ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

VŨ THỊ MAI

VẤN ĐỀ VẬN DỤNG LÍ LUẬN

VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG TRUYỆN KIỀU

VÀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC CỦA NGUYỄN DU

(LÊ ĐÌNH KỴ)

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2017

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

VŨ THỊ MAI

VẤN ĐỀ VẬN DỤNG LÍ LUẬN

VỀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG TRUYỆN KIỀU

VÀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC CỦA NGUYỄN DU

(LÊ ĐÌNH KỴ)

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã ngành: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Trần Nho Thìn

THÁI NGUYÊN - 2017

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận

văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017

Tác giả luận văn

Vũ Thị Mai

ii

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian theo học ở trường Đại học Khoa học - Đại học

Thái Nguyên và dặc biệt trong khoảng thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp,

tôi đã nhận được sự giúp đỡ về mặt vật chất, tinh thần, kiến thức và những

kinh nghiệm quý báu từ gia đình, thầy cô và bạn bè. Qua đây, tôi xin trân

trọng bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến:

GS.TS Trần Nho Thìn, người thầy đã tận tâm chỉ bảo, hướng dẫn và

giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn.

Quí thầy cô trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên giảng dạy

các chuyên đề cho lớp cao học Văn học Việt Nam K9D đã hết lòng truyền đạt

kiến thức và những kinh nghiệm quý báu khi chúng tôi theo học.

Đặc biệt, tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và

đồng nghiệp đã luôn ủng hộ, động viên, tạo điều kiện, quan tâm giúp đỡ để tôi

có thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017

Tác giả luận văn

Vũ Thị Mai

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii

MỤC LỤC ....................................................................................................... iv

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 3

3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu .......................................................... 9

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ................................................... 10

5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 11

6. Cấu trúc của luận văn .............................................................................. 11

7. Đóng góp của luận văn ............................................................................ 11

Chương 1. VẤN ĐỀ VẬN DỤNG LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA HIỆN

THỰC TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM

VÀ TRUYỆN KIỀU ................................................................... 12

1.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945: khái niệm chủ

nghĩa tả chân .............................................................................................. 13

1.1.1. Hải Triều gắn chủ nghĩa tả chân xã hội với giá trị phản ánh,

tố cáo hiện thực, giá trị nhân sinh ........................................................ 14

1.1.2. Đinh Gia Trinh và vấn đề chi tiết chân thực, phong phú của tiểu

thuyết Pháp .............................................................................................. 17

1.1.3. Đào Duy Anh, Nguyễn Bách Khoa với lý luận và phương pháp

nghiên cứu phương Tây .......................................................................... 19

1.2. Giai đoạn sau 1945 đến năm 1970 (trước khi Lê Đình Kỵ công bố

cuốn sách) .................................................................................................... 22

1.2.1. Hoài Thanh (1949) trong “Quyền sống của con người trong

Truyện Kiều” tiếp tục vận dụng quan niệm phản ánh hiện thực nhưng

chưa có ý thức về chủ nghĩa hiện thực .................................................... 22

iv

1.2.2. Trương Tửu và Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du (1956) vẫn

chỉ vận dụng quan niệm về phản ánh các phương diện hiện thực nhất

là đấu tranh giai cấp ................................................................................ 24

1.2.3. Các giáo trình lý luận văn học biên soạn theo lý luận Liên Xô về

các phương pháp sáng tác: chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ

nghĩa hiện thực, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa được giới thiệu ở

Việt Nam .................................................................................................. 25

1.2.4. Các bài viết thể nghiệm của Lê Đình Kỵ những năm 1960 về

Truyện Kiều .............................................................................................. 29

Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 32

Chương 2. NỘI DUNG CÔNG TRÌNH “TRUYỆN KIỀU VÀ CHỦ

NGHĨA HIỆN THỰC CỦA NGUYỄN DU” - ........................ 33

2.1. Giới thiệu về Lê Đình Kỵ ..................................................................... 33

2.2. Chủ nghĩa hiện thực và vấn đề phản ánh hiện thực ............................. 35

2.3. Nội dung cuốn sách .............................................................................. 39

2.3.1. Cơ sở tư tưởng thẩm mĩ của Truyện Kiều ..................................... 41

2.3.2. Vấn đề điển hình hóa trong Truyện Kiều ...................................... 52

2.4. Giá trị nổi bật của công trình ............................................................... 61

Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 66

Chương 3. CÁC Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA GIỚI NGHIÊN CỨU VỀ

CÔNG TRÌNH TRUYỆN KIỀU VÀ CHỦ NGHĨA HIỆN

THỰC CỦA NGUYỄN DU CỦA LÊ ĐÌNH KỴ ..................... 67

3.1. Đánh giá vấn đề có hay không chủ nghĩa hiện thực trong văn trung

đại Việt Nam ............................................................................................... 67

3.2. Đánh giá về công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của

Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ ........................................................................ 79

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 85

KẾT LUẬN .................................................................................................... 86

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 93

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Truyện Kiều là kiệt tác văn chương của dân tộc, có sức sống lâu bền,

sức lan tỏa rộng rãi. Do cấu trúc văn bản chứa đựng nhiều giá trị to lớn, nên

từ lâu Truyện Kiều đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành: sử

học, văn hóa học, xã hội học, khoa học văn chương… Tính riêng, trong

nghiên cứu văn học, Truyện Kiều đã có một đời sống rất sinh động. Có thể

nói, lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều là lịch sử của những cách đọc, các diễn giải

văn bản. Lịch sử ấy vô cùng phong phú, đa dạng và cũng rất phức tạp do phải

đi qua nhiều bộ lọc ý thức hệ và hệ hình tri thức. Không phải ngẫu nhiên, có

nhà nghiên cứu, ví Truyện Kiều là phòng thí nghiệm của các lý thuyết; những

lý thuyết mới một khi được du nhập vào Việt Nam nếu muốn chứng tỏ được

“quyền lực” của nó trong thực tiễn thì trước hết nó phải được thử nghiệm ở

việc đọc Kiều. Thành công của lý thuyết mới, bởi thế, là ở chỗ, nó phải đọc ra

được ý nghĩa khả thể trong văn bản Truyện Kiều, mà các cách tiếp cận trước

đó chưa chú ý đến hay chưa biết đến. Đến nay, Truyện Kiều vẫn không ngừng

được đọc lại, được tái diễn giải từ những khung tri thức - lý thuyết mới.

Bên cạnh hoạt động đọc lại, diễn giải lại Truyện Kiều từ điểm nhìn mới,

nhu cầu vẽ lại bức tranh tiếp nhận Truyện Kiều trải dài mấy trăm năm với

nhiều khúc quành lịch sử, vẫn luôn được đặt ra. Có rất nhiều khoảng trống

trong lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều chưa được lấp đầy, hay làm sáng tỏ,

chẳng hạn như việc tiếp nhận Truyện Kiều ở đô thị miền Nam trước 1975 gần

đây đã được quan tâm dựng lại song hãy còn dừng ở những nét sơ lược….

Trong tình hình ấy, việc đúc rút từ các nghiên cứu Truyện Kiều trong quá khứ

thành những khung mẫu đọc, chỉ ra những cách đọc riêng, điển hình cho mỗi

giai đoạn/thời đại, những giới hạn của mỗi cách đọc… là thực sự cần thiết.

Bất kỳ một nghiên cứu nghiêm túc, đích thực nào, cũng bắt đầu từ việc chỉ ra

2

một cách thực chứng không chỉ những thành công, mà quan trọng hơn, cần

phải chỉ ra những giới hạn của các nghiên cứu trước đó. Luận văn này lựa

chọn một thời điểm tiếp nhận, một trường hợp diễn giải Truyện Kiều, như một

sự chuẩn bị/khởi đầu cho các thể nghiệm đọc có thể có về sau của cá nhân

người viết.

Luận văn không có tham vọng đem lại những khám phá mới Truyện

Kiều từ một khung lý thuyết thời thượng nào đó, nghĩa là không vận dụng lý

luận mới để đọc lại Kiều. Tác giả luận văn chỉ mong muốn góp một tiếng nói

vào việc tổng kết một cách đọc tiêu biểu về Truyện Kiều thập niên 60 - 70 ở

miền Bắc Việt Nam: Trường hợp Lê Đình Kỵ với công trình Truyện Kiều và

chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du (1970). Sở dĩ chọn Lê Đình Kỵ bởi vì

ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của lối nghiên cứu văn học theo

xã hội học mác xít, mà Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là

công trình thành công nhất của Lê Đình Kỵ trong việc vận dụng lý luận chủ

nghĩa hiện thực để đọc Truyện Kiều. “Nghiên cứu Truyện Kiều trong mối

tương quan với chủ nghĩa hiện thực tức cũng là nghiên cứu phương pháp sáng

tác của tác phẩm cổ điển lớn nhất của nền văn học dân tộc” (Lê Đình Kỵ).

Với Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, Lê Đình Kỵ đã thực

sự tạo được một dấu mốc đối với ngành Kiều học Việt Nam.

Với tư cách là giáo viên THPT giảng dạy bộ môn Ngữ văn, nghiên cứu

“Vấn đề vận dụng lí luận về chủ nghĩa hiện thực trong Truyện Kiều và chủ

nghĩa hiện thực của Nguyễn Du”(Lê Đình Kỵ) sẽ giúp người viết luận văn

này có cơ hội trải nghiệm cách đọc của các nhà nghiên cứu đi trước, từ đó

hiểu sâu sắc thêm những chân giá trị của tác phẩm Truyện Kiều đã được thời

gian khẳng định, để ứng dụng vào hoạt động dạy học, đọc hiểu các trích đoạn

Truyện Kiều ở bậc học mà tác giả luận văn đang gắn bó.

3

2. Lịch sử vấn đề

Công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du được

khởi thảo từ năm 1965, công bố đầu thập niên 70, đây là giai đoạn phản ánh

luận Lênin/mỹ học Mác - Lê nin đã được giới thiệu ở Việt Nam tương đối rộng

rãi. Ngoài các ý kiến bàn về văn học nghệ thuật Mác, Ăng ghen, Lê nin, còn có

ý kiến của Mao Trạch Đông, Gorki…. Bộ Nguyên lý mĩ học Mác - Lê nin (2

tập, Hoàng Xuân Nhị dịch) của Viện Hàn lâm Khoa học Liên xô cũng đã được

xuất bản đầu những năm 60. Đặc biệt, năm 1962 bộ Nguyên lí lí luận văn học

(2 tập) của L.I.Timofeev do Lê Đình Kỵ, Cao Xuân Hạo, Bùi Khánh Thế,

Nguyễn Hải Hà, Minh Hải, Nhữ Thành dịch, cũng đã chính thức hiện diện

trong đời sống học thuật miền Bắc…. Tính đến năm 1970, về mặt lý luận,

nhiều vấn đề của phản ánh luận Lenin, của phương pháp sáng tác hiện thực xã

hội chủ nghĩa đã được giới nghiên cứu văn học Việt Nam tiếp nhận, chuyển

ngữ và bước đầu quan tâm vận dụng vào nghiên cứu thực tiễn lịch sử văn học

dân tộc, trong đó có đóng góp của dịch giả, nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ.

Ngay sau khi Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du xuất

hiện, vấn đề vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực vào nghiên cứu Truyện

Kiều của Lê Đình Kỵ đã được một số nhà nghiên cứu lưu ý tuy nhiên tính đến

trước những năm 2000 phần lớn các đánh giá về công trình của Lê Đình Kỵ

còn sơ lược và một số nhận định chưa thỏa đảng.

Trong một bài đọc sách năm 1971, Cao Huy Đỉnh ghi nhận Truyện

Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du “có những phát hiện mới về

Truyện Kiều có khả năng thuyết phục bạn đọc thực sự” [8], Lê Đình Kỵ vận

dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn lịch sử thẩm mỹ Việt Nam

nhuần nhị, công trình này “là một cống hiến đáng kể vào lịch sử nghiên cứu

Nguyễn Du, Truyện Kiều và văn học cổ điển Việt Nam” [8, tr.138]. Bên cạnh

đó, Cao Huy Đỉnh cũng cho rằng, Lê Đình Kỵ còn lúng túng trong việc xác

định phương pháp sáng tác cơ bản của Nguyễn Du và Truyện Kiều: “tác giả

4

xuất phát từ những tiêu chuẩn của phương pháp hiện thực chủ nghĩa ở trong

văn học phương Tây, ở trong văn học Nga thế kỉ XIX để tìm hiểu Truyện

Kiều…”, chưa “chỉ ra được cuộc sống Việt Nam thực sự đã thấm vào Truyện

Kiều ở chỗ nào với cái dạng vốn có của nó,” Cao Huy Đỉnh nhấn mạnh

“chừng nào mà không chỉ ra được những nguyên mẫu của Truyện Kiều ở

trong xã hội Việt Nam thế kỉ XVIII hay ở trong chính thời đại và môi trường

sống của Nguyễn Du, thì chừng ấy khó lòng mà nói đến một chủ nghĩa hiện

thực của Nguyễn Du” ([8, tr.138]. Rõ ràng, chủ nghĩa hiện thực trong văn học

là một vấn đề được quan tâm cả ở bình diện lý luận và thực tiễn. Có lẽ ở thời

điểm công bố công trình của Lê Đình Kỵ, cách hiểu về chủ nghĩa hiện thực,

chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa chưa đạt được một nhận thức chung,

chưa có tiếng nói đồng thuận trong giới, nhưng đã có những chỉ dấu cho thấy

nó đã được quan tâm luận giải từ nhiều phía. Chủ nghĩa hiện thực không chỉ

là câu chuyện của những nhà lý luận văn học, những nhà nghiên cứu văn học

sử thời cận hiện đại, mà còn là vấn đề của những nghiên cứu về văn học dân

gian, văn học cổ điển. Nói cách khác, đó là một vấn đề trung tâm của các

nghiên cứu văn học. Đúng như một nhà nghiên cứu thập niên 70 khẳng định:

“vấn đề đặt ra cho chúng ta hiện nay trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử văn học là

xem xét trước thời kỳ chủ nghĩa hiện thực phê phán những năm 30, trong văn

học Việt Nam đã có chủ nghĩa hiện thực hay chưa, nếu có thì nó xuất hiện từ bao

giờ và chủ nghĩa hiện thực đó hình thành trong những điều kiện lịch sử nào, đặc

tính và nội dung của nó ra sao…” [4, tr.101]. “Ít có phạm trù lý thuyết nào lại

được bàn cãi nhiều như phạm trù chủ nghĩa hiện thực” [1].

Sau Cao Huy Đỉnh, Đỗ Đức Dục trong bài “Suy nghĩ về vấn đề sự xuất

hiện của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam” thừa nhận có một “chủ

nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du”, song ông cũng nhận định rằng, công

trình của Lê Đình Kỵ chưa nêu được “quá trình hình thành của chủ nghĩa hiện

thực trong văn học Việt Nam” [4, tr.101].

5

“Chung quanh vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lịch sử văn học Việt

Nam” [2], Nguyễn Đình Chú nhìn thấy sự phát triển về tư tưởng học thuật của

Lê Đình Kỵ từ bài viết đầu tiên tìm hiểu phương pháp sáng tác Truyện Kiều

năm 1963 đến năm 1970: Lê Đình Kỵ vượt qua giai đoạn bước đầu tìm hiểu,

ra mắt bạn đọc công trình quy mô hơn Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực

của Nguyễn Du. Cũng như Nguyễn Đình Chú, Trần Đình Sử trong “Thời gian

nghệ thuật trong Truyện Kiều và cảm quan hiện thực của Nguyễn Du” khẳng

định: Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là một công trình

sâu sắc và công phu [54].

Sau khi khảo sát bước đầu lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều, Trần Nho

Thìn trong một bài viết khẳng định xu hướng tất yếu của việc cần thiết phải

“nghiên cứu và giảng dạy văn học trung đại từ góc độ văn hóa” [60] như một

sự bổ sung cho các phương pháp nghiên cứu trước kia, một mặt khách quan

ghi nhận việc vận dụng khái niệm “chủ nghĩa hiện thực” (phương pháp sáng

tác) trong thập kỉ 60, 70 để phân tích Truyện Kiều là “một nỗ lực mới nhằm

khoa học hóa công việc nghiên cứu” nhưng mặt khác, tác giả tiểu luận cũng

thẳng thắn chỉ ra rằng,”việc đưa những tiêu chí của chủ nghĩa hiên thực - một

trào lưu văn học phương Tây ở giữa thế kỉ XIX vốn có những đặc trưng loại

hình rất khác so với văn học trung đại Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ

XIX để mô tả Truyện Kiều là một việc khá mạo hiểm và thực tế đã bộc lộ

những bất cập”. “Hướng đi này mặc nhận rằng Nguyễn Du, một tác gia văn

học trung đại, cũng hướng về “chủ nghĩa hiện thực” như một tác gia hiện thực

chủ nghĩa bất kì. Từ đây những điểm có sự trùng khít thì kết luận về sự hiện

diện của chủ nghĩa hiện thực trong sáng tác của Nguyễn Du, còn những nơi

nào không có sự trùng khít thì giải thích là có sự ràng buộc níu kéo của mĩ

học truyền thống. Cách tiếp cận này thực chất đã biến Truyện Kiều từ một

chỉnh thể nghệ thuật thành một thực thể đầy mâu thuẫn, thiếu thống nhất, nơi

chứa đựng những phương pháp sáng tác khác nhau). Nói chung, bài viết của

6

Trần Nho Thìn, chưa đi sâu đánh giá chi tiết công trình của Lê Đình Kỵ mà

chỉ tập trung xem xét tổng quan về lịch sử của sự ứng dụng các hệ thống lý

luận khác nhau vào nghiên cứu Truyện Kiều, trong đó việc vận dụng việc lý

luận chủ nghĩa hiện thực chỉ là một đường hướng. Điểm mấu chốt trong bài

viết này của Trần Nho Thìn là chỉ những những bất cập có thể có và cần

rút kinh nghiệm đối với các cách tiếp cận trước kia; theo tác giả, nghiên

cứu Truyện Kiều cần tính tới đặc trưng văn hóa thời đại Nguyễn Du, cần

thận trọng để tránh những cách giải thích có tính suy diễn, gán ghép, hiện

đại hóa tác phẩm: “lỗi không phải do phương pháp nghiên cứu được sử

dụng mà là do người nghiên cứu, do ý thức về tính lịch sử cụ thể của đối

tượng chưa đầy đủ” [60, tr.49].

Cũng như Trần Nho Thìn, Phạm Quang Long khi bàn “Về sự hình

thành của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam”, đã nhận xét: “Có thể

nói công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là một cái

mốc quan trọng của giới nghiên cứu về Nguyễn Du nói chung, Truyện Kiều nói

riêng. Với công trình này nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp cho giới nghiên cứu

văn học Việt Nam trung cận đại trong cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu từ góc

nhìn tư duy văn học của thời đại, từ cá tính sáng tạo của nhà văn và hệ thống thi

pháp thể loại. Từ việc giải mã cơ sở tư tưởng thẩm mĩ của tác giả Truyện Kiều

nhà nghiên cứu đã lý giải các thao tác điển hình hoá nhân vật của Nguyễn Du

dưới ánh sáng của lý thuyết thể loại và phương pháp nghệ thuật. Có thể nói cho

đến nay chưa có ai viết về điển hình hoá của Truyện Kiều thú vị như Lê Đình

Kỵ, sau hơn 30 năm công trình của ông xuất hiện.... Những phần viết về điển

hình hoá, ngôn ngữ nhân vật của Lê Đình Kỵ rất tinh tế, hấp dẫn nhưng đáng tiếc

là do đã xác định theo hướng chứng minh có một chủ nghĩa hiện thực trong

Truyện Kiều, dù đó là thứ chủ nghĩa hiện thực có điều kiện thì một khi hướng

nghiên cứu đã chưa chính xác thì những chi tiết, những thao tác dù có sâu sắc

đến đâu nó bị hạn chế tác dụng. Đó là điều đáng tiếc” [40].

7

Năm 2006, Nhà xuất bản Giáo dục cho in và phát hành Tuyển tập Lê Đình

Kỵ. Trong “Lời giới thiệu” cho cuốn sách này, Huỳnh Như Phương cung cấp

thêm chi tiết: nhan đề Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du do

nhà xuất bản thêm vào ba chữ sau (“của Nguyễn Du”), dù vậy thì dụng ý nhấn

mạnh mối quan hệ của kiệt tác này với những đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực

vẫn không thể ghi ngờ. Huỳnh Như Phương xem Truyện Kiều và chủ nghĩa

hiện thực là đỉnh cao của sự nghiệp học thuật của Lê Đình Kỵ, “ở đây không

chỉ tư duy khái quát và khả năng kiến giải của một nhà lý luận mà còn cả sự

cảm thụ tinh tế, năng lực phân tích sắc sảo của một ngòi bút phê bình... Thời

Lê Đình Kỵ viết cuốn sách này, ở nước ta không phải không có xu hướng vận

dụng những tiêu chí của chủ nghĩa hiện thực phương Tây vào việc nghiên cứu

những giá trị của văn học cổ điển Việt Nam và đã không tránh khỏi ít nhiều

khiên cưỡng. Chính Lê Đình Kỵ cũng nhận thấy rằng chủ nghĩa hiện thực là

cái áo quá chật so với cơ thể cường tráng của Truyện Kiều: trong một bản in ở

Nhà xuất bản Cửu Long năm 1988, ông đã không ngần ngại đổi tên cuốn sách

này là Truyện Kiều, đỉnh cao văn học. Thành ra, không thể phủ nhận là có

một độ chênh nhất định giữa lý thuyết của chủ nghĩa hiện thực và thế giới

nghệ thuật của Nguyễn Du. Âu đó cũng là nỗi ám ảnh của một thời” [48].

Nhưng đúng như Trần Đình Sử đã nhận xét một cách thỏa đáng, Lê Đình Kỵ

đã "vượt lên cái khung ông tự đặt cho mình" [55, tr. 344].

Năm 2013 Trịnh Bá Đĩnh trong Lịch sử lí luận phê bình văn học Việt

Nam đã có một số đánh giá sâu sắc và khách quan về Lê Đình Kỵ cũng như

đóng góp của Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du. Theo tác

giả này, Lê Đình Kỵ là một hiện tượng nổi bật trong đời sống lí luận phê bình

văn học thập kỉ 60, các công trình của ông về chủ nghĩa hiện thực đều gây

được chú ý, gây nên những cuộc bàn cãi sôi nổi: Truyện Kiều và chủ nghĩa

hiện thực của Nguyễn Du là “đỉnh cao nhất” [9, tr.169] trong sự nghiệp học

thuật của Lê Đình Kỵ, “là tác phẩm sáng giá nhất”, tiêu biểu cho cách mà Lê

8

Đình Kỵ vận dụng chủ nghĩa hiện thực để phê bình văn học [9, tr.171]. Để

làm rõ hơn quan điểm của mình, Trịnh Bá Đĩnh nhấn mạnh: Lê Đình Kỵ xuất

phát từ những nguyên lý có sẵn của lí luận về chủ nghĩa hiện thực để viết

công trình của mình, tuy nhiên phải thấy rằng Lê Đình Kỵ không chọn con

đường minh họa giản đơn các nguyên lý về chủ nghĩa của nước ngoài. Mặc dù

chỉ dành năm trang viết về Lê Đình Kỵ và Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện

thực của Nguyễn Du trong công trình bàn thảo về tiến trình lịch sử lý luận phê

bình Việt Nam từ khởi nguồn đến hiện đại, song những đánh giá của Trịnh Bá

Đĩnh và đặc biệt là những nỗ lực giới thiệu tuyển tập của Huỳnh Như Phương

trước đó có thể xem là một bước chuyển rõ rệt nhằm đánh giá lại, công bằng

hơn về Lê Đình Kỵ và những đóng góp của ông đối với nền lý luận phê bình

văn học Việt Nam.

Công bằng, thì trước Huỳnh Như Phương (2006), và Trịnh Bá Đĩnh

(2013), đã có một số tác giả, đã có những động thái đánh dấu một hướng đọc

lại Lê Đình Kỵ. Có thể kể đến bài viết Đọc lại Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện

thực của Nguyễn Du của Nguyễn Lộc (in trong Truyện Kiều và chủ nghĩa

hiện thực, nxb. Hội Nhà văn, 1992); Một đời lao động tận tụy và sáng tạo (in

trong Lê Đình Kỵ - Phê bình nghiên cứu văn học, Nxb. Giáo dục, 1998) của

Nguyễn Văn Hạnh, Thi pháp Truyện Kiều (Nxb. Giáo dục, 2005) của Trần

Đình Sử … Các bài viết, chuyên luận này đều tập trung khẳng định sự đóng

góp xuất sắc của Lê Đình Kỵ cho ngành Kiều học, những thành công nổi trội

của Lê Đình Kỵ khi vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực, chia sẻ với sự dè

đặt của ông trước những vấn đề hóc búa trong nghiên cứu Truyện Kiều….

Nhìn lại quá trình tiếp nhận công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện

thực của Nguyễn Du chúng tôi rút ra mấy nhận xét sau.

Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam là một trong

những vấn đề trung tâm của các nghiên cứu, thảo luận thập niên 60, 70, 80.

Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là công trình vận dụng lý

9

luận hiện thực chủ nghĩa để nghiên cứu một trường hợp đỉnh cao của văn học

cổ điển. Hầu hết các ý kiến về công trình này đều ghi nhận cách đặt vấn đề

mới mẻ của Lê Đình Kỵ.

Phần lớn các ý kiến về Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của

Nguyễn Du nếu không phải là bài điểm sách, đọc sách thì cũng chỉ là một nội

dung nhỏ trong một tiểu luận/bài viết đặt những vấn đề bao trùm, khái quát,

phức tạp hơn. Chưa có một cuốn sách riêng nào lấy Truyện Kiều và chủ nghĩa

hiện thực của Nguyễn Du làm đối tượng nghiên cứu độc lập. Trước năm

2000, nhiều ý kiến đánh giá về Lê Đình Kỵ còn thiếu khách quan, có chỗ vẫn

giữ định kiến đối với ông, những hiểu lầm về ông, kể từ cuộc thảo luận ồn ào

mà chiều hướng chính là phê phán cuốn giáo trình Các phương pháp nghệ

thuật trước đó của Lê Đình Kỵ (1962). Sau năm 2000, việc đánh giá Lê Đình

Kỵ nói chung và Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du diễn ra

theo chiều hướng khách quan, khoa học hơn.

3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu cơ bản của đề tài là vấn đề vận dụng lí luận chủ

nghĩa hiện thực trong nghiên cứu Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của

Nguyễn Du.

3.2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích chính của luận văn là đánh giá những thành công và chưa

thành công; ý nghĩa và đóng góp của công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa

hiện thực của Nguyễn Du trong lịch sử trưởng thành, phát triển của ngành

Kiều học. Nói rộng là chỉ ra khung tri thức mà tác giả Lê Đình Kỵ đã sử dụng,

có những thế mạnh, ưu điểm và cả giới hạn gì trong việc đọc, diễn giải Truyện

Kiều, kiệt tác văn chương của dân tộc.

10

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trên cơ sở xác định mục tiêu nêu trên, nhiệm vụ cụ thể mà luận văn

cần thực hiện trước hết là cung cấp cái nhìn tổng quan về cách tiếp cận vấn đề

chủ nghĩa hiện thực của Truyện Kiều trước thập niên 70 và trong chừng mực

nhất định là việc nghiên cứu văn học Việt Nam nói chung từ hệ thống lý luận

ấy. Quan trọng hơn nữa là phải trình bày được đầy đủ nội dung chính yếu của

công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê Đình

Kỵ để làm cơ sở cho việc đúc kết những bài học về việc vận dụng lý luận chủ

nghĩa hiện thực trong nghiên cứu Truyện Kiều của tác giả; đồng thời với

nhiệm vụ này là xem xét một cách khách quan các ý kiến đánh giá của giới

nghiên cứu về công trình này, phân tích lý giải những thành công, giới hạn,

những điểm hợp lý và chưa hợp lý trong các ý kiến đánh giá đó.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Xuất phát từ đối tượng, phạm vi, mục tiêu nghiên cứu trên đây, luận

văn khi triển khai sẽ phải sử dụng tổng hợp, phối hợp nhiều phương pháp

nghiên cứu. Cụ thể:

- Phương pháp xã hội học được sử dụng để xác định, đánh giá, lý giải

các cách tiếp cận Truyện Kiều; việc tiếp nhận công trình Truyện Kiều và chủ

nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ trong đời sống học thuật

trong và sau thập niên 70.

- Phương pháp tiểu sử học được sử dụng để mô tả, giới thiệu về tác giả

Lê Đình Kỵ, nhằm tạo ra một cơ sở để hiểu đúng hơn những đóng góp và hạn

chế của tác giả Lê Đình Kỵ trong công trình mà luận văn lấy làm đối tượng

nghiên cứu.

- Phương pháp văn hóa học được sử dụng phối hợp với phương pháp xã

hội học để nhìn nhận các diễn giải Truyện Kiều như những hoạt động văn hóa

gắn liền với những mẫu người văn hóa; như những sinh hoạt văn hóa xã hội

chịu sự chi phối của ý thức hệ.

11

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh để khảo sát mối liên

hệ giữa nội dung bàn luận trong Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn

Du với một số quan điểm liên quan của tác giả khác trong văn học sử dân tộc.

5. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là công trình của Lê Đình Kỵ -

Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du xuất bản năm 1970 (Nhà

xuất bản khoa học xã hội).

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của

luận gồm 3 chương

Chương 1. Vấn đề vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực trong nghiên

cứu văn học Việt Nam và Truyện Kiều

Chương 2. Nội dung công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực

của Nguyễn Du - vận dụng lý luận về chủ nghĩa hiện thực.

Chương 3. Các ý kiến đánh giá của giới nghiên cứu về công trình

Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ.

7. Đóng góp của luận văn

Luận văn có hai đóng góp nhỏ.

Một là, đúc kết bài học hữu ích về việc vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện

thực trong nghiên cứu Truyện Kiều của Lê Đình Kỵ với công trình Truyện

Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du.

Hai là, khẳng định công trình này của Lê Đình Kỵ là một điển hình của

phương pháp đọc lại văn học cổ điển từ lý luận chủ nghĩa hiện thực xã hội

chủ nghĩa, thứ lý luận vốn thịnh hành và có quyền lực diễn giải các hiện

tượng văn học bất kể là hiện tại hay quá khứ lúc bấy giờ ở miền Bắc.

12

Chương 1

VẤN ĐỀ VẬN DỤNG LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC

TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM VÀ TRUYỆN KIỀU

Trước khi bàn về vấn đề vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực trong

nghiên cứu văn học Việt Nam và Truyện Kiều hồi đầu thế kỉ XX, thiết tưởng

cũng nên trình bày rõ về nội hàm của các thuật ngữ mà luận văn hướng đến

thảo luận: Chủ nghĩa hiện thực và các khái niệm liên quan - Chủ nghĩa hiện

thực phê phán, Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa….

“Theo nghĩa hẹp, khái niệm chủ nghĩa hiện thực được dùng để chỉ một

phương pháp nghệ thuật, hay một khuynh hướng, một trào lưu văn học có nội

dung chặt chẽ” [10, tr.54] với các nguyên tắc mỹ học như sau: mô tả cuộc

sống bằng hình tượng và điển hình hóa; thừa nhận và tái hiện chân thực sự tác

động qua lại giữ con người và môi trường sống, tính cách và hoàn cảnh; coi

trọng những chi tiết cụ thể và độ chính xác của chúng trong việc mô tả con

người và cuộc sống, chú ý khách quan hóa những điều được mô tả… “Ngoài

chi tiết chân thực, chủ nghĩa hiện thực còn đòi hỏi một sự tái hiện chân thực

những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình” [45], Mác nhấn

mạnh: “chỉ có thế giới được hiểu biết y như nó tồn tại mới là hiện thực”.

Thuật ngữ, chủ nghĩa hiện thực phê phán, như tên gọi của nó, “nhấn mạnh

khuynh hướng phê phán, tố cáo”, “tinh thần phê phán toàn bộ hệ thống các

quan hệ xã hội, các hiện thực mâu thuẫn giữa chế độ tư sản với các chuẩn

mực nhân tính đúng như nó có trong thực tế”. Còn khái niệm chủ nghĩa hiện

thực xã hội chủ nghĩa được dùng để chỉ phương pháp pháp sáng tác có các

đặc điểm như: lấy “thế giới quan Mác-Lênin làm cơ sở triết học, nguyên lý

tính đảng vô sản làm nguyên tắc chỉ đạo”, chủ trương “miêu tả hiện thực một

cách chân thực lịch sử cụ thể trong quá trình phát triển biện chứng của nó”,

coi việc đấu tranh nhằm khẳng định bằng nghệ thuật những cái mới, cái tích

13

cực trong cuộc sống là nhiệm vụ chủ yếu của sự phản ánh thực tại [10, tr.54].

Ở Việt Nam, càng về sau, lý luận về chủ nghĩa hiện thực được hiểu là chủ

nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Trong khuôn khổ luận văn, dưới đây chúng tôi điểm lại đôi nét về việc

vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực vào nghiên cứu văn học sử Việt Nam

giai đoạn trước 1970.

1.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945: khái niệm chủ

nghĩa tả chân

Từ trước năm 1945, lý luận chủ nghĩa hiện thực đã được vận dụng vào

việc phân tích, đánh giá văn học Việt Nam, từ văn học dân gian, cổ-trung đại

đến văn học hiện đại.

Đầu thế kỉ XX, trong đời sống báo chí, sáng tác, phê bình văn học Việt

Nam xuất hiện khái niệm “tả thực”, “tả chân” với ý nghĩa khu biệt với thứ văn

chương ước lệ, khuôn sáo của văn học trung đại. Các tác giả đầu tiên đề cập

đến khái niệm này và vận dụng nó trong phê bình, đánh giá là Thiếu Sơn,

Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Học…

Giới thiệu “Một lối văn mới: Sống chết mặc bay” [50], Phạm Quỳnh đã

có nhận xét: Trong học giới, báo giới ta, chắc ai cũng đã biết tên ông Phạm

Duy Tốn. Ông là một người rất nhiệt thành với văn chương quốc ngữ, và đã

biệt lập ra một lối văn riêng lấy sự tả chân làm cốt. Mỗi bài văn của ông như

một tấm ảnh phản chiếu cái chân tương như hệt. Ông tin rằng phàm văn

chương đã tả được hết cái thực, là tự khắc có cái sức cảm động vô cùng,

không cần phải nghị luận xa xôi. Văn chương ta xưa nay thường lấy sự mập

mờ phảng phất làm hay, càng phiếu diễu bao nhiêu càng huyền diệu bấy nhiêu

nên ít dụng lối tả thực, coi là tầm thường. Nay xét văn học họa học của Thái

Tây, phần nhiều lại trọng lối tả thực hơn là lối phá bút. Quốc văn ta sau này

tất chịu ảnh hưởng của văn Tây nhiều, lối tả thực rồi tất mỗi ngày một thịnh

hành. Như bài văn ông Phạm Duy Tốn sau này cũng gọi là một bài tả thực

14

tuyệt khéo… Văn tả thực mà được như vậy cũng đã khéo thay. Bản báo đăng

bài này mà có lời khen ông Phạm Duy Tốn đã có công với quốc văn”. Ở một

bài viết khác, “Lối tả chân trong văn chương”, Phạm Quỳnh cũng có những

nhận xét tương tự, ông nói: “Văn chương đời nay thường trọng lối tả thực hơn

lối phá bút…” [51] Xuất phát từ quan niệm trọng lối tả thực như vậy, nên điều

lệ của một cuộc thi sáng tác tiểu thuyết trên Nam phong tạp chí năm 1918 đã

yêu cầu: “tiểu thuyết phải làm theo lối châu Âu…. Phải dùng phép tả thực,

không được bịa đặt những chi tiết hoang đường, kỳ quái. Trọng nhất là tả

được cái tâm lý người ta cùng cái tình trạng trong xã hội” [52].

Thiếu Sơn trong Phê bình cảo luận (1933), nhận thấy do ảnh hưởng

của khoa học nên tiểu thuyết coi trọng việc tả thực: “gần đây khắp văn

chương thế giới đâu đâu cũng có cái phong trào tả thực. Mà cái phong trào

này là nguyên lai tự cái tri thức nhân loại nó đã tiến hóa theo khoa học tới một

cái trình độ khác cao. Nhưng tả thực là thế nào? Tả thực là đem những sự mắt

thấy tai nghe cho vào văn chương sách vở. Nhà cổ điển chỉ tả những hiện

tượng đại đồng của tâm giới. Nhà lãng mạn chỉ tả những mối tình cảm mơ

màng của thi nhân. Còn nhà văn học tả thực thì chẳng chịu bỏ sót một cái gì

là không nói đến. Tâm giới cũng tả mà ngoại giới cũng tả…..Trong phái tả

thực đã có người chịu khó trà trộn vào những hạng người lao động thợ

thuyền, lẩn quẩn ở những nơi đầu đường xó chợ, cốt để tìm tòi học hỏi

cho biết cái sinh hoạt của khắp các hạng người trong xã hội… Như ý tôi,

thì tả thực là nên, nhưng phải tả hết cả sự thực, chớ nên nói cái này mà bỏ

cái kia” [56, tr.59-60].

1.1.1. Hải Triều gắn chủ nghĩa tả chân xã hội với giá trị phản ánh, tố

cáo hiện thực, giá trị nhân sinh

Nói về lý luận chủ nghĩa tả chân, không thể không nhắc đến Hải

Triều, người có công đầu trong việc xây dựng nền lý luận phê bình văn

học mác xít ở ta.

15

Trong bài “Sự tiến hóa của văn học và sự tiến hóa của nhân sinh” Hải

Triều đã dùng duy vật biện chứng pháp phê bình cái quan hệ của sự tiến hóa

về văn học và sự tiến hóa về nhân sinh” [67]. Hải Triều quan niệm văn học

quan hệ chặt chẽ với xã hội, văn học là một bộ phận của thượng tầng kiết

thiết, “văn học là cái biểu hiện của nhân sinh, không biểu hiện được nhân sinh

thì không ra văn học”, “nếu nền kinh tế của xã hội biến đổi thì nền văn học

cũng biến đổi theo”. Đứng trên lập trường này, Hải Triều đề cao văn học gắn

với nhân sinh, phê phán thứ: văn học tự nhiên chủ nghĩa, lãng mạn chủ nghĩa,

tượng trưng chủ nghĩa, duy mỹ chủ nghĩa, nghệ thuật thuần túy.

Đối với Hải Triều, văn học có chức năng phô diễn tư tưởng, mà tư

tưởng là cái phản ảnh của vật chất [68]; hoàn cảnh vật chất chi phối sự sáng

tạo văn chương; văn chương là sản phẩm của xã hội, thời đại, “phát nguyên

của nghệ thuật là trong sự sống” [70], “không có nhà văn nào có thể thoát li ra

khỏi sinh hoạt xã hội mà sáng tác văn chương được” [75]. Thời đại biến đổi

thì văn học biến đối theo, muốn cắt nghĩa văn học phải căn cứ vào xã hội,

nhân sinh: “diễn tả cho đúng cái tư tưởng, cái ý chí tình cảm của mỗi giai cấp,

mỗi thời đại trong lịch sử là một cái sứ mệnh tối cao của nhà văn học chân

chính, dẫu ở đời nào cũng thế, ở xứ nào cũng thế” [69].

Hải Triều chủ trương lấy nghệ thuật phụng sự cho nhân sinh: “nghệ

thuật chân chính - theo Hải Triều - là cái nghệ thuật vị nhân sinh” [70]. Ông

tán thành quan điểm của L.Tolstoi cho rằng văn nghệ sĩ phải “chỉ cho loài

người thấy con đường giải thoát khỏi những khốn khổ ngày nay và tìm những

cái mới mẻ hơn”. Nghệ sĩ đích thực là người lấy nhân sinh, dân sinh làm cứu

cánh cho nghệ thuật, là người thuộc về quần chúng nhân dân, “giữa cuộc phân

tranh của xã hội, trước những vấn đề sống còn của thời đại, nhân loại đang

mong mỏi”, nghệ sĩ phải biết diễn dịch nỗi lòng của họ, “làm sao mà những

sự đau thương, mong mỏi, sự buồn giận, sự vui sướng trong tâm khảm họ đều

vẽ lên thành những bức tranh linh hoạt chan chứa tình cảm” [71], diễn tả bằng

những câu văn chân thật, cứng cỏi, mạnh bạo”, “bình dị mà thiết thực” [72].

16

Theo Hải Triều, tập truyện Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan là tác

phẩm đã “mở ra một kỉ nguyên mới cho các tư triều văn nghệ tả thiệt về xã

hội ở nước ta”. Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan có hai đặc điểm: về hình

thức,khuynh hướng về tả thực; về nội dung, khuynh hướng về xã hội. “Hình

thức và nội dung đi đôi với nhau thì tác phẩm mới có giá trị. Xem văn Kép Tư

Bền, chúng ta nhận thấy rõ tác giả đã đứng về mặt tả thực chủ nghĩa

(réalisme). Với những câu văn rất thành thực, chắc chắn, hí hởn, ngộ nghĩnh,

nhiều khi cục cằn thô bỉ nữa, chúng ta phải phục Nguyễn Quân là một nhà kể

chuyện rất thiệt và rất có duyên. Về phương diện tả thực, có thể nói tác giả đã

đạt đến mục đích một phần lớn rồi vậy”. Nghệ thuật tả thực chủ nghĩa, như

Hải Triều yêu cầu, là thứ nghệ thuật vị xã hội đích sinh hoạt”. [73]

Cần phân biệt ở Hải Triều hai loại tả thực chủ nghĩa. Một loại tả thực

chủ nghĩa như Nguyễn Công Hoan và một loại như M.Gorki [74]. Hải Triều

gọi khuynh hướng tả thực của Gorki là chủ nghĩa tả thực xã hội, “cốt ở sự tả

một cách chân thực, rành mạch những thực trạng quá khứ hay hiện tại, làm

thế nào cho sự tả thực ấy có thể đưa quần chúng đến chỗ giác ngộ tranh đấu

để kiến thiết xã hội chủ nghĩa” [73]. Tả thực xã hội hay tả thực xã hội chủ

nghĩa (như sáng tác của Gorki, Lan Khai) trong các diễn giải của Hải Triều

chính là một thuật ngữ chỉ phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa: “văn

chương của giai cấp vô sản là văn chương tả thực xã hội” [75]. Hải Triều

khẳng định: “chủ nghĩa tả thực xã hội luôn luôn thừa nhận mỗi tác phẩm đều

có một khuynh hướng, nhưng chủ nghĩa tả thực xã hội hết sức kiêng kị những

xu hướng chủ quan, độc đoán, cơ giới, những tư tưởng cố định, những tín

điều bất dịch mà tác giả đã vụng về ấn ghép vào câu chuyện… Một nhà văn

khuynh hướng về chủ nghĩa tả thực xã hội chỉ nên phụng sự sự thật, chớ nên

buộc sự thật phải phụng sự mình” [76].

Qua các bài bút chiến, phê bình của Hải Triều, chúng ta có thể rút ra

đặc điểm của mỹ học tả thực chủ nghĩa ở Hải Triều gồm đặc điểm sau: tác

phẩm phải có khuynh hướng tả thực và nội dung xã hội; lấy cuộc đời thực tế,

những điều mắt thấy tai nghe làm chất liệu; quan sát tỉ mỉ những người,

17

những việc ở xung quanh, chú ý miêu tả chi tiết, phơi bày chân thực cảnh đời,

tình đời; phê phán cái hèn mạt, cái xấu xa, thành kiến hủ bại, cái xã hội cũ kỹ;

quan tâm tả cái đau thương sầu khổ của hạng người nghèo khổ, bênh vực giai

cấp cần lao, nhen nhóm lên “một chút tình đối với nhân loại” và giác ngộ

quần chúng đấu tranh đánh đổ “thế giới cũ” (chống lại xã hội thực dân phong

kiến, tố cáo cái ác, cái xấu của xã hội đó, nhằm lật đổ nó), xây dựng xã hội

chủ nghĩa.

Có thể nói, Hải Triều không chỉ là nhà phê bình có lý luận về chủ nghĩa

hiện thực/tả thực xã hội chủ nghĩa, ông tiếp thu tả thực chủ nghĩa của phương

Tây, Liên xô, đồng thời còn là người vận dụng nhất quán lý luận tả thực chủ

nghĩa như một điểm tựa phê bình các hiện tượng, các quan điểm nghệ thuật vị

nghệ thuật, thoát li hiện thực thập niên 30. Cách vận dụng lý luận của Hải Triều,

về đại thể, mang màu sắc thực dụng, chủ yếu hướng tới phục vụ chính trị, cách

mạng. Đây cũng chính là một trong những lý do khiến ông được tôn vinh là nhà

văn chiến sĩ, nhà văn cách mạng, nhà văn tiên phong của nền văn học mới.

1.1.2. Đinh Gia Trinh và vấn đề chi tiết chân thực, phong phú của tiểu

thuyết Pháp

Đinh Gia Trinh là nhà phê bình văn học, khuôn mặt nổi bật của nhóm

trí thức Thanh Nghị. Sự vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực ở trường hợp

Đinh Gia Trinh thể hiện rõ nhất trong các bàn thảo của ông về tiểu thuyết Việt

Nam cận đại.

Trong bài viết “Đọc tiểu thuyết Việt Nam cận đại” đăng trên tạp chí

Thanh Nghị số 26 năm 1942, Đinh Gia Trinh có nhắc đến một tín hiệu khởi

sắc của tiểu thuyết xứ ta: “gần đây trong sự sản xuất tiểu thuyết của xứ ta,

người thức giả đã nhận thấy một ít tác phẩm có giá trị và một vài hoan nghênh

của công chúng” [66]. Tác phẩm có giá trị và gây được húng thú với độc giả

mà Đinh Gia Trinh khen ngợi, chính là thứ tiểu thuyết có khuynh hướng tả

thực, được ông định danh là “tiểu thuyết tả chân” [66].

18

Đặc điểm của tiểu thuyết tả chân được Đinh Gia Trinh mô tả như sau.

Trước hết về chủ thể sáng tác: nhà tiểu thuyết “tìm tài liệu ở đời xung quanh”,

kể về những hoàn cảnh, nhân vật, xã hội trong đó nhà tiểu thuyết và độc giả

sống. Tiểu thuyết tả thực, là tiểu thuyết phản ánh “chân tượng của xã hội”,

được xây dựng trên cơ sở sự thực xung quanh chứ không phải hoàn toàn là

tưởng tượng, “nhân tạo”: “nội dung các tiểu thuyết Việt Nam cận đại cho ta

hiểu được đời sống vật chất và tinh thần xã hội Việt Nam, hay nói ngược lại,

đời sống vật chất và tinh thần của xã hội Việt Nam cận đại khiến ta hiểu được

tính cách nội dung của tiểu thuyết Việt Nam mới” [66]. Như thế, theo Đinh Gia

Trinh, điểm quan trọng nhất của tiểu thuyết tả chân là phải có giá trị hiện thực,

nội dung của nó phải toát lên cái không khí đặc trưng của thời đại bằng các nét

vẽ chân thực, gần gũi. “Tiểu thuyết đựng những nguyện vọng, những phản ánh

của đời sống tinh thần và vật chất của xã hội. Muốn suy xét một dân tộc, một

nhà mỹ học khuyên ta, nên để ý đến nền âm nhạc và lối kiến trúc của nước ấy.

Ta phải thêm vào: nên xét đến văn chương của nước ấy và nhất là môn tiểu

thuyết của nước họ”- Đinh Gia Trinh lưu ý [66]. Về điểm này, Đinh Gia Trinh

đã đặt tiểu thuyết ngang với một tác phẩm lịch sử, và nhà tiểu thuyết như một

sử gia của thời đại. Đọc tiểu thuyết tả chân cũng như đọc lịch sử.

Cũng Đinh Gia Trinh trong bài “Tính cách văn chương Việt Nam trước

thời kỳ Âu hóa” [65] chỉ ra mấy đặc điểm có tính cách phương pháp luận để

chúng ta hiểu thêm phương pháp sáng tác của Truyện Kiều. Theo Đinh Gia

Trinh, ở ta tư duy khoa học rất yếu ớt, tựa như không đáng kể, “Ở nước ta,

khoa học không phát triển mạnh nên lý trí không được hướng thượng, triết

học không năng thay đổi, và văn chương chỉ quanh quẩn với mấy ý tưởng

khuôn mẫu bất di dịch được xã hội thâu nhận đã lâu đời.” [65]. Nhận xét này

của Đinh Gia Trinh giúp ta có thêm cơ sở để phân biệt và đánh giá đúng hơn

tư tưởng định mệnh trong Truyện Kiều. Cũng theo tác giả Đinh Gia Trinh, xã

hội Việt Nam đóng kín, nhà văn xưa không ưa tả cảnh tỉ mỉ, văn chương Việt

19

Nam thiên về sự diễn hoặc ngụ những tư tưởng luân lý và sự tả những niềm

riêng của một người, văn chương Việt Nam thiên về tính cách một "văn

chương của trường hợp" chẳng hạn “Ôn Như viết quyển Cung oán,

Nguyễn Du viết quyển Kim Vân Kiều, là để tả một cách kín đáo chút tâm

sự đau đớn của mình …

Rõ ràng, lập trường và đích đến của Hải Triều khác với Đinh Gia Trinh.

Một đằng đứng trên quan điểm Mác xít, ra sức vận dụng chủ nghĩa Mác vào

thực tiễn Việt Nam, tự nhận lãnh lấy sứ mệnh của một nhà văn tham dự vào

cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh cho sự thắng lợi của chủ nghĩa

hiện thực xã hội chủ nghĩa, cho nền văn học mới. Còn một đằng túy thuần túy

bàn về tư duy nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực, tư duy tả chân chứ không

chủ ý khai thác một cách thực dụng vấn đề tả thực vào phục vụ đấu tranh cách

mạng, đánh đổ chế độ phong kiến thực dân; không phải ngẫu nhiên trong lịch

sử lý luận văn học cách mạng, Đinh Gia Trinh là một tên tuổi ít được nhắc

đến như Hải Triều.

1.1.3. Đào Duy Anh, Nguyễn Bách Khoa với lý luận và phương pháp

nghiên cứu phương Tây

Xét riêng trong lĩnh vực Kiều học trước 1945. Có thể xem Phạm

Quỳnh, Đào Duy Anh, Nguyễn Bách Khoa là những tác giả tiêu biểu cho

khuynh hướng tiếp thu lý luận và phương pháp nghiên cứu phương Tây vào

đánh giá, định giá Truyện Kiều.

Mở đầu bài “Truyện Kiều” in trên Nam Phong số 30 (1919), Phạm

Quỳnh cho rằng, văn chương Nôm ở ta vốn nghèo nàn nhưng tình cờ sản xuất

được bộ sách quý, do đó không thể lấy cái “tỉ lệ thường của văn chương

Nôm” mà đánh giá Truyện Kiều, “phải dùng phép phê bình khảo cứu của văn

học Thái Tây mới mong phát biểu được cái đặc sắc, bày tỏ được cái giá trị của

một nền tuyệt tác trong quốc văn Việt Nam” [53]. Dựa theo phương pháp

nghiên cứu phương Tây, Phạm Quỳnh lần lượt xét mấy vấn đề: Cội rễ Truyện

20

Kiều, Lịch sử tác giả, Tâm lí cô Kiều và Văn chương Truyện Kiều. Ngoài

cách tiếp cận tiểu sử học của Sainte-Beuve, điểm đáng lưu ý trong hệ tiêu

chuẩn đánh giá Truyện Kiều của Phạm Quỳnh, là tác giả đã chú ý đến khuynh

hướng tả thực của tác phẩm: “văn chương ta vẫn có tiếng là không biết tả

thực, hay chuộng những hoang đường huyền diệu. Văn chương Truyện Kiều

thời không thế; chỗ nào nên tả thực rõ ra nét bút tả thực, mà vẫn có cái vẻ

trang nghiêm thanh nhã”, như mấy đoạn tả về lầu xanh, tả Kiều đang tắm…

[53]. Tiêu chí miêu tả nhân vật sống động như thật được Phạm Quỳnh đề cao.

Ông viết, theo phê bình văn học của Thái Tây, muốn biết nhà văn có tài

không cần xem xét “những nhân vật mô tả có vẻ linh hoạt như người sống

hiển nhiên không… đọc những bộ tiểu thuyết có tiếng của Thái Tây thường

có cái cảm giác như thế, như người trong truyện là người sống thật, đương

hành động ở trước mặt mình”. Mặc dù không nói đến nghệ thuật điển hình

hóa, nhưng những dòng nhận xét sau đây của Phạm Quỳnh cho thấy ông đề

cao tính cách điển hình của Kiều: “Cụ Tiên Điền ta đặt ra chuyện Thúy Kiều

thật cũng đáng là một tay sáng tạo tuyệt luân, vì cô Kiều đã thành một nhân

vật não nùng ở trong tình giới người nước ta, thành một người bạn bi thu thê

thảm của biết bao nhiêu kẻ bạch mệnh tài tình từ hơn một trăm năm tới giờ và

cho đến muôn đời về sau nữa” [53].

Sau tiểu luận của Phạm Quỳnh, một nghiên cứu công phu đáng chú ý

khác về Truyện Kiều là Khảo luận về Kim Vân Kiều của Đào Duy Anh, cuốn

sách được viết năm 1943. Đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật của

Nguyễn Du, Đào Duy Anh cho thấy ông quan tâm đến sự mô tả chân thực các

tính cách nhân vật: “văn chương Truyện Kiều tả nhiều tình cảnh phức tạp, mà

tả giống hệt, khiến hạng người nào đọc cũng tuồng như nhận được có chỗ

giống với tình cảm của mình ít nhiều… Truyện Kiều là tác phẩm đầu tiên làm

chứng rằng, nước ta có thể sản xuất được một thứ văn học chung cho các

hạng người trong xã hội”. Xét về phương pháp, Đào Duy Anh là một trong

21

những người đầu tiên hồi đầu thế kỉ thực hành so sánh hai văn bản Truyện

Kiều và Kim Vân Kiều truyện, ông tránh được lối bình phẩm thiên về luân lý

đạo đức thường thấy ở các nhà nho (ngoài Đào Duy Anh có thể kể đến Rơnê

Crayxắc với “Truyện Kiều và xã hội Á Đông”…).

Trước 1945, nhà nghiên cứu Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa công

bố nhiều bài viết, công trình về Truyện Kiều như: Triết lý Truyện Kiều (Đông

Tây tuần báo, 1931), Nguyễn Du và Truyện Kiều (Văn mới, 1942), Văn

chương Truyện Kiều (1945). Xuyên suốt những công trình này ta thấy

Nguyễn Bách Khoa đã đứng từ nhiều góc độ để tiếp cận Truyện Kiều, trong

đó có cả sự vận dụng lý luận phương Tây. Bài Triết lý Truyện Kiều đứng từ

góc độ Phật giáo để soi sáng nội dung tương tưởng chủ đạo và số phận của

nhân vật chính. Nhưng thành công đáng chú ý nhất của Nguyễn Bách Khoa

chính là ông đã vận dụng “phương pháp khoa học, khí cụ khoa học” để khám

phá cái đẹp, chất thơ của Truyện Kiều. Trong Nguyễn Du và Truyện Kiều, Văn

chương Truyện Kiều ông phê phán các cách đọc truyền thống, không đưa

người ta đến chân tướng nghệ thuật của nó, và đề xuất cách đọc mới: “Cái đẹp

hay chất thơ của Truyện Kiều, ta cũng chỉ có thể thương thức được bằng

phương pháp khoa học, bằng khí cụ khoa học” [38]. Phương pháp khoa học

mà Nguyễn Bách Khoa nói đến ở đây chính là phân tâm học… Nguyễn Bách

Khoa khẳng định: “các nhà tâm lý học hiện đại đều công nhận, cá tính đặc

xuất của một người không ở cõi hữu thức mà chính là ở tiềm thức của người

ấy… Tiềm thức là cốt tủy của con người”, nghệ sĩ có chỗ hơn người là khi

sáng tạo họ “đập vỡ tan tành cái cùm xích của bản ngã hữu thức”, họ chỉ

“sống bằng tiềm thức, bằng bản năng”, bổn phận của nhà phê bình không phải

chỉ “đi tìm tâm sự nhà văn trong tác phẩm văn chương” mà phải tìm hiểu đến

cá tính nhà văn - “vì cái này mới là tất cả nhà văn, cái này mới thành thực,

mới không bị che đậy hoặc xuyên tạc. Nó là cái phần sâu thẳm nhất, tiềm tàng

nhất, mạnh mẽ nhất”, “tác phẩm là một khát vọng bị dồn ép được thể hiện ra

22

của người nghệ sĩ”. Nhờ phương pháp khoa học mới này, Nguyễn Bách Khoa

đã chỉ ra được cái vô thức, cái cốt tủy, cái bản sắc làm nên thiên tài Nguyễn

Du và kiệt tác Truyện Kiều, đem lại cho độc giả những trải nghiệm mới về tác

giả, tác phẩm trước đấy chưa thấy, thêm nữa phương pháp của Nguyễn Bách

Khoa đã hạn chế được lối bình phẩm chủ quan, tùy tiện. Đôi dòng sau của tác

giả cho thấy đầy đủ đóng góp của ông: “bằng phương pháp khoa học tôi đã

tìm đến nguồn gốc sự cấu tạo ra cá tính Nguyễn Du và do đó khám phá ra

được huyết thống, thời đại cùng đẳng cấp Nguyễn Du. Tôi đã thiết định mối

liên lạc giữa ông và tác phẩm văn chương của ông, không phải cái liên lạc hờ

hững ở một khía cạnh (tâm sự), mà cái liên lạc toàn khối ở các mặt, các góc

cạnh, ở cả trung tâm điểm. Mối liên lạc ấy đã chứng thực rằng văn chương chỉ

là phản ảnh của con người và con người chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh…”

Tuy nhiên, công bằng phải thấy rằng bên cạnh những đóng góp mới mẻ, cũng

có nhiều chỗ tác giả diễn giải còn gượng ép.

1.2. Giai đoạn sau 1945 đến năm 1970 (trước khi Lê Đình Kỵ công bố

cuốn sách)

Sau 1945, xu hướng vận dụng lý luận phản ánh/chủ nghĩa hiện thực vào

nghiên cứu Truyện Kiều bộc lộ rất rõ nét. Có thể coi đây là đặc điểm nổi bật,

xét về mặt phương pháp tiếp cận Truyện Kiều, ở miền Bắc, trong sự đối sánh

với miền Nam - khu vực thịnh hành của các phương pháp như phê bình hiện

sinh chủ nghĩa, hiện tượng luận, phân tâm học…

1.2.1. Hoài Thanh (1949) trong “Quyền sống của con người trong Truyện

Kiều” tiếp tục vận dụng quan niệm phản ánh hiện thực nhưng chưa có ý

thức về chủ nghĩa hiện thực

Công trình đáng kể đầu tiên trong giai đoạn sau 1945 vận dụng lý luận

chủ nghĩa hiện thực xem xét Truyện Kiều là Quyền sống của con người trong

Truyện Kiều (Hội Văn hóa Việt Nam xuất bản, 1949) của Hoài Thanh.

23

Hoài Thanh viết Quyền sống của con người trong Truyện Kiều [57]

xuất phát từ tâm thế của thời đại - “kiểm điểm” lại di sản văn học quá khứ

theo hướng gạn đục khơi trong. Hoài Thanh băn khoăn địa vị của Nguyễn Du

trong kháng chiến và cách mạng chưa minh bạch, trong khi: “thời đại của

chúng ta có những điều kiện để định ngôi thứ cho Truyện Kiều…”[57] và

người cách mạng có thể mời Nguyễn Du vào mặt trận Liên Việt. Lập trường

của Hoài Thanh là lập trường mác xít, phương pháp chủ yếu của ông là xã hội

học. Điều này thể hiện rõ trong những bàn về của ông về thái độ của Nguyễn

Du đối với quyền sống con người. Trong khi phân tích nhân vật, Hoài Thanh

cho thấy ông đã tiếp nhận lý luận chủ nghĩa hiện thực để xem xét mối tương

quan giữa tính cách và hoàn cảnh, lý giải mối quan hệ tác động giữ con người

và môi trường sống thời phong kiến. Vấn đề trung tâm trong công trình của

Hoài Thanh là vấn đề quyền sống của con người, cũng tức là vấn con người

và hoàn cảnh sống. Hoài Thanh phân tích sâu sắc môi trường sống phong kiến

thời suy, ông cũng chỉ rõ số thân phận con người, quyền sống của con người

trong hoàn cảnh đó. Ông viết: Kiều là một người rất phiền cho trật tự phong

kiến; trật tự phong kiến, nhất là thời suy, là một thứ trật tự chà đạp lên con

người, không thừa nhận quyền sống của con người, chế độ ấy rất sợ tài; Kiều

là một người thực, sống thực trong tâm trí Nguyễn Du, cho đến khi Kiều chết,

cái chết của Kiều cũng là cái chết của một người đã sống thực, “thân thế trầm

luân của Thúy Kiều là một lời tố cáo những gì nhơ nhớp độc ác trong trật tự

phong kiến”, “Kiều là tiếng ta thán của Nguyễn Du và của bao nhiêu người

ngột thở trong cái khuôn phong kiến”. Đòi hỏi của Hoài Thanh là phải có ý

thức phản phong mạnh mẽ, vì lẽ này ông phê phán Nguyễn Du đã nửa vởi

không theo đuổi đến cùng khuynh hướng phản phong, không dám ước mơ

triệt để (thể hiện qua nhân vật Từ Hải)… Viết Quyền sống của con người

trong Truyện Kiều, Hoài Thanh dụng tâm dùng Truyện Kiều như một khí cụ

đấu tranh giai cấp. Chiến lược phê bình Truyện Kiều của Hoài Thanh, xét cho

cùng là nhằm phục vụ cho cuộc kháng chiến phản đế phản phong (mục đích

24

chính trị ẩn sau vấn đề phê bình văn học). Đây chính là nguyên nhân chính đưa

ông đến tư tưởng muốn mời Nguyễn Du vào mặt trận Liên Việt: “chúng ta chỉ

biết chắc một điều là trong mặt trận dân tộc thống nhất phải có con người ấy,

chúng ta mời Nguyễn Du vào Hội Liên Việt … ở một nơi nào đó trong tâm trí

chúng ta ít nhiều Nguyễn Du vẫn còn sống. Phê bình Nguyễn Du tức là chúng ta

gián tiếp phê bình chúng ta vậy. Vì lẽ đó, cho nên mặc dù giữa lúc này công việc

kháng chiến bề bộn cũng nên để một ít thì giờ để phê bình Nguyễn Du” [57].

1.2.2. Trương Tửu và Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du (1956) vẫn chỉ

vận dụng quan niệm về phản ánh các phương diện hiện thực nhất là đấu

tranh giai cấp

Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du là công trình tiêu biểu cho lối tiếp

cận duy vật sử quan mác xít. Ngay Lời nói đầu sách, Trương Tửu đã trích dẫn

ý kiến của Mao Trạch Đông và xem đó là “ý kiến căn bản soi đường” cho

người nghiên cứu phê bình văn học. Có thể xem Truyện Kiều và thời đại

Nguyễn Du là công trình đánh dấu sự đọc lại, nghiên cứu lại Truyện Kiều

“dưới ánh sáng của tư tưởng văn nghệ Marx-Lenin”. Trương Tửu thành thực:

“Hơn mười năm trước tôi đã viết và cho xuất bản cuốn Nguyễn Du và Truyện

Kiều (1943) và cuốn Văn chương Truyện Kiều (1944)…. Trong hai tập tiểu

luận này, tôi đã cố gắng phân tích và phê phán Truyện Kiều theo quan điểm

đấu tranh giai cấp. Nhưng vì hồi ấy trình độ lý luận còn ấu trĩ, lập trường

chính trị còn lệch lạc, tôi đã áp dụng phương pháp phê bình văn học mác xít

một cách còn phiến diện, gò ép, máy móc, nên đã có những nhận định sai lầm,

căn bản khi tìm hiểu và phê phán tác phẩm của Nguyễn Du… Từ sau cách

mạng tháng Tám, được học tập thêm lý luận văn nghệ Marx-Lenin- Mao

Trạch Đông… tôi đã có dịp chỉnh lí lại những điều ấy”. Như vậy là, sau

1945, Trương Tửu ngả hẳn sang phương pháp xã hội học mác xít, nghĩa là

ông đã không chọn con đường khoa học riêng như trước, để nhập vào bè

diễn ngôn chung của thời đại, sử dụng khung lý thuyết chung của giới phê

bình mác xít miền Bắc.

25

Trên cơ sở lý luận văn nghệ mác xít, Trương Tửu cắt nghĩa lại, giải

thích khác về sức hấp dẫn của Truyện Kiều. Theo ông sở dĩ nhiều người nông

dân thích Truyện Kiều vì “tác giả Nguyễn Du đứng về phía các tầng lớp nhân

dân chống phong kiến ở đương thời, đã phản ảnh trung thành và ca tụng nhiệt

liệt một cuộc khởi nghĩa vĩ đại nhất của nông dân Việt Nam trong lịch sử -

cuộc khởi nghĩa Tây Sơn với tất cả ưu và nhược điểm của nó”. Khác với cách

tiếp cận phân tâm học như trước 1945, giờ đây Trương Tửu thấy rằng “phê

bình văn học là một phương diện của đấu tranh giai cấp trên mặt trận ý thức

hệ”. Cũng vì thế ông cho rằng, “toàn bộ đời sống ý thức của Nguyễn Du hình

thành song song với toàn bộ quá trình thành bại của phong trào Tây Sơn”,

Nguyễn Du đã phản ánh vào tác phẩm một vài cục diện cốt yếu của phong

trào này, - theo Trương Tửu - “nếu không nghiên cứu Nguyễn Du như một

hiện tượng tâm lý phản ánh phong trào Tây Sơn thì sự thành công bền bỉ của

Truyện Kiều trong nông dân Việt Nam là một điều bí ẩn không giải thích

được”. Rõ ràng là dù cách đặt vấn đề khác nhau, nhưng nội dung đấu tranh

giai cấp phản ánh trong tác phẩm của Nguyễn Du đều là mối quan tâm diễn

dịch hàng đầu của Trương Tửu và Hoài Thanh khi phê bình.

1.2.3. Các giáo trình lý luận văn học biên soạn theo lý luận Liên Xô về các

phương pháp sáng tác: chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa

hiện thực, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa được giới thiệu ở Việt Nam

Sau 1954, nhất là từ những năm 1960, việc du nhập lý luận văn học từ

Liên Xô và một phần lý luận văn học từ Trung Quốc (vẫn là chịu ảnh hưởng

của lý luận Liên Xô), khiến lý luận chủ nghĩa hiện thực đầy đủ, hệ thống hơn

so với lý luận trước cách mạng. Về sách có thể kể đến Bàn về văn học nghệ

thuật (1955) của Mao Trạch Đông do Nam Mộc dịch, Hình tượng nghệ thuật

(1961) của A.A.Raduvin, A.A. Bagienova, bộ Nguyên lý mỹ học Mác - Lê nin

(2 tập, 1960, 1961) do Hoàng Xuân Nhị dịch, Phê phán những khuyh hướng

chủ yếu trong nghệ thuật và mĩ học phản động tư sản hiện đại (1962) của

26

P.S.Torophimov, Nguyên lý lý luận văn học (1962) của L.I.Timofeev do Lê

Đình Kỵ, Cao Xuân Hạo, Bùi Khánh Thế, Nguyễn Hải Hà, Minh Hải, Nhữ

Thành dịch… Về bài báo, có thể kể đến “Những quan điểm mỹ học của

C.Mác, Ph. Ăng - ghen (1960), “Vấn đề điển hình và vấn đề thể hiện tính cách

con người trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa (1961), “Những đặc điểm

quan trọng của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa” (1964),… ngoài ra còn rất

nhiều sách bàn về kinh nghiệm sáng tác của các nhà văn nước ngoài

(Maiakopxki, Erenbua, Lão Xá, Mao Thuẫn, Polevoi…).

Điều đáng nói là, tính đến những năm 60, vấn đề phương pháp sáng tác

văn học nghệ thuật đã được quan tâm dịch, giới thiệu và nghiên cứu, giảng

dạy ở ta. Cuốn C.Mác, F.Ăng-ghen Về văn học nghệ thuật do nhà xuất bản Sự

thật ấn hành năm 1958, giới thiệu những ý kiến của Mác và Ăng ghen về văn

học nghệ thuật; trong đó dành cả Chương VII - Đấu tranh cho chủ nghĩa hiện

thực, giới thiệu vấn đề chủ nghĩa hiện thực của Ban dắc, chủ nghĩa hiện thực

Anh, Đức… Cuốn Mác, Ăng-ghen, Lê nin và Văn học, nghệ thuật của giăng

Phơ-rê-vin (Nxb. Sự thật) năm 1961 cũng nằm trong mạch chung đó, đúc kết

một số vấn đề về phương pháp hiện thực phê phán, hiện thực xã hội chủ

nghĩa. Bộ Nguyên lý lý luận văn học gồm 2 tập giới thiệu rất kĩ lưỡng một số

vấn đề về phương pháp sáng tác, kiểu sáng tác, nhất là phương pháp hiện thực

chủ nghĩa được mô tả nhiều chiều. Riêng về phương pháp hiện thực xã hội

chủ nghĩa đến giai đoạn này đã giới thiệu tương đối hệ thống: ngoài các công

trình dịch thuật, các giáo trình lý luận văn học ở bậc đại học cũng tập trung

luận giải phương pháp này. Có thể kể đến như bộ Những nguyên lý về lý luận

văn học của Đại học Tổng hợp gồm 4 tập, trong đó tập 4 biên soạn về Các

phương pháp nghệ thuật (1962) do Lê Đình Kỵ thực hiện; bộ Cơ sở lý luận

văn học/Nguyên lý văn học (4 tập, 1965) do Tổ bộ môn Lý luận văn học các

trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Đại học Tổng hợp biên soạn. Ngoài phần

nguyên lý chung, tác phẩm, thể loại văn học, bộ sách dành riêng một tập bàn

27

về phương pháp sáng tác và trào lưu văn học do Lê Đình Kỵ (các nội dung:

chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực) và Nguyễn Văn

Hạnh viết. Các giáo trình như Sơ thảo nguyên lý văn học (1958) của Nguyễn

Lương Ngọc đều dành riêng các chương bàn về vấn đề phản ánh hiện thực của

văn học, hình tượng điển hình và vấn đề điển hình hóa nhân vật… Bên cạnh bộ

giáo trình do Lê Đình Kỵ tham gia biên soạn phần phương pháp sáng tác, cùng

cần kể đến cuốn Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật (196) của

Hồng Chương, giới thiệu sự hình thành của các phương pháp sáng tác qua các

thời kỳ lịch sử và những đặc điểm của các phương pháp sáng tác đó…

Xuất phát từ quan niệm về sự tiến bộ của văn học cùng sự độc tôn

phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa, con đường sáng tác và nghiên cứu

văn học theo hướng hiện thực chủ nghĩa ở Việt Nam thời hiện đại có thể hình

dung, gần như là một con đường thẳng, liên tục và tất yếu” với ba giai đoạn

chính: đi từ nghiên cứu về chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa hiện thực phê phán

đến khẳng định, đề cao chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Khái niệm chủ

nghĩa hiện thực ở đây được hiểu là một phương pháp nghệ thuật, một khuynh

hướng hay trào lưu văn học mô tả cuộc sống trung thành với bản chất cuộc

sống và bằng phương pháp điển hình hóa các sự kiện, nhân vật; quan tâm lý

giải mối quan hệ tác động qua lại giữa con người, tính cách và hoàn cảnh, coi

trọng các chi tiết cụ thể…Các nguyên tắc mỹ học cơ bản của chủ nghĩa hiện

thực phê phán cơ bản giống như như chủ nghĩa hiện thực, song có điểm khác

với chủ nghĩa hiện thực ở chỗ, nó chú trọng phân tích phê phán, tố cáo trong

cảm thụ và mô tả thực tại. Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa được các nhà

lý luận văn học Mác xít mô tả là một phương pháp tiến bộ, ra đời và phát triển

gắn liền với lý tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa, với hệ tư tưởng

Mác-Lenin của giai cấp vô sản. Có thể nói, lý luận chủ nghĩa hiện thực xã hội

chủ nghĩa như một sự tiếp nối của lý luận chủ nghĩa hiện thực ở chế độ xã hội

xã hội chủ nghĩa. Đối với chế độ xã hội phong kiến hay thực dân phong kiến,

28

các nhà lý luận mác xít khuyến khích đấu tranh phê phán, bóc trần cái xấu, cái

ác của hiện thực xã hội (mục đích chính trị khá lộ liễu trong chủ trương này:

phải làm cách mạng lật đổ các chế độ đó). Nhưng đối với hiện thực chế độ xã

hội chủ nghĩa, lý luận chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa cho rằng nhiệm

vụ chủ yếu của phản ánh thực tại là khẳng định bằng nghệ thuật những mặt

tích cực, đi lên, tương lai tốt đẹp của xã hội xã hội.

Về điểm này, trong bài “Thực tại, cái thực và vấn đề chủ nghĩa hiện

thực trong văn học Việt Nam trung cận đại”, Trần Đình Hượu đã có những

đánh giá mang tổng quát về một xu hướng nghiên cứu văn học như sau:

“Những vấn đề liên quan đến chủ nghĩa hiện thực - trong những năm 30 gọi là

chủ nghĩa tả chân - mới đặt ra trong giới phê bình và nghiên cứu văn học Việt

Nam. Lúc đầu vấn đề đó chỉ liên quan đến văn học hiện đại. Từ những năm

50, vấn đề chủ nghĩa hiện thực, tính hiện thực mới thành sự quan tâm hàng

đầu của các nhà nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam trung cận đại. Mọi

người đi tìm sự hiện diện của chủ nghĩa hiện thực, những khuynh hướng,

những yếu tố hiện thực. Lý do của hoat động tìm kiếm công phu đó là một

nhận thức về con đường phát triển của văn học: chủ nghĩa hiện thực là một

quy luật, văn học bất cứ dân tộc nào, sớm hay muộn cũng sẽ đi tới đó. Một

nền văn học đã trưởng đến trình độ nhất định tất phải có, không cả chủ nghĩa

thì cũng là những hình thức chưa trọn vẹn: những khuynh hướng, những yếu

tố hiện thực. Sự tiến bộ của văn học về sau, chỉ có thể bắt nguồn từ những

khuynh hướng, yếu tố đó.” (tr.11).

Con đường nghiên cứu của Lê Đình Kỵ tất nhiên cũng nằm trong xu

hướng và nhận thức chung của thời đại, chứ không hoàn toàn là một hướng đi

riêng lẻ.

Thực vậy, việc dịch thuật, giới thiệu lý luận văn học Liên Xô ở miền

Bắc ngày càng phong phú. Đến thập niên 60, lý luận về chủ nghĩa hiện thực

xã hội chủ nghĩa được hiểu như một phương pháp sáng tác đã giới thiệu tương

29

đối hoàn chỉnh, có tính hệ thống hơn nhiều so với lý luận trước 1945 và trước

1954. Cụ thể: trước đây, giới phê bình chỉ nói tả chân xã hội, còn bây giờ,

người ta bàn về quan hệ thế giới quan và phương pháp sáng tác, về lý luận

điển hình hóa, nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, sự chân thực của

chi tiết… chính nhờ thế mà Lê Đình Kỵ có chỗ dựa lý luận để triển khai công

trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du mà nội dung của nó

so với các cách thực hành nghiên cứu trước, rõ ràng là có tính lý luận hơn

trước và có phương pháp luận cụ thể.

1.2.4. Các bài viết thể nghiệm của Lê Đình Kỵ những năm 1960 về Truyện Kiều

Không phải đến năm 1970, Lê Đình Kỵ mới vận dụng lý luận chủ

nghĩa hiện thực vào nghiên cứu Truyện Kiều. Từ những năm 60 ông đã có

những thể nghiệm bước đầu về việc xem xét phương pháp sáng tác của

Nguyễn Du qua Truyện Kiều.

Năm 1963 Lê Đình Đình Kỵ cho in bài “Bước đầu tìm hiểu phương

pháp sáng tác Truyện Kiều”. Mở đầu nhà nghiên cứu này khẳng định và

chứng minh tư tưởng định mệnh bao quát và chi phối toàn bộ câu chuyện,

đồng thời cũng chỉ ra sự xung đột giữa lý tưởng thẩm mỹ, thế giới quan và

thiên kiến của thời đại, môi trường sống. Điểm đáng chú ý trong lý giải của

Lê Đình Kỵ ở chỗ, ông cho rằng mặc dù Nguyễn Du tỏ ra tin tưởng vào định

mệnh, song “ý nghĩa khách quan của Truyện Kiều đã làm sụp đổ những mưu

toan giải thích chủ quan của tác giả dựa vào tư tưởng duy tâm định mệnh”

(tr.33), thiên tài của Nguyễn Du đã “khiến cho câu chuyện có nhiều yếu tố

thần bí mà vẫn mang được ý nghĩa sâu xa của cuộc đời” (tr33).

Qua phân tích sơ bộ tâm quá trình lý nhân vật, chi tiết hiện thực chủ

nghĩa, biện pháp ước lệ, nhân tố thần linh, yếu tố ngẫu nhiên, Lê Đình Kỵ có

mấy nhận xét quan trọng: “nếu Nguyễn Du đã tiến gần đến chủ nghĩa hiện

thực thông qua những chi tiết hiện thực chủ nghĩa sinh động về ngoại hình để

mô tả các nhân vật Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà từ bên trong, thì trong sự

30

phác họa chân dung một số nhân vật chính nổi bật lên là bút pháp ước lệ, cách

điệu (nhan sác Thúy Vân, Thúy Kiều, tướng mạo Từ Hải)”, “ý nghĩa khái

quát thật là rạng rỡ nhưng mặt cá thể hóa những câu thơ vẫn tài tình”. Từ đây,

Lê Đình Kỵ đã có những kết luận đáng chú ý. Theo ông, “Do Truyện Kiều

chịu ảnh hưởng trực tiếp của các truyền thống văn học dân gian, các truyện

Nôm khuyết danh và có nội dung xã hội tâm lý khái quát, chân thực, sinh

động, chúng tôi đi đến kết luận có tính chất giả thuyết này: phương pháp của

Truyện Kiều nằm giữa phong cách văn học dân gian và chủ nghĩa hiện thực”,

“Truyện Kiều chưa phải là hiện thực chủ nghĩa” [17].

Nhân kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du (1965), Lê Đình Kỵ công

bố tiểu luận rất công phu “Quan điểm đạo đức - thẩm mỹ của Nguyễn Du”

(Qua nhân vật Thúy Kiều) [19]. Nội dung của bài viết này, sau tiếp tục được

phát triển sâu rộng hơn thành một vấn đề trong công trình Truyện Kiều và chủ

nghĩa hiện thực của Nguyễn Du. Ở đây, Lê Đình Kỳ có một vài nhận xét cho

thấy phương pháp sáng tác trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đi gần tới chủ

nghĩa hiện thực: “Qua thân thế Thúy Kiều, Nguyễn Du không chỉ bắt gặp tâm

sự của mình, mà trước hết là đã tìm thấy hình ảnh của cuộc đời trước mắt, của

vận mệnh con người…”, tâm sự của Nguyễn Du trở thành giá trị thẩm mỹ khi

nó “gắn liền với vấn đề chung của thời đại, của nhân dân mình”. Tiếp thu Kim

Vân Kiều truyện, Nguyễn Du không minh họa giản đơn cho các nguyên lý đạo

đức có sẵn mà nhào nặn nhân vật của mình bằng chất liệu của chính cuộc đời,

bằng chính những điều trông thấy, “Thúy Kiều hấp dẫn Nguyễn Du trước hết

vì Kiều là con người của cuộc đời thực”, “Lý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Du

cắm sâu vào đời sống thực”, “Truyện Kiều đã biện hộ cho quyền sống của

người phụ nữ và đã đạt tới chiều sâu của sự khái quát chưa từng thấy trong

văn học thời phong kiến”, “Truyện Kiều có ý nghĩa hiện thực sâu sắc…” [17].

Ngoài hai bài viết kể trên, trong thập niên 60, Lê Đình Kỵ cũng có một

số nghiên cứu khác như “Nhân vật Truyện Kiều”. Ở đó ông bàn về các nhân

31

vật Hoạn Thư, Thúc Sinh, Kim Trọng, Từ Hải, Thúy Kiều từ quan điểm điển

hình hóa nhân. Đến năm 1970, nội dung của tiểu luận này được sửa chữa, bổ

sung để thành một nội dung trong Chương III (phần A) của công trình Truyện

Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du. Ngoài các bài viết, thì trong

không ít trang sách của bộ giáo trình Cơ sở lý luận văn học do Lê Đình Kỵ

tham gia biên soạn hoặc đảm nhận chính, ta bắt những phân tích ngắn gọn

Truyện Kiều để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận hiện thực chủ nghĩa.

Tựu trung, trước 1970, về Nguyễn Du đã có nhiều nghiên cứu “bước

đệm”. Mối tương quan giữa Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực tức là vấn đề

phương pháp sáng tác của Nguyễn Du, là một đề tài được Lê Đình Kỵ quan

tâm theo đuổi bền bỉ. Công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của

Nguyễn Du vừa có tính lý luận, ở chỗ nó đúc kết lại một số nguyên tắc mỹ

học của chủ nghĩa hiện thực, đóng góp vào việc làm sáng tỏ vấn đề phương

pháp sáng tác đang còn mới mẻ, vừa là sự ứng dụng lý luận chủ nghĩa hiện

thực đã được Lê Đình Kỵ giới thiệu, trình bày trong các giáo trình, vào soi

sáng tác phẩm lớn nhất của nền văn học dân tộc.

32

Tiểu kết chương 1

Lý luận về chủ nghĩa hiện thực được du nhập và vận dụng vào nghiên

vào nghiên cứu văn học sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Trước 1945, chủ

nghĩa hiện thực xuất hiện dưới tên gọi chủ nghĩa tả chân hay xu hướng tả

thực. Tiêu biểu cho sự thực hành phê bình văn học dựa trên quan điểm của

chủ nghĩa tả chân có thể kể đến Phạm Quỳnh, Thiếu Sơn, Hải Triều, Đinh Gia

Trinh… Riêng trong lĩnh vực Kiều học, các công trình của Đào Duy Anh,

Nguyễn Bách Khoa… có thể xem là đại diện cho khuynh hướng hiện đại hóa

cách đọc Truyện Kiều. Sau năm 1945, cùng với sự giới thiệu ngày càng phong

phú và có hệ thống về lý luận phản ánh/chủ nghĩa hiện thực, các nghiên cứu

về Truyện Kiều từ lý luận chủ nghĩa hiện thực đã có nhiều thành tựu mới. Bên

cạnh nghiên cứu của Hoài Thanh, Trương Tửu,.. phải kể đến những đóng góp

của Lê Đình Kỵ. Ngay từ giữa thập niên 60 Lê Đình Kỵ đã có những thể

nghiệm đọc Truyện Kiều từ phương pháp sáng tác. Tuy vậy, phản đến thập

niên 70, sự vận dụng lý luận về phương pháp chủ nghĩa hiện thực ở Lê Đình

Kỵ, vào nghiên cứu Truyện Kiều mới nhuần nhuyễn, có thành tựu và gây

được chú ý.

33

Chương 2

NỘI DUNG CÔNG TRÌNH

“TRUYỆN KIỀU VÀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC CỦA NGUYỄN DU”

2.1. Giới thiệu về Lê Đình Kỵ

Dịch giả, nhà lý luận và phê bình văn học Lê Đình Kỵ sinh năm 1923

tại xã Điện Bàn, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Theo lời tự thuật của Lê

Đình Kỵ, cha ông là nông dân, có học qua chữ Nho, mẹ tần tảo vất vả. Tuổi

thơ của Lê Đình Kỵ khá thiệt thòi vì trong nhà không có sách vở gì. Lê Đình

Kỵ học tiểu học ở Huế, trung học ở Sài Gòn [48; tr.9].

Trước năm 1954 ông tham gia cách mạng; sau đó làm giáo viên dạy

văn học. Năm 1955 ông tập kết ra Bắc, giảng dạy trung học phổ thông ở Hà

Nội rồi Thái Nguyên. Từ năm 1958 Lê Đình Kỵ được mời giảng dạy bộ môn

Lý luận văn học tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại học

Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội) [37]. Sau năm 1975, ông là giảng viên

trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP. Hồ Chí Minh cho đến lúc

nghỉ hưu. Năm 1984, Lê Đình Kỵ được phong hàm Giáo sư, năm 1988 được

trao tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân; Giải thưởng Nhà nước về văn học

nghệ thuật năm 2001.

Là người thành thạo tiếng Pháp, tiếng Nga, dịch giả Lê Đình Kỵ có

nhiều đóng góp quan trọng ngay từ giai đoạn đầu xây dựng ngành lý luận văn

học mác xít ở bậc Đại học.

Như ta biết, hệ thống lý luận văn học thịnh hành ở miền Bắc Việt Nam

thập niên 50 - 70 chủ yếu được du nhập từ Liên xô và Trung Quốc. Về mặt

này, không thể không nhắc đến Lê Đình Kỵ trong vai trò chủ biên dịch bộ

sách nổi tiếng Nguyên lý lý luận văn học của L.Timofeev (2 tập), xuất bản

năm 1960. Bộ sách này được giới đại học tham khảo rộng rãi, có ảnh hưởng

tới cách tư duy của nhiều thế hệ nghiên cứu văn học. Lê Đình Kỵ cũng là tác

giả của cuốn giáo trình Các phương pháp nghệ thuật - tức tập 4 (1962) của bộ

34

giáo trình Cơ sở lý luận văn học văn học được giảng dạy ở Đại học Tổng hợp

Hà Nội. Ngoài ra, ông còn tham gia biên soạn nội dung phương pháp sáng tác

trong bộ Cơ sở lý luận văn học do các giảng viên Trường Đại học Sư phạm

Hà Nội chủ trì. Có thể nói, Lê Đình Kỵ là một trong những chuyên gia về

phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật.

Năm 1983, Lê Đình Kỵ còn đảm nhận trách nhiệm biên soạn tri thức về

lịch sử hình thành, phát triển và nội dung cơ bản của đường lối văn nghệ của

Đảng Cộng sản Việt Nam vào giáo trình lý luận văn học, giảng dạy chính

thức ở bậc đại học.

Ngoài đóng góp trong việc du nhập hệ tri thức mỹ học, lý luận văn học

của Liên xô vào Việt Nam, Lê Đình Kỵ còn là tác giả của nhiều công trình

nghiên cứu văn học cổ điển và hiện đại gây được chú ý trong giới nghiên cứu

và giảng dạy văn học, như các nghiên cứu về Truyện Kiều, Tố Hữu, văn nghệ

thời Mỹ ngụy, Thơ mới….

Các công trình của Lê Đình Kỵ gồm có: Phương pháp nghệ thuật

(1962, Nxb. Giáo dục), Đường vào thơ (1969, Nxb. Giáo dục), Truyền Kiều

và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du (1970, Nxb. Khoa học xã hội), Cơ sở

lý luận văn học, tập 4 (1971, Nxb. Giáo dục), Sáng mắt sáng lòng (1978, Nxb.

Giáo dục), Thơ Tố Hữu (1979, Nxb. Đại học), Cơ sở lý luận văn học, tập 5

(1984, Nxb. Đại học), Tìm hiểu văn học (1984, Nxb.TP. Hồ Chí Minh),

Nguyên lý văn học (1986, Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh),

Phương pháp sáng tác (1986, Nxb.TP. Hồ Chí Minh), Nguyên lý văn học

(1986, Trường), Nhìn lại tư tưởng văn nghệ thời Mỹ ngụy (1988, Nxb.TP. Hồ

Chí Minh), Hiểu đúng đắn Truyện Kiều (1988, Nxb. Đồng Tháp), Thơ mới,

những bước thăng trầm (1988, Nxb.TP. Hồ Chí Minh), Thơ với Xuân Diệu,

Chế Lan Viên, Hoài Thanh (1988, Nxb. Cửu Long), Trên đường văn học (2

tập, 1995, Nxb. Văn học), Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt

Nam (1998, Nxb. Giáo dục)…

Trên đại thể, có thể thấy, Lê Đình Kỵ là một nhà nghiên cứu xã hội học

văn học mác xít. Ông đi theo cách mạng, phổ biến quan điểm mác xít trong

35

dịch thuật lý luận văn học, nghiên cứu, giảng dạy văn học; đồng thời Lê Đình

Kỵ cũng là người nhiệt tình đấu tranh bảo vệ quan điểm mác xít - lê nin nít

trong văn nghệ, tích cực trong đấu tranh phê phán quan điểm văn nghệ của

miền Nam Việt Nam 1954 - 1975. Mặc dù trước sau theo lập trường mác xít,

nhưng xét kỹ sự vận dụng, diễn giải của Lê Đình Kỵ trong nghiên cứu văn

học, dễ thấy ông có nhiều quan điểm đi trước và mềm mại hơn đối với không

ít đồng nghiệp đương thời.

2.2. Chủ nghĩa hiện thực và vấn đề phản ánh hiện thực

Trên thế giới, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực được đặt ra từ thế kỉ XIX.

Ở Việt Nam, phải đến những năm 20, 30 của thế kỉ XX, vấn đề chủ nghĩa

hiện thực mới được đề cập, và ban đầu nó được bàn đến dưới cái tên chủ

nghĩa tả thực và phải đến thập niên 50, lý luận về chủ nghĩa hiện thực mới

được thảo luận rộng rãi trong các sinh hoạt học thuật, các nghiên cứu ứng

dụng vào lĩnh vực lịch sử văn học...

Từ điển thuật ngữ văn học do nhóm Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn

Khắc Phi chủ biên giải thích thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực theo hai nghĩa.

Nghĩa rộng: dùng để xác định quan hệ giữa tác phẩm văn học đối với hiện

thực, với ý nghĩa này, khái niệm chủ nghĩa hiện thực gần như đồng nghĩa với

khái niệm sự thật đời sống, bởi tác phẩm nào cũng phản ánh hiện thực. Nghĩa

hẹp: dùng để chỉ một phương pháp nghệ thuật, hay một khuynh hướng, một

trào lưu văn học có các nguyên tắc mỹ học sau: thừa nhận sự tác động qua lại

giữa con người và môi trường sống, giữa tính cách và hoàn cảnh, các hình

tượng hiện thực chủ nghĩa hướng tới tái hiện chân thực các mối quan hệ

khách quan của con người và hoàn cảnh; cùng với sự điển hình hóa nghệ

thuật, coi trọng nhưng chi tiết cụ thể và độ chính xác của chúng trong việc mô

tả con người và cuộc sống, coi trọng sự khách quan hóa những điều được mô

tả, làm cho chúng tự nói lên tiếng nói của mình [10, tr.54-55].

Quan niệm về chủ nghĩa hiện thực theo nghĩa rộng của Từ điển thuật ngữ

văn học cũng là quan niệm, nhận thức chung của Lê Đình Kỵ từ thập niên 60, 70.

36

Năm 1962, Lê Đình Kỵ công bố tập 4 của bộ giáo trình Những nguyên

lý về lý luận văn học (Nxb. Giáo dục), tập trung bàn về các phương pháp nghệ

thuật. Thảo luận về chủ nghĩa hiện thực, sau khi dẫn ra một số định nghĩa của

một số nhà văn, nhà mỹ học Nga, Lê Đình Kỵ cho rằng, cần phải nghiên cứu

chủ nghĩa hiện thực như là một phương pháp sáng tác có những đặc trưng

riêng. Một số đặc trưng này, theo Lê Đình Kỵ đã được các nhà kinh điển mác

xít như Max, Engels chỉ ra. Engels định nghĩa: “theo ý tôi, ngoài sự chính xác

của các chi tiết, chủ nghĩa hiện thực còn bao hàm sự chính xác trong sự tái

hiện những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình”, “mỗi tính

cách là một điển hình, nhưng đồng thời cũng là một cá nhân riêng biệt”,

“khuynh hướng phải toát ra chính ngay từ tình thế và kết cấu, chứ không phải

cần phải nói toạc ra, và tác giả không bắt buộc phải cung cấp sẵn cả cho độc

giả cái giải pháp lịch sử của các xung đột xã hội mà mình mô tả”…. Nói

chung, đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực là sự mô tả chính xác và khách

quan, là sự thể hiện nhân vật trong môi trường cụ thể lịch sử, kết hợp hữu cơ

tính khái quát và tính cá thể thông qua cá tính cụ thể sinh động làm nổi bật ý

nghĩa xã hội của nhân vật [15, tr.69-70], ngoài ra, chủ nghĩa hiện thực còn có

một nguyên tắc mỹ học khác là thiên về khắc họa tính độc lập nội tại và sự

phát triển tự thân của tính cách, “phục tùng logic nội tại của nhân vật có nghĩa

là phục tùng chân lý cuộc sống”. Bên cạnh giá trị nhận thức, các tác phẩm

thuộc phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa còn có giá trị nhân đạo.

Ngay trong công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn

Du, nhiều lần Lê Đình Kỵ đã giới thuyết, giải thích về chủ nghĩa hiện thực

như là cơ sở lý luận cho hệ vấn đề mà ông đặt ra và nỗ lực chứng minh, lý

giải qua Truyện Kiều.

Lê Đình Kỵ quan niệm, “chủ nghĩa hiện thực là sự phản ánh cuộc sống

trong hình thái của bản thân cuộc sống, nhà văn nhìn thẳng vào cuộc sống

theo phương châm có thế nào nói thế ấy, nhưng không tự nhiên chủ nghĩa…”

37

[22, tr.389]. Chủ nghĩa hiện thực nắm bắt và thể hiện thực tại qua nghệ thuật

điển hình hóa và chịu sự chi phối của lý tưởng nhà văn. “Điển hình hóa chính

là sự khái quát hóa từ thực tế đời sống, một sự thu nhặt có cân nhắc, có chọn

lọc, có tái tạo. Nó là cách tiếp cận và xử lý thực tại khác sự lý tưởng hóa ngay

từ điểm xuất phát” [22, tr.389]. Điển hình hóa trong hiện thực chủ nghĩa, vận

động qua cái cá thể. Nhân vật điển hình hiện ra như là tổng hòa của những

mối quan hệ xã hội nhất định, sự chân thực của các chi tiết là tiền đề của điển

hình hóa hiện thực chủ nghĩa.

Lê Đình Kỵ khẳng định: “chủ nghĩa hiện thực phản ánh hiện thực xã

hội và thế giới nội tâm con người một cách đầy đủ và chính xác nhất, tái hiện

thực tại đúng như nó có, không lý tưởng hóa, cũng không phóng đại theo lối

châm biếm. Sự phản ánh hiện thực chủ nghĩa không dừng lại ở việc tái hiện

hình thức bên ngoài, mà đi sâu vào bản chất của những hiện tượng được miêu

tả, nhằm nắm bắt ‘những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển

hình’, soi rọi vào hoạt động bên trong của con người, với tư cách là ‘tổng hòa

của những quan hệ xã hội. Cuối cùng đó là sự phản ánh dựa vào những hình

thái của chính đời sống, nghĩa là qua sự thật của sự kiện, của các chi tiết mà

bộc lộ cái có tính quy luật, cái điển hình” [22, tr.7].

Trở lên chúng tôi đã giới thiệu những nét cơ bản về lý luận chủ nghĩa

hiện thực trong cách hiểu chung (từ điển) và cách diễn giải riêng của Lê Đình

Kỵ. Có một vấn đề khác, thiết nghĩ cũng cần lưu ý: sự tiếp nhận, vận dụng lý

luận đó vào thực tiễn nghiên cứu và phê bình văn học (bao gồm cả trường hợp

Lê Đình Kỵ với Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du). Phải

nói ngay rằng, sự tiếp nhận và vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực vào thực

tiễn văn học dân tộc, bên cạnh ý nghĩa học thuật, thì tính chất chính trị thực

dụng biểu hiện rất rõ.

Lý luận chủ nghĩa hiện thực được lưu hành rộng rãi trong đời sống học

thuật ở ta trước 1986, không phải là thứ lý luận thuần túy theo mô hình Liên

xô, mà có cả sự lai ghép với lý luận chủ nghĩa hiện thực mang màu sắc Trung

38

Quốc. Bên cạnh những công trình mỹ học và lý luận văn học được giới

chuyên môn dịch trực tiếp từ tiếng Nga, còn có những thực hành dịch thuật,

giới thiệu các quan điểm văn học của giới học thuật, sáng tác, quản lý văn

nghệ ở Trung Quốc (đơn cử như các ý kiến bàn về văn học nghệ thuật của

Mao Trạch Đông hay trường hợp Đặng Thai Mai viết Văn học khái luận, một

công trình tiêu biểu của lý luận văn học mác xít buổi đầu, dựa theo cách diễn

giải của giới học thuật Trung Quốc…).

Chủ nghĩa hiện xã hội chủ nghĩa đi vào Việt Nam có tính chất đặc biệt

ở chỗ, nó gắn liền với vấn đề đấu tranh cách mạng. Ngay từ khi đặt chân vào

Việt Nam nó đã không tách rời những vấn đề chính trị, tư tưởng hệ của thời

đại. Trước hết, lý luận chủ nghĩa hiện thực được truyền bá bởi các nhà hoạt

động cách mạng, những người theo lý tưởng cộng sản. Thứ nữa, việc giới

thiệu lý luận này hướng đến mục tiêu lớn nhất là: đánh đổ văn học duy tâm,

phong kiến, tư sản, chủ nghĩa lãng mạn, tượng trưng, siêu thực, “làm cho chủ

nghĩa tả thực xã hội chủ nghĩa thắng”. Phương pháp sáng tác hiện thực xã hội

chủ nghĩa có vai trò chính trị của nó (khẩu hiệu văn học là vũ khí sắc bén):

bên cạnh việc đấu tranh về tông phái văn nghệ, nó còn tham gia xây dựng nền

văn học nghệ thuật mới, nền văn hóa hiện thực xã hội chủ nghĩa; phê phán xã

hội cũ, khẳng định con người mới, cuộc sống mới, khẳng định tính đảng cộng

sản, tính ưu việt của chế độ mới - rộng hơn là tham gia khẳng định tính tất

yếu của việc tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa. Do phải gánh nhiệm vụ chính trị

như thế, phương pháp sáng tác hiện thực xã hôi chủ nghĩa thường thiên về

miêu tả những cái có lợi cho ta, tránh miêu tả những cái bất lợi cho cách

mạng. Nhiệm vụ này đã được Trường Chinh khẳng định: “hiện thực xã hội

chủ nghĩa là một phương pháp sáng tác văn nghệ tả sự thật trong xã hội đang

phát triển theo những quy luật khách quan dẫn đến chủ nghĩa xã hội… Thái

độ của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là thái độ khách quan. Có những

sự thật khách quan không có lợi cho ta, ví dụ: một trận ta thua chẳng hạn, ta

có nên tả đúng không?Có thể tả một trận ta thua, nhưng phải làm cho người

39

xem nhận thấy các chiến sĩ của ta đã anh dũng hy sinh như thế nào, vì sao ta

thua, trong cái thua ấy đâu là phần ta thắng và mặc dù thua, binh sĩ ta vẫn

không hề nao núng, vì ai nấy đều hăm hở học tập, rút kinh nghiệm để chuẩn

bị giành thắng lợi trong những trận tới” .

Chính Lê Đình Kỵ trong khi vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực vào

xem xét trường hợp Truyện Kiều cũng không hoàn toàn đứng trên quan điểm

học thuật để giải quyết vấn đề văn học mà chịu sự chi phối của ý thức hệ bấy

giờ. Trong Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, nhiều lần tác

giả dẫn các ý kiến bàn về phương pháp sáng tác chủ nghĩa hiện thực [xã hội

chủ nghĩa] của các nhà kinh điển Mác xít và khẳng định cần phải quát triệt

quan điểm mác xít về vị trí của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong

nền văn nghệ mới.

2.3. Nội dung cuốn sách

Ngay từ tên gọi và Lời nói đầu của công trình Truyện Kiều và chủ

nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, Lê Đình Kỵ đã khẳng định mục tiêu của ông

là đặt Truyện Kiều trong mối quan hệ với chủ nghĩa hiện thực để xem xét. Ở

đây, khái niệm chủ nghĩa hiện thực được ông hiểu là một phương pháp sáng

tác tiến bộ, một bước tiến của lịch sử tư duy nghệ thuật. Chính ở điểm này,

chúng ta thấy, Lê Đình Kỵ đã tự đặt ông vào một trong những vấn đề trung

tâm của mỹ được một nhận thức chung trong giới văn học ở ta lúc bấy giờ:

“vấn đề phương pháp sáng tác là một vấn đề rất phức tạp và còn khá mới mẻ

trong tình hình lý luận và nghiên cứu của ta….” [22]. Phải đặt công trình của

Lê Đình Kỵ vào bối cảnh ấy mới thấy được khó khăn, bản lĩnh và cùng đóng

góp của tác giả, cả trên phương diện lý luận lẫn thực hành vận dụng lý luận

vào nghiên cứu tác phẩm cổ điển lớn nhất của văn học dân tộc ta.

Lê Đình Kỵ đã phân tích, thảo luận xung quanh rất nhiều cách hiểu về

chủ nghĩa hiện thực. Ông phê phán cách hiểu quá rộng hoặc quá hẹp về khái

niệm này. Theo ông, nếu hiểu chủ nghĩa hiện thực là đặc điểm của các tác

phẩm có nội dung xã hội chân thực sinh động là xu hướng mở rộng giới hạn

40

của chủ nghĩa hiện thực đến vô hạn độ, tước bỏ nội dung cụ thể lịch sử của

chủ nghĩa hiện thực: “coi chủ nghĩa hiện thực là thành tựu tất yếu của mọi tác

phẩm văn nghệ có giá trị, tức là đánh đồng nội dung và phương pháp, đánh

đồng chân lý cuộc sống với chủ nghĩa hiện thực” [22], đồng nhất chủ nghĩa

hiện thực với bản chất văn học.

Trên cơ sở nội dung của phương pháp hiện hiện thực chủ nghĩa đã được

giới thuyết kĩ lưỡng cùng kinh nghiệm lịch sử về các bước ngoặt văn học trên

thế giới, soi chiếu vào Truyện Kiều, Lê Đình Kỵ nhận thấy, “Truyện Kiều đã

đặt nền móng đầu tiên vững chắc cho sự phát triển của nền văn học hiện thực

chủ nghĩa ở nước ta [22, tr.7].

Phương pháp nghiên cứu của Lê Đình Kỵ có thể hình dung như sau:

Trước tiên, nhà nghiên cứu, xác định đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực ở

Truyện Kiều - bối cảnh ra đời của chủ nghĩa hiện Nguyễn Du. Luận điểm

trung tâm của người viết hướng tới, là khẳng định “ở Truyện Kiều có sự xen

kẽ, sự đấu tranh giằng xé giữa xu hướng hiện thực chủ nghĩa và những nề nếp

đã thành thông lệ…. Thông qua những khuôn khổ, những quy ước định sẵn,

Nguyễn Du đã tìm được con đường dẫn tới chủ nghĩa hiện thực” [22, tr.7].

Bác bỏ ý kiến nghi ngờ giá trị phản ánh xã hội của Truyện Kiều vì cho tác

phẩm này chỉ là sự vay mượn, thuật chuyện nước ngoài, Lê Đình Kỵ chỉ ra

rằng, Nguyễn Du viết Truyện Kiều bằng sự thể nghiệm của bản thân, Truyện

Kiều là một sáng tạo của Nguyễn Du, một sản phẩm của xã hội và của thời đại

Nguyễn Du, tác phẩm phản ánh “con người Việt Nam” cảm nghĩ của người

Việt Nam, xã hội Việt Nam”. Ông lưu ý: “Chủ nghĩa hiện thực của Truyện

Kiều gắn chặt với những truyền thống văn học lâu đời của dân tộc, cho nên có

thể bao dung những nhân tố ước lệ, tượng trưng. Tìm hiểu phương pháp sáng

tác của Truyện Kiều trong mối tương quan với chủ nghĩa hiện thực, tức là xác

định tính truyền thống và tính cách tân của tác phẩm, đồng thời tìm hiểu

những hạn chế quy định bởi chính truyền thống ấy” [22, tr.9].

41

Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là sự vận dụng

những nguyên lý phổ biến về chủ nghĩa hiện hiện thực soi rọi vào Truyện

Kiều, điều này thể hiện ra thành hai phần chính của cuốn sách: cơ sở tư tưởng

thẩm mỹ của Truyện Kiều và vấn đề điển hình hóa.

2.3.1. Cơ sở tư tưởng thẩm mĩ của Truyện Kiều

Nội dung chính của vấn đề cơ sở thẩm mỹ của Truyện Kiều là sự vận

dụng nguyên lý về vấn đề hoàn cảnh điển hình theo mô hình của Engel nhằm

mô tả những điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam thời đại Nguyễn Du. Cơ sở

thẩm mỹ của Truyện Kiều trong lý giải của Lê Đình Kỵ tập trung vào mấy

phương diện sau: thân thế và thời đại Nguyễn Du, thế giới quan và phương

pháp sáng tác của Truyện Kiều…

2.3.1.1 Nguyễn Du và thời đại

Bàn về thân thế và thời đại Nguyễn Du, công trình hướng đến mấy kết

luận đáng chú ý như sau.

Trước hết về thân thế, Nguyễn Du xuất thân sinh năm 1766, trong một

gia đình quý tộc, có truyền thống khoa cử, lớn lên ở Thăng Long:

“Nguyễn Du mồ côi từ thuở bé, vừa đến tuổi khôn lớn thì anh em bị tai

biến dồn dập, bản thân trải qua 15 năm lưu lạc, chắc chắn cũng là những

năm Nguyễn Du được sống gần gũi với nhân dân, có dịp thông cảm với

những cơ cực của nhân dân” [22, tr.22].

Về thời đại, Nguyễn Du sống trong giai đoạn chế độ phong kiến khủng

hoảng cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX: cương thưởng đảo ngược, loạn kiêu

binh, nông dân khởi nghĩa…. Ông “lớn lên dưới triều đại Trịnh Sâm khi ở

triều đại này đã nảy nở những mầm biến loạn có ảnh hưởng quyết định đến

vận mệnh của gia đình Nguyễn Du sau này” [22, tr.24]. Cuộc khởi nghĩa của

anh em Tây Sơn có ảnh hưởng lớn đến Nguyễn Du, giúp ông hiểu sâu sắc hơn

về bộ mặt của bọn thống trị phong kiến đồng thời cũng khơi dậy ở con người

nghệ sĩ Nguyễn Du những ước mơ giải phóng, mặc dù có lúc ông có thái độ

42

đối địch với phong trào Tây Sơn. Nguyễn Du sinh trưởng trong gia đình quý

tộc, cha và anh làm tể tướng, họ hàng nhiều người đỗ đạt, làm quan, khi vua

Lê chúa Trịnh sụp đổ, “Nguyễn Du mưu toan khôi phục lại tiền triều, chống

lại Tây Sơn.” [22, tr.44]. Về mặt này, ông “đã hành động như một nhà nho bị

ràng buộc bởi quan niệm ‘trung thần bất sự nhị quân”. Tuy nhiên, cũng cần

thấy rằng, thái độ chính trị của Nguyễn Du không cứng nhắc, cuộc đời và thơ

văn chữ Hán của đại thi hào, cho thấy ông không coi Tây Sơn là “quốc thù, vô

đạo”, ông cũng không hề hăng hái, hay thực sự kiên trì chống Tây Sơn. Lý

giải về thái độ chính trị của Nguyễn Du, theo Lê Đình Kỵ không thể nhận

định đơn giản, một chiều.

Xem xét thái độ làm quan, thái độ với nhân dân, đối với con người và

cuộc đời, cũng như phẩm chất của Nguyễn Du, Lê Đình Kỵ đi đến nhận xét:

“thế giới quan của Nguyễn Du có nhiều mâu thuẫn giằng xé, nhiều điều

không xác định, không dứt khoát”: “tư tưởng của Nguyễn Du, về căn bản, là

tư tưởng của một nhà nho phong kiến, trải qua một cuộc đời chìm nổi lao

lung, đã tiếp thu được những xu hướng nhân đạo chủ nghĩa của thời đại,

những xu hướng này ở vào một bản chất nghệ sĩ như của Nguyễn Du, trở

thành đặc biệt mạnh mẽ và sâu sắc” [22, tr.74], Nguyễn Du quan tâm đến

những người nghèo khổ, với kiếp sống lao khổ.

2.3.1.2. Thế giới quan và phương pháp sáng tác

Sau khi mô tả những điều kiện lịch của xã hội Việt Nam cuối thế kỉ

XVIII đầu thế kỉ XIX, cuộc đời và con người Nguyễn Du (chương 1), Lê

Đình Kỵ đặt vấn đề: phương pháp sáng tác tiến bộ của Truyện Kiều đã dựa

vào thế giới quan nào?, cơ sở hình thành thế giới quan đó. Để trả lời và lý giải

những vấn đề này, nhà nghiên cứu đi sâu phân tích triết lý Truyện Kiều, thơ

chữ Hán - “một thứ nhật kí ghi lại tâm sự và cảm nghĩ trực tiếp và sâu sắc của

Nguyễn Du”, đối chiếu với cuộc đời của nhà thơ mà sử sách và gia phả họ

Nguyễn Tiên điền ghi lại.

43

Theo Lê Đình Kỵ, thế giới quan và phương pháp sáng tác của Nguyễn

Du có những mâu thuẫn phức tạp. Tư tưởng triết học, tư tưởng định mệnh của

Truyện Kiều là chủ nghĩa định mệnh: chủ nghĩa định mệnh ảnh hưởng đến mở

đầu, diễn biến, kết cấu của Truyện Kiều; cái kết có hậu của Truyện Kiều

không chỉ là mơ ước của con người mà là “ý muốn của một lực lượng thần bí,

có tên là ‘hội chủ’ và được tiền định qua lời tiên tri của Đạm Tiên và của Tam

Hợp đạo cô” [22, tr.103], điều này chính là những hạn chế tư tưởng nghệ

thuật của Truyện Kiều.

Có thể hình dung tính chất mâu thuẫn phức tạp trong thế giới quan

Nguyễn Du như sau: chủ nghĩa định mệnh của Truyện Kiều bắt nguồn từ tư

tưởng thiên mệnh của đạo Nho, đồng thời cũng bắt nguồn từ tư tưởng luân hồi

nhân quả của nhà Phật. Đạo Nho chủ trương thiên mệnh nhưng lại đề cao

hành động; đạo Phật thừa nhận tác dụng của tu tâm, tức là hành động và ý

thức con người nhưng lại thừa nhận tác động của những lực lược huyền bí

siêu hình, giải thích họa phúc của con người hoàn toàn thần bí. Chữ mệnh ở

Truyện Kiều dù hiểu theo nghĩa nào cũng là một triết lý tiêu cực. “Tư tưởng

thiên mệnh và nghiệp báo là sản phẩm tất yếu của xã hội phong kiến và nhằm

duy trì trật tự phong kiến. Xã hội phong kiến nước ta là xã hội nông nghiệp

lạc hậu” [22, tr.107], con người nông nghiệp quanh năm làm ăn theo sự tuần

hoàn của thời tiết, theo một định luật bất di bất dịch như xã hội xung quanh,

điều này đưa đến tư tưởng định mệnh; khi chiến tranh thiên tai bệnh tật xảy

ra, con người nông nghiệp đều bất lực như nhau và không lý giải được, họ tin

vào số mệnh, định mệnh. Lê Đình Kỵ nhấn mạnh: thời đại Nguyễn Du là thời

đại có nhiều biến cố xã hội dữ dội, “nếu có thời nào dễ đẻ ra tư tưởng nghiệp

báo thì đúng đó là thời Nguyễn Du” [22, tr.108].

Tuy vậy, băn khoăn của Lê Đình Kỵ không chỉ ở chỗ vạch ra tác hại

của chủ nghĩa định mệnh nói chung, mà là xác định đúng mức vị trí và tác

dụng của tư tưởng định mệnh trong Truyện Kiều, tìm hiểu thái độ phức tạp

của Nguyễn Du đối với tư tưởng định mệnh ấy.

44

Đi sâu vào biểu hiện cụ thể của tư tưởng định mệnh, Lê Đình Kỵ bàn

về chữ tài, chữ mệnh và chữ tâm

Chữ tài

Theo Lê Đình Kỵ Truyện Kiều viết ra để chứng minh cho thuyết “tài

mệnh tương đố”, cho thuyết “hồng nhan bạc mệnh”. Trong thời đại Nguyễn

Du, thuyết này có giá trị hiện thực của nó, tuy nhiên Nguyễn Du đã gán cho

nó một ý nghĩa duy tâm siêu hình, vĩnh viễn hóa một sự thực chỉ phổ biến

trong xã hội có áp bức bóc lột giai cấp, do đó trong tư tưởng chủ quan

Nguyễn Du có mâu thuẫn, đưa đến mâu thuẫn với ý nghĩa khách quan của

hình tượng, tác phẩm. Hệ quả của chủ nghĩa định mệnh, chủ nghĩa tiên

nghiệm, sự trung thành với thuyết tài mệnh tương đố, đã đưa đến những hậu

quả (hạn chế) sau:

Thứ nhất, lý tưởng hóa theo hướng trao cho nhân vật những nét hoặc

quá dồn ép, hoặc thừa thãi, không gắn liền với bản chất nội tại của tính cách,

ví dụ Nguyễn Du đã dồn không chỉ sắc đẹp mà đủ mọi tài hoa cho Kiều; dụng

ý của Nguyễn Du là tạo ra cho tác phẩm cái không khí tài tử giai nhân, nên từ

Đạm Tiên đến Từ Hải, Kim Trọng… dưới ngòi bút của ông đều trở thành

những người tài hoa, bậc kỳ tài. Nguyễn Du đã dồn ép vào nhân vật của

mình những nét mà tính cách không đòi hỏi, nhà thơ tô vẽ cái tài của nhân

vật để chứng minh cho lý thuyết tiên nghiệm- định mệnh. Trên thực tế,

người đọc trân trọng Thúy Kiều hay Đạm Tiên bởi vì trước hết họ tượng

trưng cho phận đàn bà, cho con người bị vùi dập trong xã hội cũ, chứ

không phải vì lý thuyết siêu hình.

Thứ hai, do gò ép theo lý thuyết về chữ tài mà Nguyễn Du đã thu hẹp ý

nghĩa xã hội của vấn đề hay tính cách nhân vật. Chẳng hạn, số phận của Đạm

Tiên là một vấn đề xã hội, nhưng trong miêu tả của Nguyễn Du lại nổi bật

45

hơn ở khía cạnh hồng nhan bạc mệnh của nó. Do quá bận tâm chứng minh cái

tài của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã rơi và khiên cưỡng, làm giảm giá trị tố cáo

xã hội ở nhân vật này…

Thứ ba, vì đặt vấn đề chữ tài một cách tiên nghiệm cho nên khi thể hiện

nó vào nhân vật, Nguyễn Du đã tỏ ra không nhất quán, và chuyển tài thành

tình. Lê Đình Kỵ nhấn mạnh: “Vấn đề tài trong Truyện Kiều là vấn đề tài hoa,

tài tình. Thực chất chữ tài trong Truyện Kiều là chữ tình. Thúy Kiều chịu oan

khổ đầu đuôi cũng là do muốn sống cho ra sống, do chữ tình đối với đời, đối

với người khác và đối với chính mình” [22, tr.121-122].

Lê Đình Kỵ đi đến những kết luận trên đây là dựa trên cơ sở phân tích

ý nghĩa khách quan của hình tượng và của tác phẩm. Cũng dựa vào đó, ông

cho rằng, nếu bỏ qua cái vỏ siêu hình, thuyết tài mệnh tương đố cũng có cơ sở

khách quan và có giá trị tố cáo. Xã hội phong kiến thời Nguyễn Du vốn không

dung nạp tài năng, vua Gia Long bãi bỏ chức trạng nguyên vì sợ kẻ có tài,

nhiều người tài năng, nhiều bậc khai quốc công thần bị hãm hại, trong xã hội

cũ đa tài thường đa nạn, ở Truyện Kiều, Từ Hải và Thúy Kiều đều là những

hiện thân của con người tài hoa trong xã hội cũ. Chủ đề tài mệnh trong Truyện

Kiều có nội dung xã hội còn bởi vì, Nguyễn Duy không lạc hướng quá lâu vào

ý nghĩa siêu hình, đại thi hào đã “quan niệm được rằng, chuyện tài hoa của

mình với chuyện tình người, tình đời là một. Mâu thuẫn chuyển sang giữa

tình và mệnh, nghĩa là giữa quyển sống của con người với chế độ xã hội.

Xuyên qua và rũ sạch được gấm vóc lụa là của chuyện tài hoa, vấn đề xã hội

đặt ra trở thành cháy bỏng, không ai có thể lẩn tránh được” [22, tr.124].

Chữ mệnh

Bàn về chữ mệnh. Phân tích cấu trúc tác phẩm, Lê Đình Kỵ nhận thấy.

một mặt Nguyễn Du đã vạch ra những kẻ thù hiện thực của Thúy Kiều trong

46

xã hội phong kiến (đồng tiền, những lũ sai nha, Mã Giám Sinh, Sở Khanh,

Hoạn Thư, Bạc Bà Bạc Hạnh, …) nhưng mặt khác, khi rút ra những khái quát

triết lý thì Nguyễn Du lại nhấn mạnh chủ yếu vào “số mệnh”. Vậy, phải hiểu

chữ mệnh này là cái chế độ phong kiến, “Nguyễn Du khẳng định mệnh tức là

khẳng định tính tất yếu xã hội của trật tự phong kiến. Đối với Nguyễn Du,

hành động của bọn sai nha cũng tất yếu như mưu sâu của Hoạn Thư hay như

cái tài kinh luân của Hồ Tôn Hiến. Mệnh là cái không thể tránh được, điều đó

có nghĩa là sự có mặt của bọn người kia trong xã hội là diều không thể tránh

được và có những nạn nhân của bọn chúng cũng là điều không thể tránh

được” [22, tr.125]; “chữ mệnh của Nguyễn Du còn hiểu theo cái nghĩa sự may

rủi cá nhân mà nhân dân thông thường đã hiểu;. “chữ mệnh trong ý nghĩa

ngẫu nhiên này không hề phủ nhận chữ mệnh trong ý nghĩa tất yếu nói trên.

Đây là sự thống nhất của mâu thuẫn” [22, tr.125].

Đánh chung, về vị trí, mức độ chi phối của tư tưởng định mệnh trong

Truyện Kiều, theo Lê Đình Kỵ: tuy tư tưởng định mệnh bao quát, không chỉ

thể hiện ở những lời phát biểu trực tiếp mà ít nhiều đã đi vào hình tượng và

kết cấu nhưng đó “không phải là cảm hứng chủ đạo của tác phẩm, không phải

là động lực nội tại của sáng tác của Nguyễn Du. Động lực sáng tác của

Nguyễn Du là mối xúc cảm trước thời cuộc, trước những điều trông thấy”, cái

mà Nguyễn Du gọi là chuyện bể dâu là những biến động cụ thể mà bản thân

Nguyễn Du đã chứng kiến [22, tr.127]. Về thái độ của Nguyễn Du đối với

thuyết định mệnh. Trước hết, Nguyễn Du tin ở định mệnh, nói nhiều đến định

mệnh một cách sâu sắc, nhà thơ gửi gắm tư tưởng định mệnh đậm nét qua các

nhân vật như Đạm Tiên, Sư Tam Hợp. Tuy nhiên, Lê Đình Kỵ chỉ ra rằng,

thái độ ấy của Nguyễn Du “chỉ là cục bộ” [22, tr.131], trong cuộc tranh chấp

giữa tài tình và mệnh, “Nguyễn Du đã rất mực đề cao tài tình”, “trong thái độ

của Nguyễn Du đối với định mệnh, có phần cam chịu, nhưng cái phần nhiều

hơn là xót xa, căm giận, phẫn uất. Mỗi lần Kiều nói đến trời là mỗi lần ta

47

được nghe tiếng kêu thương đứt ruột… trong thái độ của Nguyễn Du đối với

định mệnh, bên cạnh mặt tiêu cực, còn có ý nghĩa tố cáo nhất định. Nguyễn

Du đã vô tình hay cố ý đã tuyên truyền cho định mệnh, nhưng Nguyễn Du

cũng đã buộc tội định mệnh. Mâu thuẫn này vẫn có mặt thống nhất của nó:

Nguyễn Du xót xa cho thân phận con người, căm ghét những lực lượng giày

xéo lên con người, nhưng lại không giải thích nổi vì sao mà các lực lượng này

cứ ngự trị trong cuộc sống, Nguyễn Du không biết làm thế nào để đánh đổ cái

lực lượng ấy và lấy cái gì để thay thế vào. Đó là tấn bi kịch của Nguyễn Du và

cũng là hạn chế chung của thời trước… Đối với chúng ta ngày nay, thì rõ

ràng, cái mà Nguyễn Du gọi là mệnh không gì khác hơn là cái trật tự vô nhân

đạo của chế độ phong kiến, nó là chính danh thủ phạm đã gây nên kiếp sống

oan khổ của Kiều. Nhưng Nguyễn Du và những người đương thời của ông thì

không hiểu được thế nào là chế độ xã hội…. mọi việc đòi hỏi phải được truy

tìm nguyên nhân, cuộc sống đòi hỏi được giải thích. Nguyễn Du giải thích nó

bằng số mệnh” [22, tr.132- 133].

Lê Đình Kỵ chỉ ra những ràng buộc của Nguyễn Du với hệ ý thức

đương thời, những hạn chế trong tư tưởng triết lý của tác phẩm, song ông

cũng luôn thấy Nguyễn Du đã vượt lên những giới hạn thông thường để đưa

Truyện Kiều đến gần hơn với chủ nghĩa hiện thực. Cũng là tư tưởng định

mệnh nhưng ở Nguyễn Du màu sắc siêu hình giảm đi rất nhiều, thay vào đó là

hiện thực khách quan và nội dung xã hội. Cũng là nói về chữ mệnh nhưng ở

Nguyễn Du là một sự hỗn hợp cả Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Cũng là giải

thích chiều hướng số phận nhân vật bằng thuyết định mệnh nhưng cái mệnh

này gần với trật tự vô nhân đạo của xã hội cũ.

Chữ Tâm

Vấn đề chữ Tâm giữ một vị trí quan trong trong tư tưởng Truyện Kiều

và các diễn giải về Truyện Kiều.

48

Gần đây, trong công trình Thả một bè lau (tập hợp các bài giảng về

Truyện Kiều dưới cái nhìn thiền quán trong hai năm 1992, 1993), Thích Nhất

Hạnh đã có một số kiến giải thú vị về chữ Tâm.

Theo Thích Nhất Hạnh, viết Truyện Kiều, Nguyễn Du thể hiện tư tưởng

tài mệnh tương đố, đồng thời cụ Nguyễn cũng muốn khuyên người đời, không

nên cậy vào tài mình, “bởi vì khi có tài mà không có đức, không tu, không

biết giấu tài của mình đi mà cứ khoe khoang, hợm hĩnh, cho mình là giỏi thì

tai nạn sẽ đến với mình và mình sẽ đâu khổ rất nhiều” [11, tr.6]. Mầm mống

của tai nạn, đau khổ là nghiệp: “khi mình đã có những tham, giận, kiêu căng

trong người rồi thì ‘Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa’… vì vậy phải quay

về tu sửa tâm mình, vun bồi gốc rễ của cái thiện trong tâm mình.... Thiện căn

là một danh từ của Phật học, có nghĩa là gốc rễ của cái thiện. Cụ Nguyễn Du

thấy tu tâm là điều quan trọng phải làm. ‘Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia

mới bằng ba chữ tài’: một người có tâm lành, biết tu học thì sẽ có hạnh phúc

và mang lại hạnh phúc cho người khác nhiều hơn (bằng ba) những người có

tài mà không có tâm lành” [11, tr.6].

Cách diễn giải trên đây của Thích Nhất Hạnh rất khác với những đánh

giá của Lê Đình Kỵ về vấn đề tu tâm, tu hành, lý thuyết nghiệp báo, nhân quả

của Nguyễn Du trong công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của

Nguyễn Du. Nếu Thích Nhất Hạnh tán đồng với Nguyễn Du cho rằng tu tâm

là con đường đúng đắn để con người đạt được hạnh phúc, thì Lê Đình Kỵ lại

quan niệm thay vì lựa chọn giải pháp tu tâm (thỏa hiệp) để giải quyết vấn đề

xã hội lớn lao, Nguyễn Du cần phải lựa chọn con đường đấu tranh đánh đổ xã

hội phong kiến thối nát. Cách diễn giải như thế của Lê Đình Kỵ là một biểu

hiện đậm nét của thế giới quan cách mạng. Đối với các nhà mác xít thì vấn đề

chính không phải “giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, mà vấn đề là

cải tạo thế giới” (C.Mác).

Thực vậy, đi sâu vào cấu trúc Truyện Kiều, Lê Đình Kỵ phát hiện vấn

đề tài, mệnh ở Nguyễn Du thường được nhìn nhận và giải quyết từ góc độ chữ

Tâm. Chữ Tâm đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nhân vật và cấu

49

trúc tác phẩm, gần như mọi vấn đề trong Truyện Kiều đều có thể quy về chữ

Tâm. Ông viết: “Cái vấn đề xã hội lớn lao mà Nguyễn Du đã đặt ra qua kiếp

sống trầm luân của Kiều, cái mâu thuẫn giữa khát vọng của con người và xã

hội cũ, Nguyễn Du đã biến nó thành mâu thuẫn giữa tài tình và mệnh. Và mâu

thuẫn này, cuối cùng Nguyễn Du muốn giải quyết bằng chữ tâm” [22, tr.137]:

“Chữ Tâm ở Truyện Kiều có tính chất hỗn hợp”, tiếp thu cả từ Nho giáo lẫn

Phật giáo [22,tr. 139].

Chữ tâm ở Kiều biểu hiện đa dạng thành chữ hiếu, chữ nhân, chữ trinh,

chữ trung. Chữ tâm ở Truyện Kiều cũng có những hạn chế nhất định. Chẳng

hạn ở việc Nguyễn Du xử lý mối quan hệ giữa Kiều và Kim Trọng. Tố Như

đã cho Kiều vứt bỏ tài tình, bằng lòng làm vợ hờ của Kim Trọng, về vấn đề

này, Lê Đình Kỵ nhận định “Nguyễn Du lại tiến thêm một bước nữa trong

việc đã thỏa hiệp với trật tự cũ, từ bỏ cái quá khứ ma đưa lối quỷ đưa đường

và thôi không còn là mình nữa” [22, tr.141], “Nguyễn Du muốn ta hiểu rằng

đoạn đoàn viên là phần thưởng của chữ tâm của Kiều… các tình tiết của đoạn

đoàn viên đều xoay chung quanh cái trục chính là chữ trinh…Nếu việc thôi

không đánh đàn là một hành động tượng trưng thì việc từ chối ân ái với Kim

Trọng là một quyết định thực tế, và tất cả nói lên sự thắng lợi của tâm, sự phá

sản của tài tình… chữ tâm của Kiều đã bị giày xéo không thương tiếc” [22,

tr.143]. Nguyễn Du khác với nhiều nhà nho khác ở chỗ, ông đã không ngại

kéo nhân vật trung tâm ra khỏi dòng đời vẩn đục, qua nhân vật Kim Trọng tác

giả kêu gọi mọi người lấy lòng quân tử mà gạn đục khơi trong, Nguyễn Du

đưa ra đoạn đoàn viên là để chiêu tuyết cho Kiều. Song, Nguyễn Du cũng rơi

vào nửa vời khi không dám để cho cái quan niệm táo báo về chữ trinh ở Kim

Trọng được thực hiện, nghĩa là không dám để Kiều đường hoàng lấy Kim

Trọng, “điều đáng nói là Nguyễn Du muốn qua sự khước từ của Kiều, đề cao

chữ tâm, làm sáng rực tính không tà dâm của Kiều” [22, tr.145]. Lê Đình Kỵ

kết luận: Nguyễn Du dùng đến số mệnh để giải thích sự đời, để Kiều tránh bớt

được sự phê phán từ bình diện đạo đức, “điều đó dù sao cũng có thể hiểu

50

được. Đến khi Nguyễn Du tìm lối thoát trong chữ tâm thì mọi sự đều bị đảo

lộn. Nguyễn Du muốn làm một sự hỗn hợp, định trộn lẫn tâm với trung,

hiếu, tiết, nghĩa, nhưng càng lập luận càng tỏ ra lúng túng. Rốt cuộc,

Nguyễn Du lại trở về nguyên nghĩa của chữ tâm, tu tâm, tu hành… Nguyễn

Du muốn rằng trong Truyện Kiều bàng bạc một không khí tu hành, càng về

cuối càng rõ hơn” [22, tr.146].

Sau khi phân tích cơ sở lịch sử xã hội của việc hình thành thuyết định

mệnh trong Truyện Kiều cũng như biểu hiện của thuyết định mệnh trong tác

phẩm, vị trí của tư tưởng định mệnh và thái độ của Nguyễn Du đối với tư

tưởng này, nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ thảo luận về chủ nghĩa nhân đạo và

chân lý đời sống. Có thể rút ra năm kết luận đáng chú ý sau.

Một là, “con người và thế giới quan của Nguyễn Du, đầy mâu thuẫn”,

mâu thuẫn này để lại dấu ấn trong các tác phẩm Nguyễn Du, bao gồm từ

Truyện Kiều đến Văn chiêu hồn và phần thơ chữ Hán. “Truyện Kiều chứa chất

mâu thuẫn, nhưng là mâu thuẫn có nguồn gốc ngay từ cuộc sống xã hội đương

thời, và điều này xét về một mặt nào đó, cũng là dấu hiệu của tính hiện thực

của tác phẩm” [22, tr.160]. Nguyễn Du đưa vào tác phẩm tư tưởng định mệnh

nhưng không nhắm mắt trước sự thật đời sống, không xuyên tạc sự thật hay

bao che cho lợi ích ích kỷ của giai cấp quý tộc.

Hai là, “tâm sự của Nguyễn Du, những yêu ghét của Nguyễn Du, xét cho

cùng vẫn là nhất quán và hữu cơ với nhau…”, “chủ đề cơ bản nhất ở Nguyễn

Du: đó là những bức tranh về kiếp sống quằn quại trong xã hội cũ, là tiếng kêu

đứt ruột trước vận mệnh con người, là những khao khát bừng lên hay chỉ mới le

lói về một cuộc sống chân thật và trong sạch, tự do và xứng đáng, cuối cùng là

lòng căm ghét những bọn đầu trâu mặt ngựa….” [22, tr.164].

Ba là, cảm hứng chủ đạo của Truyện Kiều là cảm hứng về thân phận

con người trong xã hội phong kiến đầy áp bức bất công. Làm nền cho lý

tưởng đạo đức thẩm mỹ của Nguyễn Du là chủ nghĩa nhân đạo, nó là kết tinh

51

cao nhất của yêu cầu giải phóng của thời đại” [22, tr.164]. Tư tưởng nhân đạo

là linh hồn, động lực nội tại của sáng tác Nguyễn Du, là bộ phận hợp thành

của thế giới quan nhà thơ.

Bốn là, “chủ nghĩa nhân đạo làm nền tảng cho sự nắm bắt chân lý đời

sống ở Truyện Kiều, ngược lại chân lý đời sống là điều kiện để cho chủ nghĩa

nhân đạo phát huy tất cả tác dụng và tự bộc lộ qua những biểu hiện phong phú

phức tạp nhất của nó” [22, tr.185], Nguyễn Du xây dựng nhân vật bằng chính

chất liệu của cuộc đời, bằng chính “những điều trông thấy”, nhà thơ không

bằng lòng minh họa cho những giáo điều về đạo đức hay lý tưởng hóa một

chiều, nhà thơ đứng vững trên mảnh đất thực tế để thể hiện nhân vật. Chủ

nghĩa nhân đạo ở Nguyễn Du đã đưa nhà thơ vượt qua giới hạn của thời đại

mình, vượt qua giới hạn ràng buộc của mỹ học đương thời; tư tưởng nhân đạo

đã giúp Nguyễn Du có bản lĩnh nhìn thẳng vào thực tế, chủ nghĩa nhân đạo

của Nguyễn Du gắn bó với chủ nghĩa hiện thực, đó là thứ chủ nghĩa nhân đạo

“bám chặt lấy cuộc sống và những con người” sống thực với những thăm

trầm, vinh nhục của nó [22, tr.189]. “Nguyễn Du không cắt đứt với truyền

thống nhưng cũng không giậm chân tại chỗ. Nguyễn Du đã đi đến một sự kết

hợp tài tình và ngay khi sử dụng những khuôn khổ có sẵn, nhà thơ bao giờ

cũng biết tái tạo, biết đưa vào đấy hơi thở của cuộc sống, sự rung cảm của

những tấm lòng, những động cơ thúc đẩy hành động” [22, tr.190]. “Truyện

Kiều là tiếng nói mới mẻ cất lên từ xã hội cũ, tiếng nói ấy đã làm đảo lộn khá

nhiều giá trị đương thời, nhưng cũng nhanh chóng được thừa nhận, nhờ có

sức không cưỡng lại nổi của chính chân lý cuộc sống” [22, tr.190].

Năm là, lý tưởng thẩm mỹ tiến bộ của Nguyễn Du không đóng khung

trong một nhân vật Thúy Kiều mà bao trùm các nhân vật khác, trực tiếp nhất

là các nhân vật chính diện: Kim Trọng, Từ Hải. Lý tưởng thẩm mỹ của

52

Nguyễn Du đã hình thành trong vòng vây của mỹ học phong kiến, lý tưởng ấy

có mối quan hệ hữu cơ với tâm hồn và thiên tài Nguyễn Du, với quan niệm

mới mẻ về nghệ thuật ở Nguyễn Du.

Từ cách phân tích, lý giải của Lê Đình Kỵ, chúng ta thấy rằng: nghiên

cứu tác phẩm theo hướng đặt nó vào hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh lịch sử xã

hội để xem xét, là thế mạnh của nghiên cứu xã hội học nói chung, đồng thời

đây cũng là phương pháp phổ biến trong nghiên cứu phê bình các hiện tượng

văn học ở miền Bắc thập niên 60, 70. Sau này, các nghiên cứu theo hướng thi

pháp học đã nhấn mạnh vào các phương diện văn bản nhưng hầu như coi nhẹ

các yếu tố ngoài văn bản như vậy.

2.3.2. Vấn đề điển hình hóa trong Truyện Kiều

Bên cạnh cơ sở thẩm mỹ của Truyện Kiều (thân thế và thời đại Nguyễn

Du, thế giới quan và phương pháp sáng tác), thì vấn đề điển hình hóa trong

Truyện Kiều là một hệ vấn đề lớn thứ hai được Lê Đình Kỵ tập trung phân

tích, đánh giá, lý giải.

2.3.2.1. Nhân vật và xã hội

Đặt vấn đề điển hình hóa nhân vật không thể không dựa vào mối quan

hệ giữa nhân vật ấy với thực tại xã hội. Do đó, vấn đề đầu tiên mà Lê Đình

Kỵ cần phải xác lập là mối quan giữa nhân vật Truyện Kiều và xã hội. Chỉ khi

nào xác lập được mối quan hệ này cùng với việc thừa nhận một chủ nghĩa

hiện thực trong tác phẩm (nội dung xã hội của tác phẩm), sự thành công về

xây dựng nhân vật có chiều sâu khái quát thì vấn đề điển hình hóa nhân vật

mới có cơ sở vững vàng.

Mở đầu chương 3, Lê Đình Kỵ khẳng định, thành tựu không thể chối

cãi được của Truyện Kiều là “đã xây dựng được những nhân vật bất hủ và đã

phản ánh một cách sâu sắc thực tế xã hội đương thời, hai mặt này gắn chặt với

nhau” [22, tr.228].

Chủ nghĩa hiện thực đòi hỏi tác phẩm phải là tấm gương phản ánh xã

hội. Sự phản ánh này được thực hiện thông qua các nhân vật, cụ thể qua tính

cách, tâm lý, chiều hướng số phân của nhân vật. Nhân vật Truyện Kiều là

53

“những con người sống thực trong một xã hội có thực”, quan hệ giữa các

nhân vật trong truyện là quan hệ xã hội.

Theo Lê Đình Kỵ, các nhân vật Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh hợp

thành một tuyến nhân vật phản diện, chúng thuộc về hạng buôn thịt bán

người, và đều là những con người có thực trong xã hội cũ. Tú Bà là trùm lưu

manh, thực hiện chủ trương của mụ có Mã Giám Sinh là người chuyên thu

xếp các vụ mua bán, Sở Khanh chuyên lừa gạt. Cũng thuộc về hệ thống nhân

vật phản diện còn có Hồ Tôn Hiến, Hoạn Thư…. Lê Đình Kỵ gọi Hồ Tôn

Hiến là một tay Sở Khanh cỡ lớn, Sở Khanh cao cấp, Hoạn Thư là một điển

hình ghen tuông, có một không hai, “cái tên Hoạn Thư đã trở thành một danh

từ chung bất hủ mà Nguyễn Du đã đóng góp vào vốn từ vựng Việt Nam”.

Nhận xét nhân vật Thúc Sinh, Lê Đình Kỵ cho rằng, “trong ba người đàn ông

đã giữ một vai trò quan trọng trong đời Kiều, Thúc Sinh là vô nghĩa nhất,

nhưng cũng là một nhân vật hiện thực hơn cả”. Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú

Bà, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến đều là những nhân vật hiện thực chủ

nghĩa, những nhân vật mang nhiều nét lấy thẳng từ cuộc sống.

Sau Thúy Kiều, Kim Trọng là nhân vật chính của Truyện Kiều, “Kim

Trọng là người tình nhân số một”, là “môn đồ hư hỏng trong cửa Khổng sân

Trình”, “cái mà Kim Trọng mất đi trên con đường làm quan thì Kim Trọng lại

được gấp bội về mặt làm người… Kim Trọng càng trọn vẹn sắt son chung

thủy thì tầm mắt lại được mở rộng ra”. Lê Đình Kỵ nhấn mạnh: Kim Trọng

không phải là nhân vật hiện thực chủ nghĩa, mà là nhân vật đã đi vào địa hạt

lý tưởng, mơ ước. Tấn bi kịch của thời đại Nguyễn Du được thể hiện qua

nhân vật Từ Hải, “Nguyễn Du đã gửi gắm mơ ước và sức phản kháng của

mình vào nhân vật Từ Hải. Nguyễn Du đã chắp cho Từ Hải đôi cánh của chủ

nghĩa lãng mạn cách mạng. Từ Hải vút lên trên xã hội cũ như con chim đại

bàng kiêu hãnh” [22, tr.267], “cái chết đứng của Từ Hải là một bài học lịch sử

lớn, một lời tố cáo uất ức, nghẹn ngào, căm giận”. Khác với Kim Trọng, Từ

54

Hải bước vào câu chuyện mang lại một âm hưởng mới lạ: âm hưởng anh hùng

ca. Nhưng Từ Hải và Kim Trọng giống nhau ở chỗ, họ đều là nhân vật lý

tưởng. Lê Đình Kỵ nhận thấy, Kim Trọng là người mà ngoài tình yêu ra

không còn biết gì nữa, Truyện Kiều sẽ bị một lỗ hổng lớn nếu thiếu Từ Hải,

thiếu cái ước mơ của Từ Hải. “Nhưng cả Kim Trọng và Từ Hải đều lơ lửng

trên không. Mà Nguyễn Du thì không chịu lơ lửng như thế, cho nên phải có

nhân vật Thúy Kiều. Kiều là cái thước đo, là sự kiểm nghiệm cái tính thực tại

của những lý tưởng gửi vào Kim Trọng và Từ Hải. Kiều đã đến với Kim

Trọng và Kiều sẽ vươn tới Từ Hải”, Thúy Kiều phải chết theo Từ Hải vì cuộc

thí nghiệm đó đã hoàn thành, Kiều gục ngã vì đã đi đến tận cùng của cuộc

phiêu lưu. Nguyễn Du đã gửi tất cả tấm lòng yêu đời, đau đời, thương đời vào

con người Kiều.

Xét nội dung của Truyện Kiều, Lê Đình Kỵ đã hướng đến khẳng định

giá trị hiện thực của tác phẩm. Truyện Kiều mở đầu và kết thúc bằng tư tưởng

định mệnh, nhưng đây không phải là cảm hứng, tư tưởng chủ đạo của tác

phẩm, điểm xuất phát của sáng tác Nguyễn Du, trong lý giải của Lê Đình Kỵ,

chính là “thực tế của cuộc sống” [22, tr.281]. Sở dĩ Truyện Kiều có sức lay

động sâu xa lòng người vì nó đi đã vượt lên cái nhìn đạo đức phong kiến giáo

điều để đi đến hiện thực chủ nghĩa, Nguyễn Du không đứng trên lập trường

đạo đức luân lý để xây dựng nhân vật; đằng sau triết lý thần bí duy tâm về

mệnh là “sự thật sâu xa về đời sống và về con người” [22, tr.281]. Nguyễn Du

viết Truyện Kiều trong tâm trạng của một người trải qua một cuộc bể dâu và

đã thể nghiệm, trông thấy những điều đau đớn lòng. Từ lý giải như thế Lê

Đình Kỵ hướng nghiên cứu của mình đến bốn tổng kết quan trọng: thứ nhất là

có một xã hội Truyện Kiều, đó là xã hội phong kiến giày xéo lên con người,

coi nhân phẩm và tính mạng con người như cỏ rác, ở đó tất cả đạo lý đều bị

đảo lộn, mọi thứ đều bị phân lý, chia lỳ như chính mối tình, cuộc đời của

Kiều; thứ hai, Truyện Kiều đã tố cáo một cách trực tiếp và sâu sắc thế lực của

đồng tiền, thế lực đồng tiền gắn với bọn quan lại bất lương, với lũ bán thịt

55

buôn người, với sự trụy lạc, với những sự lừa gạt kiểu Sở Khanh hay Hồ Tôn

Hiến; thứ ba, Truyện Kiều là tiếng kêu xé ruột của con người bị đày đọa trong

chế độ cũ, là bằng chứng về nỗi đau khổ của con người bị giày xéo trong tình

yêu, tình cảm gia đình, trong những khát vọng bình thường nhất, chưa bao

giờ, trong lịch sử văn học Việt Nam trước kia, vấn đề xã hội, vấn đề con

người lại được đặt ra một cách trực diện, khẩn trương, thống thiết như trong

Truyện Kiều, Nguyễn Du đứng về phía những người bị áp bức, sỉ nhục để

thuật lại đời Kiều; thứ tư, vấn đề thân phận con người trong xã hội cũ,

Nguyễn Du đã giải quyết theo hai hướng hoàn toàn trái ngược nhau, hướng

thứ nhất là đề cao chữ tâm, hướng thứ hai là để cho Từ Hải nổi dậy, một giải

pháp đi ngược lại chữ tâm.

Tóm lại, Nguyễn Du đã thành công trong sự phản ánh thực tại, khái

quát hóa cuộc sống. Những vấn đề xã hội, vấn đề thân phận con người được

đặt ra trong Truyện Kiều có ý nghĩa lâu dài, ám ảnh. Chương III là chương

viết công phu, cho thấy nhiều tìm tòi, cách cắt nghĩa mới, đây là chương có

sức hấp dẫn và có sức thuyết phục cao của Lê Đình Kỵ.

2.3.2.2. Điển hình hóa theo hướng hiện thực chủ nghĩa

Sự thành công của Nguyễn Du trong phản ánh thực tế xã hội phong

kiến, thân phận con người trong xã hội cũ gắn liền với sự thể hiện khách quan

những nhân vật điển hình sinh động, những nhân vật sống thực. Chương IV

của công trình tập trung làm sáng tỏ nghệ thuật điển hình hóa theo phương

pháp hiện thực chủ nghĩa của Nguyễn Du.

Lê Đình Kỵ định nghĩa điển hình hóa như sau: “điển hình hóa chính là

sự khái quát hóa từ thực tế đời sống, một sự thu nhặt có cân nhắc, có chọn lọc,

có tái tạo. Nó là cách tiếp cận và xử lý thực tại khác với sự lý tưởng hóa ngay

từ điểm xuất phát” [22, tr.389].

Khi xây dựng nhân vật, Nguyễn Du đã giữ được tính cách khách quan,

chân thực. Nhà thơ không nói thay, làm thay các nhân vật của mình. Tính

cách của Mã Giám Sinh, Sở Khanh chẳng hạn, được bộc lộ dần dần qua ngôn

56

ngữ, hành động của chúng một cách tự nhiên. Tính cách các nhân vật Truyện

Kiều có âm vang xã hội và có giá trị phản ánh. Nguyễn Du có cảm tình với

nhân vật trung tâm đã đành, nhưng nhà thơ cũng nhập vai các nhân vật Hồ

Tôn Hiến, Hoan Thư để lột tả bản chất của chúng. Nhân vật Truyện Kiều ít

khi là sản phẩm của sự chủ quan tùy tiện, ví như khi khắc họa chân dung

Thúc Sinh, ngoài thái độ mỉa mai, có chỗ Nguyễn Du cũng tán thành, dành

cho Thúc Sinh những lời đẹp đẽ. “Ở Nguyễn Du, tính khách quan đi đôi với

một tính khuynh hướng rõ rệt, nhưng khuynh hướng ở đây ‘toát ra từ tình thế

và kết cấu, chứ không cần phải nói toạc ra’ (Engels) [22, tr.317].

Lê Đình Kỵ tán thành và khẳng định luận điểm có tính nhận diện

phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa: “chủ nghĩa hiện thực yêu cầu nhà

văn phải miêu tả những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình”. Nhân

vật của Nguyễn Du có tầm khái quát hiện thực rộng lớn. Có được thành công

này là do Nguyễn Du đã biết đặt các nhân vật của mình vào những mối quan

hệ thực tế, quan hệ với nhau hay với hoàn cảnh, đúng theo yêu cầu của điển

hình hóa theo hướng hiện thực chủ nghĩa.

Vậy hoàn cảnh điển hình trong Truyện Kiều thể hiện ra sao? Theo Lê

Đình Kỵ, “Truyện Kiều là bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội Việt Nam,

phản ánh những quan hệ xã hội thực tế gắn liền với chế độ phong kiến Việt

nam trên bước đường suy vong của nó. Những quan hệ này làm nên hoàn

cảnh điển hình, làm nên cái bối cảnh thực cho hoạt động của các nhân vật,

qua đó tính cách các nhân vật được phơi bày nổi bật lên và có ý nghĩa điển

hình sinh động. Tính cách điển hình được xác định qua hoàn cảnh điển hình,

ngược lại hoàn cảnh điển hình không phải là cái bối cảnh hoàn toàn thụ động

mà chính cũng là hình thành từ các tính cách điển hình theo một mối tác động

qua lại biện chứng. Trừ Kim Trọng là nhân vật thuần túy lý tưởng, còn lại các

nhân Truyện Kiều trực tiếp hay gián tiếp đều tiêu biểu cho những lực lượng xã

hội nhất định” [22, tr.318-319].

57

Lê Đình Kỵ chỉ ra cơ sở giai cấp của hệ thống nhân vật. Tú Bà, Mã

Giám Sinh, Sở Khanh thuộc phường buôn phấn bán hương; Hồ Tôn Hiến là

đại biểu của lực lượng thoái hóa, đối kháng trực tiếp với lực lượng tiến bộ

nhất trong xã hội Truyện Kiều mà Từ Hải và Thúy Kiều là đại diện. “Sự đánh

gen của Hoạn Thư là một sự phản ánh giai cấp hết sức độc đáo” [22, tr.321],

chuyện ghen tuông thường tình dưới ngòi bút Nguyễn Du mang nội dung xã

hội cụ thể, nếu đem tách rời nó khỏi bản chất giai cấp của Hoạn Thư thì

không sao giải thích nổi diễn biến của sự việc, thái độ lép vế của Thúc Sinh

và sự khuất phục tuyệt đối của Thúy Kiều. Thúc Sinh xuất thân từ gia đình

phú thương, có tâm lý cơ hội chủ nghĩa, là đại biểu cho lực lượng trung gian,

chơi vơi giữa phía bên này là Từ Hải, Kim Trọng và phía bên kia là bọn đầu

trâu mặt ngựa.

Đồng thời Lê Đình Kỵ cũng cho thấy, Nguyễn Du không gò ép lời nói,

hành động của nhân vật vào các tiêu chuẩn đạo đức có sẵn mà “luôn đặt lên

hàng đầu việc soi sáng hoạt động bên trong của nhân vật” [22, tr.325]. Qua so

sánh với cách xây dựng nhân vật của Thanh Tâm Tài Nhân trong Kim Vân

Kiều truyện và với phương thức biểu đạt của một số thể loại khác như ngâm

khúc, Lê Đình Kỵ khẳng định Nguyễn Du đã có bước tiến và thành công khi

đi sâu miêu tả, soi rọi thế giới nội tâm của nhân vật. Nguyễn Du khai thác thế

giới tâm tình của nhân vật theo hướng soi sáng tính cách nhân vật: “tính cách

các nhân vật Truyện Kiều đều được xác định và có tính thống nhất chặt chẽ.

Nguyễn Du đã lấy lại hầu hết các nhân vật của Kim Vân Kiều truyện, lược bỏ

một chi tiết này, nhấn mạnh mặt kia, sáng tạo thêm những nét khác cốt soi

sáng nhân vật từ bên trong” [22, tr.335]. Ví dụ, so với Thanh Tâm Tài Nhân,

Nguyễn Du đã lược bỏ rất nhiều tình tiết miêu tả Kim Trọng một cách chủ

nghĩa tự nhiên như nguyên tác để điển hình hóa Kim Trọng như một người

tình chung thủy và phong nhã, phù hợp với Kiều; cũng như vậy đối với Từ

Hải, Nguyễn Du thay vì tô đậm Từ Hải như một tên giặc cỏ, nổi dậy chống lại

58

triều đình vì vàng lụa, vì mĩ nhân như Kim Vân Kiều truyện đã làm, đã xây

dựng Từ Hải thành một kẻ trượng phu có khí phách, có tấm lòng hào hiệp.

Nhân vật Truyện Kiều, dưới ngòi bút của Nguyễn Du, có mối quan hệ

tác động qua lại, quy định lẫn nhau, qua nhân vật này có thể hiểu các nhân vật

khác, và ngược lại, các nhân vật hiện ra trong thế động nội tại biện chứng.…

Nguyễn Du lựa chọn và sử dụng đắc địa nhiều chi tiết hiện thực: “Ở Truyện

Kiều, chân lý nghệ thuật không chỉ dừng lại ở cái đại thể, mà đã đi vào tiểu

tiết và cả chi tiết” [22, tr.366], lần đầu tiên trong lịch sử văn học Nguyễn Du

đã biết “thông qua những chi tiết ngoại hình để đào sâu vào tâm lý bên trong

của nhân vật”, khó có thể hình dung được đầy đủ về Mã Giám Sinh nếu thiếu

đi chi tiết “mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”, hay Tú Bà với cái vẻ “lờn

lợt màu da”, Sở Khanh “chải chuốt dịu dàng”…. Đấy là một vài minh chứng

cho thấy đóng góp quan trọng của Nguyễn Du đối với truyền thống hiện thực

chủ nghĩa của nền văn học dân tộc.

Chủ nghĩa hiện thực hình thành còn đòi hỏi một tiền đề khác là sự phát

triển của ngôn ngữ dân tộc. Truyện Kiều ra đời trong thế kỉ XIX, kết tinh

trong nó những thành tựu phát triển vượt bậc của ngôn ngữ dân tộc từ truyện

thơ Nôm, “ngôn ngữ Truyện Kiều kết hợp được cái diễm lệ tao nhã của những

áng ngâm tiêu biểu và cái mặn mà ý vị của lời ăn tiếng nói hàng ngày”, “cái

sức vang, sức gợi lạ lùng của ca dao, cái hàm súc đậm đà trong hình ảnh và

trong suy tưởng của các thể thơ phú cổ điển. Chưa bao giờ khả năng tiếng

Việt được biểu hiện đầy đủ như trong Truyện Kiều… Nguyễn Du là bậc thầy

vô song của ngôn ngữ dân tộc” [22, tr.376]. So với sự điển hình hóa hiện thực

chủ nghĩa, ngôn ngữ Truyện Kiều đã thể hiện được sức mạnh tuyệt vời của nó

trong việc thể hiện thực tại sinh động, nó miêu tả được thành công những

rung động tinh vi, những tình cảm tế nhị, những ẩn tình phức tạp, những cung

bậc xúc cảm đa dạng của lòng người, lột tả được. Nguyễn Du sử dụng điêu

luyện ngôn ngữ hiện thực, ngôn ngữ nhân vật, có nhiều mặt sáng tạo về bút

59

pháp tả thực để lột tả bản chất tính cách, diễn tả nội tâm của các nhân vật.

“Có thể nói Truyện Kiều đã đạt tới một chủ nghĩa hiện thực tâm lý cao nhất

trong nền văn học dân tộc quá khứ” [22, tr.387].

Rõ ràng, công trình của Lê Đình Kỵ mới chủ yếu dựa vào các nhân vật

phản diện để triển khai phân tích điển hình hóa theo hướng hiện thực chủ nghĩa

vì chỉ các nhân vật này mới có những nét phù hợp với lý luận về điển hình hóa

hiện thực. Tuy nhiên, đến các nhân vật chính diện thì Lê Đình Kỵ không dùng

khái niệm “điển hình hóa” nữa mà xếp họ vào mục ràng buộc mỹ học đương

thời. Lý do dễ hiểu, các nhân vật chính diện không được Nguyễn Du miêu tả

phù hợp với công thức về nhân vật điển hình của chủ nghĩa hiện thực.

2.3.2.3. Những ràng buộc của mĩ học đương thời

Đây là nội dung chính của chương V, cũng là chương cuối cùng của

công trình.

Ở các chương trên Lê Đình Kỵ đã chứng minh Truyện Kiều đã đi tới

chủ nghĩa hiện thực. Mở đầu chương V, như một cách tổng kết lại hệ thống

luận điểm của mình, Lê Đình Kỵ khẳng định, “có thể nói đến một chủ nghĩa

hiên thực của Nguyễn Du, nhưng là một cách có điều kiện” [22, tr.388]. Chủ

nghĩa hiện thực ở Truyện Kiều là chủ nghĩa hiện thực sơ khai, hình thành trên

cơ sở chủ nghĩa quy phạm, tính cách điệu, ước lệ của mỹ học phong kiến, nó

thoát thai từ xu hướng lý tưởng hóa và chủ nghĩa giáo huấn trong truyền

thống truyện thơ Nôm đương thời.

Truyện Kiều có nội dung tố cáo xã hội sâu sắc, nhưng chưa thể xem đó

là “chủ nghĩa nghĩa hiện thực ở giai đoạn phát triển cao”. Đó không phải là

chủ nghĩa hiện thực phê phán, vì những điều kiện hình thành của phương

pháp sáng tác này chưa xuất hiện. “Chủ nghĩa hiện thực của Truyện Kiều là

chủ nghĩa hiện thực trong hình thái phát triển đầu tiên của nó”, có những hạn

chế, thiếu nhất quán và đầy mâu thuẫn.

Đặt Truyện Kiều vào hoàn cảnh văn hóa xã hội đương thời, Lê Đình Kỵ

chỉ ra Truyện Kiều của Nguyễn Du chịu sự ràng buộc của hệ thống mỹ học

phong kiến. Biểu hiện như sau:

60

Truyện Kiều chịu ảnh hưởng khá rõ của sự lý tưởng hóa cổ truyền.

Nhân vật Truyện Kiều, có những nhân vật lý tưởng như Kim Trọng, các tình

tiết gặp gỡ, tỏ tình của Kiều và Kim Trọng cũng diễn ra với đầy đủ những nét

lý tưởng, nói chung Kim Trọng là một tình nhân lý tưởng, tình yêu của chàng

là tình yêu lý tưởng. Ngay đến nhân vật Từ Hải dù có sức nặng hơn Kim

Trọng nhưng những nét vẽ Từ Hải của Nguyễn Du cũng không tránh được sự

lý tưởng hóa, trừu tượng hóa. “Không phải là điều tình cờ mà hai nhân vật

chính diện tiêu biểu nhất trong Truyện Kiều đều là hai nhân vật lý tưởng. Tình

yêu của Kim Trọng, khí khách của Từ Hải trong xã hội cũ, cũng hiếm hoi như

sao buổi sớm, tác giả đành phải nâng hiện thực lên bằng mơ ước của mình…

Ngay đối với Thúy Kiều, không phải Nguyễn Du đã tránh được hòa toàn sự lý

tưởng hóa” [22, tr.396], có điều ở Nguyễn Du, tính lý tưởng không làm cho

nhân vật kém chân thực, cũng không đưa tác phẩm vào lối mòn của chủ nghĩa

giáo huấn khô khan. Kết thúc truyện càng không phải là điển hình hóa theo

phương pháp hiện thực, hiểu theo nghĩa là sự phản ánh cuộc sống như nó vốn

có, là sự khái quát hóa từ thực tại xã hội. Nguyễn Du kết truyện xuất phát từ

mơ ước, lý tưởng, tức là đã xa rời chủ nghĩa hiên thực trong ý nghĩa nghiêm ngặt

của phương phương pháp sáng tác tiến bộ này. Nguyễn Du không thể thoát khỏi

xu hướng lý tưởng hóa nhân vật thường thấy trong văn học cổ trung đại, bởi ông

bị vây trong quan niệm văn dĩ tải đạo: “Quan niệm văn dĩ tải đạo của nền văn

học thời phong kiến tất yếu đưa đến sự lý tưởng hóa” [22, tr.398].

Một biểu hiện khác của sự chi phối của hệ thống mỹ học phong kiến

đối với Truyện Kiều là xu hướng ước lệ, tượng trưng, cách điệu còn khá rõ

nét. Nguyễn Du sử dụng nhiều điển cổ, hình ảnh biểu tượng, ẩn dụ có sẵn

trong kho tàng văn chương chung; sử dụng nhiều công thức, khuôn sáo trong

tả tình, tả cảnh, nhà thơ mở đầu và kết truyện một cách công thức, kết cấu

truyện theo công thức ước lệ thường thấy ở các truyện Nôm, sử dụng nhiều

chi tiết ngẫu nhiên ít nhiều ước lệ…. Tất nhiên, điều này “không làm mất giá

61

trị chân thực của Truyện Kiều mà chỉ tạo nên cho Truyện Kiều một bộ mặt cụ

thể riêng biệt gắn liền với hoàn cảnh lịch sử của tác phẩm lúc ra đời và với

truyền thống văn học lâu đời” [22, tr.401- 402].

Do chịu ảnh hưởng ràng buộc của mỹ học đương thời nên chủ nghĩa

hiện thực của Truyện Kiều có những hạn chế, giới hạn. Trước hết, “Truyện

Kiều chưa đặt tới tính cụ thể lịch sử thường thấy trong các tác phẩm hiện thực

hiện đại” [22, tr.424], có thể nói đến một chủ nghĩa hiện thực tâm lý ở Truyện

Kiều song cần thấy rằng, ở đấy “Nguyễn Du chưa chú trọng đến các quá trình

tâm lý” [22, tr.434], đôi chỗ còn để cho đạo đức, hành động lấn át tâm lý [22,

tr.436-437], Nguyễn Du thành công trong sự khái quát hóa, thiên về mặt khái

quát, nhưng về mặt tính cá thể chưa đạt được bao nhiêu, ý thức về cá nhân

trong Truyện Kiều chỉ mới là manh nha, chưa thành chủ nghĩa cá nhân, mức

độ cá thế hóa trong sự khai thác tâm lý còn có giới hạn. Do bị quy định bởi

chính những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể thời đại, Nguyễn Du không thể

vượt qua những giới hạn của một phương pháp có tính chất quá độ, không thể

vươn tới chủ nghĩa hiện thực hiện đại. “Truyện Kiều thuộc phạm trù văn học

quá độ” [22, tr.460].

Nói chung, Nguyễn Du là người đặt nền móng cho sự ra đời và phát

triển của chủ nghĩa hiện thực ở Việt Nam nhưng “trong Truyện Kiều có sự

giằng xé giữa lý tưởng thẩm mỹ hiện thực chủ nghĩa và các xu hướng bên

ngoài chủ nghĩa hiện thực” [22, tr.451].

2.4. Giá trị nổi bật của công trình

Công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du có hai

đóng góp nổi bật.

Thứ nhất, với một tư duy lý luận sắc bén, một vốn hiểu biết sâu sắc về

lịch sử văn học, Lê Đình Kỵ đã chỉ ra và phân tích thuyết phục vị trí của

Truyện Kiều: tác phẩm này là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử văn học dân tộc,

“đặt nền móng đầu tiên vững chắc cho sự phát triển của nền văn học hiện thực

chủ nghĩa ở nước ta” [22, tr.7], chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du chịu sự ràng

62

buộc của mỹ học đương thời: “cái lớn của Nguyễn Du không phải. ở chỗ cắt đứt

liên hệ với nền văn học quá khứ và đương thời, mà ở chỗ, thông qua những

khuôn khổ, những quy ước định sẵn, Nguyễn Du đã tìm được con đường dẫn tới

chủ nghĩa hiện thực, bằng sự kết hợp sinh động, tài tình” [22, tr.7].

Thứ hai, Lê Đình Kỵ đã chỉ ra được cái hay cái đẹp, cái tài tình của

nghệ thuật Truyện Kiều và diễn đạt vẻ đẹp ấy bằng một văn phong hấp dẫn,

khúc chiết.

Ông chỉ ra thành công của Nguyễn Du trong sử dụng các chi tiết, đi vào

phân tích tính cụ thể sinh động trong bút pháp miêu tả, khắc họa tâm lý nhân

vật của Nguyễn Du rồi tiến đến nhận định khái quát, khẳng định công lao của

Nguyễn Du, sự mới mẻ của Truyện Kiểu. Chẳng hạn phần viết về tính chân

thực của sự thể hiện, bút pháp, ngôn ngữ (chương 4, phần 2): “Đối với

Nguyễn Du, một nét mặt, một màu da, một dáng điệu, một cử chỉ, một tư thế,

không chỉ là cái bên ngoài, mà thông qua đó có thể làm hiển hiện ra cái thần

của nhân vật… Nguyễn Du chú trọng ghi lại những cái còn tươi rói chất sống

ấy và chỉ với vài nét là nhân bật được khắc họa” [22, tr.367]; “Truyện Kiều

kết trong nó cái thanh tao, trau chuốt của Hoa tiên, cái thướt tha kiều diễm mà

rất xao động của văn Chinh phụ ngâm, và cái tươi mới phóng khoáng của văn

Sơ kính tân trang” [22, tr.375], “ngôn ngữ Truyện Kiều kết hợp được cái diễm

lệ tao nhã của những áng ngâm tiêu biểu và cái mặn mà ý vị của lời ăn tiếng

nói hàng ngày. Văn chương Truyện Kiều có được cái sức vang, sức gợi lạ

lùng của ca dao, cái hàm súc đậm đà trong hình ảnh và trong suy tưởng của

các thể thơ phú cổ điển. Chưa bao giờ khả năng tiếng Việt được biểu hiện đầy

đủ như trong Truyện Kiều. Cũng chưa bao giờ thể thơ lục bát lại nhịp nhàng,

uyển chuyển, óng chuốt thiên biến vạn hóa như với Truyện Kiều’ [22, tr.376].

Giọng điệu và ngôn ngữ bình thơ của Lê Đình Kỵ rất giàu cảm xúc và đặc

biệt tinh tế, chẳng hạn đoạn tác giả bình về nhịp sống, nhịp đậm của trái tim

nhân vật: “chưa bao giờ một tác phẩm văn học Việt Nam thời phong kiến mà

63

lại có được cái nhịp sống gấp rút, khẩn trương như trong Truyện Kiều… chưa

bao gờ cái bước đi của thời gian lại hiện ra một cách không phương cứu chữa

- nhói vào trái tim người như thế, vừa thúc giục, vừa hối hả, vừa tiếc rẻ mênh

mông.. Đã!Đã!Đã… Nguyễn Du như kêu lên với chúng ta. ‘Cuộc sống trôi

qua.!’ Không phải là chuyện quang âm thấm thoát, chuyện ngựa chạy qua cửa

sổ, mà là cái bước đi như sờ mó được của thời gian, cái dấu vết của nó hằn lên

trên những hy vọng, chờ mong, đau thương, khổ nhục của con người và bàng

bạc khắp nơi, khắp chốn” [22, tr.171] Rõ ràng, Lê Đình Kỵ đã điểm rất trúng

những thành công về nghệ thuật của Truyện Kiều, đã chỉ ra cái sở trường, cái

tài nghệ vô song của Nguyễn Du trong phân tích và diễn tả tâm lý, số phận

của nhân vật.

Ngòi bút của Lê Đình Kỵ không chỉ tinh tế, nhạy cảm mà còn thực sự

uyên bác. Nếu không phải là một chuyên gia về phương pháp sáng tác, và am

hiểu thực tiễn văn học, Lê Đình Kỵ không thể có những xét ngắn gọn và

chính xác như sau: “quan niệm văn dĩ tải đạo của văn học thời phong kiến tất

yếu đưa đến sự lý tưởng hóa. Nhân vật tượng trưng cho chính nghĩa hay gian

tà, bị lý tưởng hóa đã đành, mà ngay cả những nhân vật không trực tiếp ‘chở

đạo’ đến cho người dời cũng bị lý tưởng hóa. Điều này không có gì lạ, bởi vì

ngoài lý tưởng trung hiếu tiết nghĩa, lại có những lý tưởng khác: tài tử giai

nhân, cầm kỳ thi tửu, ngư tiều canh mục… [22,tr.398], “trước chủ nghĩa hiện

thực, điển hình hóa gắn liền với lý tưởng hóa. Nó xuất phát từ tiền đề chủ

quan, từ quan niệm tiên nghiệm trước khi xuất phát từ sự kiện đời sống. Lý

tưởng hóa không nhất thiết là làm cho đẹp hơn, cho đạo đức hơn, nhằm đạt tới

cái toàn mỹ toàn thiện, mà có thể là làm cho xấu hơn, cho đạt cái xấu mẫu

mực, cái xấu lý tưởng. Nghĩa là sự lý tưởng hóa bao gồm cái chính diện cũng

như cái phản diện, cái thiện cũng như cái ác” [22, tr.400]; “với chủ nghĩa hiện

thực, mọi khuôn khổ đều bị nứt rạn, những quy phạm đều phá sản trước sự

thật sinh động, muôn màu vẻ của đời sống, chủ nghĩa hiện thực không chấp

64

nhận những con đường mòn, sự vẽ vời trang sức. Chân lý cuộc sống tự nó đã

hấp dẫn rồi” [22, tr.403].

Văn của Lê Đình Kỵ giàu cảm xúc, những đoạn viết về vẻ đẹp của

Truyện Kiều, tài năng của Nguyễn Du, đã thể hiện rõ một niềm say mê,

ngưỡng mộ tài năng bậc thầy của đại thi hào dân tộc. Đơn cử đoạn phân tích

sau: “câu thơ Kiều thường thỉ uyển chuyển thướt tha, ngọt ngào tình tứ,

nhưng khi cần gắn liền với cuộc đời của Từ Hải, nó không thể không mang

khí thế mới. Cảm hứng của truyện đã thay đổi, đòi hỏi người nghệ sĩ phải

vươn tới nữa, tự vượt lên mình. Nguyễn Du tỏ ra không chỉ sở trường ở việc

thể hiện những tình tự riêng tây, những rung động khát khao của những trái

tim yêu đương, những bâng khuâng rạo rực sau đắm của mối tình đầu, những

nỗi buồn man mác hay tái tê, những thương nhớ thường tình và những đau

khổ cũng không kém thường tình. Nguyễn Du tự nâng mình lên đến cảm

hứng sử thi, với những bút pháp và âm hưởng thích hợp để thể hiện cái hùng

tráng của bước đi rung chuyển của những đoàn quân, của tiếng reo hò chứa

chan hy vọng của quần chúng đã nổi dậy, mặc dù về chủ quan, Nguyễn Du

chưa hẳn đã có ý thứ đúng đắn về sự chuyển mình của lịch sử. Phải vùng lên

như Từ Hải đã vùng lên. Và chúng ta đã có những đoạn văn hào hùng sảng

khoải, xứng đáng với một bản anh hùng ca chân chính. Tính đa dạng trong bút

của Nguyễn Du được quy định bởi những tình huống cụ thể và những tâm

trạng cụ thể” [22, tr.381].

Không còn nghi ngờ gì nữa, bên cạnh một điểm tựa lý luận sắc bén,

linh hoạt, Lê Đình Kỵ đã cho thấy sở trường của ông trong việc thẩm bình

nghệ thuật khắc họa nhân vật, ngôn ngữ và bút pháp của Nguyễn Du. Văn của

Lê Đình Kỵ giàu cảm xúc mà vẫn rất chặt chẽ, khúc chiết, do đó cũng giàu

sức thuyết phục.

Không phải đến Lê Đình Kỵ nội dung xã hội của Truyện Kiều mới

được làm sáng tỏ. Hoài Thanh cũng hướng các nghiên cứu của mình tới giá trị

hiện thực của Truyện Kiều tuy nhiên ông chọn con đường đi từ xã hội học

65

chính trị, thiên về vấn đề giai cấp luận. Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa cũng

tiếp cận Truyện Kiều từ bình diện xã hội học, chỉ ra được giá trị phản ánh xã

hội của Truyện Kiều. Nhưng phải nói rằng, chỉ đến khi nghiên cứu phương

pháp sáng tác chủ nghĩa hiện thực như Lê Đình Kỵ mới có một bước tiến theo

hướng tăng cường sự khám phá chất văn chương của tác phẩm, với năng lực

phê bình tinh tế, cảm nhận sâu sắc. Nếu nghiên cứu của Hoài Thanh trong

“Quyền sống của con người trong Truyện Kiều” mới chạm đến một số nét

nghệ thuật ngôn từ của Truyện Kiều, Trương Tửu trong Truyện Kiều và thời

đại Nguyễn Du chỉ nhấn mạnh nội dung tư tưởng của tác phẩm thì phải ghi

nhận rằng, đến Lê Đình Kỵ đã có một bước tiến rõ rệt, ở đây Lê Đình Kỵ đã

bàn sâu sắc về mỹ học của Truyện Kiều.

66

Tiểu kết chương 2

Lê Đình Kỵ vừa dịch thuật, dạy học, vừa viết nghiên cứu phê bình văn

học. Các công trình dịch thuật, nghiên cứu phê bình, và giáo trình mà ông

đảm nhiệm biên soạn ở bậc đại học được tiến hành trong không khí học thuật

đặc biệt của miền Bắc: tiếp nhận hệ thống lý luận văn học Liên xô và quan

điểm văn nghệ Diên An, phê phán các học thuyết tư sản, đấu tranh cho chủ

nghĩa xã hội thắng…

Xét riêng về mặt học thuật, có thể nói, Lê Đình Kỵ có nhiều đóng góp

trong việc du nhập hệ tri thức mỹ học, lý luận văn học của Liên xô vào Việt

Nam. Ông là một nhà nghiên cứu xã hội học văn học mác xít tiêu biểu; là một

trong những chuyên gia về phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật.

Công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du cho thấy ông

là một nhà nghiên cứu có phương pháp và cũng nhờ có phương pháp nên

nghiên cứu của ông chứa đựng nhiều luận điểm có lý, mới mẻ. Lê Đình Kỵ có

một vốn hiểu biết sâu sắc về lịch sử thế kỉ XVIII- XIX, cuộc đời Nguyễn Du,

căn cứ vào văn bản và hệ thống hình tượng trong Truyện Kiều để khẳng định,

sự xuất hiện của một chủ nghĩa hiện thực phôi thai, một chủ nghĩa hiện thực

trong giai đoạn sơ kì của nó. Bên cạnh những phân tích lý giải thuyết phục về

nội dung xã hội, tác giả đã có nhiều phát hiện tinh tế về nội dung mỹ học của

tác phẩm.

67

Chương 3

CÁC Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA

GIỚI NGHIÊN CỨU VỀ CÔNG TRÌNH TRUYỆN KIỀU VÀ

CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC CỦA NGUYỄN DU CỦA LÊ ĐÌNH KỴ

3.1. Đánh giá vấn đề có hay không chủ nghĩa hiện thực trong văn trung

đại Việt Nam

Chủ nghĩa hiện thực trong văn học trung đại Việt Nam là một vấn đề

lớn, thu hút sự quan tâm lý giải của nhiều nhà nghiên cứu thập niên 70, tuy

nhiên cách giải quyết vấn đề này vẫn còn nhiều do dự, chưa thể nói là đã xong

xuôi, triệt để và có sự thống nhất cao trong giới, nếu không muốn nói là phân

hóa, cách biệt nhau.

N.Konrat, Viện sĩ, nhà phương Đông học nổi tiếng người Nga đã từng

đặt vấn đề này trong một bối cảnh rộng lớn là các nền văn học phương Đông

[13] từ cái nhìn so sánh với các nền văn học châu Âu. Theo Konrat, thuật ngữ

chủ nghĩa hiện thực được dùng phổ biến trong các công trình lịch sử và lý

luận văn học, hầu như các nghiên cứu về văn học quá khứ đều đề cập đến chủ

nghĩa hiện thực, “bất kể người ta đang nói về văn học của một dân tộc nào đó

thuộc châu Âu hay châu Á, bất kể đó là nền văn học của thế kỉ XIX hay văn

học trung thế kỉ, thậm chí cả văn học của thế giới cổ đại” [13, tr.326], nó gần

như bị biến thành phạm trù tuyệt đối tồn tại trong lịch sử nói chung, mà không

phụ thuộc vào lịch sử kinh tế xã hội, văn hóa cụ thể, đặc thù.

Cũng theo Konrat, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực lần đầu tiên đặt ra và

được sử dụng để mô tả nền văn học Pháp giữa thế kỉ XIX, nhất là với các

sáng tác của Balzac, Flaubert. Khái niệm này cũng đã được sử dụng khá thích

hợp vào thời kỳ tương tự với văn học Nga, văn học Anh và một số nền văn

học châu Âu khác nữa. Bối cảnh đặc thù, cụ thể đưa đến sự ra đời của chủ

nghĩa hiện thực (trong văn học Pháp) là thời kỳ thinh trị của chủ nghĩa tư bản:

68

“văn học hiện thực chủ nghĩa đã chịu ơn bối cảnh thời đại theo cái nghĩa mà

nó nhận được trong phương pháp sáng tạo của văn học hiện thực phê phán…

chủ nghĩa hiện thực Pháp thế kỉ XIX cần phải được hiểu như một phương

pháp khám hiện thực trong tất cả sự phức tạp và sự đối kháng của các lực

lượng đang hoạt động trong đó” [13, tr.327-328].

Như vậy, xét về mặt nguyên tắc và về mặt lịch sử, chỉ có thể vận dụng

thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực để mô tả các hiện tượng văn học ngoài Pháp

(như ở Anh, Nga….) nếu như những điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa

trong nền văn học đó tương ứng với các điều kiện mà ta đã quan sát được ở

Pháp. Điều đó có nghĩa là, chỉ có thể nói đến một chủ nghĩa hiện thực ở các

nền văn học phương Đông nếu như ta có thể tìm thấy những điều kiện hình

thành và vận hành sự thống trị của chủ nghĩa tư bản. Nhưng những điều kiện

như vậy, theo Konrat, “chỉ có ở một nước phương Đông duy nhất là nước

Nhật Bản” [13, tr.329], ở phương Đông chỉ có Nhật Bản từ sau cách mạng

Meiji đã đi lên con đường chủ nghĩa tư bản. Do đó, không khó để mô tả một

dòng văn học hiện thực chủ nghĩa đúng nghĩa ở Nhật Bản.

Còn ở các nước khác ở phương Đông, thì vấn đề phức tạp hơn nhiều,

trình độ phát triển của các nước không đồng đều nhau, phần lớn các nước này

do bị trở thành thuộc địa, nửa thuộc địa nên chế độ phong kiến chậm bị phá

sản và việc phát triển các quan hệ tư bản chủ nghĩa cũng chậm chạp, hạn chế

và bị biến dạng. Một trong những biểu hiện của biến dạng, đó là sự hình thành

tầng lớp tư sản mại bản, tư sản dân tộc. Tầng lớp này không trưởng thành do

sự lạc hậu về kinh tế, chính trị. Đặc điểm này quy định diện mạo của văn học

hiện thực chủ nghĩa ở phương Đông.

Konrat lưu ý, trên đại thể các nước phương Đông tiến đến văn học hiện

thực chủ nghĩa thường chậm hơn các nước tiên tiến phương Tây, tuy nhiên

vẫn có một số nhà văn cá biệt “không phải đi theo đằng sau các phong trào

trung của văn học hiện thực chủ nghĩa” ở châu Âu mà “song hành cùng với

69

chung và trong chừng mực nào đó có thể nói là áp gần với trình độ chung”

[13, tr.333]. Vấn đề quan trọng khác đặt ra ở đây là, phải chăng chúng ta có

thể áp dụng thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực đối với văn học của thời kỳ khác,

xuất hiện trong những điều kiện khác (không phải thời đại của chủ nghĩa tư

bản, mà là thời đại phong kiến chẳng hạn)? Konrat cho rằng, việc áp dụng này

sẽ làm mất đi nội dung lịch sử cụ thể của nó. Cần thận trọng tron g việc áp

dụng khái niệm này đối với văn học trước thế kỉ XIX. Có thể nói đến văn học

hiện thực, văn học hướng đến hiện thực trong lịch sử ở nhiều giai đoạn nhưng

thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực chỉ nên dành cho một trường hợp trong số đó.

Văn học hiện thực nói chung có thể được xác định bởi những yếu tố hay

nguyên tắc đặc trưng cấu tạo nên chủ nghĩa hiện thực như một phương pháp

sáng tác, sau: nhà văn xuất phát từ thực tế, say mê cái khách quan, hướng đến

sáng tạo cái điển hình và tiêu biểu cho một loại hiện tượng… Tóm lại, từ ý kiến

của Konrat rút ra tiểu kết: có thể nói đến văn học hiện thực, văn học hướng đến

hiện thực đờ sống thời trung đại, chứ không nên nói đến một chủ nghĩa hiện

thực, theo nghĩa hiện đại của thuật ngữ này, trong văn học trung đại.

Có lẽ Hồng Chương là người đầu tiên đặt vấn đề “truyền thống hiện

thực trong văn học Việt Nam” trong công trình Phương pháp sáng tác trong

văn học nghệ thuật xuất bản năm 1962 (Nxb. Sự thật). Ở công trình này,

Hồng Chương cho rằng, văn học Việt Nam vốn giàu tính hiện thực: “từ

Nguyễn Trãi người mở đầu cho nền văn học cổ điển Việt Nam cho đến

Nguyễn Du đỉnh cao nhất của nền văn học đó, chúng ta thấy có rất nhiều yếu

tố hiện thực…” (tr.222), Truyện Kiều “có nhiều giá trị hiện thực chủ nghĩa”,

Truyện Kiều “đánh dấu một bước quan trọng trong sự trưởng thành và chín

muồi của yếu tố hiện thực chủ nghĩa trong văn học nước ta” (tr.226), yếu tố

hiện thực này ngày càng lớn dần cùng với sự phát triển của văn học dân tộc.

Tiến thêm một bước, sau khi phân tích hoàn cảnh lịch sử xã hội thế kỉ XVIII,

XIX (chế độ phong kiến khủng hoảng, kinh tế hàng hóa phát triển, cá tính và

70

tư tưởng đòi quyền sống ngày càng nảy nở…) Hồng Chương nhận định: mầm

mống của chủ nghĩa hiện thực trong văn học nước ta nảy sinh hồi cuối thể kỉ

XVIII, đầu thế kỉ XIX, “với Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du… chủ nghĩa hiện

thực đã bắt đầu thành hình trong văn học Việt Nam… Truyền thống hiện thực

chủ nghĩa này được Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương… kế tục trong những

điều kiện nước ta bị thực dân Pháp chiếm đóng hồi cuối thế kỉ XIX” (tr.233).

Ngoài công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du

của Lê Đình Kỵ, và một số nghiên cứu khẳng định sự xuất hiện của chủ nghĩa

hiện thực phê phán, tính đến thập niên 60, 70, ở ta, vấn đề hình thành và phát

triển chủ nghĩa hiện thực trong nền văn học dân tộc gần như chưa được quan

tâm chú ý, điều này tạo ra một cục diện là chỉ thấy sự tiếp nhận, ảnh hưởng từ

bên ngoài đối với sự hình thành chủ nghĩa hiện thực phê phán, mà chưa thấy

được những mối liên hệ nguồn cội giữa nó với nền văn học quá khứ. Ý thức

rõ về khoảng trống này, trong một nghiên cứu có tính chất bước đầu năm

1971Đỗ Đức Dục đã bày tỏ “Suy nghĩ về vấn đề sự xuất hiện của chủ nghĩa

hiện thực trong văn học Việt Nam” [4]. Ông khẳng định: “Chủ nghĩa hiện

thực phê phán của những năm 30 tất nhiên không phải chỉ hình thành do ảnh

hưởng của văn học bên ngoài, mà điều chủ yếu cần phải khẳng định là nó có

nguồn gốc từ bên trong những truyền thống vững chắc của văn học nghệ thuật

Việt Nam” (tr.102). Lần ngược lại truyền thống văn học ấy, Đỗ Đức Dục

đánh giá, từ thế kỉ X đến thế kỉ XVIII “chủ nghĩa hiện thực vẫn chưa có điều

kiện để hình thành… nói như vậy không có nghĩa là ở các thời đại trên đã

không xuất hiện những yếu tố hiện thực chủ nghĩa rải rác trong những tác

phẩm văn học có giá trị như Lĩnh Nam chích quái, Thánh Tông di thảo,

Truyền kỳ mạn lục…”, Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ văn, Bình Ngô đại

cáo [4, tr.103]. Trước đó, trong bài “Tính cách điển hình trong Hoàng Lê nhất

thống chí” Đỗ Đức Dục cũng đã nhấn mạnh: “tiểu thuyết Hoàng Lê nhất

thống chí đã đặt được một trình độ khá cao trong việc xây dựng chủ nghĩa

hiện thực trong văn học Việt Nam thời Lê mạt…” [6]

71

Nhìn chung, quan điểm của Đỗ Đức Dục là thừa nhận, có một chủ

nghĩa hiện thực trong văn học trung đại thời đại Nguyễn Du. Cụ thể, đến thời

Lê mạt - Tây Sơn từ sự chuyển biến xã hội và tư tưởng lớn lao xuất hiện cả

một phong trào văn học nghệ thuật hết sức phong phú chưa từng thấy trong

lịch sử, phong phú về nội dung, đề tài cũng như về mặt khuynh hướng,

phương pháp nghệ thuật, và thể loại, về mặt sáng tác dân gian cũng như về

sáng tác bác học. Chính trên cơ sở của phong trào đó đã hình thành, ở bước

đầu tiên của nó, chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam với tính cách là

một phương pháp nghệ thuật, một trào lưu văn học rộng rãi, có thể gọi là chủ

nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du vì Nguyễn Du là người đại biểu lớn nhất,

Truyện Kiều và một phần thơ chữ Hán của Nguyễn Du là sự thể hiện rực rỡ

nhất. Song chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du tất nhiên cũng là kết tinh,

là biểu hiện tập trung của bao nhiêu yếu tố hiện thực chủ nghĩa đã từng xuất

hiện trong văn học nghệ thuật các thời đại trước, cũng như nó đã chịu ảnh

hưởng của những xu hướng khác trong văn học nghệ thuật đương thời [6,

tr.107]. Bàn về đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực trung đại Việt Nam, Đỗ Đức

Dục cho rằng, “chủ nghĩa nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam thời Lê

mạt-Tây Sơn, hình thành trong những điều kiện lịch sử xã hội đặc biệt của

dân tộc, lẽ tất nhiên vừa mang những nét phổ biến giống chủ nghĩa hiện thực

trong văn học phương Tây thời Phục hưng vừa mang những nét riêng biệt,

độc đáo của nó” [4, tr.109]. Ở Việt Nam chủ nghĩa hiện thực xuất hiện chậm

hơn so với các nước phương Tây trên dưới hai thế kỉ, do sự phát triển chậm

chạp, trì trệ của đời sống xã hội Việt Nam thời phong kiến, và do đến cuối thế

kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản mới chỉ manh nha, vì thế tuy có

phổ biến nhưng nó còn mang tính tự phát, tản mạn, chất phác và mang nhiều

hạn chế [5]. Tương tự như Đỗ Đực Dục, Cao Huy Đỉnh khi đọc Truyện Kiều

và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ cũng tương đối nhất

trí với nhiều kết luận của tác giả công trình, ví như ông chia sẻ với quan điểm

nhìn nhận rằng, “xu thế tiến đến chủ nghĩa hiện thực của văn học Việt Nam ở

trong thời đại Nguyễn Du” [8].

72

Cùng quan tâm đến truyền thống chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt

Nam, tác giả Vũ Đức Phúc trong bài “Trào lưu hiện thực chủ nghĩa trong văn

học Việt Nam từ 1930 đến 1945” [47] đã chỉ ra rằng, từ thế kỉ XVI, đặc biệt từ

đầu thế kỉ XVIII trở đi văn học Việt Nam đã “có nhiều tác phẩm có những yếu tố

hiện thực tạo nên một truyền thống có ảnh hưởng rõ rệt đến trào lưu hiện thực

sau năm 1930” [47, tr.58]. Cơ sở của sự hình thành những tác phẩm có yếu tố

hiện thực là sự khủng hoảng, suy sụp kéo dài của chế độ phong kiến. Tuy nhiên,

Vũ Đức Phúc lại không cho rằng đã có một chủ nghĩa hiện thực chung thế kỉ ở

Việt Nam. Ông viết: “văn học Việt Nam có đặc trưng riêng của nó, các trào lưu

vốn khá phức tạp. Vấn đề có hay không một trào lưu hiện thực trong văn học các

thế kỉ XVIII, XIX ở Việt Nam, vẫn còn là một vấn đề phải bàn cãi…có những

nhà thơ nhà văn lớn nhất như Nguyễn Du, nhưng nếu đánh giá họ là hiện thực

thì cũng hơi gò ép, cũng như không thể dùng nguyên tắc sáng tác của Banzac để

đo và quyết định giá trị của Dante” [47, tr.40].

Gần quan điểm với Vũ Đức Phúc, Nguyễn Lộc trong Văn học Việt Nam

nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX (tập 2) [41] sau khi phân tích nghệ

thuật điển hình hóa, đã đi đến nhận định “Nguyễn Du một mặt vẫn kế thừa

truyền thống, một mặt lại phá vỡ truyền thống để đi đến chủ nghĩa hiện thực.

Nhưng cuối cùng Nguyễn Du vẫn dừng lại trước ngưỡng cửa của chủ nghĩa

hiện thực chứ chưa đi vào được quỹ đạo của nó” [41, tr.191]. Xem thế, để thấy

rằng, đối với Nguyễn Lộc, một tác phẩm đỉnh cao của văn học cổ điển như

Truyện Kiều cũng chỉ mới đứng trước cửa của chủ nghĩa hiện thực thì khó có

thể hình dung được một chủ nghĩa hiện thực thời trung đại, ở bên ngoài các

sáng tác của Nguyễn Du, nhất là Truyện Kiều. Thực vậy, Nguyễn Lộc từng

phát biểu ý kiến khẳng định, Tú Xương mới là nhà thơ đã thực sự đi được vào

quỹ đạo của chủ nghĩa hiện thực” [42], về điểm này, trước đó, Nguyễn Đức

Đàn đã bày tỏ ý kiến đồng tình [7]: “sang thời kỳ cận đại, trong những điều

kiện lịch sử mới xuất hiện nhiều nhân tố hiện thực mới, tiền thân của chủ nghĩa

hiện thực phê phán… Trong giai đoạn này, Tú Xương là nhà thơ tiêu biểu

nhất”, thơ Tú Xương thể hiện một “chủ nghĩa hiện thực sâu sắc” [7].

73

Tiếp sau bài của Đỗ Đức Dục, Vũ Đức Phúc, Nguyễn Lộc, Nguyễn

Đình Chú trong bài “Chung quanh vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lịch sử

văn học Việt Nam (Thời kỳ trước chủ nghĩa hiện thực phê phán 1930-1945)

[2] đã sơ kết tình hình nghiên cứu lịch sử hình thành và sự vận dụng lý luận

chủ nghĩa hiện thực vào thực tiễn văn học dân tộc đồng thời đặt ra nhiều vấn

đề chờ đợi những lý giải sâu sắc, có sức thuyết phục cao hơn. Trước hết tác

giả Nguyễn Đình Chú chất vấn cơ sở thực tế đưa đến việc khẳng định, “chủ

nghĩa hiện thực có mặt trong văn học Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ

XIX, trong Truyện Kiều của Nguyễn Du và Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô

gia văn phái” [2, tr.113], ông viết: những nhà nghiên cứu say sưa đuổi theo

kết luận này đã bỏ qua tính đặc thù của văn học quá khứ, là sự hình thành các

trường phái, các chủ nghĩa không diễn ra một cách rõ nét như trong lịch sử

văn học phương Tây; ở phương Đông sự thay thế các hình thái kinh tế xa hội

không dứt khoát, rõ nét như ở nhiều nước phương Tây.

Năm 1982, Nguyễn Thế Việt trong bài “Từ phương pháp tiếp cận đến

việc lý giải sự xuất hiện một lưu phái văn học” (Tạp chí Văn học số 6/1982)

quan niệm có một chủ nghĩa hiện thực thời trung địa Việt Nam, khi tác giả

khu biệt rằng, “khác với sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực phê phán trong

văn học phương Tây tế kỉ XIX, chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam

thời kỳ này xuất hiện trong sự ly với các phạm trù thẩm mỹ có tính ‘mô đéc”,

‘quy phạm’ của truyền thống văn học cổ điển Á Đông.

Năm 1983, tác giả Trần Nho Thìn góp thêm một tiếng nói đáng chú ý

vào cuộc thảo luận còn dang dở về vấn đề thời điểm hình thành của chủ nghĩa

hiện thực trong văn học dân tộc. Trong bài viết có nhan đề “Tìm hiểu tính

luận đề trong Truyện Kiều để xem xét vấn đề có hay không chủ nghĩa hiện

thực ở tác phẩm này” [59], để làm cơ sở cho việc lý giải trường hợp Truyện

Kiều, trước tiên Trần Nho Thìn trình bày ngắn gọn nội hàm thuật ngữ chủ

nghĩa hiện thực. Sau đó ông lưu ý, việc vận dụng công thức chủ nghĩa hiện

74

thực của Engels vào soi sáng thực tiễn văn học dân tộc cần thận trọng, bởi ví

như vấn đề tính cách điển hình và hoàn cảnh điển hình có điểm khó khăn, chỉ

có thể định tính chứ khó có thể định lượng. Ngoài ra cách hiểu và vận dụng

nguyên tắc về sự chân thực của chi tiết cũng có những phức tạp,đấy là chưa

nói đến các nguyên tắc khác như điển hình hóa… Theo Trần Nho Thìn, cần

quan tâm đến tính đặc thù trong việc xem xét mốc hình thành chủ nghĩa hiện

thực trong văn học Việt Nam: ở ta, không có cách mạng tư sản, cũng không

có một cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật nào theo kiểu Copecnic mở đầu,

cho đến thế kỉ XIX thế giới quan duy tâm siêu hình vẫn thống ngự đời sống tư

tưởng chứ không phải thế giới quan duy vật khoa học: “trong một bối cảnh

thế giới quan như thế thật khó mà xuất hiện một xu hướng văn học phản ánh

thực tại theo tinh thần nghiên cứu, phân tích như văn học phương Tây đã làm

ở thế kỉ XIX” [59, tr.25]; hơn nữa, văn học viết Việt Nam trong nhiều thế kỉ

vận động dưới sự chi phối của mỹ học Nho giáo (văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn

chí) thiên về bộc lộ chí, tâm chủ quan hơn là quan sát và phân tích thực tại,

“tình hình này là một trong các nguyên nhân quan trọng khiến cho văn học

mở đường đi vào quy đạo của chủ nghĩa hiện thực hết sức khó khăn” [59,

tr.26]. Xét riêng trường hợp Truyện Kiều, Trần Nho Thìn chỉ ra rằng, Truyện

Kiều có tính luận đề (tài mệnh tương đố), “tính luận đề là một biểu hiện của

thế giới quan duy tâm, siêu hình”, nhìn từ phương diện này có thể nói:

“Truyện Kiều chưa phải là tác phẩm hiện thực chủ nghĩa” [59, tr.36] sau đó

mở rộng phạm vi nghiên cứu, tác giả bài viết rút ra kết luận: “vấn đề chủ

nghĩa hiện thực gắn liền với vấn đề loại hình học lịch sử của văn học. Nó tồn

tại tương ứng với giai đoạn từ thời kỳ cận đại trở đi trong lịch sử. Trước đó, ở

giai đoạn trung đại, chưa thể có một thứ chủ nghĩa hiện thực nào hết… Thật

sai lầm nếu có ai hiểu rằng, có thể có chủ nghĩa hiện thực phương Đông trong

giai đoạn văn học trung cổ” [59, tr.36].

75

Tiếp sau quan điểm của tác giả Trần Nho Thìn, đầu thập niên 90 Trần

Đình Hượu công bố bài viết “Thực tại, cái thực và vấn đề chủ nghĩa hiện thực

trong văn học Việt Nam trung cận đại” [12], góp thêm một cách lý giải sâu

sắc về vấn đề đang đặt ra. Có thể nói phải đến Trần Nho Thìn và Trần Đình

Hượu, vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học trung đại mới được trả về

đúng bản chất của nó, tránh được cách vận dụng cứng nhắc lý luận về chủ

nghĩa hiện thực vào thực tiễn văn học cổ đồng thời cũng tránh được lối hiện

đại hóa hệ thống mỹ học cổ điển thường thấy.

Xem xét cả sáng tác và lý luận văn học thời trung đại, Trần Đình Hượu

nhận thấy, ở thời trung đại một số bậc đại nho đã bàn về cái thực, thực tại

trong văn học, mối quan hệ giữa văn học và thế nước tục dân, ví như Ngô Thì

Nhậm yêu cầu văn chương phải có tác dụng giúp đời, nhà văn cần “biết nắm

lấy cái thực làm cốt tử, rồi dùng đẹp đẽ trang sức thêm”. Như thế, đối với Ngô

Thì Nhậm, văn chương cần hướng vào thực tại, “nhưng thực là thế nào, thực

tại là gì? Nắm lấy cái thực, hướng về thực tại đã phải là có khuynh hướng

hiện thực chưa?.” [12, tr.27] Trần Đình Hượu cho rằng, trong văn học trung

cận đại Việt Nam “không có một phong trào văn học hiện thực chủ nghĩa”

như chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX ở Pháp. Chủ nghĩa hiện thực Pháp hình

thành khi chủ nghĩa tư bản định hình thành thể chế thống trị, “ở nước ta từ thế

kỉ X đến thế kỉ XIX chưa có những điều kiện xã hội đó. Hơn thế nữa, nền văn

học gồm thơ, phú, và các thể loại cổ văn còn thông dụng ở ta cho đến cuối thế

kỉ XIX thậm chí đầu thế kỉ XX, hầu như không thể đi đôi được với một chủ

nghĩa hiện thực kiểu đó [kiểu Pháp]” [12, tr.28]. Trần Đình Hượu lưu ý, thực

tại trong văn học trung đại Việt Nam có khi được hình dung qua khái niệm

“cảnh”, quan hệ giữa thực tại và văn học trở thành quan hệ giữa cảnh và tình;

đối với người trung đại tình là cái bên trong của người sáng tác, tình quyết

định cảnh, “trong lòng có cảm xúc thực sự” từ đó mới “lấy tình tham cảnh”

[12, tr.30], văn chương ở trong tâm mà ra, tâm trở thành cái máy lọc đối với

76

cảnh. Nhà nho xưa quan tâm tới chí, tâm, tình, đạo, chứ không phải quan tâm,

quan sát và tìm hiểu thực tại. Trần Đình Hượu nhấn mạnh: văn học trung đại

có nói đến cái chân, cái thực, nhưng phải hiểu rằng “cái thực mà họ nói chính

là sự trung thực với tâm chứ không phải thực với cảnh” [12, tr.35], thực trong

phản ánh trung thực hiện thực khách quan như lý luận văn học hiện đại định

nghĩa. Văn học trung đại chịu ảnh hưởng trực tiếp của Nho giáo, một “học

thuyết coi trọng thực tại, ghét những chuyện viển vông” [12, tr.41]. “Đối với

Nho giáo, Văn là đặc biệt quan trọng nhưng không tách rời Tâm, Đạo”, văn

học trung đại không tách thực tại ra khỏi tâm, đạo, nó “theo đuổi cái thần chứ

không phải cái thực, bằng con đường của dưỡng tâm chứ không phải ghi

chép, mô tả khách quan, nền văn học ấy không phải hiện thực mà cũng không

chuẩn bị tiến lên theo hướng hiện thực” [12, tr.41-41]. Cách diễn giải của

Trần Đình Hượu chỉ ra cho ta thấy rằng: khái niệm “thực” của văn học trung

đại cần phải hiểu là thực với tâm của mình, ví dụ, nói yêu nước thương dân

thì mình phải thực tâm, đừng dối trá, lòng không có tình cảm đó nhưng miệng

cứ nói thì không chân thực.

Suy nghĩ về vị trí văn học sử của Truyện Kiều, Trần Đình Hượu khẳng

định: “Muốn giải quyết vấn đề có hay không có chủ nghĩa hiện thực trong văn

học Việt Nam trước thế kỉ XX tất phải bàn về Truyện Kiều” [12, tr.49], “Cả

Truyện Kiều là những mảnh đời sống động, mỗi nhân vật trong từng hoàn

cảnh, từng tình huống đều có tâm trạng, đều suy nghĩ hành động đúng như

trong cuộc đời phải thế. Mỗi nhân vật như Tú Bà, Sở Khanh, Hoạn Thư đã trở

thành điển hình cho tính cách từng loại người. Từ một quyển tiểu thuyết tầm

thường của Thanh Tâm Tài Nhân, cụ Tiên Điền đã xây dựng nên một truyện

thơ tuyệt tác. Từ tài năng phi thường đó mới có vấn đề chủ nghĩa hiện thực

trong văn học Việt Nam trung cận đại.” [12, tr.49]. Ghi nhận đóng góp của Lê

Đình Kỵ, nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu viết: “Lê Đình Kỵ và Phan Ngọc

dùng hai phương pháp khác nhau phát hiện rất thấu đáo nghệ thuật của

77

Nguyễn Du trong Truyện Kiều và cả hai đều thấy không phải dễ dàng coi

Nguyễn Du là nhà văn hiện thực chủ nghĩa, nếu như không hiểu chủ nghĩa

hiện thực một cách linh hoạt….”. Trên tinh thần ấy, Trần Đình Hượu bày tỏ

một quan điểm khác, ông viết: “Truyện Kiều vẫn cứ là một tuyệt tác mà vẫn

không phải là hiện thực chủ nghĩa. Nó phát huy tuyệt vời những di sản nghệ

thuật cũ chứ không phải mở ra con đường mới. Tình trạng phát triển đô thị và

các quan hệ kinh tế-xã hội của phương Đông lúc đó chưa cho phép ra đời

những tiền đề của chủ nghĩa hiện thực.” [12, tr.65]. “Thể chế chuyên chế

phương Đông cản trở việc khẳng định các quan hệ tư bản chủ nghĩa, còn tồn

tại cho đến thế kỉ XIX và vị trí độc tôn của Nho giáo ngăn cản sự hình thành

của chủ nghĩa hiện thực” [12, tr.81].

Trên đại thể, có hai ý kiến về vấn đề có hay không chủ nghĩa hiện thực

trong văn học trung đại Việt Nam. Tương ứng với hai ý kiến này là hai cách

hiểu về thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực. Một đằng hiểu khái niệm này theo

nghĩa rộng, thừa nhận có một truyền thống chủ nghĩa hiện thực trong văn học

trung đại, thậm chí bao gồm cả văn học dân gian, tức là gần như đồng nhất

chủ nghĩa hiện thực với bản chất của văn học. Một đằng hiểu hẹp hơn, hoặc

giới hạn chủ nghĩa hiện thực trong một số hiện tượng như Truyện Kiều/thời

đại Nguyễn Du, Hoàng Lê nhất thống chí… hoặc xem chủ nghĩa hiện thực chỉ

xuất hiện trong những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể [như nó vốn đã từng nảy

sinh ở Pháp], với sự tan rã của chế độ phong kiến, sự nảy nở của tầng lớp tư

sản, sự phát triển của kinh tế hàng hóa, sự hình thành của thế giới quan khoa

học, và sự thoát khỏi hệ thống mỹ học của Nho giáo… Điểm chung của hai

quan điểm này là đều xuất phát từ lý luận, lấy lý luận, đối chiếu với lý luận để

đánh giá về thực tiễn.

Theo chúng tôi, để có thêm một cơ sở thực tiễn đặng trả lời câu hỏi có

hay không chủ nghĩa hiện thực trong văn học trung đại Việt Nam, cần lưu ý

về kiểu tư duy nghệ thuật của nhà nho trung đại trong việc miêu tả và thể hiện

con người.

78

Xét riêng mảng truyện thơ Nôm. So với thơ vịnh sử - thường ít khi

miêu tả, khắc họa con người với chân dung hay tính cách cụ thể, thì ở

truyện thơ Nôm bác học (và ngâm khúc) “chúng ta có thể bắt gặp các nhân

vật với chân dung ngoại hình, với ngôn ngữ, tính cách, số phận riêng” [62,

tr.101], nhân vật được miêu tả trong các mối quan hệ xã hội khác nhau. Ở

truyện thơ Nôm bác học, hệ thống các nhân vật đường phân loại thành hai

nhóm khác nhau; sự phân loại này phản ánh một nguyên tắc tư duy của

người sáng tác trung đại: tư duy phân loại [62, tr.103]. Đối với các nhân

vật chính diện, nhà nho (tác giả) thường dành thiện cảm khi miêu tả ngoại

hình hay trần thuật về chiều hướng con đường đời của nhân vật đó, trong

khi đối với loại nhân vật phản diện, họ thường có ác cảm, thể hiện trong

thái độ căm ghét khinh miệt, phê phán chúng. Nhân vật chính diện thường

được nhà nho gắn với “bảng giá trị có liên quan đến sắc đẹp, tài năng, và

nhân cách cao thượng, phi thường.” [62, tr.107], trong khi đó, nhân vật

phải diện thường được các tác giả đặt ra ngoài bảng giá trị này. Để khắc

họa hai hệ thống nhân vật chính diện và phản diện, các tác giả truyện thơ

Nôm bác học thường dùng hai hệ thống phương tiện nghệ thuật khác nhau:

một đằng được miêu tả bằng bút pháp ước lệ, tượng trưng đậm nét; một

đằng được khắc họa bằng phút pháp hiện thực, đặt nhân vật vào cuộc sống

hàng ngày, miêu tả chúng sao cho cụ thể, giống như thực.

Nếu không chú ý, việc thể hiện con người trong văn học thời cổ gắn

liền với kiểu tư duy phân loại của nhà nho (thể hiện ở ba cấp độ: ngôn ngữ tác

giả, cấu tạo giá trị cho nhân vật và các phương tiện nghệ thuật được sử dụng

để miêu tả), rất dễ xảy ra tình trạng, gán ghép thô thiển nghệ thuật khắc họa

nhân vật của truyện thơ Nôm vào các hệ thống lý luận hiện đại, như chủ nghĩa

hiện thực, tức là đã xem thường cái lôgic nghệ thuật độc đáo của tác phẩm

truyện thơ trung đại, bỏ qua kiểu tư duy phân loại của nhà nho. Cách đọc hiện

đại hóa - diễn giải các dữ liệu trung đại theo lý luận hiện đại, hay cốt sao cho

79

khớp với một các nguyên tắc mỹ học của một phương pháp sáng tác hiện đại

nào đó, dễ đi đến ngộ nhận về sự hiện diện của chủ nghĩa hiện thực trong văn

học cổ-trung đại.

3.2. Đánh giá về công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của

Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ

Như luận văn đã trình bày ở Chương 1, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện

thực của Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ là công trình gây được tiếng vang ngay

từ khi xuất hiện.

Đánh giá về những đóng góp của Lê Đình Kỵ

Hầu hết các ý kiến thảo luận về Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực

của Nguyễn Du đều ghi nhận những tìm tòi, phát hiện mới mẻ của Lê Đình

Kỵ. Cao Huy Đỉnh khẳng định “Lê Đình Kỵ đã có những phát hiện mới về

Truyện Kiều có khả năng thuyết phục bạn đọc thực sự” [8], xác định vị trí của

công trình trong sự phát triển của ngành Kiều học, Cao Huy Đỉnh viết: đây là

một cống hiến đáng kể vào lịch sử nghiên cứu Nguyễn Du, Truyện Kiều và

văn học cổ điển Việt Nam” [8, tr.138].

Xét riêng về vị trí của Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn

Du trong sự nghiệp học thuật của Lê Đình Kỵ, Nguyễn Đình Chú cho rằng,

Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là công trình quy mô, vượt

qua giai đoạn bước đầu tìm hiểu phương pháp sáng tác Truyện Kiều hồi năm

1963 [2] của tác giả. Định vị rõ hơn, Trịnh Bá Đĩnh nhấn mạnh: Truyện Kiều

và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là đỉnh cao nhất, tác phẩm sáng giá nhất

trong sự nghiệp của Lê Đình Kỵ, “đây là công trình thú vị tiêu biểu cho cách

mà Lê Đình Kỵ vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực để phê bình văn học” [8,

tr.169-172]. Còn Huỳnh Như Phương viết: Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực

của Nguyễn Du “được xem như đỉnh cao trong sự nghiệp trước tác của ông”,

đây “là một công trình thể hiện đầy đủ bút lục của một nhà nghiên cứu có uy

tín. Cuốn sách gợi cho ta ý nghĩ rằng, có lẽ trong đời mình, mỗi nhà nghiên cứu

chỉ cần viết nên một cuốn sách thật đích đáng” [48].

80

Theo Nguyễn Lộc [41], đặt Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của

Nguyễn Du vào “đợt kỉ niệm 200 sinh Nguyễn Du” sẽ thấy, công trình này

cùng với nhiều tiểu luận của các tác giả khác như Hà Huy Giáp, Hoài Thanh,

Trần Văn Giàu, Nguyễn Khánh Toàn…đi sâu hơn vào nội dung xã hội của tác

phẩm và vấn đề thế giới quan, phương pháp sáng tác. Nguyễn Lộc đánh giá:

“Chuyên luận Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê

Đình Kỵ là một đề tài có chất lý luận. Có thể nói, Lê Đình Kỵ là người đầu

tiên đã mở ra một hướng nghiên cứu mới: nghiên cứu Truyện Kiều trong

tương quan với phương pháp sáng tác của nhà thơ. Với ngòi bút phân tích sắc

sảo của một nhà phê bình, từ góc độ phương pháp sáng tác, Lê Đình Kỵ đã có

những phát hiện về Truyện Kiều mà những nhà nghiên cứu Truyện Kiều

những giai đoạn trước chưa có… Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của

Nguyễn Du giúp người đọc hiểu sâu hơn những giá trị độc đáo của một nhà

thơ thiên tài” [41, tr.261]. Sau này khi “Đọc lại Truyện Kiều và chủ nghĩa

hiện thực của Nguyễn Du”, Nguyễn Lộc vẫn giữ quan điểm khẳng định đóng

góp của Lê Đình Kỵ, ông viết: “Ở công trình Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện

thực của Nguyễn Du, từ góc độ phương pháp sáng tác, Lê Đình Kỵ đã có

những phát hiện và lý giải mới mẻ, sắc sảo, thuyết phục trên nhiều vấn đề về

lí tưởng thẩm mỹ, về chủ nghĩa nhân đạo và sự thể hiện chân lí đời sống, về

cách thể hiện nhân vật, về điển hình hóa, về thời gian và không gian nghệ

thuật, về tính lịch sử cụ thể của Truyện Kiều” [41, tr.351].

Bàn về các luận cứ, luận chứng trong Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện

thực của Nguyễn Du, Cao Huy Đỉnh thừa nhận vốn hiểu biết sâu sắc, rộng rãi

của người viết: tác giả đã huy động nhiều tri thức về con người, tác phẩm và

thời đại của Nguyễn Du để lý giải, cắt nghĩa, chỉ ra nhiều vấn đề, ông đã miêu

tả được một cách nhất quán cái khối thống nhất hữu cơ của Truyện Kiều

nhưng lại chồng chéo nhiều mâu thuẫn phức tạp, và “kiên trì soi đi soi lại

nhiều lần đối tượng của mình từ nhiều góc độ ánh sáng khác nhau (lịch sử, xã

81

hội, tâm lý, thẩm mĩ, văn học….)” [8]. Trần Đình Sử cũng khẳng định Lê

Đình Kỵ có nhiều đóng góp mới mẻ: “Thành công đáng kể của Lê Đình Kỵ là

ông đã vận dụng nhuần nhuyễn các khái niệm tính cách, cá tính, hoàn cảnh,

chi tiết để phân tích tính thống nhất toàn vẹn, sinh động của các nhân vật

Truyện Kiều. Có thể nói đó là sự nghiên cứu thi pháp Truyện Kiều theo thi

pháp của chủ nghĩa hiện thực. Đồng thời đối chiếu với thi pháp của chủ

nghĩa hiện thực cũng làm cho nhà nghiên cứu thấy rõ nhiều đặc trưng nghệ

thuật riêng của Truyện Kiều mà ông gọi là “những ràng buộc của mỹ học

đương thời…" [55].

Nhìn lại các ý kiến đánh giá nhân vật Truyện Kiều trong thế kỉ XX,

Trần Nho Thìn đã chỉ ra cách tiếp cận riêng của Lê Đình Kỵ so với Phan

Ngọc, Trần Đình Sử: trong khi Phan Ngọc đứng từ quan điểm thao tác luận,

Trần Đình Sử nhìn từ góc độ tự sự học thì Lê Đình Kỵ xuất phát từ điểm nhìn

giai cấp luận và “phản ánh luận để tìm cội nguồn đã gây ra những mâu thuẫn

trong cách đánh giá nhân vật Truyện Kiều, nhất là nhân vật Thúy Kiều”, “xem

xét tương quan giữa tác phẩm và hiện thực khách quan” [62, tr.378-379].

Nhìn chung “mỗi nhà nghiên cứu có một cách tiếp cận riêng và theo cách

riêng đã chỉ ra một cách đúng đắn bản chất của phong phú, nhiều chiều của

nhân vật Truyện Kiều, điều đã tạo nên sức sống mãnh liệt cho chúng”. Gần

với quan điểm của Trần Nho Thìn, Trịnh Bá Đĩnh lý giải, từ góc nhìn lý luận

hiện thực chủ nghĩa, Lê Đình Kỵ đã có những phát hiện thú vị, “song dường

như phần giá trị nhất của công trình lại là những chỗ ông viết về nghệ thuật

thơ của Nguyễn Du. Ngòi bút phê bình dường như trội hơn ngòi bút lí luận là

điều có thể thấy rõ trong cuốn sách” [9]. Còn Huỳnh Như Phương bình luận:

“Nhìn Truyện Kiều như một cấu trúc thẩm mỹ nằm trong toàn bộ thế giới

nghệ thuật của Nguyễn Du và là sản phẩm của một hoàn cảnh xã hội - lịch sử

nhất định, Lê Đình Kỵ đã trình bày và biện giải một cách thuyết phục cơ sở tư

tưởng - thẩm mỹ cũng như quan niệm về con người và nghệ thuật của nhà

82

thơ. Tác giả cuốn sách đã chỉ ra đâu là huyền thoại và đâu là thực chất trong

triết lý về Tài, Mệnh, Tâm của Truyện Kiều. Những trang hay nhất của cuốn

sách được dành để viết về thế giới nhân vật đa dạng và sống động của Nguyễn

Du, từ Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải cho đến Tú Bà, Hoạn Thư, Mã Giám

Sinh… Với giọng văn uyển chuyển và nhuần nhị, những trang sách này có thể

xem là một dẫn chứng điển hình về sự tiếp nhận Truyện Kiều từ chỗ đứng của

một con người hiện đại có tầm văn hóa cao. Và từ niềm xác tín trên con

đường nghiên cứu của mình, Lê Đình Kỵ đã bày tỏ một thái độ nồng nhiệt đối

với cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa của Nguyễn Du trong việc nhìn nhận thế

giới và con người” [48, tr.15].

Nhận xét về ngôn ngữ phê bình của Lê Đình Kỵ, nhà nghiên cứu Cao

Huy Đỉnh khẳng định công trình của Lê Đình Kỵ có chất văn, logic, “nguồn

tư liệu dồi dào”, “ngôn ngữ mềm mỏng, mạch văn tinh tế, nếp cảm nghĩ cặn

kẽ, sâu sắc” [8].

Thảo luận về những giới hạn của công trình

Theo Cao Huy Đỉnh, Lê Đình Kỵ “còn lúng túng trong việc xác định

phương pháp sáng tác cơ bản của Nguyễn Du và Truyện Kiều” [8, tr.138]. Hạn

chế khác là: Lê Đình Kỵ đã lấy tiêu chuẩn của phương pháp hiện thực chủ nghĩa

ở văn học phương Tây, văn học Nga thế kỉ XIX để tìm hiểu Truyện Kiều; quá đề

cao phương pháp sáng tác chủ nghĩa hiện thực, xem chủ nghĩa hiện thực đứng

nhất, đừng sau nó là chủ nghĩa cổ điển, sáng tác kiểu dân gian, “gán cho chủ

nghĩa hiện thực cái độc quyển có thế giới quan tiến bộ, có ý nghĩa xã hội lịch sử,

có chân lý đời sống và có khả năng cá thể hóa hình tượng” [8].

Tác giả chưa chỉ ra được nội dung cuộc sống Việt Nam hiện tại, hàng

ngày đã đi vào Truyện Kiều ở chỗ nào với cái dạng vốn có của nó, chưa chỉ ra

những nguyên mẫu của trong xã hội Việt Nam thế kỉ XVIII hay trong chính

thời đại và môi trường sống của Nguyễn Du đã chuyển hóa vào bản thân hình

tượng của Truyện Kiều, Lê Đình Kỵ mới chỉ dừng lại ở cái gọi là “tinh thần

83

Việt Nam” do đó việc tác giả nói đến một chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du

hẳn là chưa có cơ sở vững chắc. Mục tiêu của Lê Đình Kỵ là đi tìm chủ nghĩa

hiện thực trong Truyện Kiều nhưng vì chưa nắm bắt được tiêu chuẩn đặc thù

của phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa, nên càng đi sâu khảo sát cơ

cấu Truyện Kiều, Lê Đình Kỵ lại càng trông thấy một thứ chủ nghĩa lý tưởng,

chủ nghĩa cổ điển hơn là chủ nghĩa hiện thực. Cao Huy Đỉnh gọi hành trình

này là “chỗ thiếu thanh thoát nhất của cuốn sách, khiến chúng ta chưa hiểu hết

được chủ kiến của tác giả” [8, tr.138]. Đối với Cao Huy Đỉnh, tiêu chí cốt yếu

để nhận diện chủ nghĩa hiện thực là quá trình và phương thức chuyển hóa

từ thực tiễn đến văn học và ngược lại. Nguyễn Lộc cũng nhận định: nhược

điểm khá rõ trong công trình của Lê Đình Kỵ là tính hệ thống không được

chặt chẽ, “Lê Đình Kỵ dường như vẫn lấy một tiêu chuẩn có sẵn nào đó về

chủ nghĩa hiện thực của nước ngoài rồi đối chiếu so sánh với Truyện Kiều,

chứ chưa xuất phát từ quy luật vận động nội tại của văn học dân tộc để

nghiên cứu nó” [41, tr.262].

Tương tự như Cao Huy Đỉnh, Huỳnh Như Phương khái quát khách

quan: “Vấn đề chủ nghĩa hiện thực phương Đông nói chung, chủ nghĩa hiện

thực trong văn học cổ Việt Nam nói riêng, cho đến nay, chưa phải đã được

bàn luận thấu đáo. Thời Lê Đình Kỵ viết cuốn sách này, ở ta không phải

không có xu hướng vận dụng những tiêu chí của chủ nghĩa hiện thực phương

Tây vào nghiên cứu những giá trị của văn học cổ điển Việt Nam và đã không

tránh khỏi ít nhiều khiên cưỡng. Chính Lê Đình Kỵ cũng nhận thấy rằng, chủ

nghĩa hiện thực là cái áo quá chật so với cơ thể cường tráng của Truyện Kiều”

[48, tr.16]. Bản thân Lê Đình Kỵ, sau này, trong một bài trả lời phỏng vấn

cũng thú nhận: ông muốn “thuyết phục người đọc rằng Truyện Kiều vĩ đại

không chỉ vì phương pháp sáng tác mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác.

Bởi vì thực ra những gì mà Nguyễn Du thể hiện qua Truyện Kiều khiến chúng

ta chỉ có thể hình dung đến một chủ nghĩa hiện thực phôi thai, một chủ nghĩa

hiện thực trong giai đoạn sơ kì của nó mà thôi” [37, tr.11]

84

Chọn cách đặt vấn đề khác với Cao Huy Đỉnh, Đỗ Đức Dục cùng nhiều

nhà nghiên cứu muốn truy tìm sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực trong văn

học Việt Nam trước những năm 30 của thế kỉ XX. Nhìn từ yêu cầu đó, ông đã

cho rằng, công trình của Lê Đình Kỵ còn có khiếm khuyết chưa được lấp đầy:

“đến nay, khi mà việc biên soạn một cuốn lịch sử văn học Việt Nam đang

chính thức được tiến hành, thiết tưởng việc nghiên cứu những vấn đề trào lưu

văn học, phương pháp sáng tác văn học, như về sự xuất hiện của chủ nghĩa

hiện thực trong văn học Việt Nam là một điều rất cần thiết. Gần đây cuốn

sách Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ đã

một phần đề cập tới vấn đề đó, nhưng tiếc rằng tác giả chưa có ý kiến thật dứt

khoát, nhất là chưa nhằm nêu lên quá trình hình thành của chủ nghĩa hiện thực

trong văn học Việt Nam” [4, tr.100-101].

85

Tiểu kết chương 3

Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là công trình thành

công nhất của Lê Đình Kỵ. Nhiều vấn đề đặt ra từ công trình này, ngay từ khi

công bố, đã thu hút sự quan tâm, bàn thảo của giới nghiên cứu lý luận và lịch

sử văn học. Các ý kiến về vấn đề có hay không chủ nghĩa hiện thực trong văn

học trung đại, hay về những hạn chế và thành công của Lê Đình Kỵ khi vận

dụng lý luận về phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa vào nghiên cứu

Truyện Kiều có sự phân hóa rõ rệt.

Ngày nay nhìn lại, chúng ta thấy, thành công và giới hạn của Truyện

Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du cũng chính là ưu điểm và giới

hạn của một cách đọc, một cách tiếp cận tác phẩm. Bên cạnh cách tiếp cận từ

phương pháp sáng tác, từ phản ánh luận, còn có nhiều cách diễn giải khác.

Không có phương pháp vạn năng. Mỗi cách đọc, cách tiếp cận cho thấy một

vài khía cạnh, vẻ đẹp vốn rất phong phú, phức tạp tiềm tại trong cấu trúc ngôn

từ và hình tượng của văn bản.

86

KẾT LUẬN

1. Lê Đình Kỵ là nhà lý luận phê bình văn học theo khuynh hướng xã

hội học mác xít. Ông tích cực đưa tới giới nghiên cứu nhiều văn bản về chủ

nghĩa hiện thực cũng như góp phần gợi cảm hứng cho các nghiên cứu văn học

sử về sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực trong lịch sử văn học dân tộc. Lê

Đình Kỵ không dừng lại ở việc dịch thuật, viết giáo trình về các phương pháp

sáng tác văn học nghệ thuật, trong đó bao gồm cả chủ nghĩa hiện thực, mà còn

vận dụng lý luận về chủ nghĩa hiện thực vào nghiên cứu văn học cổ điển, đặt

ra những vấn đề lớn có tính phương pháp luận trong việc lý giải các hiện

tượng lớn, tiêu biểu của văn học quá khứ.

2. Từ những năm 60 Lê Đình Kỵ đã có những nghiên cứu thử nghiệm

về phương pháp sáng tác của Truyện Kiều. Có thể tìm thấy những bước đi đầu

tiên của ông trong một số bài tạp chí chuyên ngành và tiểu luận bàn về nhân

vật Truyện Kiều, triết lý, thế giới quan của nhà văn nhân kỉ niệm 200 năm

năm sinh Nguyễn Du, bên cạnh đó có thể thấy từ lâu Truyện Kiều luôn là chất

liệu thích hợp dẫn vào các vấn đề lý luận về phương pháp sáng tác trong các

giáo trình mà Lê Đình Kỵ tham gia biên soạn. Chẳn hạn như vấn đề điển hình

hóa, khi nghiên cứu và diễn giải phương thức điển hình hóa, Lê Đình Kỵ

thường xuyên nhắc đến trường hợp Truyện Kiều như một ví dụ tiêu biểu và

thích hợp nhất để soi sáng vấn đề.

3. Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là công trình

đỉnh cao trong sự nghiệp của Lê Đình Kỵ. Công trình này là sự tiếp nối, phát

triển sâu sắc và có hệ thống các nghiên cứu thể nghiệm trước đó của Lê Đình

Kỵ. Đúng như Nguyễn Lộc nhận định: đây là công trình có tính chất lý luận,

ở đó rất nhiều lần Lê Đình Kỵ giới thuyết về nguyên tắc mỹ học của chủ

nghĩa hiện thực, cũng như cung cấp một vài khía cạnh về phương pháp luận

trong việc xác định nội dung xã hội - giai cấp của Truyện Kiều.

87

Ngay “Lời nói đầu” của công trình, Lê Đình Kỵ đã giải thích bản chất

hướng tiếp cận của ông: “Nghiên cứu Truyện Kiều trong mối tương quan với

chủ nghĩa hiên thực, tức cũng là nghiên cứu phương pháp sáng tác của tác

phẩm cổ điển lớn nhất của nền văn học dân tộc”. Nhìn từ góc độ này, Truyện

Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du thực sự “đã ra một hướng nghiên

cứu mới: nghiên cứu Truyện Kiều trong mối tương quan với phương pháp

sáng tác của nhà thơ”.

4. Điểm mạnh trong Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn

Du là cái nhìn lý luận sâu sắc. Chính sự am hiểu những vấn đề lý luận của chủ

nghĩa hiện thực, hiểu như một phương pháp sáng tác, đã giúp Lê Đình Kỵ tổ

chức công trình của mình theo một hệ thống diễn giải chặt chẽ: “Nhìn Truyện

Kiều như một cấu trúc thẩm mỹ nằm trong toàn bộ thế giới nghệ thuật của

Nguyễn Du và là sản phẩm của một hoàn cảnh xã hội - lịch sử nhất định, Lê

Đình Kỵ đã trình bày và biện giải một cách thuyết phục cơ sở tư tưởng - thẩm

mỹ cũng như quan niệm về con người và nghệ thuật của nhà thơ” [48, tr.15],

từ đó ông bàn sâu về nội dung xã hội Truyện Kiều cũng như về nghệ thuật

điển hình hóa theo hướng hiện thực chủ nghĩa…

Khác với các nghiên cứu xem văn học trung đại thiếu tinh thần tả chân,

hoặc xem Truyện Kiểu chỉ mới đứng ở ngưỡng cửa của chủ nghĩa hiện thực,

bằng hệ thống lý luận mạch lạc, kinh nghiệm văn học sử phong phú, Lê Đình

Kỵ đã lập luận, phân tích và chứng minh Truyện Kiều có một vị quan trọng

trong việc hình thành chủ nghĩa hiện thực của văn học dân tộc ta. Tư tưởng

chính mà Lê Đình Kỵ thể hiển trong công trình tâm huyết của mình được hiểu

như sau, ông xem: “Truyện Kiều là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử văn học

dân tộc, và kinh nghiệm của lịch sử văn học các nước cho biết rằng trong

những bước ngoặt như thế thường là gắn liền với chủ nghĩa hiện thực; ít ra thì

cũng là biểu hiện một cố gắng vươn tới chủ nghĩa hiện thực. Truyện Kiều đã

đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của nền văn học hiện thực chủ

88

nghĩa ở nước ta… Ở Truyện Kiều có sự xen kẽ, sự đấu tranh giằng xé giữa xu

hướng hiện thực chủ nghĩa và những nền nếp đã thành thông lệ. Cái lớn của

Nguyễn Du không phải ở chỗ cắt đứt mọi liên hệ với nền văn học quá khứ và

đương thời, mà là ở chỗ, thông qua những khuôn khổ, những quy ước định

sẵn, Nguyễn Du đã tìm được con đường dẫn tới chủ nghĩa hiện thực, bằng sự

kết hợp sinh động, tài tình”, “chủ nghĩa hiện thực của Truyện Kiều là chủ

nghĩa hiện thực hình thành trong vòng vây của những quan điểm và thực tế

sáng tác không phải hiện thực”, giới hạn của chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn

Du gắn liền với truyền thống không phải hiện thực chủ nghĩa này”. Rõ ràng

Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du là một tiếng nói khác,

một cách tiếp cận mới mẻ, đặt ra được nhiều vấn đề học thuật có thể được tiếp

tục thảo luận sâu thêm.

5. Trong khi có ý kiến còn băn khoăn cho rằng, đặt vấn đề phương pháp

sáng tác là dễ rơi vào tình trạng minh họa, rập khuôn lý thuyết, lấy tiêu

chuẩn của nền văn học khác để đo nền văn học trong nước, lấy những điều

kiện lịch sử xã hội của phương Tây nơi nảy sinh chủ nghĩa hiện thực gán

ghép vào văn học Việt Nam, mà “bỏ qua đặc tính Việt Nam của vấn đề” thì

Lê Đình Kỵ đã cho thấy qua Chương 1 và rải rác ở nhiều chương khác của

công trình, một ngữ cảnh đặc thù làm nảy sinh thế giới quan, phương pháp

sáng tác tiến bộ của Nguyễn Du. Lê Đình Kỵ đã chỉ ra, “chủ nghĩa hiện

thực của Truyện Kiều gắn chặt với truyền thống văn học lâu đời của dân

tộc”, những hạn chế và điểm tiến bộ của kiệt tác này do chính lịch sử quy

định. Lê Đình Kỵ không máy móc đòi hỏi sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực

ở Việt Nam nói chung, của Truyện Kiều nói riêng, nhất thiết phải gắn liền

với chủ nghĩa tư bản như ở châu Âu, trong cái nhìn của ông, phương pháp

sáng tác của Nguyễn Du có tính đặc thù dân tộc và Truyện Kiều có tính quá

độ, vừa trong vòng, chịu sự ràng buộc của mỹ học phong kiến vừa muốn

thoát khỏi và vượt lên hệ thống đó.

89

6. Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du lấy trọng tâm

nội dung xã hội, nội dung phản ánh của Truyện Kiều, mối liên hệ giữa tác

phẩm và thực tại đời sống làm đối tượng diễn giải, phân tích. Đây cũng chính

là một đặc trưng của phương pháp xã hội học văn học, của nhãn quan quyết

định luận thịnh hành thập niên 60, 70 ở miền Bắc. Theo Lê Đình Kỵ, Truyện

Kiều đã thể hiện khách quan chân thực đời sống, quan tâm phô diễn nội tâm

và xây dựng tính cách nhân vật bằng điển hình hóa, thừa nhận sự tác động qua

lại giữa con ngươi và môi trường sống, coi trọng những chi tiết cụ thể trong

việc mô tả đời sống và nhân vật… Lê Đình Kỵ nhấn mạnh quan điểm của

ông: “Nội dung Truyện Kiều trước hết là chân lý đời sống, không phải là đạo

đức lý tưởng đạt tới bằng con đường lý tưởng hóa… Truyện Kiều là một

truyện thuộc phàm trù xã hội-tâm lý chứ không phải phạm trù đạo đức”.

7. Mặc dù tập trung vào nội dung xã hội của Truyện Kiều, song Lê

Đình Kỵ không xem nhẹ phương diện nghệ thuật của tác phẩm: “Không thể

tách rời nghệ thuật vô song của Truyện Kiều với lý tưởng thẩm mỹ của

Nguyễn Du. Không thể tách rời tính chân thực sinh động của các nhân vật với

phương pháp điển hình hóa trong truyện. Và cái ngôn ngữ kỳ diệu của Truyện

Kiều phong phú, uyển chuyển, đầy sức biểu hiện như thế, là vì nó chất chứa

cái chân lý đời sống mà Nguyễn Du tự đặt cho mình nhiệm vụ phải thể hiện”.

Ông không chỉ thành công trong việc diễn giải có chiều sâu về nội dung xã

hội mà còn có nhưng trang viết hấp dẫn về nghệ thuật của Truyện Kiều. Trịnh

Bá Đĩnh đánh giá, “dường như phần giá trị nhất của công trình là những chỗ

ông viết về nghệ thuật thơ của Nguyễn Du” [9, tr.172].

8. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, việc nghiên cứu Truyện Kiều trong

tương quan với chủ nghĩa hiện thực, như cách làm của Lê Đình Kỵ, chỉ là một

cách tiếp cận Truyện Kiều, một cách lý giải những đóng góp, hạn chế của

Nguyễn Du thể hiện trong kiệt tác này. Cách tiếp cận của Lê Đình Kỵ có

nhiều mặt tích cực, khả thủ, tuy nhiên nó không phải là chìa khóa vạn năng để

90

tìm hiểu mọi hiện tượng văn học quá khứ, văn học cổ-trung đại Việt Nam,

càng không thể thay thế các cách tiếp cận khác. Có bao nhiêu hệ thống lý

thuyết thì có thể có bấy nhiêu kết luận khác nhau về Truyện Kiều.

Nói riêng về việc vận dụng lý luận chủ nghĩa hiện thực vào xem xét

Truyện Kiều, chúng ta thấy cần có một thái độ thận trọng, bởi chẳng hạn, nếu

thừa nhận Truyện Kiều là một tác phẩm có tính luận đề thì sẽ thấy, khó có thể

đưa đến một nhận định nào đó về chủ nghĩa hiện thực của Truyện Kiều, hiểu

theo nghĩa nghiêm ngặt của thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực. Nhà nghiên cứu

Huỳnh Như Phương khi viết “Lời nói đầu” cho Tuyển tập Lê Đình Kỵ cho

rằng có độ chênh nhất định giữa lý thuyết của chủ nghĩa hiện thực với phương

pháp, thế giới nghệ thuật của Nguyễn Du. Tác giả Huỳnh Như Phương cung

cấp thêm chi tiết, Lê Định Kỵ sau này cũng thấy rằng “chủ nghĩa hiện thực là

cái áo quá chật so với cơ thể cường tráng của Truyện Kiều”, và trong bản in

đầu tiên do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành, cái nhan đề Truyện Kiều

và chủ nghĩa hiên thực của Nguyễn Du do Nhà xuất bản thêm vào ba chữ sau

(của Nguyễn Du), và trong một bản in ở Nhà xuất bản Cửu Long năm 1988,

Lê Đình Kỵ đã không ngần ngại đổi tên cuốn sách của ông thành Truyện

Kiều, đỉnh cao văn học. Bài học được rút ra ở đây là: “Vấn đề chủ nghĩa hiện

thực gắn liền với vấn đề loại hình học lịch sử của văn học… Không thể nhầm

lẫn giữa khuynh hướng mang đậm tính xã hội trong nội dung đề tài và cảm

hứng sáng tạo với chủ nghĩa hiện thực như một kiểu tư duy, kiểu sáng tác”

[62, tr.264]. Một điểm chưa ổn trong nghiên cứu của Lê Đình Kỵ chính là ông

cứ muốn khái quát, ép tác phẩm vào khung chủ nghĩa hiện thực theo tiêu chí

của văn học phương Tây, chưa chú ý đầy đủ đến đặc thù của văn học trung

đại Việt Nam vốn có những đặc trưng rất riêng.

Một điểm bất cập khác trong là Lê Đình Kỵ có phần quá đề cao, nói

không muốn nói là tuyệt đối hóa chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa hiện thực xã

hội chủ nghĩa so với các phương pháp sáng tác khác. Ông xem đây là một

91

phương pháp sáng tác tiến bộ, một bước tiến lịch sử của tư duy nghệ thuật

của loài người, là thành tựu lịch sử của cả một quá trình lâu dài, điều đó có

phần chấp nhận được, song đi đến coi nhẹ và xếp các phương pháp khác

như chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa cổ điển,…. ở hàng hai, hàng ba thì có

phần thái quá.

Trong “Lời nói đầu” của công trình, Lê Đình Kỵ đã thể hiện nhiệm

vụ xuyên suốt của ông là: xác định những thành tựu cũng như nhược điểm

của Truyện Kiều về mặt nội dung tư tưởng và phương pháp nghệ thuật phải

gắn với tính thời sự của “công cuộc cách mạng văn hóa và tư tưởng nói

chung và nói riêng là cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn học nghệ thuật hiện

nay”. Chủ trương của Lê Đình Kỵ là: “tiếp thu có phê phán di sản văn học

nghệ thuật dân tộc đấu tranh cho chủ nghĩa hiện thực (Lê Đình Kỵ nhấn

mạnh), bảo vệ chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, chống lại mọi xu

hướng duy tâm phản động nhằm đưa văn học đi đến chỗ thoát ly cuộc sống,

thoát ly chính trị” (tr.13).

Ngày nay nhìn lại, chúng ta thấy rằng: việc vận dụng lý luận về chủ

nghĩa hiện thực vào nghiên cứu Truyện Kiều như Lê Đình Kỵ đã làm, là một

cách vận dụng có phần thô thiển vì tính chất phục vụ chính trị của nó. Thêm

nữa, cần phải thấy rằng, mọi phương pháp sáng tác đều bình đẳng, đều có

đóng góp, tìm tòi riêng về hiện thực, không thể thay thế. Về mặt này, Cao

Huy Đỉnh từng lưu ý: không nên gán cho chủ nghĩa hiện thực cái độc quyển

có thế giới quan tiến bộ, có ý nghĩa xã hội lịch sử, có chân lý của đời sống và

có khả năng cá thể hóa hình thường, trong khi các phương pháp khác thì

không thể vươn tới.

Lý luận văn học hiện đại và thực tiễn lịch sử văn học đã chứng minh

giá trị của tác phẩm văn học không nhất thiết phụ thuộc vào sự phản ánh hiện

thực bằng những hình thức của bản thân đời sống. Ngoài phương pháp phản

ánh, thi pháp huyền thoại, việc sử dụng yếu tố thần kỳ, kỳ ảo của thần thoại,

92

truyện cổ tích vẫn được nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật hiện đại lớn khai

thác và có hiệu quả thẩm mỹ tích cực.

Nghiên cứu trường hợp vận dụng lý luận về chủ nghĩa hiện thực vào

việc đọc Truyện Kiều là một dịp hiểu sâu sắc hơn lý thuyết tiếp nhận và sự

tiếp nhận lý luận về chủ nghĩa hiện thực ở Việt Nam. Mỗi độc giả, mỗi thời

đại lại có một cách tiếp nhận, đọc văn bản riêng. Và các cách đọc bổ sung cho

nhau, không có cách đọc nào là tuyệt đối, từ đó, bài học rút ra cho người đọc,

người học, người dạy văn là cần tham khảo, so sánh càng nhiều kiểu đọc càng

tốt, để tiếp cận chân lý.

93

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1981), “Nhìn chủ nghĩa hiện thực trong sự vận động

lịch sử”, Tạp chí Văn học, số 4, tháng 7&8.

2. Nguyễn Đình Chú (1979), “Chung quanh vấn đề chủ nghĩa hiện thực

trong lịch sử văn học Việt Nam” (Thời kỳ trước chủ nghĩa hiện thực phê

phán 1930-1945), Tạp chí Văn học số 4, tháng 7&8.

3. Đỗ Đức Dục,(1989) “Về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du”, Nxb.

Văn học, H.

4. Đỗ Đức Dục (1971), “Suy nghĩ về vấn đề sự xuất hiện của chủ nghĩa

hiện thực trong văn học Việt Nam”, Tạp chí Văn học số 4, tháng 7 &8.

5. Đỗ Đức Dục (1982), “Trở lại vấn đề xuất hiện của chủ nghĩa hiên thực

trong văn học Việt Nam”, Tạp chí Văn học số 01.

6. Đỗ Đức Dục (1968), “Tính cách điển hình trong Hoàng Lê nhất thống

chí”, Tạp chí Văn học số 9.

7. Nguyễn Đức Đàn (1968), Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt

Nam, Nxb. Khoa học xã hội.

8. Cao Huy Đỉnh (1971), “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn

Du”, Tạp chí Văn học số 3, tháng 5&6.

9. Trịnh Bá Đĩnh (2013), Lịch sử lí luận phê bình văn học Việt Nam, Nxb.

Khoa học xã hội

10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyên Khắc Phi chủ biên (1992), Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb. Giáo dục.

11. Thích Nhất Hạnh (2005), Thả một bè lau (Truyện Kiều dưới cái nhìn

thiền quán). Nxb. Tôn giáo

12. Trần Đình Hượu (1990) “Thực tại cái thực và vấn đề chủ nghĩa hiện thực

Văn học Việt Nam trung cận đại”/ Văn học và hiện thực, Nxb. Khoa học

xã hội, H

13. N.Konrat (1997), Phương Đông và phương Tây, Nxb. Giáo dục

94

14. Lê Đình Kỵ lược dịch (1960), “Cuộc thảo luận về chủ nghĩa hiện thực ở

Liên Xô”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 4

15. Lê Đình Kỵ (1962), Phương pháp nghệ thuật, Nxb, Giáo dục

16. Lê Đình Kỵ (1963), “Mấy đính chính cần thiết về bài phê bình các

phương pháp nghệ thuật”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 2-1963

17. Lê Đình Kỵ, “Bước đầu tìm hiểu phương pháp sáng tác Truyện Kiều” ,

Tạp chí Văn nghệ số 4/1963

18. Lê Đình Kỵ (1965), “ Nguyễn Du và đạo đức phong kiến qua nhân vật

Thúy Kiều”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 9.

19. Lê Đình Kỵ (1965), “Quan điểm đạo đức - thẩm mỹ của Nguyễn Du”,

Tạp chí Văn học số 9.

20. Lê Đình Kỵ (1967), “Tính khách quan của thể hiện nhân vật trong

Truyện Kiều”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 4

21. Lê Đình Kỵ (1969), Đường vào thơ, Nxb. Văn học

22. Lê Đình Kỵ (1970), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du,

Nxb. Khoa học xã hội

23. Lê Đình Kỵ (1970), Cơ sở lý luận văn học, tập 4 (Phương pháp sáng tác

và trào lưu văn học). Nxb. Giáo dục

24. Lê Đình Kỵ (1978), Sáng mắt sáng lòng, Nxb. Giáo dục

25. Lê Đình Kỵ (1979), Thơ Tố Hữu, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp.

26. Lê Đình Kỵ (1984), Tìm hiểu văn học, Nxb. TP. Hồ Chí Minh

27. Lê Đình Kỵ (1984), “Từ trong di sản văn học nghĩ về tư tưởng sáng tác

của cha ông”, Nghiên cứu văn học số 1

28. Lê Đình Kỵ (1986), Phương pháp sáng tác, Trường Đại học Tổng hợp

TP. Hồ Chí Minh

29. Lê Đình Kỵ (1987), Nhìn lại tư tưởng văn nghệ thời Mỹ ngụy, Nxb. TP.

Hồ Chí Minh

30. Lê Đình Kỵ (1988), Thơ với Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoài Thanh,

Nxb. Cửu Long.

95

31. Lê Đình Kỵ (1988), Hiểu đúng đắn Truyện Kiều, Hội Văn nghệ Đồng Tháp

32. Lê Đình Kỵ (1988), Thơ mới những bước thăm trầm, Nxb. TP. Hồ Chí Minh

33. Lê Đình Kỵ (1991), “Đối thoại với văn hóa dân gian và bản lĩnh của

người viết về Trương Chi của Nguyễn Huy Thiệp” , Tạp chí Nghiên cứu

văn học số 5.

34. Lê Đình Kỵ (1995), Trên đường văn học, Nxb. Văn học.

35. Lê Đình Kỵ (1998), Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam,

Nxb. Giáo dục.

36. Lê Đình Kỵ, Phê bình nghiên cứu văn học, Nxb. Giáo dục.

37. Lê Đình Kỵ (2000), “Cái duyên và nghiệp” (Nguyễn Hà thực hiện), Tạp

chí Văn học số 3.

38. Nguyễn Bách Khoa (1953), Văn chương Truyện Kiều, in lần thứ ba, Thế

giới xuất bản, H.

39. Nguyễn Xuân Lam, (2009), “Nghiên cứu Truyện Kiều những năm đầu

thế kỉ XXI”, NXB.GD.

40. Phạm Quang Long (2005), “Về sự hình thành của chủ nghĩa hiện thực

trong văn học Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 1

41. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu

thế kỉ XIX (tập 2), Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp .

42. Nguyễn Lộc (1974), Văn học nửa sau thế kỉ XIX, Nxb. Đại học và Trung

học chuyên nghiệp.

43. Nguyễn Lộc (1966), “Về ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều”/ Kỉ

niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du, Nxb. Khoa học xã hội.

44. Nguyễn Lộc (1992), “Đọc lại Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của

Nguyễn Du”/ Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, Hội

Nhà văn TP. Hồ Chí Minh.

45. Mác - Ăng ghen - Lê Nin (1977), Về văn học nghệ thuật, Nxb. Sự thật, H.

46. Vũ Đức Phúc (1962), “Mấy vấn đề chức năng và nhiệm vụ của văn

nghệ” Tạp chí Nghiên cứu văn học số 5.

96

47. Vũ Đức Phúc (1975), “Trào lưu hiện thực chủ nghĩa trong văn học Việt

Nam từ 1930 đến 1945”, Tạp chí Văn học số 5.

48. Huỳnh Như Phương (2006), “Lời giới thiệu”/ Lê Đình Kỵ tuyển tập,

Nxb. Giáo dục.

49. Đào Xuân Quý (2000), “Lại bàn về chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn

Du”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 9.

50. Phạm Quỳnh (1918), “Một lối văn mới: Sống chết mặc bay”, Nam

Phong tạp chí số 18, tháng 12.

51. Phạm Quỳnh (1919), “Lối tả chân trong văn chương”, Nam Phong tạp

chí số 19, tháng 3.

52. Phạm Quỳnh (1918), “Cuộc thi thơ văn của bản báo”, Nam Phong tạp

chí, số 8, tháng 1.

53. Phạm Quỳnh (1919), “Truyện Kiều”, Nam Phong tạp chí số 30, tháng 12.

54. Trần Đình Sử (1981), “Thời gian nghệ thuật trong Truyện Kiều và cảm

quan hiện thực của Nguyễn Du”, Tạp chí Văn học số 5, tháng 9&10.

55. Trần Đình Sử (2002), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb. Giáo dục, H.

56. Thiếu Sơn (2000), “Phê bình và cảo luận”/ Nghệ thuật và nhân sinh

tuyển tập, Nxb. Văn hóa thông tin.

57. Hoài Thanh, (1948), “Quyền sống của con người trong Truyện Kiều của

Nguyễn Du”/ Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm (2003), Nxb. Giáo dục

58. Hoài Thanh toàn tập (1999), tập 2, Nxb. Văn học.

59. Trần Nho Thìn (1983), “Tìm hiểu tính luận đề trong Truyện Kiều để xem

xét vấn đề có hay không chủ nghĩa hiện thực ở tác phẩm này”, Tạp chí

Văn học số 6.

60. Trần Nho Thìn (2002), “Nghiên cứu và giảng dạy văn học trung đại nhìn

từ góc độ văn hóa học” (Qua lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều), Tạp chí

Nghiên cứu văn học số 2.

61. Trần Nho Thìn (2007), “Hành trình Truyện Kiều từ thế kỉ XIX đến thế kỉ

XXI”/ Truyện Kiều (Khảo - chú bình), Nxb. Giáo dục.

97

62. Trần Nho Thìn, (2009),Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn

hóa, Nxb. Giáo dục .

63. Trần Nho Thìn, (2014), “Đối thoại liên văn hóa trong thời đại toàn cầu

hóa và việc tiếp nhận lý luận phương Tây vào Việt Nam”, Tạp chí

Nghiên cứu văn học số 70.

64. Trần Nho Thìn (2015), “Các vấn đề của Truyện Kiều qua lịch sử tiếp

nhận hai thế kỉ” , Tạp chí Nghiên cứu văn học số 8.

65. Đinh Gia Trinh (1941), “Tính cách văn chương Việt Nam trước thời kỳ

Âu hóa”, Tạp chí Thanh Nghị, số 2,3,4.

66. Đinh Gia Trinh (1942), “Đọc tiểu thuyết Việt Nam cận đại”, Tạp chí

Thanh Nghị số 26.

67. Hải Triều (1933), “Sự tiến hóa của văn học và sự tiến hóa của nhân

sinh”, báo Đông phương, số 872, 873, tháng 8.

68. Hải Triều (1933), “Ông Phan Khôi không phải là một học giả duy vật”,

Báo Đông phương, số 891, tháng 10.

69. Hải Triều (1933), “Cụ Sào Nam giải thích chữ văn học thế là sai lầm

lắm”, Báo Đông phương, số 893, tháng 11.

70. Hải Triều (1935), “Nghệ thuật với nhân sinh”, Báo Trung Kỳ, số 1/ tháng 10.

71. Hải Triều (1935),”Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân

sinh”,, Báo Đời mới, tháng 3- 4.

72. Hải Triều (1935), “Kép Tư bền, một tác phẩm thuộc về cái triều lưu nghệ

thuật vị dân sinh ở nước ta” , Tiểu thuyết thứ bảy, số 62, tháng 8.

73. Hải Triều (1935), “Nghệ thuật và sự sinh hoạt xã hội”, Tin văn số 6, 9.

74. Hải Triều (1936), “Maxime Gorki”, báo Hồn Trẻ, số 5, tháng 7.

75. Hải Triều (1937), “Văn chương và chủ nghĩa duy vật”, báo Sông Hương,

số 8, tháng 8.

76. Hải Triều (1939), “Lầm than - một tác phẩm đầu tiên của nền văn học tả

thực xã hội ở nước ta”, Tạp chí Tao đàn, tháng 3.