BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

--------o0o-------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆC

XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM

SANG THỊ TRƯỜNG LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU)

GIAI ĐOẠN 2020 – 2025

Chuyên ngành: Kinh doanh thương mại

TRẦN BÍCH THỦY

Hà Nội - 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

--------o0o-------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆC

XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM

SANG THỊ TRƯỜNG LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU)

GIAI ĐOẠN 2020 – 2025

Ngành: Kinh doanh thương mại

Ngành: Kinh doanh thương mại

Mã số: 8340121

Họ và tên học viên: Trần Bích Thủy

Người hướng dẫn: PGS.TS Bùi Thị Lý

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả của quá trình học tập và nghiên

cứu của riêng cá nhân tôi. Những quan điểm được trình bày trong luận văn là quan

điểm cá nhân. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, có

nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả luận văn

Trần Bích Thủy

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn đến PGS.TS Bùi Thị Lý, người đã hướng dẫn, chỉ

bảo tôi trong suốt thời gian nghiên cứu.

Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu Trường Đại học Ngoại

Thương, đến quý thầy cô trong Khoa Sau Đại học.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã tận

tình giúp đỡ, hỗ trợ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.

Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nôi, ngày tháng năm 2020

Tác giả luận văn

Trần Bích Thủy

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN

LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN,

KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG HÀNG NÔNG SẢN CỦA LIÊN MINH

CHÂU ÂU (EU) VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH CƠ BẢN LIÊN QUAN TỚI

NHẬP KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VÀO THỊ TRƯỜNG LIÊN MINH

CHÂU ÂU (EU) .................................................................................................. 7

1.1. Cơ sở lý luận về hàng nông sản, xuất khẩu hàng nông sản ......................7

1.1.1. Khái quát về hàng nông sản..................................................................7

1.1.2. Khái quát về xuất khẩu hàng nông sản .................................................9

1.2. Khái quát về thị trường hàng nông sản của Liên minh Châu Âu (EU) ..13

1.2.1. Quy mô thị trường ...............................................................................13

1.2.2. Đặc điểm thị trường ............................................................................14

1.2.3. Kênh phân phối ...................................................................................16

1.3. Những quy định cơ bản của thị trường Liên minh châu Âu (EU) về

thương mại hàng nông sản .................................................................................18

1.3.1. Những yêu cầu cơ bản của thị trường Liên minh Châu Âu đối với

hàng nông sản nhập khẩu ..............................................................................18

1.3.2. Những quy định chung của Hiệp định nông nghiệp của Tổ chức

Thương mại quốc tế WTO áp dụng đối với hàng nông sản nhập khẩu vào thị

trường Châu Âu ..............................................................................................21

1.3.3. Những quy định chung của EVFTA áp dụng đối với hàng nông sản

nhập khẩu vào thị trường Châu Âu ................................................................26

1.4. Kinh nghiệm của một số nước xuất khẩu hàng nông sản vào thị trường Liên

minh châu Âu (EU) ............................................................................................. 40

1.4.1.Kinh nghiệm của Thái Lan ....................................................................40

1.4.2.Kinh nghiệm của Trung Quốc ...............................................................41

1.4.3.Kinh nghiệm của Brasil .........................................................................42

CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH MỘT SỐ CƠ HỘI, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI

VIỆC XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI

ĐOẠN 2020 – 2025 ........................................................................................... 43

2.1. Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam vào thị

trường Liên minh Châu Âu (EU) .......................................................................43

2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam vào thị trường Liên

minh châu Âu (EU) trong giai đoạn 2010 – 2019 .........................................43

2.1.2. Cơ cấu xuất khẩu hàng nông sản theo mặt hàng .................................45

2.1.3. Cơ cấu xuất khẩu hàng nông sản theo quốc gia .................................52

2.2. Cơ hội đối với việc xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam vào thị

trường Liên minh châu Âu (EU) giai đoạn 2020 – 2025 ...................................59

2.2.1. Cơ hội tiếp cận thị trường tiềm năng, rộng lớn ..................................59

2.2.2. Cơ hội giảm thiểu các hàng rào kỹ thuật thương mại bất hợp lý sau

khi các hiệp định thương mại được ký kết .....................................................60

2.2.3. Cơ hội cho hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam nâng cao chất

lượng sản phẩm và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu khi các hiệp định

thương mại được ký kết ..................................................................................63

2.3. Thách thức ..............................................................................................65

2.3.1. Thách thức đối diện với những đòi hỏi khắt khe về sở hữu trí tuệ, đảm

bảo quy tắc xuất xứ, cam kết lao động và vấn đề bảo vệ môi trường ............65

2.3.2. Thách thức từ các rào cản kỹ thuật, bảo quản sau thu hoạch và

vấn đề vệ sinh thực phẩm đối với hàng nông sản nhập khẩu từ phía EU rất

chặt chẽ 67

2.3.3. Thách thức về các thủ tục, chính sách nâng cao khả năng xuất khẩu

hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường EU còn nhiều bất cập ...........69

2.3.4. Thách thức từ sự kiện Brexit và thị trường tiêu thụ bị giảm dần ........70

2.3.5. Thách thức từ các đối thủ cạnh tranh .................................................71

2.3.6. Thách thức từ dịch bệnh Covid-19 ......................................................72

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TẬN DỤNG CƠ HỘI, VƯỢT

QUA THÁCH THỨC ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VIỆT

NAM SANG THỊ TRƯỜNG LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU) GIAI ĐOẠN

2020 - 2025 ......................................................................................................... 75

3.1. Chiến lược, mục tiêu phát triển xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam đến

năm 2025 ............................................................................................................75

3.1.1. Định hướng chiến lược phát triển xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam

đến năm 2025 .................................................................................................75

3.1.2. Mục tiêu phát triển xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam đến năm 2025 ... 76

3.2. Quan điểm về đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường

Liên minh châu Âu (EU) đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 ....................77

3.3. Các giải pháp cho ngành nông nghiệp nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua

thách thức, đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường Liên minh

châu Âu (EU) .....................................................................................................78

3.3.1. Nhóm giải pháp về hoàn thiện và đổi mới cơ chế, chính sách để phù

hợp với EVFTA ...............................................................................................79

3.3.2. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả trong sản xuất sản

phẩm nông sản ...............................................................................................85

3.3.3. Nhóm giải pháp tăng cường tổ chức hoạt động xuất khẩu nông sản

của Việt Nam sang thị trường EU ..................................................................89

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 95

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

BẢNG

Bảng 1.1: Quy tắc cụ thể mặt hàng đối với một số sản phẩm nông nghiệp .............. 32

Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường EU so với

Thế giới giai đoạn giai đoạn năm 2010 – 2019 ......................................................... 44

Bảng 2.2: Tỷ trọng xuất khẩu cà phê sang EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê

của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2019 ........................................................................ 46

Bảng 2.3: Tỷ trọng xuất khẩu hạt điều sang EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu hạt

điều của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2019 ................................................................ 48

Bảng 2.4: Bảng tỷ trọng xuất khẩu chè sang EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu chè

của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2019 ........................................................................ 50

Bảng 2.5: Tỷ trọng xuất khẩu rau quả sang EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu hạt

điều của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2019 ................................................................ 52

Bảng 2.6: Thị phần cà phê Việt Nam và một số đối thủ cạnh tranh chính tại thị trường

EU giai đoạn 2010 – 2019 ......................................................................................... 53

Bảng 2.7: Thị phần hạt điều Việt Nam và một số đối thủ cạnh tranh chính tại thị

trường EU giai đoạn 2010 – 2019 ............................................................................. 54

Bảng 2.8: Thị phần chè Việt Nam và một số đối thủ cạnh tranh chính tại thị trường

EU giai đoạn 2010 – 2019 ......................................................................................... 56

BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng hàng nông sản của Việt Nam

giai đoạn năm 2010 – 2019 ....................................................................................... 43

Biểu đồ 2.2: Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng của cà phê Việt Nam sang

thị trường sang thị trường EU giai đoạn 2010 – 2019 .............................................. 45

Biểu đồ 2.3: Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng của sản phẩm hạt điều Việt

Nam sang thị trường EU giai đoạn 2010 - 2019 ...................................................... 47

Biểu đồ 2.4: Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng mặt hàng chè của Việt Nam

sang thị trường EU giai đoạn 2010 - 2019 ............................................................... 49

Biểu đồ 2.5: Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng của sản phẩm hạt điều Việt

Nam sang thị trường EU giai đoạn 2010 - 2019 ...................................................... 51

Biểu đồ 2.6: Kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam theo một số các thị trường thuộc

EU giai đoạn 2010 – 2019 ......................................................................................... 53

Biểu đồ 2.7: Kim ngạch xuất khẩu hạt điều Việt Nam theo một số các thị trường thuộc

EU giai đoạn 2010 – 2019 ......................................................................................... 55

Biểu đồ 2.8: Kim ngạch xuất khẩu chè Việt Nam theo các thị trường thuộc EU giai

đoạn 2010 – 2019 ...................................................................................................... 57

Biểu đồ 2.9: Kim ngạch xuất khẩu hàng rau quả Việt Nam theo một số các thị trường

thuộc EU giai đoạn 2010 – 2019 ............................................................................... 58

DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Diễn giải Ý nghĩa

Association of South Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN East Asian Nations

Vietnam – Eu Free Trade Hiệp định Thương mại tự do Việt EVFTA Agreement Nam - Liên minh Châu Âu

European Union Liên minh Châu Âu EU

Đồng tiền chung Châu Âu EURO

Food And Agriculture Tổ chức lương thực và Nông nghiệp FAO Organization of the Liên hợp quốc United Nations

Foreign Direct Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Investment

FTA Free Trade Agreement Hiệp định thương mại tự do

General Agreement on Hiệp định chung về thương mại dịch GATS Trade in Services vụ

GI Geographical Indication Chỉ dẫn địa lý

MFN Most Favoured Nation Nguyên tắc tối huệ quốc

Multilateral Trade Policy Dự án hỗ trợ chính sách thương mại MUTRAP Assistance Project đa biên

Research and Nghiên cứu và phát triển R&D Development

Sở hữu trí tuệ SHTT

Sanitary and Biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm SPS Phytosanitary Measure và kiểm dịch động, thực vật

Technical Barriers to Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại TBT Trade

Chữ viết tắt Diễn giải Ý nghĩa

Trade-Related Hiệp định về khía cạnh thương mại TRIPS Intellectual Property của quyền sở hữu trí tuệ Rights Agreement

UN United Nations Liên hợp quốc

USD US DOLLARS Đồng đô la Mỹ

World Trade WTO Tổ chức thương mại thế giới Organization

ATVSTP An toàn vệ sinh thực phẩm

BVTV Bảo vệ thực vật

Tổ chức Hỗ trợ nhập khẩu từ các CBI nước đang phát triển

DN Doanh nghiệp

Good Agricultural Quy trình thực hành sản xuất nông GAP Practices nghiệp tốt

Hazard Analysis and Nguyên tắc Phân tích mối nguy và HACCP Critical Control Points điểm kiểm soát tới hạn

Mức dư lượng thuốc trừ sâu tối đa MRLs Maximum Residue Limit cho phép

NK Nhập khẩu

TCTK Tổng cục thống kê

TMQT Thương mại quốc tế

XK Xuất khẩu

XKNS Xuất khẩu nông sản

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN

Tự nhiên ban tặng cho Việt Nam các điều kiện rất thuận lợi để phát triển nông

nghiệp. Và nông nghiệp từ lâu đã là nền tảng của nền kinh tế nước ta. Do đó, đứng

trước cơ hội cần phải biết tận dụng, đứng trước khó khăn cần phải có những nhận

định và giải pháp để đưa hàng nông sản Việt Nam ngày càng phát triển mạnh hơn

nữa, đưa thương hiệu nông sản Việt Nam đến với người tiêu dùng ở các quốc gia có

nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới, đặc biệt là thị trường tiềm năng như Liên

minh châu Âu (EU). Bên cạnh đó, việc ký kết và thực thi Hiệp định thương mại tự do

EVFTA là một bước đi không thể thiếu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế giữa

Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU). Qua quá trình nghiên cứu, luận văn đã đạt

được những kết quả sau:

Thứ nhất, tác giả đã hệ thống hóa các nội dung, yêu cầu đối với hoạt động xuất

khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường EU một cách tổng quát và liệt kê chi tiết các

cam kết liên quan trực tiếp đến xuất khẩu hàng nông sản trong Hiệp định Nông nghiệp

của WTO, trong các quy định của Liên minh châu Âu về nhập khẩu hàng nông sản

và trong Hiệp định thương mại tự do EVFTA. Đồng thời, tác giả cũng tổng hợp ngắn

gọn về thị trường và đặc điểm thị trường Liên minh Châu Âu.

Thứ hai, tác giả đã nêu lên thực trạng xuất khẩu của hàng nông sản Việt Nam

giai đoạn 2010 – 2019 qua một số mặt hàng nông sản chính, và mối quan hệ hợp tác

kinh tế giữa Việt Nam và EU hiện nay. Từ việc tổng hợp và các phân tích, suy luận,

tác giả đã chỉ ra các cơ hội của Việt Nam giai đoạn 2020 -2025 khi xuất khẩu hàng

nông sản sang thị trường Liên minh châu Âu trong thời gian. Bên cạnh đó, tác giả đã

chỉ ra hàng nông sản Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức khi xuất khẩu

sang thị trường khó tính như EU giai đoạn 2020 – 2025.

Thứ ba, từ bối cảnh thực trạng cũng như các cơ hội và thách thức gặp phải được

đề cập trong Chương 2, tác giả đã đề xuất các giải pháp đối với Chính phủ Việt Nam,

doanh nghiệp nông sản và Hiệp hội. Theo đó, bên cạnh nỗ lực cải tổ, hạn chế các vấn

đề nội tại của doanh nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh của các doanh

nghiệp thì Hiệp hội ngành hàng cần làm tốt vai trò hỗ trợ và đại diện cho doanh nghiệp

khi trong bối cảnh hội nhập, các can thiệp về trợ cấp của Chính phủ đã bị hạn chế.

Về phía mình, các bộ ngành liên quan và Chính phủ Việt Nam cũng cần có những

động thái kiến tạo một hệ thống pháp luật hoàn thiện, hỗ trợ cho hội nhập, cùng với

đó là thực thi các chính sách hỗ trợ xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường

EU một cách toàn diện và hiệu quả.

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trên thế giới hiện nay, việc hội nhập kinh tế quốc tế khu vực là điều tất yếu và

được coi như yêu cầu tiên quyết cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Trong

quá trình hội nhập kinh tế sôi động đó thì hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu là

lĩnh vực giao thương giữ vai trò vô cùng quan trọng, tạo ra tiền đề cơ sở vật chất thúc

đẩy nhanh chóng và quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước. Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, các nước có thể khai thác

được những lợi thế của mình trong việc nâng cao năng suất và hiệu quả lao động, tạo

ra nguồn thu ngoại tệ lớn, góp phần nâng cao GDP nước nhà.

Đối với Việt Nam, một nền kinh tế non trẻ đang trên đà phát triển thì hoạt động

xuất nhập khẩu lại càng có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước. Dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, theo phương châm

chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế nước ta phát triển

giai đoạn tới 2025 cơ bản trở thành nước công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu hướng về

xuất khẩu. Chính phủ ta đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của lĩnh vực xuất

nhập khẩu và coi xuất nhập khẩu là bước đi mới, quan trọng để thực hiện thắng lợi

các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân.

Xuất phát là một nước nông nghiệp với dân số chủ yếu tham gia vào sản xuất

nông lâm, Việt Nam đã xác định nông sản là mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhằm

tạo ra nguồn thu cần thiết cho việc phát triển kinh tế của đất nước. Vì vậy, Nhà nước

ta đã tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi và khuyến khích sự tham gia của các doanh

nghiệp trong và ngoài nước tham gia vào lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản. Nhờ sự

giúp đỡ cuẩ chính phủ, các doanh nghiệp đã chú trọng mở rộng thị trường xuất khẩu

nông sản - thế mạnh của Việt Nam và gặt hái được thành công đáng kể tại các thị

trường lớn như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu,…

Trong đó, Liên minh châu Âu (EU) là một trong những thị trường lớn nhất thế

giới, một thị trường đầy tiềm năng được các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đã và

đang vươn tới. Với tư cách là thành viên của WTO và Hiệp định Thương mại tự do

2

giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) được thông qua, do đó Việt Nam sẽ

có cơ hội lớn trong việc thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu vào thị trường này.

Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế toàn cầu đang có nhiều biến động, chính

sách nhập khẩu của Liên minh châu Âu đã được điều chỉnh, các rào cản thương mại

tăng cường được áp dụng đã gây khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam

khi tham gia xuất khẩu vào thị trường Liên minh châu Âu. Bên cạnh đó, tuy tổng kim

ngạch xuất khẩu gia tăng nhưng cũng có nhiều mặt hàng sự tăng trưởng lại không

đều, có năm tăng có năm giảm, do biến động kinh tế thế giới cũng như sự cạnh tranh

về giá từ các nước xuất khẩu khác.

Trước tình hình những khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc

định hướng phát triển xuất khẩu sang thị trường Liên minh châu Âu tác giả quyết

định chọn đề tài: “Cơ hội và thách thức đối với việc xuất khẩu hàng nông sản của

Việt Nam sang thị trường Liên minh châu Âu (EU) giai đoạn 2020 – 2025” làm đề

tài luận văn thạc sỹ ngành Kinh doanh Thương mại của mình.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài các cơ hội và thách thức đối với việc xuất khẩu

hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Liên minh châu Âu (EU).

2.2. Phạm vi nghiên cứu

Về mặt nội dung: mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam có rất nhiều nhưng

trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một số

mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường Liên minh châu

Âu là cà phê, chè, rau quả, hạt tiêu, hạt điều.

Về mặt không gian: hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Liên

minh Châu Âu (EU).

Về mặt thời gian: luận văn tập trung chỉ ra những cơ hội và thách thức đối với

việc xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Liên minh Châu Âu (EU)

giai đoạn 2020 – 2025.

3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là chỉ ra các cơ hội và thách thức đối với nền

xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Liên minh châu Âu (EU) giai

đoạn 2020 - 2025, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách

thức đối với xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Liên minh châu Âu

(EU) giai đoạn 2020 – 2025. Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ thực hiện các

nhiệm vụ sau:

- Tìm hiểu cơ sở lý luận chung về hàng nông sản, xuất khẩu hàng nông sản và

các quy định của Liên minh châu Âu về nhập khẩu hàng nông sản và trong Hiệp định

thương mại tự do EVFTA; đồng thời khái quát thị trường Liên minh châu Âu, đặc

điểm tiêu dùng để từ đó khai thác các cơ hội từ thị trường này;

- Cơ hội và thách thức khi xuất khẩu sang thị trường Liên minh châu Âu mà

- Một số giải pháp nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức đối với xuất khẩu

hàng nông sản Việt Nam phải đối mặt trong giai đoạn 2020 - 2025;

hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Liên minh châu Âu giai đoạn 2020 - 2025.

4. Tình hình nghiên cứu

Các nghiên cứu về Hiệp định EVFTA đã xuất hiện ngay từ khi Việt Nam và EU

khởi động các vòng đàm phán đầu tiên. Cho đến nay có thể liệt kê một số các nghiên

cứu như sau:

Công trình nghiên cứu: “Quan hệ kinh tế Việt Nam - Liên minh Châu Âu: thực

trạng và triển vọng” của Nguyễn Quang Thuấn (2009).

Phân tích “Tác động của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU đến xuất

nhập khẩu của các ngành công nghiệp Việt Nam” của Phạm Ngọc Phong, Đặng Thùy

Linh và Nguyễn Thị Ánh Ngọc trên Tạp chí Phát triển và Hội nhập (12/2016).

“Kiến nghị chính sách của Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam về Triển vọng

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu” của Ủy ban tư vấn chính

sách Thương mại quốc tế - VCCI (2013). Bài viết “Đánh giá tác động theo ngành của

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU: Sử dụng các chỉ số thương mại” của Vũ

4

Thanh Hương, Nguyễn Thị Minh Phương trên Tạp chí ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh

doanh, Tập 32, số 3 (2016).

Báo cáo “Vietnam - EU free trade agreement: Impact and policy implications

for Việt Nam” (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu: Tác

động và những kiến nghị về chính sách cho Việt Nam) của tác giả Nguyễn Bình

Dương, Đại học Ngoại thương Hà Nội.

Các nghiên cứu ở trên đề cập mối quan hệ hợp tác kinh tế của Việt Nam và EU,

bên cạnh đó đề cập đến triển vọng phát triển mối quan hệ này ở góc nhìn vĩ mô của

toàn bộ nền kinh tế. Ở một số nghiên cứu đã có đề cập đến xuất nhập khẩu nói chung

của Việt Nam - EU và tập trung vào một số ngành công nghiệp chủ đạo. Bên cạnh đó,

nghiên cứu cũng chỉ ra các cơ hội khi Việt Nam tham gia hiệp định thương mại tự do

EVFTA, đề cập đến các điểm cần phải cân nhắc của Việt Nam nhằm đưa ra những biện

pháp khắc phục cũng như đề cập đến cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, về các kỳ

vọng và quan ngại, các tác động đến thương mại, các cơ hội thách thức đặt ra và từ đó

đưa ra các giải pháp kiến nghị về mặt chính sách. Như vậy các nghiên cứu trên đã đưa

ra những cái nhìn tổng thể nhất về tình hình xuất nhập khẩu hàng nông sản Việt Nam

sang EU. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy chưa có đề tài nào tập trung nghiên cứu về cơ

hội và thách thức trong hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam vào thị

trường Liên minh châu Âu giai đoạn 2020 - 2025.

Bên cạnh đó là báo cáo “The free trade agreement between Vietnam and the

European Union: Quantitative and qualitative impact analysis” (Hiệp định thương

mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu: Phân tích tác động về định lượng

và định tính) của Mutrap (2011).

Báo cáo “Sustainable impact assessment EU - Vietnam FTA”(Đánh giá tác động

dài hạn của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu) của Mutrap

(2014).

Các nghiên cứu nước ngoài chủ yếu là các báo cáo của Mutrap phân tích về

Hiệp định thương mại tự do EVFTA. Trong đó, giới thiệu mối quan hệ Thương mại

và Đầu tư Việt Nam - EU, đánh giá tác động về định lượng dựa trên mô hình cân

bằng tổng thể và đánh giá chi tiết các ảnh hưởng đến từng ngành, đặc biệt phân tích

5

các tác động với một số ngành chủ lực của Việt Nam như dệt may, giày dép, ô tô,

ngân hàng và lĩnh vực đầu tư. Bên cạnh đó cũng đưa ra các kiến nghị cụ thể để Việt

Nam hướng tới phát triển bền vững.

Như có thể thấy ở trên, có khá nhiều các nghiên cứu đã được thực hiện trong thời

gian qua, tuy nhiên các nghiên cứu này phần lớn còn ở góc độ tổng quan, nghiên cứu

vĩ mô cả nền kinh tế. Một số nghiên cứu chỉ ra tác động trực tiếp của Hiệp định đến

các hoạt động thương mại và đầu tư nói chung ở trên tất cả lĩnh vực, ở các nghiên cứu

khác tập trung vào nghiên cứu các ngành hàng quan trọng như dệt may, da giày, ô tô,

điện tử, các ngành công nghiệp khác, chứ chưa có một nghiên cứu sâu sắc toàn diện

nào về cơ hội và thách thức khi xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường EU

giai đoạn 2020 - 2025. Do đó luận văn sẽ đi sâu vào phân tích và đưa ra những giải

pháp về hoạt động này.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện các nhiệm vụ trên, tác giả sẽ dựa trên cơ sở lý luận, sử dụng các

phương pháp phân tích, đánh giá lý thuyết và thực tiễn, suy luận, so sánh, tổng hợp,

nghiên cứu để phân tích các cơ hội và thách thức khi xuất khẩu hàng nông sản Việt

Nam sang thị trường Liên minh châu Âu (EU).

Cụ thể, với nhiệm vụ 1, để tổng hợp cơ sở lý luận, tác giả đã sử dụng phương

pháp thu thập, tổng hợp dữ liệu, thông tin. Với nhiệm vụ 2, tác giả tiếp tục sử dụng

phương pháp thu thập, tổng hợp dữ liệu, thống kê ngoài ra áp dụng phân tích, so sánh,

đánh giá, suy luận để tìm ra các vấn đề. Với nhiệm vụ 3, tác giả sử dụng phương pháp

nghiên cứu, suy luận, so sánh để đưa ra các giải pháp, kiến nghị phù hợp nhất.

6. Kết cấu của Luận văn

Ngoài Lời mở đầu, mục lục, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu

theo 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về xuất khẩu hàng nông sản khái quát về thị trường

hàng nông sản của liên minh châu Âu (EU) và những quy định cơ bản liên quan tới

nhập khẩu hàng nông sản vào thị trường liên minh châu Âu (EU).

6

Chương 2: Phân tích một số cơ hội, thách thức đối với việc xuất khẩu hàng nông

sản của việt nam trong giai đoạn 2020 – 2025.

Chương 3: Một số giải pháp nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức đối với

xuất khẩu hàng nông sản Việt nam sang thị trường liên minh châu Âu (EU) giai đoạn

2020 – 2025.

Do những hạn chế về thời gian, về tài liệu và khả năng của người viết, nội dung

của luận văn khó tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết. Tác giả rất mong nhận

được sự chỉ dẫn tận tình của các thầy cô cũng như những góp ý của đông đảo bạn

đọc. Xin chân thành cảm ơn!

7

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN, KHÁI

QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG HÀNG NÔNG SẢN CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU

(EU) VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH CƠ BẢN LIÊN QUAN TỚI NHẬP KHẨU

HÀNG NÔNG SẢN VÀO THỊ TRƯỜNG LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU)

1.1. Cơ sở lý luận về hàng nông sản, xuất khẩu hàng nông sản

1.1.1. Khái quát về hàng nông sản

Trong phần này, luận văn sẽ trình bày các khái niệm về hàng nông sản của một

số tổ chức quốc tế như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Tổ chức Lương thực,

Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), Liên minh châu Âu (EU), quan điểm của Việt

Nam và cách tiếp cận của tác giả. Vì “nông sản” tuy là một thuật ngữ được sử dụng

phổ biến trong hoạt động thương mại quốc tế nhưng lại được định nghĩa khác nhau

trong các tài liệu khoa học.

a. Quan điểm của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)

Theo WTO, sản phẩm nông sản là một trong hai loại hàng hoá bao gồm: hàng

hoá nông sản và hàng hoá phi nông sản. Theo Hiệp định Nông nghiệp, sản phẩm nông

sản là tất cả các sản phẩm được liệt kê từ Chương 1 đến Chương 24 (trừ cá và sản

phẩm cá) và một số sản phẩm thuộc các chương khác trong Hệ thống hài hoà mô tả

và mã hàng hoá (HS). Tất cả các sản phẩm còn lại trong Hệ thống HS được xem là

sản phẩm phi nông nghiệp.

Do đó, nông sản là một phạm vi khá rộng bao gồm các loại hàng hoá có nguồn

gốc từ hoạt động nông nghiệp nếu được theo định nghĩa trên. Cụ thể là:

- Các sản phẩm nông nghiệp cơ bản như lúa gạo, lúa mỳ, bột mỳ, sữa, động

vật sống, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, chè, rau quả tươi,…;

- Các sản phẩm phái sinh: bánh mỳ, bơ, dầu ăn, thịt,…;

- Các sản phẩm được chế biến từ sản phẩm nông nghiệp như bánh kẹo, sản

phẩm từ sữa, xúc xích, nước ngọt, rượu, bia, thuốc lá, da động vật thô,…

b. Quan điểm của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO)

FAO cho rằng sản phẩm nông sản là nhiều nhóm sản phẩm khác nhau gồm:

nhóm các sản phẩm nhiệt đới (chè, ca cao, cà phê, tiêu….), nhóm sản phẩm ngũ cốc

8

(mì, lúa gạo, kê, ngô, sắn,…), nhóm sản phẩm thịt và các sản phẩm từ thịt (thịt bò,

thịt lợn, thịt gia cầm,…), nhóm sản phẩm dầu mỡ và các sản phẩm từ dầu (các loại

hạt có dầu như đậu tương, hướng dương,… và các loại dầu thực vật), nhóm sản phẩm

sữa và các sản phẩm từ sữa (bơ, pho mát và các sản phẩm làm từ sữa), nhóm sản

phẩm nông sản nguyên liệu (bông, đay, sợi, cao su thiên nhiên,…), nhóm sản phẩm

rau quả (các loại rau, củ, quả).

c. Quan điểm của Liên minh châu Âu (EU)

Tổ chức này đã đưa ra một danh sách các sản phẩm chi tiết được coi là sản phẩm

nông sản. Có thể chia các mặt hàng này thành 2 nhóm chính sau:

Nhóm 1: Động vật và các sản phẩm có nguồn gốc từ động vật, gồm:

(1) động vật sống; (2) thịt và phụ phẩm dạng thịt ăn được sau khi giết mổ; (3)

các chế phẩm từ thịt; (4) sản phẩm từ sữa; (5) các sản phẩm có nguồn gốc từ động

vật; (6) mỡ, dầu động vật.

Nhóm 2: Thực vật và các sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật, gồm:

(1) cây sống và các loại cây trồng khác; (2) rau, thân, củ và quả có thể ăn được;

(3) hạt và quả có dầu, cây công nghiệp nguyên liệu, cây dược liệu; (4) các chế phẩm

từ rau, hoa quả, quả hạch và thực vật; (5) cà phê, chè, phụ gia và các loại gia vị; (6)

ca cao và các chế phẩm từ ca cao; (7) ngũ cốc; (8) các sản phẩm xay xát; (9) các chế

phẩm từ ngũ cốc, bột, tinh bột; (10) cánh kiến đỏ, gôm, nhựa cây và các chất nhựa

đường và các loại kẹo đường; (11) đồ uống, rượu mạnh và giấm; (12) thuốc lá và các

sản phẩm tương tự; (12) mỡ, dầu thực vật.

d. Quan điểm của Việt Nam

Ở Việt Nam, nông sản được hiểu đơn giản là sản phẩm của ngành nông nghiệp.

Trong đó, ngành nông nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm trồng trọt, chăn

nuôi, thuỷ sản, lâm nghiệp. Theo quy định tại Khoản 7 Điều 3 Nghị định 57/2018/NĐ-

CP về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông

thôn thì khái niệm nông sản được quy định cụ thể như sau: “Nông sản là sản phẩm

của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, diêm nghiệp.”

9

Có thể thấy rằng, từ những phân tích các quan điểm trên, mỗi một tổ chức sẽ có

cách hiểu khác nhau về nông sản. Quan điểm của Việt Nam hẹp hơn các quan điểm

của WTO, FAO và EU. Điểm chung từ những quan điểm trên: “Nông sản là những

sản phẩm của quá trình sản xuất nông nghiệp, bao gồm thành phẩm hoặc bán thành

phẩm thu được từ cây trồng, vật nuôi họawaaaac sự phát triển của cây trồng, vật nuôi

(không bao gồm sản phẩm của ngành lâm nghiệp và thuỷ sản)”.

Theo đó, nông sản sẽ có một số đặc điểm của hoạt động sản xuất nông nghiệp

như sau:

Một là, sản phẩm nông nghiệp mang tính thời vụ. Vì dựa vào quá trình sản xuất,

thu hoạch và tiêu thụ tuỳ theo mùa vụ nên sản phẩm nông sản được sản xuất ra theo

chu kỳ, mùa nào thức ấy.

Hai là, sản phẩm nông sản chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên. Mọi sự

thay đổi về điều kiện tự nhiên đều tác động trực tiếp đến sự sinh trưởng và phát triển

của cây trồng do đa phần nông sản đều rất nhạy cảm dưới các tác động ngoại cảnh.

Ba là, một số sản phẩm nông sản khó bảo quản trong thời gian dài vì có đặc tính

tươi sống nếu không được chế biến hoặc sử dụng một cách kịp thời.

Bốn là, sản phẩm nông nghiệp có sự phong phú và đa dạng chủng loại. Bởi nông

sản được sản xuất từ các nơi có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, phương thức sản

xuất,… khác nhau, ở các địa phương khác nhau.

Năm là, đối với mỗi quốc gia thì các sản phẩm nông nghiệp là những hàng hoá

thiết yếu và tác động trực tiếp đến sức khoẻ người tiêu dùng. Tiêu chí đầu tiên được

người tiêu dùng quan tâm là chất lượng hàng nông sản. Do đó, tại các quốc gia phát

triển ngày càng có những yêu cầu khắt khe về chất lượng, xuất xứ, vệ sinh ATTP,

kiểm dịch,...

1.1.2. Khái quát về xuất khẩu hàng nông sản

1.1.2.1. Khái niệm về xuất khẩu hàng nông sản

Dựa trên quan điểm và lợi ích để đánh giá hoạt động buôn bán chủ yếu của mỗi

quốc gia với phần còn lại của thế giới, chúng ta sử dụng thuật ngữ “thương mại quốc

tế”. Đây được hiểu là những hoạt động ngoại thương của quốc gia, trong đó việc xuất

khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho một quốc gia khác, trên cơ sở sử dụng tiền

10

tệ làm phương thức thanh toán. Ngoài ra, khái niệm xuất khẩu theo Luật thương mại

2005 được nêu cụ thể tại Điều 28, khoản 1 như sau: "Xuất khẩu hàng hóa là việc

hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm

trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp

luật."

Từ khái niệm trên, xuất khẩu hàng nông sản có thể được hiểu là việc một quốc

gia bán hàng nông sản cho các quốc gia khác để thu lợi nhuận, trên cơ sở dùng tiền

làm phương tiện thanh toán.

1.1.2.2. Các hình thức xuất khẩu hàng nông sản

Hàng nông sản được xuất khẩu dưới nhiều hình thức khác nhau trong thực tế như:

- Xuất khẩu trực tiếp cho thương nhân nước ngoài: là hoạt động bán hàng

nông sản trực tiếp của các nhà máy, công ty, xí nghiệp cho khách hàng ở các thị

trường nước ngoài mà đã được Nhà nước và Bộ Công thương cấp phép.

- Giao dịch tại sở giao dịch hàng nông sản: là thị trường mà ở đó khách hàng

mua bán các loại hàng nông sản có khối lượng lớn, tính chất đồng loại, phẩm chất có

thể thay thế được với nhau phải thông qua những người môi giới do Sở giao dịch chỉ

định.

- Gia công, chế biến cho thương nhân nước ngoài: là hình thức xuất khẩu khá

phổ biến, trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc

bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm,

giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công).

- Xuất khẩu uỷ thác: là hình thức xuất khẩu hàng nông sản gián tiếp, là hình

thức bán hàng nông sản của công ty ra nước ngoài thông qua trung gian (thông qua

người thứ ba).

- Xuất khẩu hàng nông sản đổi hàng: là phương thức giao dịch hàng hoá trong

đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua,

lượng hàng nông sản giao đi có giá trị tương xứng lượng hàng nhân về.

- Tạm nhập tái xuất hàng nông sản: là xuất khẩu trở ra nước ngoài những

hàng nông sản trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất.

11

- Xuất khẩu hàng nông sản tại chỗ: là hành vi bán hàng cho người nước ngoài

trên lãnh địa nước mình (không vượt qua biên giới quốc gia).

Do luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các hoạt động xuất khẩu hàng nông sản

qua biên giới nên luận văn sẽ không xem xét đến hình thức xuất khẩu tại chỗ.

1.1.2.3. Vai trò của xuất khẩu hàng nông sản

a. Góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước (GDP)

Xuất khẩu đóng vai trò quan trọng hàng đầu cho sự tăng trưởng và phát triển

của nền kinh tế vì xuất khẩu luôn chiếm phần lớn trong tổng sản phẩm quốc nội

(GDP), thu hút được nhiều ngoại tệ về cho đất nước. Với Việt Nam, hàng nông sản

là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, có vai trò quan trọng đối với sự tăng

trưởng kinh tế. Xuất khẩu hàng nông sản càng lớn thì sẽ càng nâng cao tốc độ tăng

trưởng của nền kinh tế, đồng nghĩa với việc GDP sẽ tăng cao, thể hiện được năng lực

cạnh tranh của đất nước về xuất khẩu.

b. Đối với tăng trưởng nông nghiệp

Trong thời gian gần đây, Việt Nam, với những mặt hàng được mệnh danh là

“đại gia” như cà phê, gạo, hạt điều,…, đã nổi lên là một nước xuất khẩu nông sản

mạnh so với khu vực và thế giới. Vì vậy, tác động của xuất khẩu nông sản đối với

tăng trưởng nông nghiệp là rất quan trọng.

Thứ nhất, xuất khẩu nông sản tăng đồng nghĩa với việc khối lượng nông sản

được sản xuất ra ngày càng lớn, điều này sẽ góp phần tạo điều kiện mở rộng quy mô

sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, khi xuất khẩu nông sản tăng còn tạo nguồn thu lớn

cho người sản xuất, từ đó họ có thể tăng vốn để tái sản xuất mở rộng, tăng năng suất

lao động, tăng chất lượng sản phẩm, nâng cao giá trị hàng xuất khẩu.

Thứ hai, xuất khẩu hàng nông sản góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

nghiệp. Xuất khẩu nông sản tăng hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hóa, tạo

thuận lợi cho việc chăm sóc, áp dụng tiến bộ kỹ thuật và xóa bỏ dần cách thức sản

xuất manh mún, nhỏ lẻ trước đây. Xuất khẩu nông sản tăng làm đa dạng hóa sản phẩm

xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, từ đó góp phần thay đổi cơ cấu mặt

hàng xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng

12

hóa có giá trị cao, đảm bảo vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, đáp ứng ngày càng tốt

hơn nhu cầu của thị trường thế giới.

Thứ ba, xuất khẩu hàng nông sản góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa

- hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp

là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa

quy mô lớn gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, đưa thiết bị và các công

nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp, thực hiện cơ khí hóa, điện khí

hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ sinh học và công

nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp

trên thị trường.

Thứ tư, xuất khẩu hàng nông sản góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn

lực trong nông nghiệp. Nguồn lực trong nông nghịêp bao gồm: khí hâụ, đất đai, nguồn

nước, cơ sở hạ tầng, người lao động, kinh nghiệm sản xuất,…Mỗi quốc gia, mỗi vùng

khác nhau sẽ có lợi thế về một loại nông sản khác nhau, do đó khi xuất khẩu nông

sản tăng lên, thị trường được mở rộng sẽ tạo điều kiện cho vùng đó sử dụng nguồn

lực đạt hiệu quả cao nhất. Đây cũng là lý do tại sao Việt Nam lại tạo những điều kiện

thuận lợi để đẩy mạnh xuất khẩu gạo của đồng bằng sông Cửu Long, cà phê của các

tỉnh miền Trung Tây Nguyên, vải thiều Lục Ngạn, nhãn lồng Hưng Yên, thanh long

Binh Thuận, bưởi Diễn,…

Cuối cùng, xuất khẩu góp phần giải quyết tốt vấn đề công ăn, việc làm. Tăng

cầu lao động và tăng kim ngạch xuất khẩu cũng là một trong những biện pháp để mở

rộng quy mô ngành sản xuất nông sản, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.

Mặt khác, xuất khẩu nông sản tăng kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế

biến, những nhà máy công nghiệp phục vụ cho nông nghiệp. Khi người lao động có

việc làm, thu nhập ổn định sẽ tạo tâm lý yên tâm phấn khởi và người lao động (đặc

biệt là lao động nông nghịêp) sẽ làm việc ngay tại quê hương mình, giảm tải tình

trạng di cư của lao động ra các khu công nghiệp, thành thị hay thậm chí xuất khẩu

sang nước khác để kiếm việc làm.

Từ những vấn đề trên, có thể thấy rằng, về mặt lý thuyết xuất khẩu nông sản và

tăng trưởng nông nghiệp có mối quan hệ thuận chiều. Thực tế, trong những năm qua

13

ngành nông nghiệp Việt Nam đã có những bước chuyển mình, tạo ra sự thay đổi lớn

trong sản xuất, cơ cấu, chất lượng, giá cả sản phẩm và uy tín của nông sản trên thị

trường quốc tế.

c. Góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu

Hàng nông sản xuất khẩu là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của

ta, đặc biệt là sau khi nước ta gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản

cũng như kim ngạch xuất khẩu của cả nước tăng cao.

d. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế mà trong đó xuất khẩu là một

trong những hoạt động góp phần trực tiếp làm thay đổi cơ cấu kinh tế đất nước theo

hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy lợi thế so sánh trong từng ngành. Và

xuất khẩu hàng nông sản cũng góp phần không nhỏ trong việc chuyển dịch cơ cấu

kinh tế của đất nước. Cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự dịch chuyển theo hướng sắp

xếp lại và đổi mới khu vực kinh tế nhà nước, phát huy tiềm năng của khu vực kinh tế

ngoài quốc doanh. Kinh tế tập thể được tổ chức lại theo luật hợp tác xã mới, nhiều

hợp tác xã hoạt động có hiệu quả. Khu vực kinh tế tư nhân trong nước được hình

thành và ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động trong nhiều lĩnh vực hoạt động kinh

tế, xã hội. Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác, liên doanh sản

xuất giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong nước đang phát triển trong một

số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh.

e. Tạo điều kiện cho ngành công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm phát triển

Nông sản là sản phẩm của ngành nông nghiệp, việc xuất khẩu hàng nông sản sẽ

tạo điều kiện cho ngành công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm phát triển, khi

hàng nông sản xuất khẩu tăng mạnh sẽ kéo theo sự phát triển của nhiều ngành công

nghiệp chế biến có điều kiện để phát triển.

1.2. Khái quát về thị trường hàng nông sản của Liên minh Châu Âu (EU)

1.2.1. Quy mô thị trường

Liên minh châu Âu hay Liên hiệp châu Âu (tiếng Anh: European Union; viết

tắt là EU) là liên minh kinh tế – chính trị bao gồm 27 quốc gia thành viên thuộc châu

14

Âu. Liên minh châu Âu được thành lập bởi Hiệp ước Maastricht vào ngày 1 tháng 11

năm 1993 dựa trên Cộng đồng châu Âu (EC). Liên minh châu Âu đã phát triển thị

trường chung thông qua hệ thống luật pháp tiêu chuẩn áp dụng cho tất cả các nước

thành viên nhằm đảm bảo sự lưu thông tự do của con người, hàng hóa, dịch vụ và

vốn. EU duy trì các chính sách chung về thương mại, nông nghiệp, ngư nghiệp và

phát triển địa phương. 19 nước thành viên đã chấp nhận đồng tiền chung (đồng Euro),

tạo nên khu vực đồng Euro.

Là một thị trường lớn với hơn 500 triệu dân, Liên minh châu Âu chiếm khoảng

22% GDP danh nghĩa và khoảng 17% GDP sức mua tương đương của thế giới (PPP).

Do vậy, đây là một thị trường tiêu thụ tiềm năng, là khu vực thương mại lớn nhất thế

giới, là thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới về nhóm các mặt hàng nông sản cà phê,

ca cao, hồ tiêu… Vì vậy, EU là thị trường nhập khẩu hấp dẫn với nhiều quốc gia xuất

khẩu hàng nông sản, trong đó có Việt Nam.

Trong cơ cấu xuất nhập khẩu hàng nông sản vào thị trường EU, chủng loại sản

phẩm nông sản được chia theo ba cơ cấu sản phẩm chính là: (1) các sản phẩm rau quả

bao gồm (cây, thực vật, rau, trái cây, cà phê, ngũ cốc, hạt và dầu); (2) các nhóm sản

phẩm thực phẩm (các loại sản phẩm chế biến có nguồn gốc từ rau và các sản phẩm

động vật như đường, đồ uống, thuốc lá và thức ăn gia súc đã chuẩn bị) và (3) các sản

phẩm động vật (động vật sống, thịt, cá, động vật giáp xác, sản phẩm sữa, trứng, mật

ong,…) (Hoa Hữu Cường, 2019).

1.2.2. Đặc điểm thị trường

Liên minh châu Âu (EU) là khu vực có chất lượng đời sống cao nhất thế giới,

cùng với thu nhập ổn định, cao so với mức trung bình của thế giới nên người tiêu

dùng ở đây có yêu cầu rất khắt khe về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, ưu

tiên sử dụng các sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới.

Hiện nay, người tiêu dùng EU đang có xu hướng quốc tế hóa về khẩu vị và

lối sống. Theo đó, nhu cầu đối với các sản phẩm nông sản ngoại nhập cũng có xu

hướng gia tăng. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, người tiêu dùng châu

Âu đã trở nên “dễ tính hơn” và sẽ chuyển sang dùng các sản phẩm thiết yếu thay vì

15

các sản phẩm đắt tiền. Trong lĩnh vực nông sản, nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm

ngoại nhập đắt tiền sẽ giảm do đó người tiêu dùng sẽ tăng tiêu dùng các sản phẩm

cùng loại với giá thành rẻ hơn. Đây là dấu hiệu tốt đối với xuất khẩu hàng nông sản

của Việt Nam.

Khi nói đến thị hiếu và thói quen tiêu dùng các sản phẩm nông sản của người

dân EU không thể không nói đến xu hướng sử dụng lượng rau quả và các sản phẩm

có nguồn gốc thực vật nhiều hơn. Điều này càng chứng tỏ EU là thị trường tiềm năng

cho các mặt hàng nông sản thực vật như rau, trái cây, cà phê, ngũ cốc, các loạt hạt…

(gọi chung là các sản phẩm rau quả). Các sản phẩm chế biến sẵn, đóng hộp được

người dân EU sử dụng nhiều hơn hẳn (nếu so sánh với các nước Châu Á khác) do xu

hướng phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động ngày một tăng và số lượng người độc

thân ngày một nhiều. Đây cũng là một điểm rất đáng lưu ý khi lựa chọn các kênh

phân phối cho từng quốc gia cụ thể.

Yếu tố sức khỏe là ưu tiên hàng đầu trong việc lựa chọn thực phẩm của người

tiêu dùng ở Châu Âu, với xu hướng giảm lượng đường dư thừa và hàm lượng chất

béo trong sản phẩm (theo khảo sát của Tổ chức xúc tiến thương mại CBI). Người dân

châu Âu có mối quan tâm ngày càng cao về chất lượng, thành phần sản phẩm qua các

nhãn dãn in trên mỗi sản phẩm. “Free of All” là biểu tượng cho những sản phẩm

không đường, không chất bảo quản, không chất phụ gia,… Những biểu tượng này đã

xuất hiện hầu hết ở các mặt sản phẩm nông sản trên thị trường EU.

Hiện nay, trên thị trường EU, các sản phẩm rau quả được chia làm 2 loại xét về

mặt vệ sinh an toàn thực phẩm: rau quả sạch thông thường và rau quả hữu cơ. Trong

đó rau quả sạch thông thường được định nghĩa là loại rau quả có sử dụng hoá chất

nhưng theo một hàm lượng cho phép. Còn rau quả hữu cơ là loại rau quả không sử

dụng một loại hoá chất nào, tức là sạch tuyệt đối. Người dân EU nói chung ưa thích

sử dụng một sản phẩm an toàn tuyệt đối, song điều đó không có nghĩa là rau quả

thông thường không có khả năng tiêu thụ tại thị trường EU. Bởi nếu rau quả thông

thường đạt được các tiêu chuẩn của EU về vệ sinh an toàn thực phẩm thì sản phẩm

đó vẫn có thể tiêu thụ được trên thị trường. Số liệu thống kê của Viện Nghiên cứu

Nông nghiệp (Research Instutiute of Organic Agriculture – FiBL) đã chỉ ra xu hướng

16

sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm hữu cơ ngày càng tăng trưởng mạnh trên quy mô

toàn cầu. Năm 2014, có tới 172 quốc gia, gồm 43,7 triệu ha đất nông nghiệp với hơn

2,3 triệu nông dân tham gia trực tiếp vào quá trình này. Doanh số bán các sản phẩm

hữu cơ toàn cầu năm 2014 đã đạt 80 tỷ USD và EU là thị trường lớn thứ 2 về tiêu thụ

các sản phẩm hữu cơ. Trong đó phải kể đến bốn thị trường tiêu thụ lớn nhất khu vực

là Đức, Pháp, Anh, Italia; cụ thể năm 2014 doanh số tiêu thụ các sản phẩm hữu cơ tại

thị trường này đạt 23,9 nghìn tỷ Euro. Ngoài ra, các quốc gia thành viên còn có doanh

số bán lẻ sản phẩm hữu cơ cao và tăng trưởng qua các năm như Thụy Điển là 45%,

Pháp là 10%,…

Người tiêu dùng tại thị trường EU rất chú trọng đến các khía cạnh môi trường

và xã hội liên quan đến sản xuất hàng hóa. Thị phần hàng thực phẩm thân thiện với

môi trường trên cả hai phương diện (giảm lượng hóa chất trong thực phẩm và không

gây ô nhiễm môi trường) dự kiến sẽ tăng lên nhanh chóng. Bao bì có khả năng tái

sinh và những sản phẩm thân thiện với môi trường luôn dành được sự ưu ái của người

tiêu dùng.

Bên cạnh đó, người tiêu dùng EU khắt khe trong việc lựa chọn hàng hóa xuất

phát từ quan điểm đạo đức. Hàng hóa có được sản xuất với sự phân chia thu nhập

công bằng cho người lao động thực sự, trong những điều kiện lao động phù hợp,

không lạm dụng trẻ em,... cũng là mối quan tâm lớn của thị trường này.

Sau tình trạng suy giảm kinh tế ở Châu Âu vào năm 2008, GDP và lòng tin của

người tiêu dùng về sự phục hồi của nền kinh tế đang dần dần được cải thiện. Chỉ số

cảm tính kinh tế (ESI) cho thấy mức độ tự tin của người tiêu dùng hiện rất khả quan,

tăng hơn 5% trong năm 2014. Trong khi đó, GDP của khối đồng tiền chung Euro

cũng được dự đoán tăng 2% trong năm 2015. Nền kinh tế của Đức và Tây Ban Nha

cũng được dự báo tăng trưởng 1,6% và 1,4% trong năm 2015. Do đó triển vọng tiêu

thụ hàng nông sản của Việt Nam tại thị trường EU tăng trưởng khá tốt.

1.2.3. Kênh phân phối

Về cơ bản hệ thống phân phối hàng nông sản của EU khá tập trung, bao gồm hệ

thống bán buôn và bán lẻ. Tham gia vào hệ thống này bao gồm các công ty xuất nhập

khẩu, hệ thống các cửa hàng, siêu thị, công ty bán lẻ độc lập, các tổ hợp rau quả...

17

Trong đó, 50% tổng lượng nông sản nhập khẩu được phân phối tại siêu thị và đại siêu

thị. Về hình thức phân phối, các doanh nghiệp Việt Nam muốn xúc tiến xuất khẩu có

thể thâm nhập vào thị trường EU qua ba kênh chính sau:

a. Hình thức xuất khẩu hàng nông sản trực tiếp sang thị trường Liên minh

Châu Âu (EU)

Đây là hình thức bán hàng trực tiếp cho các nhà nhập khẩu của EU, không qua

trung gian. Với xuất khẩu trực tiếp các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tiết kiệm được chi

phí và từng bước xây dựng được mối quan hệ làm ăn với các nhà nhập khẩu EU, cũng

như khẳng định rõ chất lượng nông sản Việt Nam. Song thực tế rất khó thực hiện việc

xuất khẩu trực tiếp do các nhà nhập khẩu EU như các siêu thị lớn hay các công ty bán

lẻ độc lập thường có mối quan hệ làm ăn với các đối tác quen thuộc, lâu năm. Mặt

hàng nông sản tiêu thụ chính là rau quả tuy có nhu cầu lớn thường xuyên nhưng lại

là loại thực phẩm đòi hỏi chất lượng và vệ sinh an toàn cao, vì vậy với doanh nghiệp

Việt Nam mới bước chân vào thị trường EU và chưa thực sự có tên tuổi, uy tín thì rất

khó tạo niềm tin đối với các nhà nhập khẩu EU. Vì thế để tiếp cận được hệ thống

phân phối này không phải là việc dễ dàng đối với các nhà xuất khẩu của Việt Nam

hiện nay.

b. Hình thức xuất khẩu nông sản gián tiếp qua các công ty xuất khẩu của EU

Thực chất của hình thức phân phối này có thể hiểu là các quốc gia EU có những

công ty kinh doanh về rau quả, họ đặt các chi nhánh, cơ quan đại diện hoặc công ty

tại các nước và thu gom hàng hoá rồi xuất khẩu ngược trở lại EU. Tham gia vào kênh

phân phối này, các doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng được ưu thế về thông tin

thị trường, về các mối quan hệ của đối tác. Khi đó các doanh nghiệp Việt Nam chỉ

tập trung vào việc thu gom hàng hoá sao cho đúng và đủ về chất lượng, số lượng và

giao hàng đúng ngày quy định, còn việc tiêu thụ sản phẩm do các công ty xuất khẩu

EU thực hiện. Hình thức phân phối này rất phù hợp đối với các công ty xuất khẩu

Việt Nam có ít vốn và quy mô nhỏ.

18

c. Hình thức xuất khẩu tổ hợp rau quả

Thông qua các tổ hợp rau quả lâu đời, hoạt động chặt chẽ, rau quả được tổ hợp

nhập khẩu từ khắp nơi và được cung cấp đến các hệ thống bán lẻ, cửa hàng bán lẻ,

siêu thị và những người chủ quầy hàng bán lẻ rau quả ở các khu chợ.

1.3. Những quy định cơ bản của thị trường Liên minh châu Âu (EU) về

thương mại hàng nông sản

1.3.1. Những yêu cầu cơ bản của thị trường Liên minh Châu Âu đối với

hàng nông sản nhập khẩu

Là một thị trường phát triển và khó tính, Liên minh châu Âu (EU) có các quy

định chặt chẽ về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các hàng rào kỹ thuật dựng lên

với các tiêu chuẩn ngày càng khắt khe về an toàn thực phẩm đối với hàng hóa nhập

khẩu, trong đó có rau quả. Theo Luật thực phẩm châu Âu, một mặt hàng thực phẩm

được nhập khẩu vào EU được coi là an toàn thì phải tuân thủ các quy định sau: (i)

các quy định có liên quan đến Luật Thực phẩm của EU, (ii) các điều kiện tương đương

do EU đặt ra; (iii) nếu tồn tại một thỏa thuận riêng giữa EU và nước xuất khẩu, phải

tuân theo các quy định trong thỏa thuận đó... (Đỗ Bích Thuận, 2003). Vì vậy, hàng

nông sản Việt Nam phải đảm bảo 5 tiêu chuẩn: tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ

sinh thực phẩm, tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng, tiêu chuẩn về lao động và tiêu

chuẩn bảo vệ môi trường.

1.3.1.1. Tiêu chuẩn về chất lượng

Tại EU, các tiêu chuẩn thị trường đối với chất lượng của mặt hàng rau quả nằm

trong các quy định: Quy định (EC) 2200/96 về cơ cấu chung của thị trường rau quả;

Quy định (EC) 1182/2007, sửa đổi Hướng dẫn 2001/112/EC liên quan đến các loại

nước ép trái cây và một số sản phẩm tương tự dành cho tiêu dùng của con người; Bản

hướng dẫn 2001/113/EC liên quan đến các loại mứt trái cây dành cho tiêu dùng của

con người; Quy định (EEC) 827/68 về cơ cấu chung của thị trường một số sản phẩm

nhất định; Quy định (EC) 2201/96 về cơ cấu chung của thị trường các sản phẩm rau

quả chế biến. Yêu cầu chủ yếu của các tiêu chuẩn thị trường là việc phân loại chất

lượng và dán nhãn thông tin cho sản phẩm.

19

Ngoài ra, các doanh nghiệp từ những nước đang phát triển muốn xuất khẩu

hàng hoá sang thị trường EU cần phải có giấy chứng nhận ISO 9000. Đây là một bộ

seri các tiêu chuẩn quốc tế, hướng dẫn việc quản lý chất lượng, được áp dụng cho

mọi loại hình tổ chức - doanh nghiệp, mọi lĩnh vực kinh doanh, sản xuất, dịch vụ…

do Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế ban hành, được đúc kết dựa trên kinh nghiệm

của các nhà quản lý trên toàn thế giới. Hơn nữa, khi doanh nghiệp áp dụng hệ thống

quản lý ISO 9000 sẽ giúp nâng cao sự hài lòng khách hàng bằng việc liên tục cải

tiến chất lượng sản phẩm và giúp doanh nghiệp dễ theo dõi, đo lường hiệu quả, giảm

thiểu các chi phí phát sinh. Do vậy, giấy chứng nhận ISO 9000 được coi là tấm giấy

thông hành giúp cho hàng hoá của Việt Nam có nhiều cơ hội hơn khi xuất khẩu vào

thị trường EU.

1.3.1.2. Tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm

Tuân thủ và đảm bảo chặt chẽ các tiêu chuẩn vệ sinh là một trong những yêu

cầu quan trọng đối với các công ty chế biến thực phẩm muốn xuất khẩu sang EU.

Hiện nay, EU đang áp dụng hệ thống HACCP (Hazard Analysis and Critical Control

Points) - tiêu chuẩn trong việc thiết lập hệ thống quản lý an toàn thực phẩm. Hệ thống

này giúp xác định các biện pháp kiểm soát và mối nguy cụ thể để đảm bảo tính an

toàn thực phẩm, tập trung đến việc phòng ngừa nhiều hơn, thay vì kiểm tra thành

phẩm. HACCP giúp các doanh nghiệp có các căn cứ khoa học về các mối nguy cho

sức khoẻ của con người, thúc đẩy buôn bán quốc tế nhờ sự tin tưởng về an toàn thực

phẩm và các cấp có thẩm quyền trong việc thanh tra.

Trên thực tế, các công ty nhập khẩu thực phẩm ở EU khi mua nguyên liệu ở

nước ngoài thì họ phải chịu trách nhiệm về nguyên liệu đó theo các nguyên tắc của

HACPP. Do vậy, chỉ bằng cách ứng dụng hệ thống HACCP trong sản xuất, và dựa

trên các chứng chỉ, báo cáo kiểm tra để chứng minh với các nhà nhập khẩu EU về

việc doanh nghiệp đã đi đúng theo các nguyên tắc của hệ thống phòng ngừa nguy

cơ này, thì khi đó các công ty ở Việt Nam mới không bị mất đi một thị trường lớn,

tiềm năng.

20

1.3.1.3. Tiêu chuẩn về an toàn cho người sử dụng

Một sản phẩm an toàn được định nghĩa là sản phẩm không có bất cứ một rủi ro

trực tiếp hay gián tiếp nào cho an toàn và sức khoẻ người sử dụng, đặc biệt ở thiết kế,

cấu thành, hoạt động, chức năng, bao bì, các điều kiện lắp ráp, bảo trì hoặc các đặc

tính khác của sản phẩm. Do đó, tiêu chuẩn cơ bản đầu tiên để đánh giá mức độ an

toàn sản phẩm cho người sử dụng là ký mã hiệu. Một loạt các thông tin và cụ thể là

xuất xứ của sản phẩm, chủng loại, … cần được ghi rõ trên bao bì đóng gói khi đưa ra

thị trường bán lẻ. Các tiêu chuẩn này có xem xét đến các tiêu chuẩn về chất lượng

nông nghiệp được Ban chuyên nhiệm của Uỷ ban Kinh tế Châu Âu của Liên hợp quốc

(UNECE) khuyến nghị. Những tiêu chuẩn này không bắt buộc đối với các sản phẩm

được đưa vào đóng gói hay chế biến sẵn, cũng như không bắt buộc đối với các sản

phẩm sẽ được chế biến mà chỉ áp dụng đối với các sản phẩm được người trồng bán

trực tiếp và đối với những sản phẩm địa phương nhất định. Việc kiểm tra được thực

hiện nhằm giám sát sự tuân thủ các tiêu chuẩn tại tất cả các khâu tiêu thụ. Các sản

phẩm được nhập khẩu từ các nước ngoài EU phải tuân thủ những tiêu chuẩn này hoặc

các tiêu chuẩn tương đương tối thiểu. Vì vậy, chỉ những hàng hoá có ký mã hiệu rõ

ràng theo quy định của EU mới được phép lưu thông trên thị trường này (Trung tâm

WTO, 2020).

Ngoài ra, hướng dẫn 79/117/EEC cấm đưa vào thị trường và sử dụng các sản

phẩm bảo vệ thực vật có chứa các hoạt chất có khả năng gây hại cho sức khoẻ người

và động vật hoặc gây hại cho môi trường. Thực phẩm có thể không được phép nhập

khẩu vào EU nếu chúng được xử lý hay nhiễm bất kỳ chất nào có trong Hướng dẫn

trên. Thực phẩm xuất khẩu của EU không yêu cầu giấy chứng nhận xuất khẩu nhưng

các sản phẩm nhập khẩu sẽ được lấy mẫu ngẫu nhiên và phân tích tại cửa khẩu, trong

quá trình phân phối hoặc bán lẻ ở EU. Nếu EU phát hiện có bất kỳ chất cấm nào trong

mẫu sản phẩm nhập khẩu, lô hàng đó sẽ bị từ chối và tiêu huỷ, đồng thời nhà cung

cấp hay nước xuất khẩu có thể bị truy tố và bị áp lệnh cấm xuất khẩu sản phẩm đó

vào EU trong thời gian chờ đợi cơ quan có thẩm quyền của EU tiến hành điều tra.

21

1.3.1.4. Tiêu chuẩn về lao động

EU có quy định về việc cấm sử dụng lao động cưỡng bức trong sản xuất. Vì

vậy, ngoài việc tuân thủ pháp luật lao động nước mình thì doanh nghiệp sản xuất hàng

nông sản còn phải tuân theo quy định của EU. Hàng hoá sẽ bị cấm nhập khẩu và lưu

hành trên thị trường EU nếu sử dụng lao động cưỡng bức.

1.3.1.5. Tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường

Nhập khẩu nông sản vào EU phải phù hợp với qui định về Giới hạn tồn dư tối

đa thuốc trừ sâu (MRLs). Quy định trên nhằm đảm bảo rằng dư lượng thuốc trừ sâu

trong thực phẩm không gây hại cho người tiêu dùng. Tất cả những loại thực phẩm

tiêu thụ ở EU đều phải tuân thủ MRLs.

Ngoài ra, hàng hoá có liên quan đến môi trường phải được dán nhãn theo quy

định (nhãn tái sinh, nhãn sinh thái) và có chứng chỉ được quốc tế công nhận. Tiêu

chuẩn GAP (Good Agricultural Practice) và nhãn hiệu sinh thái (Ecolables) ngày

càng phổ biến và chứng tỏ các cấp độ khác nhau về môi trường. Ngoài ra, các doanh

nghiệp sản xuất hàng hoá phải tuân theo tiêu chuẩn ISO 14000.

1.3.2. Những quy định chung của Hiệp định nông nghiệp của Tổ chức Thương mại quốc tế WTO áp dụng đối với hàng nông sản nhập khẩu vào thị

trường Châu Âu

Hiệp định Nông nghiệp được xây dựng dựa trên các quy định và cam kết sau:

1.3.2.1. Tiếp cận thị trường

Trong Hiệp định Nông nghiệp bao gồm ba quy định chính về tiếp cận thị trường

là: quy định thuế quan, cơ hội tiếp cận thị trường và điều khoản tự vệ đặc biệt.

a. Quy định thuế quan

Theo điều 4 của Hiệp định Nông nghiệp, các nước trước đây đã áp dụng các

biện pháp phi thuế quan như hạn chế định lượng, giấy phép không tự động và thuế

biến đổi,…đều phải bãi bỏ chúng ngay lập tức và phải thay thế bằng các biện pháp

thuế quan (thuế nhập khẩu bị ràng buộc ở mức bảo hộ tương đương hoặc thấp hơn).

Việc chuyển từ các biện pháp phi thuế sang thuế được gọi là “thuế hóa”.

22

b. Cam kết ràng buộc thuế quan

Khi gia nhập WTO, các nước cam kết ràng buộc thuế quan để đảm bảo trong

tương lai thuế suất thuế nhập khẩu sẽ không cao hơn mức cam kết. Nếu muốn tăng

thuế suất cao hơn mức thuế đã cam kết thì các nước phải đàm phán lại trên cơ sở

nhượng bộ tương đương. Có ba mức ràng buộc thuế quan là: (1) ràng buộc mức thuế

quan thấp hơn mức thuế áp dụng, thể hiện sự tự nguyện cắt giảm thuế quan của nước

thành viên, và cam kết chặt chẽ theo một lịch trình cắt giảm thuế; (2) ràng buộc mức

thuế quan ở mức thuế hiện tại; (3) ràng buộc mức thuế quan ở mức thuế cao hơn hiện

tại, tức là có thể tăng mức thuế quan nhưng không cao hơn mức thuế đã cam kết

(Mutrap, 2010).

c. Các cam kết khác liên quan tới chính sách thuế

Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT) đòi hỏi các nước thành viên không được phân

biệt đối xử giữa các sản phẩm nhập khẩu và sản phẩm nội địa về lệ phí, phí, thuế nội

địa hoặc bất cứ quy định trong nước nào.

Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) đòi hỏi thuế quan và các quy định về thuế quan

không được áp dụng phân biệt đối xử giữa các quốc gia thành viên (Hoàng Thị Thanh

Tâm, 2004).

Các loại phí khác, trừ thuế xuất nhập khẩu, thuế chống bán phá giá, phí dịch vụ,

thuế nội địa đánh vào cả hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu để

nhằm phù hợp với cam kết nhượng bộ thuế quan phải được liệt kê trong lịch trình cắt

giảm của nước thành viên để đảm bảo trong tương lai những loại phí này sẽ không

tăng cao hơn hoặc không áp dụng thêm các loại chi phí khác.

Khi thực hiện các biện pháp trợ cấp, nếu thuế ưu đãi và thuế nhượng bộ áp dụng

cho các doanh nghiệp hay các lĩnh vực đặc biệt mà được coi là các biện pháp trợ cấp

thì phải tuân thủ các quy định của Hiệp định Trợ cấp. Đối với hàng nông sản, ngoài

tuân thủ quy định trên còn phải cam kết ràng buộc thuế quan 100% và thuế hóa toàn

bộ hàng rào phi thuế quan và cam kết ràng buộc ở mức thuế trần.

Song song với quy định về việc thuế hóa là các hàng rào phi thuế quan, các

thành viên được phép sử dụng một số hạn chế phi thuế quan như các biện pháp vệ

sinh dịch tễ và kiểm dịch động vật.

23

d. Biện pháp phi thuế quan ngoại lệ

Các biện pháp bảo hộ theo điều khoản liên quan đến các cán cân thanh toán.

Các nước thành viên WTO đồng ý cắt giảm thuế nhập khẩu theo tỉ lệ cố định. Cụ

thể là các nước phát triển phải giảm

1.3.2.2. Cơ hội tiếp cận thị trường

Các nước khi thuế hóa các biện pháp phi thuế quan thường sử dụng nguyên

tắc chênh lệch giá: lấy giá của một mặt hàng được bảo hộ bằng hàng rào phi thuế

quan trừ đi giá của một mặt hàng trong điều kiện không có bảo hộ. Giả sử, giá mặt

hàng nông sản của một số nước phát triển rất cao trong khi giá thế giới lại thấp. Do

vậy, mức thuế tương đương của các hàng rào phi thuế quan trở nên cao bất thường

đối với một số mặt hàng tính theo phương pháp này. Để khắc phục tình trạng thuế

quan nhập khẩu cao, Hiệp định Nông nghiệp đã đưa ra ba cơ hội nhằm tiếp cận thị

trường mà theo đó giá nhập khẩu nằm trong phạm vị này sẽ được hưởng mức thuế

quan thấp.

1.3.2.3. Điều khoản tự vệ đặc biệt

Các nước thành viên được sử dụng biện pháp tự vệ đặc biệt mà không cần có

dấu hiệu ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất trong nước, miễn là hàng hóa đã được

thuế hóa và được ghi chú “SSG” trong biểu thuế quan.

1.3.2.4. Quy định trong hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT)

a. Khái niệm

TBT (Technical Barriers to Trade - Rào cản kỹ thuật trong thương mại) là một

trong những rào cản phức tạp nhất trong số các biện pháp phi thuế quan. Theo Tổ

chức Thương mại thế giới (WTO), rào cản kỹ thuật là các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ

thuật mà một nước áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu và/hoặc quy trình đánh giá

sự phù hợp của hàng hoá nhập khẩu đối với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đó.

Về lý thuyết, rào cản kỹ thuật được sử dụng để bảo vệ sức khỏe và an toàn của con

người, môi trường sinh thái... WTO cũng đã ban hành Hiệp định TBT nhằm tạo ra

24

một quy chuẩn gồm 3 loại biện pháp kỹ thuật mang tính thống nhất trên phạm vi

toàn cầu:

- Quy chuẩn kỹ thuật (technical regulations) là những yêu cầu kỹ thuật bắt

buộc áp dụng (các doanh nghiệp bắt buộc phải tuân thủ).

- Tiêu chuẩn kỹ thuật (technical standards) là các yêu cầu kỹ thuật được chấp

thuận bởi một tổ chức đã được công nhận, nhưng không có giá trị áp dụng bắt buộc.

- Quy trình đánh giá sự phù hợp (conformity assessment procedure): dùng để

xác định việc đáp ứng các yêu cầu liên quan trong quy chuẩn kỹ thuật hoặc tiêu chuẩn

(ví dụ như kiểm nghiệm, xác minh, kiểm tra và cấp giấy chứng nhận).

b. Quy định:

Quy định về dán nhãn thực phẩm

Các doanh nghiệp XK cần tuân thủ các quy định chung của EU về dán nhãn

hàng thực phẩm. Ngoài ra còn có các quy định riêng liên quan đến nhãn thực phẩm

dinh dưỡng.

Trong ngành hàng rau quả, việc sản xuất, dán nhãn hữu cơ phải tuân thủ theo

quy định của EU. Đối với khách hàng nhập khẩu EU, mối quan tâm hàng đầu của họ

chính là có chứng nhận đáp ứng quy định này hay không.

Quy định về tiêu chuẩn và phân loại chất lượng

Hàng rau quả tươi nhập khẩu từ nước ngoài vào EU phải tuân thủ các tiêu chuẩn

về chất lượng thị trường chung của EU. Ngoài ra, EU còn đưa ra các yêu cầu bổ sung

riêng cho từng loại sản phẩm rau quả. Các sản phẩm nhập khẩu sẽ được kiểm tra

thường xuyên và nếu không tuân thủ các quy định này thì sẽ không được phép tiêu

thụ tại đây. Nếu sản phẩm nhập khẩu không nằm trong tiêu chuẩn chất lượng của EU,

thì các tiêu chuẩn của Ủy ban Kinh tế châu Âu của Liên hợp quốc (UNECE) sẽ được

áp dụng.

Những lô hàng rau quả tươi nhập khẩu từ các nước ngoài khối EU theo tiêu

chuẩn EC cần phải có Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn (Certificate of conformity).

Các sản phẩm sản xuất theo tiêu chuẩn thị trường EU được dùng để chế biến yêu cầu

25

phải có Giấy chứng nhận sử dụng công nghiệp (Certificate of industrial use). (Ngô

Thị Mỹ, 2016)

1.3.2.5. Quy định trong hiệp định về các biện pháp kiểm dịch động, thực vật (SPS)

a. Khái niệm

SPS (Sanitary and Phytosanitary Measures - Biện pháp vệ sinh và kiểm dịch

động -thực vật), theo WTO, bao gồm tất cả luật, nghị định, quy định, điều kiện, yêu

cầu bắt buộc có tác động đến thương mại quốc tế nhằm bảo vệ cuộc sống, sức khỏe

con người, vật nuôi, động vật hay thực vật thông qua việc bảo đảm an toàn thực phẩm,

ngăn chặn sự xâm nhập của các dịch bệnh có nguồn gốc từ động vật hay thực vật.

Biện pháp SPS có thể là các yêu cầu về chất lượng, quy trình đóng gói, bao bì, kiểm

dịch, cách lấy mẫu, phương pháp thống kê, phương thức vận chuyển động vật hay

thực vật... Nhằm tạo ra khuôn khổ pháp lý cho vấn đề này, WTO cũng đã ban hành

Hiệp định SPS.

b. Quy định

Quy định về dán nhãn thực phẩm

Các doanh nghiệp XK cần tuân thủ các quy định chung của EU về dán nhãn

hàng thực phẩm. Ngoài ra còn có các quy định riêng liên quan đến nhãn thực phẩm

dinh dưỡng.

Trong ngành hàng rau quả, việc sản xuất, dán nhãn hữu cơ phải tuân thủ theo

quy định của EU. Đối với khách hàng nhập khẩu EU, mối quan tâm hàng đầu của họ

chính là có chứng nhận đáp ứng quy định này hay không

Quy định về tiêu chuẩn và phân loại chất lượng

Hàng rau quả tươi nhập khẩu từ nước ngoài vào EU phải tuân thủ các tiêu chuẩn

về chất lượng thị trường chung của EU. Ngoài ra, EU còn đưa ra các yêu cầu bổ sung

riêng cho từng loại sản phẩm rau quả. Các sản phẩm nhập khẩu sẽ được kiểm tra

thường xuyên và nếu không tuân thủ các quy định này thì sẽ không được phép tiêu

thụ tại đây. Nếu sản phẩm nhập khẩu không nằm trong tiêu chuẩn chất lượng của EU,

26

thì các tiêu chuẩn của Ủy ban Kinh tế châu Âu của Liên hợp quốc (UNECE) sẽ được

áp dụng.

Những lô hàng rau quả tươi nhập khẩu từ các nước ngoài khối EU theo tiêu

chuẩn EC cần phải có Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn (Certificate of conformity).

Các sản phẩm sản xuất theo tiêu chuẩn thị trường EU được dùng để chế biến yêu cầu

phải có Giấy chứng nhận sử dụng công nghiệp (Certificate of industrial use).

1.3.2.6. Quy định về quyền sở hữu trí tuệ trong nông nghiệp

Những quy định về quyền sở hữu trí tuệ được thể hiện trong Hiệp định về các

khía cạnh thương mại của Quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS). Hiệp định này yêu cầu các tiêu

chuẩn tối thiểu để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng như các phương tiện cưỡng chế thi

hành. Nó tập trung vào những điểm sau: (1) nguyên tắc cơ bản và nghĩa vụ chung là thực

hiện theo nguyên tắc MFN và NT; (2) tiêu chuẩn tối thiểu của bảo hộ bao gồm đối tượng,

các quyền, các ngoại lệ được chấp thuận và thời gian bảo hộ tối thiểu; (3) các hành động

phi cạnh tranh khi cấp phép giao kèo; (4) các thủ tục và biện pháp phòng chống trong

nước để buộc tuân thủ các quyền sở hữu trí tuệ. (VCCI, 2016)

Yếu tố sáng chế, nhãn mác và xuất xứ ngày càng trở nên quan trọng và là một

vấn đề nóng bỏng trong các tranh chấp quốc tế gần đây đối với hàng nông sản nói

riêng và sự phát triển ngành nông nghiệp nói chung. Có hai dạng quyền sở hữu trí tuệ

cơ bản liên quan đến nông nghiệp là chỉ dẫn địa lý và quyền giống tác giả. (1) Chỉ

dẫn địa lý là xuất xứ của sản phẩm nông sản mà chỉ rõ chất lượng và các đặc trưng

liên quan đến khu vực trồng trọt của sản phẩm đó. (2) Quyền giống tác giả liên quan

đến việc tạo ra giống mới, ổn định, đặc biệt, đồng nhất. Do đó, đây là những quyền

có thể được bảo hộ trong Công ước bảo hộ giống thực vật mới.

1.3.3. Những quy định chung của EVFTA áp dụng đối với hàng nông sản

nhập khẩu vào thị trường Châu Âu

1.3.3.1. Khái niệm và các mốc thời gian chính

European Vietnam Free trade agreement là tên tiếng Anh của hiệp định thương

mại tự do Châu Âu - Việt Nam (EVFTA). Hiệp định thương mại tự do Châu Âu –

Việt Nam (EVFTA) là thoả thuận thương mại tự do thế hệ mới giữa 27 nước thành

27

viên liên minh Châu Âu (EU) với nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được

thành lập ra với mục tiêu tự do hóa và tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư giữa

các bên tham gia hiệp định. (VCCI, 2015)

Không ít khó khăn trong quá trình đàm phán và đi đến sự đồng ý của hai bên.

EVFTA là hiệp định thế hệ mới, không chỉ bao gồm các quy tắc về thương mại mà

còn quy định về quyền con người, và hiệp định đối tác toàn diện PCA.

Đây là hiệp định Thương mại tự do có phạm vi cam kết rộng cùng với mức độ

cam kết cao nhất với 99.2% các loại thuế quan của các mặt hàng tại Việt Nam xuất

khẩu sang các nước thành viên của liên minh Châu Âu (EU) sẽ được xoá bỏ. Tuy

nhiên, bên cạnh các chế độ ưu đãi về thuế quan thì hiệp định EVFTA cũng đặt ra một

số ràng buộc nhất định, yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần phải

nắm bắt được quy định và theo dõi cũng như cập nhật liên tục thì mới có thể được

hưởng những ưu đãi về thuế. Nếu như không có sự chuẩn bị từ bây giờ, các mặt hàng

xuất khẩu của Việt Nam sang EU khó có thể được hưởng mức thuế 0% khi không đạt

được tiêu chuẩn đúng như quy định mà hiệp định đề ra.

Là một trong hai Hiệp định tự do thương mại có số nước thành viên tham gia

ký kết nhiều nhất, 27 nước thành viên khối liên minh Châu Âu và Việt Nam đã cùng

thống nhất đi đến sự ra đời của EVFTA, cụ thể diễn tiến như sau:

Tháng 10 năm 2010, nhân dịp tham dự Hội nghị cấp cao ASEM thủ tướng Chính

phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch EU đã đồng ý khởi động đàm phán

Hiệp định EVFTA. Đến kỳ họp cấp cao ASEAN lần thứ 20, vào ngày 31 tháng 3 năm

2012, hai bên đã cùng thống nhất nội dung của tài liệu tham chiếu và lấy đó làm cơ

sở để tiến tới vòng đàm phán. Đến 26 tháng 6 năm 2012, Bộ trưởng Bộ Công Thương

Việt Nam Vũ Huy Hoàng và cao ủy Thương mại EU Karel De Gucht đã gặp mặt tại

Brussels Bỉ, cùng đồng ý ra tuyên bố khởi động đàm phán Hiệp định Thương mại tự

do Việt Nam - EU (EVFTA). Theo sự đồng ý của 2 bên, phiên đàm phán thứ nhất

được diễn ra nhanh chóng trong hai ngày từ ngày 8/10/2012 đến ngày 12/10/2012 tại

Hà Nội. Phiên đàm phán thứ hai được diễn ra tại Brussel, Bỉ, dưới sự dẫn đoàn thứ

trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh. Tuy nhiên, sau 3 năm, trải qua đến 14

cuộc đàm phán, tháng 12 năm 2015, Việt Nam và EU hoàn tất quá trình đàm phán và

28

chuẩn bị cho việc rà soát pháp lý cho việc ký kết Hiệp định. Theo đánh giá của đoàn

đàm phán Việt Nam EVFTA là một Hiệp định toàn diện, cân bằng lợi ích cho cả hai

bên, nội dung chính của hiệp định là: Thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và

đầu tư, mua sắm chính phủ, sở hữu trí tuệ và các nội dung khác.

Tuy nhiên, sau 2 năm, đến tháng 8 năm 2017, do có phát sinh một số vấn đề liên

quan đến thẩm quyền phê chuẩn các hiệp định thương mại tự do đã ký với các nước

thành viên, EU và Việt Nam quyết định tách riêng nội dung bảo hộ đầu tư và cơ chế

giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước với nhà đầu tư (ISDS) thành hiệp định riêng, cụ

thể là:

- Hiệp định Thương mại tự do là toàn bộ nội dung EVFTA hiện nay nhưng phần

đầu tư sẽ chỉ bao gồm tự do hóa đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với Hiệp định này, EU

có quyền phê chuẩn và đưa vào thực thi tạm thời.

- Hiệp định Bảo hộ đầu tư bao gồm nội dung bảo hộ đầu tư và giải quyết tranh

chấp đầu tư (Hiệp định IPA). Hiệp định IPA này phải được sự phê chuẩn của cả Nghị

viện Châu Âu và của Nghị viện các nước thành viên thì mới có thể thực thi.

Trong khoảng 2 năm từ tháng 8 năm 2018 đến 30 tháng 3 năm 2020, Ủy ban

Châu Âu, Hội đồng Châu Âu, Ủy ban thương mại quốc tế Liên minh Châu Âu trong

tình trạng đàm phán để thông qua Hiệp định EVFTA. Ngày 21 tháng 1 năm 2020, Uỷ

ban thương mại Quốc tế Liên minh Châu Âu thông qua khuyến nghị phê chuẩn

EVFTA. Sau đó 1 tháng, ngày 12 tháng 2 nghị viện châu Âu chính thức thông qua 2

hiệp định EVFTA và IPA (được tách ra từ hiệp định EVFTA). Cụ thể vào ngày 30/3

vừa qua, Hội đồng Châu Âu chính thức hoàn thành thủ tục nội bộ để Hiệp định

EVFTA có hiệu lực.

Về phía Việt Nam, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết hồ sơ phê chuẩn Hiệp

định đã được Chính phủ trình lên Chủ tịch nước xem xét trình Quốc hội thảo luận và

phê chuẩn ngay trong phiên làm việc của Quốc hội Việt Nam vào tháng 5 năm 2020.

Với tiến độ này, cả hai bên hy vọng rằng Hiệp định EVFTA sẽ chính thức có hiệu lực

trong tháng 7 năm 2020. Vậy sau hơn 10 năm đàm phán, Hiệp định EVFTA chuẩn bị

chính thức được đưa vào thực tiễn.

29

1.3.3.2. Những nội dung chính của Hiệp định EVFTA đối với nền kinh tế Việt

Nam trong lĩnh vực thương mại hàng nông sản

a. Cam kết mở cửa thị trường hàng hóa của EU (các cam kết về

thuế quan)

Hiệp định EVFTA đã đưa ra những cam kết mở cửa thị trường hàng hoá, đặc

biệt đối với vấn đề thuế nhập khẩu vào thị trường EU, cụ thể các quy định về cắt giảm

thuế đối với các sản phẩm trong ngành nông nghiệp được nêu trong các phụ lục về

biểu thuế cam kết của EU. Phần lớn nông sản của Việt Nam nhập khẩu vào EU sẽ

được cắt giảm thuế. Một số mặt hàng thuế suất cơ sở sẽ được xóa bỏ ngay lập tức khi

Hiệp định có hiệu lực như một số loại mặt hàng động vật sống, rau củ quả. Thuế quan

của các mặt hàng khác sẽ được cắt giảm dần và tiến tới xóa bỏ hoàn toàn theo lộ trình

4 năm, 6 năm, 8 năm… Trong khi đó một số mặt hàng sẽ áp dụng hạn ngạch thuế

quan. (Vũ Thanh Hương, 2016)

Một số mặt hàng nông sản đáng chú ý được quy định như sau:

- Gạo: EU dành cho Việt Nam một lượng hạn ngạch đáng kể đối với gạo xay

xát, gạo chưa xay xát và gạo thơm. Gạo nhập khẩu theo hạn ngạch này được miễn

thuế hoàn toàn. Riêng gạo tấm, thuế nhập khẩu sẽ được xóa bỏ theo lộ trình. Đối với

sản phẩm từ gạo, EU sẽ đưa thuế nhập khẩu về 0% trong vòng 7 năm.

- Mật ong: EU sẽ xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực và không áp dụng

hạn ngạch thuế quan.

- Đối với ngô ngọt, tinh bột sắn và tỏi: EU áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với

sản phẩm xuất xứ từ Việt Nam.

- Đối với đường và các sản phẩm chứa hàm lượng đường cao: EU áp dụng hạn

ngạch thuế quan.

- Toàn bộ các sản phẩm rau củ quả, rau củ quả chế biến, nước hoa quả khác: về

cơ bản sẽ được xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực.

b. Cam kết mở cửa thị trường hàng hóa của Việt Nam (các cam kết về thuế quan)

Đối với vấn đề thuế nhập khẩu vào thị trường Việt Nam, Việt Nam cam kết

xóa bỏ thuế quan ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực đối với hàng hóa của EU thuộc

30

65% số dòng thuế trong biểu thuế, và cam kết xóa bỏ trên 99% số dòng thuế trong

biểu thuế trong vòng 10 năm. Số dòng thuế còn lại sẽ áp dụng hạn ngạch thuế quan

với mức thuế trong hạn ngạch là 0%. Đối với ngành nông nghiệp, phần lớn các sản

phẩm được xóa bỏ thuế quan theo lộ trình trong vòng 10 năm, một số nông sản chủ

yếu nhập khẩu từ EU vào Việt Nam được quy định chi tiết như sau:

- Thịt lợn đông lạnh: Xóa bỏ thuế trong vòng 7 năm;

- Thịt bò: Xóa bỏ thuế trong vòng 3 năm;

- Thịt gà: Xóa bỏ thuế trong vòng 10 năm;

- Các sản phẩm sữa: Xóa bỏ thuế tối đa trong vòng 5 năm;

- Thực phẩm chế biến: Xóa bỏ thuế tối đa trong vòng 7 năm.

c. Cam kết về quy tắc xuất xứ

Đối với Hiệp định EVFTA, cam kết về quy tắc xuất xứ được quy định tại “Nghị

định thư về Quy tắc xuất xứ của sản phẩm và các biện pháp hợp tác hành chính”. Về

cơ bản, các cam kết trong Hiệp định này gồm 2 phần chính là Các quy định chung về

quy tắc xuất xứ và Quy tắc cụ thể mặt hàng (PSR), áp dụng cho tất cả các mặt hàng,

trong đó bao gồm nông nghiệp. (Lê Hữu Thành, 2019)

Các quy định chung về quy tắc xuất xứ mà Việt Nam và EU thống nhất trong

Hiệp định EVFTA có các nội dung cơ bản giống trong các Hiệp định FTA mà Việt

Nam đã ký kết trước đây. Ngoài ra, một số nội dung mới mà hai bên đã thống nhất

gồm có:

- Cơ chế tự chứng nhận xuất xứ: Bên cạnh cơ chế cấp Giấy chứng nhận xuất xứ

(C/O) truyền thống, hai bên thống nhất cho phép nhà xuất khẩu được tự chứng nhận

xuất xứ. Hiện nay, EU đang xây dựng hệ thống nhà xuất khẩu đăng ký (Registered

exporters) - là hệ thống cho phép nhà xuất khẩu chỉ cần đăng ký với cơ quan có thẩm

quyền là có thể tự chứng nhận xuất xứ. Khi hệ thống này hoàn thiện và được áp dụng,

EU sẽ thông báo cho Việt Nam trước khi thực hiện. Về phía Việt Nam: hiện chưa

chính thức triển khai cơ chế tự chứng nhận xuất xứ. Trong thời gian tới, khi có thể

chính thức áp dụng cơ chế này, Việt Nam sẽ ban hành quy định liên quan trong nước

và thông báo cho EU trước khi thực hiện.

31

- Thông tin thể hiện trên Giấy chứng nhận xuất xứ: Việt Nam và EU nhất trí sử

dụng mẫu C/O EUR 1 là mẫu chung trong Hiệp định EVFTA. Mẫu EUR 1 yêu cầu

thông tin khai báo đơn giản hơn so với mẫu C/O trong các Hiệp định Thương mại

hàng hóa ASEAN (ATIGA) và các Hiệp định FTA giữa ASEAN với các đối tác ngoại

khối mà Việt Nam đã ký kết.

- Quá cảnh và chia nhỏ lô hàng tại nước thứ ba: Hai bên đồng ý cho phép hàng

hóa được quá cảnh và chia nhỏ tại nước thứ ba ngoài Hiệp định.

- Điều khoản Tạm dừng hưởng ưu đãi: Hai bên đồng ý cho phép nước nhập

khẩu được áp dụng cơ chế tạm dừng ưu đãi, tức là không cho phép hàng hóa của bên

kia được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi khi: liên tục phát hiện gian lận xuất xứ hàng

hóa nhằm hưởng ưu đãi; nước xuất khẩu liên tục không thực hiện nghĩa vụ xác minh

xuất xứ ưu đãi theo đề nghị của nước nhập khẩu hoặc không cho phép nước nhập

khẩu vào kiểm tra xuất xứ hàng hóa hưởng ưu đãi. Hiệp định cũng quy định chi tiết

quy trình tham vấn liên quan đến vấn đề này.

- Điều khoản về Quản lý lỗi hành chính: Điều khoản Quản lý lỗi hành chính quy

định về cơ chế phối hợp giữa hai cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và EU khi

xảy ra lỗi trong việc quản lý và áp dụng các điều khoản theo Hiệp định này như một

biện pháp chống gian lận thương mại.

Ngoài các quy định chung, EVFTA còn đưa ra quy tắc xuất xứ đối với một số

mặt hàng cụ thể. Quy tắc cụ thể mặt hàng là quy tắc xác định xuất xứ đối với từng

mặt hàng (ở cấp độ mã HS 8 số).

Đối với nhóm hàng Nông nghiệp, do EU có chính sách bảo hộ mặt hàng đường,

sữa trong nước nên EU giới hạn tỷ lệ sử dụng đường, sữa nguyên liệu không có xuất

xứ trong quá trình sản xuất một số mặt hàng nông nghiệp. Trong Hiệp định EVFTA,

hai bên thống nhất tỷ lệ cơ bản được áp dụng là 20% với từng nguyên liệu đơn lẻ

và 40% với các nguyên liệu kết hợp so với trọng lượng của sản phẩm cuối cùng.

Đối với một số mặt hàng, EU đồng ý linh hoạt tỷ lệ 40% đường nguyên liệu không

xuất xứ và tỷ lệ kết hợp đường, sữa là 50%. Nhìn chung, quy tắc xuất xứ đối với

hàng nông nghiệp trong Hiệp định EVFTA chặt hơn so với các FTA mà Việt Nam

đang tham gia.

32

Bảng dưới đây thống kê thông tin về một số mặt hàng cụ thể:

Bảng 1.1: Quy tắc cụ thể mặt hàng đối với một số sản phẩm nông nghiệp

Sản phẩm Quy tắc

Mật ong (HS 0409) Quy tắc xuất xứ thuần túy

Rau củ quả và các sản phẩm Quy tắc xuất xứ thuần túy đối với rau củ quả

rau củ quả (HS 07, 08 và 20) nguyên liệu và có giới hạn tỷ lệ đường không

xuất xứ 20% đối với sản phẩm chế biến từ rau củ

quả

Gạo (HS 1006) Quy tắc xuất xứ thuần túy

Chế phẩm từ ngũ cốc, tinh Nguyên liệu sử dụng từ ngũ cốc, tinh bột, khoai

bột (HS 11) tây, sắn phải có xuất xứ thuần túy

Rượu và các đồ uống có cồn Nho sử dụng làm nguyên liệu phải có xuất xứ

(HS 22) thuần túy và tỷ lệ đường nguyên liệu không xuất

xứ là 20%

Thuốc lá và nguyên liệu thuốc Lá thuốc lá chưa chế biến phải có xuất xứ thuần

lá (HS 24) túy, lá thuốc lá đã chế biến chỉ được sử dụng tối

đa 30% nguyên liệu không xuất xứ cùng Chương

24 trong quy định so với tổng nguyên liệu thuộc

Chương 24 đó được sử dụng và sản phẩm thuốc

lá điếu phải làm từ lá thuốc lá đã chế biến có xuất

xứ hoặc giới hạn tỷ lệ nguyên liệu không xuất xứ

Nguồn: Hiệp định EVFTA

d. Cam kết về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT)

Rào cản kỹ thuật là một vấn đề đặc biệt được quan tâm và hiện đang đưa ra

nhiều thách thức. Cũng giống như các hiệp định thương mại tự do khác, EVFTA cam

kết tạo thuận lợi và tăng cường thương mại hàng hóa song phương, xác định và loại

bỏ các rào cản không cần thiết đối với thương mại trong phạm vi Hiệp định

HRKTTM, và đẩy mạnh hợp tác giữa các bên. Trong Hiệp định, một lần nữa các bên

cam kết thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo Hiệp định của WTO về hàng rào

kỹ thuật thương mại (Hiệp định HRKTTM). Ngoài ra, Hiệp định còn bổ sung và làm

rõ các khía cạnh cụ thể của HRKTTM, trong đó có 3 loại biện pháp kỹ thuật: quy

chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật, thủ tục đánh giá hợp quy; và các vấn đề liên quan

33

như tính minh bạch trong quá trình thực hiện các biện pháp kỹ thuật, đảm bảo các

hoạt động giám sát thị trường là đúng nguyên tắc, công bằng; các nguyên tắc về tiếp

thị và ghi nhãn; đảm bảo tạo thuận lợi cho thương mại và hợp tác. (Đỗ Thị Hoà Nhã,

2018)

Đặc biệt trong Hiệp định, Việt Nam cam kết tăng cường sử dụng các tiêu chuẩn

quốc tế trong ban hành các quy định về TBT của mình, cụ thể: “sử dụng các tiêu chuẩn

quốc tế có liên quan, chẳng hạn những tiêu chuẩn do ISO, IEC, ITU, Ủy ban Codex

Alimentarius xây dựng, làm cơ sở cho các quy chuẩn kỹ thuật của mình, trừ trường

hợp các tiêu chuẩn quốc tế này sẽ là một phương tiện không hiệu quả hoặc không phù

hợp cho việc thực hiện các mục tiêu chính đáng; và khi tiêu chuẩn quốc tế đã không

được sử dụng như một cơ sở theo yêu cầu của bên kia để xác định độ lệch đáng kể từ

tiêu chuẩn quốc tế có liên quan và để giải thích lý do tại sao các tiêu chuẩn đó được coi

là không phù hợp hoặc không hiệu quả cho mục đích đang hướng đến”.

e. Các biện pháp phòng vệ thương mại

Với EVFTA, theo Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương), nội dung về các

biện pháp phòng vệ thương mại bao gồm các điều khoản liên quan đến việc sử dụng

công cụ phòng vệ thương thương mại truyền thống trong WTO (bao gồm các biện

pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ), cho phép EU và Việt Nam bảo vệ

các nhà sản xuất của mình khỏi những bóp méo cạnh tranh dưới dạng hàng hóa nhập

khẩu bán phá giá hoặc được trợ cấp và đối phó với những chuyển đổi mạnh mẽ trong

dòng thương mại giữa hai bên (vụ việc tự vệ).

Cả EU và Việt Nam đều ý thức thừa nhận rằng các biện pháp chống bán phá giá

và chống trợ cấp có thể bị lạm dụng để cản trở thương mại, từ đó đưa đến các cam

kết: phòng vệ thương mại nên được sử dụng một cách tuân thủ đầy đủ các yêu cầu

liên quan của WTO và phải dựa trên một hệ thống công bằng và minh bạch; và nên

xem xét cẩn thận các quyền lợi của Bên bị áp dụng biện pháp này.

So với cam kết WTO, EVFTA bổ sung một số các quy định giới hạn việc sử

dụng các công cụ này để tránh lạm dụng và đảm bảo công bằng, minh bạch. Các quy

định này tạo ra môi trường kinh doanh ổn định và thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp

xuất khẩu. Theo đó, nhằm tăng cường tính minh bạch, hai bên thống nhất quyền

34

kháng kiện của hai bên được đảm bảo đầy đủ. Để hiệu quả hơn, cơ quan điều tra sẽ

sử dụng tiếng Anh như là ngôn ngữ giao tiếp và trao đổi tài liệu giữa hai bên.

Ngoài ra, EVFTA quy định ngay sau khi một bên tiến hành các biện pháp tạm

thời và ngay trước khi có quyết định cuối cùng thì bên này phải cung cấp các thông

tin đã được sử dụng để đánh giá và đưa ra quyết định. Các thông tin này cần phải đầy

đủ và có ý nghĩa, được cung cấp bằng văn bản và cho phép các bên liên quan có một

khoảng thời gian đủ dài để góp ý. Các bên liên quan có cơ hội được giải trình trong

quá trình điều tra phòng vệ thương mại.

Để đảm bảo công bằng, ngoài 3 tiêu chí của WTO cho việc khởi xướng điều tra

và áp dụng biện pháp chống bán phá giá hoặc đối kháng (có bán phá giá, có thiệt hại

và mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá với thiệt hại), EVFTA yêu cầu các

bên phải xem xét đến lợi ích của công chúng và các bên có liên quan (hoàn cảnh của

ngành sản xuất trong nước, lợi ích của nhà nhập khẩu, người tiêu dùng). Khi áp dụng

biện pháp chống bán phá giá hoặc đối kháng, quốc gia áp dụng phải nỗ lực đảm bảo

rằng mức thuế áp dụng thấp hơn biên độ phá giá hay trợ cấp và chỉ ở mức đủ để loại

bỏ thiệt hại.

EVFTA còn quy định một cơ chế tự vệ song phương trong thời gian chuyển đổi

là 10 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Cụ thể, trong trường hợp có sự gia tăng

hàng nhập khẩu do cắt giảm thuế quan theo Hiệp định và gây ra hoặc có nguy cơ gây

ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước, quốc gia nhập khẩu được

phép áp dụng tự vệ bằng cách tạm ngừng áp dụng cam kết cắt giảm thuế quan theo

Hiệp định đối với hàng hóa liên quan, hoặc tạm tăng thuế nhập khẩu trở lại mức thuế

MFN (áp dụng cho các thành viên WTO) hiện hành hay mức thuế cơ sở ban đầu cho

đàm phán (tùy theo mức thuế nào thấp hơn). (Mutrap, 2016)

Thời hạn áp dụng tự vệ được phép là 2 năm, có thể gia hạn thêm nhưng tối đa

không quá 2 năm. Trong hoàn cảnh khẩn cấp, quốc gia nhập khẩu có thể áp dụng cơ

chế tự vệ “nhanh” (biện pháp tự vệ tạm thời) trên cơ sở đánh giá sơ bộ về các điều

kiện tự vệ. Bên áp dụng tự vệ phải tham vấn với bên bị áp dụng tự vệ về mức

bồi thường thỏa đáng.

f. Cam kết về các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động,

thực vật (SPS)

35

Một vấn đề trọng yếu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế chính là vấn đề

liên quan đến vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật. Trong EVFTA,

Việt Nam và EU đạt được thỏa thuận về một số nguyên tắc về SPS nhằm tạo điều

kiện cho hoạt động thương mại đối với các sản phẩm động thực vật. EVFTA đẩy

mạnh thực hiện các nguyên tắc và quy định trong Hiệp định VSKD cũng như các

hướng dẫn, khuyến nghị, và tiêu chuẩn quốc tế đang áp dụng của các tổ chức quốc tế

liên quan; bảo vệ tính mạng và sức khỏe con người và động thực vật trong lãnh thổ

từng bên trong khi vẫn tạo thuận lợi cho thương mại giữa các bên và đảm bảo rằng

các biện pháp VSKD của mỗi bên không tạo ra các rào cản không cần thiết đối với

thương mại; tăng cường thông tin, hợp tác, và giải quyết các vấn đề vệ sinh và kiểm

dịch ảnh hưởng đến thương mại giữa các bên và các vấn đề khác được các bên quan

tâm, và tăng cường tính minh bạch và sự hiểu biết về việc áp dụng các biện pháp

VSKD của mỗi bên.

Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch trong EVFTA được quy định ở chương 7,

ngoài các quy định chung còn quy định chi tiết về một số vấn đề khác như: các cơ

quan thẩm quyền và đầu mối liên lạc; yêu cầu và thủ tục nhập khẩu; xác minh; thủ

tục niêm yết cơ sở; các biện pháp liên quan đến sức khỏe động thực vật: đề cập đến

các khái niệm “vùng an toàn dịch bệnh”, “vùng an toàn sâu bệnh”; vấn đề thành lập

và hoạt động của Ủy ban về Biện pháp Vệ sinh kiểm dịch; tính minh bạch và trao đổi

thông tin; tham vấn; các biện pháp khẩn cấp; hỗ trợ kỹ thuật và ưu đãi đặc biệt. (Vũ

Thanh Hương, 2016)

Ngoài ra, chương 7 cũng đưa ra yêu cầu và quy định về chấp thuận các cơ sở

cho sản phẩm, được quy định ở phụ lục 1, trong đó yêu cầu các bên có trách nhiệm

lập và công bố danh sách các cơ sở được chấp thuận theo các yêu cầu và thủ tục chấp

nhận được quy định cụ thể.

g. Cam kết về sở hữu trí tuệ

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) đã chính

thức hoàn tất đàm phán vào tháng 12/2015, được dự báo sẽ ảnh hưởng lớn tới thể chế

pháp luật và kinh tế Việt Nam trong thời gian tới, đặc biệt là trong lĩnh vực cam kết

về sở hữu trí tuệ. Đây là chế định tương đối nhạy cảm trong qua trình đàm phán do

36

nhu cầu của EU và Việt Nam trong bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ không giống nhau.

Kết quả của đàm phán về vấn đề này trong EVFTA là một hệ thống các cam kết theo

hướng tăng cường các tiêu chuẩn bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu tương

ứng với đó là những hạn chế nhất định trong khả năng tiếp cận rộng rãi các sản phẩm

sở hữu trí tuệ của công chúng hoặc người sử dụng các sản phẩm này so với mức pháp

luật hiện hành của Việt Nam.

Trong EVFTA, chế định về sở hữu trí tuệ được quy định tập trung trong Chương

12 về sở hữu trí tuệ, với 40 trang, 31 Điều. (VCCI, 2016). Từ góc độ nội dung, các

cam kết trong Chương này có thể phân thành các nhóm:

Nhóm 1: Các cam kết về nguyên tắc chung trong bảo hộ các quyền sở hữu trí

tuệ của EVFTA: Ghi nhận mục tiêu thúc đẩy sáng tạo, bảo hộ và thực thi hiệu quả

các quyền; Sở hữu trí tuệ, cân bằng giữa lợi ích của chủ thể quyền và người sử dụng;

Khẳng định các quyền và nghĩa vụ theo các thỏa thuận quốc tế, đặc biệt là TRIPS;

Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc; Cam kết về chấm dứt quyền.

Nhóm 2: Các cam kết về các tiêu chuẩn bảo hộ đối với từng loại đối tượng sở

hữu trí tuệ cụ thể: cam kết về các tiêu chuẩn bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan;

cam kết về các tiêu chuẩn bảo hộ nhãn hiệu; cam kết về các tiêu chuẩn bảo hộ chỉ dẫn

địa lý; cam kết về các tiêu chuẩn bảo hộ kiểu dáng công nghiệp; cam kết về các tiêu

chuẩn bảo hộ sáng chế; trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ mạng trung gian.

Nhóm 3: Các cam kết về tố tụng dân sự thực thi quyền sở hữu trí tuệ: cam kết

về các biện pháp trong thực thi quyền SHTT; cam kết về các vấn đề thuộc về tố tụng

thực thi quyền SHTT; cam kết về trách nhiệm vật chất trong tố tụng SHTT.

Nhóm 4: Các cam kết về biện pháp thực thi quyền SHTT tại biên giới: phạm vi

các biện pháp tại biên giới; trách nhiệm của cơ quan hải quan trong thực thi các quyền

SHTT tại biên giới; hợp tác trong cải thiện chất lượng hoạt động hành chính; các biện

pháp thực thi khác: khuyến khích các Hiệp hội về SHTT xây dựng các Bộ quy tắc

ứng xử; hợp tác trong thực thi SHTT.

Liên quan đến ngành Nông nghiệp, ngoài các vấn đề về quy tắc chung, tố tụng

dân sự, biện pháp thực thi, trong Hiệp định có làm rõ một số vấn đề liên quan trực

tiếp như sau:

37

- Về bản chất và phạm vi các cam kết: khẳng định các quyền và nghĩa vụ theo

các Thỏa thuận quốc tế về SHTT, đặc biệt là TRIPS. Nêu lên 08 loại đối tượng SHTT:

quyền tác giả và các quyền liên quan, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công

nghiệp, quyền sáng chế, thiết kế và bố trí các mạch tích hợp, bảo vệ thông tin bí mật;

giống cây trồng.

- Về nhãn hiệu: Hiệp định cam kết và khẳng định các quyền và nghĩa vụ theo

Thỏa ước Madrid; sử dụng cách phân loại hàng hóa dịch vụ theo Công ước Nice khi

đăng ký Nhãn hiệu; cam kết đơn giải hóa và cải thiện hệ thống đăng ký. Bên cạnh đó,

Hiệp định cũng đưa ra các cam kết về quyền tạo ra bởi nhãn hiệu (tránh nhãn hiệu

tương tự, làm giả nhãn hiệu…), thủ tục đăng ký, nhãn hiệu nổi tiếng, các ngoại lệ đối

với quyền do nhãn hiệu mang lại, và các căn cứ thu hồi nhãn hiệu.

- Về chỉ dẫn địa lý: EVFTA quy định chi tiết về các vấn đề liên quan đến chỉ

dẫn địa lý bao gồm: hệ thống đăng ký và bảo hộ chỉ dẫn địa lý; các chỉ dẫn địa lý đã

được xác lập; quy trình sửa đổi Danh mục các chỉ dẫn địa lý được công nhận;bảo hộ

chỉ dẫn địa lý; quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý; mối quan hệ với nhãn hiệu; thực thi việc

bảo hộ; các quy tắc chung; cam kết hợp tác và minh bạch hóa giữa Việt Nam và EU

trong quá trình thực thi; thành lập và vận hành nhóm công tác.

Đáng chú ý, cam kết về sở hữu trí tuệ trong Chương 12 EVFTA về việc công

nhận các chỉ dẫn địa lý của EU (171 chỉ dẫn địa lý liệt kê trong Phụ lục GI - I Phần

A); Theo đó, Việt Nam cam kết bảo hộ 171 chỉ dẫn địa lý của EU và EU sẽ bảo hộ

39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam. Các chỉ dẫn địa lý của Việt Nam đều liên quan tới

nông sản, thực phẩm.

- Về kiểu dáng công nghiệp: các vấn đề được quy định trong EVFTA bao gồm:

bảo hộ kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký; các ngoại lệ và loại trừ

- Về sáng chế: một số vấn đề về các Thỏa thuận quốc tế được quy định chi tiết.

- Về giống cây trồng: cam kết bảo hộ giống cây trồng theo Công ước UPOV.

h. Cam kết về đầu tư

Để hiện thực hoá việc tạo ra một môi trường đầu tư và kinh doanh minh bạch,

thông thoáng và thuận lợi cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp của hai bên, Việt Nam

38

và EU đã đi xa hơn cam kết về dịch vụ và đầu tư mà mỗi bên phải thực hiện trong

khuôn khổ WTO.

Cam kết thương mại dịch vụ và đầu tư trong Hiệp định EVFTA gồm các nghĩa

vụ và khuôn khổ quản lý chung áp dụng cho cả hai bên được quy định trong phần lời

văn của Hiệp định và các nghĩa vụ mở cửa thị trường cụ thể của mỗi bên được quy

định trong các Biểu cam kết cụ thể là Phụ lục của Hiệp định.

Mặc dù có nhiều cam kết đi xa hơn Hiệp định chung về thương mại dịch vụ

(GATS) và Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs)

của WTO - tức là mức WTO cộng, cam kết về thương mại dịch vụ và đầu tư trong

EVFTA vẫn được xây dựng theo cách tiếp cận “chọn cho” của Hiệp định GATS nhằm

giúp cộng đồng doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận. Theo đó, hai bên chỉ cam kết các

ngành/phân ngành dịch vụ được liệt kê trong Biểu cam kết cụ thể của mình. Với

những ngành/phân ngành dịch vụ không được liệt kê trong Biểu cam kết cụ thể, hai

bên không cam kết nghĩa vụ cụ thể nào, ngoại trừ các nghĩa vụ chung. (Vũ Thanh

Hương, 2016)

Về ngành Nông nghiệp, EVFTA có nêu ra một số các quy định cụ thể như sau:

Thứ nhất, về cam kết của EU, hầu hết các quốc gia đều cam kết tự do hóa về

đầu tư, chỉ có một số các quốc gia đưa ra cam kết cụ thể của mình như sau:

- Cam kết của EU về quy định thành lập doanh nghiệp:

Đối với ngành Nông nghiệp và săn bắn động vật: Tất cả các quốc gia thành viên

EU cam kết tự do hóa cho doanh nghiệp Việt Nam trừ một số quốc gia như Pháp,

Thụy Điển, Ai Len có một số quy định riêng còn Áo, Croatia, Hungary, Malta,

Romania, Slovenia chưa có cam kết đối với hoạt động nông nghiệp.

Đối với lĩnh vực sản xuất thực phẩm và đồ uống: EU cam kết tự do hóa đầu tư.

- Cam kết của EU về người đi công tác, người được thuyên chuyển công tác

trong nội bộ doanh nghiệp, người bán hàng cho doanh nghiệp, nhà cung cấp dịch vụ

theo hợp đồng trong lĩnh vực dịch vụ tư vấn hỗ trợ cho lĩnh vực nông nghiệp, săn bắt

động vật: Tất cả các quốc gia đều cam kết ưu đãi cho Việt Nam với mức cam kết tối

đa, trừ Italia, Áo có một số quy tắc riêng; tại Síp, Estonia, Malta, Romania, Slovakia

chưa có cam kết.

39

- Cam kết của EU về cung cấp dịch vụ xuyên biên giới trong lĩnh vực dịch vụ

tư vấn hỗ trợ cho lĩnh vực nông nghiệp, săn bắt động vật: Hầu hết cam kết tự do hóa,

trừ một số trường hợp như đối với sản phẩm cấp 1 theo Hiệp định, tại Italy chưa có

cam kết với các phạm vi hoạt động dịch vụ dành riêng cho các chuyên gia nông học

và kỹ sư trắc địa “periti agrari”. Tại Estonia, Malta, Romania chưa có cam kết.

Thứ hai, về cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực Nông nghiệp:

- Cam kết của Việt Nam về cung cấp dịch vụ xuyên biên giới và thành lập doanh

nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ hỗ trợ cho lĩnh vực nông nghiệp, săn bắt động vật: Việt

Nam cam kết mở cửa, tạo luận lợi cho đầu tư của EU tuy nhiên chỉ cho phép hình

thức liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh. Phần vốn góp của phía nước

ngoài không vượt quá 51% vốn pháp định của liên doanh.

- Cam kết của Việt Nam trong vấn đề người đi công tác, người được thuyên

chuyển công tác trong nội bộ doanh nghiệp, người bán hàng cho doanh nghiệp, nhà

cung cấp dịch vụ theo hợp đồng quy định rằng tối thiểu 20% các nhà quản lý, chuyên

viên cao cấp và chuyên gia phải là người mang quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp

người Việt Nam không thể thay họ thực hiện công việc. Tuy nhiên, mỗi doanh nghiệp

được phép thuê tối thiểu 3 nhà quản lý, chuyên viên cao cấp và chuyên gia không

phải là người Việt Nam.

i. Cam kết về hợp tác và phát triển bền vững

Ngoài các cam kết cụ thể được quy định liên quan trực tiếp đến nông nghiệp

trong Hiệp định, EVFTA cũng thể hiện cam kết về hợp tác và phát triển bền vững của

các bên, được thể hiện trong chương 15 và 16 của Hiệp định. Trong đó các bên cam

kết chú trọng hợp tác và nâng cao năng lực hợp tác trong lĩnh vực Nông nghiệp, thông

qua các phương tiện trao đổi thông tin, kinh nghiệm và thực hành tốt nhất, cũng như

hợp tác về chính sách. (Mutrap, 2011)

Về vấn đề phát triển bền vững, hai bên khẳng định lại cam kết của mình gồm

phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường, là phụ thuộc và củng cố lẫn

nhau, tiếp tục nhấn mạnh lợi ích của hợp tác về các vấn đề lao động và môi trường

liên quan tới thương mại như là một phần của phương pháp tiếp cận toàn cầu về

thương mại và phát triển bền vững. Trong Hiệp định, một lần nữa các bên tái khẳng

40

định các cam kết của mình về lao động, phù hợp với các nghĩa vụ phát sinh từ các

thành viên của Tổ chức lao động Quốc tế ILO và Tuyên bố ILO về các Nguyên tắc

cơ bản và các quyền tại nơi làm việc và tuyên bố tiếp theo đó, được thông qua bởi

Hội nghị Lao động Quốc tế tại kỳ họp lần thứ 86 của mình năm 1998, sẽ tôn trọng,

thúc đẩy và thực hiện hiệu quả các nguyên tắc về các quyền cơ bản tại nơi làm việc;

bên cạnh đó, cam kết thực hiện có hiệu quả trong các luật và thông lệ của mình các

thỏa thuận môi trường đa phương (MEAs) mà mình tham gia.

1.4. Kinh nghiệm của một số nước xuất khẩu hàng nông sản vào thị

trường Liên minh châu Âu (EU)

1.4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan

Thái Lan là nước có tiềm năng sản xuất hàng nông sản tương đương với nước

ta, song kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan vượt xa so với nước ta. Ví dụ như mặt

hàng dứa, kim ngạch xuất khẩu của ta chỉ bằng 23,6% kim ngạch xuất khẩu của Thái

Lan. Một trong những nguyên nhân dẫn tới thành công trong lĩnh vực xuất khẩu hàng

nông sản của Thái Lan là: ngoài yếu tố thuận lợi về thị trường tiêu thụ (thị trường

xuất khẩu hàng nông sản của Thái Lan là: EU, Hà Lan, Tây Đức, Đông Âu), Thái

Lan rất nỗ lực trong việc phát triển các mặt hàng hoá nông sản. Thái Lan chú trọng

đầu tư trang thiết bị dây chuyền công nghệ chế biến tiên tiến, đảm bảo điều kiện vận

tải kỹ thuật đóng gói hiện đại và đặc biệt thỏa mãn được các yêu cầu chất lượng theo

tiêu chuẩn kỹ thuật của EU đặt ra.

Cụ thể, Thái Lan đã tập trung vào các biện pháp sau:

- Quy hoạch vùng cung ứng nguyên liệu quy mô lớn, đồng thời có biện pháp để

tăng công suất sử dụng của các cơ sở chế biến nông sản.

- Đầu tư vào việc nghiên cứu và ứng dụng, kể cả việc nhập khẩu các loại giống

cây, con có chất lượng cao từ các nước có nền nông nghiệp phát triển. Thái Lan đã

xây dựng những trung tâm nghiên cứu và phát triển các giống cây trồng và vật nuôi

chất lượng cao.

- Đầu tư vào khâu chế biến và bảo quản, đặc biệt là đầu tư vào việc thiết kế và

sản xuất bao bì để hấp dẫn người mua. Đối với mặt hàng gạo, Thái Lan đầu tư hệ

thống chế biến gạo xuất khẩu quy mô lớn và trang bị công nghệ hiện đại. Thái Lan

41

có trên 90% cơ sở chế biến gạo (xay xát, sàng tuyển, đánh bóng gạo) quy mô lớn,

được trang bị đồng bộ nên chất lượng gạo xuất khẩu cao.

- Đầu tư vào khâu tiêu thụ, quảng bá và phát triển thương hiệu sản phẩm cả

trong nước và nước ngoài. Hầu hết hàng nông sản xuất khẩu của Thái Lan được

bảo quản tốt, mẫu mã và bao bì hàng hoá được thiết kế đẹp, hấp dẫn người mua.

Các doanh nghiệp Thái Lan chú trọng nhiều đến xây dựng, đăng ký và quảng bá

thương hiệu.

- Thực hiện nghiêm ngặt việc đảm bảo vệ sinh ATTP. Năm 2004 chính phủ phát

động chương trình “Thái lan là bếp ăn của thế giới” nhằm khuyến khích nông dân và

các nhà chế biến có những hành động thiết thực để kiểm soát chất lượng, đảm bảo an

toàn cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

- Phát triển mạnh thị trường tài chính nông thôn để người sản xuất có thể nhận

được nhiều khoản vay lớn hơn, có thêm vốn lưu động, vốn cổ phần.

1.4.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Để tăng cường mạnh trong lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản, Trung Quốc đã

lựa chọn và thực hiện chiến lược khai thác thị trường nông sản EU hợp lý theo 2

hướng: tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới và gia tăng kim ngạch xuất khẩu tại các

thị trường hiện có. Cụ thể:

- Tăng cường khai thác thị trường xuất khẩu hiện có và tránh tập trung quá mức

vào một thị trường hàng hoá nào, nhằm đa dạng hoá thị trường xuất khẩu để phát

triển thị trường ổn định.

- Thực hiện chiến lược đa dạng hoá thị trường xuất khẩu cả chiều rộng và

chiều sâu.

- Mở rộng thị trường xuất khẩu thông qua tham gia các liên kết kinh tế.

- Đa dạng các mặt hàng nông sản xuất khẩu, cải thiện chất lượng sản phẩm theo

hướng toàn diện. Trung Quốc coi trọng đầu tư và ứng dụng thành tựu khoa học công

nghệ vào phát triển nông nghiệp.

42

1.4.3. Kinh nghiệm của Brasil

Là nước đứng đầu thế giới về sản lượng cà phê Arabia và đứng thứ hai về sản

lượng cà phê Robusta, nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới, chiếm gần 20% tổng

kim ngạch xuất khẩu cà phê toàn cầu. Chính phủ Brasil và các tổ chức điều phối

ngành cà phê đã có nhiều chính sách phát triển công nghiệp chế biến cũng như thu

hút đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia vào công nghiệp chế biến của Brasil. Brasil

có hệ thống giám sát nguồn cung cà phê hiệu quả, trên cơ sở đó, đưa ra thông tin và

dự báo thị trường cà phê rất chính xác, được công bố qua Hội thảo triển vọng thị

trường được tổ chức hàng năm tại Brasil. Hệ thống tổ chức ngành hàng cà phê được

xây dựng và phát triển tốt, hoạt động chuyên nghiệp và mang lại nhiều lợi nhuận cho

các nhóm lợi ích tham gia trong ngành. Các tổ chức ngành hàng này đại diện cho

từng nhóm lợi ích khác nhau, tham gia vào quá trình: (i) thảo luận, hoạch định và

thực hiện chính sách; (ii) xác định, điều chỉnh, giám sát và đánh giá nghiên cứu kỹ

thuật cà phê; (iii) thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại, tăng cường chất

lượng cà phê. Bộ Nông nghiệp Brasil có chức năng nghiên cứu, hoạch định chính

sách, chịu trách nhiệm về các vấn đề vệ sinh ATTP, phòng chống bệnh dịch. Chính

phủ Brasil đã hỗ trợ một phần kinh phí cho Hiệp hội XK cà phê Brasil để thực hiện

kế hoạch gia tăng kim ngạch XK cà phê chế biến (cà phê rang xay, cà phê hoà tan).

43

CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH MỘT SỐ CƠ HỘI, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆC

XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN

2020 – 2025

2.1. Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam vào thị

trường Liên minh Châu Âu (EU)

2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam vào thị trường

Liên minh châu Âu (EU) trong giai đoạn 2010 – 2019

Biểu đồ 2.1: Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng hàng nông sản của

Việt Nam giai đoạn năm 2010 – 2019

(Nguồn: Tác giả tổng hợp tại trang web của Tổng cục thống kê theo đường

dẫn https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=629. Số liệu được lấy theo các báo

cáo xuất nhập khẩu từ năm 2010 đến 2019)

Hiện nay, Việt Nam có hơn 10 sản phẩm nông sản xuất khẩu chủ lực, trong đó

có các sản phẩm xuất khẩu trên 1 tỷ USD như cà phê, điều, gạo, rau quả, hồ tiêu…

Nông sản của Việt Nam đã có mặt tại hơn 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới,

bao gồm cả các thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản… Một số mặt hàng có vị

trí xuất khẩu cao trên thế giới như điều, hồ tiêu (đứng thứ nhất), cà phê (đứng thứ

hai), gạo (đứng thứ ba),...

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2018, kim

ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU là trên 22,7 tỷ USD, chiếm tỷ trọng trên 15%

tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Theo thống kê, trong 7 tháng đầu

44

năm 2019, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản ước đạt 23,03 tỷ USD, tăng 2%

so với cùng kỳ, trong đó kim ngạch xuất khẩu nhóm các mặt hàng nông sản lại giảm

tới 8,2%. Điều đó cho thấy, xuất khẩu nông sản đã và đang gặp không ít rào cản, khó

khăn.

Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường EU so với Thế giới giai đoạn giai đoạn năm 2010 – 2019

Năm EU Thế giới Tỷ trọng (%)

2010 1.134 7.306 15,5

2011 1.644 9.441 17,4

2012 1.859 10.663 17,4

2013 1.678 9.508 17,6

2014 2.228 11.405 19,5

2015 2.098 11.181 18,8

2016 2.429 12.454 19,5

2017 2.580 14.224 18,1

2018 2.393 14.754 16,2

2019 2.190 13.646 16,0

(Nguồn: Tác giả tổng hợp tại trang web của Tổng cục thống kê theo đường

dẫn https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=629. Số liệu được lấy theo các báo

cáo xuất nhập khẩu từ năm 2010 đến 2019)

Theo thống kê của Tổng cục Thống kê, đến hết năm 2019, Việt Nam luôn nằm

trong top đầu những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, với tổng giá trị đạt

13,646 tỷ USD, riêng thị trường liên minh Châu Âu EU chiếm 16% tỷ trọng xuất

khẩu với 2,19 tỷ USD. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam

trong giai đoạn từ năm 2010 - 2019 đạt 114,582 tỷ USD, trong đó thị trường EU là

20,233 tỷ USD, chiếm 17,7% tổng kim ngạch xuất khẩu. Điều này cho thấy, trong

vòng 10 năm qua, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản vào thị trường EU vẫn

đang ở mức ổn định, luôn ở mức 16-19% so với tổng kim ngạch xuất khẩu ra Thế

giới. Tuy nhiên, dù kim ngạch xuất khẩu vẫn ổn định theo năm, nhưng với việc các

nước trên Thế giới nói chung và EU nói riêng đang đưa ra nhiều quy định quản lý,

thắt chặt các quy định về chất lượng, an toàn thực phẩm, cũng như các quy định kỹ

45

thuật về tem nhãn, mã số hàng hoá,…cũng ảnh hưởng đến việc xuất khẩu hàng hoá

của Việt Nam, một nước vẫn đang dừng lại ở mức xuất khẩu chủ yếu các hàng thô

sơ, ít qua chế biến.

2.1.2. Cơ cấu xuất khẩu hàng nông sản theo mặt hàng

2.1.2.1. Cà phê

a. Kim ngạch và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu

Biểu đồ 2.2: Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng của cà phê Việt Nam

sang thị trường sang thị trường EU giai đoạn 2010 – 2019

(Nguồn: Tác giả tổng hợp tại trang web của Tổng cục thống kê theo đường

dẫn https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=629. Số liệu được lấy theo các báo

cáo xuất nhập khẩu từ năm 2010 đến 2019)

Trong các sản phẩm nông sản, mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu sang EU lớn nhất

là cà phê. Tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường EU chiếm gần 50% tổng kim ngạch xuất

khẩu cà phê của Việt Nam sang thị trường quốc tế trong giai đoạn 2010 – 2019.

Theo biểu đồ ta thấy kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam sang thị trường EU

trong giai đoạn 2010 – 2019 đã tăng 1,67 lần từ mức 697 triệu USD năm 2010 lên

mức 1164 triệu USD năm 2019. Tuy nhiên, có sự không ổn định ở tốc độ tăng trưởng,

thậm chí có sự sụt giảm mạnh ở một số năm (2013, 2015, 2019).

Lý giải cho điều này, hiện nay có nhiều quốc gia tham gia vào thị trường xuất

khẩu cà phê vào EU, đe doạ chiếm thị phần cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Điển

hình là Brazil, với việc thúc đẩy xuất khẩu cà phê robusta vào EU, Brazil có thể sẽ

46

sớm soán ngôi vị quốc gia xuất khẩu cà phê robusta lớn nhất thế giới mà Việt Nam

đang nắm giữ. Ngoài ra, Indonesia cũng đang đẩy mạnh việc sản xuất và xuất khẩu

cà phê vào EU cũng như ra Thế giới, đặt Việt Nam vào thế bắt buộc phải quan tâm

đồng bộ các giải pháp tổng thể: đẩy mạnh công tác tái cơ cấu ngành cà phê một cách

hiệu quả, xây dựng các vùng trồng tập trung, chuyên canh gắn với phát triển công

nghiệp chế biến, áp dụng tiến bộ công nghệ cao, thúc đẩy liên kết vùng nguyên liệu

với các cơ sở, nhà máy chế biến sâu để tạo nguồn hàng đảm bảo ổn định về chất lượng

và số lượng, đáp ứng yêu cầu của thị trường.

b. Tỷ trọng xuất khẩu cà phê sang EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu cà

phê của Việt Nam

Bảng 2.2: Tỷ trọng xuất khẩu cà phê sang EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2019

Kim ngạch xuất Tổng Kim ngạch xuất

Tỷ trọng (%) Năm

khẩu cà phê sang EU (triệu USD) khẩu cà phê của Việt Nam (triệu USD)

2010 697 1.851 37,6%

2011 1.031 2.760 37,4%

2012 1.247 3.674 33,9%

2013 1.061 2.717 39,0%

2014 1.477 3.557 41,5%

2015 1.155 2.671 43,3%

2016 1.377 3.335 41,3%

2017 1.365 3.244 42,1%

2018 1.344 3.537 38,0%

2019 1.164 2.854 40,8%

Trung bình 41,1%

(Nguồn: Tác giả tổng hợp tại trang web của Tổng cục thống kê theo đường

dẫn https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=629. Số liệu được lấy theo các báo

cáo xuất nhập khẩu từ năm 2010 đến 2019)

Có thể thấy, tỷ trọng trung bình kim ngạch xuất khẩu cà phê sang thị trường EU

trong tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt 41,1% (xem bảng 2.2).

Trong vòng 10 năm, tỷ trọng xuất khẩu đang có xu hướng tăng dần từ mức 37,6%

47

vào năm 2010 lên 40,8% vào năm 2019. Điều này chỉ ra mức độ phụ thuộc vào thị

trường EU của sản phẩm cà phê xuất khẩu Việt Nam.

2.1.2.2. Hạt điều

a. Kim ngạch và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu

Kim ngạch xuất khẩu hạt điều có xu hướng tăng theo thời gian, năm 2010 chỉ

từ 227 triệu USD đã tăng 3,4 lần đến năm 2019, lên mức 763 triệu USD (biểu đồ 2.3).

Trong đó, có năm 2017 với kim ngạch xuất khẩu hạt điều cao kỷ lục là 944 triệu USD.

Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hạt điều lại mang xu hướng biến động, có những năm

đạt tốc độ tăng trưởng cao (2011, 2014, 2017), và cũng có những năm tốc độ tăng

trưởng giảm mạnh (2012, 2013, 2018, 2019). Điều này bị ảnh hưởng bởi giá hạt điều

trên toàn thế giới xụt giảm rõ rệt trong những năm vừa qua, ảnh hưởng đến kim ngạch

xuất khẩu hạt điều của Việt Nam ra thế giới, cũng như vào EU.

Biểu đồ 2.3: Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng của sản phẩm hạt

điều Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2010 - 2019

(Nguồn: Tác giả tổng hợp tại trang web của Tổng cục thống kê theo đường

dẫn https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=629 . Số liệu được lấy theo các báo

cáo xuất nhập khẩu từ năm 2010 đến 2019)

b. Tỷ trọng xuất khẩu hạt điều sang EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu hạt

điều của Việt Nam

Trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2019, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu

hạt điều sang thị trường EU vẫn còn khá khiêm tốn (bảng 2.3).

48

Bảng 2.3: Tỷ trọng xuất khẩu hạt điều sang EU trong tổng kim ngạch xuất

khẩu hạt điều của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2019

Kim ngạch xuất khẩu Tổng kim ngạch xuất khẩu Tỷ

Năm hạt điều sang EU (triệu hạt điều của Việt Nam trọng

USD) (triệu USD) (%)

2010 227 20,00% 1.137

2011 326 22,10% 1.473

2012 297 20,20% 1.470

2013 290 17,60% 1.646

2014 418 21,00% 1.994

2015 572 23,90% 2.398

2016 706 24,80% 2.843

2017 944 26,90% 3.517

2018 819 24,30% 3.366

2019 763 23,20% 3.289

Trung bình 24,8%

(Nguồn: Tác giả tổng hợp tại trang web của Tổng cục thống kê theo đường dẫn

https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=629 . Số liệu được lấy theo các báo cáo

xuất nhập khẩu từ năm 2010 đến 2019)

Tỷ trọng trung bình kim ngạch xuất khẩu hạt điều sang thị trường EU trong tổng

kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt 24,8%. Tỷ trọng này có xu hướng tăng

dần từ năm 2010 là 20% lên 3,2% đến năm 2019 là 23,2%. Trong đó có năm 2017 đạt

tỷ trọng cao nhất ở giai đoạn này là 26,9%.

2.1.2.3. Chè

a. Kim ngạch và tốc độ

Qua biểu đồ 2.4, ta có thể thấy giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2019 kim ngạch

xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng chè của Việt Nam có xu hướng giảm rõ rệt. Cụ thể

từ năm 2010 đến năm 2014, kim ngạch xuất khẩu trung bình đều trên 7 triệu USD,

cao nhất là năm 2013 với giá trị kim ngạch là 10,1 triệu USD. Cùng với khoảng thời

gian này là tốc độ tăng trưởng luôn ở mức cao, đạt đỉnh 12,2% vào năm 2012. Tuy

nhiên, xuất hiện sự sụt giảm của kim ngạch xuất khẩu vào năm 2014 xuống còn 7,5

triệu USD và tốc độ tăng trưởng giảm sâu xuống còn -25,91%.

49

Biểu đồ 2.4: Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng mặt hàng chè của

Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2010 - 2019

(Nguồn: Tác giả tổng hợp tại trang web của Tổng cục thống kê theo đường dẫn

https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=629 . Số liệu được lấy theo các báo cáo

xuất nhập khẩu từ năm 2010 đến 2019)

Giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019 đã ghi nhận sự giảm rõ rệt của kim ngạch

xuất khẩu từ 5,8 triệu USD vào năm 2016 xuống còn 1,7 triệu USD vào năm 2019,

giảm 4,1 triệu USD. Bên cạnh đó cũng chứng kiến là tốc độ tăng trưởng không ổn

định khi xuất khẩu chè của Việt Nam sang thị trường EU. Năm 2018, tốc độ tăng

trưởng cao nhất trong giai đoạn này chỉ ở mức 1,14% và sau đó là sự giảm mạnh còn

- 52,97% vào năm 2019, giảm tới 54,11%.

c. Tỷ trọng xuất khẩu chè sang EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu chè

của Việt Nam

Trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2019, kim ngạch xuất khẩu chè và tỷ

trọng xuất khẩu chè sang thị trường EU đều có xu hướng giảm và chiếm tỷ trọng nhỏ

trong cơ cấu xuất khẩu chè của Việt Nam (bảng 2.4). Cụ thể, từ năm 2010 tỷ trọng

xuất khẩu là 4,2%, đến năm 2019 tỷ trọng giảm đến 3,5% xuống còn 0,7%. Kim

ngạch xuất khẩu cũng giảm mạnh từ 8,430 triệu USD vào năm 2010 đến 1,654 triệu

USD vào năm 2019, giảm tới 6,776 triệu USD. Tỷ trọng cao nhất của giai đoạn này

là 4,4% ở năm 2013, tuy nhiên con số này vẫn rất khiêm tốn.

Ta có thể thấy, trong vòng 10 năm từ 2010 đến 2019, chè là một trong những

mặt hàng có sự giảm sút cả về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU.

Sản phẩm chè Việt Nam xuất khẩu ở mức chưa cao do chất lượng sản phẩm chè còn

50

thấp cũng như chưa có thương hiệu do đang chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu thô. Đa

phần chè Việt vẫn chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường dễ tính, rất ít sản phẩm chè

đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào các thị trường yêu cầu chất lượng cao như EU hay Mỹ.

Bảng 2.4: Bảng tỷ trọng xuất khẩu chè sang EU trong tổng kim ngạch xuất

khẩu chè của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2019

Kim ngạch xuất khẩu Tổng kim ngạch xuất khẩu Tỷ trọng Năm chè sang EU (triệu chè của Việt Nam (triệu (%) USD) USD)

2010 8,43 200,54 4,2%

2011 8,90 205,54 4,3%

2012 9,99 224,59 4,4%

2013 10,07 229,41 4,4%

2014 7,46 228,12 3,3%

2015 5,76 217,19 1,7%

2016 3,75 217,21 1,7%

2017 3,48 227,93 1,5%

2018 3,52 217,83 1,6%

2019 1,65 236,43 0,7%

Trung bình 2,8%

(Nguồn: Tác giả tổng hợp tại trang web của Tổng cục thống kê theo đường dẫn

https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=629 . Số liệu được lấy theo các báo cáo

xuất nhập khẩu từ năm 2010 đến 2019)

2.1.2.4. Hàng rau quả

a. Kim ngạch và và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu

Thị trường EU là một trong những thị trường đầy tiềm năng cho xuất khẩu rau

quả của Việt Nam bởi đây là một thị trường rộng lớn cùng nhu cầu nhập khẩu rau

quả, đặc biệt là rau quả nhiệt đới. Trong giai đoạn từ năm 2010 – 2019, kim ngạch

xuất khẩu của hàng rau quả có sự tăng nhanh và mạnh (biểu đồ 2.5). Cụ thể vào năm

2010, kim ngạch xuất khẩu chỉ có khoảng 54 triệu USD thì sau 9 năm đã tăng 94 triệu

USD lên đến 148 triệu USD vào năm 2019.

51

Biểu đồ 2.5: Kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng của sản phẩm hạt

điều Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2010 - 2019

(Nguồn: Tác giả tổng hợp tại trang web của Tổng cục thống kê theo đường dẫn

https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=629 . Số liệu được lấy theo các báo cáo

xuất nhập khẩu từ năm 2010 đến 2019)

Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng có sự gia tăng nhưng chưa ổn định. Giai đoạn

2011-2013, tốc độ tăng trưởng đạt cao nhất vào năm 2011 với 10,39%. Nhưng chỉ,

sau 1 năm ta thấy sự sụt giảm mạnh mẽ xuống -21,23% cho thấy tốc độ tăng trưởng

thấp nhất trong suốt 9 năm trở lại đây khi giảm tới 31,62%. Giai đoạn 2013 – 2019

cho thấy tốc độ tăng trưởng bình ổn hơn và có sự phát triển. Cụ thể là năm 2013, tốc

độ tăng trưởng là 14,32% thì đến năm 2019 là 28,48% đã tăng 14,25%.

b. Tỷ trọng xuất khẩu hàng rau quả sang EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu

hàng rau quả của Việt Nam.

Tuy kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường EU có xu hướng

tăng từ năm 2010 đến năm 2019, nhưng tỉ trọng xuất khẩu sang EU trong tổng kim

ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn (bảng 2.5). Cụ thể: tỷ

trọng xuất khẩu rau quả cao nhất là 11.8% vào năm 2010. Từ các năm sau, tỷ trọng

xuất khẩu giảm chỉ chiếm dưới 10%. Đến năm 2017 và năm 2018, tỷ trọng giảm

xuống chỉ còn 3% thấp nhất trong khoảng 9 năm trở lại đây. Điều này cho thấy, các

doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu rau quả của Việt Nam chưa có sự đầu tư mạnh

mẽ về công nghệ sản xuất để đáp ứng các hàng rào kỹ thuật từ thị trường EU khi

EVFTA có hiệu lực, với việc xoá bỏ hoàn toàn mức thuế, kim ngạch xuất khẩu rau

quả sang EU sẽ có nhiều cơ hội để gia tăng được kim ngạch xuất khẩu và khi đó chắc

52

chắn tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm rau quả của Việt Nam sang thị trường này sẽ ngày

càng lớn hơn.

Bảng 2.5: Tỷ trọng xuất khẩu rau quả sang EU trong tổng kim ngạch xuất

khẩu hạt điều của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2019

Tỷ trọng Kim ngạch xuất khẩu rau quả sang Tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Năm (%) EU (triệu USD) Nam (triệu USD)

2010 54 460 11,80%

2011 60 622 9,70%

2012 47 827 5,70%

2013 54 1.073 5,00%

2014 69 1.488 4,70%

2015 86 1.839 4,70%

2016 93 2.457 3,80%

2017 106 3.501 3,00%

2018 115 3.809 3,00%

2019 148 3.747 4,00%

3,70% Trung bình

(Nguồn: Tác giả tổng hợp tại trang web của Tổng cục thống kê theo đường dẫn

https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=629 . Số liệu được lấy theo các báo cáo

xuất nhập khẩu từ năm 2010 đến 2019)

2.1.3. Cơ cấu xuất khẩu hàng nông sản theo quốc gia

2.1.3.1. Cà phê

Hiện nay, cà phê Việt Nam đang ngày càng được ưa chuộng tại thị trường EU,

đứng thứ 2 trong danh sách các nước xuất khẩu cà phê chính tại EU, chỉ sau Brazil

(bảng 2.6). Từ việc chỉ chiếm 5,7% thị phần năm 2010, cà phê Việt Nam giờ đây đã

chạm mốc 9%, có khi lên đến 9,44% (2018). Với việc tăng năng suất lao động, tăng

chất lượng cà phê thô và cà phê đã qua chế biến, sản phẩm cà phê Việt Nam ngày

càng chiếm một vị trí quan trọng trong thị trường tiêu thụ cà phê EU nói riêng, và cà

phê thế giới nói chung.

53

Bảng 2.6: Thị phần cà phê Việt Nam và một số đối thủ cạnh tranh chính

tại thị trường EU giai đoạn 2010 – 2019

Đơn vị: %

Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 Việt Nam 5,7 5,7 7,63 7,42 9,18 7,33 9,31 9,56 9,44 8,35 Brazil 22,8 23,24 18,57 16,46 20,7 18,52 16,9 14,88 14,23 14,20 Peru 4,39 5,11 3,72 2,9 2,61 2,1 2,71 2,49 2,43 2,43 Indonesia 2,12 1,37 1,84 2,32 1,59 1,87 1,83 2,06 1,07 1,27

Colombia 3,78 4,31 3,59 3,82 5,08 5,00 4,55 4,14 3,56 3,73 (Nguồn: Tác giả tổng hợp từ trang web

https://www.trademap.org/Bilateral_TS.aspx. Số liệu được lựa chọn giữa Việt Nam

và EU từ năm 2010 đến 2019 dựa theo bảng mã sản phẩm lấy từ hệ thống HS)

Biểu đồ 2.6: Kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam theo một số các thị trường

thuộc EU giai đoạn 2010 – 2019

700,000

600,000

500,000

400,000

300,000

200,000

100,000

0

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

Hà Lan

Anh

Pháp

Đức

Bỉ

Tây Ban Nha

Italy

Thụy Điển

Hy Lạp

Ba Lan

Đơn vị: Nghìn USD

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ trang web

https://www.trademap.org/Bilateral_TS.aspx. Số liệu được lựa chọn giữa Việt Nam

và EU từ năm 2010 đến 2019 dựa theo bảng mã sản phẩm lấy từ hệ thống HS)

54

Tính đến năm 2019, Đức vẫn đang là thị trường nhập khẩu cà phê lớn nhất của

Việt Nam với 399,933 nghìn USD, chiếm 31,77% tổng kim ngạch xuất khẩu (biểu

đồ 2.6). Tiếp theo đó là Tây Ban Nha và Italy, lần lượt chiếm 18,86% và 18,06% tổng

kim ngạch xuất khẩu. Lý giải về việc Đức là thị trường nhập khẩu cà phê lớn nhất tại

EU, các công ty xuất khẩu cho biết, tại Đức tập trung nhiều tập đoàn rang xay cà phê

lớn nhất thế giới, nên nhu cầu nhập khẩu cà phê rất lớn. Trong khi đó, tỷ lệ xuất khẩu

cà phê cho thị trường Thuỵ Điển, Hy Lạp chỉ chiếm 0,004% tổng kim ngạch xuất

khẩu. Điều này phản ánh nhu cầu và thói quen sử dụng của người bản địa. Theo đó,

họ cho rằng, cà phê của Việt Nam hương vị vẫn còn quá đậm đặc, dễ gây mất ngủ,

nên chưa phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng nơi đây.

2.1.3.2. Hạt điều

Bảng 2.7: Thị phần hạt điều Việt Nam và một số đối thủ cạnh tranh chính tại

thị trường EU giai đoạn 2010 – 2019

Đơn vị: %

Việt Nam Ấn Độ Brazil Năm

2010 32,0 40,5 6,2

2011 32,9 38,1 5,5

2012 35,4 38,1 6,0

2013 34,4 38,2 4,8

2014 39,8 34,8 4,0

2015 48,5 27,0 2,5

2016 52,9 19,6 1,9

2017 52,6 22,5 1,2

2018 52,8 20,4 1,6

2019 54,7 18,7 2,3

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ trang web

https://www.trademap.org/Bilateral_TS.aspx. Số liệu được lựa chọn giữa Việt Nam

và EU từ năm 2010 đến 2019 dựa theo bảng mã sản phẩm lấy từ hệ thống HS)

Từ một nước chỉ đứng thứ 2 trong danh sách các nước xuất khẩu hạt điều chính

vào EU năm 2010, hạt điều Việt Nam đã ngày càng khẳng định vị thế của mình, với

minh chứng là sản lượng xuất khẩu ngày càng tăng, và từ năm 2014 đến nay, Việt

55

Nam luôn là nước đứng đầu về xuất khẩu hạt điều vào EU, với việc tổng sản lượng

hạt điều Việt Nam xuất khẩu vào EU chiếm đến 54,7% tổng lượng hạt điều tại thị

trường EU (2019) (bảng 2.7).

Theo thống kê của Hải quan Việt Nam, từ năm 2017, Hà Lan, Anh và Đức là

top 3 đối tác thương mại lớn nhất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong EU (biểu

đồ 2.7). Và điều này cũng được thể hiện trong tổng sản lượng hạt điều Việt Nam xuất

vào 3 thị trường này.

Biểu đồ 2.7: Kim ngạch xuất khẩu hạt điều Việt Nam theo một số các thị

trường thuộc EU giai đoạn 2010 – 2019

300,000

250,000

200,000

150,000

100,000

50,000

0

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

Hà Lan

Anh

Pháp

Đức

Bỉ

Tây Ban Nha

Italy

Thụy Điển

Hy Lạp

Ba Lan

Đơn vị: Nghìn USD

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ trang web

https://www.trademap.org/Bilateral_TS.aspx. Số liệu được lựa chọn giữa Việt Nam

và EU từ năm 2010 đến 2019 dựa theo bảng mã sản phẩm lấy từ hệ thống HS)

Tính đến năm 2019, tổng kim ngạch xuất khẩu hạt điều Việt Nam vào Đức là

264.179 nghìn USD, đứng đầu liên minh Châu Âu, tiếp theo đó là Anh với 118.381

nghìn USD, Pháp với 67.148 nghìn USD, và Hà Lan với 44.470 nghìn USD. Và đối

với hầu hết các nước EU, kim ngạch xuất khẩu hạt điều Việt Nam đều tăng đáng kể

56

trong vòng 10 năm qua. Điều này cho thấy hạt điều Việt Nam vẫn đang được ưa chuộng

tại thị trường EU và đáp ứng được thị hiếu của những khách hàng khó tính tại đây.

2.1.3.3. Chè

Mặc dù đứng vị trí thứ 7 thế giới về sản lượng và thứ 5 thế giới về kim ngạch

xuất khẩu chè, nhưng tại thị trường chè EU, thị phần chè Việt Nam tại thị trường này

còn rất hạn chế (bảng 2.8). Xuất khẩu chè sang EU có xu hướng giảm theo từng năm,

và đến năm 2019, tổng sản lượng chè xuất khẩu vào EU chỉ chiếm 0,35% thị trường

chè EU, xếp sau rất nhiều so với các nước xuất khẩu chè lớn trên thế giới, như Kenya,

Ấn Độ, Trung Quốc,…

Bảng 2.8: Thị phần chè Việt Nam và một số đối thủ cạnh tranh chính tại thị

trường EU giai đoạn 2010 – 2019

Đơn vị: %

Việt Nam Ấn Độ Trung quốc Srilanka Kenya Năm

2010 1.09 10.40 10.43 18.04 8.65

2011 1.02 10.99 10.52 16.55 9.54

2012 1.18 12.63 1.01 15.14 9.87

2013 0.95 9.93 10.71 11.91 9.11

2014 0.82 10.56 1.14 10.94 9.68

2015 0.72 11.58 10.88 14.17 8.68

2016 0.44 11.92 10.85 15.06 8.85

2017 0.46 11.46 10.12 14.71 9.19

2018 0.44 12.81 9.94 14.21 9.65

2019 0.35 12.13 10.29 12.55 9.73

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ trang web

https://www.trademap.org/Bilateral_TS.aspx. Số liệu được lựa chọn giữa Việt Nam

và EU từ năm 2010 đến 2019 dựa theo bảng mã sản phẩm lấy từ hệ thống HS)

Lý giải cho điều này, EU là một thị trường khó tính với nhiều tiêu chuẩn khắt

khe về vệ sinh an toàn thực phẩm, nguồn gốc và chất lượng sản phẩm. Với việc 90%

thị trường chè tại EU là chè túi lọc, không phải thế mạnh của Việt Nam (Việt Nam

mạnh nhất với chè xanh và chè đen), nên sản lượng xuất khẩu và mức độ thâm nhập

của chè Việt Nam vào thị trường này còn yếu, và đứng ở vị trí khá khiêm tốn.

57

Với việc sản phẩm chè của Việt Nam còn ở dạng thô sơ, chế biến ít, nên việc

thâm nhập được vào thị trường EU là một bài toán nan giải. Vì thị trường này là nơi

tập trung của các nước phát triển, yêu cầu về thực phẩm cao. Việc đưa ra những sản

phẩm chè cao cấp với hương vị đặc biệt và chất lượng đặc biệt cao sẽ là thị trường

tăng trưởng chính cho các nhà nhập khẩu tại EU. Chính vì vậy, từ việc đạt kim ngạch

xuất khẩu chè tại Ba Lan 5503 nghìn USD năm 2013, tại Đức 8185 nghìn USD năm

2012, từ các năm sau đó, sản lượng xuất khẩu chè Việt Nam vào các thị trường này

đều giảm đáng kể, đến năm 2019, tại Ba Lan chỉ đạt 767 nghìn USD và tại Đức chỉ

còn 1317 nghìn USD (biểu đồ 2.8). Chưa kể việc xuất khẩu vào thị trường các nước

khác đều ở mức thấp. Tính đến năm 2019, Anh vẫn là thị trường xuất khẩu chính của

chè Việt Nam, với 1691 nghìn USD. Điều này cũng dễ hiểu, vì thị trường nhập khẩu

chè của Anh đứng thứ 3 thế giới, với gần 40% đồ uống ở Anh là chè các loại, trong

đó 96% là chè túi.

Biểu đồ 2.8: Kim ngạch xuất khẩu chè Việt Nam theo các thị trường thuộc EU

giai đoạn 2010 – 2019

9,000

8,000

7,000

6,000

5,000

4,000

3,000

2,000

1,000

0

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

Hà Lan

Anh

Pháp

Đức

Bỉ

Tây Ban Nha

Italy

Thụy Điển

Hy Lạp

Ba Lan

Đơn vị: Nghìn USD

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ trang web

https://www.trademap.org/Bilateral_TS.aspx. Số liệu được lựa chọn giữa Việt Nam

và EU từ năm 2010 đến 2019 dựa theo bảng mã sản phẩm lấy từ hệ thống HS)

58

2.1.3.4. Hàng rau quả

EU là một thị trường rất lớn của rau quả thế giới, nhưng xuất khẩu rau quả

Việt Nam sang EU còn rất khiêm tốn. Với dân số hơn 500 triệu người, EU chiếm

45% trị giá thương mại hàng rau quả toàn cầu. Việc nhập khẩu hàng rau quả vào

EU chủ yếu thông qua Hà Lan, do Hà Lan được coi là cửa ngõ để vào thị trường

EU với các mặt hàng rau quả. Hà Lan đang là nước nhập khẩu rau quả lớn nhất của

Việt Nam tại EU, với 332.719 nghìn USD năm 2019 (biểu đồ 2.9). Tuy nhiên kim

ngạch xuất khẩu hàng rau quả Việt Nam vào thị trường Hà Lan đang có xu hướng

giảm. Mặt khác, thị trường rau quả tại Đức lại đang lên ngôi. Đức là thị trường tiêu

thụ rau quả tươi lớn nhất EU hiện nay. Kim ngạch xuất khẩu hàng rau quả Việt Nam

vào Đức cũng ngày một gia tăng, đạt mức 300.095 nghìn USD năm 2019, tăng rất

nhiều so với mức 32.752 nghìn USD năm 2010. Ngòai ra, với các thị trường khác

như Anh, Pháp, Italy,…kim ngạch xuất khẩu hàng rau củ cũng tăng nhanh chóng

trong vòng 10 năm qua.

Biểu đồ 2.9: Kim ngạch xuất khẩu hàng rau quả Việt Nam theo một số các thị

trường thuộc EU giai đoạn 2010 – 2019

450,000

400,000

350,000

300,000

250,000

200,000

150,000

100,000

50,000

0

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

Hà Lan

Anh

Pháp

Italy

Tây Ban Nha

Bỉ

Thụy Điển

Đức

Hy Lạp

Ba Lan

Đơn vị: Nghìn USD

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ trang web

https://www.trademap.org/Bilateral_TS.aspx. Số liệu được lựa chọn giữa Việt Nam

và EU từ năm 2010 đến 2019 dựa theo bảng mã sản phẩm lấy từ hệ thống HS)

59

2.2. Cơ hội đối với việc xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam vào thị

trường Liên minh châu Âu (EU) giai đoạn 2020 – 2025

2.2.1. Cơ hội tiếp cận thị trường tiềm năng, rộng lớn

Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn phụ thuộc lớn vào đối

tác Trung Quốc, trong khi đó, kinh tế Trung Quốc đang có dấu hiệu suy giảm tăng

trưởng, việc đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam. Cộng thêm những

căng thẳng ở biển Đông giữa hai nước, Việt Nam đang cần tìm đến một thị trường

bền vững hơn và có tiềm năng hơn. Với lợi thế về số lượng người tiêu dùng lớn, với

500 triệu dân (chiếm 5,8% dân số thế giới), Liên minh châu Âu chiếm khoảng 21%

(18,2 nghìn tỷ đô la Mỹ năm 2019) GDP danh nghĩa và khoảng 16% (18,3 nghìn tỷ

đô la Mỹ năm 2019) GDP sức mua tương đương của thế giới (PPP) (số liệu của IMF).

Với triển vọng phát triển thương mại của EU được dự báo tăng, trong giai đoạn 2020

– 2025 đạt 2,99%; giai đoạn 2025 – 2030 đạt 2,51%, thông qua EVFTA, nông sản

Việt Nam có cơ hội tiến sâu hơn vào thị trường EU, đồng thời các doanh nghiệp xuất

khẩu hàng nông sản Việt Nam sẽ dễ dàng tiếp cận, tiến hành trao đổi mua bán với

những thị trường khác có thỏa thuận thương mại tự do với EU. Có thể thấy, đây sẽ là

cơ hội cho các sản phẩm xuất khẩu nói chung và hàng nông sản nói riêng sẽ gia tăng

kim ngạch xuất khẩu, mở rộng thị phần và các hàng rào thương mại được giảm dần

theo mức độ hợp tác giữa EU với Việt Nam.

Với việc tận dụng và phát huy tốt các lợi thế sẵn có trong sản xuất (các yếu tố

về tự nhiên và nguồn nhân công giá rẻ), chất lượng hàng nông sản Việt Nam từng

bước được cải thiện nhằm đáp ứng những yêu cầu nhất định của quá trình hội nhập.

Đây là một trong số các nguyên nhân làm cho khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu

nông sản của Việt Nam đang có những chuyển biến tích cực để từng bước khẳng định

vị trí của mình trên thị trường khó tính như EU trong thời gian qua.

Cuộc cách mạng nông nghiệp lần thứ tư (4.0) mang lại những tác động tích cực

cho xuất khẩu nông sản của Việt nam sang thị trường EU. Yếu tố cốt lõi của nông

nghiệp 4.0 là công nghệ thông tin, công nghệ số và trí tuệ nhân tạo. Đặc trưng cơ bản

của nông nghiệp 4.0 là số hóa các hoạt động sản xuất kinh doanh từ nông trại đến chế

biến, marketing và tiêu dùng thông qua hệ thống kết nối internet vạn vật, kết hợp các

60

hệ thống điều hành và tác nghiệp tập trung, tự động hóa và thông minh giữa công

nghệ vật lý, công nghệ sinh học và công nghệ điều hành đảm bảo cho quá trình sản

xuất - doanh diễn ra liên tục, hiệu quả và bền vững. Nông nghiệp 4.0 có ưu điểm tạo

ra các nông sản chất lương, năng suất cao ngay cả trong những điều kiện bất thuận;

điều kiện làm việc của người lao động tốt hơn, thông qua kết nối di động, ngồi ở nhà

mà nông dân vẫn có thể biết được diễn biến lô thửa cây trồng trên đồng ruộng và từng

ô chuồng, từng con gia súc để ra các quyết định đúng, hiệu quả. (Trần Thị Lan, 2018)

Hơn nữa, Việt Nam đang được hưởng lợi từ chương trình GSP mà EU dành cho

các nước đang phát triển. Chương trình GSP của EU (The EU’s General Scheme of

Preferences) tạo điều cho các nước đang phát triển xuất khẩu hàng hoá vào thị trường

EU với các ưu đãi về miễn, giảm thuế nhập khẩu. Điều này tạo điều kiện phát triển

xuất khẩu, tạo đà phát triển kinh tế, tăng cơ hội việc làm cho thị trường các nước đang

phát triển. GSP của EU phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới

(WTO), cho phép có ưu đãi ngoại lệ ngoài quy chế Tối huệ quốc (MFN) của WTO

đối với các nước đang phát triển.

Cùng với đó, hiệp định EVFTA sắp chính thức có hiệu lực sẽ tạo nhiều thuận

lợi hơn nữa cho xuất khẩu nông sản Việt nam vào thị trường EU.

2.2.2. Cơ hội giảm thiểu các hàng rào kỹ thuật thương mại bất hợp lý sau

khi các hiệp định thương mại được ký kết

Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước các cơ hội xuất khẩu lớn, không chỉ mở

rộng được thị trường mà còn tăng được kim ngạch xuất khẩu và thị phần khi hàng

rào thuế quan được xóa bỏ và hạn ngạch thuế quan chỉ giữ lại một tỷ lệ nhỏ. Những

cam kết quan trọng của EVFTA về hạn ngạch thuế (TRQ) sẽ tạo điều kiện cho

hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU ngay khi hiệp định EVFTA

có hiệu lực. Hơn nữa, cả Việt Nam và EU đều giữ lại một tỷ lệ nhỏ hàng hoá không

phải xoá bỏ thuế quan và lựa chọn TRQ là công cụ áp dụng cho phần hàng hoá

này. Cụ thể là EU chiếm 0,3% và Việt Nam chiếm 0,2% kim ngạch xuất khẩu của

đối tác.

Việc cắt giảm thuế quan giúp đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng nông sản chủ lực

của Việt Nam, cụ thể như:

61

- Gạo: Việt nam sẽ có cơ hội thấp với EU khi thị trường này tăng hạn ngạch

với Việt Nam (80.000 tấn). Nhưng mặt hàng này khó đáp ứng do yêu cầu chất lượng

và VSATTP cao và đặc biệt nhu cầu đối với gạo tại thị trường này không cao.

- Cà phê: Là mặt hàng có cơ hội cao với EU, hơn nữa dư địa giảm thuế của cà

phê rang và hoà tan tương đối lớn.

- Hạt tiêu và hạt điều: Có cơ hội trung bình với EU vì dư địa giảm thuế không

cao hoặc cơ bản đã về 0% và yêu cầu chất lượng VSATTP Việt Nam chưa đáp ứng.

- Rau quả: Là mặt hàng có cơ hội cao vì nhu cầu thị trường lớn, mức độ giảm

thuế sâu (từ 6 – 30%) và theo lộ trình tương đối nhanh với nhiều mặt hàng từ 1 đến 6

năm. EU cam kết cắt giảm thuế quan nhập khẩu từ 15% - 40% xuống 0% trong vòng

8 năm đối với mặt hàng này. Đối với tất cả rau củ quả tươi sẽ được EU xoá bỏ thuế

ngay sau khi EVFTA có hiệu lực, kể cả những mặt hàng đang chịu thuế suất cơ sở

cao nhất là 20%. Có thể thấy, đây là mức cam kết cao nhất mà Việt Nam đạt được

trong các FTA đã ký cho tới nay.

Việt Nam sẽ có cơ hội gia tăng mạnh xuất khẩu nhóm hàng nông sản ngay khi

EVFTA có hiệu lực. Sự gia tăng này sẽ tập trung vào một số mặt hàng có mức thuế

suất cơ sở cao hoặc/và được xoá bỏ thuế ngay như: rau củ quả tươi, hạt tiêu, hạt điều,

cà phê.

EVFTA quy định các nước thành viên phải công bố cả bản dự thảo và văn bản

chính thức về quy định liên quan đến SPS và TBT của nước mình. (Lê Hữu Thành,

2019). Trong đó, các bản dự thảo về quy định SPS của các nước cũng phải công bố

cho các nước thành viên trước khi phê duyệt trong vòng 60 ngày để các nước thành

viên có góp ý và bày tỏ quan ngại. Về thanh tra, kiểm tra và chứng nhận các nước

khi thực hiện việc này phải tuân thủ nguyên tắc không được làm chậm trễ và không

được ảnh hưởng tới các sản phẩm nhập khẩu tương tự như các sản phẩm sản xuất

trong nước. Những quy định này góp phần tạo cơ hội cho các doanh nghiệp xuất

khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường EU có đủ thời gian để tìm hiểu

các rào cản kỹ thuật và được góp ý kiến và thái độ quan ngại trước các rào cản kỹ

thuật bất hợp lý.

62

Hơn nữa, doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sẽ dễ dàng tiếp

cận thông tin hải quan và chi phí thủ tục thương mại ngày càng hợp lý hơn. Hiệp định

EVFTA quy định việc tăng cường hợp tác giữa hai bên về hải quan nhằm mục đích

vừa đảm bảo kiểm soát hải quan, vừa tạo thuận lợi cho thương mại, giảm thiểu chi

phí liên quan cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu như: công

khai, minh bạch các quy định và thủ tục hành chính, có đầu mối cung cấp thông tin,

các khoản phí và lệ phí ở mức hợp lý, khuyến khích cơ chế hải quan một cửa. Theo

đó, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sẽ dễ dàng tiếp cận

thông tin và thực hiện các thủ tục thương mại với các chi phí hợp lý hơn.

Ngoài ra, thời gian xuất khẩu, chi phí tuân thủ TBT và SPS sẽ có cơ hội giảm.

Vì bên cạnh các nguyên tắc của Hiệp định SPSs của WTO, Việt Nam và EU còn đạt

được thoả thuận về một số nguyên tắc nhằm tạo điều kiện cho hoạt động thương mại

đối với động vật sống, mặt hàng nông sản, theo đó EVFTA cho phép mỗi bên thiết

lập danh sách các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản đáp ứng yêu cầu về vệ sinh

an toàn thực phẩm. Những doanh nghiệp Việt Nam trong danh sách này sẽ được xuất

khẩu hàng hoá sang thị trường EU mà không phải qua khâu thanh tra doanh nghiệp.

Hơn nữa, EVFTA cũng có những thoả thuận liên quan đến thanh kiểm tra, phê chuẩn

và công nhận tương đương với các biện pháp SPSs do mỗi bên áp dụng nhằm làm

giảm bớt các rào cản về kiểm dịch đối với hàng nông thuỷ sản, thực phẩm xuất khẩu

giữa hai bên. EVFTA đã quy định rõ ràng thời hạn xem xét công nhận tương đương

và khoảng thời gian này là 3 tháng (ngắn hơn 3 tháng so với quy định của WTO) kể

từ lúc nhận được đề nghị để tạo thuận lợi cho việc xuất nhập khẩu nông sản và thực

phẩm giữa hai bên. Chương trình SPSs trong EVFTA còn có những quy định linh

hoạt đối với biện pháp SPSs do EU ban hành mà Việt Nam khó đáp ứng, đồng thời

cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật để giúp Việt Nam đáp ứng các biện pháp này. Đó cũng

là những ưu đãi của EU dành cho Việt Nam, thể hiện đúng mục tiêu đảm bảo lợi ích.

Các sản phẩm nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU có cơ hội

giảm được rủi ro trong vụ kiện chống bán phá giá. Hàng nông sản xuất khẩu của Việt

Nam sang thị trường EU sẽ được hệ thống phòng vệ thương mại trong EVFTA giúp

loại bỏ những rủi ro trong tương lai khi xuất khẩu tăng mạnh, đặc biệt là trong những

63

ngành nhạy cảm với các vụ kiện chống bán phá giá trên thế giới và đồng thời cũng là

những mặt hàng nông sản xuất khẩu lớn của Việt Nam sang EU như: cà phê, rau quả,

chè, hồ tiêu, hạt điều,…

2.2.3. Cơ hội cho hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam nâng cao chất lượng sản phẩm và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu khi các hiệp định thương mại được ký kết

Việc EVFTA được ký kết sẽ tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động trao đổi thương

mại để hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang châu Âu, đáp ứng đúng các tiêu chuẩn

chất lượng và an toàn mà thị trường này đòi hỏi. Các biện pháp phòng vệ thương mại

(chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ), các rào cản kỹ thuật trong thương mại

(TBTs), các biện pháp kiểm dịch động thực vật và vệ sinh an toàn thực phẩm (SPSS)...

đã có những tác động nhất định tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian

vừa qua, được cho là sẽ có những tác động tích cực hơn, đem lại những lợi ích đáng

kể cho xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. (Mutrap, 2010)

Do phải đáp ứng các yêu cầu về TBT và SPS của EU, cũng như sức ép cạnh

tranh đến từ các sản phẩm nông sản của EU xuất khẩu vào thị trường Việt Nam, đồng

thời đòi hỏi chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam phải ngày càng cải

thiện và nâng cao, các cam kết về kiểm dịch động thực vật (SPS) và hàng rào kỹ thuật

(TBT) sẽ là những áp lực cần thiết để các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu sản

phẩm nông sản của Việt Nam phải đầu tư vào việc chú trọng vấn đề ATVSTP để xuất

khẩu hoặc cạnh tranh với chính mặt hàng nhập khẩu từ EU tại thị trường nội địa. Các

doanh nghiệp Việt Nam có thể bảo vệ một cách hợp lý và phù hợp cam kết sản xuất

trong nước, bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng và quyền lợi của họ khi đưa vào áp dụng

các rào cản SPS và TBT. Điều này sẽ có tác động hai mặt là vừa giúp nâng cao chất

lượng, giá trị gia tăng cho sản phẩm nông sản phù hợp với định hướng tái cơ cấu

ngành nông nghiệp lại vừa giúp cho người tiêu dùng Việt Nam có cơ hội được tiêu

dùng các sản phẩm chất lượng và đảm bảo nguồn gốc xuất xứ cũng như VSATTP.

Ngoài ra, các sản phẩn nông sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ có cơ hội xây dựng

và bảo vệ thương hiệu sản phẩm tại thị trường EU do được bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại

EU một cách dễ dàng hơn. 160 chỉ dẫn của EU sẽ được Việt Nam bảo hộ, liên quan

64

đến toàn bộ 27 thành viên EU. Ngược lại, sẽ có 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam sẽ

được EU bảo hộ. Điều này giúp giữ vững thương hiệu Việt trên thị trường EU, tránh

bị mất thị trường vào các đối thủ cạnh tranh.

Bằng việc cải cách môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông

nghiệp, thực hiện các cam kết trong EVFTA như: đầu tư, mua sắm công, minh bạch

hoá, dịch chuyển lao động,… giúp các công ty Việt Nam tiếp cận tri thức, công nghệ

của châu Âu. Trong đó, đặc biệt là các đổi mới về chính sách sử dụng đất nông nghiệp,

trợ cấp nông nghiệp giúp tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư

từ EU và các nước khác đầu tư vào những lĩnh vực chế biến nông sản mà Việt Nam

còn yếu kém như: công nghệ cao trong nông nghiệp và chế biến như gạo, cà phê, rau

quả,…Bên cạnh đó sẽ tạo ra sức lan toả để thu hút các cá nhân, doanh nghiệp trong

nước mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực nông sản. Một thực tế hiện nay là có rất nhiều tập

đoàn lớn của Việt nam đang đầu tư mạnh mẽ vào nông nghiệp như HAGL,

Vingroup,…

Việt Nam còn được tiếp cận và nhập khẩu các công nghệ sản xuất hiện đại với

chi phí hợp lý hơn. Bên cạnh các hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp sản xuất và xuất

khẩu nông sản của Việt Nam sẽ được lợi từ nguồn hàng hoá phong phú, với hệ thống

nguyên liệu nhập khẩu chất lượng cao và ổn định với mức giá hợp lý. Đặc biệt là có

nhiều cơ hội nhập khẩu các thiết bị, máy móc, với công nghệ kỹ thuật cao từ EU,

từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng năng suất hàng hoá của doanh

nghiệp mình.

Bên cạnh đó, dưới áp lực của EVFTA sẽ khiến cho quá trình tái cơ cấu ngành

nông nghiệp sẽ diễn ra nhanh và quyết liệt hơn. Vấn đề thuế quan liên quan đến

ngành nông nghiệp coi như được giải quyết và mặc dù các biện pháp phi thuế quan

cũng được gỡ bỏ nhưng các biện pháp liên quan đến các quy định kĩ thuật sẽ tác

động mạnh mẽ đến các doanh nghiệp và người nông dân. Tuy nhiên, với sức ép này

sẽ làm cho doanh nghiệp và người nông dân buộc phải thay đổi phương thức sản

xuất theo hướng bền vững hơn, gia tăng mức độ ứng dụng các biện pháp thực hành

nông nghiệp bền vững, giảm thiểu sử dụng phân bón hoá học, thuốc trừ sâu ảnh

hưởng đến môi trường, sức khoẻ và dinh dưỡng của người dân.

65

2.3. Thách thức

Trong hoạt động xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Liên minh

châu Âu (EU) bên cạnh những cơ hội vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: Thị trường

xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU còn khiêm tốn và phụ thuộc vào những nước

đối tác gồm Pháp, Đức, Anh, Ý, Hà Lan, Tây Ban Nha, Áo, Bỉ. Trong tương lai tình

trạng này có khả năng còn tiếp diễn vì sự chênh lệch trong kim ngạch và tốc độ tăng

trưởng thương mại của Việt Nam với nhóm trên là rất lớn. Chính vì vậy, điều này sẽ

làm cho xuất khẩu nông sản của Việt Nam với EU dễ bị tổn thương và phụ thuộc vào

sự biến động của các thị trường này.

Bên cạnh đó, cơ cấu thương mại theo nhóm ngành tương tự cũng kém đa dạng

với chủ yếu hàng nông sản Việt nam xuất khẩu sang EU tập trung vào những mã sản

phẩm chưa qua chế biến, tỷ trọng xuất khẩu nông sản thô chiếm tới 70% tổng kim

ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Điều này sẽ dẫn đến hậu quả là giá trị

gia tăng thấp và rủi ro cao nếu EU siết chặt vấn đề dư lượng thuốc bảo vệ thực vật

trong hàng nông sản.

Có thể thấy, mặc dù EU là một thị trường tiềm năng nhưng cũng là thị trường

có chính sách bảo vệ người tiêu dùng chặt chẽ. Do vậy, trong quá trình xuất khẩu

hàng nông sản sang EU thì Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức.

2.3.1. Thách thức đối diện với những đòi hỏi khắt khe về sở hữu trí tuệ,

đảm bảo quy tắc xuất xứ, cam kết lao động và vấn đề bảo vệ môi trường

Trước hết, Việt Nam sẽ đối mặt với thách thức về sở hữu trí tuệ. Đây là yêu cầu

quan trọng, đặt lên hàng đầu từ phía EU trong khi Việt Nam còn khá thờ ơ về vấn đề

này. Hơn nữa, so với các quy định về quyền sở hữu trí tuệ của WTO thì các quy định

về bảo hộ sở hữu trí tuệ của EU có yêu cầu cao hơn nhiều. Mặt khác, hiện nay Việt

Nam vẫn còn chưa sát sao trong việc quản lý các quy định về sở hữu trí tuệ, dẫn đến

việc vi phạm các quy định về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam vẫn thường xuyên diễn ra.

Việc quản lý các vấn đề vi phạm sở hữu trí tuệ chỉ phát sinh khi có gian lận trên thị

trường mà chưa xuất phát từ bản thân các khâu sản xuất. Do đó, việc các doanh nghiệp

lơ là các cam kết sở hữu trí tuệ và vi phạm các cam kết này là rất cao.

66

Thứ hai, Việt Nam còn gặp khó khăn trong việc đảm bảo quy tắc xuất xứ. Hiệp

định EVFTA tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, với việc xoá bỏ đến

99% thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, với nguồn nguyên liệu chủ yếu được nhập khẩu từ

ASEAN, Trung Quốc, cản trở lớn nhất đối với hàng hoá của Việt Nam khi muốn

hưởng được mức ưu đãi này, thì các sản phẩm hàng hoá của Việt Nam cần thoả mãn

quy tắc xuất xứ. Hàng xuất khẩu của Việt Nam theo EVFTA sẽ chỉ đạt được mức

thuế đãi ngộ tối huệ quốc chứ không phải là 0% thuế nhập khẩu, nếu không đảm bảo

được quy tắc xuất xứ. (Trần Ngọc Quân, 2015)

Hiệp định EVFTA quy định khá chi tiết các thủ tục, điều kiện ràng buộc về thời

hạn, cách thức mà các nước phải tuân thủ về thủ tục chứng nhận xuất xứ theo từng

trường hợp cụ thể. Đây là một thách thức lớn đối với Việt Nam khi hệ thống, khả

năng truy xuất nguồn gốc xuất xứ nguyên liệu và năng lực chuẩn bị hồ sơ chứng minh

nguồn gốc xuất xứ còn hạn chế.

Một số ngành hiện nay của Việt Nam có nguy cơ khó đáp ứng các quy định về

xuất xứ. Ví dụ, trong ngành hạt điều, EU có quy định tương đối chặt chẽ về nguồn

gốc xuất xứ với hạt điều khi xem công đoạn gia công bóc vỏ hạt điều là chế biến giản

đơn nên bắt buộc xuất xứ phải chế biến từ nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước.

Trong khi đó, Việt Nam đang nhập khẩu rất nhiều nguyên liệu (63% nhu cầu chế

biến) để sản xuất từ ngoại khối như: Bờ biển Ngà, Ghana, Nigeria. Việc tìm kiếm

một nguồn hàng nhập khẩu nguyên liệu mới ngay trong chính EU hoặc phát triển các

vùng nguyên liệu nội địa là bài toán đặt ra cho Việt Nam để đảm bảo quy tắc xuất xứ.

Thứ ba, Việt Nam cần chú ý đối với vi phạm cam kết lao động. Về việc sử dụng

lao động trong chuỗi nông sản, Việt Nam lại đối mặt với thách thức vì hiện có tới

1,75 triệu lao động trẻ em, trong đó 85% sống ở nông thôn và 67% làm trong lĩnh

vực nông nghiệp. Điều này có nguy cơ vi phạm về cam kết lao động trong EVFTA

và các nước nhập khâu nông sản của Việt Nam có thể từ chối nhập khẩu đối với

các mặt hàng nông sản có sự tham gia sản xuất của lao động trẻ em.

Cuối cùng, Việt Nam còn gặp thách thức trong việc bảo vệ môi trường. Thực

tế, với kinh nghiệm non kém trong việc thực hiện các ràng buộc về môi trường,

các hoạt động bảo vệ môi trường còn kém, ý thức của người dân trong bảo vệ môi

67

trường thấp với năng lực quản lý còn yếu đã tác động trực tiếp đến việc thực hiện

các nghĩa vụ về môi trường trong Hiệp định EVFTA. Có thế thấy rằng, thực trạng

này đặt ra những thách thức không nhỏ cho Việt Nam bởi những yêu cầu thực hiện

trách nhiệm xã hội từ EU gửi cho các doanh nghiệp xuất khẩu ở Việt Nam.

2.3.2. Thách thức từ các rào cản kỹ thuật, bảo quản sau thu hoạch và vấn đề vệ sinh thực phẩm đối với hàng nông sản nhập khẩu từ phía EU rất chặt chẽ

Để thâm nhập được vào thị trường EU, bên cạnh những quy định về sở hữu

trí tuệ, xuất xứ, lao động,… Việt Nam còn phải đối mặt với hàng rào phi thuế quan

về kỹ thuật, kiểm dịch động thực vật (SPS), các rào cản kỹ thuật trong thương mại

(TBT) và vệ sinh an toàn thực phẩm. Mặc dù EVFTA có ưu đãi với những quy

định SPS linh hoạt nhưng đa số ngành hàng nông sản của nước ta như chè, rau

quả,... vẫn vấp phải những hạn chế do tồn dư thuốc bảo vệ thực vật, thiếu tính

đồng nhất trong từng lô hàng, công tác thu hoạch bảo quản chưa tốt nên chất lượng

còn hạn chế. Tất cả những loại thực phẩm tiêu thụ ở EU như rau quả tươi, rau quả

chế biến sẵn, rượu, ngũ cốc và các sản phẩm ngũ cốc, các sản phẩm nguồn gốc động

vật và các sản phẩm nguồn gốc thực vật đều phải tuân thủ quy định về giới hạn tồn

dư tối đa thuốc trừ sâu (MRLs). Hướng dẫn 79/117/EEC nêu rõ, cấm đưa vào thị

trường và sử dụng các sản phẩm bảo vệ thực vật có chứa các hoạt chất có khả năng

gây hại cho sức khoẻ người và động vật hoặc gây hại cho môi trường. Nếu bất kỳ sản

phẩm nhập khẩu hay lô hàng nào bị phát hiện có chứa chất cấm, EU hoàn toàn có

quyền từ chối nhập khẩu sản phẩm, lô hàng đó và ngay lập tức đưa đi tiêu huỷ, đồng

thời sẽ xem xét truy tố và áp lệnh cấm xuất khẩu sản phẩm đó vào EU đối với các

doanh nghiệp và nước xuất khẩu đó trong thời gian điều tra của cơ quan có thẩm

quyền.

EU quy định tất cả các nước muốn xuất khẩu vào các nước thành viên của EU

phải có một cơ quan bảo vệ thực vật quốc gia (NPPA). Tất cả các lô hàng đều phải

có một chứng nhận tình trạng sản phẩm rau quả, biện pháp kiểm tra và chữ ký xác

nhận của một nhân viên của NPPA không quá 14 ngày trước khi gửi hàng và những

chứng nhận không phải ngôn ngữ tiếng Anh phải có bản dịch đi kèm. Các cuộc kiểm

tra ngẫu nhiên sẽ được tiến hành tại cửa khẩu vào EU để khẳng định giá trị pháp lý

68

của thông tin được cung cấp trên chứng nhận. Các lô hàng vi phạm về các quy định

tình trạng rau quả có khả năng bị từ chối và tiêu huỷ và nhà xuất khẩu sẽ phải chịu

toàn bộ chi phí tiêu huỷ hàng. (Mutrap, 2016)

Thực tế, Việt Nam liên tục nhận được cảnh báo về điều kiện vệ sinh an toàn

thực phẩm từ EU. Điển hình như, giữa năm 2011, Tổng vụ Sức khỏe và Người tiêu

dùng EC đã gửi thông báo về việc có 50 trong tổng số hơn 60 doanh nghiệp xuất khẩu

rau quả của Việt Nam sang thị trường này không đạt chất lượng, rau quả bị nhiễm

sâu đục quả, sâu đục lá,… Giữa tháng 3/2012, phía EU lại phát hiện hai sản phẩm

rau xanh nhập khẩu từ Việt Nam có sâu đục lá. Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn) buộc phải thông báo ngừng cho phép xuất khẩu 5 mặt hàng

rau sang EU. Tương tự, trong năm 2014, Tổng vụ Sức khỏe và Người tiêu dùng của

EC thông báo liên tiếp về 3 chuyến hàng nhập khẩu từ Việt Nam vào EU bị phát hiện

có vi khuẩn gây hại sức khỏe người tiêu dùng trên cây húng quế và mướp đắng. Cục

Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã phải ra quyết định tạm

dừng cấp phép kiểm dịch thực vật đối với một số mặt hàng rau thơm, rau gia vị xuất

khẩu sang EU đến ngày 1/2/2015. Hay như trong năm 2016, EU đã tăng tần suất kiểm

tra mặt hàng Thanh Long của Việt Nam lên 20%. Đối với một số mặt hàng rau gia

vị, tần suất kiểm tra được tăng lên 50%. Nguyên nhân được phía EU đưa ra là do phát

hiện có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt mức cho phép trên sản phẩm. Đây là

thực tế đáng lo ngại, tác động rất lớn đến việc xuất khẩu rau quả của Việt Nam trong

thời gian tới vì việc không tuân thủ các quy định SPS sẽ khiến nông sản nước ta bị

mất uy tín, thậm chí có thể mất quyền xuất khẩu trong tương lai.

Hơn nữa, Việt Nam sẽ đối mặt với một loạt các thách thức liên hoàn nếu một

vài sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu về an toàn thực phẩm thì điều đó sẽ ảnh

hưởng dây chuyền tới hàng loạt sản phẩm khác. Do đó với những yêu cầu cao mà EU

đưa ra không phải doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nào cũng có thể đáp ứng được.

Từ đó mà chi phí sản xuất đối với hàng Việt Nam xuất vào EU tăng lên đáng kể, làm

giảm tính cạnh tranh. Nếu như doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào EU không hiểu

biết thì sẽ không thể tranh thủ được ưu đãi thuế quan, mà thậm chí còn có thể bị cấm

69

nhập khẩu, hoặc bị áp thuế chống bán phá giá rất cao ở EU, bởi xu hướng các nước

đều áp dụng triệt để các hàng rào bảo hộ.

2.3.3. Thách thức về các thủ tục, chính sách nâng cao khả năng xuất khẩu

hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường EU còn nhiều bất cập

Thứ nhất, việc kiện toàn các thủ tục thanh tra, kiểm tra và chứng nhận, quy trình

đánh giá sự phù hợp với các quy định SPS, TBT cũng là một hạn chế lớn hiện nay

của Việt Nam. Mặc dù thủ tục hành chính đã được cải thiện đáng kể trong những

năm gần đây nhưng nhìn chung quy trình và thủ tục thanh tra, kiểm tra của Việt Nam

đối với hàng hóa xuất nhập khẩu thường kéo dài, tốn kém chi phí do thiết bị, năng

lực và trình độ cán bộ hạn chế. Hệ thống phần mềm quản lý, tiêu chuẩn đo lường chất

lượng, hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và các quy trình đánh giá sự phù hợp

của Việt Nam chưa đáp ứng được các yêu cầu về quản lý cũng như xuất - nhập khẩu

hàng nông sản lưu thông trên thị trường. Hơn nữa, năng lực của Việt Nam về phản

biện và bày tỏ quan ngại thương mại với các biện pháp SPS, TBT còn yếu kém vì

chúng ta không đưa ra các lập luận cũng như căn cứ khoa học nên thường rơi vào thế

bị động và phải chấp nhận các biện pháp của các nước.

Thứ hai, chính sách nâng cao khả năng xuất khẩu hàng nông sản của Việt

Nam vẫn chưa ổn định, tính rõ ràng và minh bạch không cao. Hệ thống chính sách

khuyến khích xuất khẩu hàng hóa và khả năng xuất khẩu hàng hóa nói riêng của

Việt Nam hiện nay vẫn đang trong quá trình hoàn thiện nên việc điều chỉnh chính

sách là điều thiết yếu. Nhưng vì những điều chỉnh đó ở một số trường hợp chưa

được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng nên các doanh

nghiệp khó tiếp cận được đầy đủ với pháp luật. Điều này đã chứng tỏ rằng tính

minh bạch và rõ ràng trong chính sách chưa cao. Thực tế hiện nay, sự hiểu biết của

DN Việt Nam về EVFTA còn hạn chế. Hiện có tới 77% DN không biết, hoặc lần đầu

nghe nói tới Hiệp định này, và các DN xuất khẩu nông sản không phải là ngoại lệ.

Nhiều doanh nghiệp thực tế chưa tận dụng đầy đủ được các lợi ích thuế quan do

không biết về FTA, thủ tục cấp giấy chứng nhận xuất xứ còn phức tạp, đặc biệt là

phần lớn các doanh nghiệp chưa đáp ứng được các điều kiện về nguyên tắc xuất xứ.

70

Thứ ba, chính sách sản phẩm xuất khẩu và nhập khẩu chưa có sự gắn kết với

nhau. Trong thời gian qua, chính sách sản phẩm nhập khẩu của Việt nam chưa gắn

với mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu. Sản xuất thay thế nhập khẩu được nhiều ưu đãi

thuế, ưu đãi đầu tư hơn là xuất khẩu. Ngoài ra, việc hoạch định chính sách sản

phẩm xuất khẩu, nhập khẩu chưa căn cứ vào tín hiệu nền kinh tế thị trường, chưa

đánh giá đúng tiềm năng cũng như mức độ cạnh tranh của từng sản phẩm mà lại

chỉ dựa vào ý muốn chủ quan, và những mong muốn cá nhân của các nhà hoạch

định chính sách từ Trung ương, ngành, địa phương và thậm chí cả doanh nghiệp.

Thứ tư, các văn bản quy định về tự vệ thương mại quốc tế còn chưa được

quan tâm đúng mức. Do các văn bản quy định trong vấn đề này mới chỉ được ban

hành dưới dạng pháp lệnh mà chưa thành luật nên tính pháp lý còn chưa cao. Nội

dung các văn bản còn khá chung chung, những văn bản bản hướng dẫn chi tiết ban

hành chậm và chưa đồng bộ.

Cuối cùng, việc xây dựng triển khai quy hoạch và kế hoạch phát triển xuất

nhập khẩu sản phẩm nông sản sang thị trường EU còn chậm trễ. Đảng và Nhà nước

ta đưa ra định hướng chiến lược, còn tuỳ thuộc vào kế hoạch phát triển của từng

thời kỳ sẽ ảnh hưởng đến khả năng thực thi các chính sách phát triển xuất nhập

khẩu. Thực tế Việt Nam còn khá thụ động và chưa biết cách xử lý các vấn đề phát

sinh trong thị trường EU mà nguyên nhân chính là sự chưa có quy hoạch, kế hoạch

phát triển xuất nhập khẩu cụ thể cũng như chưa có “tầm nhìn” đủ rộng khi tham

gia vào thị trường này.

2.3.4. Thách thức từ sự kiện Brexit và thị trường tiêu thụ bị giảm dần

Sự kiện Brexit đã gấy chấn động toàn thế giới. Ngày 23 tháng 6 năm 2016 sau

cuộc trưng cầu dân ý, cuộc đàm phán bắt đầu được diễn ra giữa Vương quốc Anh và

Liên minh Châu Âu về việc Vương quốc Anh đề nghị rút khỏi Liên minh Châu Âu.

Ngày 13/11/2018 được coi là dấu mốc quan trọng trong lịch sử, khi nước Anh và Liên

minh châu Âu đạt được thỏa thuận sơ bộ về việc Anh rời khỏi Liên minh châu Âu.

Thỏa thuận đạt được sau 2 năm đàm phán căng thẳng giữa Anh và Liên minh châu

Âu. Dù vẫn còn nhiều rào cản cho tới khi 2 bên đạt được thỏa thuận cuối cùng nhưng

đây được xem là tín hiệu tích cực để các bên tiếp tục có những động thái tiếp theo.

71

Hiện nay, EU đang rơi vào cuộc khủng hoảng mô hình liên kết và hội nhập sâu sắc.

Bắt đầu từ cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu (2009), do hệ lụy từ cuộc khủng hoảng

nợ công của các nước như: Hy Lạp, Ai Len, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italia… gây

ra. Tiếp đến là cuộc khủng hoảng khủng bố do lực lượng Hồi giáo cực đoan IS (2015

– 2017) gây ra ở rất nhiều nước tại châu Âu như: Pháp, Bỉ, Đức, Anh, Tây Ban Nha…

Các cuộc khủng hoảng nhập cư với hàng triệu người từ châu Phi – Trung Đông vượt

biên trái phép qua đường biển, đường bộ đổ vào các nước: Đức, Pháp, Italia, Anh,

Hy Lạp… Chính vì vậy, một tương lai khó khăn và đầy thử thách của Liên minh châu

Âu (EU) đang ở phía trước. Với vai trò quan trọng trong khối EU, là một trong 3 quốc

gia lớn nhất trong khối, về cả khía cạnh dân sổ, tổng GDP và dầu tư nước ngoài,

Brexit sẽ tác động trực tiếp đến bản thân nước Anh, đến mối quan hệ thương mại giữa

Anh và các nước thành viên EU, cũng như giữa các nước trong khối EU và các nước

khác bên ngoài khối. Điều này sẽ tác động rất lớn tới khả năng xuất khẩu các sản

phẩm nông sản của Việt Nam sang thị trường EU, bởi Anh là một trong những nước

nhập khẩu nhiều nhất các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như: cà phê,

chè,….

Ngoài ra, quy mô dân số của EU được dự báo tăng trưởng thấp, đây sẽ là một

trong những thách thức cho việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu và thị phần của các

sản phẩm nông sản xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường EU. Quy mô dân số năm

2020 là khoảng 445 triệu người. Và đến năm 2025, với tốc độ tăng trưởng dân số

khoảng 2%/năm, dân số EU sẽ khoảng 515,2 triệu người. Thậm chí đến năm 2039,

tốc độ tăng trưởng dân số chỉ khoảng 3%/năm và quy mô đạt 523,1 triệu người.

2.3.5. Thách thức từ các đối thủ cạnh tranh

Với việc có nhiều đối thủ cạnh tranh, thị trường xuất nhập khẩu sẽ trở nên sôi

động, nhưng cũng tạo ra một thách thức lớn đối với nền kinh tế và các doanh nghiệp

Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. So với các nước xuất khẩu nông

nghiệp khác, Việt Nam có lợi thế về sản xuất nông thủy sản nhiệt đới với lợi thế sản

xuất có khả năng cạnh tranh cao, giá thành thấp, nguồn nguyên liệu dồi dào, năng

suất cao, nguồn nhân lực rẻ. Tuy nhiên, các nhóm mặt hàng nông sản chế biến của

72

Việt Nam sẽ phải đối mặt với các mặt hàng rau quả chế biến tại các thị trường mới,

với mẫu mã đa dạng và chất lượng cao.

EU là thị trường tiêu thụ hàng nông sản lớn trên thế giới, nên sự cạnh tranh đến

từ các nước xuất khẩu hàng nông sản là điều không thể tránh khỏi. Hiện nay, với ưu

thế về giá nhân công rẻ, nguồn cung nguyên liệu dồi dào, các nước xuất khẩu chính

vào EU vẫn là Ấn Độ, Brazil và Trung Quốc. Với một thị trường yêu cầu cao như

EU, việc thâm nhập được vào thị trường là một thành công lớn, chưa nói đến việc

phát triển thị trường. Nên hầu hết các nước đều đang phát triển xuất khẩu một cách

bền vững và ổn định. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo theo đúng quy

định của EU là điều mà các nước xuất khẩu đang hướng tới. Sự phong phú về mẫu

mã, nắm bắt thị hiếu người tiêu dùng, và luôn đưa ra các sản phẩm cao cấp, mới lạ

của các đối thủ cạnh tranh, đặt các doanh nghiệp Việt Nam vào một thách thức không

hề nhỏ. Đặc biệt, với xuất phát điểm là một nước đi sau về công nghệ so với nhiều

nước trên thế giới, nên các doanh nghiệp Việt Nam sẽ luôn gặp nhiều bất lợi khi tham

gia vào xuất khẩu thị trường màu mỡ này.

2.3.6. Thách thức từ dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp Covid-19

Đại dịch Covid-19 là một đại dịch bệnh truyền nhiễm với tác nhân

là virus SARS-CoV-2, đang diễn ra hết sức phức tạp trên phạm vi toàn cầu. Đại dịch

lây lan với tốc độ chóng mặt, gây ảnh hưởng trực tiếp không những đến sức khoẻ

người dân, mà còn trên mọi mặt đời sống, kinh tế, xã hội. Chỉ riêng tại châu Âu, nếu

như năm 2019, lượng hàng hóa xuất khẩu sang EU qua đường biển đạt 20,5 tỷ Euro,

đường hàng không đạt 14,5 tỷ Euro, đường sắt đạt 671 triệu Euro; trong khi nhập

khẩu qua đường biển, đường hàng không và đường sắt lần lượt là 5,99 tỷ Euro, 3,56

tỷ Euro và 9 triệu Euro, thì năm 2020, theo Bộ phận dự báo, phân tích và tư vấn rủi

ro (EIU) thuộc Tập đoàn The Economist (Anh), vì sự bùng phát của dịch Covid-19,

sẽ tác động đáng kể đến nền kinh tế châu Âu, cũng như tác động xấu đến các doanh

nghiệp và người tiêu dùng. Chính vì vậy, EIU đã điều chỉnh giảm dự báo tốc độ tăng

73

trưởng toàn cầu năm 2020 từ 2,3% xuống 2,2%, trong đó dự báo tốc độ tăng trưởng

của khu vực đồng tiền chung Eurozone được điều chỉnh giảm từ 1,3% xuống 1,2%.

Để giảm thiểu ảnh hưởng của đại dịch, cũng như nhiều khu vực trên thế giới,

tối 17/3, Chủ tịch Hội đồng châu Âu Charles Michel thông báo các quốc gia thành

viên của Liên minh châu Âu (EU) đã nhất trí quyết định đóng cửa biên giới ngoài EU

trong 30 ngày đối với những người không phải là công dân của khối để ngăn chặn đại

dịch.Theo đó, những người không phải công dân EU sẽ không được nhập cảnh vào

khu vực này trong ít nhất 30 ngày tới và có thể kéo dài nếu cần thiết. Một loạt các

nước EU đã ra lệnh đóng cửa biên giới để ngăn dịch COVID-19 như Đức, Tây Ban

Nha, Đan Mạch, Áo, CH Czech, Hungary… Tại Pháp, Tổng thống Macron đã ra lệnh

cho người dân ở trong nhà, chỉ ra ngoài khi có các công việc cần thiết. Trước đó,

Pháp đã cho đóng cửa trường học, quán cà phê và các cửa hàng bán đồ không thiết

yếu. Yêu cầu này cũng đang được Italy, Tây Ban Nha, Đức,... thực hiện trước diễn

biến phức tạp của Covid-19.

Là thị trường trọng điểm thứ 2 của xuất khẩu nông sản Việt Nam, việc EU đóng

cửa biên giới chắc chắn sẽ làm quá trình lưu thông chậm lại bởi thủ tục kiểm soát

dịch bệnh ngặt nghèo, ảnh hưởng trực tiếp đến việc lưu thông hàng hoá của 2 bên.

Điều này cũng ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu hàng nông sản sang EU bởi việc

xuất khẩu bằng đường hàng không có thể bị ảnh hưởng đáng kể do nhiều chuyến bay

bị hoãn, hủy hoặc cắt giảm. Ngoài ra, vận tải nội khối cũng ít nhiều bị ảnh hưởng do

một số quốc gia siết quy định kiểm soát biên giới. Các quy định liên quan đến kiểm

soát dịch cũng có thể sẽ gây đình trệ việc ký kết các đơn hàng xuất khẩu trong thời

gian tới giữa Việt Nam với các đối tác EU; cản trở các hoạt động xúc tiến thương mại

- đầu tư 2 bên; cản trở việc di chuyển của các chuyên gia và lao động trong những

lĩnh vực bị hạn chế trong bối cảnh siết chặt cách ly để chống dịch. Theo đó, nhiều

mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam sụt giảm mạnh về kim ngạch XK trong 4

tháng vừa qua. Chẳng hạn như mặt hàng quả đạt 952 triệu USD (giảm 19,6%), cá tra

đạt 420 triệu USD (giảm 31,9%), tôm đạt 748 triệu USD (giảm 11,8%), cao su đạt

383 triệu USD (giảm 31,1% so cùng kỳ năm ngoái), chè đạt 53 triệu USD (giảm

14,1%), hồ tiêu đạt 249 triệu USD (giảm 12%)… Ngoài ra, giá hàng hóa sụt giảm

74

cũng ảnh hưởng nhiều tới hoạt động XK nông sản của Việt Nam. Điển hình như giá

XK nhân điều giảm 12,9% so với cùng kỳ năm 2019, cà phê giảm 2,2%, chè giảm

13,1%, hạt tiêu giảm 19%. Bộ Công Thương dự báo xuất khẩu quý I và II của Việt

Nam sang EU có thể giảm từ 6% đến 8% nếu dịch bệnh tiếp tục kéo dài đến tháng 6.

75

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TẬN DỤNG CƠ HỘI, VƯỢT QUA

THÁCH THỨC ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM

SANG THỊ TRƯỜNG LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU) GIAI ĐOẠN 2020 - 2025

3.1. Chiến lược, mục tiêu phát triển xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam đến năm

2025

3.1.1. Định hướng chiến lược phát triển xuất khẩu hàng nông sản Việt

Nam đến năm 2025

Trên cơ sở quan điểm phát triển nông nghiệp giai đoạn 2010 – 2020, đến năm

2030, Việt Nam ước tính có 110,4 triệu dân, ngành nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan

trọng đảm bảo an ninh lương thực, an toàn thực phẩm với chất lượng cao cho toàn xã

hội, góp phần làm cho nền kinh tế đất nước phát triển ổn định, xuất khẩu nông sản

đảm bảo nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước. (Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông

thôn, 2012). Theo đó cần phải tập trung xây dựng ngành nông nghiệp phát triển bền

vững, toàn diện, tận dụng những lợi thế của vùng, địa phương, tích cực áp dụng các

khoa học công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất lao động và chất lượng hàng hoá,

từng bước xây dựng thương hiệu của ngành nông nghiệp Việt Nam, góp phần nâng

cao an ninh lương thực quốc gia, phát triển xuất khẩu ổn định, bền vững, nâng cao

hiệu quả sử dụng đất đai, nguồn nước, nâng cao tay nghề lao động, phát huy tối đa

hiệu quả của nguồn vốn, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống người dân. Một số

định hướng cụ thể phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong

giai đoạn 2020-2025 là:

- Tập trung mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Nhằm tăng cường sự ổn

định của thị trường nội địa, phát triển mạnh thị trường xuất khẩu nông sản, khai thác

có hiệu quả các thị trường có hiệp định thương mại tự do và thị trường tiềm năng.

- Chủ động tham gia vào mạng lưới cung ứng nông sản toàn cầu, phát triển

nhanh hệ thống phân phối các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài

nước, xây dựng thương hiệu hàng nông sản Việt Nam.

- Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn sử dụng nhiều

lao động thủ công theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tập trung phát triển

76

công nghiệp chế biến, giảm xuất khẩu thô, nâng cao giá trị gia tăng của các sản

phẩm nông sản. Đồng thời phải gắn phát triển thị trường xuất khẩu hàng nông sản

với giảm thiểu các tác động bất lợi về môi trường do việc khai thác các nguồn lực

cho sản xuất nông nghiệp.

3.1.2. Mục tiêu phát triển xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam đến năm 2025

Những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm mục tiêu quy

hoạch, xây dựng chiến lược xuất khẩu hàng hoá. Gần đây nhất là Quyết định số

124/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc “Phê duyệt Quy hoạch tổng thể

phát triển sản xuất ngành nông nghiệp đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030” và Quyết

định số 2471/2011/QĐ-TTg về việc “Phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa

thời kỳ 2011-2020 định hướng đến năm 2030. Cụ thể, mục tiêu đến 2025 Thủ tướng

đề nghị phải đạt mức tăng trưởng GDP khu vực nông nghiệp trung bình từ 3-3,5%,

có thêm 5 mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu có giá trị từ 1 tỷ USD trở lên để đưa Việt

Nam có 15 nhóm mặt hàng nông sản có giá trị xuất khẩu 1 tỷ USD với tổng giá trị

xuất khẩu là 50 tỷ USD, đứng đầu ASEAN và đứng top 10 của thế giới. Phấn đấu có

25.000 doanh nghiệp trực tiếp đầu tư vào nông nghiệp, gấp 2 lần hiện nay, 35.000

Hợp tác xã nông nghiệp, gấp 2,3 lần hiện nay để làm nòng cốt phục vụ cơ cấu lại

ngành nông nghiệp. (Hoa Hữu Cường, 2019)

Về cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng hóa: mục tiêu thị trường xuất khẩu đến năm

2020, châu Á chiếm tỷ trọng khoảng 46%, châu Âu khoảng 20%, châu Mỹ khoảng

25%, châu Đại Dương khoảng 4% và châu Phi khoảng 5%.

Về kim ngạch xuất khẩu hàng nông lâm thủy sản: mục tiêu đên năm 2020, KNXK

nông lâm thủy sản đạt 40 tỷ USD, trong đó nông nghiệp 22 tỷ USD, lâm nghiệp 7 tỷ

USD, thủy sản 11 tỷ USD. Tầm nhìn năm 2030, KNXK nông lâm thủy sản đạt 60 tỷ

USD, trong đó nông nghiệp 30 tỷ USD, lâm nghiệp 10 tỷ USD, thủy sản 20 tỷ USD.

Bên cạnh đó, các Hiệp hội ngành hàng cũng đề xuất một số mục tiêu cụ thể cho các

mặt hàng có lợi thế so sánh cao tại thị trường EU như: cà phê, hồ tiêu,...

Xuẩt khẩu hồ tiêu: theo Bộ Công thương, mục tiêu của xuẩt khẩu hồ tiêu vào EU

là tiếp tục tăng cả về số lượng và chất lượng. Giai đoạn 2020 - 2025 mục tiêu của

77

ngành hồ tiêu là không tăng diện tích mà tập trung vào thâm canh theo hướng bền

vững trên những diện tích có điều kiện tự nhiên, đất đai phù hợp, thuận lợi về nguồn

nước tưới; sản phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, phấn đấu sản lượng tiêu

sạch, tiêu qua chế biến đạt khoảng 90% sản lượng tiêu hàng năm. Trong đó, tiêu đen

chiếm 70% và tiêu trắng chiếm 30%.

Xuất khẩu cà phê: theo Hiệp hội cà phê – ca cao Việt Nam, ngành cà phê đạt

mục tiêu tầm nhìn đến năm 2030 sẽ đa dạng hoá sản phẩm theo hướng chế biến sâu

cà phê, đạt tỷ trọng từ 30 – 40% sản lượng, với các thương hiệu mạnh. Mục tiêu đến

năm 2020 kim ngạch xuất khẩu đạt từ 3,8 – 4,2 tỷ USD và tầm nhìn đến năm 2030,

tổng giá trị sản lượng ngành cà phê đạt trên 200% so với năm 2016 và kim ngạch

xuất khẩu đạt từ 5 – 6 tỷ USD. Xuất khẩu cà phê vào EU tiếp tục mục tiêu phấn đấu

là sản phẩm xuất khẩu chủ lực, chiếm trên 40% kim ngạch xuất khẩu cà phê.

3.2. Quan điểm về đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường

Liên minh châu Âu (EU) đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030

Trên cơ sở định hướng và mục tiêu xuất khẩu của Nhà nước, theo tác giả, việc

đề xuất hệ thống giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị trường

EU trong giai đoạn đến 2025 tầm nhìn 2030 cần dựa trên một số quan điểm sau:

Quan điểm 1: phải xác định rõ vai trò quyết định của Nhà nước đến thành công

của hoạt động XKNS Việt Nam sang thị trường EU. Trong thời kỳ mới, vai trò của

Nhà nước kiến tạo là hỗ trợ, định hướng, tạo động lực tốt nhất cho các thành phần

kinh tể cùng phát triển. Chính phủ cần hoàn thiện quy hoạch phát triển ngành nông

nghiệp, ban hành các chính sách hỗ trợ sản xuất nông sản, chủ động có các chính sách

phù hợp để bảo hộ mậu dịch. Ngoài ra, cần phải đồng bộ hệ thống phát triển cơ sở hạ

tầng kèm theo các dịch vụ hỗ trợ đẩy mạnh xuất khẩu bền vững. Đồng bộ các thể chế

chính sách, pháp luật, các chính sách tài chính, đầu tư phát triển sản xuất xuất khẩu

các mặt hàng nông sản.

Quan điểm 2: đẩy mạnh XKNS Việt Nam sang thị trường EU phải trên cơ sở phát

huy lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh về hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam.

Theo đó, cần thực hiện hiệu quả “chính sách xuất khẩu theo mặt hàng”. Thành công

đối với những mặt hàng điển hình sẽ lan tỏa sang các sản phẩm có nhiều tiềm năng

78

khác tại thị trường EU. Tập trung đầu tư, phát triển các mặc hàng chủ lực, nâng cao

năng suất, chất lượng của từng mặt hàng, đảm bảo theo các tiêu chuẩn, quy định của

từng quốc gia trong thị trường EU, để nâng cao kim ngạch xuất khẩu tại đây.

Quan điểm 3: đẩy mạnh XKNS Việt Nam sang thị trường EU trên cơ sở khai thác

tối đa các lợi ích mà FTA Việt Nam - EU và các ưu đãi mà EU (các nước phát triển)

dã dành cho Việt Nam (nước đang phát triển) trong thương mại và đầu tư quốc tế.

Đây cũng là hướng đi hiệu quả để nâng cao sức cạnh tranh, đặc biệt là cạnh tranh về

giá và chất lượng của nông sản Việt.

Quan điểm 4: đẩy mạnh XKNS Việt Nam sang thị trường EU trên cơ sở gia tăng

số lượng và tỷ trọng nông sản chế biến và nông sản sạch, công nghệ cao. Nước ta mới

thành công trong xuất khẩu về mặt lượng, do vậy, cần tiếp tục thực hiện mục tiêu

nâng cao giá trị gia tăng, đảm bảo xuất khẩu bền vững. Cần áp dụng các biện pháp

kỹ thuật cao vào trong sản xuất nông sản, trong chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Tạo

nên những đường dây công nghệ, vừa giảm thiểu sức người, vừa nâng cao chất lượng

sản phẩm.

3.3. Các giải pháp cho ngành nông nghiệp nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường Liên minh

châu Âu (EU)

Nông sản Việt Nam vẫn còn sản xuất manh mún, công nghệ lạc hậu, năng suất,

chất lượng sản phẩm thấp. Trong khi đó, EU là thị trường khó tính nhất với những

yêu cầu vô cùng chặt chẽ về chất lượng nông sản. Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu

nông sản nói chung và xuất khẩu sang thị trường EU từ nay đến năm 2025, các giải

pháp cần triển khai đồng bộ theo lộ trình thích hợp. Đặc biệt, vai trò điều tiết vĩ mô

của Chính phủ vô cùng quan trọng, tạo nền tảng cơ chế chính sách và quy hoạch hợp

lý, định hướng cho các doanh nghiệp nông sản và người nông dân có thể khai thác

lợi thế, phát huy năng lực sản xuất, khẳng định được vị trí của nông sản Việt Nam

trên thị trường EU rộng lớn. Một số giải pháp cụ thể gồm:

79

3.3.1. Nhóm giải pháp về hoàn thiện và đổi mới cơ chế, chính sách để phù

hợp với EVFTA

Thực trạng hiện nay cho thấy, một số chính sách của Việt Nam vẫn còn khoảng

cách với các cam kết quốc tế nói chung và EVFTA nói riêng trong các lĩnh vực về sở

hữu trí tuệ, lao động, cơ chế giải quyết tranh chấp. Do đó, Chính phủ, các bộ ban

ngành có liên quan phải rà soát kỹ các cam kết có liên quan đến ngành nông nghiệp

để đối chiếu với hệ thống các văn bản và tình hình thực thi chính sách hiện hành và

có các giải pháp nhanh chóng để điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chính sách, môi

trường kinh doanh tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu nông

nghiệp nói chung và hàng nông sản nói riêng có thể tận dụng tốt nhất những cơ hội

cũng như chủ động được trong đối phó với các thách thức đến từ EVFTA. Bên cạnh

đó, Chính phủ cần phải có cơ chế đột phá để tạo điều kiện thuận lợi cũng như môi

trường kinh doanh thông thoáng để thu hút doanh nghiệp trong nước cũng như các

doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp đến từ EU đầu tư vào lĩnh vực

nông nghiệp, cần đánh giá cụ thể năng lực cạnh tranh của từng loại nông sản chủ yếu

tại thị trường EU để có biện pháp khắc phục những yếu kém, bảo đảm nông sản của

Việt Nam tận dụng được những ưu đãi từ EVFTA để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị

trường EU. Các chính sách về vốn, chính sách quản lý đất đai nông nghiệp, khoa học

công nghệ cần được áp dụng để tăng nhanh số lượng và chất lượng doanh nghiệp

trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nói chung và nông sản nói riêng. Trước mắt cần

phải đổi mới hệ thống chính sách trực tiếp thực thi tốt hơn các cam kết và nâng cao

bảo vệ sản xuất trong nước như:

3.3.1.1. Về hàng rào kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ

Để xây dựng các hàng rào kỹ thuật (TBT) và vệ sinh dịch tễ (SPS) phù hợp với

cam kết của EVFTA cũng như bảo vệ được các doanh nghiệp sản xuất nông sản trong

nước, Nhà nước cần phải tiến hành đồng bộ các biện pháp sau:

Quy hoạch đồng bộ vùng sản xuất các sản phẩm nông sản chủ lực. Việc quy

hoạch đồng bộ có nghĩa là đầu tư quy hoạch trên chuỗi liên hoàn gồm: sản xuất, thu

hoạch, chế biến, đóng gói, bảo quản, vận chuyển, kho bãi, cảng khẩu. Xây dựng các

khu công nghiệp với quy mô lớn, tập trung nhiều dây chuyền sản xuất, nằm gần với

80

các khu vực cung ứng nguyên liệu. Việc làm này cho phép các doanh nghiệp khai

thác một cách hợp lý lợi thế so sánh trong nông nghiệp, tạo nguồn sản phẩm xuất

khẩu tập trung có quy mô lớn, có chất lượng tốt hơn, khắc phục tính phân tán, manh

mún còn tồn tại trong bố trí sản xuất nông sản hiện nay ở Việt Nam. Bên cạnh đó, cần

đưa ra cơ chế và chính sách khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất nông sản áp

dụng quy trình sản xuất quốc tế trong nông nghiệp Global GAP, hướng tới xuất khẩu

nông sản bền vững.

Đẩy mạnh việc nghiên cứu, rà soát, hoàn thiện xây dựng các hàng rào SPS/TBT

phù hợp với cam kết đồng thời để bảo hộ sản xuất nông sản trong nước cũng như bảo

vệ người tiêu dùng.

Các Bộ, Ban ngành cần phối kết hợp chặt chẽ trong hoạt động xúc tiến thương mại.

Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn: liên tục kiểm tra lại tất cả các hiệp định,

thỏa thuận của Việt Nam và liên minh Châu Âu có liên quan đến vấn đề xuất khẩu

nông sản để phổ biến, hướng dẫn cho các Doanh nghiệp XKNS để các Doanh nghiệp

có chiến lược XK hợp lí.

Bộ giao thông vận tải: có cơ chế hợp lí để làm việc với hãng vận tải biển quốc

tế chuyên các tuyến vận chuyển đến các cảng biển lớn của EU để điều chỉnh giá cước

biển và các dịch vụ liên quan hợp lí phù hợp với các sản phẩm nông sản xuất khẩu

Việt Nam.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: thúc đẩy hợp tác thương mại và thanh toán

song phương giữa các ngân hàng lớn của Việt Nam với các ngân hàng của các nước

trong liên minh Châu Âu để giải quyết các vấn đề về điều kiện thanh toán của các đối

tác Châu Âu, đồng thời các doanh nghiệp XK của Việt Nam yên tâm trong việc kí

kết hợp đồng thương mại.

Bên cạnh đó, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng

các bằng chứng khoa học để nâng cao năng lực pháp lý cho các vụ kiện cũng như

tranh chấp xảy ra trong quá trình xuất khẩu các sản phẩm nông sản vào thị trường EU

khi EVFTA có hiệu lực.

81

Nhà nước cần phải xây dựng và ban hành các khung hình phạt thích đáng đối

với các cá nhân, tổ chức sử dụng hoá chất trong quá trình sản xuất, chế biến các sản

phẩm nông nghiệp nói chung và các sản phẩm nông sản nói riêng.

3.3.1.2. Về đầu tư trong nông nghiệp

Đối với vấn đề đầu tư trong nông nghiệp, Nhà nước cần thực hiện các biện

pháp như:

Nhà nước cần phải đối xử bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh

nghiệp nước ngoài, trong đó đặc biệt là giảm bớt các rào cản trong đầu tư, đảm bảo

tính công khai minh bạch trong đầu tư. Thực hiện việc bảo hộ đầu tư trong nước thông

qua định hướng đầu tư nước ngoài. Định hướng và tập trung nguồn đầu tư nước ngoài

vào những lĩnh vực nông sản mà doanh nghiệp Việt Nam không có lợi thế và khả

năng thực hiện. Xây dựng cơ chế lựa chọn nhà đầu tư có năng lực tốt, chọn đúng nhà

đầu tư, đúng lĩnh vực có sự tác động lớn đến các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp khác.

Kêu gọi đầu tư từ các thành phần kinh tế góp phần phát triển tất cả các lĩnh vực nông

nghiệp. Vận động kêu gọi các ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp vay vốn

theo quy định, và hợp tác đầu tư xây dựng theo quy hoạch. Không đánh đổi đầu tư

với môi trường, phải đảm bảo tính bền vững về môi trường. Nghiên cứu và xây dựng

các điều kiện kinh doanh để vừa phù hợp với các cam kết trong EVFTA nhưng lại

không gây ảnh hưởng quá lớn đến sự phát triển của các doanh nghiệp nông sản trong

nước. Phát triển dịch vụ cho thuê tài chính gắn liền với tư vấn công nghệ và có các

chính sách ưu đãi về dịch vụ này đối với sản xuất nông nghiệp.

Từ các cam kết ưu đãi đầu tư của EVFTA, Việt Nam cần tạo môi trường đầu tư

thuận lợi và có phải cơ chế thu hút FDI từ các nhà đầu tư EU, tạo điều kiện cho các

nhà đầu tư tham gia vào hoạt động xuất khẩu nông sản tại Việt Nam.

3.3.1.3. Về sở hữu trí tuệ trong nông nghiệp

Đây là một vấn đề mà các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp nói chung, sản

xuất và xuất khẩu nông sản nói riêng của Việt Nam hầu như chưa có sự quan tâm một

cách thích đáng. Nguyên nhân của vấn đề này một phần quan trọng đến từ cơ chế,

82

các chính sách của Nhà nước. Chính vì vậy, Chính phủ và các bộ ngành liên quan cần

thực hiện các nhiệm vụ sau:

Để đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp và nhà nước, chúng ta cần hoàn thiện các

quy định trong Luật sở hữu trí tuệ về quyền sở hữu của Việt Nam đối với các sản

phẩm nông sản công cộng như: nguồn gen tự nhiên, kiến thức truyền thống,…

Về quản lý chỉ dẫn địa lý: cần có quy định rõ ràng để quản lý và bảo hộ chỉ

dẫn địa lý phù hợp cho các sản phẩm nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị

trường EU.

3.3.1.4. Về lao động trong nông nghiệp

Hiện nay ở Việt Nam tỷ trọng lao động trong nông nghiệp trong tổng lực lượng

lao động rất lớn. Theo công bố của Tổng cục Thống kê về tình hình kinh tế - xã hội

năm 2017, lao động đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm

40,3%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 25,7%; khu vực dịch vụ chiếm

34,0%. Điều này đã gây ra tình trạng sản xuất nông nghiệp manh mún, cũng như trình

độ lao động trong nông nghiệp không đáp ứng được các yêu cầu của việc áp dụng

khoa học, công nghệ vào trong sản xuất nông nghiệp. Để khắc phục các vấn đề này,

Nhà nước cần tập trung vào các biện pháp sau:

Cần xây dựng và triển khai hiệu quả chính sách dạy nghề và rút lao động ra khỏi

khu vực nông thôn hợp lý và đảm bảo kết nối nông thôn và thành thị trong sử dụng

lao động. Rút lao động ra khỏi nông thôn có thể giúp tích tụ đất đai, thúc đẩy sản xuất

nông nghiệp quy mô lớn theo tiêu chuẩn quốc tế, hướng tới đảm bảo phúc lợi xã hội

dài hạn.

Tăng cường các hình thức đào tạo ngắn hạn phù hợp với trình độ, tập quán của

lao động, tăng cường hợp tác đào tạo với nước ngoài, nhằm học hỏi và tiếp thu công

nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp. Tổ chức các buổi hội thảo, gặp mặt, trao đổi

kinh nghiệm sản xuất đến với mọi người dân lao động. Đảm bảo việc tiếp thu nhanh

nhất và hiệu quả nhất đến người dân.

Huấn luyện nông dân kỹ thuật sản xuất nông sản sạch, an toàn theo tiêu chuẩn

quốc tế, ứng dụng khoa học kỹ thuật và đổi mới công nghệ. Thường xuyên kiểm tra,

83

giám sát việc sản xuất và áp dụng kỹ thuật của người dân, đảm bảo tiến độ và chất

lượng sản phẩm.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đào tạo nhằm thay đổi tập quán sản xuất nông

nghiệp của nông dân. Việc này đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt của các cơ quan ban

ngành, để có thể thay đổi được thói quen sản xuất của người dân. Từ đó tạo tiền đề

cho các công nghệ tiên tiến được áp dụng sâu rộng trong sản xuất nông nghiệp.

Từng bước nâng cao dân trí cho người dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Đảm

bảo việc tiếp thu kiến thức và công nghệ mới liên tục của người dân. Đẩy mạnh quá

trình rà soát, đánh giá vấn đề lao động trẻ em làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp để

có các chính sách phù hợp.

3.3.1.5. Về vấn đề tài nguyên và môi trường

Các chính sách về tài nguyên và môi trường cần phải gắn chặt với các vấn đề

như: vấn đề biến đổi khí hậu, gắn với việc điều chỉnh cơ cấu cây trồng, quy hoạch

vùng sản xuất, phương thức sản xuất và phải gắn với nhu cầu của thị trường quốc tế

nói chung và thị trường EU nói riêng. Hiện nay, ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn

giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo an ninh lương thực,

là công việc chính và cũng là nguồn thu nhập chính cho khoảng 70% dân cư. Tuy

vậy, sự gia tăng lạm dụng sử dụng phân bón vô cơ, thuốc bảo vệ thực vật, không phù

hợp với quy hoạch và chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường đang đe dọa chất

lượng môi trường. Các đơn vị tăng cường tuyên truyền, vận động người sản xuất và

người tiêu dùng nâng cao ý thức của bản thân về trách nhiệm bảo vệ môi trường; thực

hiện nghiêm các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Đồng thời phải thường

xuyên trau dồi kiến thức bảo vệ môi trường cho chính những cán bộ môi trường, đặc

biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Ngoài ra, phải thắt chặt các khâu kiểm duyệt, thẩm định dự án, tránh ảnh hưởng

tiêu cực đến môi trường xung quanh. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá tác động môi

trường của các dự án, các công trình đã được phê duyệt, nhất là các dự án lớn có nguy

cơ cao tác động xấu đến môi trường để nhanh chóng đưa ra các biện pháp điều chỉnh.

Đẩy mạnh việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến, từng bước giảm

thiểu sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón vô cơ.

84

3.3.1.6. Về vấn đề hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu nông sản

Chính phủ cùng với các bộ, ngành liên quan cần phải đẩy mạnh quá trình rà

soát, nghiên cứu cơ chế, chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy thương

mại trong nông nghiệp. Từng bước nâng cao chất lượng của các hệ thống tổ chức

quản lý và hệ thống thông tin thị trường từ các đơn vị quản lý cấp cao đến từng đơn

vị nhỏ, lẻ. Chính phủ nên thành lập các trung tâm thông tin thị trường ở các vùng

chuyên canh nông sản có tỷ suất sản phẩm lớn; phối hợp hoạt động của các trung tâm

thông tin với hoạt động của các tổ chức khuyến nông, các câu lạc bộ sản xuất nông

nghiệp, các hiệp hội ngành sản phẩm và doanh nghiệp; tăng cường việc theo dõi,

nghiên cứu thị trường EU một cách đầy đủ, kịp thời và tin cậy (các thông tin thị

trường các doanh nghiệp quan tâm như: số liệu thương mại, sản xuất, chiến lược,

chính sách...) để các doanh nghiệp có sự chuẩn bị tốt nhất trong việc xây dựng chiến

lược cũng như triển khai kế hoạch sản xuất và xuất khẩu sang thị trường EU; thông

tin kịp thời những thay đổi của thị trường cho các doanh nghiệp và nông dân; duy trì

và phát triển các trang điện tử trên mạng Internet về nông sản và các doanh nghiệp

sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông sản; đặt vấn đề với các tổ chức quốc tế, đề nghị

trợ giúp kỹ thuật xây dựng thí điểm sản giao dịch nông sản và nâng cao năng lực xúc

tiến thương mại đôi với sản phâm nông sản; có chính sách khuyển khích các địa

phương, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản phẩm nông sản tham gia các hội

chợ nông sản trong nước và quốc tế, xây dựng các trung tâm giao dịch và giới thiệu

sản phẩm nông nghiệp Việt Nam ở EU.

Chính phủ cần phải nâng cao nhận thức và phổ biến thông tin đầy đủ và kịp thời

đến doanh nghiệp nông sản về các rào cản kỹ thuật của thị trường EU cũng như những

cam kết trong EVFTA liên quan đến TBT và SPS. Thị trường EU là một trong những

thị trường khó tính với hệ thống rào cản kỹ thuật ngày càng đa dạng và phức tạp. Có

những biến tướng của rào cản kỹ thuật rất khó nhận thấy và có biện pháp ứng phó kịp

thời. Chính vỉ vậy, để hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nông sản Việt

Nam vượt rào cản kỹ thuật để tận dụng những cơ hội từ các cam kết từ EVFTA trong

việc thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm nông sản vào thị trường EU, Chính phủ cần có

những chính sách và giải pháp hỗ trợ để nâng cao nhận thức và phổ biến thông tin

85

đến các doanh nghiệp về TBT, SPS cũng như các cam kết của EU về TBT, SPS trong

EVFTA.

3.3.2. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả trong sản xuất sản

phẩm nông sản

3.3.2.1. Nâng cao chất lượng nguồn lực

Cần coi trọng công tác phát triển nguồn nhân lực và coi đó là một nhân tố quan

trọng quyết định đến việc phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam về sản phẩm nông

sản, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm và năng suất lao động. Theo đó,

cần tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản sau đây:

Một là, Chính phủ cần tích cực sử dụng các hình thức hỗ trợ được WTO cũng

như các điều khoản trong EVFTA cho phép như hỗ trợ nghiên cứu triển khai để

nâng cao khả năng cạnh tranh và thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm nông sản sang thị

trường EU.

Hai là, tăng cường đào tạo và bồi dưỡng, thực hiện dịch vụ tư vấn xuất nhập

khẩu, dịch vụ tiếp cận thị trường,... trong đó đặc biệt nhấn mạnh việc hỗ trợ đào tạo

nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức về hội nhập quốc tế, nâng cao trình độ năng lực,

kỹ năng, tay nghề, kiến thức khoa học cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, nhân viên,

công nhân và người lao động.

Ba là, đưa ra các giải pháp cụ thể về phổ cập công nghệ tiên tiến, thường xuyên

tổ chức các khoá đào tạo, song song với việc đưa các thông tin kiến thức khoa học

công nghệ lên các phương tiện truyền thông để nâng cao hiểu biết của người lao động

về việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất.

Bốn là, tăng cường các hình thức đào tạo ngắn hạn phù hợp với trình độ, tập

quán của lao động, tăng cường hợp tác đào tạo với nước ngoài, nhằm học hỏi và tiếp

thu công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp.

Năm là, huấn luyện nông dân kỹ thuật sản xuất nông sản sạch, an toàn theo tiêu

chuẩn quốc tế, ứng dụng khoa học kỹ thuật và đổi mới công nghệ.

Sáu là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đào tạo nhằm thay đổi tập quán sản

xuất nông nghiệp của nông dân.

Bảy là, nâng cao mặt bằng dân trí cho khu vực nông thôn.

86

Tám là, Chính phủ cần có chính sách tuyển chọn một số luật sư Việt Nam là

người có phẩm chất chính trị tốt, có năng lực chuyên môn và trình độ ngoại ngữ để gửi đi đào tạo ở nước ngoài, mà có thể ở ngay các nước trong EU nhằm bổ sung thêm các trọng tài kinh tể, thương mại có đẳng cấp quốc tể để tham gia có hiệu quả vào

việc giải quyết các phát sinh trong quá trình hợp tác với thị trường EU và quốc tế.

3.3.2.2. Chủ động triển khai áp dụng tiến bộ khoa học trong sản xuất sản

phẩm nông sản

Trong rất nhiều cuộc khảo sát và nghiên cứu đã chỉ ra, hiện tại Việt Nam mới

chỉ có lợi thế cạnh tranh trong nhóm sản phẩm nông sản xuất khẩu có công nghệ thấp

và xuất khẩu ở dạng thô. Nếu không nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu lợi thế so sánh,

Việt Nam dễ có nguy cơ ở tình trạng cố định hóa cơ cấu lợi thế so sánh với các sản

phẩm thô. Do vậy, trong thời gian tới cần phải ưu tiên phát triển khoa học công nghệ

để nâng cao giá trị sản phẩm nông sản xuất khẩu bằng việc xuất khẩu các sản phẩm

đã qua chế biến, sản phẩm công nghệ cao.

Thứ nhất, ưu tiên phát triển khoa học công nghệ, tập trung thúc đẩy nhập khẩu

công nghệ tiên tiến, bằng phát minh sáng chế, tiếp cận các công nghệ nguồn, tăng

cường hợp tác quốc tế để trao đổi kinh nghiệm và kết hợp triển khai nghiên cứu nhằm

chuyển dịch cơ cấu lợi thế.

Thứ hai, thu hút vốn đầu tư từ các công ty nước ngoài, xây dựng và đưa vào sử

dụng các trung tâm công nghệ cao, giúp các doanh nghiệp tiếp cận công nghệ mới,

nâng cao chất lượng sản phẩm, tiếp cận và tăng tính thanh khoản các nguồn vốn đầu

tư cho R&D.

Thứ ba, thực hiện cơ chế khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành

phần kinh tế đầu tư phát triển khoa học, công nghệ. Có thể nói, việc nâng cao trình

độ khoa học và công nghệ là điều kiện cơ bản nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh của

sản phẩm trên thị trường. Về lâu dài, các sản phẩm cỏ hàm lượng công nghệ cao,

giá trị gia tăng cao cần phải được thúc đẩy để gia tăng tỷ trọng xuất khẩu vào các

thị trường EU. Tuy nhiên, trước mắt các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh hiện nay

cần phải được tận dụng tối đa tiếp cận vào thị trường này. Đặc biệt cần chú ý các

sản phẩm nông sản như hoa quả, thủy sản, những mặt hàng Việt Nam hiện nay có

87

lợi thế, nhưng do vấn đề bảo quản, và quy trình sản xuất chưa chuẩn hóa nên không

thể xuất khẩu vào thị trường EU. Bởi vì EU có quy định rất nghiêm ngặt về luật bản

quyền, nhãn mác, xuất xứ sản phẩm. Chính vì vậy, Chính phủ cần tập trung đưa ra

các chương trình hỗ trợ kỹ thuật tiên tiến, hỗ trợ công nghệ nhằm đáp ứng được các

yêu cầu kỹ thuật cho các sản phẩm nông sản để vượt qua các rào cản kỹ thuật vào

thị trường lớn này.

Thứ tư, có những chính sách thu hút nhân tài và các nhà khoa học nghiên cứu về các lĩnh vực sản xuất, chế biến nông sản, nhằm đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật

vào thực tiễn, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.

Thứ năm, tăng cường hợp tác công nghệ với các nước trong khu vực và thế giới

để có thể thừa hưởng và tiếp thu những biện pháp khoa học công nghệ tiên tiến trong

sản xuất, phòng chống dịch bệnh, bảo quản, chế biến nông sản, kiểm nghiệm thuốc

trừ sâu - bảo vệ thực vật, hóa chất dùng trong sản xuất và chế biến.

Cuối cùng, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, cùng với quản lý và sử dụng vốn

đầu tư hiệu quả. Chính phủ cần tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh

nghiệp thu hút nguồn vốn đầu tư trong, cùng với ngoài nước, đặc biệt khuyến khích

đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông sản, tạo bước đột phá về chất lượng, mẫu mã sản

phẳm và giảm chi phí: có thể đưa ra các chính sách miễn giảm thuế trong thời gian

đầu, hỗ trợ tín dụng và lãi suất hay giảm thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị chế biến

nông sản. Bên cạnh việc tạo môi trường đầu tư thuận lợi trong nông nghiệp, Chính

phủ cần có kế hoạch quản lý nguồn vốn đầu tư đó sao cho hiệu quả. Cụ thể: Chính

phủ cần ưu tiên nguồn vốn đầu tư cho các loại cây trồng, vật nuôi là sản phẩm xuất

khẩu chiến lược sang thị trường EU như: cà phê, hạt điều, hạt tiêu cao su, các loại rau

củ quả nhiệt đới,... hay tập trung nguồn vốn vào các khâu có tính quyết định như:

thủy lợi, giao thông, điện, cơ sở chế biến... Bên cạnh đó, Chính phủ cũng có thể bố

trí thành lập thêm các quỹ hỗ trợ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông sản xuất khẩu

như quỹ bảo hiểm, quỹ hỗ trợ phát triển,...

Ngoài ra, Chính phủ cần có những giải pháp để khai thác những lợi ích xuất phát

từ sự chênh lệch trong trình độ phát triển giữa Việt Nam và EU, sự khác biệt về lợi

thế so sánh và tính bổ sung trong thương mại để từ đó dần thu hẹp khoảng cách giữa

88

Việt Nam và các nước EU nói riêng, với thế giới nói chung và đẩy mạnh thương mại

nông sản với EU. Để khai thác sự: khác biệt này, Việt Nam cần tận dụng EVFTA để

tiếp tục đẩy mạnh thương mại liên ngành với EU trên cơ sở chuyên môn hóa và hỗ

trợ phát triển sản xuất các sản phẩm có lợi thế so sánh, từ đó thúc đẩy quá trình phân

bổ nguồn lực hiệu quả, thúc đẩy lợi thế so sánh của mình và ngược lại khai thác gián

tiếp lợi thế so sánh của EU.

3.3.2.3. Nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản xuất khẩu

Từ nay đến năm 2025, thị trường EU dự báo xuất hiện nhiều yếu tố thuận lợi sẽ

giúp doanh nghiệp Việt Nam có lợi thế cạnh tranh về giá so với các đối tác khác trên

thị trường EU nhưng lợi ích đó chỉ là ngắn hạn và phụ thuộc vào tiến trình hội nhập

kinh tế quốc tế của EU. Do đó, để có thể tận dụng tốt các cơ hội từ EVFTA, giải pháp

bền vững là doanh nghiệp Việt Nam cần nâng cao chất lượng sản phẩm chứ không

thể chỉ trông chờ vào giảm giá do xóa bỏ thuế. Điều này yêu cầu các doanh nghiệp

Việt Nam cần có sự chuẩn bị kỹ để nắm lấy cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu sang EU ngay

khi EVFTA cỏ hiệu lực. Với sự phức tạp trong bối cảnh hiện nay của EU, doanh

nghiệp cần tìm hiểu kỹ từng thị trường EU, những thay đổi trong nhu cầu của thị

trường EU, những FTA mà EU đã ký kết và đang đàm phán, những ưu tiên của EU

trong FTA cũng như cập nhật được những diễn biến hội nhập kinh tế quốc tế của EU

để có những ứng phó kịp thời. Các doanh nghiệp cũng cần hiểu được định hướng hợp

tác dài hạn của Chính phủ Việt Nam với EU để từ đó kiên trì với các chiến lược hướng

vào thị trường EU, đặc biệt với những doanh nghiệp đã tạo dựng được thị trường ở

EU để có thể tận dụng được những cơ hội và chuẩn bị sẵn sàng cho việc hội nhập với

EU. Hơn nữa, chất lượng cao còn là điều kiện để các doanh nghiệp của ta có thể cạnh

tranh với sản phẩm của các nước khác trong khu vực vốn có cơ cấu xuất khẩu rất

giống nước ta. Vì vậy, đối với các doanh nghiệp Việt Nam, các biện pháp nâng cao

chất lượng có thể kể tới là:

Từng bước đầu tư công nghệ hiện đại, nâng cao năng suất chất lượng lao động,

chất lượng sản phẩm.

Đa dạng hoá sản phẩm, hạn chế việc xuất khẩu sản phẩm thô, sơ chế, nâng dần

tỷ trọng sản phẩm chế biến.

89

Tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về hệ thống kiểm tra chất lượng, áp dụng

các tiêu chuẩn đo lường chất lượng quốc tế như ISO, HACCP,… ngay từ khâu sản

xuất và chế biến sản phẩm xuất khẩu.

Đầu tư nguồn cung cấp lớn, ổn định để thực hiện hợp đồng có giá trị cao, đảm

bảo cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu ổn định. Đối với sản phẩm nông lâm thuỷ

sản, cần xây dựng kế hoạch nuôi trồng và khai thác hợp lý.

Thu hút nguyên liệu từ các nước ASEAN để sản xuất sản phẩm xuất khẩu sang

EU nhằm đáp ứng yêu cầu về xuất xứ sản phẩm và tận dụng ưu đãi về thuế suất.

3.3.3. Nhóm giải pháp tăng cường tổ chức hoạt động xuất khẩu nông sản

của Việt Nam sang thị trường EU

3.3.3.1. Tăng cường công tác thông tin và tìm kiếm thị trường

Chính phủ cần hỗ trợ các doanh nghiệp về thông tin thị trường và tìm kiếm bạn

hàng bằng cách:

Hình thành các tiểu ban xúc tiến xuất khẩu sản phẩm theo từng sản phẩm gồm

cán bộ của Bộ Công thương và các bộ, ngành có liên quan. Ngoài chức năng quản lý,

chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện xúc tiến xuất khẩu sang thị trường EU, cơ quan này

còn có thể cung cấp các dịch vụ marketing có thu phí cho các doanh nghiệp.

Đẩy mạnh hoạt động của chi nhánh Phòng thương mại và công nghiệp Vỉệt Nam

tại các nước để cùng với thường vụ làm đầu mối cho các doanh nghiệp Việt Nam vào

EU, kịp thời trao đổi những thông tin cần thiết, hỗ trợ cho các doanh nghiệp Vỉệt

Nam hoạt động thương mại tại khu vực này.

Có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thành lập văn phòng đại diện tại các nước

trong khối EU, nhất là nhũng doanh nghiệp mà kim ngạch xuất nhập khẩu còn nhỏ

nhưng có tiềm năng phát triển.

Thường xuyên cung cấp thông tin thị trường, tập trung phát triển năng lực thị

trường cho các doanh nghiệp. Có thể thấy, các doanh nghiệp nước ngoài nói chung

và các doanh nghiệp EU nói riêng ngoài tiềm lực to lớn về vốn, kinh nghiệm kinh

doanh quốc tế, còn được Chính phủ của họ trợ giúp về tài chính, thông tin thị trường

và được bảo vệ quyền lợi bởi các hiệp định song phương và đa phương. Trong khi

đó, các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém về khả năng cạnh tranh, quy mô còn

90

hạn hẹp lại thiếu kinh nghiệm trên thương trường quốc tế nên sự giúp đỡ từ phía

Chính phủ là hết sức cần thiết.

Bên cạnh việc hỗ trợ về cung cấp thông tin, Nhà nước cũng cần hỗ trợ các doanh

nghiệp sản xuất và xuất khẩu nông sản sang thị trường EU trong việc tiếp cận công

nghệ và phương tiện hiện đại trong sản xuất, chế biến và kiểm soát chất lượng cho

sản phẩm nông sản xuất khẩu sang thị trường EU. Tăng cường việc thông tin, quảng

bá hình ảnh doanh nghiệp Việt nam đến thị trường EU. Song song với đó là thu hút

vốn đầu tư từ các doanh nghiệp ngoại, học hỏi tiến bộ kỹ thuật từ các doanh nghiệp

đó để áp dụng vào sản xuất và xuất khẩu tại Việt Nam.

Với các hiệp hội, cần xác định mục tiêu rõ ràng, từ đó đưa ra các quy định, quy

chế quản lý chuyên nghiệp, nâng cao chức năng quản lý, mở rộng tầm ảnh hưởng,

tăng khả năng đàm phán và kiểm tra giám sát. Thường xuyên trao đổi, kết hợp với

các cơ quan quản lý Nhà nước, ứng dụng và phát triển KHCN vào sản xuất, nghiên

cứu thị trường trong và ngoài nước. Tham gia các hội trợ, triển lãm quốc tế,…để

tăng cường xúc tiến thương mại, hội nhập với thị trường quốc tế. Luôn tạo điều kiện

giúp đỡ lẫn nhau trong mọi vấn đề, phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc, bảo vệ lẫn

nhau, tránh tình trạng độc quyền, hay các tranh chấp thị trường, đầu cơ làm ảnh hưởng

đến lợi ích chung. Cùng chung tay xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm nông

sản Việt Nam. Tăng cường công tác thông tin và dự báo về thị trường để các doanh

nghiệp có giải pháp chiến lược, phù hợp với các sản phẩm xuất khẩu cụ thể.

Về phía các doanh nghiệp, cần chủ động trong việc xúc tiến thương mại và phát

triển thị trường bằng cách:

Tham gia vào các đoàn khảo sát thị trường, các hội trợ triển lãm do Phòng

thương mại và công nghiệp hướng dẫn để tìm kiếm bạn hàng và giới thiệu sản phẩm

với thị trường EU.

Phổi hợp với các tổ chức Nhà nước Việt Nam ở các nước EU và các tổ chức của

các nước này ở Việt Nam để tìm kiếm thông tin đầy đủ nhất về thị tnrờng EU, đặc

biệt chú trọng đến những thay đổi trong chính sách xuất nhập khẩu, quy định về thủ

tục hải quan của các nước EU cùng các quy định khác đối với các hoạt động kinh

doanh thương mại.

91

Tìm kiếm sự hỗ trợ của các luật gia hoạt động trong các tổ chức xúc tiến thương

mại, tổ chức tư vấn pháp luật và chi nhánh văn phòng luật nước ngoài hoạt động tại

Việt Nam để có phương pháp tiếp cận thị trường EU một cách có hiệu quả nhất. Xuất

phát từ thực tiễn, các doanh nghiệp Việt Nam hiện mới chỉ đủ khả năng hợp tác kinh

doanh vởi các công ty vừa và nhỏ của EU, tuy nhiên cũng không vì thế mà chúng ta

bỏ qua cơ hội tiếp cận với các tập đoàn, các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia của

các nước này. Đê làm được điều này, các doanh nghiệp Việt Nam cần phối hợp chặt

chẽ với Phòng thương mại và công nghiệp cùng các trung tâm tư vấn pháp lý để tỉm

hiểu và nắm bắt những thông tin chính xác về uy tín, về các lĩnh vực kinh doanh chính

và đặc biệt là về tình hình tài chính của các bên đối tác.

3.3.3.2. Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm nông sản xuất khẩu

Thương hiệu sản phẩm là cam kết và chỉ dẫn quan trọng cho người tiêu dùng

biết đến những tiêu chuẩn kỹ thuật về sản phẩm. Đây vừa là cách thức thâm nhập và

củng cố vị thế của sản phẩm trên thị trường quốc tế, vừa là cách thức hữu hiệu bảo

vệ quyền lợi của người sản xuất trong cạnh tranh quốc tế, vừa là tiêu chí thể hiện khả

năng đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật. Tuy nhiên, vấn đề phát triển thương hiệu cho

sản phẩm xuất khẩu chưa được quan tâm đúng mức. Do đó, giải pháp trong thời gian

tới sẽ bao gồm:

Một là, xác định được những thế mạnh của những sản phẩm mũi nhọn của từng

vùng để tập trung xây dựng thế mạnh độ cho khu vực.

Hai là, phải có một chiến lược phối hợp đồng bộ cho xây dựng thương hiệu sản

phẩm xuất khẩu, cần có một chiến lược tổng thể với những chương trình hành động

cụ thể liên kết được các nhà khoa học, lực lượng lao động, nhà kinh doanh, các nhà

tiếp thị quảng bá, các ngân hàng sản phẩm và các cơ quan chức năng cùng góp sức

để xây dựng thương hiệu nổi tiếng.

Ba là, chính quyền địa phương cần tiếp tục có nhiều chương trình nhằm hỗ trợ

phát triển doanh nghiệp, trong đó có chương trình xây dựng thương hiệu.

Bốn là, đẩy mạnh giao thương các sản phẩm nông sản với Hà Lan. Hà Lan là

cửa ngõ cho các sản phẩm nông sản vào EU. Vì vậy, phát triển các kênh xúc tiến

92

thương mại, mở rộng thị trường và sản phẩm vào Hà Lan có thể giúp nông sản việt

Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường châu Âu.

Năm là, hướng dẫn các doanh nghiệp chế biến nhanh chóng xây dựng và đáng

ký thương hiệu cho sản phẩm nhàm nâng cao uy tín trên thị trường.

Việc xây dựng thương hiệu không khó, cái khó là làm sao phát triển và giữ vững

được thương hiệu sau khi đã xây dựng. Muốn vậy, điều quan trọng nhất là phải bảo

đảm chất lượng của nông sản đúng theo yêu cầu của người tiêu dùng và của thị trường.

Cần các sản phẩm nông sản đang có thế mạnh trên thị trường thế giới như gạo, cà

phê, hồ tiêu, hạt điều... để có thể xuất khẩu trực tiếp đến các thị trường có nhu cầu

mà không phải qua trung gian hoặc mượn thương hiệu nước ngoài. Việc hình thành

các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông sản có quy mô lớn, tăng cường

xây dựng các chuỗi cung ứng nông sản,... sẽ là cơ sở ban đầu để hình thành các thương

hiệu mạnh của các doanh nghiệp và nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới.

3.3.3.3. Đa dạng hoá các thị trường xuất khẩu

Cụ thể, với thị trường xuất khẩu, các doanh nghiệp nên thúc đẩy xuất khẩu mạnh

mẽ với Đức và Anh; tiếp tục giữ vững xuất khẩu sang các thị trường Hà Lan, Pháy,

Ý, Tây Ban Nha, Áo, Bỉ. Các thị trường gồm Thụy Điển, Malta, Latvia, Cypus và

Slovenia là các thị trường ngách doanh nghiệp Việt Nam nên bắt đầu tìm hiểu để tận

dụng được cơ hội dù là nhỏ nhất từ EVFTA để thúc đẩy xuất khẩu. Với thị trường

Anh, khi Anh không còn là thành viên của EU, xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ

bị ảnh hưởng khi các ưu đãi về sản phẩm rào thương mại không còn nếu Việt Nam

và Anh không đàm phán và ký kết các thỏa thuận thương mại mới thay thế. Do đó,

các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp đang tập trung vào thị trường

Anh nói riêng nên cân nhắc có thể điều chỉnh hướng xuất khẩu sang các nước khác

trong EU để tận dụng được tốt hơn các ưu đãi từ EVFTA. Với thị trường nhập khẩu,

để tránh rủi ro do phụ thuộc vào một số thị trường cung cấp chủ yếu trong khi vẫn

duy trì được nguồn cung ứng từ thị trường EU, doanh nghiệp Vỉệt Nam có thể đa

dạng hóa thị trường nhập khẩu trong EU theo hướng như sau: tiếp tục phát triển thị

trường với Đức, Ý, Pháp, Hà Lan; duy trì thị trường nhập khẩu với Áo, Đan Mạch,

93

Ireland. Ngoài ra, Việt Nam cũng có thể xem xét gia tăng nhập khẩu từ thị trường

ngách Malta và Cyprus, đặc biệt là nhập khẩu dược phẩm.

94

KẾT LUẬN

Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, có nhiều lợi thế về sản xuất

hàng nông sản, hoạt động xuất khẩu nông sản đóng một vai trò quan trọng trong sự

ổn định và phát triển của ngành Nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập

quốc tế, hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam có cơ hội lớn trong việc mở rộng

thị trường, tiếp cận một cơ chế giải quyết tranh chấp công bằng. Tuy nhiên, những

khoản trợ cấp nước phát triển hay khả năng cạnh tranh còn thấp của hàng nông sản

Việt Nam đang là những trở ngại không nhỏ để hàng nông sản cùa chúng ta thâm

nhập vào những thị trường này.

Luận văn đã phân tích thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam

sang thị trường EU, đặc biệt đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như cà phê,

hạt điều, hạt tiêu và rau củ. Đồng thời, luận văn đã chỉ ra được những cơ hội cũng

như phân tích cụ thể các thách thức mà xuất khẩu nông sản sang thị trường Liên

minh châu Âu (EU) đang phải đối mặt. Có thể nói, trong xu thế toàn cầu hoá, trước

sự cạnh tranh khốc liệt đến từ các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là vấn đề nâng cao

chất lượng sản phẩm, hàng nông sản Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức,

đòi hỏi chúng ta phải từng ngày, từng giờ đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học kỹ

thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo chỗ đứng trong thị trường thế giới nói

chung và EU nói riêng.

Từ đó, tác giả đã đề xuất các giải pháp, kiến nghị lên Chính phủ Việt Nam, các

Bộ ban ngành, các doanh nghiệp nông sản và Hiệp hội. Nhà nước với vai trò là

người quản lý và định hướng cần có chính sách hỗ trợ để phát triển ngành nông

nghiệp phù hợp với các quy tắc chung của thị trường EU, làm sao đẩy mạnh được

xuất khẩu nông sản, thu được nhiều ngoại tệ cho đất nước. Đồng thời, doanh nghiệp

với vai trò là người chơi chính trên “sân chơi mới” này cũng cần chủ động, tích cực

hội nhập nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá, nâng cao giá trị, vị thế và

thương hiệu cho hàng nông sản Việt Nam trên trường quốc tế. Chính sự đồng bộ

hoá, sự đầu tư bài bản và sự thống nhất từ trên xuống dưới sẽ xây dựng cho hàng

nông sản Việt Nam một vị thế vững chắc trong thị trường khốc liệt như EU.

95

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 1. Bùi Việt Hưng, Chiến lược phát triển kinh tế châu Âu tầm nhìn 2020, Tạp chí

nghiên cứu châu Âu, số 7(118)/2010, tr.33 – 43.

2. Cục xuất nhập khẩu, Bộ Công thương, Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam 2017,

NXB Công thương, Hà Nội 2018.

3. Cục xuất nhập khẩu, Bộ Công thương, Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam 2018,

NXB Công thương, Hà Nội 2019.

4. Cục xuất nhập khẩu, Bộ Công thương, Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam 2019,

NXB Công thương, Hà Nội 2020.

5. Đào Thị Thu Giang, Biện pháp vượt rào cản phi thuế quan đối với hàng hóa xuất

khẩu của Việt Nam, NXB Tài Chính, Hà Nội 2009. 6. Đặng Thị Huyền Anh, Hiệp định EVFTA và một số vấn đề đặt ra đối với xuất

khẩu của Việt Nam vào thị trường EU, Tạp chí công thương, số 9/2017, tr. 72-tr. 74. 7. Đinh Công Tuấn, Hiệp định mậu dịch tự do FTA Việt Nam - EU trợ lực cho quan

hệ hợp tác song phương, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 11(158)/2013, tr.14 - 18.

8. Đinh Văn Thành, Các biện pháp phi thuế quan đối với hàng nông sản trong

thương mại quốc tế, NXB Lao động, Hà Nội 2005. 9. Hiệp hội Rau qua Việt Nam, Báo cáo Thực trạng ngành rau quả Việt Nam giải

pháp và kiến nghị, Hà Nội 2009. 10. Hoàng Thị Thanh Tâm, Các giải pháp nâng cao năng lực xuất khẩu của hàng

nông sản Việt Nam vào thị trường EU, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Đại học Ngoại

thương, Hà Nội năm 2004. 11. Mutrap, Báo cáo đánh giá tác động các Hiệp định thương mại tự do đối với Kinh

tế Việt Nam, Hà Nội 2010.

12. Mutrap, Hài hòa hóa quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động

thực vật của Việt Nam với quy định của EU, Hà Nội 2016. 13. Mutrap - Bộ Công thương Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh

Châu Âu - Sổ tay cho doanh nghiệp Việt Nam, Hà Nội 2016.

96

14. Ngô Thị Mỹ (2016), Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu nông sản

của Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp, Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên

năm 2016. 15. Nguyễn Phương Thảo, Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông

lâm nghiệp thủy sản tại Việt Nam, Ban Thông tin đối ngoại và truyền thông, Bộ Kế

hoạch và đầu tư, Hà Nội 2017.

16. Nguyễn Quang Thuấn, Quan hệ kinh tế Việt Nam - Liên minh Châu Âu: thực

trạng và triển vọng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009.

17. Phạm Ngọc Phong, Đặng Thuỳ Linh, Nguyễn Thị Ngọc Ánh, Tác động của Hiệp

định thương mại tự do Việt Nam - EU đến xuất nhập khẩu của các ngành công nghiệp

với các cam kết của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU về Sở hữu trí tuệ, Hà

Việt Nam, Tạp chí phát triển và hội nhập, số 12/2016. 18. Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam - VCCI, Rà soát pháp luật Việt Nam

Nội 2016.

19. Trần Công Khanh, Báo cáo định hướng nghiên cứu hạt điều, T.P Hồ Chí Minh

2014.

20. Trần Ngọc Quân, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU: cơ hội và

thách thức cho các doanh nghiệp, Tạp chí thông tin đối ngoại, số T10/2015. 21. Trung tâm WTO và Hội nhập - VCCI, Tóm lược Hiệp định thương mại tự do Việt

Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA), Hà Nội 2015. 22. Vũ Thanh Hương, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU: tác động đối với

thương mại hàng hóa giữa hai bên và hàm ý cho Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế,

Đại học kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội năm 2016. 23. Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, Báo cáo Quy hoạch tổng thể phát triển

ngành nông nghiệp cả nước đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội 2012.

đồng doanh nghiệp Việt Nam về Triển vọng Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên

minh Châu Âu, Hà Nội 2013.

24. Ủy ban tư vấn chính sách Thương mại quốc tế - VCCI, Kiến nghị chính sách của Cộng

định thương mại tự do Việt Nam - EU: Sử dụng các chỉ số thương mại, Tạp chí ĐHQGHN:

Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, số 3/2016.

25. Vũ Thanh Hương, Nguyễn Thị Minh Phương, Đánh giá tác động theo ngành của Hiệp

97

26. Hoa Hữu Cường, Xuất khẩu hàng nông sản chủ lực của Việt Nam sang thị trường Liên

minh Châu Âu (EU) đến năm 2025, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2019.

27. Hoàng Thị Thanh Tâm, Các giải pháp nâng cao năng lực xuất khẩu của hàng

nông sản Việt Nam vào thị trường EU, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường đại học

Ngoại thương, Hà Nội năm 2004.

28. Đỗ Bích Thuận, Chính sách bảo hộ nông nghiệp của EU và hoạt động xuất khẩu

nông sản của các nước đang phát triển vào thị trường này, Khoá luận tốt nghiệp,

Trường đại học Ngoại thương, Hà Nội 2003.

29. Đỗ Thị Hoà Nhã, Các yếu tố tác động đến xuất khẩu nông sản Việt Nam vào thị

trường EU, Luận văn tiến sĩ, Trường đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học

Thái Nguyên, Thái Nguyên năm 2018.

30. Trần Thị Lan, Cách mạng công nghiệp 4.0: Cơ hội và thách thức cho ngành

Nông nghiệp, Tạp chí tài chính, tháng 4, kỳ 2 (679)/2018, tr.27-tr.29.

31. Nguyễn Thị Phong Lan, Quản lý nhà nước đối với xuất khẩu nông sản ở việt nam

trong hội nhập quốc tế, Luận án tiến sĩ, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội năm 2017.

32. Nguyễn Đức Quỳnh, Cơ hội và thách thức cho hàng nông sản Việt Nam trong

chuỗi giá trị toàn cầu, Tạp chí tài chính, tháng 3 (653)/2017, tr.29-tr.30.

33. Lê Hữu Thành, Xuất khẩu hàng nông sản chủ lực của Việt Nam sang thị trường

Liên minh Châu Âu (EU) đến năm 2025, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội 2019.

B. TÀI LIỆU TIẾNG ANH 1. Nguyen Binh Duong, Vietnam - EU Free Trade Agreement: Impact and Policy

Implications for Vietnam, 2015. 2. Directorate - General for Trade - European Commission, European Union, Trade

in Goods with Vietnam, 2017.

3. European Commission, Cumulative economic impact of future trade agreements

on EU agriculture, 2016. 4. Mutrap, Implications of an IPR chapter in a hypothetical free trade agreement

between Viet Nam and the European Union, 2011.

98

5. Mutrap, New areas: of trade: goverment procurement liberalisation under the

proposed EU - Viet Nam FTA, 2011. 6. Mutrap, Suport Viet Nam in the negotiations of the EU - Viet Nam free trade

agreement, 2011. 7. Mutrap, Integrating environmental provisions into the future EU - Viet Nam

FTA: issues and perspectives, 2011. 8. Mutrap, Tariffs Protection and subsidisation of agro food products and

negotiation of an FTA between Viet Nam and the EU, 2011. 9. Mutrap, Sustainable impact assessment EU - Vietnam FTA, 2014. 10. Mutrap, The free trade agreement between Vietnam and the European Union:

Quantitative and qualitative impact analysis, 2011. 11. Polski Instytut Spraw Miedzynarodowych, The Polish Institute of International

Affairs, EU - Vietnam Free Trade Agreement: Opportunities and Challenges for

European Business, No. 5(737) 15 January 2015.

C. TÀI LIỆU INTERNET 1. Trung tâm WTO (2020), Xuất khẩu nông sản vào EU: Đáp ứng tiêu chuẩn để

chiếm lĩnh thị trường, tại địa chỉ: http://trungtamwto.vn/hiep-dinh-khac/12325-xuat-

khau-nong-san-vao-eu-dap-ung-tieu-chuan-de-chiem-linh-thi-truong, truy cập ngày

12/05/2020.

2. Trang Linh (2020), EVFTA thách thức nông sản Việt, VnEconomy, tại địa chỉ:

http://vneconomy.vn/evfta-thach-thuc-nong-san-viet-20190702171003108.htm, truy

cập ngày 02/04/2020.

3. Báo đầu tư (2020), “EVFTA: Rộng đường cho ngành nông nghiệp Việt Nam xuất

khẩu”, tại địa chỉ: http://vietnammoi.vn/xuat-khau-gao-nam-2017-nhieu-tin-mung-

ngay-tu-dau-nam-18708.html, truy cập ngày 01/035/2020.

4. Diễn đàn Doanh nghiệp (2020), Nông sản Việt “đón sóng” EVFTA, tại địa chỉ:

https://enternews.vn/nong-san-viet-don-song-evfta-166884.html, truy cập ngày

12/05/2020.

99

5. Tạp chí tài chính (2020), Thúc đẩy xuất khẩu rau quả Việt Nam sang thị trường

EU: Nhìn từ quy định SPS, tại địa chỉ: http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-

doi/thuc-day-xuat-khau-rau-qua-viet-nam-sang-thi-truong-eu-nhin-tu-quy-dinh-sps-

309356.html, truy cập ngày 28/05/2020. 6. Tạp chí Công thương, Các biện pháp SPS và T T đối với hàng rau quả xuất khẩu

sang EU-27, truy cập ngày 09/06/2020 tại: http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/cac-

bien-phap-sps-va-tbt-doi-voi-hang-rau-qua-xuat-khau-sang-eu-27-70691.htm 7. Sài Gòn Giải phóng (2020), Cơ hội cho nông sản Việt vào thị trường EU, tại địa

chỉ:https://www.sggp.org.vn/co-hoi-cho-nong-san-viet-vao-thi-truong-eu-

649279.html, truy cập ngày 14/04/2020.

8. Tạp chí tài chính (2020), EVFTA: Cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp Việt

Nam, tại địa chỉ: http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/evfta-co-hoi-va-

thach-thuc-cho-doanh-nghiep-viet-nam-318898.html, truy cập ngày 13/05/2020.

9. Lê Tiến Đạt, Vũ Trọng Nghĩa (2020), Hoạt động xuất khẩu nông sản Việt Nam

sang một số thị trường trọng điểm, Tạp chí công thương, tại địa chỉ:

http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/hoat-dong-xuat-khau-nong-san-viet-nam-sang-

mot-so-thi-truong-trong-diem-70433.htm, truy cập ngày 12/05/2020. 10. Các Website tham khảo và thu thập số liệu: http://www.gso.gov.vn (Tổng Cục

thống kê Việt Nam) http://www.customs.gov.vn (Tổng Cục hải quan Việt Nam)

http://trademap.org (ITC- Phòng Thương mại quốc tế) http://www.trungtamwto.vn

(Trung tâm WTO, Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam).

i Phụ lục 1. Kim ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam theo một số các thị trường thuộc EU giai đoạn 2010 – 2019

Đơn vị: 1000 USD

Cà phê 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

21.922 41.801 35.962 29.907 21.914 14.963 13.554 16.307 15.014 15.679 Hà Lan

46.640 81.906 101.858 90.189 62.671 57.925 62.079 88.521 108.926 115.420 Anh

48.137 69.838 108.405 108.192 125.634 79.492 83.628 101.006 84.756 65.839 Pháp

350.412 464.741 628.536 454.059 533.028 470.025 545.845 567.330 513.314 399.933 Đức

86.156 129.762 141.699 122.581 93.772 110.269 90.567 125.651 127.077 109.480 Bỉ

Tây Ban Nha 151.499 215.140 264.911 278.183 265.119 242.830 240.982 255.365 269.016 237.418

Italy 145.028 214.840 264.546 242.515 256.814 239.285 242.165 267.510 258.499 227.321

3.551 5.666 5.003 5.582 4.459 5.898 5.525 6.504 5.232 5.862 Thụy Điển

3.875 8.462 9.339 9.056 8.066 10.648 4.461 6.823 6.543 10.668 Hy Lạp

70.875 94.856 97.016 88.677 91.969 80.987 99.594 90.867 75.881 58.171 Ba Lan

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Tổng cục Thống kê)

ii Phụ lục 2. Kim ngạch xuất khẩu hạt điều Việt Nam theo một số các thị trường thuộc EU giai đoạn 2010 – 2019

Đơn vị: 1000 USD

Hạt điều 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

Hà Lan 6.977 9.268 19.020 15.136 22.333 29.161 34.853 38.529 49.605 44.470

43.945 48.636 49.657 47.976 72.927 96.928 117.791 144.036 139.306 118.381 Anh

11.061 14.659 25.255 27.958 35.612 40.797 45.934 60.191 70.081 67.148 Pháp

20.183 27.467 32.891 41.566 74.451 125.235 198.542 271.637 260.713 264.179 Đức

901 2.219 2.156 9.675 7.778 12.009 10.787 22.377 21.896 23.409 Bỉ

Tây Ban Nha 11.014 11.411 10.316 17.097 11.130 11.129 21.323 29.101 34.651 8.719

9.268 19.020 15.136 22.333 29.161 34.853 38.529 49.605 44.470 Italy 6.977

5.570 6.606 3.688 6.080 6.840 9.533 11.085 13.519 10.648 Thụy Điển 2.041

2.068 971 1.753 3.698 3.045 5.191 3.264 3.856 6.183 Hy Lạp 4.174

2.931 1.647 2.615 5.816 14.761 23.383 28.152 28.909 34.036 Ba Lan 2.998

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Tổng cục Thống kê)

iii

Phụ lục 3. Kim ngạch xuất khẩu chè Việt Nam theo các thị trường thuộc EU giai đoạn 2010 – 2019

Đơn vị: 1000 USD

2012 2013 2014 2015 2010 2011 2016 2017 2018 2019 Chè

1.127 922 588 912 360 291 489 227 350 384 Hà Lan

1.443 1.317 581 340 1.017 915 1.632 2.087 1.691 611 Anh

622 700 550 1.068 479 418 288 180 486 770 Pháp

5.970 6.619 8.185 4.537 3.807 5.521 1.680 1.430 1.855 1.317 Đức

71 105 36 31 14 8 20 9 48 115 Bỉ

291 620 642 462 176 656 259 14 127 608 Tây Ban Nha

104 109 211 208 8 - - 27 50 - Italy

128 28 2 8 23 - - 79 61 13 Thụy Điển

- - 8 - - 16 - - - - Hy Lạp

4.186 4.180 5.249 5.503 4.731 3.860 2.324 2.591 1.871 767 Ba Lan

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Tổng cục Thống kê)