giáo dục.
36. Lê Đình Kỵ, Phê bình nghiên cứu văn học, Nxb. Giáo dục.
37. Lê Đình Kỵ (2000), “Cái duyên và nghiệp” (Nguyễn Hà thực hiện), Tạp
chí Văn học số 3.
38. Nguyễn Bách Khoa (1953), Văn chương Truyện Kiều, in lần thứ ba, Thế
giới xuất bản, H.
39. Nguyễn Xuân Lam, (2009), “Nghiên cứu Truyện Kiều những năm đầu
thế kỉ XXI”, NXB.GD.
40. Phạm Quang Long (2005), “Về sự hình thành của chủ nghĩa hiện thực
trong văn học Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 1
41. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu
thế kỉ XIX (tập 2), Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp .
42. Nguyễn Lộc (1974), Văn học nửa sau thế kỉ XIX, Nxb. Đại học và Trung
học chuyên nghiệp.
43. Nguyễn Lộc (1966), “Về ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều”/ Kỉ
niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du, Nxb. Khoa học xã hội.
44. Nguyễn Lộc (1992), “Đọc lại Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của
Nguyễn Du”/ Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, Hội
Nhà văn TP. Hồ Chí Minh.
45. Mác - Ăng ghen - Lê Nin (1977), Về văn học nghệ thuật, Nxb. Sự thật, H.
46. Vũ Đức Phúc (1962), “Mấy vấn đề chức năng và nhiệm vụ của văn
nghệ” Tạp chí Nghiên cứu văn học số 5.
96
47. Vũ Đức Phúc (1975), “Trào lưu hiện thực chủ nghĩa trong văn học Việt
Nam từ 1930 đến 1945”, Tạp chí Văn học số 5.
48. Huỳnh Như Phương (2006), “Lời giới thiệu”/ Lê Đình Kỵ tuyển tập,
Nxb. Giáo dục.
49. Đào Xuân Quý (2000), “Lại bàn về chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn
Du”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 9.
50. Phạm Quỳnh (1918), “Một lối văn mới: Sống chết mặc bay”, Nam
Phong tạp chí số 18, tháng 12.
51. Phạm Quỳnh (1919), “Lối tả chân trong văn chương”, Nam Phong tạp
chí số 19, tháng 3.
52. Phạm Quỳnh (1918), “Cuộc thi thơ văn của bản báo”, Nam Phong tạp
chí, số 8, tháng 1.
53. Phạm Quỳnh (1919), “Truyện Kiều”, Nam Phong tạp chí số 30, tháng 12.
54. Trần Đình Sử (1981), “Thời gian nghệ thuật trong Truyện Kiều và cảm
quan hiện thực của Nguyễn Du”, Tạp chí Văn học số 5, tháng 9&10.
55. Trần Đình Sử (2002), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb. Giáo dục, H.
56. Thiếu Sơn (2000), “Phê bình và cảo luận”/ Nghệ thuật và nhân sinh
tuyển tập, Nxb. Văn hóa thông tin.
57. Hoài Thanh, (1948), “Quyền sống của con người trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du”/ Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm (2003), Nxb. Giáo dục
58. Hoài Thanh toàn tập (1999), tập 2, Nxb. Văn học.
59. Trần Nho Thìn (1983), “Tìm hiểu tính luận đề trong Truyện Kiều để xem
xét vấn đề có hay không chủ nghĩa hiện thực ở tác phẩm này”, Tạp chí
Văn học số 6.
60. Trần Nho Thìn (2002), “Nghiên cứu và giảng dạy văn học trung đại nhìn
từ góc độ văn hóa học” (Qua lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều), Tạp chí
Nghiên cứu văn học số 2.
61. Trần Nho Thìn (2007), “Hành trình Truyện Kiều từ thế kỉ XIX đến thế kỉ
XXI”/ Truyện Kiều (Khảo - chú bình), Nxb. Giáo dục.
97
62. Trần Nho Thìn, (2009),Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, Nxb. Giáo dục .
63. Trần Nho Thìn, (2014), “Đối thoại liên văn hóa trong thời đại toàn cầu
hóa và việc tiếp nhận lý luận phương Tây vào Việt Nam”, Tạp chí
Nghiên cứu văn học số 70.
64. Trần Nho Thìn (2015), “Các vấn đề của Truyện Kiều qua lịch sử tiếp
nhận hai thế kỉ” , Tạp chí Nghiên cứu văn học số 8.
65. Đinh Gia Trinh (1941), “Tính cách văn chương Việt Nam trước thời kỳ
Âu hóa”, Tạp chí Thanh Nghị, số 2,3,4.
66. Đinh Gia Trinh (1942), “Đọc tiểu thuyết Việt Nam cận đại”, Tạp chí
Thanh Nghị số 26.
67. Hải Triều (1933), “Sự tiến hóa của văn học và sự tiến hóa của nhân
sinh”, báo Đông phương, số 872, 873, tháng 8.
68. Hải Triều (1933), “Ông Phan Khôi không phải là một học giả duy vật”,
Báo Đông phương, số 891, tháng 10.
69. Hải Triều (1933), “Cụ Sào Nam giải thích chữ văn học thế là sai lầm
lắm”, Báo Đông phương, số 893, tháng 11.
70. Hải Triều (1935), “Nghệ thuật với nhân sinh”, Báo Trung Kỳ, số 1/ tháng 10.
71. Hải Triều (1935),”Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân
sinh”,, Báo Đời mới, tháng 3- 4.
72. Hải Triều (1935), “Kép Tư bền, một tác phẩm thuộc về cái triều lưu nghệ
thuật vị dân sinh ở nước ta” , Tiểu thuyết thứ bảy, số 62, tháng 8.
73. Hải Triều (1935), “Nghệ thuật và sự sinh hoạt xã hội”, Tin văn số 6, 9.
74. Hải Triều (1936), “Maxime Gorki”, báo Hồn Trẻ, số 5, tháng 7.
75. Hải Triều (1937), “Văn chương và chủ nghĩa duy vật”, báo Sông Hương,
số 8, tháng 8.
76. Hải Triều (1939), “Lầm than - một tác phẩm đầu tiên của nền văn học tả
thực xã hội ở nước ta”, Tạp chí Tao đàn, tháng 3.