ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------

HOÀNG THỊ THÚY

KHẢO CỨU CỘNG ĐỒNG NGƢỜI MÔNG

THEO ĐẠO TIN LÀNH QUA MỘT SỐ NGHI LỄ

Chuyên ngành: Tôn giáo học

Mã số: 60 22 03 09 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGUYỄN QUANG HƢNG

Hà Nội – 2016

LỜI CẢM ƠN

Luận văn được hoàn thành dựa trên những tài liệu, tư liệu từ đề tài:

“Đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào Mông ở Việt Nam: Hiện trạng

và giải pháp” do PGS. TS Nguyễn Quang Hưng chủ trì nhóm nghiên cứu,

Trường Đại học KHXH & NV (Đại học Quốc gia Hà Nội) là cơ quan chủ trì.

Em xin trân trọng cảm ơn những giúp đỡ quý giá về mặt tài liệu, những

chuyến điền dã của đề tài, đặc biệt là sự giúp đỡ, động viên, chỉ bảo tận tình

của thầy hướng dẫn PGS. TS Nguyễn Quang Hưng. Em xin chân thành cảm

ơn thầy!

Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy cô đã giảng dạy tại Bộ

môn Tôn giáo học nói riêng và Khoa Triết, trường Đại học Khoa học Xã hội

và Nhân nói chung đã giúp em có được những tri thức chuyên ngành quý giá.

Cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã luôn theo sát, giúp đỡ, động

viên em trong cuộc sống.

Xin trân trọng cảm ơn!

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.

Tác giả luận văn

Hoàng Thị Thúy

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 2

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 7

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 8

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn ................................................... 8

7. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 8

NỘI DUNG ....................................................................................................... 9

Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ HIỆN TRẠNG ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO,

TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI MÔNG .......................................................... 9

1.1. Vài nét về cộng đồng ngƣời Mông .......................................................... 9

1.1.1. Lịch sử tộc người Mông và quá trình di cư vào Việt Nam ..................... 9

1.1.2. Về tổ chức xã hội, dòng họ và gia đình cùng với đời sống văn hóa vật

chất, tinh thần và những giá trị biểu hiện đặc trưng ...................................... 13

1.2. Vài nét về cộng đồng Mông theo Tin lành ở Việt Nam ............................. 19

1.2.1. Khái quát chung về đạo Tin lành và quá trình du nhập đạo Tin lành vào

cộng đồng người Mông ở Tây Bắc. ................................................................. 19

1.2.2. Hiện trạng ............................................................................................. 26

1.2.3 Nguyên nhân của sự cải đạo .................................................................. 30

Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 40

Chƣơng 2. ẢNH HƢỞNG CỦA ĐẠO TIN LÀNH ĐỐI VỚI VĂN HÓA

TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI MÔNG QUA KHẢO CỨU MỘT SỐ

NGHI LỄ ........................................................................................................ 41

2.1 Ảnh hƣởng của đạo Tin lành đến các nghi lễ cộng đồng ..................... 41

2.1.1. Ảnh hưởng của đạo Tin lành đến quan hệ gia đình và nghi lễ thờ cúng

tổ tiên ............................................................................................................... 41

2.1.2. Sự thay đổi trong thiết chế xã hội và các nghi lễ cộng đồng ................ 56

2.2. Sự ảnh hƣởng của đạo Tin lành đối với các nghi lễ cá nhân ............. 66

2.2.1. Lễ cúng khi sinh con ............................................................................. 66

2.2.2. Nghi lễ cưới xin ..................................................................................... 74

2.2.3. Nghi lễ tang ma ..................................................................................... 90

Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................ 105

KẾT LUẬN .................................................................................................. 106

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 109

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1. Số người theo đạo Tin lành ở các tỉnh Tây Bắc. ............................ 28

Bảng 1.2 Các lý do người Mông theo đạo như sau: ........................................ 30

Bảng 1.2: Mức độ biết sử dụng nhạc cụ truyền thống dân tộc của thanh niên Mông .. 38

Bảng 2.1. Thay đổi trong tín ngưỡng tôn giáocủa người Mông theo đạo

Tin lành ........................................................................................................... 48

Bảng 2.2. Các lễ hội cộng đồng truyền thống của người Mông ..................... 56

Bảng 2.3. Các ngày lễ chính của người Mông theo đạo Tin lành ................... 58

Bảng 3.4. Quy trình tổ chức lễ cưới ................................................................ 84

Bảng 3.5. So sánh đám cưới của người Mông theo Tin lành và người Mông

truyền thống ..................................................................................................... 84

Bảng 3.6. So sánh giữa đám tang của người Mông truyền thống và người

Mông theo Tin lành ....................................................................................... 101

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Người Mông là một trong những dân tộc thiểu số có số dân đông ở

miền Bắc Việt Nam. Với địa bàn cư trú thường ở độ cao từ 800 đến 1000m

so với mực nước biển, người Mông trải rộng hầu hết các tỉnh vùng núi phía

Bắc Việt Nam, dọc theo biên giới Việt – Trung và Việt – Lào từ Lạng Sơn

đến Nghệ An. Do tập quán di cư nên một bộ phận người Mông đã di cư vào

Tây Nguyên từ những năm 1980, 1990. Địa bàn cư trú như vậy đã khiến

người Mông trở thành chủ nhân của những vùng núi cao, hiểm trở nhất và là

phiên, dậu của vùng biên giới phía Bắc nước ta. Do vậy, đời sống tinh thần,

vật chất của cộng đồng người Mông là vấn đề rất cần được quan tâm.

Từ giữa thập niên 1980 đến nay, sự bùng nổ trào lưu chuyển đổi sang

đạo Tin lành trong đồng bào các dân tộc thiểu số và đặc biệt là ở cộng đồng

người Mông đã dẫn tới nhiều biến đổi trong đời sống của đồng bào và nảy

sinh nhiều vấn đề xã hội. Những vấn đề này không chỉ nhận được sự quan

tâm từ phía chính quyền mà còn thu hút sự chú ý của các nhà khoa học. Đã có

nhiều công trình nghiên cứu và đánh giá khác nhau về vấn đề này. Các nhà

thần học Tin lành và những người Mông theo Tin lành cho rằng cải đạo mang

lại cho họ cuộc sống tốt đẹp hơn, đó là con đường của sự sáng tạo và hình

thành một nền văn hóa mới của người Mông nhằm thích ứng với trào lưu văn

hóa có tính toàn cầu hiện nay. Ngược lại, các nhà nghiên cứu cũng có những ý

kiến trái chiều về tác động tiêu cực của Tin lành đối với văn hóa tộc người, lo

ngại việc chuyển sang Tin lành là một mối đe dọa nguy hiểm, làm phai nhạt

và tàn lụi bản sắc văn hóa dân tộc và làm mất đi tính đa dạng của các nền văn

hóa. Ngoài ra, sự cải đạo này cũng đặt ra mối lo về an ninh của vùng biên giới

1

phía Bắc nước ta.

Về mặt văn hóa, sự cải đạo sang Tin lành của một bộ phận người Mông

có làm phong phú hơn đời sống văn hóa hay ngược lại làm tàn lụi đi các giá

trị văn hóa truyền thống đa dạng của họ? Tin lành đã làm biến đổi đời sống

văn hóa của cộng đồng người Mông như thế nào? Vì sao lại có sự thay đổi

đó? Những đánh giá và cách ứng xử với hiện tượng này như thế nào? Để tìm

lời giải đáp cho những vấn đề trên, tác giả chọn đã chọn: “Khảo cứu cộng

đồng người Mông theo đạo Tin lành qua một số nghi lễ” làm đề tài của

Luận văn.

2. Tình hình nghiên cứu

Các sách tham khảo của tác giả trong nước

Nghiên cứu về đạo Tin lành và văn hóa, lối sống của người theo đạo

Tin lành tác giả Nguyễn Thanh Xuân với hai cuốn sách Bước đầu tìm hiểu

đạo Tin lành trên thế giới và ở Việt Nam (2002) và Một số tôn giáo ở Việt

Nam (2007) đã khái quát trình bày về những vấn đề cơ bản của đạo Tin lành

trên thế giới và Việt Nam như lịch sử ra đời, phát triển, giáo lý, luật lệ, lễ

nghi, mối quan hệ và ảnh hưởng của đạo Tin lành đối với đời sống an ninh,

chính trị xã hội tại những nơi có đạo.

Viết về người Mông và văn hóa Mông truyền thống, tác giả Trần Hữu

Sơn với cuốn sách Văn hóa Hmông (1996)đã khảo sát những nét khái quát về

điều kiện tự nhiên, dân cư, dân số, đặc điểm kinh tế - xã hội, lịch sử tộc người

cũng như truyền thống lịch sử của người Mông tại tỉnh Lào Cai. Từ đó phân

tích những yếu tố mới trong đời sống văn hóa tinh thần và những vấn đề đặt

ra của người Mông tại đây.

Viết về người Mông Tin lành, cuốn Văn hoá tâm linh của người

Hmông ở Việt Nam - truyền thống và hiện đại (2005) của Vương Duy Quang,

2

đã bàn về bản chất và trình bày những nguyên nhân của việc một bộ phận

đồng bào Mông theo tôn giáo mới - đạo Tin lành, cũng như đã nêu lên những

tác động đến xã hội, cộng đồng của người Mông.

Trong cuốn Dân tộc Mông Sơn La với việc giải quyết vấn đề tín

ngưỡng tôn giáo hiện nay do Thào Xuân Sùng chủ biên (2009), các tác giả đã

nhìn vấn đề người Mông và tôn giáo từ góc độ của nhà quản lý, đề cập đến

thực tế người Mông ở Sơn La và đưa ra nguyên nhân của việc đạo Công giáo

và Tin lành thâm nhập và phát triển trong đời sống của người Mông tại địa

phương này, từ đó đã nêu ra những kinh nghiệm, giải pháp và phương hướng

giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trong dân tộc Mông ở Sơn La.

Tác giả Nguyễn Văn Thắng (chủ biên) với cuốnGiữ “lý cũ” hay theo

“lý mới”. Bản chất của những cách phản ứng khác nhau của người Mông ở

Việt Nam với ảnh hưởng của đạo Tin lành(2009) đã bàn trực diện về sự

truyền bá của đạo Tin lành trong cộng đồng người Mông ở các tỉnh Tây Bắc

với những kết quả nghiên cứu điền dã tập trung vào những điểm dân cư đa số

theo đạo Tin lành của nhóm nghiên cứu Viện Dân tộc học. Tuy công trình

thực hiện trên quy mô còn khá khiêm tốn, nhưng với nhiều tranh minh họa và

một số bảng biểu, công trình phác họa “sự giằng co” về mặt tôn giáo xung

quanh vấn đề bảo vệ tín ngưỡng truyền thống với những tập tục văn hóa lâu đời

của tổ tiên hay theo đạo Tin lành trong cộng đồng người Mông ở Việt Nam.

Luận án, đề tài, dự án khoa học các cấp

Ban Tôn giáo Chính phủ (2005), đề án cấp nhà nước Khảo sát thực

trạng vấn đề đạo Tin lành ở khu vực Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ -

kiến nghị giải pháp. Công trình đề cập đến tổng thể nhiều khía cạnh về đời

sống kinh tế, văn hóa, an ninh xã hội, trong đó vấn đề tôn giáo và đặc biệt là

đạo Tin lành được nhấn mạnh. Từ đó đề án đưa ra dự báo, kiến nghị và giải

3

pháp cho công tác đối với đạo Tin lành trong tương lai.

Đỗ Quang Hưng (2006), chủ nhiệm Đề án Vấn đề Công giáo và Tin

lành trong các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Bắc những năm gần đây.

Đề án phân tích rõ về nguồn gốc, lịch sử về tộc người, văn hóa, tôn giáo của

các dân tộc nơi đây, trong đó yếu tố tôn giáo đã có những tác động làm thay

đổi đời sống xã hội ở khu vực. Qua đó đề án đã đưa ra những dự báo và giải

pháp cho công tác tôn giáo đối với hai khu vực trên.

Đặng Nghiêm Vạn, chủ nhiệm đề tài cấp Bộ (2006), Về tình hình phát

triển của đạo Tin lành ở miền núi phía Bắc, Trường Sơn – Tây Nguyên. Đề tài

phân tích có 5 nguyên nhân đạo Tin lành phát triển ở hai khu vực trên, chỉ ra

những hệ quả của việc theo đạo Tin lành theo hai khía cạnh cả tích cực và tiêu

cực. Trên cơ sở đó đề tài đã đưa ra các giải pháp, kiến nghị, đề xuất với các

cấp, các ngành có những chính sách cụ thể, phù hợp để công tác đối với đạo

Tin lành được tốt hơn.

Đề án cấp nhà nước Nghiên cứu đánh giá xu hướng tín ngưỡng của

cộng đồng dân tộc Mông theo đạo Tin lành và một số hiện tượng tôn giáo mới

vùng Tây Bắc (2015) do Nguyễn Quang Hưng chủ nhiệm đề tài đã tiến hành

nghiên cứu đã: Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về những biến đổi đời

sống tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng Mông ở Tây Bắc. Thứ hai, đánh giá

thực trạng và nhận diện những điểm nóng cộng đồng người Mông theo đạo

Tin lành ở Tây Bắc. Thứ ba, chỉ ra vấn đề các hiện tượng tôn giáo mới ở Tây

Bắc như hiện trạng, nhận diện những điểm nóng và hệ lụy xã hội. Thứ tư đề

xuất các chính sách ứng xử của các cấp chính quyền trong và ngoài vùng Tây

Bắc đối với các vấn đề đạo Tin lành. Thứ năm, đề xuất những giải pháp xây

dựng cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc phát triển bền vững. Có thể

nhận định đây là một công nghiên cứu một cách toàn diện các khía cạnh cụ

thể của đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa của cộng đồng người Mông tại

4

Tây Bắc.

Về luận án, tác giả Nguyễn Quỳnh Trâm với luận án Văn hóa của

người Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai (2016) đã có những nghiên

cứu về quá trình truyền bá đạo Tin lành trong vùng đồng bào Mông ở Lào Cai

và những nguyên nhân của việc một bộ phận người Mông theo đạo Tin lành.

Luận án cũng chỉ ra quá trình chuyển đổi từ văn hóa tín ngưỡng truyền thống

sang đạo Tin lành trong người Mông ở tỉnh Lào Cai, cùng những tác động

tích cực và tiêu cực của việc người Mông theo Tin lành đối với văn hóa, xã

hội. Từ đó chỉ việc nghiên cứu những vấn đề đặt ra và xu hướng vận động của

việc theo đạo Tin lành của người Hmông ở tỉnh Lào Cai, cùng những đề xuất,

kiến nghị.

Một số bài viết của các nhà nghiên cứu, học giả trên tạp chí

Cùng với các công trình được xuất bản, viết về người Mông và văn hóa

Mông, còn có những bài viết đăng trên các tạp chí. Nhà nghiên cứu Vương

Duy Quang đã có hàng loạt bài viết về đạo Vàng Chứ mà ông gọi là hiện

tượng tôn giáo mới ở người Mông ở Việt Nam, về truyền thống văn hóa dân

tộc trước các hiện tượng tôn giáo mới. Vương Duy Quang, Vấn đề người

Hmông theo đạo Kitô hiện nay, tạp chí Dân tộc học, số 4-1999, ở bài viết này,

Tác giả Vương Duy Quang đã khái quát văn hoá truyền thống của người

Mông trên cả nước, nguyên nhân người Mông theo và không theo đạo Thiên

Chúa, từ đó đưa ra một số giải pháp cho vấn đề người Mông theo đạo; Vấn đề

sử dụng văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số trong quá trình phát

triển đạo Tin lành qua khảo sát ở người Hmông, Tạp chí Khoa học công an,

số 2-2003; Văn hóa tâm linh của người Hmông ở Việt Nam truyền thống và

hiện đại, Nxb Văn hóa Thông tin, H.2005, Tác phẩm đã nêu những nét đại

cương về người Mông ở Việt Nam và những biến đổi trong văn hoá tâm linh

của người Mông; Hiện tượng “xưng Vua” ở người Hmông, Tạp chí Dân tộc

học, số 2-2004.

Nguyễn Văn Thắng có nhiều bài nghiên cứu về vấn đề được đăng trên

5

các tạp chí chuyên ngành này như bài viết “Về động thái ứng xử với bệnh tật

của người Hmông” tạp chí Dân tộc học, số 3, 2006, trang 18 - 29. Ứng xử với

bệnh tật của người Mông được chế định bởi văn hóa Mông, trong đó tôn giáo

là một trong những yếu tố quan trọng và làm thành một phần bản sắc riêng

của họ. Vì vậy, việc sử dụng hệ thống y học cổ truyền là chính thì người

Mông sẽ bảo lưu được cơ bản bản sắc riêng trong văn hóa, nhưng hạn chế

trong việc kiểm soát bệnh tật. Trái lại, khi áp dụng hệ thống y học hiện đại là

chính, người Mông theo Ki-tô giáo kiểm soát được bệnh tật, nhưng lại làm

mờ nhạt dần bản sắc riêng trong cách ứng xử với bệnh tật của họ.

Nguyễn Thanh Xuân, Vài nét khái quát về tôn giáo trong vùng dân tộc

thiểu số ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 2-2007. Vi Hoà Bắc,

Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của đạo Tin lành tới văn hóa truyền thống ở

vùng đồng bào Hmông, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai, Tạp chí Dân tộc học, số

1-1997. Tác giả đã nêu lên quá trình thâm nhập đạo Kitô vào huyện Bắc Hà,

qua đó cho thấy bức tranh toàn cảnh về tình hình theo đạo tại địa phương. Từ

đó nêu lên những ảnh hưởng của đạo tới văn hoá truyền thống cũng như

nguyên nhân tiếp nhận đạo của đồng bào Mông.

Những bài nghiên cứu khác như: Một số vấn đề thực tiễn về đạo Tin

lành ở các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc hiện nay của tác giả Nguyễn Văn

Minh và Hồ Ly Giang, đăng trên tạp chí Dân tộc học số 5 (173), 2011, trang 3

– 14 gồm ba nội dung chính: Nội dung thứ nhất giới thiệu về tình hình đạo

Tin lành ở Tây Bắc; nội dung thứ hai đưa ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn

đến việc đạo Tin lành phát triển ở vùng Tây Bắc, từ nguyên nhân chủ quan

(như đường lối chính sách, cán bộ đảng viên tại địa phương, tổ chức hệ thống

chính trị) đến nguyên nhân khách quan (như điểm lợi thế từ bản thân của đạo

Tin lành); Nội dung thứ ba trình bày những ảnh hưởng của sự phát triển Tin

lành ở Tây Bắc, từ ảnh hưởng trên lĩnh vực phát triển kinh tế đến sự ảnh

hưởng trong đời sống xã hội, văn hóa.

Các công trình nghiên cứu được công bố ở trong nước và ngoài nước

6

khá phong phú và có giá trị liên quan đến người Mông, văn hóa người Mông

nói chung hoặc người Mông ở một địa phương cụ thể; về đạo Tin lành, đạo

Tin lành ở Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu của các tác giả trên không

chỉ là nguồn tư liệu rất quan trọng và bổ ích để tác giả kế thừa trong quá trình

thực hiện Luận văn mà còn là cách tiếp cận, giải thích lập luận để tác giả học

tập. Tuy nhiên, các nghiên cứu về quá trình người Mông theo Tin lành và nhất

là việc chuyển đổi từ văn hóa truyền thống sang văn hóa Tin lành của một bộ

phận người Mông chưa được đề cập nhiều. Vì vậy tác giả chọn vấn đề này để

làm để tài cho Luận văn của mình giúp cho mọi người có cái nhìn chung nhất,

cụ thể nhất.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Đề tài được thực hiện với mục đích tìm hiểu về ảnh hưởng của Tin lành

đến thay đổi văn hóa tộc người Mông biểu hiện qua một số nghi lễ. Qua đó

nhận diện ra người Mông theo đạo Tin lành

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, đề tài cần triển khai ba

nhiệm vụ cụ thể sau:

- Tìm hiểu quá trình du nhập và nguyên nhân phát triển của đạo Tin

lành trong cộng đồng Mông.

- Khảo sát sự thay đổi trong việc thực hành một số nghi lễ giữa hai

cộng đồng người Mông truyền thống và người ông theo đạo Tin lành.

- Đánh giá về sự thay đổi này.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Luận văn tập trung khảo sát, nghiên cứu văn hóa truyền thống của

người Mông, văn hóa của người Mông theo đạo Tin lành ở 6 tỉnh Tây Bắc là

Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, trong phạm vi địa

7

lý hữu ngạn sông Hồng.

- Thời gian thực hiện Luận văn: Luận văn được thực hiện từ 12/2015

đến 12/2016.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Luận văn được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt

Nam về tôn giáo và phương pháp luận tôn giáo học.

- Một số phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong Luận văn này

gồm có:

Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Thu thập các tài liệu liên quan đến

đề tài, dựa trên những tài liệu nghiên cứu, phân tích, chọn lọc những thông tin

cần thiết cho đề tài.

Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu: Sau khi thu thập tài liệu,

phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng nhằm xử lý thông tin.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn

- Luận văn cung cấp một số luận cứ, làm cơ sở cho đội ngũ cán bộ quản

lý các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị tham mưu, đề xuất chủ trương,

giải pháp về công tác tôn giáo đối với đạo Tin lành nói chung, công tác với

việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa Mông truyền thống và cách ứng xử

với các yếu tố văn hóa mới.

- Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy

về công tác đối với đạo Tin lành trong các cơ sở nghiên cứu, đào tạo.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở bài, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,

8

Luận văn được chia thành 2 chương 4 tiết.

NỘI DUNG

Chƣơng I: KHÁI QUÁT VỀ HIỆN TRẠNG ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO,

TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI MÔNG

1.1. Vài nét về cộng đồng ngƣời Mông

1.1.1. Lịch sử tộc người Mông và quá trình di cư vào Việt Nam

Người Mông có nhiều tên gọi khác nhau: Mèo, Mẹo, Mieo, Hmông.

Còn người Mông vẫn tự gọi mình là HMôngz, đọc theo âm ngữ Việt là

“Mông” do trong tiếng Mông âm H là âm câm. Luận văn sử dụng cách viết

tên tộc người là “Mông” căn cứ vào Công văn số 903 – CV/HĐDT, ngày

04/12/2001 của Hội đồng Dân tộc Quốc hội khóa X “đề nghị từ nay đọc và

viết tên tộc người Mông là “Mông”.

Về nguồn gốc tộc người Mông, có nhiều ý kiến khác nhau giữa các nhà

nghiên cứu. Nhà truyền giáo Savia F.M tác giả cuốn “Lịchsử người Mèo” là

một trong những học giả phương Tây đầu tiên tìm hiểu về nguồn gốc tộc

người này dựa trên những truyền thuyết. Ông đoán rằng người Mông có từ

thời cổ đại ở vùng Trung Á, giữa sông Ti-gre và sông Eu-phrate. Về sau họ di

dân đến vùng đồng khô Xi-bê-ri rồi chuyển cư đến khu vực sông Hoàng Hà ở

vùng Hồ Nam, Hồ Bắc ngày nay, từ đó lan ra các địa vực khác.

Cũng có quan điểm khác cho rằng người Mông xuất xứ từ vùng Trung

Á lên Xi-bê-ri sau chia làm hai nhánh, một nhánh di cư vào Trung Quốc, một

nhánh dạt ra quần đảo Nhật Bản. Bên cạnh những ý kiến trái chiều về nguồn

gốc người Mông, hầu hết các nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng người Mông

từng sinh sống ở khu vực sông Hoàng Hà và là chủ nhân của nhà nước Tam

Miêu. Tên gọi Tam miêu là căn cứ vào ba màu sắc trang phục của người

9

Mông lúc đó (Hồng miêu, Bạch miêu, Thanh miêu).

Theo truyền thuyết của người Mông, sau thất bại của thủ lĩnh người

Mông là Suy Vưu do chống lại Hoàng Đế đã bị Huy Viên đánh bại, người

Mông buộc phải di cư để tồn tại, hay theo cách nói của người Mông thì đó là

“chạy chết”, di cư để thoát khỏi sự tàn sát của kẻ thù, để tìm đường sống cho

mình và cho các thế hệ kế tiếp. Vùng đất cuối cùng của người Mông ở Hồ

Nam, Hồ Bắc, Quảng Tây. Hải Nam, Tứ Xuyên, Quý Châu và Vân Nam bị

nhà Thanh thôn tính vào thế kỉ XVIII và đầu thế kỉ XIX. Để tránh họa diệt

vong họ buộc phải thiên di về phía Nam, chọn những vùng núi cao làm nơi

sinh sống. Dân ca Mông miêu tả sự kiện này như sau:

“Người Mèo ta ở Quý Châu,

Quý Châu là đất nước ta,

Vì người Mèo không có chữ;

Thua kiện nên ta mới đi…” [12,170]

Người Mông từ di cư vào Việt Nam bằng nhiều con đường và nhiều đợt

nhưng có 3 đợt đông nhất.

Đợt một: Đời nhà Minh, ban hành chính sách “Cải thổ quy lưu’’ đồng

thời cho người Hán đến vùng người Mông cai trị người Mông, người Mông

đã đứng dậy chống lại chính sách này nhưng bị đánh dẹp. Người Mông di cư

xuống phía Nam vào Mèo Vạc, Đồng Văn (Việt Nam) cách đây khoảng 350

năm, vào cuối nhà Minh đầu nhà Thanh .

Đợt hai: cách đây khoảng 200 năm, đời nhà Thanh có đạo luật quy định

5 hộ Mông mới được dùng một con dao mỏng, cấm không được dùng kim khí

làm công cụ. Vì phẫn uất người Mông đã nổi dậy chống lại, phong trào bị đàn

áp, họ phải lánh nạn xuống các nước Đông Nam Á và di cư vào Đồng Văn,

10

Hà Giang, Lào Cai.

Đợt ba: cuối triều Mãn Thanh phong trào nông dân “Thái bình thiên

quốc” đã nổ ra chống lại triều đình trong đó có người Mông. Đến năm 1872,

phong trào đấu tranh của người Mông bị thất bại. Đại bộ phận người Mông

phải di cư lánh nạn, đây là cuộc thiên di lớn vào Việt Nam với quy mô trên 10

ngàn người. Ngoài ba đợt di cư lớn kể trên, hàng năm vẫn có hiện tượng

người Mông di cư nhỏ lẻ vào Việt Nam.

So với các dân tộc khác, người Mông vào Việt Nam khá muộn. Họ đến

khi những vùng thấp đã có cư dân các dân tộc khác cư trú. Với bản tính ngại

tiếp xúc, va chạm cùng tâm thế “chạy chết” của mình, họ đã chọn những vùng

núi cao, nơi các tộc người khác chưa sinh sống làm địa vực cư trú của mình.

Điểm đầu tiên, họ đặt chân đến là Mèo Vạc trên cao nguyên Đồng Văn

(Hà Giang), nơi địa đầu Tổ quốc. Vì thế, người Mông sinh sống ở Việt Nam

đều coi cao nguyên Đồng Văn là quê hương đất tổ của mình:

“Cá ở dưới nước,

Chim bay trên trời,

Chúng ta sống ở vùng núi cao.

Và con chim có tổ,

Người Mèo ta cũng có quê,

Quê ta ở Mèo Vạc.” [40,30]

Người Mông ở Việt Nam hiện nay sinh sống chủ yếu ở các tỉnh miền

núi phía Bắc. Sau ngày giải phóng miền Nam (1975), một bộ phận Người

Mông di cư vào sinh sống ở các tỉnh Tây Nguyên.

Nhìn chung, địa vực cư trú chủ yếu của người Mông hiện nay vẫn là

vùng núi cao, nơi có điều kiện tự nhiên rất khó khăn. Về địa vực của người

Mông ở vùng Tây Bắc, ngạn ngữ Thái có câu :

11

“Xá ăn theo lửa

Thái ăn theo nước

Mông ăn theo sương mù”

Người Mông luôn cư trú ở những nơi cao nhất của miền núi, họ phát

rừng, cày xới và làm nương thâm canh. Tại vùng biên giới Việt – Trung, nơi

có địa hình chủ yếu là núi đá cao, cây cối thưa, khó canh tác thì mật độ người Mông khá cao, khoảng 70-90 người/km2 [40,37]. Vùng biên giới Việt – Lào,

kéo dài từ phía tây tỉnh Lai Châu xuống phía tây hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ

An với nhiều núi đất, thực vật phong phú và đất canh tác nhiều, mật độ người Mông sống tại đây thấp hơn, khoảng 30-40 người/km2 [40,38].

Địa vực cư trú chủ yếu là các vùng núi cao, giao thông đi lại hết sức

khó khăn tạo nên một khoảng cách biệt nhất định giữa cộng đồng người Mông

và xã hội, hạn chế giao lưu văn hóa, lạc hậu về tri thức khoa học và kỹ thuật,

con người chưa đủ khả năng giải thích các hiện tượng tự nhiên. Đó là một

trong những nguyên nhân làm nảy sinh và phát triển tín ngưỡng, tôn giáo.

Khí hậu vùng cao cũng có nhiều bất lợi đối với con người, cây trồng và

vật nuôi. Mùa mưa quá ẩm ướt, mùa khô lại quá hanh heo, thêm vào đó gió

Tây và lũ lụt, ở những nơi thảm thực vật đã mất xuất hiện sương muối nhiều,

ảnh hưởng đến trồng trọt, chăn nuôi.

Để thích ứng với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt ấy, người Mông đã tự

xác lập cho mình một hệ thống nông nghiệp hoàn chỉnh. Về trồng trọt, ngô là

cây lương thực chủ yếu, theo lối canh tác “đao canh, hỏa chủng” nghĩa là

phát, đốt nương rồi chọc lỗ tra hạt. Họ trồng lúa ở những nơi đất rừng gỗ, tre

hay nứa mà đất đỏ, vàng, độ ẩm nhiều, đất kết lại thành hạt.

Người Mông có những giống vật nuôi nổi tiếng như giống bò Đồng

Văn. Quy mô chăn nuôi chủ yếu theo hộ gia đình, chủ yếu để phục vụ cho

12

nhu cầu sản xuất và cung cấp thực phẩm cho các dịp hội hè và cúng bái…

Một số nghề thủ công như trồng lanh, dệt vải, làm giấy, đóng giầy, rèn,

đúc, mộc,… được sản xuất nhỏ lẻ, theo quy mô hộ gia đình và có tính chất

thời vụ. Cuộc sống của đồng bào Mông gắn bó và phụ thuộc vào rừng nên họ

có nhiều kinh nghiệm hái lượm, nắm bắt từng loại cây theo mùa vụ.

1.1.2. Về tổ chức xã hội, dòng họ và gia đình cùng với đời sống văn hóa vật

chất, tinh thần và những giá trị biểu hiện đặc trưng

Người Mông theo thiết chế xã hội phụ quyền với cấu trúc xã hội cơ bản

là gia đình, dòng họ và làng bản. Người Mông chưa bao giờ có một đất nước

riêng, họ coi những rẻo núi cao là nhà, là quê hương của họ. Khái niệm đất

nước chỉ xuất hiện trong văn học dân gian, trong dân ca của người Mông mà

thôi. Làng (dò; người Mông Xanh gọi là giào) là đơn vị xã hội duy nhất có tên

gọi và quy ước lãnh địa trong xã hội truyền thống của người Mông [40,83].

Tên làng người Mông có thể được đặt theo tên dòng họ đến lập làng đầu tiên,

theo đặc điểm địa lý tự nhiên, dấu ấn riêng biệt hay địa danh điển tích hoặc là

gọi tên theo tộc người đã ở từ trước. Đây là nơi có đất canh tác và nguồn nước

cho sinh hoạt và trồng trọt. Cư dân trong làng có thể là thuần Mông hoặc đan

xen với các dân tộc khác. Nếu là nơi có nhiều dân tộc sống thì người Mông

thường quần tụ lại thành một khu vực riêng. Đặc điểm cư trú theo kiểu da báo

này phản ánh truyền thống khép kín và tính cố kết cộng đồng của người

Mông, tuy vậy họ luôn sống hòa hợp, tôn trọng phong tục tập quán của các

dân tộc khác. Những quy ước, luật tục do dân làng đặt ra và tự nguyện tuân

theo như là cách quản lý làng. Hai loại quan hệ chủ yếu trong làng là quan hệ

theo dòng họ và quan hệ hàng xóm láng giềng. Trong xã hội truyền thống,

trưởng làng là người có vai trò quan trọng, do dân làng suy tôn nên rất được

tôn trọng. Trưởng làng có thể là trưởng họ của một dòng họ lớn, là người giỏi

giao thiệp, thông thạo phong tục, tập quán, lý lối. Trong xã hội trước đây,

13

trưởng làng là người đứng ra duy trì các luật tục, tộc phong, phát ngôn, xử

phạt, hòa giải, truyền đạt chiếu chỉ, mệnh lệnh của quan trên. Một đặc điểm

nổi bật khi đến làng của người Mông, dù cư trú bất kì nơi đâu cũng dễ nhận

thấy là: trong từng khuôn viên của mỗi gia đình đều được rào bằng tường đá

hoặc rào bằng tre gỗ. Cách làm trên nhằm mục đích phòng thủ, bảo vệ người,

gia súc và của cải nếu có sự tấn công từ bên ngoài, phòng thú dữ.

Đơn vị hạt nhân trong xã hội người Mông là gia đình. Trong gia đình

người Mông có sự phân công lao động chặt chẽ theo giới. Đàn ông là người

sẽ gánh vác việc đốt than, rèn đúc, lấy vật liệu làm nhà, dựng nhà, khai

mương, cày bừa, chài cá, giết mổ, cúng khấn mời tổ tiên. Ngoài ra là những

công việc thuộc về bổn phận của người phụ nữ như xe lanh, dệt, nhuộm vải,

thêu thùa, chăn nuôi và nội trợ. Những công việc lớn trong gia đình như khai

ruộng, tậu trâu bò, làm nhà sẽ có sự bàn bạc cùng quyết định của cả hai vợ

chồng. Theo chế độ gia đình phụ quyền, chủ nhà là người đàn ông, người cha,

khi người cha không còn thì quyền chủ nhà sẽ được chuyển sang cho người

con trai lớn. Chủ nhà sẽ là người có quyền quyết định mọi việc lớn nhỏ trong

gia đình, thực hiện nghi lễ thờ cúng tổ tiên và làm công việc đối ngoại, tham

gia các công việc của dòng họ, làng bản. Tục ngữ Mông có câu: “hổ chết còn

da, bò chết còn sừng, cha chết còn con trai” [40,71], quyền lợi của người đàn

ông được đề cao, phụ nữ không được coi trọng.

Trong dân tộc Mông, dòng họ và quan hệ dòng họ có vai trò quan trọng

là một đặc điểm văn hóa hiếm thấy ở các dân tộc khác. Quan hệ dòng họ

không chỉ cấu thành nên xã hội Mông là còn là điểm nhấn quan trọng thể hiện

bản sắc tộc người. Quan niệm dòng họ của người Mông là một cộng đồng

cùng tổ tiên, cận huyết thống, cùng do ông bà tổ tiên sinh ra và nhất là cùng

có các nghi lễ, cách thức và nội dung làm ma giống nhau. Dòng họ người

Mông là cơ sở để duy trì tính cố kết tộc người. Sống trong điều kiện luôn bị

14

phân tán, xã hội không có một thiết chế nào duy trì sự thống nhất thì thiết chế

dòng họ nổi lên như một tổ chức chặt chẽ, trở thành quy ước, luật tục chung

đảm bảo cho xã hội người Mông trật tự, ổn định. Sự cố kết đó ở người Mông

vượt lên sự phân tán về địa bàn cư trú và sự chia cắt bởi ranh giới hành chính.

Do địa vực cư trú hiểm trở, phân tán nên dòng họ người Mông cũng buộc phải

phân tán theo. Dù ở xa nhưng người trong cùng họ đều chịu sự chi phối bởi

thiết chế “cùng ma” của dòng họ. Nhờ đó người Mông đã tồn tại một cách

quật cường, vượt qua những thử thách khắc nghiệt và bi thảm trong lịch sử.

Tuy vậy, đặc điểm quan hệ này cũng có mặt hạn chế do tính khép kín, cục bộ,

hẹp hòi, tranh giành về lợi ích và địa vị xã hội mang lại.

Dòng họ của người Mông là một bộ máy tự quản riêng gồm trưởng họ, bà

cô, “người cầm quyền ma, quyền khách”, cùng các vị già làng trong dòng họ.

Trưởng họ là người có đạo đức, sống ngay thẳng, am tường về các

chuẩn mực, lý lối, cách thứ cưới gả, tang lễ, làm ma, các lễ thức cúng bái.

Ông là người có quyền quyết định công việc xã hội và đời thường trong cộng

đồng dòng họ.

Bà cô (Fâux hay Pu Nhăngx) dù là người đã lấy chồng, làm ma dòng

họ khác nhưng vẫn có trách nhiệm lớn với con cháu của anh em trai. Có thể

có nhiều bà cô nhưng chỉ có một bà cô uy tín đại diện tham gia vào công việc

chung của dòng họ. Bà cô là người giám sát, phối hợp, trợ giúp cho trưởng họ

và các thành viên trong dòng họ về vấn đề thực hiện các quy định của dòng

họ. Bà cô có vai trò quyết định trong việc hôn nhân, cưới xin hay thậm chí là

đưa ra quyết định liên quan đến việc sửa đổi “ký hiệu” tín ngưỡng của dòng

họ khi thấy có điều cần thiết .

“Người cầm quyền ma, quyền khách” (Cho Đaz Khuô) có nhiệm vụ

như một cố vấn cho trưởng họ trong việc quyết định các công việc liên quan

15

đến đối ngoại. Đó là người rất am tường về nghi lễ, cách thức làm ma của

dòng họ và trực tiếp phụ trách những việc liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo

của dòng họ mình.

Tuy không phải là một bộ máy hành chính nhưng khi xảy ra những sự

việc trong dòng họ hoặc giữa các dòng họ với nhau thì những người trong tổ

chức dòng họ sẽ bàn bạc với nhau để tìm hướng giải quyết. Tổ chức dòng họ

xử lý công việc dựa vào luật tục, quy định của cộng đồng và một phần tình

cảm. Nó mang tính dân chủ và mọi thành viên trong dòng họ đều chấp nhận,

thực hiện một cách tự nguyện.

Trong sinh hoạt hàng ngày của người Mông, trân trọng nâng niu việc

ăn uống cũng chính là thể hiện sự cẩn trọng trong quan hệ giao tiếp và không

chỉ thái độ ứng xử trong gia đình, làng xóm, khi đến nhà người khác và khi

có khách đến nhà mà còn thể hiện cả việc ứng xử với tiên tổ, thần linh, vạn

vật. Trong dịp lễ tết, hay nhà có khách thường được thiết đãi bằng thịt gà,

rượu. Xưa kia mỗi khi ngồi vào mâm rượu, chủ nhà sẽ lặng lẽ nhúng tay vào

chén rượu búng vài giọt lên trời, vài giọt xuống đất, vài giọt qua hai vai với ý

nghĩa cảm tạ trời đất, tiên tổ và chư vị thần linh. Bữa cơm người Mông kị rơi

vãi, nói năng thô tục, kỵ cãi nhau, chẳng may có cơm vãi thì không được

giẫm lên sợ sẽ gây cho thần lương thực nổi giận [33;181,182]. Đó là những

nét đẹp trong văn hóa người Mông cần phải được giữ gìn và phát huy.

Các vùng người Mông sinh sống thường có chợ phiên. Chợ - nơi giao

lưu văn hóa, đậm đà bản sắc vùng cao. Chợ phiên người Mông không gặp

cảnh mời chào chèo kéo mua hàng, mà chỉ thấy những gương mặt thuần phác

trong bộ quần áo dân tộc sặc sỡ. Họ đến chợ ngoài mục đích mua bán còn là

để vui với chợ, vui với khách đi chợ. Nếu như có ai đó múa khèn lập tức được

mọi người kéo đến cùng tham gia. Đối với đàn ông vùng cao thì chợ cũng là

nơi để một tuần họ có thể gặp gỡ cùng uống rượu bên chảo thắng cố. Rượu

16

đặc sản của người Mông được nhiều người biết đến bởi độ nặng và vị gắt rất

đặc trưng đó là rượu ngô. Và cũng ở những phiên chợ, nhiều trai gái đã nên

vợ nên chồng. Cuộc sống cứ diễn ra như vậy, thật đơn giản, tự nhiên, không

cầu kỳ. Người dân cũng rất đỗi thật thà, chất phác. Họ không biết nói dối,

chẳng mấy khi tính toán thiệt - hơn. Chợ tình được tổ chức mỗi năm một lần

(chợ tình Sa Pa) là một nét văn hoá đẹp đặc sắc của người Mông. Hay với chợ

Bắc Hà, với cao nguyên Bắc Hà vẫn mang vẻ đẹp nguyên sơ với những con

người thân thiện, từ giữa chợ ngước nhìn những triền núi là bạt ngàn mận tam

hoa, mùa hoa nở là trắng muốt cả một vùng nên địa danh này còn có tên "cao

nguyên trắng", gọi theo thiên bút kí của một nhà văn người Mông.

Trang phục truyền thống biểu hiện ngay bản sắc của mỗi dân tộc, nhất

là trang phục của phụ nữ. Trang phục Mông thể hiện trên bộ váy, áo truyền

thống của người phụ nữ, khi đã mặc thì ở bất kì đâu thì cũng không thể lẫn

với các tộc người khác. Trang phục của người Mông đồng nghĩa với vải lanh.

Người Mông có câu: "Đói đến chết cũng không ăn thóc giống. Khi khuất núi

phải mặc đồ Mông". Kiểu trang phục đó còn giúp cho những ai thường quan

tâm tìm hiểu tộc người này nhận diện ra các ngành Mông khác nhau như:

Mông đu, Mông hoa, Mông lềnh, Mông si… Đặc biệt, trang phục Mông

không chỉ mang tính thẩm mĩ thuần tuý mà nó còn chứa đựng đặc thù văn hoá

truyền thống trong thế giới quan, nhân sinh quan của người Mông và góp

phần tạo nên sự hấp dẫn về văn hoá vùng miền trong một quốc gia đa dân tộc.

Trang phục của phụ nữ Mông rất đa dạng về màu sắc, gồm áo xẻ ngực,

váy, thắt lưng và xà cạp. Áo có cổ chữ V, hai bên được nẹp thêm vải màu tùy

thích, phía sau là một bức thêu hình chữ nhật được trang trí hoa văn hài hòa.

Hai ống tay áo thường thêu những đường vằn ngang với đủ màu sắc từ nách

đến cửa tay. Váy của phụ nữ Mông có nhiều nếp gấp, rộng, khi xòe ra mềm

mại như cánh hoa. Trên nền váy may những sợi chỉ to với nhiều màu sặc sỡ.

17

Ngược với trang phục của nữ giới, trang phục của nam giới Mông khá thống

nhất. Đa phần họ đều mặc quần kiểu chân què, cạp rộng lá toạ, đũng quần rất

thấp, khi mặc, cạp được dắt sang một bên rồi dùng thắt lưng thắt lại chặt. Áo

của nam giới Mông lại có nhiều vẻ khác nhau. Nam giới Mông Đen mặc áo

ngắn, phía trước chỉ đủ che một phần ngực, bên trong mặc một chiếc áo lót

trắng dài hơn, áo của nam giới Mông Trắng lại có tay hẹp, có 4 túi và cài

khuy ngang bằng vải, cổ áo tròn, đứng và cao từ 2,5-3cm. Nam giới Mông

Hoa lại mặc áo cài khuy bên nách, không có cổ đứng nhưng rìa cổ được viền

một dải nhỏ vải khác màu.

Bên cạnh những nét đẹp trong đời sống vật chất, tinh thần như ăn uống,

chợ phiên, trang phục... thì người Mông còn mang những nét đặc trưng trong

tín ngưỡng, tâm linh như việc thờ thần, thờ cúng tổ tiên và nghi thức dòng họ

cũng như qua các nghi lễ vòng đời như việc sinh con, cưới xin, ma chay...

Những nét đẹp này chúng ta sẽ đi tìm hiểu qua chương sau để làm rõ hơn bản

sắc văn hóa của người Mông truyền thống cũng như những thay đổi mang

tính tích cực của người Mông theo đạo Tin lành trong những nghi lễ của gia

đình, dòng họ.

Dân tộc Mông có một kho tàng văn hoá dân gian phong phú và rất độc

đáo, trong đó nhạc cụ truyền thống nổi lên như những viên ngọc lung linh toả

sáng. Người Mông say đắm dân ca dân tộc mình đó là Tiếng hát tình yêu (gầu

plềnh), Tiếng hát cưới xin (gầu xuống), Tiếng hát làm dâu (gầu na nhéng),

Tiếng hát mồ côi (gầu tú gua), Tiếng hát cúng ma (gầu tuờ)… Đặc điểm

chung của những bài hát dân ca này không chỉ hát bằng lời mà còn có thể giãi

bày thông qua những nhạc cụ dân tộc (sáo, khèn, kèn lá, kèn môi…) trong

những dịp lễ hội nhạc cụ dân tộc được coi là linh hồn của người Mông gửi

gắm và thể hiện tiếng lòng của mình với bạn tình, với cộng đồng và với thiên

nhiên núi rừng hùng vĩ. Từ những sinh hoạt văn hoá dân gian sống động như

18

vậy mà hầu hết nam nữ thanh niên biết dùng kèn môi, thổi kèn lá, thanh niên

biết thổi khèn, múa khèn, thổi sáo, hát ống. Nhạc cụ dân tộc Mông thể hiện

sâu nặng chất trữ tình đằm thắm, mượt mà, khoẻ khoắn. Những âm thanh mà

nó bộc lộ là vẻ đẹp tự nhiên của vùng cao bao la, hùng vĩ, nét tươi sáng và

giản dị của tâm hồn người Mông.

Dân tộc Mông sinh sống rải rác khắp mọi nơi trên miền núi rừng phía

Bắc Việt Nam và Tây Nguyên, nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hoá độc đáo

của họ. Văn hoá Mông là một thành tố văn hoá Việt Nam, bản sắc văn hoá

độc đáo của họ đã đóng góp và làm phong phú cho niền văn hoá Việt Nam

"thống nhất trong đa dạng, đa dang trong thống nhất".

1.2. Vài nét về cộng đồng Mông theo Tin lành ở Việt Nam

Cộng đồng người Mông theo đạo Tin lành là những người đã hoàn toàn

từ bỏ niềm tin tôn giáo truyền thống và một phần các tập tục và nghi lễ truyền

thống để tiếp cận và thực hành với giáo lý và nghi lễ Tin lành một cách chủ

động và tự nguyện. Họ đã “thay đổi lối sống, nghi lễ và tập tục từ niềm tin

vào sự tồn tại của các linh hồn và thần linh, và mối liên hệ giữa con người

với thế giới siêu nhiên ấy sang việc tin vào Đức Chúa Jesus và làm theo

những lời răn dạy của Kinh Thánh” [8;7].

1.2.1. Khái quát chung về đạo Tin lành và quá trình du nhập đạo Tin lành

vào cộng đồng người Mông ở Tây Bắc.

Nếu so sánh với các tôn giáo lớn trên thế giới như Phật giáo, Công giáo

hay Hồi giáo thì Đạo Tin lành ra đời muộn hơn cả. Tuy nhiên, kể từ khi ra đời

cho đến nay, đạo Tin lành đã phát triển rất mạnh, trở thành một tôn giáo quốc

tế với khoảng 550 triệu tín đồ, gần 300 hệ phái tổ chức khác nhau và có mặt

trên nhiều quốc gia.

Đạo Tin lành ra đời xét về mặt văn hoá, tư tưởng được thúc đẩy bằng

phong trào Văn hóa Phục Hưng - chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa dân tộc ở

19

châu Âu thế kỷ XV, XVI. Với chủ trương đề cao con người, đề cao nhân tính,

nhân quyền đối lại việc đề cao thần tính, thần quyền, đề cao tự do cá nhân,

dân chủ và sự hưởng lạc, đối lại sự kìm hãm dục vọng và sự ràng buộc của

chế độ phong kiến và luật lệ Công giáo, đề cao lòng yêu nước cụ thể đối lại đề

cao lòng yêu Thiên Chúa và một nước Chúa chung chung diệu vợi.

Phong trào cải cách tôn giáo nổ ra đầu tiên ở Đức. Từ nước Đức, phong

trào lan sang các nước Pháp, Thụy Sĩ, Anh, Scốtlen, Ai-rơ-len, Đan Mạch,

Thụy Điển, Na Uy... để đến giữa thế kỷ XVII, cả châu Âu và giáo triều Rôma

chấp nhận những người cải cách và từ đó hình thành một tôn giáo mới tách ra

khỏi đạo Công giáo - đạo Tin lành.

Đạo Tin lành ra đời ở châu Âu, sau đó truyền sang các nước Bắc Mỹ. Ở

Bắc Mỹ gặp môi trường tự do, đạo Tin lành phát triển, hình thành nhiều tổ

chức, hệ phái. Rồi từ Bắc Mỹ, bằng nhiều con đường, trong đó có việc nhờ

dựa vào vị thế, ảnh hưởng của Mỹ, đạo Tin lành truyền trở lại châu Âu và lan

toả ra toàn thế giới. Đó là con đường phát triển của đạo Tin lành, đồng thời lý

giải: cái nôi của đạo Tin lành ở châu Âu, còn trung tâm (điều hành) Tin lành

thế giới ở Bắc Mỹ.

Từ rất sớm, đạo Tin lành đã hướng các hoạt động truyền giáo đến vùng

dân tộc thiểu số. Trên bình diện thế giới vào những thế kỷ trước, châu Á, châu

Phi, châu Mỹ là những vùng xa xôi của "châu Âu văn minh". Hiện nay, đối

với từng quốc gia, vùng miền núi, biên giới, hải đảo là những nơi dân tộc

thiểu số sinh sống.

Chính những tiền đề, bối cảnh ra đời cùng với quá trình phát triển đã

tạo cho Tin lành những đặc điểm cơ bản như sau: Thứ nhất, đạo Tin lành

được tổ chức và hoạt động theo hướng đơn giản để phù hợp với cuộc sống

hiện đại. Đây là đặc điểm thể hiện cao nhất về sự cải cách của Tin lành đối

với đạo Công giáo, được thể hiện ở các yếu tố như về luật lệ, lễ nghi đơn

20

giản; giáo phẩm và tổ chức giáo hội được thiết lập theo cơ đan chủ. Thứ hai,

Tin lành là một tôn giáo có đường hướng và phương thức hoạt động linh hoạt,

liên tục điều chỉnh cả về mặt nội dung và hình thức để phù hợp với thực tiễn

thời đại. Thể hiện rõ nhất là phương thức truyền giáo của đạo Tin lành hết sức

linh hoạt, diễn ra ở khắp mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh một cách kiên trì,

sử dụng tất cả các phương tiện, công cụ vào công việc truyền giáo, tìm kiếm

tín đồ. Cũng trong quá trình truyền giáo, các nhà truyền giáo tìm mọi cách để

đơn giản các luật lệ và lễ nghi cho dễ thâm nhập vào đời sống văn hóa, tâm lý,

lối sống của cư dân bản địa. Thứ ba, Đạo Tin lành chủ trương nhập thế, tham

gia rất tích cực vào các hoạt động xã hội. Các nhà truyền giáo khi đặt chân

đến khu vực nào thì nhanh chóng nghiên cứu về văn hoá, phong tục tập quán

ở khu vực đó và rất “tận tình” trong việc chăm lo, giải quyết các công việc có

liên quan đến cuộc sống thường nhật của nhân dân như ăn, ở, đi lại, hiếu hỉ, y

tế…để gây thiện cảm, gần gũi với nhân dân, thông qua đó để tuyên truyền đức

tin. Chủ trương nhập thế này đã làm cho đạo Tin lành trở nên hấp dẫn, dễ thu

phục tình cảm của người dân, tạo ra uy tín và khả năng chung sống hoà bình

với mọi hoàn cảnh chính trị - xã hội, không phân chia dân tộc, biên giới quốc

gia. Thứ tư, đạo Tin lành lấy việc truyền giáo làm nội dung của mọi hoạt

động. Việc phát triển số lượng tín đồ là một trong những hoạt động căn bản,

là thiên chức của giáo sỹ, nhà tu hành và cả tín đồ. Đạo Tin lành là tôn giáo

rất nỗ lực trong việc phát triển tín đồ của mình, họ được thúc giục bởi mệnh

lệnh truyền giáo đã được ghi trong Kinh thánh “Hãy đi khắp thế gian rao

giảng Phúc âm cho mọi người”. Thứ năm, trong quá trình ra đời và phát triển,

đạo Tin lành là tôn giáo có tư duy kinh tế và khuyến khích làm giàu, đồng

thời đạo Tin lành có những mặt tiến bộ về xã hội, như tuân thủ luật pháp,

sống tiết kiệm, bỏ các thói quen xấu như uống rượu, hút thuốc,… Tuy nhiên,

đạo Tin lành là tôn giáo đề cao đức tin nên thường xẩy ra việc ứng xử cực

đoan trong mối quan hệ với tín ngưỡng truyền thống nơi đạo Tin lành truyền

21

đến.

Một trong những đặc trưng của đạo Tin lành ở Việt Nam là nhiều tổ

chức hệ phái. Đến năm 1975, ở Việt Nam có đến trên dưới 20 hệ phái, tổ chức

Tin lành. Cụ thể, như sau:

- Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam), Hội thánh Tin lành Việt

Nam (miền Bắc) cùng nguồn gốc từ Hội truyền giáo CMA,

- Hệ phái Cơ đốc Phục lâm truyền vào Việt Nam năm 1915 với các giáo

sỹ như R.M. Milne (Mỹ), Dương Thượng Phiến (Đài Loan), Tan Kia

Ou (Trung Quốc).

- Hệ phái Trưởng lão truyền vào từ năm 1973.

- Hệ phái Bắp tít truyền vào năm 1959 do vợ chồng Mục sư H.P. Hayer

(Mỹ), chính thức thành lập năm 1962.

- Hội Cơ đốc truyền giáo tách ra từ Hội thánh Tin lành Việt Nam từ năm

1956 dưới sự dẫn dắt của Mục sư G.H Smith (Mỹ) và Mục sư Hoàng

Trọng Nhật.

- Hệ phái Phúc âm Ngũ tuần truyền vào năm 1970 do vợ chồng Mục sư

Don Warren (Mỹ).

- Hệ phái Men-nô-nai Việt Nam có mặt ở Việt Nam năm 1954 dưới danh

nghĩa tổ chức MCC.

- Hệ phái Môn đệ Đấng Christ vào Việt Nam năm 1963 dưới sự dẫn dắt

của Mục sư R.A Burcham (Mỹ),…

Ngoài các Hội thánh nói trên, còn có các tổ chức Tin lành vào hoạt

động truyền giáo hoặc hoạt động từ thiện xã hội tại miền Nam, như: Tầm nhìn

Thế giới (The World Vision- VS), Viện Ngôn ngữ Mùa Hè (Summer Institute

Linguistic- SIL), Cơ quan Phát triển và Cứu trợ Cơ đốc Phục lâm (Adventiste

Development and Relief AgencyADRA), Ủy ban Trung ương Men-nô-nai

(Mennonite Centre Committee- MCC), Ủy ban Dịch vụ những người bạn Mỹ

22

(American Friends Service- SCSC), Thánh kinh Hội (Bible Societies - BS),

Hội truyền giáo Thế giới thống nhất (United World MissionUWM), Chiến

dịch truyền bá Tin lành toàn cầu (World Wide Evangelization CrusadeWEC),

Hội Cứu thế quân (The Salvasion Army- SA), Hội truyền giảng Chúa Ki-tô

(Campus Crusade of Christ- CCC), Hội Navigator, Hội đồng các Giáo hội thế

giới (The World Council of Church- WCC), Hội nghị Ki-tô giáo châu Á (The

Christian Conference of Asia- CCA),...[55;31,32]

Đạo Tin lành được truyền vào Việt Nam từ năm 1911 do tổ chức Hội

Liên hiệp cơ đốc và truyền giáo (Hội Truyền giáo CMA) truyền vào. Nhưng

tôn giáo này chỉ thực sự tạo ra một sự bùng nổ trong cộng đồng người Mông

từ sau thập niên 1980 trở đi. Trong thời kỳ này, đất nước ta thực hiện đổi mới,

xóa bao cấp đồng bào nhiều nơi rơi vào tình trạng khủng hoảng, đói kém.

Ngay sau đó đạo Tin lành xuất hiện đã hỗ trợ người dân về mặt kinh tế, cung

cấp lương thực. Có thể nói trong thời kỳ đầu này, yếu tố kinh tế là một yếu tố

quan trọng tạo ra trào lưu cải đạo sang Tin lành ở cộng đồng người Mông.

Giai đoạn thứ nhất từ 1986-1990: Trước năm 1986, phần lớn đồng bào

dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc theo tín ngưỡng đa thần, chỉ một số ít theo

Công giáo. Năm 1986, hiện tượng Vàng Chứ bắt đầu xuất hiện ở hai tỉnh Hà

Giang và Sơn La. Đến năm 1987, Tin lành Vàng Chứ phát triển, lan sang các

tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng, Bắc Cạn. Tại Sơn La, Tin lành Vàng Chứ

đã lan truyền từ xã Chiềng Can, huyện Sông Mã sang xã Mường Sai và nhanh

chóng phát triển sang các huyện Mai Sơn và Mường La. Đến cuối năm 1991,

tại tỉnh này có khoảng 2.000 người Mông của 167 hộ theo Tin lành Vàng Chứ

(thuộc 12 xã, 5 huyện) [13;46]. Từ giữa năm 1987, từ Sơn La, Tin lành Vàng

Chứ đã xâm nhập vào 3 xã vùng cao Phì Nhừ, Phình Giàng và Sa Dung,

huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên và một số huyện thuộc tỉnh Lai Châu.

23

Theo thống kê của A38 – Bộ Công An năm 1990 thì có 164 xã thuộc 8 tỉnh

miền núi phía Bắc (Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Thái, Sơn La,

Lai Châu, Lào Cai và Yên Bái) xuất hiện hiện tượng theo Vàng Chứ.

Hoạt động truyền giáo thời kỳ này chủ yếu là thông qua đài FEBC từ

Manila và truyền miệng hoạt động lúc này là bí mật, lén lút. Việc truyền đạo

trong giai đoạn này chủ yếu là việc tuyên truyền Vàng Chứ sẽ xuất hiện, ngày

tân thế sắp đến, khi ấy sẽ sảy ra thiên tai lớn, lúc đó ai theo Vàng Chứ sẽ được

cứu vớt.Các chủ thể truyền đạo đã triệt để lợi dụng tục xưng vua và đặc điểm

bản tính người Mông để khơi dậy những vấn đề từ chiều sâu lịch sử và tâm lý

tộc người. Ở giai đoạn đầu, khi mới hình thành Tin lành Vàng Chứ, tính chất

mê tín được khơi dậy và đẩy lên cao kết hợp với hù dọa, kích động và khuyến

thưởng để tạo kỳ vọng cho những người tin theo.

Giai đoạn thứ hai từ 1991-1992: Nếu như giai đoạn 1986-1990 là thời

kỳ du nhập, tìm cách đứng chân và bắt đầu phát triển của Tin lành Vàng Chứ

trong đồng bào các dân tộc Mông, Dao vùng dân tộc thiểu số phía Bắc, thì

giai đoạn 1991-1992 có thể xem là bước chững lại. Năm 1991, tiếp theo việc

xưng vua, đón vua, một số người tìm đến liên hệ với nhà thờ Công giáo và

nhầm tưởng đạo Vàng Chứ là đạo Công giáo nên hầu hết những người theo

Vàng Chứ đều chuyển sang theo Công giáo. Sau một thời gian theo Công giáo

họ phát hiện đạo Công giáo có nhiều lễ nghi rườm rà, phức tạp và có nhiều

điểm không giống với đạo đã được tuyên truyền. Cuối cùng hầu hết người

Mông theo Vàng Chứ lại chuyển sang theo Tin lành.

Giai đoạn thứ ba từ 1993-2004: Từ năm 1993 – 1996 là giai đoạn Tin

lành bùng phát trong cộng đồng người Mông. Nội dung truyền đạo chủ yếu

trong thời gian này là gắn liền việc theo “Vua” với theo đạo. Chính quyền một

số địa phương lúng túng trong việc xử lý, chủ yếu dùng các biện pháp hành

chính, cấm đoán, đối đầu trực tiếp với dân khiến cho tình hình trở nên căng

24

thẳng, dân sợ hãi xa lánh chính quyền. Một số người Mông đã tìm đến Hội

Thánh Tin lành Việt Nam (Miền Bắc) số 2 Ngõ Trạm, Hà Nội. Trở về địa

phương, họ phân phát tài liệu cho đồng bào và lập danh sách người theo đạo

gửi các cấp chính quyền cơ sở xin theo đạo. Hàng tuần các thừa tác viên tập

hợp người Mông nghe giảng Tin lành qua các băng ghi âm bằng tiếng Mông.

“Đến tháng 5 năm 2003, Hội Thánh Tin lành Việt Nam (Miền Bắc) tiếp nhận

danh sách hơn 20.000 người Mông xin theo Tin lành, thuộc 6 tỉnh: Lai Châu,

Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang và Hà Giang” [13;48].

Như vậy,Tin lành giai đoạn này có sự phát triển khá nhanh, ngày càng

phức tạp và có những lúc đột biến về số lượng và địa bàn. Tin lành thực sự trở

thành một thực thể xã hội - tôn giáo tồn tại và lan rộng ở hầu hết vùng các dân

tộc người Mông ở phía Tây Bắc.

Giai đoạn từ năm 2005 đến nay: Trước khi Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg

ra đời, Tin lành ở nước ta phát triển tự phát và không bình thường trên phạm

vi cả nước, trở thành vấn đề tôn giáo lớn, phức tạp, nhạy cảm. Theo Ban Tôn

giáo Chính phủ ở thời điểm năm 2005, khi triển khai Chỉ thị số 01/2005/CT-

TTg, số người Mông theo đạo Tin lành ở các tỉnh miền núi phía Bắc là

110.000 người ở 927 bản. Đến năm 2015, số người Mông theo đạo Tin lành ở

các tỉnh miền núi phía Bắc tăng lên đến 175.000 người. Nếu so với năm 2005,

thì số người theo đạo Tin lành vẫn tăng nhanh, vì trong 10 năm (2005-2015)

đã tăng thêm 60.000 người. Sau Chỉ thị 01, hoạt động của Tin lành nơi đây

dần đi vào ổn định theo hướng tuân thủ pháp luật, song vẫn tiềm ẩn những

yếu tố bất ổn về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Như vậy, sự du nhập và phát triển của Tin lành vùng dân tộc thiểu số

phía Bắc không chỉ đã, đang và sẽ đặt ra nhiều vấn đề về mặt tôn giáo học, mà

còn không ít vấn đề bức xúc đòi hỏi công tác quản lý nhà nước về tôn giáo,

25

các cấp, các ngành cần quan tâm giải quyết trong thời gian tới.

1.2.2. Hiện trạng

Xét về số lượng và phạm vi, cho dù chưa có số liệu thống kê chính xác

từ phía tôn giáo và cơ quan nhà nước, nhưng đều đưa đến nhận diện ban đầu

về đạo Tin lành ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay, nếu so với trước năm 1975,

thì số lượng tín đồ tăng lên gấp 6 lần, trong khi khoảng thời gian chỉ bằng một

nửa so với trước đây (64 năm từ 1911 đến 1975; 31 năm từ 1975 đến 2010).

Nếu so với các tôn giáo thì đạo Tin lành phát triển với tốc độ nhanh nhất (năm

1975, đạo Công giáo ở Việt Nam có hơn 4,0 triệu thì đến năm 2010 tăng lên

6,0 triệu, trong khi dân số tăng lên gấp đôi là 85 triệu). Số lượng các hệ phái

Tin lành vào truyền giáo cũng nhiều hơn trước, năm 1975 có hơn 10 tổ chức,

hệ phái; hiện nay có đến gần 50 chục tổ chức, hệ phái. Phạm vi hoạt động của

đạo Tin lành, ở thời điểm 1975 chỉ có ở các tỉnh phía Nam và một số tỉnh phía

Bắc, đến nay đạo Tin lành có mặt ở tất cả các đại phương trong cả nước (trừ

hai tỉnh Ninh Bình và Quảng Bình). Xét về thành phần người theo đạo Tin

lành hiện nay không chỉ là công chức, trí thức,… nói chung là thị dân như

trước năm 1975 mà rất đa dạng, mở rộng đến các tầng lớp cư dân khác, trong

đó đa số là đồng bào dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Nguyên và Tây Bắc.

Tây Bắc là nơi tập trung phần lớn người Mông của nước ta. Về mặt tôn

giáo, trước những năm 1980, người Mông ở đây chủ yếu theo vật linh giáo và

thờ cúng đa thần, không có người theo đạo Tin lành. Từ năm 1987 đã có một

bộ phận người Mông chuyển đổi theo đạo Tin lành, và hiện nay có khoảng

trên 100 nghìn tín đồ. Đây là một sự thay đổi đáng kể trong đời sống tôn giáo

của người Mông. Sự xâm nhập và phát triển của đạo Tin lành đã ảnh hưởng

cả tích cực và tiêu cực đến cộng đồng người Mông ở khu vực. Từ năm 1993

đến năm 2004, đạo Tin lành đã phát triển đột biến và tạo nên tình trạng rất

phức tạp trong cộng đồng người Mông. Vào năm 1996, có khoảng 79.163

nghìn người Mông ở vùng miền núi phía Bắc theo đạo Tin lành; đến năm

26

2004, có khoảng 105 nghìn người theo đạo (chiếm 13% tổng số người Mông

ở nước ta). Được sự hướng dẫn, giúp đỡ của Hội thánh Tin lành Việt Nam

miền Bắc, những người Mông tích cực đã phân phát Kinh thánh trong cộng

đồng của họ, lập danh sách những người theo đạo gửi chính quyền các địa

phương để được theo đạo công khai. Họ thường tập hợp tại một gia đình hoặc

một địa điểm nhất định để nghe giảng Kinh thánh từ đài hay máy ghi âm mỗi

tuần một, hai lần. Về mặt tổ chức, ở nhiều nơi đã lập các Ban lãnh đạo, Ban

phụ nữ, Ban thanh, thiếu niên. Hầu hết các cơ sở sinh hoạt tôn giáo được xây

dựng chưa được phép của chính quyền địa phương. Ngày 4/2/2005, Thủ

tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 01 về một số công tác đối với đạo Tin lành.

Chỉ thị 01 được triển khai, tình hình đạo Tin lành ở Tây Bắc đã từng bước ổn

định theo hướng tuân thủ pháp luật. Ở một số nơi, số người theo đạo Tin lành

tăng nhẹ, những khó khăn, phức tạp trong lãnh đạo, quản lý của các tỉnh được

tháo gỡ. Theo Ban Tôn giáo Chính phủ, đến nay có trên 100 nghìn người

Mông ở khu vực Tây Bắc theo đạo Tin lành[1].

Tây Bắc cũng là nơi có số người Mông theo đạo Tin lành đông, cụ thể:

Ở Điện Biên, năm 2007 có 24.560 người theo Tin lành (23.615 là người

Mông, chiếm 96,3%) thuộc 130 thôn, bản, 29 xã, 6 huyện. Năm 2009 có

27.527 người theo Tin lành (26.608 người Mông, chiếm 94%). Tỉnh Lai

Châu, năm 2007 có 11.866 người theo Tin lành; năm 2008 có 16.674 người

theo Tin lành; năm 2009 có 17.092 người theo Tin lành (chiếm 98% tổng số

người theo đạo)

Tỉnh Lào Cai, năm 2009 có 16.228 người theo Tin lành (15.850 người

Mông, chiếm 98%). Tỉnh Cao Bằng trong những năm gần đây Tin lành phát

triển khá ổn định. Đến tháng 3/2010, toàn tỉnh có 16.353 người theo Tin

lành(7.293 người Mông, chiếm 44,4%); đồng thời có 2 điểm nhóm với 77 tín

đồ thuộc Hội Thánh Liên hữu Cơ Đốc Việt Nam.

Tỉnh Sơn La, tuy số lượng người theo Tin lành ít song cũng phức tạp,

27

năm 2009 toàn tỉnh có 4.078 người theo Tin lành thuộc 2 hệ phái là Hội

Thánh Tin lành Việt Nam (Miền Bắc) và Hội Thánh Liên hữu Cơ Đốc Việt

Nam. Điểmkhác biệt và nổi bật của Tin lành nơi đây là số người theo hệ phái

Hội ThánhLiên hữu Cơ Đốc Việt Nam nhiều hơn rất nhiều lần so với số

người theo hệ pháiHội ThánhTin lành Việt Nam (Miền Bắc) [13;49,50].

Số liệu cụ thể ở từng tỉnh năm 2015 như sau:

Bảng 1.1. Số ngƣời theo đạo Tin lành ở các tỉnh Tây Bắc.

Stt Tỉnh Số ngƣời

1 Điện Biên 36.000 người

2 Lai Châu 35.000 người

3 Lào Cai 24.000 người.

4 Sơn La 5.300 người

5 Hòa Bình -

6 Yên Bái -

Nguồn: Luận án Nguyễn Quỳnh Trâm, trang 36, 37.

Như vậy, chỉ trong 30 năm (1985-2015), dân tộc Mông ở Việt Nam đã

có hơn 210 ngàn người theo đạo Tin lành, chiếm hơn 20% tổng số người

Mông tương đương với tỷ lệ dân số Việt Nam theo tôn giáo (25%).

Sau Chỉ thị số 01 của Thủ tướng, với kế hoạch triển khai của Ban Tôn

giáo Chính phủ qua Kế hoạch số 05 (năm 2005) hoạt động của đạo Tin lành ở

Tây Bắc từng bước được hợp thức bằng việc mọi người được sinh hoạt tôn

giáo tại gia đình, nếu ổn định thì làm thủ tục đăng ký điểm nhóm với chính

quyền cơ sở. Tin lành trong cộng đồng người Mông ở Tây Bắc đã thực hiện

các bước để được công nhận tư cách pháp nhân và hoạt động theo quy định

của pháp luật. Thời kỳ này, nhiều tổ chức Tin lành ở miền Nam được Nhà

nước cấp đăng ký và công nhận tư cách pháp nhân nên đã tăng cường hoạt

động truyền giáo trong vùng đồng bào Mông ở các tỉnh phía Bắc. Từ tình

28

hình trên, các hoạt động truyền đạo ở thời kỳ này được đẩy mạnh và mở rộng,

nhất là mang tính công khai- hoạt động truyền giáo cũng công khai và người

theo đạo cũng công khai. Nếu như thời gian đầu đa số những người theo đạo

Tin lành ở Tây Bắc thuộc hệ phái Tin lành Việt Nam miền Bắc, thì thời gian

này các tổ chức Tin lành, như: Tin lành Liên hữu Cơ đốc, Tin lành Trưởng

lão, Tin lành Phúc âm Ngũ tuần, Tin lành Truyền giảng Phúc âm, Tin lành

Truyền giáo Phúc âm,… đã đến Tây Bắc truyền giáo đạt được những kết quả

quan trọng. Và cũng từ đây, việc tranh giành tín đồ giữa các tổ chức, hệ phái

đến nay vẫn đang diễn ra. Giai đoạn này, số người mới theo Tin lành tăng

không nhanh như trước, nhưng về thống kê số liệu lại tăng nhanh vì chính đây

là giai đoạn người Mông theo đạo Tin lành công khai nhận mình là tín đồ đạo

Tin lành.

Theo thống kê từ Vụ Tin lành của Ban Tôn giáo chính phủ năm 2015

về khảo sát thực trạng và quy hoạch điểm nhóm Tin lành đã được đăng kí sinh

hoạt tôn giáo ở khu vực Tây Bắc thì ở các tỉnh khu vực Tây Bắc có 456 điểm

nhóm Tin lành trong đó có 370 điểm nhóm thuộc Hội thánh Tin lành Việt

Nam (miền Bắc) cùng Hội thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam và Hội thánh

Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam được cấp giấy chứng nhận đăng kí sinh hoạt tôn

giáo với chính quyền cấp xã, phường. Trong đó, tỉnh Cao Bằng có 105/ 153

điểm nhóm; tỉnh Lào Cai có: 87/160 điểm nhóm; tỉnh Bắc Kạn có: 53/77 điểm

nhóm; tỉnh Tuyên Quang có: 47/64 điểm nhóm; tỉnh Sơn La có: 2/44 điểm

nhóm…. Đã được cấp giấy chứng nhận đăng kí sinh hoạt tôn giáo [60,16].

Quá trình đạo Tin lành du nhập vào vùng người Mông ở Tây Bắc đã

trải qua giai đoạn phát triển từ thấp đến cao, từ năm 2006 trở đi đã có sự thay

đổi căn bản về chất, dần dần được công nhận và hoạt động theo quy định của

pháp luật. Việc theo đạo của người Mông ở Tây Bắc xuất phát từ nhu cầu tín

ngưỡng, tôn giáo chính đáng, và ở đây sinh hoạt tôn giáo đã trở thành nếp

sống của người theo đạo. Họ đã xây dựng được những yếu tố nền tảng của tôn

29

giáo hoàn chỉnh là có tổ chức, có địa điểm sinh hoạt tôn giáo, có các chức sắc

và nhất là hình thành cộng đồng người theo đạo có đức tin, tình cảm và nhu

cầu sinh hoạt tôn giáo.

1.2.3 Nguyên nhân của sự cải đạo

Cùng là thờ phụng Giêsu nhưng chỉ có đạo Tin lành, chứ không phải

Công giáo lại nở rộ trong đời sống của người Mông dù ban đầu tôn giáo họ

được tiếp xúc là Công giáo. Nguyên nhân là do đặc thù của tổ chức giáo hội

Công giáo với nhiều nghi lễ rườm rà và quy trình đào tạo một linh mục là rất

khắt khe. Ngược lại, tổ chức của Tin lành lại rất linh hoạt, có hệ phái cho

phép tín đồ sinh hoạt tại gia, hoặc một cộng đồng nhỏ cũng có thể thành lập

một điểm nhóm duy trì sinh hoạt tôn giáo thường xuyên. Người đứng đầu

điểm nhóm chưa hẳn đã là người uyên thâm về kinh sách nhưng hiểu giáo lý

căn bản và sẽ thường xuyên được Hội thánh đào tạo, cập nhật kiến thức giáo

lý về truyền giảng lại cho đồng bào.

Bảng 1.2Các lý do ngƣời Mông theo đạo nhƣ sau:

STT Lý do biết và theo Tin lành Số ngƣời chọn

trên tổng số

phiếu Số ngƣời không chọn trên tổng số phiếu

Mang lại lợi ích cho bản thân, 30/40 – 75% 10/40 – 25% 1

gia đình

39/40 – 97,5% 1/40 – 2,5 % Đỡ tốn kém 2

Phù hợp nhu cầu tín ngưỡng 39/40 – 97,5 % 1/40 – 2,5% 3

của mình

Mọi người trong gia đình, 13/40 – 33,3% 27/40 – 66,7% 4

dòng họ theo thì mình cũng

theo

Do nghe đài 8/40 – 20% 32/40 – 80% 5

Nguồn: Nguyễn Quỳnh Trâm, Luận án tiến sĩ Văn hóa của người Mông

30

theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai, năm 2016, tr.47.

Từ bảng trên, có thể thấy rằng việc đạo Tin lành với những yếu tố phù

hợp với tín ngưỡng truyền thống của người Mông, cùng phương thức hành

đạo, lễ nghi đơn giản, đỡ tốn kém (97.5%) và đem lại lợi ích về vật chất, tinh

thần cho bản thân và gia đình (75%) là nguyên do chủ yếu; trong khi đó lý do

theo đạo từ việc nghe đài chỉ chiếm 20%. Do vậy, khi tìm hiểu nguyên nhân

của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo đạo Tin lành nói chung,

người Mông nói riêng cần phải có thái độ khách quan, khoa học, phải tách

bạch rõ giữa việc truyền đạo với theo đạo, phân định rõ giữa tôn giáo với việc

lợi dụng tôn giáo. Không thể đơn giản cho rằng, những nguyên nhân theo đạo

là do khuyến khích vật chất hoặc do bị ép, dụ dỗ,... Cũng đừng nói rằng, việc

theo đạo là do truyền đạo, trong khi đồng bào không có nhu cầu theo đạo.

Cũng không thuần túy cho rằng đồng bào theo đạo là do tiếng gọi của Chúa

hay Chúa đã cứu rỗi những linh hồn như các chức sắc Tin lành quan niệm.

Càng không phiến diện cho rằng, việc theo đạo Tin lành là nằm trong chiến

lược “diễn biễn hòa bình” của các thế lực thù địch.

Tại Việt Nam, tỉ lệ người Mông cải đạo sang Tinh Lành là cao nhất khu

vực. Một số nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này có thể kể đến như:

Nguyên nhân thứ nhất: Có sự tương đồng trong vũ trụ quan của người

Mông truyền thống với vũ trụ quan Kitô giáo. Cha cố đại úy Savina (cố Vị) đã

tích cực nghiên cứu đặc điểm xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng của người Mông và

là người đầu tiên đưa ra nhận định: “Khá dễ dàng ghép đạo lý Gia tô vào đạo

lý dân tộc Mèo, chỉ cần nhắc bỏ đi vài nhầm lẫn, xóa hẳn đi vài thiên kiến

quan hệ giữa bản chất của Thượng đế… tóm lại muốn ghép đạo lý của ta vào

đạo lý của dân tộc Mèo chỉ cần sửa lại và bổ sung thêm các tín ngưỡng của họ

để đi đến chỗ dành cho cả hai nền đạo lý chung một tôn giáo làm nền tảng”

31

[43;15]

Trong thần thoại của người Mông, vũ trụ trước con người là thế giới

mù mịt, hỗ mang và dường như bất khả tri. Vũ trụ chỉ sống động khi có sự

xuất hiện của Ông Chày, bà Chày. Ông Chày tạo ra bầu trời, bà Chày tạo ra

mặt đất. Bầu trời thì có hình vòm tròn, hẹp còn mặt đất thì bằng phẳng, hình

vuông và rộng lớn. Ông Chày, bà Chày nắn mặt đất cho hẹp lại để khớp với

bầu trời nên mặt đất bị nhăn nhúm, chỗ lồi nên thì thành đồi núi, chỗ lõm

xuống thì thành thung lũng, sông biển. Thần thoại của người Mông về việc

tạo dựng trời đất rất tương đồng với quan niệm Sáng thế Kitô giáo nói chung

và của đạo Tin lành nói riêng. Trong kho tàng truyền thuyết của người Mông

Khi Tin lành truyền vào đồng bào dân tộc Mông, những người truyền đạo đã

lòng ghép hình ảnh Đức Chúa Trời vào trong thần thoại của họ. Quan niệm về

vụ trụ trong tâm thức người Mông trước đó chỉ dựa vào sự truyền miệng rời

rạc của các thế hệ đi trước thì giờ đây khi có sự kết hợp với đạo Tin lành, sự

giải thích ấy trở nên có hệ thống hơn, mạch lạc hơn, có chức năng củng cố

niềm tin hơn.

Người Mông quan niệm vũ trụ có ba tầng: tầng trên cao là trời, là nơi

trú ngụ của các thần thiêng và tổ tiên. Tầng giữa là mặt đất, là thế giới con

người. Tầng dưới mặt đất là âm phủ. Quan niệm về vũ trụ ba tầng có điểm

tương đồng với quan niệm của Kitô giáo về vũ trụ. Trong giáo lý Kitô, Nước

Trời ở bên trên, là nơi Thiên Chúa ngự. Trong Nước Trời có những thiên thần

và linh hồn của những người trong sạch đã chết. Mặt đất là nơi sinh sống của

con người. Bên dưới là hỏa ngục, nơi giam giữ và trừng phạt những linh hồn

tội lỗi.

Cả người Mông truyền thống và giáo lý Kitô giáo đều tin rằng mọi vật

trong vũ trụ đều từ một nguồn gốc mà ra. Người Mông quan niệm vũ trụ là do

một cặp vợ chồng là Ông Chày, Bà Chày sinh ra. Vũ trụ đó không phải được

32

sinh ra hoàn chỉnh ngày một lúc mà đấy là công việc của nhiều người, của cả

cộng động hỗ trợ, bổ sung cho nhau và có quá trình hình thành, tiến hóa.

Những truyền thuyết của người Mông được gắn với những câu chuyện trong

Kinh Thánh và họ nhanh chóng nhận thấy có sự tương đồng. Chẳng hạn sau

khi Samuel Pollard, nhà truyền giáo người Anh bắt đầu giới thiệu Tin lành

vào cộng đồng người Mông Hoa ở Qúy Châu, Trung Quốc hồi cuối thế kỉ 19,

ông đã dịch một câu chuyện trong Kinh Thánh sang tiếng Mông nói về sự

kiện Chúa sẽ quay lại để cứu vớt người dân khỏi mọi kiếp nạn. Câu chuyện

này rất gần với một truyền thuyết của người Mông kể rằng họ đã từng có một

vị vương chủ gọi là Vàng Chứ, và vị vua này cũng nói với họ rằng ông sẽ

quay lại và cứu họ khỏi những khổ đau ở trần thế. Sự trùng hợp của câu

chuyện trong kinh thánh và truyền thuyết của người Mông là một yếu tố quan

trọng để họ tin rằng Đức Chúa Trời chính là Vàng Chứ, người sẽ quay về cứu

rỗi cuộc đời họ

Trong quá khứ, người Mông từng có một quốc gia riêng nhưng đã bị

phong kiến nhà Hán tiêu diệt, đẩy họ vào các cuộc di cư đầy máu và nước

mắt. Niềm tin vào một vị anh hùng cứu thế, một ông Vua Mèo gắn với sự tích

tìm kiếm cái chữ cho tộc người xuất hiện vẫn còn hiện hữu trong tâm thức

người Mông. Chính vì vậy mà sự xuất hiện của Chúa – người anh hùng cứu

thế dễ dàng lôi kéo người Mông hiện đại. Bên cạnh đó đạo Tin lành cũng chủ

trương gắn giáo lý của mình với lịch sử đấu tranh giành quyền tự quyết, với

tín ngưỡng tâm linh của người Mông bằng việc sửa lại giáo lý Tin lành, gọi

vua Mông là “Vàng Chứ” mà âm chứ Hán nghĩa là “Miêu Vương xuất thế” và

đồng nhất Vàng Chứ là Chúa Giêsu – đấng cứu thế, vị thần linh tối cao.

Phân tích chi tiết về phương diện thần học thì trong những điểm tương

đồng trên cũng có không ít những khác biệt, nhưng do trình độ dân trí còn

thấp, người Mông chủ yếu tin và thực hành theo những điều răn mà không am

33

tường về giáo lý thì những khác biệt đó là không quan trọng.

Nguyên nhân thứ hai là đời sống người Mông còn gặp nhiều khó khăn,

bế tắc. Việc chối bỏ lễ nghi truyền thống của một bộ phận người Mông còn là

do bản thân những nghi lễ đó tốn kém. Trong điều kiện đời sống kinh tế - xã

hội của đồng bào còn nhiều khó khăn kéo dài, điều kiện sản xuất không thuận

lợi thì những nghi lễ cũng bái rườm rà, tốn kém, lại diễn ra nhiều lần trong

năm là một gánh nặng kinh tế. Theo luật sư Cang, người phụ trách hội thánh

Tin lành ở Tả Phìn thì "lúc đầu người Mông ở Sa Pa nghe nói bên Lai Châu

người ta đi theo đạo cuộc sống thay đổi rất nhiều. Theo đạo thì không phải

nhờ đến thầy mo, thầy cúng tốn kém gì nữa. Khi ốm đau chỉ cầu nguyện và đi

bệnh viện. Lúc khó khăn thì có người giúp đỡ. Thế là họ sang tận nơi tìm

hiểu, khi về rủ nhau đi theo" [8,11]. Ông nhớ lại "lúc đầu chính quyền họ

ngăn cản dữ lắm, nhưng dân cứ quyết đi theo bởi vì họ thấy cuộc sống hiện

tại bế tắc quá. Không chỉ thiếu đói triền miên mà các phong tục tập quán

truyền thống cũng nặng nề, tốn kém. Nuôi được con lợn, con gà cũng đổ vào

cúng bái hết. Thấy người đi theo Tin lành có thể bỏ hết được các tập tục cúng

bái, cưới xin, ma chay nặng nề tốn kém trước kia chuyển sang lối sống mới

giản tiện, chỉ tập trung vào làm ăn, kinh tế lại khá giả, thế là người ta đi

theo" [8,11]. Ông Giàng A Sinh là cán bộ ban dân vận người Mông của Tỉnh

ủy Lào Cai, sau hàng chục năm làm việc với các nhóm Mông Tin lành đã nêu

nhận xét như sau: "Tôi đã nói chuyện với nhiều anh em người Mông theo đạo.

Họ bảo tôi rằng cả ngàn năm qua người Mông sống trong một cơn say, chỉ

đến giờ mới tỉnh. Tôi nhận thấy hình như có một khoảng trống lớn trong đời

sống tinh thần của người Mông mà chỉ Tin lành mới có thể giúp họ khỏa lấp

được. Người ta đi theo Tin lành bởi vì nhìn thấy ở tôn giáo này những điều

mới mẻ có thể giúp họ thay đổi cuộc sống trì trệ, khó khăn và những ràng

buộc của tập tục nặng nề tốn kém chứ không phải vì bị lôi kéo đâu"[8,11].

Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy việc người Mông theo đạo Tin lành không

34

phải là sự bồng bột, nhất thời hay bị xúi giục, lôi kéo mà đó là một quá trình lâu

dài tìm kiếm sự thay đổi không chỉ trong đời sống vật chất, tinh thần của bản thân

gia đình mà còn ẩn chứa trong đó ước mơ về sự thay đổi cho dân tộc Mông.

Thứ ba, phải kể đến vai trò của truyền thông mà những người truyền

đạo sử dụng. Phương châm của họ là "mưa dầm thấm lâu" tìm cách khuyếch

trương những mặt tích cực của tôn giáo, tăng cường tuyên truyền vận động

làm cho đại Tin lành nhanh chóng thâm nhập vào dân tộc Mông.

Phương thức truyền đạo bằng truyền miệng: đây là phương pháp truyền

tin thích hợp với đồng bào Mông sống phân tán, rải rác trên các đỉnh núi cao.

Những người truyền đạo hoạt động năng động uyển chuyển, luôn quan tâm

đến đời sống thường nhật để lôi kéo người vào đạo. Các hoạt động truyền

giáo của đạo Tin lành thường tiến hành kiên trì, khôn khéo, hiểu rõ tâm lý,

trình độ nhận thức của từng đối tượng, nhất là khai thác đặc điểm lịch sử, văn

hoá của từng dân tộc, thực hiện dân tộc hoá, địa phương hoá để có nội dung

và phương thức hoạt động phù hợp, dễ thâm nhập.

Ngoài con đường truyền miệng, các nhà truyền đạoTin lành đã khai

thác thành tựu của khoa học công nghệ thông tin để truyền giáo. Trên thực tế,

đạo Tin lành chủ yếu truyền từ bên ngoài (các nước khác) vào vùng dân tộc

Mông thông qua các phương tiện kỹ thuật hiện đại: đài phát thanh, Internet,…

các tài liệu nghe nhìn như: băng cassette, video, đĩa CD, VCD,… các ấn phẩm

dưới dạng tranh ảnh, sách báo,… Từ giữa những năm 1960, Tin lành Mỹ đã

có một Chương trình phát thanh truyền đạo bằng tiếng Mông của Công ty

phát thanh Viễn Đông - FEBC hiện đang đóng tại California.

Trong khi những người truyền đạo Tin lành luôn khôn khéo quan tâm

đến cuộc sống thường nhật của người Mông, gắn việc theo đạo với những lợi

ích thiết thực thì hệ thống chính trị làm công tác tuyên giáo của ta lại bộc lộ

nhiều mặt hạn chế, yếu kém. Từ sự nhận thức chưa thống nhất dẫn đến mỗi

35

nơi giải quyết một khác. Có nơi thì buông trôi, thả nổi cho những hoạt động

truyền giáo, không kiểm tra theo dõi, không xử lý kịp thời, có nơi thì thô bạo

dùng những hình thức hành chính cưỡng ép buộc đồng bào bỏ đạo. Những

cách xử lý như vậy vô tình đẩy quần chúng nhân dân đối lập với chính quyền

trong giai đoạn đầu Tin lành du nhập vào.. Tình trạng phát triển đạo Tin lành

ở Yên Minh, Hà Giang là một ví dụ: tại huyện Yên Minh thì cán bộ huyện bắt

dân theo đạo nộp tiền, hoặc tập trung dân giữa sân ủy ban hô vang: "ai theo

Vàng Chứ thì đứng sang một bên”. Công tác tuyên truyền đường lối, chính

sách của Đảng và nhà nước còn hạn chế. Trong nhiều trường hợp không đến

được với người dân. Hơn nữa một bộ phận cán bộ, quan liêu, thái hóa, biến

chất xa rời quần chúng từ đó làm mờ dần lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Trong khi đó những người truyền đạo lại đến với dân bằng hoạt động xã hội

từ thiện của tôn giáo. Họ nói tiếng nói dân tộc, gắn bó, thông cảm, gắn bó và

giúp đỡ đồng bào khi cần thiết. Chính những việc làm tưởng như nhỏ bé đó,

lại rất cụ thể, rất thiết thực đã làm cho dân tin tưởng và theo đạo. Về vấn đề

này chỉ thị 45 CT/TW (23/9/1994) của ban chấp hành Trung Ương nêu rõ

"các tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền,đoàn thể ở các vùng dân tộc Mông

chưa được củng cố, hoạt động còn yếu, còn quan liêu xa rời quần chúng, ít

chăm lo, cải thiện đời sống đồng bào. Số lượng và chất lượng cán bộ dân tộc

Mông ở các cấp, các ngành, các địa phương thiếu và yếu, không đáp ứng

được yêu cầu tình hình mới ".

Nguyên nhân cuối cùng và là nguyên nhân cơ bản nhất. Theo ý kiến

của Nguyễn Quang Hưng, Nguyễn Xuân Hùng đó là sự suy yếu, khủng hoảng

của tôn giáo, tín ngưỡng Mông truyền thống. Đây là hệ quả của một quá trình

kéo dài. Từ sau năm 1954, phong trào “phản phong” đã quy nhiều tập tục văn

hóa tôn giáo của đồng bào thành hủ tục mà không xem xét đến tầng nghĩa văn

hóa của nó, do đó mà có sự hạn chế các lễ hội, hạn chế hoạt động của các thầy

36

cúng, thầy mo. Tín ngưỡng dân gian là một nhu cầu đời sống tâm linh của

người Mông. Những người hành nghề tôn giáo (chí nếnh) trong xã hội Mông

còn là những trí thức của dân tộc. Họ là người am hiểu phong tục tập quán,

nắm vững nghệ thuật dân gian. Nhưng với cuộc vận động xây dựng nếp sống

mới trong thập kỷ 70, 80 tất cả những người này bị quy là kẻ hành nghề mê

tín dị đoan. Và ở một số nơi có những biện pháp cực đoan như trấn áp, bắt họ

đi cải tạo lao động như những kẻ phạm tội… mà lại không chú ý khai thác

sưu tầm giới thiệu văn hóa truyền thống. Vì không am hiểu những mặt tích

cực, tiêu cực thích hợp trong chức năng xã hội của thầy cúng nên đôi khi đã

phá hủy cả vốn văn hóa họ đang lưu giữ, tác động tiêu cực đến vấn đề bảo

tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.

Về cơ bản, xã hội Mông vẫn là một xã hội nông nghiệp. Trong suốt chu

kỳ lao động sản xuất một năm đầy vất vả, nhịp sống của người dân vùng cao

khá đơn điệu vì những công việc lặp đi lặp lại. Họ luôn khao khát có những

dịp sôi động và những lễ hội truyền thống như hội Gầu tào, lễ Nào xồng, là

những hình thức đáp ứng nhu cầu này. Tuy nhiên suốt một thời gian dài, các

ngày hội Gầu tào bị cấm đoán vì lý do mê tín, vì sợ những người về hội mâu

thuẫn, xô xát. Một số nơi người Mông ăn tết truyền thống vào tháng Chạp và

kéo dài suốt một tháng. Vì lý do tiết kiệm thời gian sản xuất, chính quyền đã

vận động đồng bào chỉ ăn Tết vài ngày. Vì vậy, ở nhiều nơi lễ hội không dược

tổ chức. Suốt từ những năm 60 đến đầu thập kỷ 90, lễ hội Gầu tào vắng mặt ở

Bắc Hà, Simakai, Mường Khương. Hầu hết thanh niên trong vùng không

được đi dự hội, hội chỉ còn trong ký ức của người già. Thanh niên không biết

đến các nghi thức của ngày hội, nữ thanh niên không biết cảnh hát hội “chù

gầu tào”. Một số lễ thức khác như lễ đuổi rủi ro “Tu su”, lễ ăn ước “Nào

sồng”, lễ cúng “Thùng sán”… cũng bị mai một dần.

Trong xã hội truyền thống, cuộc đời người Mông gắn liền với âm nhạc.

37

Tiêu chuẩn của một chàng trai Mông ngoài việc giỏi cày nương, còn phải biết

thổi sáo, múa khèn. Kèn lá, đàn môi luôn là bạn của các cô gái. Nhưng số

thanh niên biết sử dụng nhạc cụ ngày càng ít đi.

Bảng 1.2: Mức độ biết sử dụng nhạc cụ truyền thống dân tộc của thanh

niên Mông (Đơn vị %)

Mức độ sử Tỷ lệ % biết Tỷ lệ % biết Tỷ lệ không Không trả

dụng sử dụng sử dụng giỏi biết lời

Loại nhạc cụ

Kèn lá 66 9 25 0

Đàn môi 42 4 48 6

Sáo ngang 43 5 48 4

Sáo dọc 35 3 58 4

Nguồn :Trần Hữu Sơn, Văn hóa Mông, NXB Văn hóa dân tộc, HN,

1996 tr.176

Cùng với sự phát triển của xã hội, sự quan tâm đầu tư giáo dục miền

núi của nhà nước, thế hệ trẻ người Mông được cập nhật kiến thức qua các

phương tiện truyền thông và giáo dục nhà trường. Trong khi đó đội ngũ

những người có uy tín trong cộng đồng Mông truyền thống như trưởng họ, bà

cô, ông cậu, thầy cúng lại khó bắt kịp với những thay đổi này của xã hội. Họ

không còn giữ được vai trò là người am hiểu về cuộc sống để dẫn dắt thế hệ

sau, do vậy có một sự suy giảm về cả chất và lượng của đội ngũ nắm quyền

trong cấu trúc xã hội Mông truyền thống.

Từ đó tạo ra sự khủng hoảng trong cộng đồng người Mông đã đến việc

họ có nhu cầu tìm đến một chỗ dựa tinh thần, tâm linh mới. Tin lành với lợi

thế là một tôn giáo cải cách có luật lễ, lễ nghi, cách thức hành đạo đơn giản,

38

uyển chuyển, không tốn kém và dùng việc quan tâm đến đời sống thường nhật

của người dân để thu hút người vào đạo nên sự xuất hiện của đạo Tin lành được

nhiều tín đồ ca ngợi như sự hiện diễn của những tiến bộ về văn hóa, lối sống.

Sự khủng hoảng tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống đã tạo ra một

khoảng trống để đạo Tin lành và các tôn giáo khác có điều kiện truyền bá vào

cộng đồng người Mông.

Sự phát triển của đạo Tin lành trong đồng bào dân tộc Mông ở một số

tỉnh miền núi phía Bắc nước ta có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống

xã hội, trong đó phải kể đến một số nguyên nhân cơ bản như đời sống kinh tế,

xã hội trong các vùng đồng bào Mông còn gặp nhiều khó khăn, do âm mưu

lợi dụng đạo Tin lành của các thế lực thù địch, do đặc điểm lịch sử và văn hóa

của dân tộc Mông... mà nguyên nhân quan trọng nhất phải kể đến chính là do

sự suy yếu, khủng hoảng của tín ngưỡng tôn giáo Mông truyền thống. Mỗi

nguyên nhân này có vị trí ảnh hưởng khác nhau đối với sự phát triển của đạo

Tin lành. Tuy nhiên giữa chúng lại có mối quan hệ gắn bó, không thể tách rời.

Vì vậy cần hiểu nguyên nhân phát triển đạo Tin lành trong đồng bào dân tộc

Mông trong mối quan hệ tổng hệ của các yếu tố trong xã hội, tránh quan điểm

phiến diện, một chiều hay tuyệt đối hóa một nguyên nhân nào đó.

Người Mông là dân tộc luôn coi trọng thực tế, thiết thực. Họ coi tôn

giáo chỉ là phương tiện nhằm giả quyết những nhu cầu bức xúc của đời sống

chứ không quan tâm nhiều về triết lý, về hạnh phúc hư ảo ở thế giới bên kia.

Do đó hình ảnh về thế giới bên kia trong tín ngưỡng truyền thống của người

Mông cũng đơn giản như thế giới thực tại của họ vậy. Người Mông thờ cúng

tổ tiên, ma nhà là nhằm cầu mong các lực lượng siêu nhiên này phù hộ cho

cuộc sống thực tại của họ. Họ tin vào các ma lành, theo chí nếnh là nhằm cầu

cúng chữa bệnh, chăm lo đời sống hiện tại. Vì vậy, khi đời sống hiện tại càng

bế tắc khó khăn (do diện tích rừng bị thu hẹp, đất bạc màu, dân số tăng nhanh,

bỏ trồng cây thuốc phiện, chưa có nguồn thu thay thế…) người Mông càng

không tin vào tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống. Họ khao khát đổi đời, khao

39

khát cuộc sống ấm no và gửi niềm tin này vào một tôn giáo khác.

Tiểu kết chƣơng 1

Người Mông là một trong những dân tộc có nhiều nét đặc trưng về tộc

người, từ nguồn gốc, địa bàn cư trú, đến văn hóa, lối sống, tín ngưỡng, phong

tục tập quán,… Gần đây, một bộ phận người Mông theo đạo Tin lành đã dẫn

đến việc thay đổi về văn hóa, từ văn hóa, tín ngưỡng truyền thống sang văn

hóa, lối sống Tin lành. Việc một bộ phận người Mông ở Việt Nam theo Tin

lành và thay đổi về văn hóa, bên cạnh mặt tích cực là những tiêu cực ảnh

hưởng đến các mặt đời sống của người Mông và của xã hội.

Vì vậy, việc đạo Tin lành du nhập vào người Mông đã và đang có ảnh

hưởng đến đời sống văn hóa, xã hội của họ. Quá trình du nhập của đạo Tin

lành vào người Mông thực sự bắt đầu từ năm 1986 cho đến nay được chia làm

ba giai đoạn liên biến động về kinh tế - xã hội, văn hóa của người Mông ở

đây. Việc truyền đạo Tin lành vào người Mông ở Việt Nam chủ yếu bằng gián

tiếp qua các phương tiện truyền thông, sau này khi đã hình thành cộng đồng

theo Tin lành mới có sự tác động trực tiếp của các tổ chức Tin lành ở Việt

Nam. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc người Mông ở Lào Cai theo đạo

Tin lành như nguyên nhân về kinh tế, về tâm lý, về quản lý của chính

quyền,... nhưng nguyên nhân then chốt chính là sự mất niềm tin vào văn hóa

truyền thống với những yếu tố “lạc hậu”, không còn phù hợp cùng với những

lợi thế của đạo Tin lành. Với việc xác định đúng các nguyên nhân theo Tin

lành của người Mông sẽ có đánh giá đúng về hiện tượng tôn giáo đặc thù này,

cũng như những cách nhìn nhận và xây dựng chính sách dân tộc, tôn giáo một

40

cách đúng đắn, phù hợp và hiệu quả.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo kết quả 10 năm thực hiện chỉ thị 01 – UBND Lào Cai, ngày 7

tháng 8 năm 2015, Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai, Lào Cai..

2. Ban Dân tộc Trung ương (1991), Báo cáo thực trạng dân tộc Mông và

một số kiến nghị, Hà Nội.

3. Ban Tôn giáo Chính phủ (2005), đề án cấp nhà nước “Khảo sát thực trạng

vấn dề đạo Tin lành ở khu vực Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ - kiến

nghị giải pháp”

4. Trần Văn Bính (chủ biên)(2004), Văn hoá các dân tộc Tây Bắc. Thực

trạng và những vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Trần Văn Bính (2006), Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá

trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

6. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người, Nxb

VHTT, Hà Nội.

7. Nguyễn Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb

Văn hóa dân tộc.

8. Nguyễn Văn Chính (2015), Cải đạo, thích ứng và biến đổi văn hóa:

Trường hợp người Mông Tin lành, tỉnh Lào Cai

9. Dân ca Mông (1984),Nxb Văn học, Hà Nội.

10. Nguyễn Hồng Dương (2004), Tôn giáo trong mối quan hệ Văn hóa và

phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

11. Hồ Xuân Định (2013), Thực hiện chính sách của Nhà nước Việt Nam đối

với Tin lành ở các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu

Tôn giáo, số 12 (126), Hà Nội.

12. Bế Viết Đằng (1973)“Dân tộc Mèo”, Viện Dân tộc học (1973), Các dân

109

tộc ít người ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

13. Hoàng Minh Đô (2013), Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển Tin

lành vùng dân tộc thiểu số phía Bắc, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 9

(123), Hà Nội.

14. Nguyễn Khắc Đức (2013), Về một số đặc điểm của Tin lành trong vùng

dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc nước hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu

Tôn giáo, số 8 (122), Hà Nội.

15. Nguyễn Ngọc Đức (2015), Đạo Tin lành ở người H’Mông Tây Bắc nước

ta, www.lyluanchinhtri.vn, thứ hai, 21/12/2015

16. Giàng Seo Gà (2004), Tang ca (Khuôz cê) của người Mông SaPa, Nxb

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

17. Lê Sĩ Giáo (1997), Dân tộc học đại cương, Nxb Giáo dục.

18. Nguyễn Thị Song Hà – Hồ Xuân Định ( 2014), Nghi lễ trong chu kỳ đời

người của người , Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 (75), Hà Nội.

19. Diệp Đình Hoa (1998), Dân tộc Mông và thế giới thực vật, Nxb Văn hóa

dân tộc, Hà Nội.

20. Đặng Thị Hoa, Khổng Thị Kim Anh (2004), Lễ cúng chữa bệnh của người

Hmông trắng (nghiên cứu ở bản Mô Cổng, xã Phỏng Lái, huyện Thuận

Châu, tỉnh Sơn La), Tạp chí Dân tộc học, số 1, Hà Nội.

21. Dương Hà Hiếu, Tục cưới xin của người Hmông trắng ở Thuận Châu,

tỉnh Sơn La, Tạp chí Dân tộc học, số 3, Hà Nội.

22. Nguyễn Xuân Hùng (2000), Tìm hiểu những hệ quả của việc truyền giáo

Tin lành đối với văn hóa truyền thống và tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam,

Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 1, Hà Nội.

23. Đỗ Quang Hưng (2006), Đề án “Vấn đề Công giáo và Tin lành trong các

110

dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Bắc những năm gần đây”

24. Đỗ Quang Hưng (2011), Tái cấu hình đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện

nay: Những thách thức về mặt pháp lý, Trang web Ban tôn giáo chính

phủ, http:btgcp.gov.vn

25. Đỗ Quang Hưng (2011), Đạo Tin lành ở Việt Nam: Một cái nhìn tổng

quát, Tạp chí Công tác Tôn giáo (1+2), Hà Nội.

26. Đỗ Quang Hưng (2011), Tôn giáo và văn hóa, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc

tế Văn hóa Tôn giáo trong bối cảnh toàn cầu hóa, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

27. Đỗ Quang Hưng (2012), Kỷ nguyên truyền giáo của Ki tô giáo tại châu Á

và xung đột văn hóa- Trường hợp đạo Tin lành tại các quốc gia Đông Bắc

Á nói chung và Việt Nam nói riêng, trong Kỷ yếu Tọa đàm Đạo Tin lành

và văn hóa Việt Nam, Viện Nghiên cứu Tôn giáo – Hội Việt – Mỹ và Viện

Liên kết toàn cấu đồng tổ chức, Hà Nội, tháng 11/2012.

28. Phạm Quang Hoan (2001), Lễ cưới người Hmông Trắng huyện Đồng Văn

tình Hà Giang, Tạp chí Dân tộc học, số 6, Hà Nội.

29. Nguyễn Thế Huệ (2007), Bạo lực trong gia đình người Mông tại vùng núi

phía Bắc Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

30. Nguyễn Xuân Hùng (2000), Tìm hiểu những hệ quả của việc truyền giáo

Tin lành đối với văn hóa truyền thống và tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam,

Nghiên cứu tôn giáo số 1 (03), trang 45 - 54.

31. Vũ Quốc Khánh (chủ biên)(2004), Người Hmông ở Việt Nam, Nxb

Thông tấn, Hà Nội.

32. Mã A Lềnh (2009), Ghi chép về văn hóa dân gian Hmông, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

33. Mã A Lềnh, Từ Ngọc Vụ (2014), Tiếp cận văn hóa Hmông, Nxb Văn hóa

111

dân tộc.

34. Nguyễn Đình Lợi (2012), Vài nét phương thức truyền giáo của đạo Tin

lành vào cộng đồng người Mông ở Lào Cai,Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo,

số 10, Hà Nội.

35. Nguyễn Đình Lợi, Vài nét về phương thức truyền giáo của đạo Tin lành

vào vùng dân tộc Mông ở Lào Cai.

36. Hoàng Xuân Lương (2001), Luận án tiến sĩ: Bản sắc văn hóa dân tộc

Mông và giải pháp giữ gìn, phát huy các giá trị của nó ở Việt Nam hiện

nay. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội.

37. Nguyễn Văn Minh (2010), Một số vấn đề về đạo Tin lành trong cộng

đồng người H’Mông di cư tự do vào Tây Nguyên hiện nay, Tạp chí Dân

tộc học, số 5 (167), tr.38 – 47.

38. Nguyễn Văn Minh – Hồ Ly Giang (2011), Một số vấn đề thực tiễn về đạo

Tin lành ở các dân tộc thiểu số vùng Tây bắc hiện nay, Dân tộc học số 5

(173), trang 3 – 14.

39. Hoàng Nam – Cư Hòa Vần (1994), Dân tộc Mông ở Việt Nam, NXB Văn

hóa dân tộc, Hà Nội.

40. Vương Duy Quang (2005) – Văn hóa tâm linh của người Hmông ở Việt

Nam, truyền thống và hiện tại, Nxb Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa.

41. Dương Kim Quý (2002), Ngẫm về tộc danh của người Mông, Tạp chí Dân

tộc và thời đại, số 43, Hà Nội.

42. Trần Hữu Sơn (1996) – Văn hóa Hmông, Nxb Văn hóa Dân tộc.

43. Trần Hữu Sơn (1999), Lễ hội truyền thống Lào Cai, Nxb Văn hóa dân

tộc, Hà Nội.

44. Chu Thái Sơn (chủ biên) (2003), Người HMông, Nxb Trẻ.

45. Kiều Trung Sơn (2013), Biến đổi tín ngưỡng Mông - thực tế và trăn trở,

112

Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1 (145), Hà Nội.

46. TS. Thào Xuân Sùng (chủ biên) (2009), Dân tộc Mông Sơn La với việc

giải quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giáo hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

47. Đỗ Ngọc Tấn (chủ biên) (2004), Hôn nhân gia đình các dân tộc Hmông,

Dao ở hai tỉnh Lai Châu và Cao Bằng, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

48. Lâm Tâm (1961), Lịch sử di cư và tên gọi của người Mèo, Tạp chí

Nghiên cứu lịch sử, 61 (30)

49. Nguyễn Văn Thắng (chủ biên) (2009) – Giữ “lý cũ” hay theo “lý mới”? –

Bản chất của những cách phản ứng khác nhau của người Hmông ở Việt

Nam với ảnh hưởng của đạo Tin lành, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

50. Doãn Thanh (1963), Truyện cổ Mèo, Nxb Văn học, Hà Nội.

51. Hồng Thao (1997), Âm nhạc dân tộc Mông, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà

Nội.

52. Thủ tướng Chính phủ, Chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào

dân tộc thiểu số đồng bào dân tộc thiểu số. Văn bản Quyết định số

18/2011/QĐTTg, ngày 18/3/2011.

53. Tocarew X.A, Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng –

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1994.

54. Nguyễn Mạnh Tiến, Những đỉnh núi du ca một lối tìm về cá tính H’mông.

Nxb Thế giới.

55. Nguyễn Quỳnh Trâm (2016), Luận án “Văn hóa của người Hmông theo

đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai”. Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm

Khoa học xã hội Việt Nam.

56. Bùi Xuân Trường (1999), Tác dụng của luật tục đối với việc quản lý xã

hội ở các dân tộc Thái, Hmông Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc,

113

Hà Nội.

57. Lý Cẩm Tú, Hoàng Minh Lợi (1997), Một số tập tục của người Hmông

xanh tỉnh Lào Cai, Tạp chí Dân tộc học, số 1, Hà Nội.

58. Đặng Nghiêm Vạn (2006), Đề tài “Về tình hình phát triển của đạo Tin

lành ở miền núi phía Bắc, Trường Sơn – Tây Nguyên”.

59. Viện văn hóa (1996), Văn hóa dân tộc Mông ở Hà Giang, Sở văn hóa

thông tin tỉnh Hà Giang.

60. Vụ Tin lành, Ban Tôn giáo chính phủ (2015), đề tài “Khảo sát thực trạng

và quy hoạch điểm nhóm Tin lành đã đăng được đăng ký sinh hoạt tôn

giáo ở khu vực Tây Nguyên và Tây Bắc – Kiến nghị giải pháp”.

61. Vụ Tin lành, Ban Tôn giáo chính phủ, đề tài: “Vấn đề di cư tự do của

người Mông theo đạo Tin lành”,Hà Nội, 2008.

62. Max Weber (2010), Nền đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản

Nxb Trí Thức.

63. Nguyễn Thanh Xuân (2007), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo,

Hà Nội.

64. Nguyễn Thanh Xuân (2002), Bước đầu tìm hiểu đạo Tin lành trên thế giới

và ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

65. Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số điểm khác nhau giữa đạo Tin lành và

đạo Công giáo, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 02, Hà Nội.

66. Nguyễn Thanh Xuân (2006), Đạo Ki-tô lịch sử những tên gọi, Tạp chí

Công tác tôn giáo, số 7, Hà Nội.

67. Nguyễn Thanh Xuân (2006), Một số vấn đề cần quan tâm khi nghiên cứu

68. Nguyễn Thanh Xuân (2007), Vài nét khái quát về tôn giáo trong vùng

đạo Tin lành, Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 9- 9/2006, Hà Nội.

đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số

02, Hà Nội. 124. PGS., TS. Nguyễn Thanh Xuân (2015), Tôn giáo và

114

chính sách tôn giáo ở Việt Nam,Nxb Tôn giáo, Hà Nội.