Luận văn thạc sĩ Báo chí học
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN THÔNG
TRỊNH THỊ THU NGA
ĐÀI TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM VỚI VIỆC
ĐỊNH HƯỚNG
PHÁT TRIỂN KIẾN THỨC CHO GIỚI TRẺ
HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC BÁO CHÍ
Hà Nội – 2008
1
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN THÔNG
TRỊNH THỊ THU NGA
ĐÀI TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM VỚI VIỆC
ĐỊNH HƯỚNG
PHÁT TRIỂN KIẾN THỨC CHO GIỚI TRẺ
HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC BÁO CHÍ
Ngành: Báo chí học
Mã ngành: 60.32.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS Đậu Ngọc Đản
Hà Nội - 2008 2
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
MỤC LỤC
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
MỤC LỤC .................................................................................................. 1 LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................... 6 LỜI CẢM ƠN ............................................................................................ 7 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................ 8 MỞ ĐẦU .................................................................................................... 9 NỘI DUNG .............................................................................................. 17 CHƯƠNG I .............................................................................................. 17 TRUYỀN HÌNH VÀ NHU CẦU THÔNG TIN CỦA XÃ HỘI ................ 17 I. SỨC MẠNH CỦA THÔNG TIN TRUYỀN HÌNH ........................ 18 1. TRUYỀN HÌNH ............................................................................. 18 1.1 KHÁI NIỆM ................................................................................... 18 LỊCH SỬ ........................................................................................ 20 1.2
2. TRUYỀN HÌNH VỚI VIỆC ĐÁP ỨNG NHU CẦU THÔNG TIN CỦA XÃ HỘI .......................................................................................... 23
3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIÁO DỤC CHO CÔNG CHÚNG XEM
TRUYỀN HÌNH - TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN. ............................. 26 3.1 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIÁO DỤC TRÊN TRUYỀN HÌNH ................. 26 3.2 TÍNH TẤT YẾU TRONG ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIÁO DỤC TRÊN TRUYỀN HÌNH ........................................................................................ 27 II. CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH DÀNH CHO THANH THIẾU
NIÊN 32
1 THANH THIẾU NIÊN - NHÓM CÔNG CHÚNG LỚN CỦA
TRUYỀN HÌNH ....................................................................................... 32 THANH THIẾU NIÊN - HỌ LÀ AI? ............................................... 32 1.1 1.2 MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA THANH THIẾU NIÊN HIỆN NAY. ...... 32 THANH THIẾU NIÊN VÀ TRUYỀN HÌNH .................................... 36 1.3 2 TRUYỀN HÌNH DÀNH CHO THANH THIẾU NIÊN .................. 39
2.1 CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH DÀNH CHO THANH THIẾU NIÊN 39 2.1.1 CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH ................................................ 39 2.1.2 CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH DÀNH CHO THANH THIẾU NIÊN 40 2.2 KÊNH TRUYỀN HÌNH DÀNH CHO THANH THIẾU NIÊN .......... 41
3
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
2.2.1 KÊNH TRUYỀN HÌNH ................................................................... 41 2.2.2 KÊNH TRUYỀN HÌNH DÀNH CHO THANH THIẾU NIÊN .......... 42
3 XÃ HỘI HOÁ TRUYỀN HÌNH DÀNH CHO THANH THIẾU
NIÊN 43 TIỂU KẾT ................................................................................................ 46 CHƯƠNG II ............................................................................................. 48 THỰC TIỄN VỀ VIỆC ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIÁO DỤC, ĐÁP ỨNG NHU CẦU THÔNG TIN CHO GIỚI TRẺ CỦA ĐÀI TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM ........................................................................................................ 48 I. MỘT SỐ KÊNH TRUYỀN HÌNH VÀ NHỮNG THÔNG TIN TRUYỀN TẢI .......................................................................................... 48 1. KÊNH VTV1 .................................................................................. 48 2. KÊNH VTV2 .................................................................................. 48 3. KÊNH VTV3 .................................................................................. 49 4. KÊNH VTV4 .................................................................................. 50 5. KÊNH VTV5 .................................................................................. 51 6. KÊNH VTV6 .................................................................................. 51 7. KÊNH VTV9 .................................................................................. 51 II. THỰC TRẠNG ĐÁP ỨNG NHU CẦU XEM TRUYỀN HÌNH CHO GIỚI TRẺ TRÊN SÓNG ĐÀI TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM. .................. 53 1. THỰC TRẠNG ĐÁP ỨNG NHÙ CẦU XEM TRUYỀN HÌNH CHO GIỚI TRẺ................................................................................................. 53 2. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TRẠNG ĐÁP ỨNG NHU CẦU XEM TRUYỀN HÌNH CỦA GIỚI TRẺ TRÊN SÓNG ĐÀI THVN ........ 65 III. KÊNH TRUYỀN HÌNH DÀNH CHO THANH THIẾU NIÊN ...... 68 1. TÍNH TẤT YẾU PHẢI RA ĐỜI KÊNH TRUYỀN HÌNH DÀNH CHO THANH THIẾU NIÊN ................................................................... 68 TỪ NHU CẦU CỦA CÔNG CHÚNG TRẺ ..................................... 68 1.1 TỪ ĐỊNH HƯỚNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC .......................... 69 1.2 TỪ NHU CẦU CỦA ĐÀI TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM ................... 69 1.3
2. KÊNH TRUYỀN HÌNH DÀNH CHO THANH THIẾU NIÊN VÀ TÍNH ĐỊNH HƯỚNG .............................................................................. 70 2.1 VTV6 - KÊNH TRUYỀN HÌNH DÀNH CHO THANH THIẾU NIÊN 2.2
70 TÍNH ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIÁO DỤC TRÊN VTV6 ....................... 81 IV. CÔNG CHÚNG TRẺ VỚI VTV6 ................................................... 86 TIỂU KẾT ................................................................................................ 95 CHƯƠNG III............................................................................................ 97
4
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ XUNG QUANH VIỆC NÂNG CAO TÍNH ĐỊNH HƯỚNG, GIÁO DỤC VÀ PHÁT TRIỂN KÊNH TRUYỀN HÌNH DÀNH CHO GIỚI TRẺ........................................................................................ 97 I. GIẢI PHÁP CHO NỘI DUNG ..................................................... 100 II. GIẢI PHÁP VỀ HÌNH THỨC TÁC PHẨM ................................. 102 III. VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN ........................................................ 103 TIỂU KẾT .............................................................................................. 107 KẾT LUẬN ............................................................................................ 108 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 110 PHỤ LỤC ............................................................................................... 113
5
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Tác giả luận văn xin cam đoan những nội dung nghiên cứu và
trình bày trong luận văn Thạc sĩ này là kết quả từ quá trình làm việc
nghiêm túc của chúng tôi. Nội dung luận văn không sao chép và hoàn
toàn đúng sự thật, chưa được công bố trên bất cứ công trình nghiên cứu
nào.
Chúng tôi xin hoàn toàn đảm bảo và chịu trách nhiệm về lời cam
đoan trên.
6
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn tác giả đã nhận
được rất nhiều sự tư vấn, giúp đỡ từ các cá nhân, tổ chức. Tác giả chân trọng
cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Báo chí truyền thông – trường Đại học
KHXH &NV, bạn đồng môn lớp cao học K9, các đồng chí cán bộ đoàn ở một
số trường Đại học và cao đẳng và bạn bè ở các vùng miền mà tác giả tiến
hành khảo sát (Nghệ An, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc), các đồng
nghiệp tại cơ quan đang công tác. Xin trân trọng cảm ơn các anh chị trong
Ban biên tập VTV6 đã nhiệt tình cung cấp các số liệu, văn bản liên quan đến
đề tài chúng tôi nghiên cứu. Tác giả xin đặc biệt cảm ơn Tiến sĩ Đậu Ngọc
Đản – Người hướng dẫn - đã động viên, khích lệ và chỉ dẫn tác giả trong suốt
quá trình triển khai thực hiện.
Xin trân trọng cảm ơn!
7
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
STT Ký hiệu viết Chữ viết hoàn chỉnh
tắt Tiếng nước Tiếng Việt
ngoài
1. VTV Viêt Nam Truyền hình Việt
television Nam
2. BCH Ban chấp hành
3. T.Ư Trung ương
4. NQ Nghị quyết
5. NXB Nhà xuất bản
6. tr Trang
7. KHXH & NV Khoa học xã hội và
Nhân văn
8. TNCS Thanh niên cộng
sản
9. THVN Truyền hình Việt
Nam
10. HN Hà Nội
8
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
MỞ ĐẦU
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đài truyền hình Việt Nam ngay từ khi ra đời đã sớm khẳng định vai
trò không thể thiếu trong việc đáp ứng nhu cầu thông tin, giải trí và phục vụ
nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của quốc gia. Ba mươi tám năm
kể từ ngày phát sóng đầu tiên, Đài truyền hình Việt Nam đã xây dựng và phát
triển trên nhiều phương diện: Số lượng chương trình ngày càng đa dạng,
phong phú; các thể loại tác phẩm truyền hình ngày một sinh động, hấp dẫn;
đội ngũ phóng viên – biên tập viên – kỹ thuật viên được đào tạo chuyên
nghiệp… Đến nay, các chương trình truyền hình đã và đang dần dần có xu
hướng chuyên sâu vào từng nhóm công chúng đối tượng trong xã hội nhằm
đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu xã hội về thông tin như: chương trình dành cho
phụ nữ, chương trình dành cho nông dân, chương trình dành cho người cao
tuổi … Tuy nhiên, đó chỉ là các chương trình đơn lẻ nằm trong kênh tổng hợp
dành cho đa đối tượng.
Việt Nam được đánh giá là một quốc gia có dân số trẻ, lực lượng
thanh thiếu niên chiếm khá đông trong tỉ lệ dân số toàn quốc (khoảng 60%
dân số). Đây là nhóm công chúng có nhu cầu rất lớn đối với các thông tin
trên truyền hình và họ đang tác động mạnh mẽ tới sự phát triển của ngành
truyền hình. Thực tế cho thấy, nhu cầu thông tin của giới trẻ hiện nay đã rất
khác biệt cả về cách thức và nội dung tiếp nhận so với vài năm trước. Trong
khi đó, kênh truyền hình dành riêng cho thanh – thiếu niên vẫn đang trong
giai đoạn thử nghiệm, các thông tin mà đông đảo công chúng trẻ thường
xuyên tiếp nhận vẫn nằm dàn trải trong các kênh VTV1, VTV2, VTV3,
VTV4, VTV5, HTV và các kênh truyền hình cáp, trong đó VTV3 tập trung 9 Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
nhiều chương trình dành cho giới trẻ hơn cả. Song, không phải tất cả các
chương trình, các thông tin của VTV3 đều cuốn hút người xem trẻ tuổi đặc
biệt là các chương trình mang tính chính luận cao. (Những vấn đề mang tính
chính trị và giáo dục khá khô khan mà Đài phải tìm cách mày mò thể hiện sao
cho hấp dẫn giới trẻ quan tâm theo dõi). Vấn đề đặt ra với truyền hình: làm
thế nào để định hướng và giáo dục cho giới trẻ mà họ sẵn sàng tiếp nhận,
thậm chí hào hứng tiếp nhận nhất là các chương trình nhằm giáo dục về luật
pháp, giáo dục về tư tưởng, truyền tải thông tin thời sự ...
Theo quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta, độ tuổi thanh thiếu
niên là lực lượng cần được quan tâm đặc biệt về mọi mặt, đặc biệt là việc đáp
ứng các nhu cầu tinh thần lành mạnh và giáo dục nghiêm túc về tư tưởng,
hành động. Thông tin từ kênh báo chí có sức mạnh to lớn giúp Đảng và Nhà
nước thực hiện chính sách này. Xin đơn cử một ví dụ thể hiện sự ảnh hưởng
của thông tin trên truyền hình đến giới trẻ mạnh mẽ như thế nào: Chúng ta dễ
dàng bắt gặp những kiểu tóc theo phong cách Hàn Quốc, lối ăn mặc theo kiểu
Hip pop … được sao gần như y bản từ các bộ phim, chương trình phát sóng
trên truyền hình. Giới trẻ đặc biệt thích thú với các phong cách, những
chương trình sôi động, hấp dẫn trên truyền hình và họ hấp thụ nó rất nhanh
chóng. Do vậy, yêu cầu bức thiết đặt ra là phải phát triển các chương trình
truyền hình dành cho giới trẻ theo hướng chuyên sâu hơn về chất lượng thông
tin và các hình thức thông tin. Giải pháp ở đây là cần phải phát triển kênh
truyền hình dành cho giới trẻ. Trên thế giới, nhiều quốc gia đã có kênh truyền
hình dành cho giới trẻ và nó trở thành một kênh cho họ tiếp cận, tìm kiếm
thông tin, giải trí, học tập, tâm tình, kiểm tra kiến thức... như truyền hình ở
các nước Anh, Pháp, Mỹ, Đức… Ví dụ: Truyền hình Đức có kênh Nicht nach
acht. Toggo. Kixka trong đó tất cả các vấn đề của giới trẻ từ những điều nhỏ
10
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
nhất đều được phản ánh, đặc biệt là họ đề cập rất thẳng thắn đến việc giáo dục
về giới tính cho giới trẻ trong khi đây là điều mà truyền hình Việt Nam vẫn
còn dè dặt khi thông tin.
Trước yêu cầu bức thiết của thời đại, khi có quá nhiều các vấn đề
đang va chạm đến giới trẻ khiến họ thường bị động hoặc ngỡ ngàng để tìm
cách ứng xử, Đài Truyền hình Việt Nam đã quyết định xây dựng kênh VTV6
dành cho thanh thiếu niên để tâm tình, định hướng, gợi mở thông tin cho họ.
Đây là sự thay đổi trong kế hoạch 2006 – 2010 của Đài về việc dự kiến phát
triển các kênh mới, trong đó kênh VTV6 sẽ là kênh truyền tải các thông tin về
thể thao. Điều đó cho thấy, Đài đã nhận định sự cần thiết phải có một kênh
truyền hình dành cho giới trẻ. Kênh truyền hình VTV6 không chỉ là kênh
thông tin, giải trí còn là kênh định hướng giáo dục cho giới trẻ trước tình hình
phát triển nhanh chóng và đa dạng của đời sống xã hội. Tuy nhiên, kênh
truyền hình cho thanh thiếu niên khó có thể chiếm lĩnh công chúng khán giả
ngay so với các kênh truyền hình khác (đặc biệt là VTV3), sẽ phải mất một
khoảng thời gian nhất định để kênh tạo lập niềm tin và thu hút sự quan tâm
theo dõi của công chúng trẻ. Việc nghiên cứu các vấn đề mang tính lý luận và
tổng hợp những khía cạnh liên quan đến thực tiễn triển khai đối với kênh
truyền hình của thanh thiếu niên là điều hết sức cần thiết. Từ những lý do
trên, tác giả luận văn chọn đề tài: Đài Truyền hình Việt Nam với việc định
hướng phát triển kiến thức cho giới trẻ hiện nay với hy vọng làm sáng tỏ
tính tất yếu của sự định hướng và giáo dục giới trẻ thông qua truyền hình,
đồng thời chỉ rõ tính tất yếu phải phát triển các chương trình truyền hình cho
giới trẻ. Thông qua đó, chúng tôi mạnh dạn đề xuất các kiến nghị nhằm nâng
cao chất lượng thông tin và hình thức thông tin cũng như cách thể hiện kênh
11
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
truyền hình này để phát huy tốt nhất vai trò định hướng và giáo dục giới trẻ
của truyền hình Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Xây dựng các kênh truyền hình chuyên biệt dành cho các nhóm công
chúng xã hội đặc biệt không phải là đề tài mới được đưa ra bàn luận trong quá
trình định hướng phát triển của Đài truyền hình Việt Nam. Hơn nữa, khi xây
dựng kênh truyền hình mới, tính định hướng và giáo dục sẽ được triển khai ra
sao qua từng tác phẩm truyền hình? Đó là vấn đề mà các nhà nghiên cứu,
những người làm truyền hình vẫn đang tiếp tục tổng kết và điều chỉnh.
Tóm lại, việc xây dựng và phát triển kênh truyền hình dành cho giới
trẻ đang là chủ đề còn nhiều mới mẻ trong lý luận và thực tiễn đối với nền báo
chí nước ta. Do đó, đề tài “Đài Truyền hình Việt Nam với việc định hướng
phát triển kiến thức cho giới trẻ hiện nay” có thể coi là công trình nghiên
cứu cơ bản, hệ thống đầu tiên về lĩnh vực đang bàn tới. Vì vậy, trong quá
trình nghiên cứu, tác giả luận văn ít có cơ hội kế thừa những tiền đề lý luận
cũng như hệ thống tư tưởng của người đi trước.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Giới trẻ là nhóm công chúng có tâm lý tiếp nhận sản phẩm báo chí hết
sức đặc biệt trên nhiều phương diện như nhu cầu, điều kiện, cách thức …
Giới trẻ cũng là nhóm công chúng đa thành phần, đa thị hiếu cho nên để thoả
mãn đầy đủ nhu cầu thông tin cho công chúng trẻ không hề đơn giản. Chúng
tôi thực hiện phát phiếu điều tra nghiên cứu và đưa ra những kết luận về tâm
lý tiếp nhận, tổng kết những kết quả truyền hình đã làm được. Đây có thể coi
như một bảng tổng hợp ý kiến của khán giả trẻ về các chương trình truyền
12
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
hình dành cho giới trẻ trên sóng VTV1, VTV2, VTV3, VTV6. Người làm
truyền hình có thể tham khảo kết quả thu thập được trong luận văn để tìm
cách đáp ứng hợp lý nhu cầu của công chúng trẻ, đồng thời cũng là thông tin
khá quan trọng với các bậc phụ huynh cũng như các trường học về sự phối
hợp giáo dục thế hệ trẻ.
Luận văn là tài liệu cơ bản, hệ thống đầu tiên về việc xây dựng và phát
triển kênh truyền hình dành cho giới trẻ giúp các nhà quản lý nhìn nhận một
cách khách quan về truyền hình dành cho giới trẻ, sớm phát huy những tích
cực và hạn chế các vấn đề tồn tại khi triển khai tổ chức thực hiện.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho các sinh viên khoa báo chí,
ngành truyền hình và những ai quan tâm đến vấn đề này…
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tính tất yếu khách quan của sự định hướng và
giáo dục trên truyền hình, từ đó chứng minh sự cần thiết phải xây dựng và
phát triển kênh truyền hình dành cho giới trẻ. Bên cạnh đó, luận văn cũng chỉ
ra những thay đổi về tâm lý tiếp nhận, cách thức tiếp nhận, nhu cầu tiếp nhận
của giới trẻ hiện đại và liên hệ nó với tính định hướng và giáo dục trên truyền
hình hiện tại và trong tương lai gần.
Ngoài ra, luận văn tìm kiếm và đề xuất giải pháp để nâng cao hiệu quả
tác động của truyền hình Việt Nam tới giới trẻ – nhóm công chúng đông đảo
của truyền hình Việt Nam. Thông qua việc đá ứng tốt các nhu cầu xem truyền
hình của giới trẻ, nhà đài sẽ triển khai tốt nhất yếu tố định hướng và giáo dục
cho thanh thiếu niên.
Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:
13
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
+ Nghiên cứu các chương trình truyền hình dành cho giới trẻ trên các
kênh VTV1, VTV2, VTV3.
+ Phân tích tính chất, mục tiêu định hướng và giáo dục giới trẻ thông
qua trưyền hình.
+ Khảo sát thông qua việc phát phiếu điều tra xã hội học về nhu cầu
tiếp nhận thông tin trên kênh truyền hình của giới trẻ và tiến hành phân tích,
đánh giá, rút ra nhận định về khả năng đáp ứng của Đài truyền hình Việt
Nam.
+ Tìm kiếm các giải pháp nhằm nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu
của giới trẻ đối với các thông tin trên sóng Đài truyền hình Việt Nam, thông
qua đó nâng cao tính định hướng và giáo dục.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài hướng tới sự giáo dục và định hướng cho giới trẻ trên truyền
hình cho nên đối tượng nghiên cứu của luận văn là thanh thiếu niên Việt Nam
và các chương trình truyền hình dành cho thanh thiếu niên trên VTV1, VTV2,
VTV3, đặc biệt là VTV6.
Truyền hình với việc định hướng và giáo dục cho giới trẻ đang đặt ra
rất nhiều khía cạnh như: định hướng cần phải hiểu theo cách nào cho phù hợp
với giới trẻ: dạy dỗ hay gợi mở, cùng bàn bạc với giới trẻ rồi làm trọng tài kết
luận…; định hướng về những nội dung gì, định hướng có làm cho tác phẩm
mất đi sự trẻ trung, sôi động của các chương trình dành cho giới trẻ không? …
Trong khuôn khổ của một luận văn Thạc sỹ chúng tôi khó có thể
nghiên cứu tất cả các khía cạnh của việc định hướng trên truyền hình hiện
nay. Do vậy, chúng tôi chỉ nêu ra những lý luận chung nhất về định hướng và
giáo dục cho giới trẻ trên truyền hình; thực tiễn nhu cầu tiếp nhận của công
14
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
chúng trẻ và những tác động của điều kiện tiếp nhận đến họ. Chúng tôi hướng
nghiên cứu vào đối tượng công chúng trẻ (từ 10 đến 35 tuổi) và các chương
trình truyền hình dành cho họ, đặc biệt là kênh truyền hình VTV6 mới ra mắt,
trong đó độ tuổi thanh thiếu niên là nhóm công chúng mà chúng tôi quan tâm
nghiên cứu nhiều nhất. Sau khi nghiên cứu và khảo sát, Luận văn sẽ làm rõ
các nội dung như: tính tất yếu của sự định hướng, vai trò của truyền hình với
việc định hướng và giáo dục đối với giới trẻ; đồng thời nêu ra những vấn đề
bức thiết liên quan đến kênh truyền hình dành cho giới trẻ – một kênh đặc biệt
của nhà đài nhằm giáo dục và dịnh hướng cho thanh thiếu niên Việt Nam.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Dựa vào quan điểm của đảng, nhà nước về báo chí
nói chung, về truyền hình nói riêng để rút ra những nhận định về nguyên tắc,
môi trường cũng như đặc điểm hoạt động sáng tạo tác phẩm truyền hình. Cụ
thể là, chúng tôi tiến hành nghiên cứu văn kiện và các tổng kết của Đảng về
các lĩnh vực của báo chí nước ta, cùng với đó là xem xét các điều luật của báo
chí do nhà nước ban hành để đánh giá và nhận định về thực hiễn hoạt động
định hướng cho công chúng trên truyền hình. Ngoài ra, tác giả luận văn còn
tìm kiếm các văn bản của T.Ư Đoàn, các văn bản Đảng và Nhà nước chỉ đạo
thanh niên.
Phương pháp công cụ:
+ Phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở tổng hợp các dữ liệu, các quan điểm
và những lý luận về hoạt động sản xuất và vai trò định hướng đối với công
chúng của truyền hình, tác giả tiến hành phân tích để rút ra những nhận định
15
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
khách quan về thực tiễn định hướng và giáo dục cho giới trẻ Việt Nam trên
truyền hình.
+ So sánh: Trên cơ sở những dữ liệu thu nhận được từ quá trình phân
tích và tổng hợp, tác giả tiến hành so sánh các số liệu vê nhu cầu tiếp nhận,
đặc điểm về tâm lý tiếp nhận và điều kiện tiếp nhận của công chúng để làm rõ
tính tất yếu phải cho ra đời kênh truyền hình dành cho thanh thiếu niên. Sự ra
đời của kênh truyền hình này là biểu hiện của sự định hướng trong việc cung
cấp thông tin, giáo dục giới trẻ nhiều mặt thông qua truyền hình. Từ đó, nâng
cao chất lượng phục vụ của truyền hình trong đời sống xã hội. Ngoài ra, trên
cơ sở kết quả của sự so sánh chứng minh vai trò, vị trí của truyền hình đối với
việc giáo dục thế hệ trẻ.
+ Phương pháp điều tra xã hội học: Tác giả phát phiếu điều tra (phỏng
vấn ankét) để phỏng vấn các quan điểm, nhu cầu xem truyền hình và nhận
định của họ về tính định hướng và giáo dục trên truyền hình với giới trẻ.
Ngoài ra, tác giả cũng thực hiện một số cuộc phỏng vấn sâu với các cán bộ
lãnh đạo truyền hình về việc đáp ứng nhu cầu thông tin, nhiệm vụ định hướng
và giáo dục của truyền hình đối với thanh thiếu niên hiện nay, về những mục
tiêu cho tương lai của nhà đài với thế hệ trẻ. Đâylà phương pháp chủ đạo
trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Các phương pháp trên được kết hợp hài hoà và đan xen trong trong
từng phần nội dung luận văn.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn gồm có ba chương
như sau:
Chương I: Truyền hình và nhu cầu thông tin của xã hội
16
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Chương II: Thực tiễn đáp ứng nhu cầu thông tin và định hướng giáo dục cho
giới trẻ của Đài truyền hình Việt Nam
Chương III: Một số kiến nghị xung quanh việc xây dựng và phát triển kênh
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
TRUYỀN HÌNH VÀ NHU CẦU THÔNG TIN CỦA XÃ HỘI
truyền hình dành cho giới trẻ – kênh giáo dục và định hướng cho giới trẻ.
Báo chí là kênh đáp ứng nhu cầu thông tin tuyệt hảo của con người về
đời sống. Các thông tin về chính trị – xã hội – kinh tế – văn hoá trên toàn cầu
đều được báo chí phản ánh. Báo chí trở thành người bạn thân thiết với con
người trong nhiều lĩnh vực: cung cấp thông tin, chia sẻ thông tin và tình cảm, 17 Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
chia sẻ kinh nghiệm, gợi mở hay định hướng về các vấn đề trong cuộc sống...
Đến nay, có thể khẳng định rằng, xã hội hiện đại không thể thiếu báo chí.
Báo in là thành viên đầu tiên trong “gia đình” các loại hình báo chí, nó
đã tạo ra bước phát triển mạnh mẽ về ý thức tiếp nhận thông tin trên báo. Sau
báo in, phát thanh đã ra đời. Phát thanh, với sự lan toả của sóng điện từ và hệ
thống truyền thanh, đã nhanh chóng chiếm được cảm tình từ phía công chúng
nhờ sự sinh động của âm thanh và khả năng phủ sóng rộng rãi. Song, nhu cầu
của con người luôn thay đổi, phát triển rất đa dạng cho nên truyền hình đã xuấ
hiện. Mặc dù sinh sau đẻ muộn nhưng truyền hình nhanh chóng bộc lộ những
ưu thế vượt trội về khả năng thoả mãn thông tin cho công chúng và nó chiếm
vị trí số 1 trong suốt thế kỷ XX. Với sự phát triển của khoa học công nghệ, kỹ
thuật truyền hình ngày càng hoàn thiện vai trò truyền thông của nó. Truyền
hình đã thể hiện sức mạnh to lớn trong việc tác động vào tâm lý tiếp nhận của
công chúng và thổi phồng nhanh chóng quả cầu thông tin. Dư luận xã hội trở
thành những làn sóng xuyên lục địa đi khắp thể giới theo “bước chân” của
truyền hình.
I. Sức mạnh của thông tin truyền hình
1. Truyền hình
1.1 Khái niệm
Truyền hình là phương tiện truyền thông đại chúng chuyển tải thông tin
bằng hình ảnh và âm thanh truyền thông truyền hình.
Trong đó: hình ảnh động và âm thanh là hai yếu tố cấu thành ngôn ngữ
truyền hình và yếu tố hình ảnh được nhấn mạnh và là thành phần chủ đạo.
18
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Hình ảnh là chất liệu cơ bản của truyền hình. Nó góp phần giúp công
chúng nhận thức thực tiễn xung quanh một cách khoa học và hiện thực hơn.
Hình ảnh chủ yếu và đặc trưng trong truyền hình là hình ảnh động về hiện
thực cuộc sống nhằm tái tạo một cách khách quan sự kiện theo những gì nó
diễn ra. Ngoài ra, truyền hình còn sử dụng các loại hình ảnh tĩnh như ảnh tư
liệu, mô hình, sơ đồ, chữ in,.... Đây là lợi thế vượt trội của truyền hình vì nó là
những điều “mắt thấy tai nghe”, yếu tố đặc biệt tác động vào niềm tin của con
người. Con người tiếp nhận thông tin qua thính giác chỉ đạt 11% lượng thông
tin nói ra, qua thị giác có thể đạt được 83% còn nếu vừa tiếp nhận bằng thị
giác vừa bằng thính giác thì có thể đạt tới 94% lượng thông tin phát ra. Nếu
so sánh với các loại truyền thông đại chúng khác, truyền hình sử dụng tổng
hợp tất cả các loại thông tin có trong báo, phát thanh, phim ảnh... và nó đang
chiếm ưu thế vượt trội về khả năng thu hút công chúng.
Âm thanh trong truyền hình bao gồm: lời nói của con người, âm nhạc
(có lời và không lời), tiếng động... Trong các chương trình dàn dựng có hậu
kỳ, người ta có thể tạo ra các âm thanh, tiếng động nhân tạo để mang lại hiệu
quả thể hiện cao hơn.
Truyền hình ra đời đã nhanh chóng chiếm lĩnh số lượng công chúng hơn hẳn
các loại hình báo chí khác (báo in, phát thanh) vì nó khắc phục được những
nhược điểm mà các loại hình báo chí có trước còn tồn tại. Công chúng được
mắt thấy, tai nghe những gì xảy ra từ một nơi nào đó trên trái đất mà không
phải lặn lội đi đến đó. Chính nhờ vậy, truyền hình đã trở thành loại hình thông
tin đại chúng tuyệt hảo đối với công chúng trong thế kỷ XX. Giới truyền
thông gọi thế kỷ XX là thế kỷ của truyền hình.
19
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
1.2 Lịch sử
Truyền hình xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ XX (năm 1923 kỹ sư người
Scotland, ông J. Bert đã phát minh là một chiếc máy có khả năng hiện hình
ảnh nhận từ tín hiệu điện từ, sau này ta gọi là vô tuyến truyền hình hay tivi),
nó phát triển nhanh chóng nhờ ứng dụng sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và
công nghệ. Từ khoảng năm 1932, đài BBC của Anh bắt đầu phát các chương
trình truyền hình thường kỳ với cách thức thể hiện và các phương tiện kỹ
thuật thô sơ, đến nay truyền hình đã phát triển nhanh chóng về cả nội dung lẫn
hình thức truyền tải thông tin. Mạng lưới truyền hình đã và đang được mở
rộng nhờ sự tiến bộ của khoa học – công nghệ.
Hiện trên thế giới có các loại truyền hình sau:
Truyền hình quảng bá: được phát sóng lên không trung chỉ cần có máy
thu hình (tivi) và ăng ten là xem được. Ở Việt Nam, truyền hình quảng
bá đồng nghĩa với truyền hình annalog.
Truyền hình kỹ thuật số: ứng dụng kỹ thuật số vào việc thu, phát truyền
hình.
Truyền hình trực tuyến: truyền hình thu và phát trực tiếp thông qua
mạng truyền Ineternet và được xem qua các trang web có liên kết với
kênh truyền hình.
Truyền hình công nghệ độ phân giải cao: là dịch vụ truyền hình có độ
phân giải cao (High Definition TV – full HD) với độ phân giải cao nhất
tính đến thời điểm 2008 là 1.920 x 1.080 pixel đã được một số kênh
truyền hình trên thế giới phát song song. Tại Việt Nam, truyền hình
công nghệ độ phân giải cao được đưa vào thử nghiệm ở Trung tâm
truyền hình Cáp TP Hồ Chí Minh (HTVC) từ tháng 8 năm 2008. Chuẩn
20
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
phát dịch vụ này thường là Full HD 1080i với tỉ lệ khuôn hình 16:9 và
tín hiệu âm thanh 5.1 thường dùng trong rạp hát.
Về mặt nội dung thông tin: thời gian đầu, truyền hình được sử dụng
như một phương tiện giải trí và thông tin ít ỏi về các vấn đề chính sự, kinh tế
dần dần nó thể hiện vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho đời
sống xã hội. Ngày nay, truyền hình cũng như các loại hình báo chí khác đã và
đang tham gia tích cực vào quá trình giám sát xã hội, định hướng dư luận giáo
dục nhân dân, thậm chí truyền hình còn trở thành công cụ hữu hiệu cho các tổ
chức, đảng phái và các cá nhân quảng bá về sức mạnh và tranh thủ sự ủng hộ
của quần chúng…
Nhận thức được vai trò của truyền hình, tất cả các quốc gia trên thế
giới đều quan tâm, đầu tư phát triển truyền hình. Hệ thống truyền hình được
phát triển rộng rãi bao gồm cả truyền hình quốc gia và truyền hình tư nhân ở
các nước trên thế giới, riêng Việt Nam chỉ có truyền hình quốc gia.
Truyền hình Việt Nam được hình thành và phát triển gắn liền với các
biến động của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Vào quý I năm 1967, lãnh
đạo đài Đài Tiếng nói Việt Nam đã sang thăm và ký kết với viện phát thanh
truyền hình Cu Ba (ICRT) một hiệp định song phương, trong đó Cu Ba nhận
giúp Việt Nam đào tạo cán bộ làm truyền hình. Khi trở về nước, lãnh đạo Đài
Tiếng nói đã nhanh chóng lựa chọn 16 cán bộ từ các trung tâm âm thanh và
các đài phát sóng để tập huấn lý thuyết về truyền hình. Đến tháng 4 năm
1968, đoàn cán bộ lên đường sang Cu Ba học và thực tập. Sau 18 tháng học
và thực tập tại Đài truyền hình trung ương Cu Ba các cán bộ truyền hình đầu
tiên này đã trở về nước và nỗ lực xây dựng những thiết bị ban đầu cho ngành
truyền hình. Tháng 9 năm 1970, chương trình truyền hình đầu tiên để ra mắt
Đài truyền hình Việt Nam gồm 15 phút thời sự và 30 phút ca nhạc đã thành
21
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
công. Những gương mặt đầu tiên xuất hiện trên sóng truyền hình là phát thanh
viên Lan Hương, Nguyễn Thơ, cùng các ca sĩ nổi tiếng như: Thanh Huyền,
Bích Liên, Thuý Hà, Kiều Hưng … Đúng 30 tết âm lịch năm 1971, Đài tổng
diễn tập lần cuối và chương trình được phát sóng vào đêm giao thừa cho công
chúng thủ đô và các vùng lân cận theo dõi. Sau đó Đài Truyền hình Việt Nam
(viết tắt là VTV) chính thức phát sóng có định kỳ: lúc đầu phát 3 buổi/tuần,
sau tăng lên 4 buổi, năm buổi. Đến nay, các chương trình truyền hình đã toả
rộng trên cả nước và truyền hình ảnh đi khắp thế giới.
Đài truyền hình Việt Nam phát triển rất mạnh mẽ với các kênh VTV1,
VTV2, VTV3, VTV4, VTV5, VTV6, VTV9 và các kênh truyền hình Cáp
cũng như hệ thống đài phát thanh – truyền hình địa phương. Truyền hình đã
trở thành một phần thiết yếu không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của
người dân Việt. Để đáp ứng được nhu cầu thông tin và sánh kịp ngành truyền
hình trên thế giới, Đài truyền hình Việt Nam đang từng bước cải tiến nội dung
các chương trình, mở rộng thêm các kênh và ứng dụng nhanh chóng thành tựu
khoa học công nghệ vào sản xuất truyền hình.
Xã hội hoá truyền hình và tiến tới đáp ứng nhu cầu của từng nhóm công
chúng lớn là một trong những hướng phát triển của nhà Đài (đây cũng là mục
tiêu của rất nhiều các đài truyền hình trên thế giới). Với sự hỗ trợ của Internet,
Đài truyền hình đã nhanh chóng truyền các chương trình qua mạng giúp công
chúng có thể xem truyền hình bất kỳ khi nào họ muốn. Chắc chắn, với mục
tiêu xã hội hoá truyền hình và sự kết hợp mạnh dạn các tiến bộ khoa học công
nghệ, truyền hình Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ XI.
22
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
2. Truyền hình với việc đáp ứng nhu cầu thông tin của xã hội
Con người từ khi sinh ra luôn có mong muốn nắm bắt và nhận thức thế
giới xung quanh. Báo chí ra đời và phát triển do nhu cầu khách quan của xã
hội về thông tin và giao tiếp.
Với các loại hình báo chí như: Báo in, phát thanh, truyền hình và báo
mạng nhân loại thực sự đang sở hữu các phương tiện giúp nâng cao nhận thức
một cách hiệu quả. Khi các loại hình báo chí hình thành và phát triển phong
phú, chính nó đang tạo ra sự cạnh tranh lẫn nhau về công chúng. Công chúng
vừa là nguồn nuôi dưỡng báo chí phát triển (cả về vật chất lẫn đề tài), vừa là
thành phần đánh giá, thẩm định và loại trừ báo chí. Thực tế đã chứng minh,
hiện nay công chúng truyền hình chiếm số đông so với các loại hình báo chí
khác. Đồng nghĩa với việc đó là nhà đài, nếu muốn chiếm lĩnh số công chúng
này và nhân rộng hơn nữa khán giả, truyền hình sẽ phải quan tâm thường
xuyên hơn đến nhu cầu tiếp nhận, điều kiện tiếp nhận của khán giả.
Khó có thể hình dung hết được đức mạnh của truyền hình đối với xã
hội. Hiệu quả trực tiếp mà truyền hình tạo ra là dư luận xã hội, nó tạo thành
sức mạnh tinh thần và vật chất trong đời sống. Dư luận xã hội là thái độ phản
ứng của đời sống xã hội đối với các sự kiện, hiện tượng, các nhân vật có ảnh
hưởng đối với tất cả những gì đang làm nên lịch sử hiện thời. Tính chất của
dư luận xã hội phụ thuộc vào tính chất các sự kiện, vấn đề, của những quan
điểm, hành động của nhân vật trong xã hội trong trường hợp thông tin phản
ánh đúng đắn chính xác. Dư luận xã hội có mang tính chất khách quan hay
không còn phản ánh trung thực những sự kiện, hiện tượng, những vấn đề đó
hay không là nhờ vào sự chân thực khách quan của các thông tin mà báo chí
trong đó có truyền hình đăng tải. Truyền hình có khả năng tạo dựng dư luận
xã hội nhanh hơn cả vì nó tác động ngay tới niềm tin của công chúng vào các 23 Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
thông tin mà họ nhìn thấy. Khi chiếm lĩnh được niềm tin, truyền hình sẽ dễ
dàng lay động tình cảm, hành động của các cá nhân và kích thích hiệu ứng lây
lan về tình cảm. Bởi vậy, chúng ta thấy những phản ứng của xã hội đối với
thông tin trên truyền hình khá rõ ràng: ví dụ tác phẩm phản ánh một bảo mẫu
ở trường Mầm non tư thục đánh đập, hành hạ các bé một cách tàn nhẫn.
Những hình ảnh đó đã tác động đến tình cảm của công chúng truyền hình và
nó nhanh chóng tạo ra một làn sóng dư luận xã hội về vấn đề này. Các cơ
quan chức năng phải nhập cuộc ngay để thanh lọc các trường tư thục kém
chất lượng. Các bậc phụ huynh có cơ hội nhìn nhận sự thật về nơi mình gửi
gắm con cái và đề cao cảnh giác. (Thực tế, cho đến khi tác phẩm được phát
sóng, chính cha mẹ các bé cũng không hề biết về sự việc này). Nhờ có những
hình ảnh thật được phát sóng như một minh chứng rõ ràng, nhờ đó quyền lợi
của các bé được đảm bảo hơn khi đến lớp. Đây là tác phẩm tiêu biểu, minh
chứng cho sức mạnh của truyền hình và vai trò quan trọng của truyền hình với
nhận thức của công chúng.
Công chúng nhận định: phát thanh đưa tin, truyền hình minh hoạ và
báo in bình luận, hiện nay báo mạng đang thể hiện sự tích hợp đa phương tiện
để thể hiện các chức năng của những loại hình báo chí khác. Truyền hình đã
và đang nỗ lực đáp ứng nhu cầu của xã hội một cách tốt nhất. Công chúng
không chỉ xem truyền hình để thoả mãn nhu cầu biết, hiểu thông tin mà còn
xem truyền hình nhằm giải trí, học tập và nghiên cứu. Có thể nhận thấy, nhiều
chương trình truyền hình hiện nay có tính thực tế cao như: Sức sống mới phát
vào 11 giờ trưa các ngày trong tuần dạy cho công chúng cách chế biến món
ăn ngon, cách chăm sóc sắc đẹp cho chị em phụ nữ, cách bài trí nhà đẹp; Sức
khoẻ cho mọi người phát sóng vào 6 giờ 30 sáng thứ tư và thứ sáu trên kênh
VTV2… Khi công chúng có niềm tin vào các thông tin trên truyền hình, nó sẽ
24
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
ít nhiều ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành động của họ trong đời sống thực
tiễn. Theo nghiên cứu của Thạc sĩ Lê Hồng Phong trong luận văn Thạc sỹ
năm 1999 về “Những tác động tâm lý ảnh hưởng đến việc nâng cao chất
lượng tác phẩm báo chí”: ở Việt Nam, chương trình thu hút nhiều công chúng
nhất là “Chương trình dự báo thời tiết” vì nó liên quan mật thiết đến các hoạt
động của con người trong ngày tiếp theo (ví dụ: họ sẽ mặc gì, đi đâu, sắp xếp
các cuộc hẹn ngoài trời như thế nào?...). Qua nghiên cứu này cho thấy, những
thông tin mang tính định hướng về một vấn đề nào đó rất có ý nghĩa với công
chúng. Công chúng có thể điều chỉnh hành vi của họ cho phù hợp với thực
tiễn nhờ có những nhận định đúng đắn từ truyền hình.
Xác định được điều này, bất kỳ quốc gia nào cũng cố gắng quản lý và
sử dụng truyền hình như một phương tiện hữu hiệu nhằm định hướng, giáo
dục nâng cao kiến thức, kỹ năng nhận thức của nhân dân về tất cả các lĩnh
vực. Việt Nam là một quốc gia không có báo chí tư nhân, các thông tin trên
truyền hình cũng như các loại hình báo chí khác được đảm bảo chặt chẽ về
yêu cầu an toàn chính trị – xã hội. Đảng và nhà nước ta yêu cầu truyền hình
phải luôn coi trọng việc giáo dục và định hướng nhằm nâng cao kiến thức, tư
tưởng, hành động cho công chúng xem truyền hình riêng, toàn thể nhân dân
nói chung thông qua làn sóng dư luận. Như chúng ta đã thấy, tất cả các
chương trình trên truyền hình hiện nay đều mang tính định hướng và giáo dục,
ngay cả các chương trình giải trí cũng không bỏ qua yếu tố này. Ví dụ: Tam
sao thất bản chiếu trên VTV3 vào lúc 11 giờ trưa thứ 7 hàng tuần (từ sự vui
chơi chỉ cho con người ta thấy tính chất lệch lạc của thông tin khi nó được
truyền qua nhiều kênh trung gian); Trò chơi âm nhạc phát sóng lúc 20 giờ thứ
sáu hàng tuần (giải trí và nâng cao kiến thức về âm nhạc – một loại hình nghệ
thuật của nhân loại).
25
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Các loại hình báo chí lần lượt ra đời là do nhu cầu của xã hội. Nhu cầu
của con người là vô hạn, vì vậy mà truyền hình cũng như các loại hình báo chí
khác muốn phát triển thì phải thoả mãn họ. Các nhóm công chúng trong xã
hội luôn muốn nhận được nhiều thông tin hơn nữa để thoả mãn nhu cầu và thị
hiếu của họ, song mỗi nhóm công chúng lại có điểm khác biệt về nhu cầu, cho
nên cách tốt nhất đối với truyền hình là xây dựng các kênh truyền hình
chuyên đối tượng. Hiện nay, VTV4, VTV5 có thể được coi là kênh truyền
hình chuyên đối tượng ở Việt Nam. Đến tháng 4 năm 2007, VTV6 ra đời đã
bổ sung thêm một kênh truyền hình mới cho nhóm công chúng đặc biệt của xã
hội: đó là lực lượng thanh thiếu niên.
Truyền hình Việt Nam đã và đang từng bước phát triển hệ thống trên
toàn quốc, tạo lực cạnh tranh mạnh mẽ về công chúng đối với các loại hình
báo chí khác và các Đài truyền hình hiện có.
3. Định hướng và giáo dục cho công chúng xem truyền hình -
tính tất yếu khách quan.
Định hướng và giáo dục trên truyền hình
Định hướng và giáo dục cho nhân dân là nhiệm vụ của tất cả các cấp
bộ, ngành đặc biệt là nền báo chí cách mạng Việt Nam – người tuyên truyền
tập thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể. Trong quá trình sản xuất tác phẩm,
các loại hình báo chí hết sức chú ý đảm bảo yêu cầu về định hướng và giáo
dục. Thời gian qua, truyền hình được coi là phương tiện đắc lực nhất trong
các loại hình báo chí về định hướng và giáo dục nhân dân.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hoá - Thông tin năm 1999, khái
niệm định hướng và giáo dục được hiểu như sau:
26
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Định hướng là xác định phương hướng1
Giáo dục là tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất
của con người, để họ dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra2
Theo từ điển Wikitionary Tiếng Việt3 trên mạng internet nêu rõ:
Định hướng là chỉ rõ phương hướng đúng, đường lối cho một hoạt
động nào đó cuả con người;
Giáo dục: là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch
nhằm bồi dưỡng cho người ta những phẩm chất đạo đức, những tri thức cần
thiết về tự nhiên và xã hội, cũng như những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết trong
đời sống.
Định hướng và giáo dục trên truyền hình là sự tác động vào nhận thức
của con người, hướng họ tới những giá trị tốt đẹp của cuộc sống, từ đó
khuyến khích, điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân. Thông qua mỗi tác phẩm,
truyền hình đưa tới công chúng một thông điệp về chân giá trị của thông tin,
nó sẽ tác động tới niềm tin và tri thức của con người. Định hướng và giáo dục
trên truyền hình không phải là những bài giảng lý luận, mà là những đánh giá,
những góc độ phản ánh thực tiễn sinh động và chân thực giúp con người nhận
diện ra cái tốt, xấu tồn tại trong xã hội.
Tính tất yếu trong định hướng và giáo dục trên truyền hình
Truyền hình là một trong những phương tiện truyền thông đại chúng.
Tính định hướng của truyền hình xuất phát từ thực tiễn khách quan trong hoạt
động sáng tạo tác phẩm cũng như mục tiêu phát triển Truyền hình Việt Nam.
27
1 Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hoá - Thông tin năm 1999, tr 642 2 Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hoá - Thông tin năm 1999, tr734 3 trang web: http://vi.Wiktionary.org Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Trước hết, truyền hình làm nhiệm vụ thông tin cho công chúng khán
giả, song cùng một lúc nó không thể thoả mãn tất cả các nhóm công chúng xã
hội khi truyền tải một thông tin nào đó. Thông tin là những chất liệu làm rõ
bản chất của vấn đề, sự kiện và cung cấp cho công chúng những kiến thức
mới nhằm nâng cao thế giới quan và nhân sinh quan. Trong một sự kiện có
những yếu tố làm rõ bản chất của thông tin song cũng có những yếu tố chỉ là
dẫn chứng. Tuy nhiên, với tính cách tò mò, những nhóm nhỏ trong xã hội
luôn hướng tới những yếu tố nhỏ nhặt đó, bởi thông thường những thông tin
không mang bản chất của sự kiện thường dễ bị xuyên tạc, đồn thổi tạo nên sự
giật gân. Trong quá trình thông tin, truyền hình luôn hướng tới các nhóm lớn
trong xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu của họ đồng thời tìm kiếm sự phản hồi.
Thực chất, các nhóm nhỏ trong xã hội là những người mà ngoài nhu cầu biết,
hiểu thông tin họ còn tò mò và thích những điều mang tính chất giật gân về sự kiện trong cách thức thông tin. Điều đó có nghĩa là, khi thoả mãn thông tin
cho nhóm lớn trong xã hội thì nhóm nhỏ cũng được cơ bản thoả mãn nhu cầu
biết, hiểu về nó. Truyền hình với quy định về thời gian, thời lượng phát sóng
bắt buộc phải lựa chọn thông tin và cách thức thông tin sao cho phù hợp tất cả
các thành phần công chúng. Việc hướng các nhóm nhu cầu trong xã hội chấp
nhận thoả mãn thông tin theo một nhóm xã hội nhất định đã thể hiện tính định
hướng thông tin của Đài Truyền hình Việt Nam.
Ví dụ: Trước sự việc đoạn phim sex của Hoàng Thuỳ Linh và bạn trai
được tung lên mạng, truyền hình và các loại hình báo chí đã đưa tin phân tích
rõ bản chất của sự việc cho công chúng khán giả hiểu vấn đề. Nhóm lớn công
chúng trong xã hội đã biết và hiểu về sự việc, nhưng một phần nhóm nhỏ
chưa cảm thấy thoả mãn và họ muốn được xem tận mắt đoạn phim đó, đây là
sự hiếu kỳ và tò mò chứ không phải là nhu cầu thông tin.
28
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Thứ hai, trong đời sống có rất nhiều các thông tin trái chiều nhau hoặc
nó được thổi phồng hay thu hẹp bản chất lại. Trong khi đó, nhận thức của các
nhóm công chúng trong xã hội lại không đồng đều để có thể cùng nhận diện
được tính chất chân thật của sự kiện, sự việc. Khi đó, truyền hình với tư cách
là phương tiện phản ánh hiện thực khách quan phải tìm ra thông tin chính xác
để truyền tải. Việc lựa chọn đúng, đủ thông tin để phản ánh sẽ khiến cho
thông tin đó loại trừ và điều chỉnh các thông tin khác đang trôi nổi. Như vậy,
tất cả các nhóm công chúng sẽ tìm được điểm chung khi đánh giá, tiếp nhận
thông tin. Sự thống nhất nhận thức của công chúng về sự kiện, sự việc là biểu
hiện của tính định hướng, giáo dục.
Thứ ba, báo chí là một bộ phận của cấu trúc xã hội có tác động lớn đến
việc cải tạo xã hội. Truyền hình tham gia tích cực vào việc thông tin, nêu
gương những điều tốt đẹp, phản ánh những tồn tại để giúp công chúng có
hành động phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Khi đó, trong các
chương trình phát sóng có sự tác động tới nhận thức của công chúng về các
giá trị tốt đẹp và họ tự nguyện tin, hành động theo. Như vậy, tính định hướng
qua các chương trình truyền hình tự khắc được xây dựng nên.
Thứ tư, không có báo chí ngoài chính trị, truyền hình là phương tiện
tham gia đắc lực vào các hoạt động chính trị – xã hội như: thông tin về các
chủ trương chính sách của Nhà nước, là phương tiện quảng bá vai trò của các
tổ chức, đoàn thể xã hội. Truyền hình không thể thông tin ngược lại với thể
chế chính trị đang cầm quyền, vì chính thể chế chính trị đó là phương tiện bảo
về quyền lợi cho hoạt động báo chí. Đảng và Nhà nước ta xác định, mọi thông
tin trên báo chí đều phải hướng về quyền lợi chung của nhân dân, những
thông tin làm phương hại đến đời sống nhân dân đều không được báo chí
đăng tải. Lý luận báo chí nước ta đã tổng hợp thành những nguyên tắc trong
29
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
hoạt động báo chí như: Nguyên tắc tính đảng, tính nhân dân, tính khai sáng và
giải trí… Truyền hình tất yếu phải tuân thủ những quy định, nguyên tắc của
hoạt động báo chí bởi những nguyên tắc đó phản ánh tâm lý chung của xã hội.
Thông qua đó, tính chất định hướng của thông tin truyền hình được thể hiện.
Thứ năm, nếu truyền hình muốn phát triển thì tự nó phải chiếm lĩnh
niềm tin của nhân dân. Ví dụ: Chương trình “Chìa khoá Thành công” nêu ra
những khía cạnh, mối quan hệ rất thiết thực về các vấn đề liên quan đến công
việc của các bạn trẻ đang bắt đầu lập nghiệp. Những tiểu phẩm và các tình
huống được những người chơi trong chương trình giải quyết rất thú vị đã gợi
mở cho người xem những bài học về cách hành xử nơi công sở. Đây là một
chương trình đang được giới trẻ mới lập nghiệp rất yêu thích; Hay chương
trình “Người đương thời” nêu gương một anh nông dân trở thành tỉ phú nhờ
trồng khoai lang, chương trình đã mời anh đến nói về kinh nghiệm, các vấn
đề mà anh đã gặp phải, sự thành công… tất cả đều là hiện thực. Chính nhân
vật của chương trình đã trở thành người dạy cho những nông dân khác các kỹ
năng để làm giàu. Thông qua các chương trình này, người xem tin và hành
động theo, - đó chính là biểu hiện của sự định hướng (định hướng khi chọn
nhân vật để thể nêu gương, định hướng về nhận thức con đường lập nghiệp
cho nông dân cũng như các thành phần khác trong xã hội).
Thứ sáu, nhân loại ngày càng văn minh hơn, chính công chúng là
những người đào thải các thông tin kém giá trị về chân, thiện, mỹ. Truyền
hình muốn giữ, mở rộng đối tượng tiếp nhận tất yếu phải quan tâm nghiên
cứu đến những đặc điểm và dự doán thật tốt xu hướng phát triển về tâm lý
tiếp nhận của thời đại để thông tin hiệu quả. Nhiều khi nhu cầu của công
chúng còn đang tiềm ẩn, việc dự đoán đúng các nhu cầu thông tin để đáp ứng
sẽ dễ dàng tác động tới xu thế tiếp nhận của công chúng và ít bị các biểu hiện
30
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
về thị hiếu của công chúng chi phối. Điều này cũng thể hiện tính định hướng
và giáo dục của nhà đài khi thông tin.
Định hướng và giáo dục là điều tất yếu sẽ hình thành trong quá trình
sáng tạo tác phẩm truyền hình cho dù nền truyền hình đó được điều tiết bởi
bất kỳ thể chế chính trị nào. Nó là yếu tố chi phối hoạt động của truyền hình
đồng thời bảo vệ, thúc đẩy sự tồn tại và phát triển của truyền hình trước sự
cạnh tranh mạnh mẽ của các loại hình báo chí. Truyền hình Việt Nam thể hiện
tính định hướng và giáo dục rất rõ nét, thống nhất với quan điểm của Đảng,
Nhà nước. Ở các nước đa đảng cầm quyền, tính định hướng có phần phóng
khoáng hơn trong cách thể hiện. Song, định hướng và giáo dục là tính tất yếu
chung cho truyền hình ở mọi quốc gia. Xin đơn cử ví dụ: Truyền hình Mỹ đa
phần là truyền hình tư nhân, nhà nước không hề can thiệp vào các nội dung
cũng như hình thức thông tin của các đài này. Tuy nhiên, nó vẫn phải chịu sự
đánh giá, nhận xét và yêu cầu của chuẩn mực về các giá trị tốt đẹp của nhân
loại khi thông tin. Cụ thể như: không thể phát sóng bừa bãi các chương trình
sex vào bất kỳ thời điểm nào cho bất kỳ đối tượng nào; không thể đăng tải
những hình ảnh về một kẻ sát nhân bệnh hoạn chém giết đồng loại mà không
có lời bình chỉ trích… Truyền hình là sản phẩm của văn minh nhân loại, tất
yếu nó không thể đăng tải những thông tin làm suy giảm hay phản bác lại nền
văn minh trên mọi khía cạnh của đời sống. Con người – chủ nhân của nền văn
minh sẽ điều khiển truyền hình và truyền hình sẽ phải tuân thủ điều đó. Như
vậy, định hướng và giáo dục trên truyền hình là tất yếu khách quan.
31
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
II. Chương trình truyền hình dành cho thanh thiếu niên
1 Thanh thiếu niên - Nhóm công chúng lớn của truyền hình
1.1 Thanh thiếu niên - họ là ai?
Việt Nam là một quốc có dân số trẻ (giới trẻ chiếm khoảng 60 % tổng
số dân) và đang được đánh giá là nước có nguồn nhân lực hùng hậu. Tuy
nhiên, trong thời đại ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của đời sống xã
hội về mọi mặt, câu hỏi đặt ra cho Việt Nam là: liệu rằng 60% dân số này có
thật sự trở thành nguồn tài nguyên quý giá cho đất nước? Đây là vấn đề mọi
quốc gia trên thế giới đều quan tâm.
Thanh thiếu niên là nhóm dân số lớn trong giới trẻ Việt Nam có độ tuổi
từ 10 cho đến 24. Có thể nói, trong khoảng độ tuổi này, con người ta có rất
nhiều biến động về cả tâm lý và sinh lý. Đây cũng là khoảng thời gian mà con
người tạo dựng những nền tảng quan trọng cho sự trưởng thành của mình. Có
quan điểm nhận định: ở độ tuổi này, con người ta giống như một cái cây, nếu
môi trường sống tốt nó sẽ phát triển mạnh mẽ về nội lực, nếu có sự uốn nắn
nó sẽ tạo lập được vóc dáng hoàn hảo (tất nhiên, sự hoàn hảo tuỳ thuộc vào
quan niệm chung của nhóm đông trong xã hội). Bên cạnh việc chăm lo tốt về
dinh dưỡng, điều kiện sống cho giới trẻ, các thế hệ đi trước rất quan tâm tới
việc định hướng và giáo dục để giới trẻ trở thành những người có ích cho xã
hội.
1.2 Một số đặc điểm của thanh thiếu niên hiện nay.
Dù ở thời kỳ nào, giới trẻ vẫn luôn là những người năng động, nhiệt
huyết, tài năng, sáng tạo, đề cao cái tôi, đòi hỏi cuộc sống phải luôn mới mẻ,
32
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
mạnh mẽ chứ không chấp nhận những khuôn mẫu, sự áp đặt. Họ luôn là
những người phá cách, những người tham gia vào cải tạo xã hội. Trước đây,
giới trẻ khá chủ động trong việc tiếp nhận và lựa chọn thông tin vì các kênh
thông tin còn hạn chế về số lượng cũng như phương tiện truyền tải. Giới trẻ
ngày nay biết nhiều hơn những gì mà giới trẻ cùng độ tuổi của 10 năm về
trước biết vì họ có nhiều kênh tiếp nhận thông tin, và tốc độ chia sẻ thông tin
lại càng lớn bởi có sự tham gia của phương tiện kết nối hữu hiệu là Internet.
Nhờ sự phát triển của khoa học và công nghệ thông tin, những quả cầu thông
tin trở nên phình to ra và vận động không theo một quy luật nào xung quanh
giới trẻ. Cho nên, dù muốn hay không muốn giới trẻ vẫn phải chịu sự va đập
của các luồng tin, họ vừa chủ động tiếp nhận những thông tin mà họ cần, vừa
phải chống đỡ và phân loại các thông tin chạm đến họ để tiếp nhận. Hơn nữa,
nhóm người gần bằng tuổi nhau lại rất dễ có được điểm chung về nhận thức
và sở thích nên họ dễ bị “lây lan” cảm xúc thích hoặc không thích, hưởng ứng
hoặc tẩy chay một điều gì đó. Sự tác động mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hoá
và cuộc cách mạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, thanh thiếu niên
đã có những chuyển biến về tư tưởng và lối sống trên nhiều phương diện như:
Thanh thiếu niên ngày càng năng động và sáng tạo, dám thể hiện bản
thân. Giới trẻ tham gia nhiều hơn vào các hoạt động xã hội, sớm khẳng định
vai trò, vị trí trong đời sống và nhận được sự quan tâm nhiều hơn của đảng,
nhà nước. Thế hệ trẻ Việt Nam tham gia các cuộc thi tài năng quốc tế đều
dành được các giải thưởng cao như: Toán học, vật lý học, chế tạo robôcon…
Giới trẻ ngày nay chủ động hơn trong việc tự nghiên cứu tìm tòi tri
thức, lĩnh hội tri thức và lựa chọn con đường lập nghiệp cho bản thân. Thái độ
và ý thức lập thân, lập nghiệp được thể hiện rất rõ ngay cả khi thanh thiếu
niên chưa xây dựng gia đình riêng. Nhiều bạn trẻ đã lập nghiệp theo cách của
họ. Khái niệm tỉ phú nông dân đã không còn xa lạ như: Anh Nguyễn Văn
33
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Hiển, sinh năm 1973 ở Giao Xuân – Huyện giao Thuỷ – Nam Định là tỉ phú
nhờ nuôi con Ngao; Anh Nguyễn Văn Pho, 33 tuổi là tỉ phú nhờ nuôi Tôm tại
xã Vĩnh Thông, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang; anh Trần Nam Trung,
sinh năm 1981 tại Quỳ Châu – Nghệ An đã trở thành tỉ phú nhờ việc nghiên
cứu khai thác khoáng sản... Chính điều này đã thay đổi cách nhìn nhận của
các thế hệ đi trước đối với giới trẻ về độ tuổi lập nghiệp, con đường lập
nghiệp. Họ đã chứng minh rằng vào đại học, cao đẳng không phải là con
đường duy nhất dẫn đến thành công. Bạn Lại Văn Ngọc, sinh năm 1987 –
Giám đốc công ty đầu tư ứng dụng và phát triển công nghệ NSE tại Hà Nội…
Rất nhiều tấm gương trẻ tuổi lập nghiệp thành công đã được truyền hình đăng
tải trong những năm qua.
Những tác động tích cực nêu trên đã góp phần nâng cao tâm thế, năng
lực hội nhập quốc tế của thế hệ trẻ Việt Nam. Tuy nhiên, CNH – HĐH cũng
tạo ra nhiều khó khăn, thách thức đối với thanh thiếu niên.
Với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, tốc độ tiếp xúc
với thế giới bên ngoài của giới trẻ ngày càng nhanh, sự biến đổi về tâm sinh
lý của họ càng diễn biến phức tạp. Vì vậy, khi không đủ tri thức, bản lĩnh họ
rất dễ rơi vào sự thái quá trong suy nghĩ và hành động dẫn đến trái ngược với
chuẩn mực của xã hội đương đại.
Đồng thời, sức ép của cơ chế kinh tế tri thức khiến cho nhiều bạn trẻ
thất nghiệp; thực trạng sức khoẻ của thanh thiếu niên Việt Nam chưa cao so
với thế giới và khu vực; trình độ ngoại ngữ và trình độ quản lý còn hạn chế;
nhiều luồng thông tin trái chiều về các mặt của đời sống do công nghệ thông
tin tạo ra đã và đang chi phối bản lĩnh chính trị của các bạn trẻ… Không vượt
qua được thách thức, khó khăn trên, một bộ phận các bạn trẻ có biểu hiện suy
thoái về phẩm chất đạo đức và năng lực hành động.
34
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Bên cạnh đó, diễn biến đời sống chính trị diễn ra rất phức tạp, các thế
lực thù địch luôn nhằm vào đối tượng thanh thiếu niên để lôi kéo và tiêm
nhiễm những tư tưởng phản động. Điều này đã tạo ra những hệ quả tiêu cực
cho đời sống thanh thiếu niên nước ta:
Thời nay, nhiều bạn trẻ tỏ ra thờ ơ với thời cuộc, có lối sống thực dụng,
thích hưởng thụ. Điều kiện kinh tế xã hội phát triển, nhiều gia đình xây dựng
nền tảng kinh tế vững chắc đã dành toàn bộ sự ưu ái cho con cái về mọi mặt.
Điều này đã gây ra những thói quen không tốt cho một số bộ phận giới trẻ. Họ
trở thành những người chỉ quen hưởng thụ mà không tính tới việc phải xây
dựng cơ đồ riêng của bản thân; họ ngại khó, ngại khổ trước mọi hoàn cảnh; họ
quan tâm và tìm kiếm các trò tiêu khiển và lôi kéo bạn bè tham gia… Điều
này góp phần làm tăng tỉ lệ giới trẻ mắc phải các tệ nạn xã hội trong thời gian
qua.
Không những thế, nhiều bạn trẻ đã, đang thể hiện cái nhìn lệch lạc về
xã hội, chế độ và quên quá khứ. Thực tế, đã có những bạn trẻ không hiểu hết
ý nghĩa của chế độ xã hội chủ nghĩa và bản chất của nền kinh tế thị trường
nước nhà nên có ý kiến và phản ứng tiêu cực với thời cuộc. Các thế lực thù
địch thường chủ động lôi kéo, tuyên truyền tư tưởng phản động cho nhóm các
bạn trẻ này.
Hội nhập là xu hướng tất yếu, song để hội nhập mà không hoà tan cần
có sự chuẩn bị vững vàng về tư tưởng và bản lĩnh chính trị. Hơn lúc nào hết,
giới trẻ cần có sự định hướng và cần được cung cấp những phương tiện kiến
thức để đứng vững giữa các quả cầu thông tin đang ngày một phình to ra và
các quả cầu thông tin mới sẽ hình thành trong tương lai không xa.
Như vậy, khi nhận định về thanh thiếu niên, xã hội cần phải tạo ra một
lăng kính phù hợp về các thông số cần thiết (ví dụ: sự kiên trì, thái độ thông
35
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
hiểu, sự hoà đồng, tuyệt đối không áp đặt …). Nếu xã hội cứ khăng khăng
mang những chuẩn mực của nhiều năm trước để so sánh, và nhận xét về thanh
thiếu niên thời nay, chắc hẳn sẽ tạo ra sự phản ứng bất hợp tác của giới trẻ.
Điều đó gây ra những khó khăn lớn cho quá trình định hướng và giáo dục
thanh thiếu niên.
Ông Trần Đăng Tuấn – Phó Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam
đã nhận định về giới trẻ trong buổi ra mắt VTV6: “Giới trẻ ngày nay phức
tạp, điều đó quả đúng! Nhưng các bạn cứ thử tiếp xúc nhiều với họ, đưa cho
họ một vấn đề cụ thể để góp ý và bàn luận, chắc chắn bạn sẽ nhận sự nghiêm
túc trong từng lời nói của họ”. Lời của Ông Trần Đăng Tuấn rất có ý nghĩa:
Chúng ta không nên áp đặt mà nên cùng với giới trẻ tìm ra cách thức để giúp
họ tự định hướng cho chính mình trong cuộc sống. Thực nghiệm là cách thức
vô cùng hiệu quả đối với giới trẻ, bởi họ là những người thích khám phá,
thích thử sức và không thích lý luận dài dòng, phức tạp.
Đây là nhận định đúng đắn của người lãnh đạo ngành truyền hình, nhờ
đó mà các chương trình truyền hình dành cho giới trẻ trên tất cả các kênh hiện
có đã và đang được họ đón nhận hào hứng. Kênh truyền hình dành cho thanh
thiếu niên sẽ phải hết sức lưu ý tới nội dung này, đồng thời phải thường xuyên
cập nhật thông tin về giới trẻ, luôn quan tâm trả lời xem họ là ai?
1.3 Thanh thiếu niên và truyền hình
Truyền hình và thanh thiếu niên đang ngày một rút ngắn khoảng cách
để gần gũi hơn trên nhiều phương diện. Truyền hình không chỉ đóng vai trò là
nguồn cung cấp các thông tin chính, giải trí mà nó đã và đang dần trở thành
một người bạn tâm tình, một người hướng dẫn giới trẻ trong suy nghĩ và hành
động, một tấm gương phản chiếu đời sống của chính thanh thiếu niên… Đồng
36
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
thời, với truyền hình, công chúng trẻ tuổi là thành phần khán giả đang có
những đóng góp lớn đối với ngành truyền hình. Họ là những người đề xuất đề
tài, chủ đề cho truyền hình; họ thẩm định các chương trình truyền hình và
tham gia vào quy trình sản xuất các chương trình truyền hình.
Truyền hình và thanh thiếu niên có mối quan hệ tác động qua lại một
cách chặt chẽ, công chúng trẻ tuổi mong muốn được xem truyền hình nhằm
thoả mãn những nhu cầu thông tin theo mục đích cá nhân, truyền hình tồn tại
và phát triển nhờ có các nhóm công chúng trong đó có thanh thiếu niên. Có
thể nói, đó là mối quan hệ biện chứng giữa truyền hình và khán giả trẻ tuổi
hay đó là điều kiện cần và đủ cho việc xây dựng và phát triển kênh truyền
hình dành cho giới trẻ.
Trong bài báo “Truyền hình Việt Nam trước áp lực công chúng đa nhu
cầu, đa thị hiếu” đăng trên Người làm báo số 4 (295) tháng 9 năm 2008, Ông
Trần Đăng Tuấn – Phó Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam đã nhận định:
Truyền hình phải đáp ứng được các nhu cầu xã hội, văn hoá, giáo dục, giải trí
lành mạnh của nhiều bộ phận công chúng. Các nhu cầu đó có nền tảng chung:
hướng tới cái bổ ích, cái đẹp, cái thiện. Tuy vậy thang bậc, gam sắc nhu cầu,
thị hiếu của từng tầng lớp, bộ phận, nhóm công chúng xem truyền hình rất
khác nhau. Không loại trừ có các xung khắc thị hiếu và nhu cầu. Một chương
trình giải trí có thể bộ phận này, lứa tuổi này thích thú nhưng bộ phận khác,
lứa tuổi khác thấy không phù hợp.
Thanh thiếu niên là nhóm công chúng có nhu cầu tiếp nhận các thông
tin trên truyền hình rất khác biệt về nội dung và cách thức thông tin, thời điểm
tiếp nhận thông tin so với các nhóm công chúng khác. Thanh thiếu niên cũng
là những thành phần có nhận thức về nhu cầu và thị hiếu chưa hoàn chỉnh, vì
37
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
vậy định hướng về nhu cầu cho công chúng trẻ cũng là việc cần làm đối với
nhà đài. Cụ thể:
Về mặt nội dung thông tin, thanh thiếu niên vẫn mong muốn hiểu biết
các thông tin về chính trị – xã hội – văn hoá - kinh tế song cách thức truyền
tải thông tin phải trẻ trung, hấp dẫn và tuân theo phương thức tư duy của giới
trẻ. (giới trẻ thích những thông tin có đặc điểm: mới, lạ, đi thẳng vào vấn đề,
tiết tấu nhanh, sinh động, không theo bất kỳ khuôn mẫu nào…). Thanh thiếu
niên gồm những đối tượng đang chuyển giao rất mạnh mẽ về tâm sinh lý, đây
là giai đoạn họ đang tập trung thời gian để học tập, yêu thương người khác
phái và chuẩn bị hành trang cần thiết cho cuộc sống tương lai. Vì vậy, ngoài
những thông tin cơ bản trên, thanh thiếu niên còn mong muốn được xem
nhiều chương trình đề cập tới các vấn đề như: lập nghiệp, cơ hội thành đạt,
tình yêu, tình dục, làm đẹp…
Về mặt hình thức, giới trẻ không thích những chương trình mang tính
chính luận cao hoặc những chương trình quá khuôn mẫu về thể loại tác phẩm,
họ hướng tới những chương trình mang tính phiếm luận, trẻ trung, thích được
tranh luận và yêu thích sự tương tác trực tiếp với chương trình nhằm thể hiện
quan điểm, nhận định về nội dung thông tin được nhà đài truyền tải.
Về thời điểm thông tin, độ tuổi từ 10 đến 24 chủ yếu là học sinh và
sinh viên nên họ phải đến lớp học vào ban ngày, thời gian rảnh rỗi thì họ dành
cho việc giao lưu, giải trí, yêu đương. Chính vì vậy, thời điểm thông tin trên
truyền hình để hấp dẫn thanh thiếu niên gặp nhiều khó khăn. Đây là vấn đề
cần phải nghiên cứu rất kỹ đối với nhà đài khi dự tính xây dựng kênh truyền
hình dành cho giới trẻ. Hiện tại, những chương trình truyền hình dành cho
giới trẻ đang phát sóng nhiều vào khoảng sau 8 giờ tối và các ngày thứ bảy,
chủ nhật. Bên cạnh vấn đề thời điểm tiếp nhận, điều kiện tiếp nhận của thanh
38
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
thiếu niên với truyền hình cũng là một vấn đề khá quan trọng ảnh hưởng đến
nhu cầu tiếp nhận thông tin của nhóm công chúng này. Trong độ tuổi từ 10
đến 24, lực lượng học sinh - sinh viên đang theo học các trường chuyên
nghiệp chiếm tỉ lệ khá đông (đây là nhóm công chúng từ 18 đến 24 tuổi),
phần đa trong số họ đang sống xa nhà ít có điều kiện trang bị cho riêng mình
một chiếc vô tuyến. Vấn đề đặt ra ở đây là, mặc dù những cá nhân này rất
muốn xem truyền hình nhưng lại không có phương tiện để theo dõi, khi đó họ
bắt buộc phải tìm kiếm một phương tiện tiếp nhận thông tin khác như: báo in,
sách, phát thanh. Đây là vấn đề cần có sự phối hợp của các cấp bộ ngành
trong cả nước tham gia khắc phục để khán giả trẻ có điều kiện thuận lợi
hưởng thụ quyền lợi chính đáng từ các thông tin trên trưyền hình.
Việc nhận định rõ mối quan hệ và bản chất về nhu cầu xem truyền
hình của công chúng trẻ sẽ giúp cho người sản xuất chương trình truyền hình
phát huy được những thế mạnh và hạn chế những vấn đề nảy sinh không theo
ý muốn.
2 Truyền hình dành cho thanh thiếu niên
2.1 Chương trình truyền hình dành cho thanh thiếu niên
2.1.1 Chương trình truyền hình
Chương trình truyền hình là sự liên kết, sắp xếp bố trí hợp lý các tin
bài, bảng tư liệu, hình ảnh, âm thanh… trong một thời gian nhất định, được
mở đầu bằng lời giới thiệu, nhạc hiệu, kết thúc bằng lời chào tạm biệt, đáp
ứng yêu cầu tuyên truyền của cơ quan báo chí truyền hình nhằm mang lại hiệu
quả tiếp nhận thông tin cao nhất cho khán giả.
39
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Chương trình truyền hình được phân bổ theo các kênh chương trình,
được thể hiện bằng những nội dung cụ thể qua tin, bài, tác phẩm truyền hình.
Các chương trình truyền hình được quy định rõ ràng về thời gian và thời
lượng phát sóng với nhạc hiệu riêng nhằm thu hút, đồng thời nhắc nhở công
chúng theo dõi.
2.1.2 Chương trình truyền hình dành cho thanh thiếu niên
Chương trình truyền hình dành cho thanh thiếu niên là những tác
phẩm truyền hình có nội dung và hình thức thông tin sinh động, hấp dẫn,
thông tin ngắn gọn. Các chương trình vẫn đảm bảo thông tin đầy đủ về kinh tế
– chính trị – văn hoá - xã hội… mang tính trẻ trung phù hợp với nhận thức và
sở thích của giới trẻ.
Ví dụ: Chương trình Hành khách cuối cùng, Rung chuông vàng,
Đường lên đỉnh olimpia phát trên sóng VTV3; Robocon phát trên sóng
VTV2…
Với những chương trình này, công chúng trẻ tuổi chiếm tỉ lệ lớn hơn
so với các chương trình khác vì nhiều lý do: nội dung chương trình hấp dẫn,
những thông điệp của chương trình gắn liền với mối quan tâm của giới trẻ,
cách thức thể hiện luôn sinh động, hấp dẫn, những đối tượng mà chương trình
đề cập tới trong chương trình là các thanh thiếu niên – những người gần như
ngang bằng với người xem trẻ tuổi về nhiều mặt; và, giới trẻ bị cuốn hút hơn
khi họ được trực tiếp tham gia vào chương trình…
Hiện nay, các chương trình truyền hình dành cho thanh thiếu niên
đang nằm xen kẽ trong các kênh truyền hình của Đài truyền hình Việt Nam và
hầu hết được phát sóng định kỳ vào khoảng 8 giờ 30 tối các ngày trong tuần. 40 Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Khán giả trẻ rất quan tâm theo dõi các chương trình này và luôn có sự giao
lưu, phản hồi với nhà đài về chất lượng các chương trình. Các kênh truyền
hình luôn cố gắng thoả mãn các khán giả trẻ để nâng cao uy tín của nó, tạo lập
làn sóng dư luận lan toả sang các nhóm công chúng khác. Các chương trình
này sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh của các chương trình nằm trong kênh
truyền hình của thanh thiếu niên về đối tượng khán giả trẻ. Giới trẻ là người
được hưởng lợi từ sự cạnh tranh này.
2.2 Kênh truyền hình dành cho thanh thiếu niên
2.2.1 Kênh truyền hình
Ở Nga thuật ngữ “kênh” được xuất hiện vào những năm 1980, các
chương trình tạp chí truyền hình có thời gian và dung lượng dài bắt đầu được
gọi là các kênh truyền hình. Đặc điểm của kênh truyền hình được xây dựng:
đây là chương trình truyền hình mang tính chất “hợp tuyển” có thời lượng kéo
dài, trong đó đôi khi bao gồm những buổi truyền hình hoàn toàn độc lập
(những bộ phận hợp thành). Tuy nhiên, có thể nhận thấy sự thống nhất trong
kênh truyền hình về các mặt như: địa bàn – khu vực, hoặc về chủ đề.
Hiện nay, kênh truyền hình đã trở nên khá phổ biến và được dùng để
nói đến sự tập hợp của nhiều chương trình có nội dung thống nhất về một khía
cạnh nào đó của thông tin. Ví dụ: VTV1 là kênh thời sự - chính trị tổng hợp;
VTV2 là kênh khoa học và giáo dục; VTV3 là kênh văn hoá - giải trí; VTV4
là kênh truyền hình tổng hợp các thông tin dành cho người Việt Nam ở nước
ngoài; VTV5 là kênh truyền hình tổng hợp các thông tin phát bằng tiếng dân
tộc dành cho đồng bào thiểu số… Chính sự thống nhất này giúp cho thông tin
41
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
trên truyền hình có sự hệ thống, sâu sắc và công chúng chủ động trong việc
tiếp nhận thông tin.
2.2.2 Kênh truyền hình dành cho thanh thiếu niên
Kênh truyền hình dành cho thanh thiếu niên là một hợp tuyển các
chương trình truyền hình đơn lẻ có nội dung và hình thức thông tin dành cho
thanh thiếu niên và phù hợp với tâm lý tiếp nhận của công chúng trẻ tuổi. Ví
dụ như: kênh truyền hình dành cho người dân tộc thiểu số (VTV5) là tập hợp
những chương trình nói về đời sống, văn hoá, kinh tế … của đồng bào dân tộc
trên khắp cả nước được thực hiện bằng tiếng dân tộc.
Kênh truyền hình dành cho thanh thiếu niên là kênh hướng tới nhóm
công chúng có độ tuổi từ 10 đến 24, đồng thời mở rộng hơn tới những người
trẻ tuổi từ 25 đến 35, thậm chí cả các bậc phụ huynh có con em đang trong độ
tuổi thanh thiếu niên (họ xem để biết, hiểu con em mình muốn gì, nghĩ gì và
làm gì).
Đối tượng thanh - thiếu niên Việt Nam chiếm khoảng 60% dân số –
là nguồn tài nguyên nhân lực nắm giữ tương lai của Việt Nam, đang là đối
tượng quan tâm của nhiều cơ quan truyền thông với nhiều mục đích khác
nhau (như VTC, BBC Tiếng Việt… đã thành lập kênh riêng dành cho giới
trẻ).
Việc xây dựng kênh truyền hình dành cho thanh thiếu niên đã được Đài
truyền hình Việt Nam dự kiến từ lâu nhằm xây dựng một kênh truyền hình
riêng biệt với mục đích:
Đây là kênh giáo dục, giải trí dành cho đối tượng thanh - thiếu niên. Là
tiếng nói chính thức của Đài Truyền hình Việt Nam về các vấn đề của giới trẻ
và là diễn đàn giành cho giới trẻ toàn quốc. Nhiệm vụ của kênh là hướng dẫn,
42
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
định hướng giáo dục thế hệ trẻ Việt Nam, những người sẽ xây dựng tương lai
của đất nước. Bên cạnh đó, các chương trình đơn lẻ sẽ lần lượt: cung cấp
thông tin bổ ích cho giới trẻ về khoa học, văn hoá, giáo dục, kinh tế, công
nghệ, giải trí; giáo dục nhân cách, lý tưởng sống, tình yêu quê hương đất
nước...
Việc xây dựng kênh truyền hình dành cho giới trẻ là để tạo ra một diễn
đàn xã hội với sự tham gia của đông đảo người xem nhằm thay đổi tích cực
nhận thức hành vi và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam; phản ánh những suy
nghĩ, tâm huyết, vấn đề của giới trẻ để nhà trường, xã hội và gia đình để từ đó
có sự nắm bắt, hỗ trợ kịp thời.
Trên cơ sở đó, kênh truyền hình dành cho giới trẻ đã nhận được sự
hưởng ứng mạnh mẽ từ thanh thiếu niên, các bậc phụ huynh và các cấp ngành
trong xã hội. Riêng giới trẻ thì háo hức chờ đợi sự ra mắt và thể hiện vai trò
của kênh.
3 Xã hội hoá truyền hình dành cho thanh thiếu niên
Thuật ngữ xã hội hoá thông tin đã và đang được các nhà nghiên cứu và
các nhà tổng kết lý luận thông tin, các cơ quan báo - đài quan tâm, thảo luận.
Lãnh đạo Đài truyền hình Việt Nam đã và đang từng bước xây dựng các kênh
truyền hình mang tính xã hội hoá cao, trong đó VTV6 được coi là một kênh
truyền hình phát huy mạnh mẽ tính chất xã hội hoá. Tuy nhiên, với công
chúng xem truyền hình thì khái niệm về xã hội hoá truyền hình vẫn đang là
một điều mơ hồ, chưa nắm bắt hết bản chất. Thế nào là xã hội hoá thông tin?
Thế nào là xã hội hoá các chương trình truyền hình?
43
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Theo từ điển tiếng Việt, xã hội hoá là biến một cái gì đó “thành tài sản chung của xã hội ”4. Từ đó có thể suy ra rằng, xã hội hoá truyền hình là biến
truyền hình thành của chung toàn xã hội.
Vấn đề đặt ra là, truyền hình là của chung toàn xã hội cụ thể là như thế
nào? Phải chăng, xã hội sẽ tham gia quản lý truyền hình, sản xuất truyền hình,
phê bình truyền hình mà không cần đến nhà Đài như hiện nay?
Lê Nin đã từng nói: “Một tờ báo có thể sống được và trở nên sinh động
khi nào có chừng năm người viết và người biên tập giỏi, nhưng đồng thời phải
có năm trăm, thậm chí năm nghìn cộng tác viên không chuyên nghiệp”. Điều
này không chỉ thể hiện tính phổ quát về thông tin và cách thức thông tin mà
còn thể hiện sự thu hút trí tuệ của toàn xã hội. Từ trước tới giờ, Đài Truyền
hình Việt Nam vẫn thực hiện hình thức cho mượn sóng để các đơn vị phát các
thông tin địa phương hoặc tin tức chuyên ngành đồng thời kết nối hoặc sử
dụng các chương trình của các đài địa phương gửi đến. Đây chính là hoạt
động ban đầu nhằm phát triển xã hội hoá truyền hình.
Theo nhà báo Hữu Thọ: xã hội hoá sản xuất các chương trình truyền
hình là để cho các tổ chức, cá nhân có thể tham gia sản xuất các chương trình
truyền hình nhằm thu hút trí tuệ của toàn xã hội để nâng cao chất lượng
chương trình. Ngoài các chương trình truyền hình do các đơn vị có chuyên
môn và kỹ thuật về truyền hình sản xuất, nhà đài cũng nên lưu ý tới những cá
nhân không chuyên vì đôi khi những hình ảnh mà các “phóng viên” nghiệp dư
quay chộp được lại rất đắt giá. Ví dụ như: hình ảnh toà tháp đôi của Mỹ sụp
đổ trong sự kiện 11/9; hình ảnh sóng thần ập tới ở Ấn Độ và Thái Lan hai
44
êi Từ điển Tiếng Việt - NXB Thanh Niên, tr 1110, năm 2002 Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
năm trước đây đều do những người dân thường ghi lại được và nó đã trở thành những hình ảnh đắt giá đối với các báo, đài 5.
Truyền hình dành cho thanh thiếu niên là một kênh truyền hình rất cần
triển khai theo hình thức xã hội hoá. Nếu đem yêu cầu về tính chuyên nghiệp,
độ chuẩn mực về kỹ thuật và cách thức triển khai thông tin để xây dựng các
tác phẩm truyền hình e rằng nó sẽ làm cho công chúng trẻ tuổi chán nản khi
theo dõi thông tin. Thế hệ nào, tư duy đó. Giới trẻ là những người thường
xuyên thay đổi về nhu cầu bởi họ rất nhạy cảm với cái mới. Đặc biệt hơn,
thanh thiếu niên là những người áp dụng cái mới một cách nhanh chóng, sáng
tạo. Chính vì thế, truyền hình muốn hấp dẫn công chúng trẻ phải phù hợp và
hấp dẫn. Không có gì thú vị và hấp dẫn thanh thiếu niên hơn việc chính họ
trực tiếp tham gia sản xuất chương trình truyền hình, thể hiện ý tưởng với
những người sản xuất. Nhờ đó, thông tin được nhìn nhận và phản ánh qua
lăng kính của người trẻ, được sắp xếp và thể hiện theo phong cách tư duy trẻ.
Điều cần bàn tới là tính chuyên nghiệp thường ít đi liền với sự trẻ trung, bởi
càng chuyên nghiệp thì các nhà báo và phóng viên càng đề cao chuẩn mực
(đặc biệt là về kỹ thuật và hàm lượng nội dung thông tin). Nếu đem tư duy
này để sản xuất tác phẩm cho giới trẻ thì hiệu quả hấp dẫn họ không cao. Như
vậy, xã hội hoá truyền hình bằng cách cho giới trẻ tham gia thể hiện ý tưởng
và sản xuất chương trình truyền hình sẽ rất có hiệu quả khi truyền tải thông
tin.
5 Hữu Thọ: Mấy ý kiến về xã hội hoá các chương trình truyền hình. Tạp chí Truyền hình kỳ II, tháng 1/2008 45 Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
TIỂU KẾT
Hiện tại, Truyền hình là loại hình báo chí có sự ảnh hưởng lớn đến đời
sống xã hội trong việc tạo dựng và điều chỉnh dư luận, góp phần thúc đẩy quá
trình nhận thức, hành vi của con người. Điều kiện sống của con người đang
từng bước thay đổi theo chiều hướng tích cực, nhờ đó mà truyền hình cũng
phát triển theo. Các thành tựu về khoa học kỹ thuật, công nghệ đang tạo đà
cho truyền hình có sức cạnh tranh mạnh mẽ với báo mạng điện tử – một loại
hình báo chí đang phát triển nhanh chóng và thu hút đông đảo công chúng.
Khán giả trẻ tuổi đang dần dần cảm thấy hứng thú với báo chí trên
mạng Internet và có sự so sánh với truyền hình. Tuy nhiên, chúng tôi tin rằng,
trong vòng nửa đầu của thế kỷ XXI, truyền hình vẫn chiếm vị trí số 1 về số
lượng công chúng khán giả. Đặc biệt, với sự ra đời của VTV6, khán giả trẻ sẽ
bị cuốn hút vào kênh truyền hình của riêng họ. Tuy nhiên, để thu hút khán gia
trẻ không phải dễ, bởi đây là nhóm công chúng đa thị hiếu, đa nhu cầu đồng
thời thường xuyên thay đổi thị hiếu và nhu cầu theo thời gian. Vấn đề đặt ra
cho nhà Đài khá phức tạp, bởi đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu của giới trẻ
theo giai đoạn đã khó, làm sao để định hướng và giáo dục cho họ trên truyền
hình mà vẫn cuốn hút họ là việc tương đối nan giải. Muốn làm được điều này,
nhà đài cần thường xuyên có các cuộc điều tra xã hội học về nhu cầu và tâm
lý công chúng trẻ. Tác giả thiết nghĩ, xã hội hoá các chương trình truyền hình
dành cho công chúng trẻ là chủ trương rất thích hợp để xây dựng và phát triển
truyền hình dành cho thanh thiếu niên. Trong trường hợp này, nhà đài sẽ đóng
vai trò là người cầm trịch hay trọng tài điều khiển luật, công chúng trẻ sẽ là
các cầu thủ tham gia sáng tạo các sản phẩm. Sẽ hiệu quả hơn khi giới trẻ tham
gia sáng tạo tác phẩm truyền hình, vì cùng trang lứa họ dễ dàng tìm được
46
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
điểm chung về nhu cầu tiếp nhận. Tất nhiên, cũng giống như các cầu thủ họ
hiểu rằng, tuân thủ luật chơi thì hiệu quả trận đấu sẽ tốt hơn và như vậy tính
định hướng, giáo dục vẫn được đảm bảo trên cơ sở sự chỉ đạo của nhà đài.
Tóm lại, để thực hiện nhiệm vụ định hướng và giáo dục cho giới trẻ
thông qua các chương trình của Đài Truyền hình cần có những đổi mới về cả
cách thức tổ chức lẫn phương pháp sáng tạo tác phẩm. VTV6 ra đời đã và
đang cố gắng tìm tòi những điểm mới để vừa thu hút được công chúng vừa
đảm bảo tốt tính định hướng và giáo dục trong từng chương trình phát sóng.
47
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
CHƯƠNG II
THỰC TIỄN VỀ VIỆC ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIÁO DỤC, ĐÁP
ỨNG NHU CẦU THÔNG TIN CHO GIỚI TRẺ CỦA ĐÀI
TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
I. Một số kênh truyền hình và những thông tin truyền tải
1. Kênh VTV1
VTV1 là kênh thời sự chính trị tổng hợp, chính thức được phát sóng
vào ngày 7 tháng 9 năm 1970. Đến nay, VTV1 phát sóng với thời lượng 18.5
giờ/ ngày. Về hàm lượng thông tin: một phần thông tin dành cho giải trí, một
phần là các thông tin chính trị, thời sự hướng tới mọi đối tượng trong xã hội.
Các chương trình của VTV1 tập trung theo các chủ đề chính sau:
Thời sự
Kinh tế, công nghệ thông tin, thị trường, giá cả, văn bản, pháp luật
Phim truyện
Chương trình cho thiếu nhi (ca nhạc, phim hoạt hình)
Văn hoá nghệ thuật: ca nhạc, văn học, thơ ca…
2. Kênh VTV2
Đây là kênh khoa học, giáo dục nhằm vào đối tượng học sinh, sinh viên
và cải thiện giáo dục cộng đồng. Nội dung chương trình tập trung vào các chủ
đề khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và thông tin phát minh công nghệ.
VTV2 đang phát triền hệ thống giáo dục từ xa cho các cấp đại học và các
ngành nghề cụ thể. Bên cạnh đó, VTV2 được xây dựng theo tinh thần của
48
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ 2 (khoá VIII): tạo cơ hội cho những người
không có điều kiện học tập ở trường lớp chính quy, đưa kiến thức đến vùng
sâu vùng xa, đến với người nghèo. Khán giả xem VTV2 là những người có
mục đích học tập, tham khảo và nâng cao tri thức rất rõ ràng. Và VTV2 cũng
hướng tới quảng đại quần chúng thuộc mọi lứa tuổi.
VTV2 phát sóng chính thức vào ngày 1 tháng 1 năm 1990.
Thời lượng phát sóng: 18 giờ/ngày
Các chương trình của VTV2:
Dạy ngoại ngữ Khoa học và cuộc sống
Phim khoa học Công nghệ
Sức khoẻ cho mọi người Thiếu nhi
Kiến thức văn hoá Robocon
Dân số và phát triển Nhịp cầu VTV2
Bạn nhà nông
3. Kênh VTV3
Là kênh giải trí và thông tin kinh tế. Đây là kênh truyền hình đang
được ưa chuộng tại Việt Nam với các thể loại chương trình phong phú, chất
lượng cao nhằm phục vụ nhu cầu giải trí của khán giả thuộc mọi thành phần
và lứa tuổi, từ các giải bóng đá quốc tế cho những người hâm mộ bóng đá
cho tới các cuộc thi kiến thức cho các tầng lớp sinh viên và những người lớn
tuổi, hay các cuộc thi về kỹ năng công việc gia đình cho các bà nội trợ …
Kênh truyền hình này góp phần lớn vào việc tăng doanh thu cho Đài Truyền
hình Việt Nam từ các nguồn quảng cáo.
Ngày phát sóng chính thức: 31 tháng 3 năm 1996
49
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Thời lượng: 24 giờ/ ngày.
Các chương trình phát trên sóng VTV3:
Phim truyện Rung chuông vàng
Với khán giả VTV3 Văn hoá - thể thao – quân
Thể thao đội
Ca nhạc Văn hoá - sự kiện và nhân
Thời trang và cuộc sống vật
Danh nhân đất Việt Chắp cánh thương hiệu
Trò trơi âm nhạc
Chiếc nón kỳ diệu Đường lên đỉnh olympia 360o thể thao
Đấu trường 100 Tam sao thất bản
Ai là triệu phú Vui – khoẻ – có ích
Hãy chọn giá đúng Thử thách nhân đôi
Góc thiếu nhi Điện ảnh chiều thứ 7
Chúng tôi là chiến sĩ Tuổi đời mênh mông
Sao mai điểm hẹn Nhà đầu tư tài ba
Ở nhà chủ nhật Đấu trí
4. Kênh VTV4
Kênh truyền hình đặc biệt dành cho người Việt Nam tại nước ngoài. Nội
dung kênh này gồm các nội dung về tin tức, thời sự trong nước; các chương trình
thiếu nhi; Việt Nam - đất nước – con người; các chương trình du lịch, văn hoá.
Kênh được phát sóng bằng Tiếng Việt và Tiếng Anh hoặc có phụ đề tiếng Anh.
Kênh VTV4 được chính thức phát sóng vào ngày 27 tháng 4 năm 2000.
Trước đó vài năm, VTV4 được phát sóng tại Châu Á, Châu Âu, với băng tần C và
KU.
Đến nay kênh phát sóng với thời lượng: 24 giờ/ ngày
50
Trịnh Thị Thu Nga Lớp cao học Báo chí K9
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
5. Kênh VTV5
Kênh truyền hình dành riêng cho người dân tộc thiểu số và được phát bằng
ngôn ngữ của họ. Trên lãnh thổ Việt Nam có hơn 50 dân tộc thiểu số đang sinh
sống ở miền núi, vùng sâu vùng xa. Đây được coi là kênh truyền hình có vai trò
kết nối hiệu quả với đồng bào dân tộc thiểu số, giúp Đảng và nhà nước nắm bắt và
định hướng tư tưởng, hành động của đồng bào.
Kênh truyền tải các chương trình thời sự và khoa học – giáo dục, chương
trình văn hoá, văn nghệ được thực hiện trực tiếp bằng tiếng dân tộc, phụ đề tiếng
Việt và có nhiều kênh ngôn ngữ khác nhau để đồng bào lựa chọn. Các chương
trình phát trên kênh bao gồm thông tin thời sự, kinh tế, chính trị trong nước; các
vấn đề nổi cộm của đồng bào dân tộc trong điều kiện mới; các chương trình giải
trí (ca nhạc, phim)… Thông qua đó, truyền hình góp phần rút ngắn khoảng cách
về thông tin, tri thức, tốc độ phát triển giữa miền núi và đồng bằng, giữa đồng bào
dân tộc nói chung và đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng với nhân dân đồng bằng.
Văn kiện Đại hội đảng IX đã chỉ rõ: “Đến năm 2010 hoàn thành cơ bản việc phổ
cập các phương tiện phát thanh, truyền hình đến mỗi gia đình… Thực hiện các
chương trình tiếng nói, chữ viết dân tộc qua sách báo và phát thanh, truyền hình”.
Kênh được phát sóng chính thức ngày 10 tháng 2 năm 2000.
Thời lượng phát sóng hiện nay là 24 giờ/ ngày.
6. Kênh VTV6
Kênh truyền hình dành cho thanh thiếu niên với các chương trình đề cập tới
tất cả các mặt của đời sống xã hội theo phong cách trẻ, và gần với mối quan tâm
của họ. VTV6 được phát sóng thử nghiệm trên DTH và Cable tư ngày 29 tháng 4
năm 2007.
7. Kênh VTV9
Kênh truyền hình chủ yếu dành cho nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh,
Đông Nam Bộ và Bắc Sông Hậu. Kênh được phát sóng chính thức vào ngày 8
tháng 10 năm 2007.
51
Luận văn thạc sĩ Báo chí học Các kênh truyền hình này đang được công chúng rất yêu thích, nó thực sự
thể hiện vai trò quan trọng của truyền hình với đời sống thực tiễn và là cơ quan
ngôn luận của Đảng, cầu nối giữa Đảng với nhân dân và ngược lại.
Trong định hướng và mục tiêu phát triển, Đài truyền hình Việt Nam đã chỉ
rõ: Phải hoàn thiện và tăng thêm các kênh truyền hình, chú trọng và nâng cao chất
lượng, nội dung các kênh, đi vào chiều sâu và toàn diện, đáp ứng nhu cầu về
truyền hình của mọi đối tượng người xem. Trong đó, Đài đề ra mục tiêu cụ thể
STT
Kênh
Thời lượng phát sóng
Nội dung thông tin chủ yếu được
chương
giai đoạn 2006 – 2010
truyền tải
trình
(h/ngày)
như sau:
1 VTV1 18.5 Kªnh ch¬ng tr×nh tæng
hîp
2 VTV2 18 Kªnh ch¬ng tr×nh khoa
häc vµ gi¸o dôc
3 VTV3 24 Kªnh ch¬ng tr×nh v¨n
ho¸, thÓ thao, th«ng
tin, gi¶i trÝ
4 VTV4 24 Kªnh ch¬ng tr×nh dµnh
cho ngêi ViÖt Nam ë
níc ngoµi
5 VTV5 24 Kªnh ch¬ng tr×nh tiÕng
d©n téc
Kªnh thÓ thao 6 VTV6 24
Kªnh ch¬ng tr×nh thanh 7 VTV7 24
thiÕu niªn, d¹y häc trªn
truyÒn h×nh
8 VTV8 12 Kªnh ch¬ng tr×nh d¹y
tiÕng Anh
52
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Theo ®Þnh híng cña §µi truyÒn h×nh ViÖt Nam, viÖc
cho ra m¾t 2 kªnh truyÒn h×nh VTV6 vµ VTV9 lµ sù ph¸t
triÓn vît môc tiªu cña nhµ §µi trong qu¸ tr×nh phôc vô
c«ng chóng. Riªng ®èi víi VTV6, ®©y lµ kªnh nhµ ®µi x¸c
®Þnh sÏ truyÒn t¶i c¸c th«ng tin thÓ thao, nay ®· ®îc
®iÒu chØnh thµnh kªnh truyÒn h×nh dµnh cho thanh thiÕu
niªn, thay thÕ môc tiªu cña kªnh VTV7. §iÒu nµy chøng
tá møc ®é quan t©m cña §µi truyÒn h×nh còng nh c¸c
cÊp, ngµnh trong viÖc ch¨m lo ®êi sèng vËt chÊt vµ tinh
thÇn cho thanh thiÕu niªn ViÖt Nam trong giai ®o¹n míi.
II. Thùc tr¹ng ®¸p øng nhu cÇu xem truyÒn h×nh cho
giíi trÎ trªn sãng §µi truyÒn h×nh ViÖt Nam.
1. Thùc tr¹ng ®¸p øng nhï cÇu xem truyÒn h×nh cho giíi trÎ
Chóng t«i tiÕn hµnh nghiªn cøu t©m lý c«ng chóng
trÎ tuæi víi truyÒn h×nh ®Ó tõ ®ã chØ ra sù cÇn thiÕt
ph¶i x©y dùng kªnh truyÒn h×nh dµnh riªng cho thanh
thiÕu niªn. Th«ng qua kªnh truyÒn h×nh nµy chØ râ môc
tiªu gi¸o dôc vµ ®Þnh híng cho thanh thiÕu cña §µi
TruyÒn h×nh ViÖt Nam.
C«ng viÖc nghiªn cøu vµ kh¶o s¸t ®îc tiÕn hµnh
nh sau:
C¨n cø vµo môc ®Ých cña viÖc nghiªn cøu lµ t×m ra
thùc tiÔn vÒ nhu cÇu tiÕp nhËn ®Ó x¸c ®Þnh néi dung,
c¸ch thøc ®Þnh híng vµ gi¸o dôc cho thanh thiÕu niªn,
chóng t«i ®· thiÕt lËp hÖ thèng c©u hái nh»m nghiªn
cøu:
§Æc ®iÓm ®èi tîng
53
Luận văn thạc sĩ Báo chí học Môc ®Ých xem; mËt ®é xem ch¬ng tr×nh
§¸nh gi¸ cña kh¸n gi¶ vÒ thêi ®iÓm ph¸t sãng, néi
dung c¸c ch¬ng tr×nh
Nh÷ng ý kiÕn gãp ý cña kh¸n gi¶ vÒ c¸c ch¬ng
tr×nh
Sau khi lËp phiÕu hái, chóng t«i tiÕn hµnh chän
mÉu ®Ó ph¸t phiÕu hái. Ph¬ng ph¸p chän mÉu ®îc thùc
hiÖn theo c¸ch lÊy mÉu ®iÓn h×nh. §èi tîng kh¸n gi¶
®îc chän tËp trung vµo 2 thµnh phÇn chÝnh cña nhãm
tuæi thanh thiÕu niªn lµ häc sinh vµ sinh viªn trªn c¸c
®Þa bµn: Hµ Néi (bao gåm Hµ T©y cò), Tuyªn Quang, Phó
Thä, VÜnh Phóc, NghÖ An.
Tæng sè phiÕu ph¸t ra lµ 600 phiÕu, sè phiÕu thu
vÒ lµ 533 phiÕu trong ®ã sè phiÕu hîp lÖ lµ 523 phiÕu
(®¹t 87.16%). Tuy sè phiÕu kh«ng nhiÒu, song ®©y lµ ý
kiÕn cña c¸c b¹n trÎ thuéc rÊt nhiÒu c¸c khu vùc sinh
sèng (n«ng th«n, thµnh thÞ, miÒn nói, ®ång b»ng) vµ tËp
trung chñ yÕu vµ løa tuæi thanh thiÕu niªn (tõ 10 ®Õn
24) nªn chóng t«i nhËn ®Þnh nã cã thÓ ®¹i diÖn cho giíi
trÎ c¶ níc. Ph©n theo løa tuæi: kh¸n gi¶ díi 18 tuæi
(176 phiÕu) chiÕm 33.65 %; tõ 19 ®Õn 24 tuæi (323
phiÕu) chiÕm 53.83%, ngoµi ra chóng t«i cßn híng tíi
mét nhãm c«ng chóng trÎ cã ®é tuæi tõ 25 ®Õn 35 (24
phiÕu) chiÕm 4.59%. §èi tîng chóng t«i híng tíi pháng
vÊn lµ häc sinh sinh viªn vµ mét sè b¹n trÎ trong ®é
tuæi trÎ ®ang tham gia c«ng t¸c t¹i c¸c ngµnh nghÒ, cô
thÓ: Häc sinh chiÕm 28.68%, sinh viªn chiÕm 64.63%;
gi¸o viªn chiÕm 2.1%, c«ng an chiÕm 0.38%, c«ng nh©n
chiÕm 0.38%; phãng viªn chiÕm 0.96%; c¸n bé chiÕm 1.9%;
lao ®éng tù do chiÕm 0.77%; kinh doanh chiÕm 0.19%.
54
Luận văn thạc sĩ Báo chí học Trong qu¸ tr×nh ph©n tÝch sè liÖu thu thËp ®îc,
ngoµi häc sinh vµ sinh viªn (thµnh phÇn c¬ b¶n n»m
trong tuæi thanh thiÕu niªn) chóng t«i gép c¸c ngµnh
nghÒ cßn l¹i thµnh nhãm chung gäi tªn lµ ngµnh nghÒ
kh¸c.
Sau ®©y lµ mét sè kÕt qu¶ mµ chóng t«i thu nhËn
®îc th«ng qua ph¸t phiÕu ®iÒu tra vµ tiÕn hµnh pháng
vÊn s©u mét sè c¸c b¹n trÎ trong ®é tuæi thanh thiÕu
niªn.
KÕt qu¶ cô thÓ ®îc tæng hîp vµo c¸c b¶ng sè liÖu
díi ®©y:
B¶ng 1: MËt ®é xem truyÒn h×nh cña c¸c nhãm c«ng
chóng
Nhãm kh¸n Møc ®é Tæng
gi¶
Thêng xuyªn ThØnh tho¶ng Kh«ng bao
TØ lÖ TØ lÖ % TØ lÖ % giê
% TØ lÖ %
148 Häc sinh 114 33 1
33.93 17.93 33.33
342 Sinh viªn 197 143 2
58.63 77.72 66.67
33 C¸c ngµnh 25 8 0
7.44 4.35 0 nghÒ kh¸c
Tæng 336 184 3 523
100 100 100 100%
(64.24%) (35.18%) (0.57%)
55
KÕt qu¶ b¶ng 1 cho thÊy, truyÒn h×nh lµ lo¹i h×nh Luận văn thạc sĩ Báo chí học
b¸o chÝ thu hót kh¸n gi¶ trÎ tuæi ®Æc biÖt lµ häc sinh
vµ sinh viªn. Møc ®é c«ng chóng trÎ thêng xuyªn xem
truyÒn h×nh lµ rÊt lín (cã 336 phiÕu/523 phiÕu) chiÕm
tØ lÖ 64.24% tØ lÖ phiÕu ®iÒu tra trong ®ã häc sinh
thêng xuyªn xem truyÒn h×nh lµ 33.93% vµ sinh viªn lµ
58.63%; thØnh tho¶ng xem truyÒn h×nh (184 phiÕu/ 523
phiÕu) chiÕm 35.18% trong ®ã sinh viªn chiÕm tØ lÖ
77.72% vµ häc sinh lµ 17.93%; kh«ng bao giê xem truyÒn
h×nh (3 phiÕu/523 phiÕu) chiÕm 0.57%.
Theo c¸c nhµ nghiªn cøu vÒ t©m lý häc b¸o chÝ vµ
t©m lý häc truyÒn th«ng, häc sinh vµ sinh viªn vèn lµ
nh÷ng kh¸n gi¶ rÊt quan t©m ®Õn truyÒn h×nh, yªu thÝch
c¸c ch¬ng tr×nh truyÒn h×nh. C¸c nghiªn cøu còng chØ
ra nguyªn nh©n lµ: hai thµnh phÇn kh¸n gi¶ nµy cã nhiÒu
thêi gian r¶nh ®Ó xem truyÒn h×nh vµ hä Ýt cã nh÷ng mèi
quan t©m chi phèi ®Õn t©m tr¹ng cña hä trong ®êi sèng
thùc nªn hä híng sù quan t©m tíi c¸c th«ng tin trªn
truyÒn h×nh. Tuy nhiªn theo b¶ng 1 con sè kh¸n gi¶
thØnh tho¶ng míi xem truyÒn h×nh còng kh«ng Ýt: häc
sinh chiÕm 17.93% vµ sinh viªn chiÕm 77.72 trong tæng
sè nh÷ng ngêi tr¶ lêi thØnh tho¶ng xem. Chóng t«i quan
t©m tíi con sè nµy v× mong muèn t×m hiÓu nguyªn nh©n hä
kh«ng thêng xuyªn xem, ph¶i ch¨ng c¸c ch¬ng tr×nh
cha hÊp dÉn hä, hay thêi ®iÓm ph¸t sãng kh«ng phï hîp
hay hä kh«ng t×m thÊy c¸i mµ hä cÇn biÕt trªn truyÒn
h×nh?
§Ó lµm râ vÊn ®Ò nµy chóng t«i ®· tiÕn hµnh hái vÒ
môc ®Ých xem truyÒn h×nh cña giíi trÎ vµ thu ®îc kÕt
qu¶ nh sau:
56
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
B¶ng 2: Môc ®Ých xem truyÒn h×nh
Tæng Môc ®Ých Nhãm kh¸n gi¶
Gi¶i trÝ N©ng cao hiÓu Võa gi¶i trÝ
TØ lÖ TØ lÖ % biÕt võa n©ng cao
% TØ lÖ % hiÓu biÕt
TØ lÖ %
148 131 3 Häc sinh 14
41.18 10.71 28.42
342 305 21 Sinh viªn 16
47.06 75 66.16
33 25 4 C¸c ngµnh nghÒ 4
11.76 14.29 5.42 kh¸c
34 28 461 523 Tæng
100 100 100 100%
(6.50%) (5.35%) (88.15%)
B¶ng 2 ®· cho thÊy môc ®Ých xem truyÒn h×nh cña
c¸c nhãm c«ng chóng kh¸n gi¶ lµ rÊt râ rµng. Tæng sè
phiÕu cho r»ng hä xem truyÒn h×nh nh»m môc ®Ých gi¶i
trÝ lµ 34/523 phiÕu, chiÕm tØ lÖ 6.50%; môc ®Ých n©ng
cao hiÓu biÕt lµ 28/523 phiÕu chiÕm 5.35%; Võa gi¶i trÝ
võa n©ng cao hiÓu biÕt lµ 461/523 phiÕu chiÕm 88.15%.
Häc sinh vµ sinh viªn lµ 2 thµnh phÇn híng tíi
nhu cÇu xem truyÒn h×nh ®Ó gi¶i trÝ rÊt cao trong ®ã,
häc sinh chiÕm 41,18% vµ sinh viªn chiÕm 47.06% tØ lÖ
kh¸n gi¶ xem truyÒn h×nh ®Ó gi¶i trÝ. Bªn c¹nh ®ã, lùc
lîng sinh viªn xem truyÒn h×nh ®Ó n©ng cao hiÓu biÕt
57
Luận văn thạc sĩ Báo chí học hoÆc võa gi¶i trÝ võa n©ng cao hiÓu biÕt lµ rÊt lín
chiÕm 66.16 % sè kh¸n gi¶ lùa chän ph¬ng ¸n nµy. C¸c
con sè ®· chøng tá thanh thiÕu niªn häc hái ®îc nhiÒu
®iÒu tõ c¸c ch¬ng tr×nh truyÒn h×nh vµ hä híng tíi
nh÷ng ch¬ng tr×nh cã tÝnh gi¸o dôc cao. §ång thêi, qua
®©y còng chØ cho nhµ ®µi thÊy r»ng, muèn thu hót kh¸n
gi¶ trÎ cÇn ph¶i kÕt hîp hµi hoµ yÕu tè gi¶i trÝ vµ bæ
sung kiÕn thøc vÒ mäi mÆt cña ®êi sèng cho hä.
B¶ng 3: Kªnh truyÒn h×nh giíi trÎ yªu thÝch nhÊt
hiÖn nay (Kh¶o s¸t qua 3 kªnh VTV1, VTV2, VTV3)
Tæng Nhãm kh¸n gi¶ Kªnh
TØ lÖ % VTV1 VTV2 VTV3
TØ lÖ % TØ lÖ % TØ lÖ %
22 Häc sinh 3 123 148
100 2.03 14.86 83.11
342 41 Sinh viªn 43 258
12.57 11.99 75.44 100
33 C¸c ngµnh nghÒ 11 3 19
100 kh¸c 33.33 9.09 57.58
Tæng 57 66 523 400
100 (10.90%) (12.62%) (76.48%)
VTV3 ®ang lµ kªnh truyÒn h×nh thu hót giíi trÎ
ViÖt Nam h¬n c¶, 400/523 phiÕu tr¶ lêi thÝch xem VTV3,
chiÕm 76.48%. PhÇn lín thanh thiÕu niªn tr¶ lêi phiÕu
®Òu cho r»ng ®©y lµ mét kªnh rÊt hÊp dÉn, phï hîp víi
giíi trÎ, hä võa ®îc gi¶i trÝ võa häc hái ®îc nhiÒu
®iÒu, cô thÓ nh:
58
Luận văn thạc sĩ Báo chí học §©y lµ kªnh cã nhiÒu ch¬ng tr×nh gameshow rÊt
hÊp dÉn, qua c¸c ch¬ng tr×nh ®ã cã thÓ häc hái
®îc nhiÒu kiÕn thøc.
§©y lµ kªnh võa cã c¸c ch¬ng tr×nh gi¶i trÝ,
võa cã c¸c th«ng tin thêi sù, chÝnh trÞ vµ v¨n
ho¸ bæ Ých.
Mçi kªnh cã mét ®Æc trng, nhng VTV3 lµ kªnh
tæng hîp nhÊt.
C¸c MC trÎ trung, n¨ng ®éng.
Mang l¹i tinh thÇn tho¶i m¸i, cã nhiÒu ch¬ng
tr×nh qu¶ng c¸o vµ phim hay gióp gi¶m bít c¨ng
th¼ng.
VTV3 cã nhiÒu th«ng tin vÒ thêi trang, lµm ®Ñp
cã thÓ häc hái vµ vËn dông ®îc.
Giíi trÎ ®îc tham gia vµo c¸c ch¬ng tr×nh,
®iÒu nµy rÊt thó vÞ v× nã trë nªn s«i ®éng h¬n.
…v..v…
Chúng tôi cũng đã phỏng vấn sâu một số thanh thiếu niên và nhận được
các ý kiến:
Với học sinh, họ cho rằng hiện tại VTV3 có nhiều chương trình giải
trí hay nhưng đối tượng tham gia và hướng tới chủ yếu là các sinh
viên, còn ít các showgames dành cho học sinh, mới chỉ có “Đường lên
đỉnh olympia”, “Tuổi đời mênh mông”. Song họ vẫn thích VTV3 vì nó
giúp họ giải trí sau những giờ học căng thẳng, và có nhiều phim tâm lý
của giới trẻ rất hay.
Sinh viên là thành phần rất yêu thích VTV3 vì trên VTV3 có nhiều
chương trình dành cho sinh viên, họ được tham gia trò chơi; học hỏi
được nhiều từ các chương trình thời trang và làm đẹp; họ mong muốn
có nhiều chương trình tạo cơ hội cho học sinh – sinh viên nghèo hơn
nữa như chương trình Tiếp sức …
59
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Thông qua bảng số liệu cũng cho thấy, học sinh rất ít xem các chương
trình của VTV1, chỉ chiếm 2.03 % số phiếu học sinh trả lời câu hỏi
này (3/148 phiếu) và chỉ chiếm 0.57% tổng số phiếu (3/523 phiếu).
Học sinh giải thích lý do không thích xem VTV1 là do: kênh này khô
khan, cứng nhắc khiến họ cảm thấy căng thẳng khi xem; ít các chương
trình giải trí; nội dung thông tin hướng tới những người đã đi làm và
các khán giả làm nông nghiệp; không có showgames dành cho giới
trẻ…
Một trong những nội dung rất quan trọng cần phải định hướng và giáo dục
cho giới trẻ là các nội dung chính trị, thời sự, kinh tế… Giới trẻ nhiều nước phát
triển có kiến thức chính trị và kinh tế rất phong phú, nhờ vậy họ mạnh dạn, tự tin
hơn trong việc tiếp cận thực tiễn cuộc sống. Chúng ta không khỏi kinh ngạc trước
khả năng diễn thuyết về chính trị của các bạn trẻ nước ngoài và ngạc nhiên trước
những nhà tỉ phú có tuổi đời còn rất trẻ. Và, truyền hình đóng vai trò lớn trong
việc cung cấp các thông tin liên quan đến đời sống xã hội cho họ. Truyền hình
cũng phản ánh những tấm gương điển hình đã thành công đến với giới trẻ để
tuyên truyền và cổ vũ họ phấn đấu. Vấn đề đặt ra với truyền hình Việt Nam là
bằng cách nào có thể giáo dục và định hướng cho giới trẻ những kiến thức này
một cách hiệu quả?
Đây là điều mà tất cả các kênh đã có trước năm 2007 chưa thể khắc phục
được. Đến năm 2007, VTV6 ra đời với mong muốn đáp ứng được nhiều điều về
nhu cầu thông tin cho giới trẻ song dường như mục tiêu truyền tải thông tin thời
sự, kinh tế một cách sinh động, hấp dẫn phù hợp với tâm lý tiếp nhận của giới trẻ
vẫn chưa thực hiện thành công.
Bảng 4: Mức độ tin tưởng của công chúng trẻ vào các thông tin truyền hình
Tính chất Nhóm khán giả Tổng
Tin Thỉnh thoảng Không tin
60
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Tỉ lệ % Tỉ lệ % Tỉ lệ % Tỉ lệ %
Học sinh 90 53 5 148
25.9 32.7 38.46
Sinh viên 246 89 7 342
70.7 54.93 61.54
Các ngành nghề khác 12 21 0 33
3.45 12.34 0
348 100 163 100 12 100 Tổng 523
(66.54%) (31.17%) (2.29%) 100%
Có thể nhận thấy rằng, tỉ lệ công chúng trẻ tin tưởng vào các thông tin trên
truyền hình là khá lớn, trong đó 66.54% cho rằng họ tin vào những thông tin nhà
đài truyền tải và 31.17% cho rằng thỉnh thoảng họ tin trong khí đó chỉ có 2.29%
số phiếu cho rằng họ không tin tưởng. Việc các khán giả tin vào các thông tin
được truyền tải rất quan trọng đối với sự giáo dục và định hướng của đài. Khi họ
tin vào các thông tin, khả năng tác động của nó tới nhận thức và hành động của
giới trẻ rất lớn. Giới trẻ vốn là thành phần có năng lực tình cảm mạnh hơn các
thành phần công chúng khác, nên khả năng lây lan tình cảm sang những người
cùng lứa rất nhanh, nhờ đó mà hiệu quả giáo dục và định hướng được lan rộng.
Bảng 5: Tỉ lệ công chúng hành động theo các thông tin mà họ nhận
thức được qua các chương trình truyền hình
Nhóm khán giả Tần suất (%) Tổng
Nhiều lần Thỉnh thoảng Không bao giờ
Học sinh 15 98 35 148
10.14 66.22 23.64 100
Sinh viên 47 234 61 342
13.74 68.42 17.84 100
Các ngành nghề khác 6 19 8 33
61
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
18.18 57.57 24.24 100
68 351 104 Tổng 523
(13.0%) (67.11%) (19.89%) 100%
Khi công chúng trẻ tin tưởng vào các chương trình truyền hình nó đã chứng
tỏ, tính định hướng và giáo dục trên truyền hình phát huy hiệu quả. Theo bảng 5,
tần suất hành động theo của công chúng còn dè dặt, mức độ hành động theo nhiều
lần chiếm tỉ lệ thấp nhất 13.0%. Tuy vậy, chỉ số 67.11% số khán giả trẻ thỉnh
thoảng hành động theo cũng là con số đáng mừng đối với nhà đài. Qua đó cho
thấy, muốn phát huy hiệu quả hơn nữa tính định hướng và giáo dục thì nhà Đài
cần có những điều chỉnh hợp lý về nội dung và cách thức tác động đến giới trẻ
nhằm thay đổi vị trí của 2 chỉ số trên, đặc biệt là hạn chế hơn nữa tỉ lệ khán giả
không bao giờ hành động theo các thông tin trên truyền hình. Tính định hướng và
giáo dục giới trẻ cần phải có sự điều chỉnh hợp lý hơn thông qua các chương trình
truyền hình, bởi lẽ chỉ số những người thỉnh thoảng mới hành động theo các thông
tin trên truyền hình đã thể hiện mức độ ảnh hưởng của truyền hình đến họ. Thiết
nghĩ, những chương trình như Sức sống mới, Chìa khoá thành công, Người đương
thời … cần được xây dựng nhiều hơn và thường xuyên có những thay đổi về cách
thức thể hiện. Những chương trình này đang có hiệu quả rất tốt đối với đời sống
xã hội, đặc biệt là giới trẻ khi họ xem và hành động theo.
Bảng 6: Tỉ lệ khán giả nhận định truyền hình là một trường học
Nhóm khán giả ý kiến
Đồng ý Không đồng ý
Học sinh 75 28.33 12 30
Sinh viên 204 67.81 23 57.5
Các ngành nghề khác 18 3.86 5 12.5
Tổng 297 100.0 40 100.0
62
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Trong tổng số 523 phiếu có ý kiến hợp lệ, số lượng phiếu lựa chọn phương
án khác (không có ý kiến hoặc cho rằng, tuỳ từng nội dung mà đài truyền hình
mới giống như trường học) chiếm 35.56% (186 phiếu). Số còn lại có 297 phiếu
chọn phương án đồng ý chiếm 56.79% và không đồng ý chiếm 7.65% (40 phiếu).
Trong đó có 67.81% khán giả là sinh viên cho rằng truyền hình là một trường học,
28.33% học sinh cũng đồng ý với quan điểm này.
Khái niệm truyền hình là một trường học cần phải được hiểu theo nghĩa
rộng, chúng ta không nên dập khuôn mô hình của các trường học trong thực tiễn
với trường học truyền hình. Trường học truyền hình là nơi cung cấp kiến thức, nơi
định hướng nhận thức và hành vi, nơi lôi cuốn khán giả vào những trò giải trí lành
mạnh, nơi làm cho đời sống của con người tốt đẹp hơn… Tóm lại, truyền hình
không giảng giải giống như phương pháp sư phạm mà nó tạo lập dư luận, tác
động vào nhận thức bằng cách cung cấp các dữ liệu thông tin, kích thích các năng
lực vốn có của con người để từ đó họ tự nhận thức xem phải hành động thế nào
cho đúng, cho tốt. Tất nhiên, các thông tin trên truyền hình phải hướng tới chân
lý, mà đã là chân lý thì tất yếu có sự thống nhất về nhận thức cho đông đảo công
chúng. Đó là cách mà truyền hình dạy con người.
Thực tế cho thấy, rất nhiều các thông tin trên truyền hình có tác động đến
nhận thức và hành động của công chúng. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu ý
kiến công chúng về một số kiến thức cơ bản nhất mà họ học hỏi trên truyền hình
và thu được kết quả là:
Bảng 7: Nội dung thông tin khán giả học tập trên truyền hình
Nội dung thông tin Tổng
Số phiếu có ý kiến Tỉ lệ%
Thời trang và làm đẹp 213 40.73
63
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Khoa học và công nghệ 161 30.78
Kiến thức chung (toán học, 180 34.42
văn học, sinh học…)
Phong tục và văn hoá 169 32.31
Thời trang và làm đẹp là thông tin mà khán gả trẻ vận dụng nhiều vào thực
tiễn nhất, có 213/523 phiếu chiếm 40.73%, sau đó là các kiến thức chung với
180/523 chiếm 34.42%. Ngoài ra, các khán giả trẻ còn đưa ra những ý kiến khác
với các phương án trên như: Không có nội dung nào dễ tiếp thu và vận dụng vào
thực tiễn; hoặc chọn cả 4 phương án trên; hoặc cho rằng họ học hỏi được nhiều
các nội dung khác nữa…
Khi tiến hành lập câu hỏi, chúng tôi đã cân nhắc rất nhiều về việc đưa ra
các phương án lựa chọn như trên, bởi lẽ chúng tôi cho rằng các bạn trẻ sẽ học hỏi
chủ yếu về các nội dung xoay quanh 4 nội dung nêu trên. Tuy nhiên, để thu nhận
thêm những ý kiến sâu sắc chúng tôi quyết định ghép phần mở vào câu hỏi này và
thu được những ý kiến thú vị. Chúng tôi kết luận được từ những ý kiến khác mà
khán giả trẻ nêu lên là: Giới trẻ có nhu cầu, và chủ động học hỏi từ rất nhiều các
nội dung thông tin khác, đều có giá trị với giới trẻ. Điều này có nghĩa là, giới trẻ
không chỉ hứng thú với các thông tin giải trí đơn thuần và kênh truyền hình của
riêng họ cần phải đề cập tới tất cả thông tin thuộc các khía cạnh của đời sống xã
hội.
Bảng 8: Ý kiến của thanh thiếu niên về thời điểm thông tin
Tính chất Phiếu có ý kiến Tỉ lệ %
Phù hợp 313 59.85
Chưa phù hợp 210 40.15
64
Luận văn thạc sĩ Báo chí học Tổng 523 100.0
Tỉ lệ khán giả có ý kiến chương trình dành cho thanh thiếu niên được phát
sóng chưa phù hợp khá cao, chiếm 40.15%. Các khán giả trẻ cho rằng những
chương trình hay thường phát sóng vào lúc họ phải đi học như các chương trình
phim tài liệu và ký sự thường phát vào 11h trưa, chương trình Rung chương
vàng chiếu quá muộn (vào 22h đây là thời điểm cần phải nghỉ ngơi), chương trình
Tuổi đời mênh mông được phát sóng không cố định vào thời điểm cố định, buổi
tối chủ yếu là các chương trình giải trí…
Như vậy, để định hướng và giáo dục cho giới trẻ thì những người làm
truyền hình cần phải xem xét lại về thời điểm phát sóng có như vậy mục đích định
hướng và giáo dục mới có thể phát huy hiệu quả cao.
Ngoài những nghiên cứu trên, chúng tôi cũng đặt câu hỏi thăm dò ý kiến
của các bạn trẻ về những nội dung mà họ yêu thích nhưng chưa được thể hiện
trên truyền hình. Khán giả trẻ đã đưa ra nhiều ý kiến bày tỏ như sau:
Cần có chương trình làm cầu nối giữa người xin việc và nhà tuyển
dụng.
Các chương trình hướng dẫn về giáo dục giới tính, tình dục an toàn.
Các chương trình giúp giới trẻ bày tỏ quan điểm với cha mẹ.
Chương trình dạy học luật giao thông đường bộ và luật sử phạt vi
phạm hành chính.
Tư vấn trực tiếp giải thoát các rắc rối trên truyền hình, giống như
chương trình Cửa sổ tình yêu của Đài Tiếng nói Việt Nam.
2. Một số đánh giá về thực trạng đáp ứng nhu cầu xem truyền hình
của giới trẻ trên sóng đài THVN
Xác định thanh thiếu niên là nhóm công chúng chiếm tỉ lệ lớn trong các
thành phần khán giả truyền hình, Đài Truyền hình Việt Nam ngay từ khi thành lập
đã đặt mục tiêu xây dựng các kênh truyền hình dành cho thiếu nhi, thanh niên
như: chương trình “Những bông hoa nhỏ”, ca nhạc, phim truyện… Bác Hồ đã 65
Luận văn thạc sĩ Báo chí học từng căn dặn: thế hệ đi trước phải luôn quan tâm chăm lo bồi dưỡng cho thanh
thiếu niên, vì đây là lực lượng kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong
tương lai. Đảng và nhà nước ta luôn đề cao nhiệm vụ giáo dục, định hướng cho
giới trẻ về mọi mặt trong đó có vấn đề thông tin, giải trí và, báo chí là phương tiện
hưu hiệu để thực hiện mục tiêu này.
Giáo dục và định hướng cho giới trẻ là một vấn đề lớn đối với truyền hình,
định hướng không chỉ về nội dung thông tin mà nó còn liên quan đến hình thức
thông tin, thời điểm thông tin phù hợp với từng đối tượng công chúng. Giới trẻ là
một nhóm công chúng lớn của Đài Truyền hình Việt Nam và có những nhu cầu,
thị hiếu đặc biệt. VTV3 đang là kênh truyền hình có nhiều chương trình dành cho
thanh thiếu niên nhất, song có những điều thực tế cần nhìn nhận ở đây:
Từ năm 2006 trở về trước, các chương trình dành cho thanh thiếu niên nằm dải
trong các kênh truyền hình tổng hợp nhiều đối tượng, do vậy ít nhiều về nội dung
thông tin lẫn phong cách thể hiện tác phẩm có phần bị chi phối bởi tâm lý chung
của các nhóm công chúng. Cụ thể là, một số chương trình thể hiện phong cách
giới trẻ hiện đại đôi khi bị các thành phần công chúng khác phản ứng ví dụ như:
Sao mai điểm hẹn (tầng lớp khán giả trung niên và cao tuổi thấy khó chịu vì các
ca sĩ ăn mặc bụi bặm, hát những bài hát giật đùng đùng…), hoặc chương trình về
thời trang thì khiến các bậc cao niên khó chịu vì những trang phục được coi là
mốt mà như quần áo người rừng, hở hang; tóc tai bù xù và nhuộn xanh đỏ tím
vàng… Các chương trình này được phát trên kênh truyền hình đa đối tượng, nên
nhà Đài không thể đánh mất bất kỳ nhóm công chúng nào mà sẽ cố gắng dung
hoà tất cả các nhu cầu, đáp ứng một phần các thị hiếu của mỗi nhóm công chúng.
Vì vậy, chúng ta thấy các chương trình dành cho giới trẻ như Hành khách cuối
cùng, Rung chuông vàng, Tiếp sức, Robocon … vẫn được duy trì trên các kênh
tổng hợp. Với các chương trình này, giới trẻ được thoả mãn nhu cầu xem truyền
hình của họ mà không bị phản ứng từ nhóm công chúng trung niên và cao tuổi.
Tuy nhiên, nhu cầu xem truyền hình của giới trẻ rất lớn, chỉ với các chương
trình hiện có trên các kênh truyền hình (chủ yếu trên kênh VTV1, VTV2, VTV3)
thì chưa thể thoả mãn họ. Thanh thiếu niên muốn xem nhiều hơn, muốn học hỏi 66
Luận văn thạc sĩ Báo chí học và tìm kiếm nhiều hơn nữa từ truyền hình. Đặc biệt, giới trẻ muốn có một kênh
làm diễn đàn của riêng họ để bày tỏ quan điểm, chia sẻ và thể hiện mình…
Các chương trình đang hướng tới sinh viên (thanh niên) nhiều hơn các
chương trình dành cho học sinh (thiếu niên) nhất là các em học sinh từ 10 đến 15
tuổi. Lứa tuổi từ 10 đến 15 tuổi có rất nhiều thay đổi về tâm sinh lý và rất cần
được định hướng. Đây là lứa tuổi có sự vận dụng rất nhanh những thông tin trên
truyền hình, chúng ta dễ dàng nhận thấy những trang phục, kiểu tóc, phong cách
được “tái tạo” lại sau khi truyền hình phát sóng những bộ phim truyền hình về tuổi
teen hoặc giới thiệu những gương điển hình về các khía cạnh của đời sống.
VTV3 đang là kênh thu hút khán giả trẻ hơn cả vì đây là kênh có nhiều
chương trình giải trí và khán giả trẻ là những người được trực tiếp tham gia vào
các chương trình đó. Có thể nói, VTV3 là kênh truyền hình có sự kết hợp rất tốt
yếu tố giải trí và định hướng cho các đối tượng công chúng. Điều này có nghĩa là
định hướng cho công khán giả trẻ phải luôn có sự kết hợp với yếu tố giải trí.
Những chương trình về khoa học và giáo dục như dạy ôn thi trên truyền
hình ở kênh VTV2 đang được các bạn học sinh rất quan tâm theo dõi. Các chương
trình này đang có cách thể hiện hơi khô khan (giáo viên được mời đến thuyết trình
và giảng giải) nên mới chỉ hướng tới các đối tượng đã nhận thức được vai trò việc
học trong khi số lượng các học sinh mơ hồ về học tập rất lớn bởi họ cảm thấy khó
khăn khi phải ngồi nghe thuyết giảng. Vấn đề đặt ra là, cần phải cải tiến những
chương trình này sao cho phù hợp với cả hai đối tượng nêu trên.
Thông tin thời sự và chính trị không phải là nội dung khán giả trẻ tuổi
không quan tâm, có điều hiện nay cách thức truyền tải các thông tin này khô khan
và tập trung vào các chương trình thời sự tổng hợp như: Chương trình Chào buổi
sáng, bản tin thời sự trưa, chương trình thời sự lúc 7 giờ tối và đây là những thời
điểm mà thanh thiếu niên rất khó theo dõi được. Hơn nữa, các thông tin thời sự
chủ yếu được thực hiện theo phong cách điểm tin còn những phát thanh viên thì tỏ
ra quá nghiêm túc khiến cho công chúng trẻ cảm thấy căng thẳng khi tiếp nhận.
Thời điểm thông tin phù hợp là yếu tố quan trọng tác động tới hiệu quả
thông tin. Thiết nghĩ thời lượng phát sóng không phải là vấn đề chính để xây dựng 67
Luận văn thạc sĩ Báo chí học kênh truyền hình dành cho giới trẻ vì thanh thiếu niên chủ yếu là thành phần học
sinh, sinh viên, số còn lại cũng là những người rất bận rộn với các công việc cá
nhân vào ban ngày như: đến cơ quan, kinh doanh, lao động… Chính vì vậy,
những chương trình quan trọng nên tập trung vào tối và các ngày nghỉ.
Ngoài những thông tin vốn có trên truyền hình, khán giả trẻ tuổi còn có
nhiều những nhu cầu được học hỏi khác trên truyền hình như: giáo dục giới tính,
giáo dục về ngôn ngữ, giáo dục về cách xây dựng và bảo vệ các mối quan hệ
trong cuộc sống, giáo dục về con đường lập nghiệp và các vấn đề việc làm…
Nhằm nâng cao uy tín và vai trò của truyền hình trong việc giáo dục và
định hướng đối với giới trẻ, Đài truyền hình nên xem xét ý kiến xây dựng truyền
hình thành một trường học đặc biệt.
III. Kênh truyền hình dành cho thanh thiếu niên
1. Tính tất yếu phải ra đời kênh truyền hình dành cho thanh thiếu
niên
Từ nhu cầu của công chúng trẻ
Rất nhiều các nội dung thông tin mà giới trẻ mong muốn được xem trên
truyền hình nhưng họ chưa được đáp ứng thoả mãn. Điều này do tính khách quan
của thực tiễn truyền hình Việt Nam vì các chương trình truyền hình mà giới trẻ
đang xem được phát sóng trên các kênh truyền hình tổng hợp như: VTV1, VTV2,
VTV3. Các kênh truyền hình này không thể dành thời gian ưu tiên cho một nhóm
công chúng nào riêng biệt, nó có trách nhiệm thoả mãn tất cả các công chúng
khán giả về một số nội dung theo tính chất của kênh như: VTV1 – Kênh thời sự,
chính trị tổng hợp; VTV2 – Kênh khoa học, giáo dục; VTV3 – kênh thể thao, giải
trí, quảng cáo… Trên cơ sở định hướng của mỗi kênh, các nhóm khán giả lựa
chọn thông tin mình thích thú để theo dõi.
Tuy nhiên, giới trẻ vốn là nhóm công chúng đa nhu cầu, đa thị hiếu và họ
chờ đợi được xem nhiều hơn trên truyền hình, và mong muốn các chương trình
68
Luận văn thạc sĩ Báo chí học truyền hình phải được thể hiện theo phong cách, theo lối tư duy của họ. Điều đó
chỉ có thể đáp ứng được khi kênh truyền hình của riêng giới trẻ ra đời.
Từ định hướng của Đảng và Nhà nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn các đảng viên, toàn thể nhân dân phải
luôn chăm lo đời sống tinh thần và vật chất cho thế hệ trẻ, để họ trở thành những
người vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đảng và Nhà nước theo lời dặn của Bác đã xác
định, báo chí là một trong những phương tiện hữu hiệu góp phần nâng cao đời
sống tinh thần cho nhân dân trong đó có thanh thiếu niên. Đồng thời, thông qua
báo chí, Đảng và Nhà nước truyền tải các chủ trương, đường lối và chính sách tới
nhân dân.
Thanh thiếu niên chiếm tỉ lệ lớn trong tổng số dân Việt Nam, họ là những
người sẽ xây dựng và phát triển đất nước trong tương lai. Họ là những người nhạy
cảm với những cái mới song phần lớn lại chưa đủ nhận thức để chọn lọc và tiếp
nhận cái mới. Đời sống vốn diễn biến vô cùng phức tạp nên thanh thiếu niên cần
phải được định hướng và giáo dục để tạo lập tri thức, sự vững vàng về tư tưởng để
có thể đối mặt với mọi thách thức trong cuộc sống ... Đặc tính của thanh thiếu
niên là tin vào những điều mắt thấy tai nghe và sinh động, có ấn tượng với họ.
Trong các loại hình báo chí hiện có, truyền hình có sức mạnh hơn cả trong việc
tác động vào tâm lý giới trẻ. Song, các kênh truyền hình tổng hợp như VTV1,
VTV2, VTV3 không thể dành thời gian riêng để giáo dục và định hướng cho giới
trẻ nên cách giải quyết tốt nhất là xây dựng kênh truyền hình dành riêng cho thanh
thiếu niên.
Từ nhu cầu của Đài Truyền hình Việt Nam
Thanh thiếu niên đang là nhóm công chúng khán giả lớn của đài truyền
hình Việt Nam, tất yếu nhà đài phải quan tâm tới việc thoả mãn nhu cầu thông tin
của họ. Hơn thế nữa, với chủ trương xã hội hoá truyền hình, nhà đài có thể tranh
thủ sức sáng tạo của giới trẻ bởi hơn bất kỳ nhóm công chúng nào, họ là những
người luôn năng động, nhiệt tình và say mê thể hiện kiến thức…
69
Luận văn thạc sĩ Báo chí học Để đáp ứng được những mục đích trên thì nhà đài không thể kiên định với
việc chỉ dành cho thanh thiếu niên những chương trình truyền hình đơn lẻ trên các
kênh tổng hợp. Chính vì vậy, giải pháp tốt nhất là xây dựng kênh truyền hình
dành riêng cho công chúng trẻ.
Từ những lý do trên, sau một thời gian gấp rút triển khai kế hoạch kênh
VTV6 – kênh truyền hình dành cho thanh thiếu niên ra mắt công chúng khán giả
trẻ Việt Nam vào tháng 4 năm 2007.
2. Kênh truyền hình dành cho thanh thiếu niên và tính định hướng
VTV6 - Kênh truyền hình dành cho thanh thiếu niên
Kênh VTV6 được chính thức phát sóng thử nghiệm vào ngày 29 tháng 4
năm 2007 trên sóng truyền hình cable với rất nhiều các chương trình hấp dẫn đề
cập đến các vấn đề của giới trẻ va được thể hiện bằng phong cách trẻ trung, sáng
tạo.
Các chương trình được phát sóng trên VTV6 đều do những phóng viên trẻ
thực hiện. Điều đặc biệt là, ngoài những phóng viên do Đài tuyển chọn vào VTV6
để làm việc, các chương trình còn do những sinh viên chuyên ngành báo chí ở các
trường: Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền; trường Cao đẳng truyền hình… sản xuất.
Về đối tượng của kênh: Mặc dù xác định đối tượng chính của VTV6 là
thanh thiếu niên (độ tuổi từ 10 đến 24), song VTV6 còn mở rộng phạm vi tác
động tới các bạn trẻ từ 25 đến 35 tuổi.
Về mục đích của kênh: đây là kênh giáo dục, giải trí dành cho đối tượng
thanh - thiếu niên. Là tiếng nói chính thức của Đài Truyền hình Việt Nam về các
vấn đề của giới trẻ và là diễn đàn giành cho giới trẻ toàn quốc. Nhiệm vụ của
kênh VTV6 là hướng dẫn, định hướng giáo dục thế hệ trẻ Việt Nam, những người
sẽ xây dựng tương lai của đất nước.
Trên cơ sở đó, Đài truyền hình Việt Nam đã xây dựng những mục tiêu cụ
thể của VTV6 như sau:
70
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Cung cấp thông tin bổ ích cho giới trẻ về khoa học, văn hoá, giáo dục,
kinh tế, công nghệ, giải trí.
Giáo dục nhân cách, lý tưởng sống, tình yêu quê hương đất nước.
Tạo ra một diễn đàn xã hội với sự tham gia của đông đảo người xem
nhằm thay đổi tích cực nhận thức hành vi và lối sống của thế hệ trẻ Việt
Nam.
Phát động các phong trào học tập, nghiên cứu khoa học, lập thân lập
nghiệp, sống có trách nhiệm … trong giới trẻ
Phát động các phong trào sinh hoạt văn hoá văn nghệ, thể thao, giải trí bổ
ích lành mạnh, phòng chống tệ nạn xã hội
Phản ánh những suy nghĩ, tâm huyết, vấn đề của giới trẻ để nhà trường, xã
hội và gia đình nắm bắt, hỗ trợ kịp thời.
Về nội dung chương trình: các nội dung chính của VTV6 được thể hiện qua
các khía cạnh sau:
Thứ nhất, đề tài của VTV6 hướng tới giới trẻ qua các thông tin chính sau:
Đời sống văn hoá trẻ
Các cuộc thi tài năng
Thông tin kinh tế vĩ mô
Vấn đề xã hội cập nhật
Số phận và vấn đề cá nhân
Kỹ năng sống, kỹ năng học tập, kỹ năng làm việc
Hướng dẫn tiêu dùng
Văn hoá truyền thống Việt Nam và thế giới,
Thứ hai, tính tương tác của kênh biểu hiện qua các khía cạnh:
Với mục tiêu giáo dục, giải trí dành cho giới trẻ, thì VTV6 là kênh truyền
hình tương tác lấy internet làm cầu nối quan trọng liên kết các nội dung phát sóng
trên truyền hình với cộng đồng những người sử dụng internet và ngược lại, những
người sử dụng internet có thể chia sẻ suy nghĩ, đóng góp ý tưởng, liên kết cộng
đồng, … để phát triển nội dung của truyền hình. Nội dung các chương trình của
VTV6 gắn liền với việc liên kết các dịch vụ và tiện ích hiện đang được giới trẻ tại 71
Luận văn thạc sĩ Báo chí học Việt Nam và thế giới sử dụng thường xuyên nhất, đó là blog, forum, chia sẻ
video, chia sẻ hình ảnh. Các chương trình của VTV6 đều có sử dụng tương tác với
người xem thông qua các dịch vụ bình chọn, nhắn tin qua SMS, tổng đài 1900,
Internet.
Nhóm người dẫn chương trình của kênh được thiết kế phong cách dựa trên
điều tra xã hội và được đào tạo.
Thứ ba, thể loại chương trình bao gồm: Các thể loại cơ bản của chương
trình như Talkshow, phim tài liệu, tin tức phóng sự, phỏng vấn, trò chơi truyền
hình … Điểm khác biệt là sự biến theer trong các chương trình này, sẽ được thể
hiện cụ thể trong các chương trình.
Thứ tư, điểm khác biệt của VTV6 là được truyền dẫn trên nền tảng IPTV để
có thể đến với giới trẻ Việt Nam ở nước ngoài và tạo ra những giờ xem mới cho
giới trẻ trong nước.
Việc phát sóng VTV6 trên truyền hình Cable, DTH và analog tạo điều kiện
cho khán giả có thể được xem nhiều hơn.
Kênh VTV6 được xây dựng bài bản, đặc biệt là công tác định vị khác biệt
hoá, là kênh truyền hình được thành lập sau, nhưng lại là kênh truyền hình đầu
tiên trong phân khúc thị trường có mục tiêu là giới trẻ.
Các chương trình của VTV6
a) Nối mạng ý tưởng
Đây Là một địa chỉ để mọi người google về ý tưởng, và là nơi các bạn trẻ
liên kết, chia sẻ, cùng xây dựng ý tưởng của cá nhân thành ý tưởng lớn cho cộng
đồng.
Chương trình truyền tải thông điệp: sáng tạo thật đơn giản.
Trên cơ sở đó, chương trình sẽ trở thành không gian nuôi dưỡng tư duy,
tiếp cận với những phương pháp luận sáng tạo nổi tiếng trên thế giới
Gặp gỡ những ý tưởng gia thành công.
72
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
b) Nút Rec của tôi (My Rec)
Nút Rec của tôi là chương trình mà khán giả chính là người tạo dựng nội
dung thông qua các hình thức sau:
Đây là nơi khán giả có thể chia sẻ góc nhìn của họ về mọi mặt của cuộc
sống với cộng đồng.
Các khán giả trẻ sẽ có cơ hội được tham gia các buổi đào tạo tại chỗ của
chuyên gia về cách sử dụng “nút REC” hoặc trao đổi với các khán giả khác thông
qua diễn đàn Câu lạc bộ Nút Rec của tôi. Đồng thời, khán giả cũng có cơ hội tham
gia cuôc thi trên đường phố – một dạng chương trình thực tế nhằm hiện thực hoá
những bài học lý thuyết về cách sử dụng nút Rec.
Đây là chương trình cổ vũ và hướng dẫn cộng đồng sử dụng các thiết bị
công nghệ (máy ảnh/ máy quay/ di động) để ghi lại cuộc sống; đồng thời nó tạo
điều kiện và khuyến khích khán giả chia sẻ những góc nhìn cuả mình về cuộc
sống hay các vấn đề xã hội, giải trí.
Chương trình góp phần tạo nên thói quen quan sát, tư duy và chủ động
“Rec” lại mọi vấn đề, giúp mỗi thành viên tự khám phá ra tố chất “nhà báo công
dân” trong bản thân mình.
Góp phần xây dựng và cổ vũ một xã hội điện tử.
Đối tượng hướng tới của chương trình là các khán giả trẻ có độ tuổi từ 15-
35. Có thể nói, đây là một trong những chương trình của VTV6 đang hướng tới
chủ trương xã hội hoá truyền hình.
Những thông tin ban đầu, chương trình chú trọng đối tượng khán giả sinh
sống tại các thành phố lớn (Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh) – Những người có khả
năng tiếp cận và sử dụng thiết bị công nghệ (máy quay, di động, máy ảnh,
Internet…). Dần dần, chương trình có mục tiêu mở rộng sang nhóm đối tượng trẻ
sống tại các địa bàn khác.
Về cách thức thể hiện: đây là chương trình truyền hình tương tác, có kết
hợp truyền hình thực tế và giao lưu trường quay.
Thời lượng: 30 phút/số, phát sóng hàng tuần.
73
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
c) Nhà tròn
Nhà Tròn là chương trình đồng hành cùng các bạn trẻ – những người vừa
bước qua tuổi Phổ thông với những câu hỏi cần được chia sẻ và giải đáp.
Nhà tròn là không gian tâm tình, nơi giới trẻ được lắng nghe, chia sẻ, những
tâm tư tình cảm và hỗ trợ những kỹ năng sống cần thiết. Thông qua việc giáo dục
về những kỹ năng đó, giới trẻ sẽ có thêm nguồn sức mạnh và lập luận để dám
đương đầu, chấp nhận, giải quyết những vấn đề khó khăn trong cuộc sống của
một người trẻ trưởng thành.
Khán giả trẻ được thảo luận và tìm cách giải quyết giúp các khán giả khác
của chương trình những vấn đề về tâm sinh lý.
Về góc độ thể hiện: chương trình xây dựng một hình tượng Hội đồng hiệp
sĩ – những người có đủ kinh nghiệm và uy tín, nhằm đưa ra câu trả lời chính thức
về các vấn đề đang được bàn luận trong chương trình.
Nhà tròn giúp các bạn trẻ nắm giữ cuộc sống và là ngôi nhà ấm áp sự sẻ
chia với thái độ tôn trọng, lắng nghe, thân thiện.
Chương trình thực hiện dưới hình thức toạ đàm tại trường quay. Mục tiêu
hướng tới của Nhà tròn là sẽ mở rộng cắc buổi toạ đàm – ghi hình tới các trường
THPT trên Toàn Quốc.
Thời lượng chương trình: 30 phút, hàng tuần.
Hướng tới các khán giả trẻ có độ tuổi từ 12-20
d) Chai thuỷ tinh
Đây là chương trình tạp chí truyền hình dành riêng cho lứa tuổi teen Việt
Nam. Tuổi học trò là lứa tuổi nhiều mộng mơ hoài bão và mong ước cho tương lai
của mình, nhưng lứa tuổi này còn đang phân vân giữa nhiều luồng thông tin để
tìm ra một kênh thông tin phù hợp với mình. Chai tuỷ tinh là một kênh thông tin
bổ ích, giúp giới trẻ xây dựng những hoài bão tương lai của họ.
74
Luận văn thạc sĩ Báo chí học Chương trình mang lại những thông tin hấp dẫn, bổ ích đã chọn lọc đến với
tuổi teen Việt Nam. Đó là đời sống của tuổi học trò, kỹ năng trong học tập, những
mơ ước tuổi học trò, nghề nghiệp hay công việc và bản thân mình.
Thông qua những cuộc thi, những phong trào của Chai thuỷ tinh, tập hợp
những teen có tinh thần vì cộng đồng, muốn cống hiến cho xã hội.
Chương trình dành cho khán giả trẻ từ 13 đến 18 tuổi
Thời lượng 30 phút/ chương trình/1 số /tuần
e) Vitamin C
Vitamin C là bản tin về các sự kiện, vấn đề kinh tế, văn hoá, xã hội dưới
góc nhìn hài hước. Chương trình tạo ra tiếng cười phê phán những sự kiện, hiện
tượng, mặt trái của xã hội nhằm phản ánh chúng một cách nhẹ nhàng nhưng
không kém phần sâu sắc, giống như các bài viết tiểu phẩm (hay phiếm luận) trên
các báo Lao động, Hà Nội mới, Quân đội Nhân dân…
Mục tiêu của chương trình thể hiện khát vọng vươn tới những điều tốt đẹp
hơn trong cuộc sống thường nhật của giới trẻ.
Thời lượng 15 phút
Tần suất: 1 tuần/1chương trình
Slogan: Tiếng cười là niềm vui trong cuộc sống
f) Kết nối trẻ
Là chương trình được thực hiện dưới hình thức thảo luận về những vấn đề
của giới trẻ nhằm khuyến khích kỹ năng biện luận của giới trẻ; Là nơi để giới trẻ
bộc lộ chính kiến bằng những bài hùng biện, tranh luận; Là nơi tiếp thu ý kiến
nhiều chiều của các bạn trẻ, từ đó gợi mở cho giới trẻ kỹ năng phân định tính chất
đúng, sai hay tốt, xấu của các vấn đề liên quan đến giới trẻ.
Slogan: Hãy nói lên quan điểm của bạn
Thời lượng: 40 phút
Tần suất: 1 tuần/1 chương trình
75
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Chương trình có tính chất tương tác cao: chat room, SMS, web; giúp kết
nối giới trẻ Việt Nam và giới trẻ Việt Nam đang học tập, sinh sống ở nước ngoài.
Đối tượng: Giới trẻ từ 18 đến 30 tuổi
g) Toà tuyên án
Chương trình hướng tới giáo dục cho công chúng trẻ những nhận thức về
pháp luật Việt Nam – nội dung vốn bị giới trẻ né tránh tiếp nhận vì cho rằng nó
phức tạp, khó nhớ. Mục đích của chương trình không phải là dạy cho giới trẻ học
thuộc lòng các điều luật mà nhằm nhắc nhở các bạn trẻ về hành vi của họ thông
qua các câu chuyện vụ án hình sự. Bất kỳ hành động nào cũng có thể dẫn tới vi
phạm pháp luật cho nên giới trẻ hãy cân nhắc kỹ càng trước khi quyết định thực
hiện mọi việc trong cuộc sống.
Slogan: Xem để sống có trách nhiệm hơn
Thể loại: Kịch truyền hình (phục dựng lại vụ án)
Thời lượng: 60 phút
Tần suất: 1 tuần/1chương trình
Đối tượng: Giới trẻ và những đối tượng liên quan
h) Thế hệ tôi
Được coi là sân chơi cho các nhà báo trẻ để thể hiện khả năng tác nghiệp,
góc nhìn về những vấn đề của người trẻ. Chương trình định hướng cho giới trẻ
sống tích cực và nhân ái qua các chuyên mục: “Tôi thấy, tôi chia sẻ, tôi tranh
luận”
Mục đích của chương trình là xây dựng một Thế hệ Tôi tự tin, chủ động,
hữu ích.
Thể loại: Tạp chí Truyền hình
Thời lượng: 30 phút
Tần suất: 2 tuần/1 chương trình
Đối tượng: Sinh viên và những người trẻ mới lập nghiệp
76
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
i) Sinh ra từ làng
Là nơi phản ánh và đặt ra những vấn đề nóng của nông thôn Việt Nam
đồng thời chia sẻ kinh nghiệm thất bại, thành công trong làm ăn, cuộc sống của
giới trẻ nông thôn; Khơi dậy tiềm năng, nhận thức, trách nhiệm và sự hiểu biết
của giới trẻ nông thôn.
Chương trình hướng tới mục đích giúp giới trẻ nông thôn tự tin, dám nghĩ,
dám làm hơn với tính chất: chia sẻ, chân thật, nâng đỡ
Chương trình được thể hiện thông qua cảm nhận của một người trẻ từ
những câu chuyện thực tế
Slogan: Hãy tự tin để hành động
Thể loại: truyền hình thực tế
Thời lượng: 35 phút
Tần suất: 2 tuần/ 1 chương trình
Đối tượng: Giới trẻ tuổi từ 18 đến 33
j) Chat với VTV6
Chat với VTV6 là nơi cung cấp thông tin mới nhất về VTV6, giúp khán giả
có được sự lựa chọn hữu ích cho thời gian rảnh rỗi của họ. Bên cạnh đó, chương
trình thể hiện vai trò là cầu nối giữa khán giả với các chương trình của VTV6.
Thông qua chương trình VTV6 nhận diện được những đề tài mới, những ý tưởng
mới mà các khán giả đã gợi mở khi trao đổi.
Khán giả trẻ có cơ hội thể hiện những đánh giá của mình về chất lượng
cũng như thực tiễn đáp ứng của VTV6 với họ.
Slogan: VTV6 là của bạn
Đối tượng: Hướng tới tất cả các khán giả của VTV6
k) Vân tay
Giới trẻ hiện nay, đặc biệt là các bạn học sinh luôn có những thần tượng
của riêng mình, và thần tượng của họ là những nhân vật nổi tiếng về một lĩnh vực
77
Luận văn thạc sĩ Báo chí học nào đó. Giới trẻ có mong muốn nắm bắt nhiều thông tin về thần tượng của mình
và được tiếp xúc với thần tượng là nhu cầu lớn. Hiểu được tâm lý này của giới trẻ,
Vân tay là một Talk show khám phá người nổi tiếng theo một cách khác biệt tạo
nên kênh kết nối giữa khán giả và người nổi tiếng một cách thân thiện nhất.
Chương trình sử dụng những trắc nghiệm tâm lý của Nhật Bản, những trò
chơi thử thách vui vẻ giữa khán giả và khách mời, cũng như phát những clip độc
đáo về nhân vật nổi tiếng. Qua những câu chuyện của người nổi tiếng, gửi tới bạn
trẻ thông điệp: “Tin vào chính mình”
Đối tượng của chương trình là các bạn trẻ thích khám phá và tìm hiểu thần
tượng của mình.
l) Gương mặt mới
Một trong các thành phần của nhóm khán giả trẻ là các nhạc sĩ, ca sĩ trẻ
đang trên con đường xây dựng cơ đồ của họ. Họ luôn khao khát có sự kết nối với
những khán giả trẻ để thể hiện mình và để tìm kiếm sự thân thiện, gần gũi.
Chương trình là một môi trường thuận tiện cho các tác giả trẻ để nắm bắt tình cảm
và đánh giá của các bạn trẻ về những đứa con tinh thần mà họ sản sinh ra. Điều
này rất có ý nghĩa với cả tác giả trẻ và công chúng yêu thích âm nhạc trẻ.
Đây là chương trình talk show đưa khán giả khám phá những nét tạo nên cá
tính âm nhạc của các tác giả trẻ; Cùng với đó chương trình thể hiện sự ủng hộ
những sáng tạo mới, góp phần nâng cao thẩm mỹ âm nhạc cho giới trẻ.
Tóm lại, chương trình tạo nên diễn đàn âm nhạc cho các tác giả trẻ.
Đối tượng: là những bạn trẻ yêu thích âm nhạc.
m) Quán cà phê khoá sol
Là chương trình giới thiệu video clip ca khúc và phản ánh một góc nhìn
nghề nghiệp về đời sống âm nhạc. Chương trình được thực hiện như một cuộc trò
chuyện cởi mở của những người làm nhạc về một chủ đề được nhiều người quan
tâm
Slogan: Quán cà phê khoá Sol - nơi gặp gỡ của những người làm nhạc
78
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
n) Thực đơn âm nhạc: Sự lựa chọn không thể thiếu
Chương trình này giúp các bạn trẻ chọn lọc các ca khúc thịnh hành đáng
nghe từ đó tạo nên Bảng xếp hạng cho những ca khúc được khán giả trẻ đánh giá
cao (V6 top hit), và tạo nên môi trường âm nhạc (music zone) mang phong cách
VTV6. Thông qua đây, chương trình góp phần nâng cao thẩm mỹ âm nhạc cho
giới trẻ.
Đây cũng là những chương trình ca nhạc giới thiệu trích đoạn video clip
Slogan: Thực đơn âm nhạc - sự lựa chọn không thể thiếu!
o) Vũ điệu xanh
Cuộc sống đầy nhịp điệu, chính những nhịp điệu này giúp con người trở
nên linh hoạt, khoẻ mạnh và chủ động hơn trong cuộc sống. Trên tinh thần đó,
VTV6 xây dựng chương trình Vũ điệu xanh nhằm tạo ra:
Sân chơi dành cho những bạn trẻ yêu khiêu vũ thể thao và aerobic
Giúp các bạn trẻ giải phóng cơ thể, tiếp thêm sinh lực cho cuộc sống
Góp phần tạo nên lối sống lành mạnh cho giới trẻ
Tạo nên một giải khiêu vũ thể thao và aerobic toàn quốc trên truyền hình
p) Gia đình trẻ - Nhà đẹp
Cải tạo không gian sống – tạo một món quà bất ngờ cho những người thân
yêu là mục đích mà chương trình thể hiện. Các bạn trẻ sẽ tham gia chỉnh sửa ngôi
nhà sao cho thật ấm cúng, thật đặc biệt nhờ sự sáng tạo của mình đem lại một
không gian sống tốt hơn, tạo sự thoải mái cho các thành viên trong gia đình - Đó
là một món quà tuyệt vời dành cho ông bà, cha mẹ, anh chị em.
Như trên đã đề cập, đối tượng chính của VTV6 là thanh thiếu niên, song
ngoài ra nó cũng hướng tới các bạn trẻ từ 25 đến 35 tuổi. Đây là nhóm công
chúng khán giả bắt đầu và đang có những bước khởi đầu về xây dựng tổ ấm của
riêng họ. Chính vì vậy, Gia đình trẻ – Nhà đẹp được xây dựng nhằm tư vấn cho
các bạn trẻ cách thức tổ chức, sắp xếp tổ ấm riêng của họ.
79
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Chương trình được thực hiện theo phong cách:
+ Mang lại những thông tin có thể ứng dụng được về thiết kế nội thất, kiến trúc
+ Tò mò khi được thưởng thức một không gian hoàn toàn khác giữa trước và
sau.
+ Cảm xúc mang lại khi được xem lại những câu chuyện, những kỷ niệm tình
yêu rất đẹp, lãng mạn và cảm động.
q) Khi người ta trẻ: hãy tin vào tuổi trẻ
Hình thức thể hiện dưới dạng cuộc trò chuyện giữa hai thế hệ - hai nhân có
thể cùng chung một lĩnh vực ngành nghề hoặc chung mối quan tâm trong cuộc
sống.
Chương trình được xây dựng nhằm mục đích: Tạo điều kiện cho những
người có một thời thanh niên hào hùng ôn lại tuổi trẻ của mình thông qua những
phóng sự hồi ức, gặp gỡ những nhân vật có mối quan hệ trong quá khứ; Tạo ra sự
đồng cảm giữa hai thế hệ: thế hệ trẻ học hỏi và có được sự động viên từ thế hệ cha
anh; thế hệ cha anh nhớ lại thời trẻ của mình với một sự tự hào; từ đó khẳng định
sự tiếp nối truyền thống của thế hệ trẻ ngày hôm nay.
Đây là chương trình talk show được truyền hình trực tiếp hàng tháng với
thời lượng 90 phút/1chương trình.
r) Đối thoại trẻ
Đối thoại trẻ là chương trình talk show được truyền hình trực tiếp hàng
tháng với thời lượng 100 phút / chương trình. Tại đây, các bạn trẻ sẽ có cơ hội
trao đổi với khách mời về các vấn đề nóng của giới trẻ (qua truyền hình, qua các
phương tiện truyền thông hỗ trợ khác (web, chat, nhắn tin, điện thoại hoặc đặt câu
hỏi trực tiếp tại trường quay). Cuộc trao đổi sẽ giúp các bạn trẻ có những nhận
thức mới về những gì mà họ đang băn khoăn hoặc chưa hiểu cặn kẽ.
Mục đích của chương trình là:
Tạo ra một diễn đàn mở các vấn đề bạn trẻ tranh luận, bày tỏ quan điểm, lý
tưởng và xu hướng sống của giới trẻ hiện nay.
80
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Định hướng, giúp các bạn trẻ nhận thức, tìm ra một hướng đi đúng trong
cuộc sống và xây dựng một hệ giá trị phù hợp trong giai đoạn phát triển, hội nhập
đất nước.
Slogan: Đối thoại trẻ - Giá trị tích luỹ thành công
s) Thư viện cuộc sống
Giới trẻ có rất nhiều những thắc mắc về các vấn đề văn hoá - chính trị – xã
hội. Họ cần hiểu cặn kẽ hơn để có những ứng xử thích hợp và Thư viện cuộc sống
giúp các bạn trẻ tra cứu về cuộc sống muôn màu muôn vẻ – cuộc sống mà họ yêu
quý và có trách nhiệm làm cho nó tốt đẹp hơn. Chương trình được thực hiện với
hình thức tương tác đa phương tiện, tiết tấu trẻ trung, nhanh – khoẻ với các
chương trình ngắn nối tiếp nhau.
Thời lượng 45 phút/ chương trình; phát sóng hàng tuần
Tần suất: 3 chương trình/tuần
Tính định hướng và giáo dục trên VTV6
Nội dung định hướng và giáo dục trên kênh VTV6
Bác hồ căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất
quan trọng và cần thiết”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đề ra mục
tiêu, phương hướng tổng quát, trong đó đối với thế hệ trẻ, đảng ta xác định:
“Thường xuyên giáo dục chính trị, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống;
tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, góp phần xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Khuyến khích thanh niên tự học, tự nâng cao tay nghề, tự
tạo việc làm...”. Giáo dục và định hướng cho giới trẻ là chủ trương thống nhất từ
TƯ Đảng đến các cơ sở và báo chí là phương tiện góp phần thực hiện tốt chủ
trương đó. VTV6 ra đời là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu nâng cao vị trí và vai
trò của thế hệ trẻ – những chủ nhân tương lai của đất nước.
Trong bài phát biểu tại Đại hội TƯ Đoàn khoá IX, Tổng Bí thư Nông Đức
Mạnh đã nêu: Trước hết, các đồng chí phải thường xuyên coi trọng công tác giáo
81
Luận văn thạc sĩ Báo chí học dục chính trị, tư tưởng, đổi mới và mở rộng các hình thức sinh hoạt, học tập,
không ngừng bồi dưỡng, nâng cao nhận thức lý luận, quán triệt đường lối, nhiệm
vụ cách mạng, nhiệm vụ thanh niên, xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin,
xác định rõ trách nhiệm của mình trước yêu cầu và nhiệm vụ của đất nước, nâng
cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần tự lực, tự cường, ý chí chiến
thắng đói nghèo, lạc hậu và xây dựng đát nước phồn vinh... Phải kiên quyết đấu
tranh chống các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, lối sống thực dụng, ích
kỷ. Xây dựng một xã hội học tập, lấy việc học tập về các mặt, tiến công vào kho
học… công nghệ, nghiệp vụ quản lý, rèn luyện tay nghề để cống hiến ngày càng
nhiều cho đất nước.
Lời chỉ đạo của Tổng bí thư đã chỉ rõ những nhiệm vụ cần phải triển khai
trong quá trình hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Ngay từ khi thành lập, đài
truyền hình đã và đang tiếp tục nâng cao vai trò định hướng và giáo dục cho giới
trẻ ở tất cả các phương diện nêu trên. Với quyết định cho ra đời kênh VTV6, Đài
đã khẳng định sự quan tâm to lớn đối với thế hệ trẻ. VTV6 đang tiếp tục hoàn
thiện thương hiệu của mình và tìm tòi cách thức định hướng và giáo dục thanh
thiếu niên hiệu quả nhất.
Định hướng và giáo dục cho công chúng trẻ là tất yếu khách quan, nhưng
vấn đề đặt ra là giáo dục và định hướng như thế nào? Đây là điều mà những người
làm chương trình cho VTV6 rất quan tâm.
Đối với những băn khoăn về sự định hướng trong cuộc sống cho giới trẻ,
và liệu có hạn chế thẩm mỹ nghệ thuật của lớp trẻ, ông Trần Đăng Tuấn nói rõ:
Chúng ta hãy tin vào thế hệ trẻ. Họ biết cách cảm thụ những gì tốt đẹp và tự định
hướng cho tương lai của họ. Chúng tôi tạo ra môi trường, không gian cho giới trẻ
tranh luận về các lĩnh vực của cuộc sống. Qua các talk - show, họ có nhiều ý kiến
trái ngược nhau, nhiều cách làm khác nhau nhưng sẽ đi đến điểm nào là tốt nhất
và đó chính là sự đồng thuận, là định hướng chung. Chúng tôi không áp đặt định
hướng mà là cùng nhau tìm hiểu cuộc sống đương đại, cùng làm, cùng lý giải,
thảo luận, để đi đến đồng thuận. Tôi và ban biên tập đã đặt toàn bộ niềm tin vào
82
Luận văn thạc sĩ Báo chí học giới trẻ. Và chỉ có niềm tin đó ấy mới giúp VTV6 thành công. Không chỉ tôi mà
các bạn cũng phải tin vào giới trẻ. Họ hoàn toàn có thể làm được tất cả mọi việc.
Chị Tạ Bích Loan – Giám đốc trung tâm VTV6 cho biết: Chúng ta vẫn
chưa có cách nói với thanh thiếu niên một cách hợp lý, vẫn là cách dạy đạo đức
của người lớn với trẻ con. Mà thanh niên ngày nay thì không thích như thế, chúng
tôi phải tìm cách khác để nói với họ, và lắng nghe họ nói. Quả thật là vấn đề khó
khăn. Nhưng chúng tôi có lòng tin và sự quyết tâm, chúng tôi sẽ thành công cho
dù hiệu ứng xã hội không thể mạnh mẽ bằng VTV3 khi mới xuất hiện.
Như vậy, lãnh đạo Đài và Ban biên tập VTV6 đã xác định rất rõ về việc
định hướng, giáo dục cho giới trẻ. Sẽ không có những bài giảng đạo đức của
người lớn với thanh thiếu niên mà cách định hướng tốt nhất là để cho giới trẻ thảo
luận, bày tỏ quan điểm, thể hiện kinh nghiệm thực tiễn và tìm kiếm sự thống nhất.
Bởi lẽ, mục đích định hướng và giáo dục là hướng giới trẻ tới những giá trị tốt
đẹp, những nhận thức đúng đắn. Giới trẻ là những người rất giỏi về thẩm định, họ
sẽ nhanh chóng nhận ra những chân giá trị của cuộc sống để điều chỉnh hành vi và
ý thức của họ.
Đài THVN đã xác định các nội dung cần định hướng như sau:
a. Về đối tượng:
Đây là kênh truyền hình dành cho giới trẻ nên tất yếu đối tượng của nó là
các bạn trẻ. Chúng ta vẫn gọi VTV6 là kênh truyền hình dành cho thanh thiếu
niên – những bạn trẻ có độ tuổi từ 10 đến 24 tuổi. Song, thế nào là trẻ? Nếu chỉ
khoanh vùng nhóm công chúng đối tượng trong độ tuổi ấy thì những người trong
độ tuổi từ 25 đến 35 tuổi – họ là ai? Do vậy, khi xây dựng kênh nhà đài đã quyết
định VTV6 sẽ là kênh truyền hình dành cho giới trẻ, trong đó đặc biệt quan tâm
đến nhóm công chúng thanh thiếu niên. Tóm lại, đối tượng của VTV6 là các bạn
trẻ có độ tuổi từ 10 đến 35 tuổi. Nhóm tuổi này khá đa dạng về thành phần: họ có
thể là những học sinh, sinh viên, cán bộ, những người lao động, những người
nông dân; những người mới bắt đầu tìm kiếm con đường lập nghiệp, những người
bắt đầu thành công; những người còn nhỏ, những người độc thân và những người
đã có gia đình… Điều này có nghĩa là, nhóm công chúng trẻ cũng là nhóm công
83
Luận văn thạc sĩ Báo chí học chúng đa thành phần xã hội và chắc chắn mỗi thành phần xã hội đó lại có những
mối quan tâm riêng. Về một góc độ nào đó, nhóm tuổi thiếu niên (10 đến 15 tuổi)
có nhiều điểm chung hơn cả trong sở thích, nhu cầu và thị hiếu; số tuổi còn lại
ngoài yếu tố tuổi tác có rất nhiều đặc điểm liên quan đến đời sống, học tập, sự
nghiệp mà trong quá trình xây dựng và phát triển kênh VTV6, những người làm
truyền hình cần lưu ý tới để thoả mãn thông tin sao cho giới trẻ thực sự cảm nhận
thấy có một kênh truyền hình của riêng họ.
Theo dõi và chờ đợi VTV6 ra đời không chỉ có giới trẻ - đối tượng mà
VTV6 hướng tới mà nó còn có các bậc phụ huynh. Tất nhiên đây không phải là
nhóm đối tượng mà VTV6 thoả mãn nhu cầu thông tin song họ lại là nhóm đối
tượng sẽ hấp thụ các thông tin về con em mình. Cần phải xếp họ vào nhóm công
chúng đặc biệt. VTV6 sẽ là cẩm nang cho các bậc phụ huynh xem để hiểu con em
mình đang nghĩ gì, cần gì và làm gì. Song, cũng cần thông tin ngược để công
chúng trẻ có thể hiểu những tâm tư, nguyện vọng của cha mẹ nhất là những mâu
thuẫn trong mối quan hệ cha mẹ và con cái thời nay, từ đó nhà đài sẽ làm trọng tài
để chốt lại những điểm chung và cách thức giải quyết. Tất nhiên, dù thông tin
ngược trong trường hợp này cũng cần phải đảm bảo sự trẻ trung, hấp dẫn của
chương trình với giới trẻ.
b. Về nội dung định hướng và giáo dục:
Giới trẻ có nhu cầu về tất cả các nội dung thông tin, điều này có nghĩa là
giới trẻ thích xem gì - truyền hình sẽ định hướng về cái đó. Nhóm công chúng này
đặc biệt hơn các nhóm khác ở chỗ, cùng với các nhu cầu họ còn có thị hiếu tiếp
nhận. (Thị hiếu tiếp nhận thông tin là việc đòi hỏi phải được thoả mãn trí tò mò,
hiếu kỳ.). Ví dụ: giới trẻ thích đọc, xem, nghe các thông tin giật gân, hot mà
những điều này hiện đang tập trung ở nhóm đề tài “cướp – giết – hiếp”. Xác định
rõ đâu là thị hiếu, đâu là nhu cầu tiếp nhận là việc làm tương đối phức tạp với
người làm truyền hình. Xin đơn cử một điều rất đơn giản: giới trẻ rất thích thú và
hào hứng với các thông tin về giới tính, tình dục và họ mong muốn được “mắt
thấy, tai nghe” nhiều hơn những gì hiện tại báo chí đang truyền tải. Chúng ta nên
xác định đâu là nhu cầu, đâu là thị hiếu trong trường hợp này? Còn giới trẻ, họ có
84
Luận văn thạc sĩ Báo chí học thể lý giải rất chí lí về điều mà họ nêu ra: họ muốn biết và hiểu cặn kẽ để không
mắc sai lầm; họ muốn khám về chính mình và nếu không có sự hướng dẫn thì
việc tự mày mò của họ sẽ rất dễ gây ra hậu quả thay vì hiệu quả… Đây là một bài
toán đối với những người làm truyền hình cho giới trẻ Việt Nam hiện nay.
Sau khi điều tra xã hội học về tâm lý tiếp nhận của công chúng trẻ chúng tôi
nhận ra rằng, giới trẻ có những nhu cầu rất cụ thể về một số nội dung cơ bản sau:
- Cơ bản vẫn là các thông tin thời sự chính trị – kinh tế – văn hoá - xã hội…
- Thông tin về âm nhạc
- Thông tin về công nghệ thông tin
- Thông tin làm đẹp, thời trang
- Thông tin về tư vấn việc làm, đặc biệt là thông tin về những nơi đang
tuyển dụng. Nếu có thể hãy tạo ra những cuộc thi tuyển ngay trên truyền hình.
- Mong muốn có chương trình tư vấn về cách học tập, nghiên cứu
- Mong muốn có chương trình tư vấn về tình cảm bạn bè, tình yêu, gia đình.
- Rất nhiều các ý kiến đề nghị có một chương trình cụ thể về giới tính, tình
dục và sức khoẻ sinh sản.
Tóm lại, công chúng có nhu cầu định hướng về tất cả các nội dung liên
quan đến đời sống vật chất và tinh thần của họ. Chúng tôi xin tổng hợp một số
khía cạnh cụ thể như sau:
Thực hiện tốt việc định hướng và giáo dục về tư tưởng, lối sống. Đặc biệt
củng cố niềm tin, và tri thức về những trang sử vàng của dân tộc, khắc
phục tình trạng lãng quên quá khứ trong thanh thiếu niên.
Định hướng về các vấn đề, các vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội,
giúp thế hệ trẻ nâng cao tri thức xã hội – khoa học, kỹ năng sống và làm
việc để có thể tự tạo việc làm, rèn luyện vai trò quản lý, làm chủ của bản
thân họ.
VTV6 cố gắng giúp các bạn trẻ định hướng phương thức chọn lựa và tìm
kiếm việc làm.
85
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Định hướng và giáo dục thế hệ trẻ cách thức chống tiêu cực và giúp thanh
thiếu niên phòng chống các tác động tiêu cực của đời sống xã hội đối với
họ.
c. Về hình thức thông tin
Trẻ trung sinh động và hấp dẫn là những tiêu chí hàng đầu về yêu cầu thể
hiện tác phẩm. Trong các chương trình của giới trẻ cần có sự phá cách để tránh
gây nhàm chán cho khán giả khi xem.
Như vậy, tính định hướng và giáo dục xét về hình thức thông tin là cần có
những đổi mới song đổi mới phải phù hợp. Tránh gây phản cảm và trái ngược với
thuần phong mỹ tục của người Việt.
IV. Công chúng trẻ với VTV6
VTV6 đã phát sóng thử nghiệm được hơn 1 năm, rất nhiều chương trình
đã được giới trẻ yêu thích. Tuy vậy, do phát sóng qua hệ thống truyền hình cable
nên nhiều nơi, đặc biệt là vùng sâu vùng xa và các vùng nông thông ít có điều
kiện được xem.
Chúng tôi đã tiến hành phát phiếu điều tra về VTV6 nhằm thăm dò ý kiến
của thanh thiếu niên về các chương trình của kênh này, từ đó rút ra những nhận
định về tính chất giáo dục, định hướng trên kênh.
Chúng tôi phát ra 500 phiếu, thu về 445 phiếu trong đó có 435 phiếu hợp
lệ chiếm 87% tổng số phiếu điều tra.
Khu vực phát phiếu chủ yếu là các thành thị và một bộ phận nhỏ ở nông
thôn vì hiện tại VTV6 đang phát sóng thử nghiệm trên truyền hình cable nên rất ít
các bạn trẻ nông thôn có cơ hội được xem. Cũng như điều tra về các chương trình
truyền hình khác, phiếu điều VTV6 được phát ở các tỉnh như: Tuyên Quang, Phú
Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội (bao gồm cả Hà Tây cũ), Nghệ An.
86
Luận văn thạc sĩ Báo chí học Chúng tôi hướng tới đối tượng chính là thanh thiếu niên (chủ yếu là học
sinh, sinh viên) chiếm tỉ lệ 92.18% số phiếu; các thành phần trẻ khác chiếm
7.82% số phiếu. Kết quả điều tra cụ thể như sau:
Bảng 1: Tỉ lệ khán giả trẻ xem VTV6
Nhóm khán giả ý kiến Tổng
Có Không
Học sinh 81 35 116
18.62 8.05 26.67
Sinh viên 200 85 285
45.98 19.54 65.52
Các ngành nghề 18 16 34
4.14 3.68 7.82 khác
299 136 435 100 Tổng
(68.74%) (31.26%) (100 %)
Theo bảng số liệu cho thấy, có 68.74% số phiếu trả lời họ có xem VTV6,
trong tổng số những người xem VTV6 có 18.62% là học sinh, 45.98% là sinh
viên. Điều này cho thấy học sinh và sinh viên đã bắt đầu bị thu hút bởi kênh
truyền hình của chính họ. Tuy nhiên, tỉ lệ các bạn trẻ chưa biết đến VTV6 khá
đông chiếm 41.26%, tập trung chủ yếu cũng là lực lượng sinh viên vì phần đông
trong số họ sống xa nhà và không có điều kiện để xem cả truyền hình phát trên
sóng analog lẫn truyền hình cable. Điều này cho thấy, khi xác định xây dựng kênh
truyền hình dành cho giới trẻ, nhà đài cần nghĩ tới hình thức phát sóng miễn phí,
có như vậy thì nhiệm vụ định hướng và giáo dục cho giới trẻ mới thực sự được
ghi nhận.
Bảng 2: Đối tượng VTV6 hướng tới
Đối tượng Thanh thiếu niên Thanh thiếu Cả hai Tổng
nông thôn niên thành thị
Tỉ lệ (%) 2.6 40.1 57.3 100.0
87
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Theo bảng 2 cho thấy, đến 40.1% khán giả xem VTV6 vẫn đang cho rằng
kênh này tập trung thoả mãn thanh thiếu niên thành thị trong khi chỉ có 2.6% số
phiếu cho là nó phù hợp với thanh thiếu niên nông thôn. Khi phỏng vấn sâu một
vài bạn trẻ có ý kiến như vậy, chúng tôi thu nhận được các ý kiến sau: VTV6 có
quá nhiều chương trình sành điệu, những vấn đề mà các bạn thảo luận trên VTV6
là của các bạn thanh thiếu niên thành thị, tên của các chương trình nghe Tây quá
khiến cho thanh thiếu niên nông thôn và vùng núi chúng em không thích; phong
cách của các bạn dẫn chương trình chưa thật sự gần gũi với thanh thiếu niên nông
thôn (ví dụ: chương trình Sinh ra từ làng họ vẫn giữ khoảng cách khi trò truyện,
và họ ăn mặc sang trọng quá! )…
Những ý kiến này là lời góp ý với VTV6 trên hành trình đi tìm lối đi cho
riêng mình. VTV6 đang cố gắng tạo sự khác biệt của kênh truyền hình dành cho
giới trẻ so với các kênh truyền hình khác về nội dung cũng như phong cách thể
hiện. Song, có những đặc điểm về tâm lý tiếp nhận của giới trẻ mang tính ổn định
(đặc biệt là tâm lý tiếp nhận của thanh thiếu niên nông thôn) nên khi thể hiện
VTV6 cũng cần xem xét và điều chỉnh sao cho phù hợp. Hai chữ Phù hợp là cả
một nghệ thuật thông tin. Mà, để phù hợp thì cần có sự nghiên cứu kỹ càng về đối
tượng trước khi thông tin. Hy vọng những con số mà chúng tôi nghiên cứu được
có thể giúp ích cho các chương trình của VTV6 trong quá trình xây dựng tác
phẩm.
Bảng 3: Tốp 10 chương trình yêu thích của khán giả trên kênh VTV6
Tên chương trình Phiếu có ý kiến Tỉ lệ %
Toà tuyên án 128 29.43
Kết nối trẻ 122 28.05
Vũ điệu xanh 115 26.44
Thực đơn âm nhạc 87 20.0
Đối thoại trẻ 86 19.77
Vitamin C 86 19.77
Vân tay 79 18.16
88
Luận văn thạc sĩ Báo chí học Thế hệ tôi 74 17.01
Nối mạng ý tưởng 68 15.63
Gia đình trẻ – nhà đẹp 60 13.79
Qua bảng tổng hợp cho thấy, khán giả trẻ thích xem các chương trình Toà
tuyên án chiếm 29.43 %; Kết nối trẻ chiếm 28.05%; Khi người ta trẻ: “Hãy tin
vào tuổi trẻ” chiếm 26.44%. Đây là kết quả khá thú vị, những chương trình này
mang tính lý luận khá cao, đặc biệt là chương trình Toà tuyên án – một chương
trình đậm đặc các thông tin về pháp luật. Như vậy, thanh thiếu niên không hề thờ
ơ với các thông tin về luật pháp, chính trị có điều cách thức thể hiện các thông tin
này như thế nào.
Toà tuyên án đã tìm được cách thức thể hiện mới phù hợp với giới trẻ, bàn
về những tồn tại trong nhận thức của giới trẻ về pháp luật. Xin đơn cử tác phẩm
“Nhi nữ luỵ anh hùng hay Anh hùng cứu mỹ nhân”: tác phẩm nói về kế hoạch
trinh phục một người đẹp của mấy chàng trai, họ nghĩ ra cách làm cho hình ảnh
của chàng trai trở thành lý tưởng trong mắt cô gái bằng cách tạo hiện trường một
vụ cướp giả. Những người bạn của chàng trai sẽ đến cướp đồ của cô gái còn
chàng trai sẽ là người hùng đứng ra bảo vệ cô gái, đánh đuổi kẻ cướp. Họ nghiên
cứu hiện trường giả rất kỹ và lên kế hoạch cụ thể. Tuy nhiên, điều mà họ không
lường trước được là sự can thiệp của những người vô tình có mặt ở hiện trường.
Kết quả là, vụ cướp giả đã gây hậu quả thật. Các thành viên trong băng cướp và
chàng anh hùng bị kết án hình sự. Tác phẩm được xây dựng thông qua cách thức
diễn lại tình tiết sự việc và thành lập một phiên toà với các thành viên trong Hội
đồng xét xử đúng chức danh ở đời thực. Các tội danh được tuyên phạt đúng với
pháp luật. Khi xem song tác phẩm này, nhiều bạn trẻ đã không khỏi ngỡ ngàng về
một sự việc nhiều bạn cho là bình thường mà lại gây hậu quả khó lường và bị xử
phạt nghiêm minh trước pháp luật.
Kết nối trẻ là chương trình giới trẻ được tham gia hùng biện, bày tỏ quan
điểm, chính kiến của họ về các vấn đề đời sống như: quan hệ giữa con cái và cha
mẹ hiện nay, quan niệm của giới trẻ về tình yêu và tình bạn, ý kiến của giới trẻ 89
Luận văn thạc sĩ Báo chí học trước các sự kiện chính trị, xã hội. Giới trẻ ngày nay trở nên khó nắm bắt về tâm
sinh lý đối với thế hệ đi trước cho nên những mâu thuẫn thường xuyên xảy ra
trong các gia đình và các mối quan hệ xã hội liên quan đến giới trẻ. Kết nối trẻ
giúp cho những mâu thuẫn này tìm được hướng giải quyết thông qua những tâm
sự, trao đổi mà giới trẻ bộc bạch. Hơn thế nữa, chương trình còn giúp giới trẻ thể
hiện bản thân họ – một nhu cầu rất lớn của thanh thiếu niên thông qua hình thức
hùng biện.
Trên đây là tốp 10 chương trình mà khán giả trẻ yêu thích hơn cả trong các
chương trình hiện có của VTV6. Nhìn vào bảng tổng kết ta nhận thấy mặc dù
khán giả trẻ thích thú với các chương trình này nhưng chưa có chương trình nào
đạt tới tỉ lệ quá 50% số phiếu điều tra. Đây là câu hỏi lớn dành cho lãnh đạo
VTV6.
Bảng 4: So sánh với các kênh khác (VTV1, VTV2, VTV3)
Phương án Số phiếu có ý kiến Tỉ lệ %
191 43.91 có
244 56.09 Không
435 100 Tổng
Khi được hỏi VTV6 có hấp dẫn hơn VTV1, VTV2, VTV3 không thì có
56.09% số phiếu trả lời là không. Họ đưa ra rất nhiều lý do khi nêu quan điểm này
như:
- Chương trình của VTV6 phát lại nhiều
- Không phát sóng rộng rãi
- Chưa thông tin đầy đủ về cuộc sống
- Chưa có các showgames hấp dẫn bằng VTV3
- VTV1, VTV2, VTV3 phong phú, hấp dẫn hơn
- Các chương trình cố làm ra vẻ trẻ chứ chưa thật sự trẻ
v..v...
Bảng 5: Tốp 10 chương trình không yêu thích của khán giả trên kênh VTV6
90
Luận văn thạc sĩ Báo chí học Tên chương trình Phiếu có ý kiến Tỉ lệ %
Nhà tròn 78 17.93
Nút Rec của tôi 74 17.01
Toà tuyên án 64 14.71
Quán cà phê khoá sol 61 14.0
Vân tay 54 12.5
Sinh ra từ làng 46 10.57
Chai thuỷ tinh 46 10.57
Kết nối trẻ 44 10.11
Chát với V6 39 8.97
7.36 Gia đình trẻ – nhà đẹp 32
B¶ng tæng hîp 10 ch¬ng tr×nh kh¸n gi¶ kh«ng thÝch
xem trªn VTV6 khiÕn chóng t«i thËt sù ng¹c nhiªn. §øng
®Çu tèp 10 ch¬ng tr×nh lµ Nhµ trßn mét ch¬ng tr×nh
mµ theo ®Þnh híng cña nhµ ®µi ®©y sÏ lµ ch¬ng tr×nh
rÊt hÊp dÉn víi c¸c b¹n trÎ võa tèt nghiÖp phæ th«ng.
“Nhà tròn là không gian tâm tình, nơi giới trẻ được lắng nghe, chia sẻ, những tâm
tư tình cảm và hỗ trợ những kỹ năng sống cần thiết. Thông qua việc giáo dục về
những kỹ năng đó, giới trẻ sẽ có thêm nguồn sức manh và lập luận để dám đương
đầu, chấp nhận, giải quyết những vấn đề khó khăn trong cuộc sống của một người
trẻ trưởng thành. Khán giả trẻ được thảo luận và tìm cách giải quyết giúp các khán
giả khác của chương trình những vấn đề về tâm sinh lý”.
Xét về tính định hướng và giáo dục của nhà đài về nội dung chương trình
chúng ta thấy rất ý nghĩa và thiết thực, vậy câu hỏi đặt ra là tại sao giới trẻ lại
không thích?
Khi lựa chọn phương án này, những bạn trẻ không thích Nhà tròn đã nêu ra
các lý do như sau:
1. Đây là chương trình đòi hỏi phải tư duy nhiều, có những ý tưởng mà
người xem không hiểu nổi
91
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
2. Đơn điệu, dẫn chương trình không đẹp
3. Cách đưa thông tin khô khan, trường quay không đẹp
4. Các ý tưởng đưa ra lan man, thiếu tính thuyết phục, chưa nêu ra cách
giải quyết cụ thể
5. Người xem có cảm giác chương trình không thật
v.v…
Một số các chương trình đã xuất hiện ở cả hai bảng tổng hợp trong tốp 10
chương trình yêu thích và không yêu thích như Toà tuyên án, Kết nối trẻ, gia đình
trẻ – nhà đẹp chứng tỏ các chương trình này đang có hiệu ứng mạnh mẽ với dư
luận xã hội. Thông thường những chương trình gây ra các quan điểm trái chiều
nhau sẽ có khả năng tác động lớn đến công chúng, vì chính việc trao đổi và tranh
luận giữa các nguồn thông tin sẽ khiến cho khán giả nảy sinh những ý tưởng mới.
Nhà đài trên cơ sở đó sẽ phát hiện ra những nội dung mới, đề tài mới cần định
hướng và giáo dục cho công chúng.
Bảng 6: Ý kiến của khán giả trẻ về tính định hướng, giáo dục trên VTV6
Phương án Số phiếu có ý kiến Tỉ lệ %
có 134 30.8
Không 301 69.2
Tổng 435 100
Với câu hỏi “Tính định hướng và giáo dục có làm cho các chương trình của
VTV6 già đi không?” chúng tôi nhận được ý kiến như bảng 8 đã thể hiện. Có
301/435 phiếu chiếm 69.2% nhận định VTV6 sẽ không bị già đi vì truyền tải
những thông tin mang tính định hướng và giáo dục (tốp 10 chương trình khán giả
yêu thích đã chứng minh cho nhận định này). Song, tỉ lệ chênh lệch giữa hai
hướng quan điểm trái ngược nhau chưa thật sự cách biệt: 30.8% số phiếu cho rằng
VTV6 sẽ bị già đi. Đây chính là vấn đề nhận thức của giới trẻ về tính định hướng,
92
Luận văn thạc sĩ Báo chí học giáo dục hiện đang thể hiện trên các chương trình thuộc tất cả các kênh của Đài
Truyền hình Việt Nam chứ không riêng VTV6.
Bảng 7: Những chương trình có tính định hướng và giáo dục cao
Phiếu có ý kiến
Tỉ lệ %
Toà tuyên án
91
20.92
Đối thoại trẻ
42
9.66
Thư viện cuộc sống
37
8.51
Kết nối trẻ
32
7.36
Thế hệ tôi
32
7.36
Tên chương trình
Chúng tôi đã tổng hợp và lựa chọn 5 chương trình khán giả cho rằng có
tính định hướng giáo dục cao theo tỉ lệ phiếu có ý kiến. Toà Tuyên án được khán
giả cho là tập trung nhiều tính định hướng và giáo dục hơn cả, chiếm 20.92%
trong khi Đối thoại trẻ – xếp thứ hai theo đánh giá của khán giả trẻ chỉ chiếm
9.66%. Ngoài ra, tốp 5 chương trình này bao gồm cả những chương trình thuộc
tốp các chương trình được yêu thích và các chương trình không yêu thích của giới
trẻ. Rõ ràng, tính định hướng và giáo dục vẫn chưa tìm được cách thể hiện tốt
nhất trong các thông tin mà VTV6 truyền tải.
Bảng 8: Đánh giá của khán giả trẻ về các chương trình trên VTV6
Đánh giá Số phiếu có ý kiến Tỉ lệ (%)
Rất hấp dẫn 70 16.09
Hấp dẫn 171 39.31
Bình thường 151 34.71
Kém hấp dẫn 43 9.89
Tổng 435 100
VTV6 đã đến với các khán giả trẻ hơn 1 năm, các chương trình luôn cố
gắng lôi cuốn thanh thiếu niên thông qua nội dung và hình thức thể hiện: 16.09% 93
Luận văn thạc sĩ Báo chí học và 39.31% là tỉ lệ khán giả cho rằng VTV6 rất hấp dẫn và hấp dẫn. Song, VTV6
là một chương trình mới về mọi phương diện và nó như một người trẻ đang tìm
cách định hình vóc dáng tương lai của mình, nên ít nhiều nó còn có những hiệu
ứng chưa tích cực lắm (có tới 34.71% khán giả cho rằng VTV6 rất bình thường,
9.89% khán giả cho rằng VTV6 kém hấp dẫn).
Bảng 9: Tỉ lệ cho rằng V6 thành kênh yêu thích
Nhóm khán giả ý kiến
Không Có
Học sinh 8 56
24.67 21.62
Sinh viên 29 169
74.49 78.39
Các ngành nghề 2 0
khác 0.88 0
Tổng 227 100 37 100
Có tới 52.18% (227/435 phiếu) khán giả trẻ cho rằng VTV6 sẽ là kênh
truyền hình yêu thích của giới trẻ trong tương lai; 8.51% (37/435 phiếu) khán giả
có ý kiến ngược lại và 39.31% (171/435 phiếu) có ý kiến khác như: Chưa biết;
Nếu VTV6 có những điều chỉnh phù hợp thì giới trẻ sẽ yêu thích hơn; VTV6 cần
hấp dẫn và có nhiều chương trình thu hút các nhóm khán giả trẻ và đặc biệt là nên
ít phát sóng lại các chương trình để tránh gây nhàm chán; rất hy vọng là như
thế…
94
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
TIỂU KẾT
VTV6 là kênh truyền hình thể hiện vai trò định hướng và giáo dục thông
tin cho giới trẻ rất đậm đặc. Sự ra đời của kênh dẫu rằng có muộn hơn so với yêu
cầu xã hội song sự thật là VTV6 ra mắt là rất cần thiết tại thời điểm này.
Những chương trình mà VTV6 xây dựng đều hướng tới mục tiêu vừa đáp
ứng nhu cầu thông tin, vừa định hướng và giáo dục cho công chúng trẻ trong quá
trình tiếp nhận thông tin. Tuy không tạo ra hiệu ứng xã hội mạnh mẽ giống như
VTV3 khi nó ra đời, nhưng những gì mà VTV6 đang thể hiện, đang xây dựng và
hướng tới chắc chắn sẽ giúp cho nó chiếm lĩnh được công chúng khán giả. Những
người trẻ chờ đợi điều này, họ mong muốn có một sân chơi riêng của để lĩnh hội
thông tin và đặc biệt hơn là để thể hiện bản thân mình. Do vẫn trong thời gian
phát sóng thử nghiệm nên các bạn trẻ trên toàn quốc ở tất cả các vùng miền chưa
có nhiều cơ hội tiếp cận với VTV6. Thêm vào đó, thời hạn phát sóng thử nghiệm
kéo dài hơn dự tính, nên khán giả trẻ đang có biểu hiện nản chí khi chờ đợi.
Những khán giả đã trở thành khán giả quen thuộc của VTV6 cũng bày tỏ
rằng, họ chưa thật sự hài lòng về kênh truyền hình của lứa tuổi mình với một số
các góp ý như sau: VTV6 nên rút ngắn thời lượng một số chương trình hơn nữa.
Giới trẻ là những người khá năng động, và họ không thích ngồi trước màn hình
hàng giờ để theo dõi các ý kiến tranh luận của người khác. Xin đơn cử một ý kiến
của bạn Phạm Thị Đông – SV lớp CBC1B trường Cao đẳng truyền hình cho rằng:
Nhu cầu của giới trẻ là ngắn, thẳng, trúng và đúng. Trong đó, ngắn là về thời gian
tiếp nhận, thẳng là đề cập trực tiếp đến cái mà họ muốn biết, trúng là đề cập
trúng vấn đề mà họ quan tâm, cuối cùng đúng là thông tin đúng sự thật, đồng thời
gợi ý cho họ cách ứng xử đúng với các tình huống đó. Nhìn chung, để thật sự trở
thành kênh truyền hình yêu thích của công chúng trẻ, VTV6 sẽ phải quan tâm
nhiều hơn nữa đến những ý kiến phản ánh của giới trẻ.
VTV6 đang bước những bước đi đầu tiên và nó đã đứng vững vàng bằng
cách thiết lập mô hình hoạt động hiệu quả, hệ thống phóng viên và cộng tác viên
95
Luận văn thạc sĩ Báo chí học là những người trẻ năng động, nhiệt tình và tài năng. Có thể nói, sẽ không lâu nữa,
VTV6 sẽ tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ về công chúng trẻ với các kênh VTV1,
VTV2, VTV3…
96
CHƯƠNG III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ XUNG QUANH VIỆC NÂNG CAO TÍNH
ĐỊNH HƯỚNG, GIÁO DỤC VÀ PHÁT TRIỂN KÊNH TRUYỀN
HÌNH DÀNH CHO GIỚI TRẺ
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Luật báo chí nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định Nhiệm
vụ và quyền hạn của báo chí là “…góp phần ổn định chính trị, nâng cao dân trí,
đáp ứng nhu cầu văn hoá lành mạnh của nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc…” và “Phản ánh, hướng dẫn dư luận xã hội; làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của nhân dân”6.
Luật báo chí đã chỉ rõ, mỗi người dân Việt Nam đều có quyền hưởng thụ
và tiếp nhận các thông tin báo chí, và nhiệm vụ của các cơ quan báo chí là đáp
ứng quyền lợi đó cho nhân dân. Bên cạnh nhiệm vụ đáp ứng quyền lợi về tiếp
nhận thông tin, báo chí còn phải tham gia vào việc định hướng và giáo dục nhân
dân sao cho chất lượng cuộc sống được nâng cao. Đài truyền hình Việt Nam đã và
đang tiếp tục thực hiện rất tốt theo quy định của luật báo chí. Việc ra đời các kênh
truyền hình chuyên đối tượng như VTV4, VTV5, VTV6 đã chứng minh chủ
trường đáp ứng nhu cầu thông tin và mục tiêu thực hiện nhiệm vụ định hướng,
giáo dục cho công chúng truyền hình của nhà đài.
Thanh thiếu niên là thành phần xã hội giữ vai trò quan trọng đối với vận
mệnh của đất nước trong tương lai, việc đáp ứng nhu cầu thông tin cho họ là yêu
cầu hết sức thiết yếu. Tuy nhiên, làm thế nào để định hướng và giáo dục công
chúng trẻ thông qua các chương trình truyền hình là cả một vấn đề. Bởi đây là
nhóm công chúng đa thành phần và đa thị hiếu. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bẩy
BCH T.Ư Đảng (Khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CHH, HĐH đã đưa ra nhiều giải pháp quan trọng,
trong đó có nhiệm vụ tăng cường giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối sống
6 Luật báo chí sửa đổi, bổ sung số 12/1999/QH10 ngày 12 tháng 6 năm 1999. Điều 6. 97
Luận văn thạc sĩ Báo chí học văn hoá, ý thức công dân để hình thành thế hệ thanh niên có phẩm chất tốt đẹp, có
khí phách…” Và, báo chí trong đó có truyền hình sẽ là công cụ hữu hiệu tham gia
thực hiện nhiệm vụ này. Trong bối cảnh tình hình mới của đất nước, việc giáo dục
thế hệ trẻ cần được quan tâm ở nhiều khía cạnh. Cần xây dựng môi trường xã hội
lành mạnh để thanh niên được rèn luyện, cống hiến và trưởng thành. Đồng thời,
tạo cho thanh niên cơ hội để tham gia các hoạt động vui chơi giải trí lành mạnh,
hưởng thụ văn hoá, lối sống đẹp,lành mạnh để nâng cao sức khoẻ và tinh thần.
Tạo ra nhiều công trình, tác phẩm có giá trị tư tưởng, có tính định hướng thẩm mỹ
cao góp phần xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, hình thành lối sống văn
hoa và ý thức công dân cho thanh niên. Hơn nữa, cần phát huy khả năng sáng tạo,
nhu cầu vươn tới sự hoàn thiện và mong muốn thể hiện bản lĩnh của thanh niên,
biến quá trình giáo dục thành “tự giáo dục” đối với mỗi thanh niên. Bên cạnh đó,
điều quan trọng trong công tác giáo dục thanh niên chính là lựa chọn trúng những
vấn đề than niên đang quan tâm, khát khao vươn tới. Thanh niên phải được đặt ở
vị trí trung tâm, là những người vừa thiết kế ý tưởng, vừa tổ chức thực hiện, vừa
trực tiếp tham gia vào các hoạt động. Quan trọng hơn, khi quá trình giáo dục đã
thấm vào thanh niên một cách tự giác, góp phần định hướng giá trị, chuẩn mực
hành vi cho thanh niên.
Nghị quyết T.Ư 7 (khoá X) đã chỉ đạo: “Đảng, Nhà nước và toàn xã hội
chăm lo, tạo điều kiện, môi trường để thanh niên rèn luyện, cống hiến và trưởng
thành; được học tập, có việc làm, nâng cao thu nhập, có đời sống văn hoá, tinh
thần lành mạnh”. Việc giáo dục thanh niên cần được đổi mới về phương thức tiếp
cận thông tin qua hệ thống công cụ: sách, báo, phim ảnh, Internet, các phương
tiện truyền thông đa phương tiện… Các đơn vị cần chủ động, sáng tạo, tranh thu
các nguồn lực để tăng cường và đổi mới phương thức giáo dục đối với thanh
thiếu niên.
Như vậy, lãnh đạo Đài và Ban biên tập VTV6 đã xác định rất rõ về việc
định hướng, giáo dục cho giới trẻ. Sẽ không có những bài giảng đạo đức của
người lớn với thanh thiếu niên mà cách định hướng tốt nhất là để cho giới trẻ thảo
luận, bày tỏ quan điểm, thể hiện kinh nghiệm thực tiễn và tìm kiếm sự thống nhất. 98
Luận văn thạc sĩ Báo chí học Bởi lẽ, mục đích định hướng và giáo dục là hướng giới trẻ tới những giá trị tốt
đẹp, những nhận thức đúng đắn. Giới trẻ là những người rất giỏi về thẩm định, họ
sẽ nhanh chóng nhận ra những chân giá trị của cuộc sống để điều chỉnh hành vi và
ý thức của họ.
Sau hơn một năm phát sóng thử nghiệm, các chương trình của VTV6 đã
thể hiện rất tốt tính định hướng và giáo dục cho thanh thiếu niên trong thời đại
ngày nay. Tuy nhiên, vì những lý do khách quan mang lại nên VTV6 chưa thật sự
thu hút đông đảo công chúng trẻ nên phần nào nó hạn chế khả năng định hướng
và giáo dục tới nhóm đối tượng này. Chúng tôi đã tổng hợp những nhân tố ảnh
hưởng đến hiệu quả tác động tới công chúng của VTV6 qua một số khía cạnh sau:
Hiện nay VTV6 đang phát trên truyền hình cable nên rất nhiều khán giả
trẻ không có điều kiện tiếp nhận. Đặc biệt, đối tượng mà VTV6 hướng tới lại là
thanh thiếu niên mà phần lớn trong nhóm này là các học sinh - sinh viên đang
phải học tập căng thẳng về thời gian hoặc sống xa nhà. Điều kiện tiếp nhận của họ
gặp rất nhiều khó khăn cả với các kênh truyền hình phát sóng rộng rãi như VTV1,
VTV2, VTV3… chứ không riêng gì VTV6.
VTV6 đang nặng về việc chau chuốt hình thức tác phẩm nhằm cố gắng
thể hiện tính định hướng và giáo dục song hình thức thể hiện chưa thật sự hấp dẫn
nên nhiều chương trình trở nên nhàm chán và có phần khô khan như: Nhà tròn,
Kết nối trẻ, Sinh ra từ làng, Đối thoại trẻ, Khi người ta trẻ: hãy tin vò tuổi trẻ. Đây
là những chương trình sử dụng hình thức đối thoại là chủ yếu và có thời lượng
phát sóng khá dài. Theo ý kiến chủ quan của tác giả, hình thức đối thoại rất có
hiệu quả để giới trẻ “tự giáo dục” chính họ, song chính hình thức đối thoại theo
chủ để đòi hỏi thời lượng chương trình kéo dài. Thực tế, VTV6 chưa thành công
với các chương trình có thời lượng dài vì nó chưa tìm được cách thức thể hiện hấp
dẫn nhất.
Chủ trương xã hội hoá truyền hình là một cách thức xây dựng các chương
trình truyền hình mới ở Việt Nam, nhất là với các bạn trẻ chưa qua trường lớp đào
tạo về truyền hình. Không chỉ có vậy, vấn đề biên tập các sản phẩm của các tổ
chức, đơn vị tham gia sản xuất không chuyên không phải đơn giản. 99
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Nhìn chung, VTV6 vừa mới trình làng, nó là thế hệ sinh sau đẻ muộn nên
không thể tránh khỏi những hạn chế, khó khăn. Nhưng tác giả có niềm tin rằng,
đây sẽ là một kênh truyền hình vững mạnh không thua kém gì VTV3 và chắc
chắn sẽ cạnh tranh mạnh mẽ với VTV3 về công chúng trẻ.
Sau quá trình nghiên cứu, chúng tôi xin mạnh dạn đề xuất một số kiến
nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thông tin cho VTV6. Chúng tôi cũng
thống nhất là: khi VTV6 chiếm lĩnh được niềm tin và sự yêu thích của đông đảo
công chúng trẻ, tất yếu tính định hướng và giáo dục cũng được triển khai và có tác
động mạnh mẽ tới họ. (Tính tất yếu khách quan này đã được chứng minh ở
chương I, và chương II).
I. Giải pháp cho nội dung
Tính định hướng và giáo dục nằm trong nội dung của các chương trình
truyền hình dành cho giới trẻ, bởi vậy để phát huy tính chất này, cần phải có
những cải tiến đối với VTV6 trong quá trình sáng tạo.
Nội dung chưa đề cập nhiều đến thiếu nhi (từ 10 đến 15 tuổi) và các bạn
trẻ nông thôn. Hai đối tượng này chưa được thoả mãn nhu cầu thông tin qua các
chương trình, trong khi họ lại là thành phần khá đông trong nhóm công chúng trẻ
của VTV6. Cần bổ sung thêm các chương trình, các thông tin dành cho họ. Trong
bài báo “Truyền hình Việt Nam trước áp lực công chúng đa nhu cầu, đa thị hiếu”
đăng trên Người làm báo số 4 (295) tháng 9 năm 2008, Ông Trần Đăng Tuấn –
Phó Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam đã nhận định: “cho đến nay, đa số cư
dân Việt Nam vẫn sống ở nông thôn, một bộ phận không nhỏ còn nghèo. Truyền
hình – dẫu là Đài Quốc gia hay Đài địa phương – không được vô tình hay hữu ý
mà thiếu các chương trình hướng tới đa số, hướng tới nông thôn, nông dân, vùng
sâu, vùng xa”. Theo ý kiến chủ quan của tác giả, nên phát triển xã hội hoá truyền
hình về các vùng nông thôn, khuyến khích các bạn trẻ nông thôn tham gia thể
hiện ý tưởng truyền hình và có trao giải thưởng. Sau đó, chuyển các ý tưởng này
cho các bạn sinh viên chuyên ngành báo chí ở các trường là con em nông thôn
trực tiếp xây dựng thành một tác phẩm. hoàn chỉnh.
100
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Mở các cuộc thi tìm kiếm ý tưởng từ tất cả các bạn trẻ ở khắp các vùng
miền trên tổ quốc. Giới trẻ vốn là những người rất sáng tạo, chắc chắn họ sẽ có
những ý tưởng thú vị đóng góp cho VTV6.
Vấn đề định vị nội dung các chương trình của VTV6 được trình bày khá
rõ trong Đề án của kênh, song nó mới chỉ dừng ở việc cố gắng đảm bảo tính định
hướng và giáo dục cho mỗi chương trình chứ chưa tạo dựng được sương sống cho
toàn bộ kênh. Các chương trình có biểu hiện vụn vặt và chưa tạo thành một khối
hoàn chỉnh. Điều này một phần do yếu tố khách quan mang lại. Nếu như VTV1
xác định vị nội dung là kênh thời sự, chính trị tổng hợp; VTV3 là kênh thể thao và
giải trí và chúng đều phục vụ tất cả các đối tượng thì VTV6 lại phải tổng hợp tất
cả các nội dung của 2 kênh (thanh thiếu niên vốn là nhóm khán giả đa thị hiếu, đa
nhu cầu) và chỉ phục vụ riêng thanh thiếu niên. Việc phản ánh quá nhiều mặt
trong đời sống xã hội không phải đơn giản. Vấn đề đặt ra là: VTV6 cần phải thiết
kế lại đề án trên cơ sở đề án cũ trong đó thiết lập được xương sống cho toàn bộ
kênh theo thời gian cố định để giúp công chúng chủ động hơn khi theo dõi. Nếu
như khán giả xem các kênh truyền hình khác có sự phân hoá rõ rệt về mục đích
xem truyền hình, thì VTV6 cần phải hạn chế tới mức tối đa điều này. VTV6 phải
làm sao để cả các bạn trẻ có mục đích học tập lẫn các bạn trẻ chỉ xem truyền hình
để giải trí bị cuốn hút. Có như vậy, hiệu quả định hướng và giáo dục của kênh
mới cao. Hiệu quả sẽ cao hơn rất nhiều lần nếu bằng cách thức cải tiến cách thể
hiện những nội dung mang tính lý luận, sách vở để thu hút được những bạn trẻ
vốn không mấy mặn mà với học hành, nghiên cứu.
VTV6 nên đặt hàng với Trung tâm sản xuất phim truyền hình của Đài để
có những bộ phim hay về giới trẻ Việt Nam thay vì phát sóng nhiều phim truyền
hình nước ngoài như hiện nay. Thời gian qua, VTV3 đã phát sóng những bộ phim
truyền hình về giới trẻ mà thanh thiếu niên rất yêu thích như: Nhật ký Vàng Anh,
Bỗng dưng muốn khóc. Chắc chắn, những bộ phim như vậy sẽ lôi kéo gián giả trẻ
đến với VTV6.
Do VTV6 đang phát sóng trên truyền hình cable nên nó tập trung phục vu
nhu cầu của các bạn trẻ có điều kiện tiếp nhận (đây là nhóm công chúng có điều
101
Luận văn thạc sĩ Báo chí học kiện kinh tế gia đình khá, chủ yếu sống ở các đô thị), nên các thông tin đề cập
nhiều tới các trò giải trí, tiêu khiển “sành điệu”. Đến khi phát sóng rộng rãi,
VTV6 cần có những điều chỉnh hợp lý về nội dung sao cho tất cả các bạn trẻ đều
cảm thấy thoả mãn về thông tin, giải trí.
II. Giải pháp về hình thức tác phẩm
Các chương trình VTV6 xây dựng đã nêu ra những nội dung rất “nóng”
của giới trẻ hiện nay. Song, yếu tố đang cản trở sự thành công của các chương
trình chính là hình thức tác phẩm. Chúng tôi xin nêu ra một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng chuyển tải tác phẩm của VTV6 như sau:
Trước hết là về kỹ thuật sản xuất: nhiều góc máy do VTV6 sáng tạo đang
khiến cho công chúng khán giả không hài lòng, điều này cần có những nhìn nhận
lại về sự sáng tạo. Một chương trình 30 phút mà quá nhiều cảnh quay lắc lư như
thể người quay phim đang say rượu sẽ khiến cho khán giả mệt mỏi khi theo dõi.
Thời lượng một số chương trình quá dài, ví dụ: Sinh ra từ làng, Nhà tròn,
Khi người ta trẻ – hãy tin vào tuổi trẻ, Đối thoại trẻ… Các chương trình quá dài
mà chủ yếu là thảo luận sẽ khiến cho khán giả cảm giác như họ đang dự họp và
rất buồn tẻ.
Hơn nữa, cách thức sắp xếp trường quay cũng không thật sự hấp dẫn,
khoảng tối quá nhiều trong khi giới trẻ lại thích những sân khấu rực rỡ ánh sáng
và sôi động.
Nên cải tiến cách đặt tên các trương chình. Theo nghiên cứu của chúng
tôi, khán giả trẻ không mấy thích thú với những cái tên như: Nút Rec của tôi (My
Rec), Bản tin con cua, Khi người ta trẻ: hãy tin vào tuổi trẻ… những cái tên này
khó nhớ, không hấp dẫn và giống như các khẩu hiệu. Kho tàng ngôn ngữ của
người Việt rất phong phú, giới trẻ dù rất yêu thích sự mới lạ nhưng họ không phải
là những người thờ ơ với những lời hay, ý đẹp xuất phát từ ngôn ngữ Việt. Nên có
một cuộc thi để tìm kiếm cách đặt tên cho các chương trình giống như VTV6 đã
làm khi tổ chức thi tuyển lôgô cho VTV6. Chắc chắn sẽ rất hiệu quả.
102
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Giới trẻ vốn là nhóm công chúng luôn luôn thay đổi nhu cầu, thị hiếu. Một
chương trình mặc dù rất thú vị tại thời điểm hiện tại nhưng sau một thời gian
không có sự thay đổi mới mẻ cũng sẽ làm cho họ chán nản. Xin đơn cử một ví dụ:
chương trình Toà Tuyên án, thời gian đầu khán giả trẻ rất thích theo dõi, đến nay
họ bắt đầu cảm thấy nhàm chán vì tất cả các chương trình đều tập trung tại toà án,
xét xử và tuyên án. Do vậy, VTV6 cần thường xuyên tổ chức nghiên cứu tâm lý
tiếp nhận của công chúng trẻ. Cách đơn giản nhất là liên hệ với các đơn vị tham
gia sản xuất VTV6 ngoài Đài THVN tiến hành nghiên cứu trên cơ sở hướng dẫn
của kênh.
III. Về tổ chức thực hiện
Trước hết, phải ghi nhận xã hội hoá truyền hình là giải pháp rất hữu hiệu
để phát triển kênh truyền hình thanh thiếu niên. Bằng cách này, nhà đài có thể huy
động trí tuệ của giới trẻ – thành phần có tư duy sáng tạo rất cao. Hơn nữa, những
gì mà thanh thiếu niên nghĩ và được trực tiếp thể hiện chắc chắn sẽ tác động
nhanh chóng đến những người cùng tuổi với họ hơn. Chính việc khuyến khích các
bạn trẻ tham gia sáng tạo tác phẩm truyền hình đã thể hiện vai trò định hướng và
giáo dục của nhà đài với thế hệ trẻ. Cụ thể là: các bạn trẻ được tham gia thể hiện
mình một cách hợp pháp và được học hỏi những điều mới từ một loại hình truyền
thông – sản phẩm của nền văn minh xã hội. Nhờ đó, các bạn trẻ hạn chế thời gian
bỏ trống, hạn chế họ tham gia vào những trò tiêu khiển vô bổ va có hại. Trong quá
trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã nhận được rất nhiều các ý kiến bày tỏ niềm
khao khát được tham gia sáng tạo tác phẩm truyền hình.
Cô Nguyễn Minh Hải, Phó trưởng khoa Báo chí trường Cao đẳng truyền
hình cho biết: VTV6 đã tạo ra một sàn diễn tuyệt vời cho các bạn trẻ trong
trường. Nhiều em sinh viên lớp báo chí, quay phim trước đây rất nhác học thì nay
đã trỏ nên say sưa và chăm chỉ hơn sau khi được thử sức làm chương trình cho
VTV6. Bởi các em đã tự nhận thấy mình cần phải học những gì để có thể sáng tạo
một tác phẩm truyền hình. Đặc biệt hơn, sau khi được tham gia sáng tạo, các em
cũng chú tâm theo dõi các chương trình của VTV6 và có những nhận xét rất xác
103
Luận văn thạc sĩ Báo chí học đáng. Đó là hiệu quả rất đặc biệt mà VTV6 đem lại cho việc dạy và học chuyên
ngành truyền hình ở trường tôi.
Thời gian đầu, VTV6 đã phát huy rất tốt tính chất này, song đến nay
dường như việc huy động vai trò của thanh thiếu niên tham gia vào sản xuất
chương trình truyền hình đã hạn chế. Tất nhiên, các chương trình hiện có vẫn do
các phóng viên trẻ đảm nhiệm nhưng rõ ràng, tư duy sáng tạo của đại đa số sẽ
phong phú hơn của một nhóm người. Nhà đài nên phát huy tinh thần của chủ
trương xã hội hoá truyền hình để sản xuất ra những chương trình truyền hình thật
sự hấp dẫn công chúng. Thiết nghĩ VTV6 không nhất thiết phải thiết lập một lực
lượng lớn các phóng viên chuyên nghiệp, mà nên phát triển rộng rãi hệ thống
cộng tác viên đặc biệt là nhóm các sinh viên chuyên ngành báo chí trong một số
trường có đào tạo về ngành nghề này. Điều này có thể giúp VTV6 giảm được chi
phí thường xuyên về tiền lương để đầu tư cho chất lượng chương trình. Hơn nữa,
chương trình được thực hiện bởi đa đối tượng sẽ đem lại cái nhìn đa chiều hơn,
phong phú hơn về tâm tư giới trẻ. Thời gian đầu mới thành lập, VTV6 đã huy
động số lượng đông đảo HS-SV các trường báo chí tham gia sản xuất, điều này đã
mang lại sự tươi mới cho chương trình. Các vấn đề nóng của xã hội qua cái nhìn
của các phóng viên không chuyên được thể hiện một cách sinh động. Các bạn trẻ
được bày tỏ quan điểm, cái nhìn của mình về mọi lĩnh vực của cuộc sống, đặc biệt
họ tự sáng tạo các cách thể hiện độc đáo… Tuy nhiên, đến thời điểm này, do cơ
chế tổ chức nên đã thu hẹp sự tham gia sản xuất của sinh viên các trường báo chí
(ví dụ: Chương trình Thế hệ tôi).
Bên cạnh nội dung trên, vấn đề về cách thức chỉnh sửa thông tin đối với
tác phẩm do mạng lưới cộng tác viên thực hiện đang gây ra nhiều bất đồng về
quan điểm và khiến cho mạng lưới này chán nản. Thực tế, nhà đài đã chủ trương
phát huy tinh thần sáng tạo của giới trẻ thông qua hệ thống cộng tác viên nhưng
khi những sáng tạo này được gửi lên thì nó bị điều chỉnh khá nhiều khiến cho các
ý tưởng sáng tạo bị biến dạng. Nhóm cộng tác viên từ các trường đào tạo chuyên
ngành báo chí là những sinh viên đang được đào tạo về nghề báo, VTV6 là nơi
104
Luận văn thạc sĩ Báo chí học diễn tập hoàn hảo đối với họ. VTV6 hoàn toàn có quyền điều chỉnh những tác
phẩm còn rất non nớt về cách thức thể hiện để làm cho nó hoàn thiện hơn khi phát
sóng cho đông đảo khán giả theo dõi. Nhưng VTV6 chỉ nên đóng vai trò là người
cung cấp về phương tiện kỹ thuật hoặc điều chỉnh những lỗi về kỹ thuật, gợi mở
cách khơi sâu hơn về ý tưởng, định hướng những ý tưởng thể hiện không phù hợp
với các chuẩn mực xã hội chứ không nên can thiệp quá sâu vào nội dung tác
phẩm. Chính điều này đã gây ra cảm nhận VTV6 cố làm ra trẻ chứ chưa thật sự
trẻ. Cùng với đó, các cấp sửa băng hình tác phẩm khá rườm rà (ít nhất là 3 cấp)
mà hình thức nhận tác phẩm lại không có cách nào khác ngoài việc cộng tác viên
phải mang lên tận nơi. Đối với những nguồn cộng tác viên ở gần Đài thì chuyện
mang lên để Ban biên tập sửa nhiều lần không quá gây phiền phức, nhưng những
nơi ở xa đài thì việc phải đi về vài lần khiến họ chán nản. Đặc biệt là kế hoạch
nộp băng và sửa băng luôn gấp gáp. Đây là điều mà chúng tôi ghi nhận được khi
phỏng vấn sâu một số thầy cô giáo và các bạn sinh viên các trường: Cao đẳng
truyền hình, Học viện báo chí và tuyên truyền, Đại học khoa học xã hội và Nhân
văn. VTV6 cần có những điều chỉnh về cách thức nhận và điều chỉnh tác phẩm.
Chúng tôi xin đơn cử một giải pháp là: Với những đơn vị sản xuất thuộc Hà Nội,
VTV6 cử biên tập viên xuống tận cơ sở để duyệt và góp ý tác phẩm, cùng với cơ
sở sửa và hoàn thiện tác phẩm. Ở những cơ sở xa như Huế, Sài gòn, nên có phóng
viên và biên tập viên thường trú để làm nhiệm vụ này. Điều này sẽ rút ngắn thời
gian sản xuất cho các dơn vị để họ nhanh chóng bắt tay vào tìm kiếm đề tài mới
và triển khai.
Vấn đề kinh phí cho các ý tưởng trở thành hiện thực còn gặp nhiều trục
trặc. Nhiều bạn sinh viên có ý tưởng sáng tạo rất hay nhưng không có kinh phí để
triển khai nên ý tưởng đành phải gói lại. Hiện nay, do cơ chế chung của Đài
THVN, kinh phí chi trả cho các đơn vị sản xuất quá ít ỏi. Ví dụ: kinh phí sản xuất
một phóng sự cho VTV6 với thời gian khoảng 6 đến 7 phút chỉ được thanh toán
600 ngàn đồng. Với kinh phí này các cơ sở không đủ để chi phí cho quá trình sản
xuất nếu như phải đi xa hơn phạm vi Hà Nội. Để nội dung chương trình phong
phú hơn, giới trẻ trên khắp mọi vùng miền tổ quốc được thoả mãn nhu cầu thông
105
Luận văn thạc sĩ Báo chí học tin, các đề tài không thể chỉ giới hạn phạm vi phản ánh riêng ở Hà Nội. VTV6 cần
có những kiến nghị lên lãnh đạo Đài để có những điều chỉnh hợp lý về chi phí sản
xuất cho các đơn vị hợp tác.
Cuối cùng, VTV6 cần nhanh chóng kết thúc thời gian thử nghiệm và thực
hiện phát sóng rộng rãi, miễn phí. Chúng ta đã xác định đây là kênh định hướng
và giáo dục cho thế hệ trẻ, như vậy rất cần phải phát sóng miễn phí để thu hút giới
trẻ bởi vì đây là nhóm công chúng khó có điều kiện chi trả cho các nhu cầu riêng
của bản thân họ. VTV6 còn khá mới mẻ, các bạn trẻ cũng như các bậc phụ huynh
còn chưa nhận diện hết tính tích cực của kênh truyền hình này đối với họ thì họ sẽ
không mặn mà với ý định chi trả cho việc theo dõi.
Những kiến nghị trên đây được tác giả tổng kết từ kết quả nghiên cứu
luận văn. Tác giả rất hy vọng nó sẽ là các thông tin hữu ích đóng góp với Ban
biên tập VTV6 để kênh ngày càng phát triển hơn.
106
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
TIỂU KẾT
Trên đây là một số kiến nghị và giải pháp mà chúng tôi đưa ra nhằm nâng
cao hơn nữa chất lượng các chương trình của VTV6. Thông qua việc nâng cao
chất lượng chương trình sẽ thể hiện được tính định hướng và giáo dục của VTV6
đối với khán giả trẻ. Những ý kiến nêu ra hoàn toàn dựa trên cơ sở của các ý kiến
khách quan mà quá trình nghiên cứu, khảo sát thực tiễn chúng tôi thu nhận được.
Các bạn trẻ Việt Nam đã và đang chờ đợi kênh truyền hình của riêng họ sẽ
được khởi sắc. Hiện tại là thời điểm VTV6 đang xây dựng nền móng cho mình.
Theo nội dung các chương trình đã phát sóng, có thể nhận thấy VTV6 đang có
những bước khởi đầu vững chắc, các chương trình của kênh đã đảm bảo tính định
hướng và giáo dục một cách chặt chẽ. Tuy nhiên, để chiếm lĩnh được tình cảm
của đông đảo khán giả trẻ, VTV6 cần có những bước chuyển biến mới trong
tương lai.
Xin nhắc lại một lần nữa lời của Ông Trần Đăng Tuấn – Phó Giám đốc Đài
Truyền hình Việt Nam thay cho lời kết của Chương: Tôi và ban biên tập đã đặt
toàn bộ niềm tin vào giới trẻ. Và chỉ có niềm tin đó ấy mới giúp VTV6 thành
công. Không chỉ tôi mà các bạn cũng phải tin vào giới trẻ. Họ hoàn toàn có thể
làm được tất cả mọi việc.
107
KẾT LUẬN
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Định hướng và giáo dục trên truyền hình là tất yếu khách quan. Tính định
hướng thể hiện ở rất nhiều yếu tố như: nội dung thông tin, hình thức thông tin phù
hợp với đối tượng thông tin. Định hướng và giáo dục cần được hiểu là làm cho
các chương trình này tham gia tích cực vào việc cải tạo đời sống thực tiễn.
Những nghiên cứu trong luận văn góp phần chỉ ra các đặc điểm của tâm lý
tiếp nhận cho đối tượng nhằm chứng minh các nội dung cần định hướng cho các
bạn trẻ. Định hướng vừa là giáo dục giới trẻ nhận thức và hành động đúng với
chuẩn mực đạo đức và các quy tắc của xã hội, vừa hướng giới trẻ tới các cách
thức tiếp cận những tri thức mới của nhân loại.
VTV6 là kênh truyền hình dành cho giới trẻ Việt Nam – những người sẽ
nắm giữ tương lai của đất nước. Để thực hiện tốt sứ mệnh lịch sử của mình,
VTV6 cần phải xác định thật rõ ràng về tính định hướng và giáo dục đối với giới
trẻ hiện nay.
Tuy nhiên, phải xác định rằng VTV6 sẽ khó có thể chiễm lĩnh toàn bộ niềm
yêu thích đối với các chương trình truyền hình từ công chúng trẻ. Các chương
trình dành cho giới trẻ trên sóng VTV1, VTV2, VTV3… hiện nay vẫn đang rất
hấp dẫn họ. Hơn nữa, để phát triển tổng thể truyền hình Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục
duy trì các chương dành cho giới trình đơn lẻ trong từng kênh. Vì vậy, tính định
hướng và giáo dục cần được xem xét một cách toàn diện trên toàn bộ các kênh
truyền hình hiện có, sẽ có chứ không riêng VTV6.
Định hướng và giáo dục cho công chúng trẻ là trách nhiệm của tất cả các
cấp, ngành trong đó truyền hình hiện đang thể hiện vai trò đắc lực hơn. Ngoài ra,
thực hiện nhiệm vụ định hướng và giáo dục cho giới trẻ cũng là cơ hội để truyền
hình Việt Nam phát triển. Bởi lẽ, định hướng và giáo dục luôn hướng tới những
giá trị tốt đẹp của cuộc sống và đó cũng là mục đích mà bất kỳ cá nhân nào cũng
hường tới. Như vậy, cả công chúng và nhà đài đều có một mục đích chung khi sản
xuất và đón nhận các tác phẩm truyền hình.
108
Luận văn thạc sĩ Báo chí học Toàn bộ nội dung được trình bày trong luận văn góp phần làm rõ tính tất
yếu của sự định hướng trong công tác truyền hình, và chỉ rõ nhóm công chúng đối
tượng cần có một kênh truyền hình riêng. Đây là kế hoạch thực tiễn để thực hiện
nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó – Chăm lo đời sống vật chất cho thanh
thiếu niên Việt Nam –những người đang dần nắm bắt vận mệnh của đất nước và
sẽ là chủ nhân của đất nước trong tương lai không xa.
109
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
1. Báo cáo tổng kết tại đại hội TƯ. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, wesite của
Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, năm 2008
2. Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tại đại hội TƯ. Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh, wesite của Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh năm 2008
3. Các văn bản pháp luật về xuất bản và báo chí (song ngữ Việt - Anh), NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 1996.
4. TS Hoàng Đình Cúc, TS Đức Dũng: Mấy vấn đề về báo chí hiện đại, NXB
Lý luận chính trị, Hà Nội, năm 2007
5. Đậu Ngọc Đản, Báo chí với sự nghiệp đổi mới, NXB Lao động Hà Nội,
1995
6. Đỗ Anh Đức: Thể loại bình luận truyền hình, luận văn thạc sĩ báo chí 2002
7. TS Đinh Thị Thuý Hằng, Báo chí thế giới: Xu hướng phát triển - NXB
Thông Tấn, Hà Nội 2007
8. Vũ Quang Hào – Ngôn ngữ Báo chí – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
2001
9. Đỗ Quang Hưng, Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 – 1945, NXB Đại học
quốc gia HN, năm 2001
10. Trần Bảo Khánh: Sản xuất chương trình truyền hình, NXB Văn hoá thông
tin Hà Nội, 2003
11. Huỳnh Ngọc Liên: Khi truyền hình Việt Nam tách kênh, tạp chí Người làm
báo, số tháng 7 năm 1998.
12. Nhiều tác giả: Báo chí – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Giáo dục
(tập 1 - 1994); NXB Đại học quốc gia HN (tập 2 – 3 năm 1997; tập 4 năm
2001)
13. Vũ Hào Quang: Ngôn ngữ báo chí, NXB Đại học Quốc gia HN, năm 2001.
110
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
14. Thanh Sơn: Truyền hình thế giới qua thời gian, Tạp chí truyền hình số 1
tháng 4/1999
15. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang: Cơ sở lý luận báo chí
truyền thông, NXB Đại học Quốc gia HN, năm 2007Vũ Quốc Khánh, Dọc
đường tác nghiệp, NXB Thông tấn HN, năm 2006
16. Tài liệu nghiên cứu các Nghị quyết Hội nghị TƯ 5, khoá X, NXB Chính trị
quốc gia, năm 2007
17. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên): Cơ sở lý luận báo chí. NXB Văn hoá - thông tin,
HN năm 1999.
18. Nguyễn Hữu Thụ, Tâm lý học tuyên truyền quảng cáo, NXB Đại học quốc
gia HN, năm 2005
19. Đào Duy Tùng: Một số vấn đề về công tác tư tưởng, Sách giáo khoa Mác
Lênin, HN năm 1985
20. A Mikhailốp, Báo chí hiện đại nước ngoài: Những quy tắc và nghịch lý -
NXB Thông Tấn, Hà Nội 2004
21. Bagirôp – Kaxep, Truyền hình thế kỷ XX chính trị, nghệ thuật, NXB Nghệ
thuật, Matxcơva
22. G. V Cudơnhetxốp, X.L Xvích, A.La. Iurỗpki - Báo chí truyền hình tập 1,
2 – NXB Thông Tấn, Hà Nội 2004.
23. G.V. LAzutina: Cơ sở hoạt đông sáng tạo của Nhà báo
24. Makxim Kuznhesop, Irop Sưkunop – Cách điều khiển cuộc phỏng vấn,
NXB Thông Tấn, Hà Nội năm
25. X.A Mikhailốp, Báo chí hiện đại nước ngoài: Những quy tắc và nghịch lý -
NXB Thông Tấn, Hà Nội 2004.
26. Line Ross, Nghệ thuật thông tin - NXB Thông Tấn, Hà Nội 2004
27. Philippe Gaillard, Nghề làm báo, NXB Thông tấn, năm 2007
111
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
112
PHỤ LỤC
A. MẪU PHIẾU THĂM DÒ DƯ LUẬN
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA BÁO CHÍ
PHIẾU THĂM DÒ DƯ LUẬN
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Chào bạn! Nhằm nắm bắt thực tiễn việc giáo dục và định hướng cho giới
trẻ nước ta trong mọi mặt cuộc sống của Đài truyền hình Việt Nam, chúng tôi tiến
hành điều tra thăm dò ý kiến của các bạn trong độ tuổi thanh thiếu niên. Câu trả
lời của các bạn sẽ cho chúng tôi những nhận định xác đáng về sự ảnh hưởng của
các thông tin trên truyền hình tới giới trẻ, và trên cơ sở đó có những đề xuất với
Đài truyền hình để nâng cao chất lượng thông tin. Rất mong nhận được sự hợp
tác giúp đỡ của các bạn!
Xin bạn cho biết một vài thông tin cá nhân:
Họ và tên:
Tuổi:
Nghề nghiệp:
Nơi ở hiện tại:
Quê quán:
Xin bạn vui lòng đánh dấu vào ô với những câu trả lời mà bạn lựa
chọn trong các câu hỏi sau:
Câu hỏi 1: Bạn có thường xuyên xem truyền hình không?
Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ
Câu hỏi 2: Bạn có tin vào các thông tin trên truyền hình không?
Có Không Thỉnh thoảng
Câu hỏi 3: Bạn đã bao giờ hành động theo những gì bạn xem trên truyền hình
chưa?
113
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Nhiều lần Thỉnh thoảng Chưa bao giờ
Xin bạn kể tên một vài ví dụ:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………..............................................
Câu hỏi 4: Các nội dung trên truyền hình có ảnh hưởng như thế nào đến bạn?
Tích cực Tiêu cực Không ảnh hưởng gì
ý kiến khác:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Câu hỏi 5: Nội dung nào bạn dễ tiếp thu và vận dụng vào thực tiễn cuộc sống
nhất thông qua các chương trình truyền hình?
Thời trang và làm đẹp
Khoa học và công nghệ
Kiến thức chung (toán học, văn học, sinh học…)
Phong tục và văn hoá
Ý kiến khác:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Câu hỏi 6: Bạn có cho rằng, truyền hình là một trường học dạy cho con người
những kiến thức tổng hợp không?
Có Không
Câu hỏi 7: Bạn thích xem các chương trình thuộc kênh truyền hình nào nhất
trong những kênh của Đài truyền hình Việt Nam dưới đây?
VTV3 VTV1
VTV2
Tại sao?
114
Luận văn thạc sĩ Báo chí học ………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Câu hỏi 8: Bạn thường xem các chương trình trên nhằm mục đích gì?
Giải trí
Nâng cao hiểu biết
Vừa giải trí vừa nâng cao hiểu biết
Câu hỏi 9: Theo bạn, những chương trình thuộc các kênh sau phù hợp với người
xem thuộc lứa tuổi nào?
VTV1: Trẻ em Thanh, thiếu niên Trung niên Người cao tuổi VTV2: Trẻ em Thanh, thiếu niên Trung niên Người cao tuổi VTV3: Trẻ em Thanh, thiếu niên Trung niên Người cao tuổi
Câu hỏi 10: Bạn thấy các chương trình mà mình yêu thích được phát sóng vào
thời điểm phù hợp không?
Phù hợp Chưa phù hợp
- Xin bạn nêu cụ thể lý do:
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
Câu hỏi 11: Theo bạn, nội dung gì mà bạn đang rất quan tâm nhưng chưa được
đề cập đến trong các chương trình của Đài Truyền hình Việt Nam?
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
Câu hỏi 12: Xin bạn cho một vài ý kiến đóng góp về tính định hướng và giáo dục
trong các chương trình truyền hình dành cho thanh thiếu niên hiện nay?
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
Xin trân trọng cảm ơn bạn!
115
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG
PHIẾU THĂM DÒ DƯ LUẬN
Chào bạn! Nhằm nắm bắt thực tiễn việc giáo dục và định hướng cho giới
trẻ nước ta trong mọi mặt cuộc sống của Đài truyền hình Việt Nam thể hiện qua
kênh VTV6, chúng tôi tiến hành điều tra thăm dò ý kiến của các bạn trong độ tuổi
thanh thiếu niên. Câu trả lời của các bạn sẽ cho chúng tôi những nhận định xác
đáng về sự ảnh hưởng của các thông tin trên truyền hình tới giới trẻ, và từ đó có
những đề xuất với Đài truyền hình để nâng cao chất lượng thông tin trên kênh
VTV6. Rất mong nhận được sự hợp tác giúp đỡ của các bạn!
Xin bạn cho biết một vài thông tin cá nhân:
Họ và tên: ………………. Tuổi:...............
Nghề nghiệp: ………………………………….........
Nơi ở hiện tại:............................................................
Quê quán:...................................................................
Xin bạn vui lòng đánh dấu vào ô với những câu trả lời mà bạn lựa
chọn trong các câu hỏi sau:
Câu hỏi 1: Bạn có xem các chương trình của VTV6 không?
Có Không
- Xin bạn kể tên một vài chương trình mà bạn đã xem:
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
Câu hỏi 2: Bạn cho biết theo định hướng của Đài truyền hình Việt Nam VTV6 là
kênh truyền hình dành cho đối tượng nào dưới đây?
Trẻ em Trung niên
Thanh - Thiếu niên Người cao tuổi
116
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Câu hỏi 3: Theo bạn nội dung các chương trình của VTV6 hiện nay phần lớn
đang:
Dành cho thanh thiếu niên nông thôn
Dành cho thanh thiếu niên thành thị
Đồng đều cả hai đối tượng trên
Câu hỏi 4: Bạn thích xem những chương trình nào của VTV6 nhất?
Nối mạng ý tưởng Vân tay
Nút Rec của tôi Gương mặt mới
Nhà tròn Quán cà phê khoá sol
Chai thuỷ tinh Thực đơn âm nhạc
Vitamin C Vũ điệu xanh
Kết nối trẻ Gia đình trẻ – nhà đẹp
Toà tuyên án Khi người ta trẻ: “Hãy tin vào tuổi trẻ”
Thế hệ tôi Đối thoại trẻ
Sinh ra từ làng Thư viện cuộc sống
Chat với VTV6
Tại sao?
…………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………….
Câu hỏi 5: Bạn không thích những chương trình nào nhất trong các chương trình
của VTV6?
Nối mạng ý tưởng Thế hệ tôi
Nút Rec của tôi Sinh ra từ làng
Nhà tròn Chat với VTV6
Chai thuỷ tinh Vân tay
Vitamin C Gương mặt mới
Kết nối trẻ Quán cà phê khoá sol
Toà tuyên án Thực đơn âm nhạc
117
Luận văn thạc sĩ Báo chí học Vũ điệu xanh Đối thoại trẻ
Gia đình trẻ – nhà đẹp Thư viện cuộc sống
Khi người ta trẻ: “Hãy tin vào tuổi trẻ”
Tại sao?
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Câu hỏi 6: Bạn đánh giá thế nào về chất lượng các chương trình của VTV6?
Bình thường Rất hấp dẫn
Kém Hấp dẫn
Câu hỏi 7: VTV6 có hấp dẫn hơn các kênh VTV1, VTV2, VTV3 không?
Không Có
- Xin bạn cho biết lý do:
Câu hỏi 8: Bạn học hỏi được gì thông qua các chương trình của VTV6?
Thời trang và làm đẹp
Khoa học và công nghệ
Kiến thức chung (toán học, văn học, sinh học…)
Phong tục và văn hoá
Ý kiến khác:
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Câu hỏi 9: Theo bạn, chương trình nào của VTV6 mang tính định hướng và giáo
dục cao nhất?
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
- Chương trình đó đề cập về những nội dung gì?
118
Luận văn thạc sĩ Báo chí học ....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
Câu hỏi 10: Bạn nghĩ sao khi biết: Rất nhiều các chương trình của VTV6 hiện
nay là do các bạn Sinh viên thực hiện?
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
...................................................................................................................................
Câu hỏi 11: Bạn có cho rằng tính định hướng và giáo dục làm cho các chương
trình của VTV6 trở nên “già” đi không?
Không Có
Câu hỏi 12: Bạn có đồng ý rằng, VTV6 sẽ trở thành kênh truyền hình yêu thích
của thanh thiếu niên Việt Nam?
Không Có
- ý kiến khác:
...............................................................................................................................
...............................................................................................................................
Xin trân trọng cảm ơn bạn!
119
CÁC VĂN BẢN LIÊN QUAN
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
ĐÀI TRUYỀN HÌNH VIỆT NAM
TRUNG TÂM THANH THIẾU NIÊN (VTV6)
I. TÀI LIỆU VỀ ĐỀ ÁN VTV6
ĐỀ ÁN KÊNH VTV6
Theo QuyÕt ®Þnh sè 767/Q§TTg ngµy 08 th¸ng 03
n¨m 2005 cña Thñ Tíng ChÝnh phñ vÒ viÖc Quy
ho¹ch ph¸t triÓn §µi THVN, ®Õn n¨m 2010 ch¬ng
tr×nh truyÒn h×nh quèc gia sÏ ph¸t trªn 8 kªnh,
víi tæng thêi lîng 168,5 giê/ngµy, trong ®ã cã
1 kªnh chuyªn ®èi tîng thanh thiÕu niªn.
Theo QuyÕt ®Þnh sè 538/Q§ THVN ngµy 13 th¸ng 4
n¨m 2007 cña Tæng Gi¸m ®èc §µi TruyÒn h×nh ViÖt
Nam vÒ viÖc thµnh lËp Trung T©m Thanh thiÕu niªn
(VTV6) trªn c¬ së Bé phËn chuÈn bÞ néi dung ch
¬ng tr×nh ph¸t sãng trªn kªnh VTV6.
Theo QuyÕt ®Þnh sè 539/Q§ Q§ THVN ngµy 13
th¸ng 4 n¨m 2007 cña Tæng Gi¸m ®èc §µi TruyÒn
h×nh ViÖt Nam vÒ viÖc ban hµnh chøc n¨ng, nhiÖm
vô, quyÒn h¹n vµ c¬ cÊu tæ chøc cña Trung t©m
thanh thiÕu niªn (VTV6).
Sau mét thêi gian chuÈn bÞ, Trung t©m Thanh
thiÕu niªn (VTV6) ®· tiÕn hµnh h×nh thµnh khung ch
120
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
¬ng tr×nh ®Ó ph¸t sãng thö nghiÖm tõ ngµy 29/4/2007
trªn TruyÒn h×nh C¸p vµ §TH, tiÕn tíi ph¸t sãng
I. Môc tiªu cña kªnh VTV6
analogue trªn kªnh VTV6 vµo th¸ng 01/2008.
§èi tîng thanh thiÕu niªn ViÖt Nam chiÕm kho¶ng
60% d©n sè – lµ nguån tµi nguyªn nh©n lùc quan
träng n¾m gi÷ t¬ng lai cña ViÖt Nam, ®ang lµ
®èi tîng quan t©m cña nhiÒu c¬ quan truyÒn
th«ng víi nhiÒu môc ®Ých kh¸c nhau (nh VTC, BBC
TiÕng ViÖt,… thành lập kênh dành riêng cho giới trẻ)
Là kênh giáo dục, giải trí dành cho đối tượng thanh thiếu niên, là tiếng
nói chính thức của Đài truyền hình Việt Nam về các vấn đề của giới trẻ
và là diễn đàn dành cho giới trẻ trên toàn quốc.
Nhiệm vụ của kênh VTV6 là hướng dẫn, định hướng giáo dục thế hệ
trẻ Việt Nam, những ngời sẽ xây dựng tương lai của đất nớc.
Mục tiêu của kênh VTV6:
Cung cấp thông tin bổ ích cho giới trẻ về khoa học, văn hoá, giáo dục,
kinh tế, công nghệ, giải trí.
Giáo dục nhân cách, lý tưởng sống, tình yêu quê hương đất nớc.
Tạo ra một diễn đàn xã hội với sự tham gia của đông đảo ngời xem
nhằm thay đổi tích cực nhận thức hành vi và lối sống của thế hệ trẻ Việt
Nam.
Phát động các phong trào học tập, nghiên cứu khoa học, lập thân lập
nghiệp, sống có trách nhiệm… trong giới trẻ.
Phát động các phong trào sinh hoạt văn hoá văn nghệ, thể thao, giải trí
bổ ích lành mạnh, phòng chống tệ nạn xã hội.
Phản ánh những suy nghĩ, tâm huyết, vấn đề của giới trẻ để nhà trường,
xã hội và gia đình nắm bắt hỗ trợ kịp thời.
121
II. Những đặc điểm khác biệt của kênh VTV6
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Hiện tại VTV đang có các kênh quảng bá chủ yếu là:
a. VTV1: Kênh thời sự tổng hợp
Đặc điểm chính: tính chính thống, độ tin cậy của thông tin, chương trình
thời sự khá nhanh nhạy với các bản tin trong ngày, phóng viên chuyên
nghiệp.
VTV1 một phần là giải trí, một phần là chính trị, giành cho tất cả các đối
tượng.
b. VTV2: Kênh khoa học giáo dục
Kênh có nội dung bổ ích, kiến thức khoa học giáo dục đậm đặc.
c. VTV3: Thể thao giải trí thông tin kinh tế
Nội dung phong phú sinh động, có tính hấp dẫn, giải trí, có tính giáo dục
cảm động, có nhiều chương trình có chiều sâu và nhiều sự kiện hoành
tráng.
Đây là kênh văn hoá giải trí dành cho tất cả mọi đối tượng khán giả.
Các điểm khác biệt chủ yếu củaVTV6 - kênh truyền hình dành cho
thanh niên, thiếu niên của VTV:
Về nội dung chương trình
1. Đề tài hướng tới giới trẻ:
- Đời sống văn hoá trẻ
- Các cuộc thi tài năng
- Thông tin kinh tế vi mô
- Vấn đề xã hội cập nhật
- Số phận và vấn đề cá nhân
- Kỹ năng sống, kỹ năng học tập, kỹ năng làm việc
- Hướng dẫn tiêu dùng
- Văn hoá truyền thống Việt Nam và thế giới, …
2. Tính tương tác:
122
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Với mục tiêu giáo dục, giải trí dành cho giới trẻ, thì VTV6 là kênh
truyền hình tương tác lấy Internet làm cầu nối quan trọng liên kết các nội dung
phát sóng trên truyền hình với cộng đồng những người sử dụng Internet và
ngược lại những người sử dụng Internet có thể chia sẻ suy nghĩ, đóng góp ý
tưởng, liên kết cộng đồng, … để phát triển nội dung của truyền hình. Nội dung
các chương trình của VTV6 gắn liền với việc liên kết các dịch vụ và tiện ích
hiện đang được giới trẻ tại Việt Nam và thế giới sử dụng thường xuyên nhất đó
là blog, forum, chia sẻ video, chia sẻ hình ảnh. Các chương trình của VTV6
đều sử dụng tương tác với người xem thông qua các dịch vụ bình chọn, nhắn
tin qua SMS, tổng đài 1900, Internet.
Nhóm ngời dẫn chương trình của kênh được thiết kế phong cách dựa
trên diều tra xã hội và được đào tạo.
3. Thể loại chương trình:
Các thể loại cơ bản của truyền hình như Talkshow, phim tài liệu, tin tức
phóng sự, phỏng vấn, trò chơi truyền hình … Điểm khác biệt là sự biến thể
trong các chương trình này, sẽ được thể hiện cụ thể trong các chương trình.
4. Truyền dẫn:
- Điểm khác biệt của VTV6 là được truyền dẫn trên nền tảng IPTV để có
thể đến với giới trẻ Việt Nam ở nước ngoài và tạo ra những giờ xem mới cho
giới trẻ trong nước.
- Việc phát sóng VTV6 trên truyền hình Cable, DTH và analog tạo điều
kiện cho khán giả có thể xem được nhiều hơn.
5. Thương hiệu:
- Kênh VTV6 được xây dựng bài bản, đặc biệt là công tác định vị khác
biệt hoá, là kênh truyền hình được thành lập sau, nhưng lại là kênh truyền hình
đầu tiên trong phân khúc thị trường có mục tiêu là giới trẻ.
- Chiến lược khác biệt hoá được thiết kế nhằm đảm bảo cho VTV6
không lặp lại những kênh khác của VTV, VTC hoặc HTV. Các nét tính cách
của thương hiệu được khắc hoạ cụ thể để tạo ra hình ảnh rõ nét của VTV6
123
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
trong tâm trí giới trẻ. Công chúng mục tiêu của VTV6 được điều tra trước và
sau khi thiết kế khung chương trình và sản phẩm cụ thể. Điều này giúp cho nội
III. Vận hành của kênh VTV6
dung của VTV6 gần gũi với khán giả, phù hợp với công chúng mục tiêu.
1. Chức năng nhiệm vụ của Trung tâm Thanh thiếu niên (VTV6)
a) Xây dựng kế hoạch khung chương trình và tổ chức thực hiện kế hoạch
được duyệt;
b) Nghiên cứu thị trường, xây dựng, phát triển, quản trị thương hiệu
VTV6;
c) Sản xuất, khai thác, trao đổi các chương trình truyền hình dành cho
thanh thiếu niên và các dịch vụ gia tăng khác đảm bảo chất lượng, nội dung
phù hợp;
d) Tổ chức nghiệm thu các thể loại chương trình theo quy định, chịu
trách nhiệm trước Tổng Giám đốc về nội dung, chất lượng và chi phí sản xuất,
khai thác, trao đổi các chương trình theo quy định;
e) Sử dụng các nguồn kinh phí hỗ trợ để nâng cao chất lượng chương
trình theo quy định của Đài THVN;
f) Phối hợp với Ban tổ chức cán bộ soạn thảo nhiệm vụ cụ thể, quy chế
hoạt động, lề lối làm việc và mối quan hệ công tác của Trung tâm thanh thiếu
niên (VTV6) trình Tổng Giám đốc duyệt;
g) Cùng với Ban tổ chức cán bộ xây dựng kế hoạch đào tạo, đào tạo lại
và bồi dỡng nghiệp vụ cho cán bộ, phóng viên và biên tập viên thuộc Trung
tâm thanh thiếu niên (VTV6);
h) Quản lý cán bộ công chức và người lao động theo quy định vè phân
cấp quản lý cán bộ do Tổng Giám đốc ban hành. Quản lý theo thẩm quyền về
tài chính, tài sản trong đơn vị theo quy định.
2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Trung tâm thanh thiếu niên
(VTV6) gồm:
124
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Phòng tổng hợp
Phòng Tổng hợp có chức năng tham mưu cho Giám đốc Trung tâm về
các lĩnh vực: Nhân sự, đào tạo, quản lý tài chính, kế toán, quản lý vật tư, tài
sản của Trung tâm theo đúng quy định của Đài THVN; Công tác hành chính –
quản trị của Trung tâm; nhận sản xuất các sản phẩm truyền hình, thông tin,
thông báo trên sóng của kênh VTV6; mua bán, trao đổi các sản phẩm truyền
hình. Tổ chức các dịch vụ gia tăng khác.
Phòng Tổng hợp có nhiệm vụ:
Về công tác nhân sự:
a) Tham mu cho Giám đốc trong việc tuyển dụng, bố trí, sắp xếp cán bộ
phù hợp với khả năng, trình độ chuyên môn đợc đào tạo và đa công tác
quản lý, đánh giá cán bộ, viên chức vào nề nếp, khoa học.
b) Giúp Giám đốc xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực, đào tạo,
bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, viên chức, người lao động theo định kỳ
hàng năm trình Tổng Giám đốc quyết định và tổ chức triển khai thực
hiện các kế hoạch đó.
c) Giúp Giám đốc quản lý hồ sơ cán bộ, viên chức và người lao động trong
Trung tâm, thực hiện các thủ tục liên quan đến công tác cán bộ theo quy
định phân cấp quản lý.
d) Liên hệ thường xuyên với Ban tổ chức cán bộ để nhận sự hướng dẫn về
chuyên môn nghiệp vụ; Phối hợp với các đơn vị có liên quan, thực hiện
chế độ, chính sách về lao động, tiền lương đối với cán bộ, viên chức và
người lao động trong Trung tâm.
Về hành chính, quản trị:
a) Thực hiện công tác hành chính, quản trị của Trung tâm.
b) Làm công tác quản lý nội bộ; quan hệ đối nội; đối ngoại của Trung tâm.
c) Lập kế hoạch, phương án đảm bảo an toàn Trung tâm trình Giám đốc và
tổ chức thực hiện kế hoạch đã được phê duyệt.
125
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
d) Phổ biến nội quy, quy chế và các văn bản pháp luật khác có liên quan
đến cán bộ, viên chức và người lao động trong Trung tâm. Theo dõi, đôn
đốc việc thực hiện của các Phòng.
e) Lập kế hoạch quản lý, sửa chữa, nâng cấp, cải tạo … về nhà cửa, cơ sở
làm việc, phương tiện của Trung tâm.
f) Tổ chức mua sắm, cung cấp vật tư, văn phòng phẩm, … phục vụ sản
xuất, khai thác các chương trình truyền hình và các công tác khác của
Trung tâm trên cơ sở phối hợp chặt chẽ với các đơn vị được cung cấp.
Bộ phận khách hàng:
a) Tham mu cho Giám đốc lập kế hoạch, ngân sách tiếp thị và triển khai
thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường, xây dựng, phát triển,
quản trị thương hiệu VTV6 hàng tháng, hàng quý, hàng năm.
b) Tổ chức tiếp nhận, lựa chọn, đàm phán và trình ký hợp đồng dịch vụ,
phối hợp với các bộ phận liên quan trong việc xây dựng cấu trúc dịch vụ
khai thác giá trị gia tăng của từng chương trình, theo dõi tình hình thực
hiện hợp đồng dịch vụ và làm thủ tục thanh toán với khách hàng theo
đúng chế độ của Nhà nước và quy định của Đài THVN.
c) Quản trị thương hiệu VTV6.
d) Thuê các đơn vị trong Trung tâm sản xuất các chơng trình tự giới thiệu,
theo đơn đặt hàng của các tổ chức, cá nhân có nhu cầu.
e) Xây dựng chính sách giá để khai thác các giá trị gia tăng của chương
trình, dịch vụ trình Tổng Giám đốc Đài THVN phê duyệt.
f) Lập kế hoạch trao đổi, hợp tác sản xuất và mua bán các chương trình
truyền hình trình Lãnh đạo Trung tâm và Lãnh đạo Đài phê duyệt.
g) Phối hợp với các bộ phận có liên quan trong việc kiểm tra nội dung chất
lượng chương trình sản xuất, trao đổi và khai thác trước khi phát sóng.
h) Đảm bảo tính pháp lý của mọi hoạt động và sản phẩm của Trung tâm.
i) Lập kế hoạch PR và triển khai thực hiện cho khung, từng chương trình
cụ thể.
126
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
j) Thực hiện các hoạt động chăm sóc khách hàng.
Bộ phận Kế toán:
a) Xây dựng quy chế chi trả tiền lương của Trung tâm phù hợp với quy
định của Đài truyền hình Việt Nam trình Giám đốc và Lãnh đạo Đài phê
duyệt.
b) Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát các Phòng về việc thực hiện luật kế toán,
các văn bản khác của Nhà nước và của Đài THVN về các nguyên tắc,
chế độ, thủ tục và chứng từ thanh toán.
c) Quản lý và đảm bảo cung ứng kịp thời về kinh phí phục vụ nhu cầu hoạt
động của Trung tâm; đảm bảo chi tiêu đúng kế hoạch, đúng mục đích,
chế độ và có hiệu quả thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
d) Trên cơ sở tổng hợp, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch của các đơn
vị, tham mưu với Giám đốc về các biện pháp quản lý tài chính của
Trung tâm và các đơn vị.
e) Theo định kỳ hoặc khi có vấn đề cần thiết, báo cáo kịp thời với Ban Kế
hoạch – Tài chính của Đài THVN để xin ý kiến và sự hướng dẫn về
chuyên môn, nghiệp vụ; Làm báo cáo kế toán định kỳ hàng quý, hàng
năm theo đúng quy định của Đài THVN.
f) Phối hợp với các phòng liên quan tham mưu cho Giám đốc xây dựng các
phương án, định mức cho phù hợp khi có chủ trương mới về thay đổi bổ
sung cơ chế.
g) Thực hiện những nhiệm vụ khác theo yêu cầu của Giám đốc.
Phòng kế hoạch - Điều độ:
Phòng Kế hoạch - Điều độ có chức năng tham mưu cho Giám đốc trong
các lĩnh vực về thống kê, kế hoạch; điều độ kỹ thuật phục vụ sản xuất, khai
thác chương trình.
Phòng kế hoạch - Điều độ có nhiệm vụ:
a) Giúp Giám đốc lập kế hoạch sản xuất chương trình, kế hoạch chi tiêu
ngân sách, thu chi dịch vụ và kế hoạch đầu tư, theo định kỳ hàng quý,
127
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
hàng năm để trình Lãnh đạo Đài THVN, trên cơ sở tổng hợp tình hình
hoạt động của Trung tâm va kế hoạch, định hướng của Lãnh đạo Đài
THVN.
b) Tham mưu và lập kế hoạch sản xuất các chương trình theo từng tháng,
quý, năm.
c) Lập kế hoạch đặt hàng thiết bị, thuê nhân sự để phục vụ sản xuất chương
trình.
d) Lập kế hoạch sử dụng, khai thác các thiết bị cần thiết phục vụ sản xuất
chương trình.
e) Phối hợp với các bộ phận liên quan xây dựng dự toán chi phí sản xất các
chương trình truyền hình.
f) Phối hợp với các bộ phận liên quan đơn giá tiền lương các chương trình.
g) Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát các Phòng về việc thực hiện kế hoạch đã
được phê duyệt.
h) Thực hiện những nhiệm vụ khác theo yêu cầu của Giám đốc.
Phòng Chương trình:
Phòng Chương trình có chức năng xây dựng kế hoạch nội dung tuyên
truyền, khung chương trình phát sóng, kết cấu các chương trình phát sóng và
phối hợp với các phòng liên quan tổ chức thực hiện các buổi phát sóng của
Trung tâm theo kế hoạch đã được phê duyệt.
Phòng chương trình có nhiệm vụ:
a) Tham mưu cho Giám đốc về khung chương trình phát sóng, kế hoạch
tuyên truyền hàng tháng, quý, năm của Trung tâm theo kế hoạch, định
hướng chung của lãnh đạo Đài THVN.
b) Xây dựng kết cấu chương trình phát sóng hàng ngày, tuần, tháng của
Trung tâm; điều chỉnh kịp thời kết cấu chương trình theo yêu cầu của
Lãnh đạo Trung tâm phù hợp với tình hình thực tế.
c) Quản lý và sản xuất vỏ kênh. Thực hiện lồng tiếng các chương trình khai
thác và một số chương trình khác được Giám đốc giao.
128
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
d) Thực hiện phát quảng cáo, thông tin, thông báo trên sóng VTV6.
e) Phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức thực hiện các chương trình
phát sóng định kỳ của Trung tâm theo kế hoạch được duyệt.
f) Lên kế hoạch và tổ chức nghiên cứu đối tượng người xem theo định kỳ
và báo cáo kết quả với Giám đốc Trung tâm.
g) Tổ chức tiếp nhận các sản phẩm truyền hình trình Hội đồng nghiệm thu
của Đài THVN; kiểm tra nội dung, chất lượng sản phẩm truyền hình
trước khi phát sóng theo phân cấp.
h) Quản lý kho tư liệu băng, tư liệu báo, ảnh, thực hiện quy chế giao, nhận,
chuyển sản phẩm cho Đài THVN phát sóng theo kế hoạch. Đảm bảo
việc cấp phát băng, tư liệu kịp thời để phục vụ sản xuất và phát sóng của
Trung tâm.
i) Phối hợp với bộ phận khách hàng để thực hiện PR trên báo chí.
j) Đạo diễn phát sóng: móc nối, trực phát sóng, thực hiện tương tác,
Website và các công việc khác liên quan đến phát sóng.
k) Quản lý chất lượng, điều hành hoạt động và đào tạo đội ngũ MC kênh.
l) Thực hiện các việc khác theo yêu cầu của Giám đốc.
Phòng nội dung 1:
Phòng nội dung 1 có chức năng tổ chức sản xuất các chương trình giải
trí, giáo dục của thanh niên theo kế hoạch được duyệt.
Phòng nội dung 1 có nhiệm vụ:
a) Nghiên cứu đối tượng, lập kế hoạch và tổ chức thực hiện việc sản xuất
và hợp tác sản xuất các thể loại chương trình theo kế hoạch đã được
duyệt.
b) Thẩm định kịch bản và nghiệm thu, phân loại chất lượng sản phẩm đối
với một số thể loại đã đợc phân cấp trách nhiệm.
c) Hướng dẫn, phân loại, duyệt nghiệm thu và thanh toán các sản phẩm của
các đối tác và cộng tác viên.
129
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
d) Đề xuất với Giám đốc các biện pháp quản lý và việc sản xuất chương
trình sao cho phù hợp, có hiệu quả.
e) Phối hợp với các Ban của Đài THVN trong việc thực hiện sản xuất các
chương trình khi được sự đồng ý của Giám đốc.
f) Thực hiện các công việc khác theo yêu cầu của Giám đốc.
Phòng nội dung 2:
Phòng nội dung 2 có chức năng tổ chức sản xuất các chương trình giải
trí, giáo dục thanh niên theo kế hoạch được duyệt.
Phòng nội dung 2 có nhiệm vụ:
a) Nghiên cứu đối tượng, lập kế hoạch và tổ chức thực hiện việc sản xuất
và hợp tác sản xuất các thể loại chương trình theo kế hoạch đã được
duyệt.
b) Thẩm định kịch bản và nghiệm thu, phân loại chất lượng sản phẩm đối
với một số thể loại đã được phân cấp trách nhiệm.
c) Hướng dẫn, phân loại, duyệt nghiệm thu và thanh toán các sản phẩm của
các đối tác và cộng tác viên.
d) Đề xuất với Giám đốc các biện pháp quản lý và việc sản xuất chương
trình sao cho phù hợp, có hiệu quả.
e) Phối hợp với các Ban của Đài THVN trong việc thực hiện sản xuất các
chương trình khi đợc sự đồng ý của Giám đốc.
f) Thực hiện các công việc khác theo yêu cầu của Giám đốc.
Hà Nội, tháng 12 năm 2007
BÀI BÁO THAM KHẢO:
Bài 1
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC THANH NIÊN HIỆN NAY.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCH T.Ư Đảng (khoá X) về Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HDH đã đưa ra nhiều giải pháp quan trọng, trong đó có nhiệm vụ tăng
130
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
cường giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối sống văn hoá, ý thức công
dân để hình thành thế hệ thanh thiếu niên có phẩm chất tốt đẹp, có khí phách
và quyết tâm thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Những năm qua, với sự nỗ lực các cấp bộ đoàn, công tác giáo dục của
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh có những chuyển biến tích cực theo xu hướng đa
dạng hoá hình thức, từng bước phù hợp tâm lý, nguyện vọng của thanh niên.
Đồng thời, các hoạt động của Đoàn đã nhạy bén, theo sát các sự kiện chính trị,
xã hội của đất nước, luôn gắn hoạt động của thanh niên với giáo dục truyền
thống, giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối sống đẹp và ý thức công dân
trẻ. Công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng của Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh thời gian qua góp phần nhen lên ngọn lửa lý tưởng cách mạng, ý chí và
lòng yê nước cho thanh niên, tiêu biểu là đợt sinh hoạt chính trị “Tiếp lửa
truyền thống – Mãi mãi tuổi hai mươi”, diễn đàn “Tuổi trẻ sống đẹp, sống có
ích”…
Đợt sinh hoạt chính trị đã có sức lan toả mạnh mẽ và cho kinh nghiệm
hay về sự nhạy bén nắm bắt cơ hội trong giáo dục thế hệ trẻ. Việc tuyên
truyền, triển khai cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời
Bác” tạo ra sự chuyển biến sâu sắc công tác giáo dục của Đoàn; học tập đi liền
với “Làm theo lời Bác” tạo ra sự chuyển biến sâu sắc công tác giáo dục của
Đoàn, mỗi đoàn viên, thanh niên để được vinh danh “Thanh niên tiên tiến làm
theo lời Bác”. Đồng thời, công tác giáo dục lý tưởng đạo đức cách mạng, lối
sống văn hoá, ý thức công dân cho thanh niên còn được các cấp bộ đoàn triển
khai thông qua phong trào hành động cách mạng: Các mùa hè Thanh niên học
sinh, sinh viên tình nguyện, Tiếp sức mùa thi, các hoạt động “Đền ơn đáp
nghĩa”, các cuộc hành trình “Về nguồn” với các địa chỉ, địa danh cách mạng…
đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong các hoạt động của Đoàn, tạo
môi trường lý tưởng, nhiệt huyết cách mạng bồi đắp lòng yêu nước cho thế hệ
trẻ.
131
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Vấn đề bồi dưỡng giáo dục thế hệ trẻ là một nhiệm vụ lớn lao, có ý nghĩa
không chỉ hiện tại mà còn chi phối tương lai của đất nước. Để thực hiện tốt
nhiệm vụ này, trong giai đoạn hiện nay cần có sự đồng thuận, quan tâm lãnh
đạo của Đảng và sự chung tay của toàn xã hội, trong đó có trách nhiệm lớn lao
của tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
Trong bối cảnh tình hình mới của đất nước, việc giáo dục thế hệ trẻ cần
được quan tâm ở nhiều khía cạnh. Cần xây dựng môi trường xã hội lành mạnh
để thanh niên được rèn luyện, cống hiến và trưởng thành. Đồng thời tạo cho
thanh niên cơ hội để tham gia các hoạt đông vui văn chơi giải trí lành mạnh,
hưởng thụ văn hoá, lối sống đẹp, sống lành mạnh để nâng cao sức khoẻ và tinh
thần. Đảng và Nhà nước cần tập trung giải quyết các vấn đề bức xúc của xã
hội, tạo chuyển biến trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, tội phạm và tệ
nạn xã hội, nhất là ma tuý, mại dâm, giải quyết các vấn đề về an toàn giao
thôngm môi trường sống, tạo ra nhiều công trình, tác phẩm văn học – nghệ
thuật có giá trị tư tưởng, có tính định hướng thẩm mỹ cao góp phần xây dựng
môi trường văn hoá lành mạnh, hình thành lối sống văn hoá và ý thức công dân
cho thanh niên.
Các cấp uỷ đảng, chính quyền, các cấp bộ đoàn cần quan tâm khích lệ,
cổ vũ tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho thanh niên. Trong công tác
giáo dục thế hệ trẻ, cần trú trọng các hoạt động gắn trách nhiệm của thanh niên
với bảo vệ lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia, coi việc tôn vinh, nêu gương, cổ vũ
thanh niên sống đẹp, sống có ích, làm rạng danh Tổ quốc cũng chính là cách để
giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng cho thanh thiếu niên.
Phát huy khả năng sáng tạo, nhu cầu vươn tới sự hoàn thiện và mong
muốn thể hiện bản lĩnh của thanh niên, biến quá trình giáo dục thành “tự giáo
dục” đối với mỗi thanh niên. Bên cạnh đó, điều quan trọng trong công tác giáo
dục thanh niên chính là sự lựa chọn trúng những vấn đề thanh niên đang quan
tâm, khát khao vươn tới. Thanh niên phải được đặt ở vị trí trung tâm, là những
người vừa thiết kế ý tưởng, vừa tổ chức thực hiện, vừa trực tiếp tham gia vào
132
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
các hoạt động. Nhiều hoạt động của thanh niên vừa qua như các lễ hội,
Festival, hội trại, các hành trình du khảo “Về nguồn”… đã thật sự mang mầu
sắc thanh niên và hấp dẫn các bạn trẻ một cách tự nhiên mà vẫn đảm bảo định
hướng chính trị. Quan trọng hơn cả là quá trình giáo dục khi đã “thấm” vào
thanh niên một cách tự giác, góp phần định hướng giá trị, chuẩn mực hành vi
cho thanh niên.
Cần coi công tác giáo dục thanh niên là trách nhiện của toàn Đảng, toàn
xã hội, tăng cường nguồn lực cho công tác giáo dục thanh niên. Công tác thanh
niên đã và đang tiếp tục được sự quan tâm, chăm lo đặc biệt của Đảng, Nhà
nước, được cụ thể hoá bằng các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Luật Thanh niên,
bằng Chiến lược phát triển thanh niên đến năm 2010 của Chính phủ. Tuy
nhiên, trong thực tiễn việc triển khai thực hiện các nội dung này chưa thật sự
hiệu quả, chưa tới được với đông đảo thanh niên.
Với quan điểm, mục tiêu được nêu tại Nghị quyết T.Ư 7 (khoá X):
“Đảng, Nhà nước và toàn xã hội chăm lo, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi
để thanh niên rèn luyện, cống hiến và trưởng thành; được học tập, có việc làm,
nâng cao thu nhập, có đời sống văn hoá, tinh thần lành mạnh” sẽ tạo động lực
thúc đẩy sự quan tâm chăm lo của toàn xã hội cho thanh niên. Bên cạnh đó,
trong xu thế phát triển của xã hội và đất nước, những nhu cầu đòi hỏi của thanh
niên cũng đặt ra nhiều vấn đề mới. Việc giáo dục thanh niên cần được đổi mới
về phương thức tiếp cận thông qua hệ thống công cụ: sách, báo, phim ảnh,
internet, các phương tiện truyền thông đa phương tiện… Các cấp bộ Đoàn cần
chủ động, sáng tạo, tranh thủ các nguồn lực để tăng cường và đổi mới phương
thức giáo dục của Đoàn thanh niên.
Bài báo 2
VTV6 – truyền hình tương tác cho giới trẻ
Trong thời đại bùng nổ thông tin, thấy rõ sự cần thiết định hướng cho
giới trẻ cập nhật, tiếp thu, sàng lọc thông tin để trang bị kiến thức cho cuộc
sống, Đài THVN đã xây dựng kênh dành riêng cho giới trẻ - VTV6.
133
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Ngày 29 - 4 -2007, VTV6 phát sóng thử nghiệm trên truyền hình Cáp, ra
mắt chương trình truyền hình (TH) dành cho thanh thiếu niên theo phong cách
mới: TH tương tác một xu hướng TH hiện đại trên thế giới.
Điêu này tạo nên sự mới mẻ, mang tính đột phá trong việc sản xuất
chương trình của THVN. Kênh TH sẽ như người bạn thân thiện, gần gũi, được
giao tiếp bằng nhiều hình thức như TH, internet (email, webcam, bolg), điện
thoại di động, điện thoại đường dài… ngay trong lúc chương trình đang phát
sóng hay trước đó.
Một số chuyên mục trong tháng đầu phát sóng thử nghiệm như Vân tay,
Bản tin con cua, Kết nối trẻ, Phòng mạch dấu hỏi xanh, Music maker, Phim tài
liệu VTV6, Thế hệ tôi, Nhà tròn … với thời lượng 2 giờ/ ngày, từ 19 đến 21
giờ. Nhiều chương trình có khán giả tham gia vào vào việc sản xuất nội dung
của như clip Việt dành cho những bạn trẻ yêu thích quay phim, chụp ảnh, Thế
hệ tôi – dành cho các bạn sinh viên báo chí… Những buổi phát sóng đầu tiên
đã thật sự gây nhiều thú vị và quan tâm của giới trẻ, kể cả các bậc phụ huynh.
Xin điểm qua một số chương trình phát sóng đầu tiên:
Bản tin con cua: đề cập đến các sự kiện, các vấn đề kinh tế, văn hoá, xã
hội… dưới góc nhìn hài hước. Bản tin con cua gồm 3 phần: Tin tức cua, đối
thoại cua, dự báo cua. Tin tức cua qua cây bút của đạo diễn Lê Hoàng trở nên
dí dỏm. Đối thoại cua, MC phỏng vấn một con rối về vấn đề được cả xã hội
quan tâm. Dự báo cua về tình hình kinh tế, văn hoá, xã hội, hình thức vui vẻ
nhưng là những suy nghĩ nghiêm túc. MC của các chương trình này là các
gương mặt trẻ Anh Vũ, Thu Hiền, Bảo An.
Kết nối trẻ, là chương trình thảo luận trên mạng và TH, hoàn toàn mở
cho thanh niên, sinh viên từ 18 – 24 tuổi. Kết nối trẻ gần như một chatroom
được triển khai trên mạng suốt tuần, để mọi người có thể thảo luận các vấn đề
của giới trẻ khi tiếp cận những trào lưu của cuộc sống, đặc biệt là các vấn đề
trong tiếp nhận, tiếp thu, thưởng thức nghệ thuật... Dẫn chương trình là Tú Anh
và Joe – du học sinh Canada, khoa ngữ văn, Đại học KHXH & NV Hà Nội.
134
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
Vân tay, talkshow trao đổi cởi mở, chân tình, vui vẻ, để giới trẻ tự thể
hiện cá tính, sự tự tin và những thế mạnh tích cực cũng như những khả năng
của mình. Khách mời là những người nổi tiếng trong các lĩnh vực, là “những
người của công chúng”. Số đầu tiên phát sóng, khách mời là ca sĩ Hà Anh
Tuấn, MC của chương trình là Thuỳ Minh, một biên tập viên của báo Hoa học
trò được nhiều bạn đọc yêu mến.
Nhà tròn là talkshow có đối tượng than gia trẻ nhất. Chương trình là
những cuộc trao đổi các vấn đề tuổi teen quan tâm, từ tâm lý giới tính đến việc
hỗ trợ pháp luật khi có các vấn đề về bạo lực gia đình, bạo lực học đường, xâm
hại tình dục, tâm lý… đưa ra các giải pháp để giải quyết. Kết cấu chương trình
gồm 3 phần: Tôi sẽ – Thấy chưa – Các hiệp sĩ giấu mặt.
Phòng mạch Dấu hỏi xanh – chương trình cung cấp thông tin tư vấn cho
trẻ vị thành niên và các bạn trẻ những vấn đề liên quan đến sức khoẻ sinh sản
một cách thân thiện, chân tình. Cung cấp những kiến thức cơ bản về các loại
bệnh xã hội để biết cách phòng ngừa, tránh gây bệnh cho bản thân, hoặc cộng
đồng… Chương trình có 2 phần: Phòng mạch dấu hỏi xanh và Bác sĩ Mào
béo. Slogan của phòng mạch “tuyệt mật về nhân thân của người gửi”
Ngoài ra còn nhiều chương trình âm nhạc ở kênh VTV6 dành cho giới
trẻ, như MTV phát lúc 20h thứ 2, 19h30 thứ 7, cập nhật các ca khúc MTV
“hot” nhất trong tuần, tháng…, thời sự âm nhạc thế giới. Ngào ra còn có các
Sol café - âm nhạc trẻ sôi nổi do nhạc sĩ Hồ Hoài Anh đảm trách vị trí MC.
Chương trình phát sóng thử nghiệm của VTV6 được phát triển trên hệ
thống TH Cap VCTV 10 và kỹ thuật số DTH, đến tháng 9 năm 2007 sẽ phát
chính thức trên hệ thống analog VTV, với đầy đủ các chương trình dự kiến
trên sóng như Bản tin hài hước, Khán gả tự làm TH, Sàn giao dịch ý tưởng,
Game tương tác, Show ca nhạc, Thể thao mạo hiểm, Thời trang…
“Đường dài mới biết ngựa hay” – hy vọng kênh truyền hình tương tác
VTV6 sẽ là một sân chơi đầy thú vị cho giới trẻ Việt Nam mà ở đó chơi là học,
135
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
học là chơi, là hiểu biết, khám phá, tự trang bị cho mình những kiến thức cơ
bản về văn hoá, xã hội, những tri thức vào đời.
(Báo cáo tóm tắt của Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khoá VIII do đồng chí Võ
Văn Thưởng, Uỷ viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Bí thư thứ nhất Ban Chấp
hành Trung ương Đoàn khóa VIII, trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh)
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước,
Kính thưa Đoàn Chủ tịch,
Kính thưa các vị đại biểu khách quý,
Kính thưa Đại hội,
Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX diễn ra trong thời điểm toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ra sức thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X; là Đại hội đoàn kết, sáng tạo, hội nhập và phát triển, có nhiệm vụ đánh giá
kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VIII, xác định mục
tiêu, phương hướng công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi nhiệm kỳ 2007-
2012.
Nâng cao chất lượng tổ chức, tăng cường bồi dưỡng lý tưởng cách mạng,
xung kích trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng hành với
thanh niên lập thân, lập nghiệp, vững vàng trong hội nhập quốc tế, phấn đấu
cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển, thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiến đến mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong quá trình chuẩn bị các văn kiện của Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương
Đoàn khoá VIII đã nhận được nhiều ý kiến sâu sắc, thể hiện sự tin yêu, tâm huyết
với Đoàn, với sự nghiệp giáo dục, bồi dưỡng và phát huy tiềm năng to lớn của thế
hệ trẻ, thiết tha mong muốn công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi có nhiều
đổi mới, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
Tác giả Việt Văn - Laodong.com.vn số 111 ngày 17/5/2007.
136
hiện đại hóa đất nước từ ý kiến chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước
và các Ban của Trung ương Đảng; từ góp ý của các đồng chí lãnh đạo các Bộ,
ngành, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, các cấp uỷ địa phương, các lão
thành cách mạng, các nhà quản lý, nhà khoa học, giáo dục, nhà hoạt động xã hội,
các sỹ quan, tướng lĩnh, các văn nghệ sỹ, phóng viên báo chí và cán bộ, đoàn viên,
thanh thiếu nhi cả nước.
Các văn kiện trình tại Đại hội lần này là kết tinh trí tuệ của toàn Đoàn và TT cả
nước, tiếp thu và vận dụng sáng tạo các nghị quyết của Đảng, sự chỉ đạo của các
đồng chí lãnh đạo, cùng những góp ý chí tình của các đồng chí cán bộ, đoàn viên
lớp trước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đoàn TNCS Hồ Chí Minh xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc về sự quan tâm và những tình cảm, trách nhiệm lớn lao đó
của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, sự đóng góp quý báu, đầy tinh thần
xây dựng của các thế hệ cán bộ đoàn và đông đảo đoàn viên thanh thiếu nhi vào
các văn kiện của Đại hội.
Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khoá VIII, tôi xin trình bày những nội
dung chủ yếu trong các văn kiện trình Đại hội.
I - Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VIII.
Trong 5 năm qua, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã tận dụng tốt những thời cơ, nỗ lực
khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, ra sức phấn đấu thực hiện Nghị quyết
Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VIII và đã thu được kết quả trên nhiều lĩnh vực.
Công tác giáo dục của Đoàn không ngừng được đổi mới, đa dạng về nội dung,
phương thức. Các hoạt động giáo dục ngày càng gần gũi, thiết thực, đi vào lòng
người, phù hợp với các đối tượng thanh thiếu nhi, khơi gợi đoàn viên thanh niên tự
giác rèn luyện; nổi bật là việc tổ chức có hiệu quả các cuộc vận động bình chọn,
tuyên dương các điển hình tiên tiến, các sinh hoạt chính trị, sinh hoạt truyền thống:
"TT Việt Nam tiến bước dưới cờ Đảng", “TT với tư tưởng Hồ Chí Minh”, "Tiếp lửa
truyền thống, mãi mãi tuổi 20", "TT sống đẹp, sống có ích", cuộc vận động “TT Việt
Nam - Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”, “TT Việt
Nam học tập và làm theo lời Bác”, các cuộc thi tìm hiểu truyền thống cách mạng
của Đảng, dân tộc và Đoàn thanh niên đã thu hút hàng chục triệu đoàn viên thanh
niên và nhân dân tham gia, được dư luận xã hội đánh giá cao, góp phần bồi dưỡng
lòng tự hào về truyền thống đấu tranh cách mạng của dân tộc, của Đảng, của các
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
137
thế hệ trẻ Việt Nam. Vun trồng niềm tin vào lý tưởng của Đảng, thôi thúc TT hành
động tích cực trong mọi lĩnh vực công tác.
Phong trào "Thi đua, tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" được tổ chức đều
khắp, góp phần cổ vũ, định hướng và hỗ trợ thanh niên lập thân, lập nghiệp, tham
gia phát triển kinh tế- xã hội, giữ vững quốc phòng an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Phong trào thi đua dạy tốt, học tốt phát triển với các hoạt động khuyến khích, bồi
dưỡng tài năng trẻ, phát triển quỹ khuyến học, khuyến tài, các học bổng, giải
thưởng; phong trào thi đua sản xuất, kinh doanh, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ
thuật, hỗ trợ thanh niên lập các dự án phát triển sản xuất có hiệu quả thiết thực;
phong trào “Bốn mới” trong thanh niên nông thôn, phong trào “Sáng tạo trẻ” trong
thanh niên công nhân, viên chức và các đối tượng thanh niên khác đã thúc đẩy các
hoạt động sáng tạo, ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất và đời sống.
Các hoạt động dạy nghề, giải quyết việc làm cho thanh niên tiếp tục duy trì có kết
quả. Đoàn tiếp tục đảm nhận thực hiện các chương trình, dự án quốc gia và địa
phương, phát huy vai trò xung kích của TT trong phát triển kinh tế- xã hội. Phong
trào thanh niên trong các lực lượng vũ trang được triển khai có hiệu quả góp phần
giáo dục, rèn luyện thanh niên quân đội giữ vững phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ", về
hình ảnh đẹp của cán bộ chiến sỹ Công an trong thời kỳ mới trên mặt trận bảo vệ
Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phòng chống thiên tai.
Điểm son của phong trào thanh niên 5 năm qua là phong trào “Thanh niên tình
nguyện” tiếp tục phát triển mạnh mẽ, khẳng định là một trong các phương thức tập
hợp, giáo dục thanh niên có hiệu quả, tham gia giải quyết những khó khăn, bức xúc
của cộng đồng, góp phần tạo dựng hình ảnh đẹp của người thanh niên Việt Nam
xung kích, tình nguyện ở những nơi, những lĩnh vực khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
Công tác chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng có chuyển biến tích cực, đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của thiếu nhi; vai trò của Đoàn trong bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em thể hiện ngày càng rõ. Công tác quốc tế thanh niên có sự phát triển về chất,
quan hệ chính trị đối ngoại, giao lưu hữu nghị tiếp tục được mở rộng, góp phần
tăng cường hiểu biết, tình đoàn kết hữu nghị và hợp tác với thanh niên và nhân
dân các nước, đóng góp tích cực vào phong trào thanh niên dân chủ, tiến bộ trên
thế giới, thực hiện tốt đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Hoạt động Đoàn tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân
được coi trọng, góp phần nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của đoàn viên,
thanh niên trong xây dựng hệ thống chính trị. Thông qua cuộc vận động “Đoàn viên
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
138
thanh niên phấn đấu trở thành đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam” đã góp phần bổ
sung nguồn sinh lực có chất lượng cao cho Đảng với trên 60% đảng viên mới kết
nạp hằng năm là từ đoàn viên ưu tú.
Công tác xây dựng tổ chức Đoàn thời gian qua được quan tâm tập trung chỉ đạo
với nhiều giải pháp tích cực; chất lượng đoàn viên, chất lượng tổ chức cơ sở đoàn,
chất lượng cán bộ đoàn được nâng lên; số thanh niên được kết nạp vào Đoàn tăng
nhanh hằng năm, mặt trận tập hợp, đoàn kết thanh niên được mở rộng. Vai trò
nòng cốt của Đoàn trong xây dựng tổ chức và hoạt động của Hội LHN Việt Nam,
Hội sinh viên, Hội doanh nghiệp trẻ Việt Nam được khẳng định rõ nét.
Công tác chỉ đạo của Đoàn tiếp tục được đổi mới, tập trung cho cơ sở; tăng
cường, tham mưu xây dựng chính sách đối với thanh niên; coi trọng phối hợp với
các ngành, đoàn thể. Điểm thành công nổi bật trong nhiệm kỳ qua là Ban Chấp
hành, Ban thường vụ, Ban Bí thư Trung ương Đoàn đã chủ động, cụ thể hóa và
triển khai thực hiện toàn diện Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ VIII; tham
mưu cho Đảng lãnh đạo công tác thanh niên, tham mưu xây dựng chính sách,
pháp luật liên quan đến thanh niên và công tác thanh niên.
(Quốc hội ban hành Luật Thanh niên, Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển
thanh niên Việt Nam đến năm 2010, chính sách cho cán bộ Đoàn, Hội trong trường
học và nhiều chính sách liên quan khác); chỉ đạo tổ chức thành công "Tháng Thanh
niên" hàng năm với tinh thần: TT hành động vì cộng đồng - Xã hội chăm lo, bồi
dưỡng thanh niên. Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Đoàn cấp tỉnh thực hiện tốt
hơn vai trò chỉ đạo và tổ chức công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi ở địa
bàn; tham mưu cho cấp ủy Đảng phối hợp có kết quả với cấp chính quyền, đoàn
thể.
Kính thưa các đồng chí đại biểu,
Kính thưa Đại hội,
Bên cạnh những kết quả đạt được, chúng ta nghiêm túc kiểm điểm còn
những hạn chế, yếu kém, đó là:
- Hiệu quả công tác giáo dục của Đoàn chưa cao, Đoàn chưa tận dụng hết các cơ
hội, chưa phát huy hết sức mạnh của các lực lượng xã hội và các nguồn lực trong
công tác giáo dục thanh niên. Phương thức giáo dục của Đoàn chậm đổi mới, chưa
đáp ứng nhu cầu, tâm lý của đoàn viên, thanh niên. Công tác tuyên truyền, phổ
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
139
biến pháp luật, trong đó có Luật thanh niên, Chiến lược phát triển thanh niên đến
năm 2010, còn nhiều hạn chế. Việc triển khai chương trình liên tịch với một số Bộ,
ngành còn hình thức, hiệu quả thấp.
- Hoạt động chăm lo lợi ích chính đáng cho thanh niên chưa đầu tư đúng mức nên
chưa tương xứng với tiềm năng của tổ chức Đoàn; việc tham mưu xây dựng chính
sách tài năng trẻ, khuyến khích thanh niên học nghề, chính sách huy động thanh
niên tham gia phát triển giáo dục cộng đồng, hỗ trợ thanh niên nghiên cứu khoa
học chưa được triển khai hiệu quả.
- Công tác thiếu nhi trên địa bàn dân cư còn nhiều khó khăn, lúng túng; vai trò tiền
phong, gương mẫu của một bộ phận đoàn viên, thanh niên trong chăm sóc, giáo
dục thiếu nhi chưa rõ.
- Chất lượng đoàn viên, chất lượng tổ chức cơ sở đoàn, chất lượng cán bộ đoàn
chưa theo kịp sự chuyển động của tình hình thanh niên cũng như yêu cầu tập hợp
thanh niên trong giai đoạn hiện nay. Đáng chú ý là năng lực, trình độ của một bộ
phận cán bộ Đoàn tụt hậu so với thanh niên. Tính bền vững của một số phong trào,
cuộc vận động chưa cao. Đoàn chưa có giải pháp thích hợp phát triển tổ chức
Đoàn, Hội và tổ chức các hoạt động thanh niên trong các môi trường, không gian
hoạt động mới của thanh niên.
- Lý luận về công tác vận động thanh niên, về các loại hình tập hợp thanh niên, về
mô hình tổ chức và hoạt động của Đoàn chưa theo kịp tình hình thực tiễn. Công
tác thi đua, khen thưởng còn hình thức, chưa có tác dụng tích cực cổ vũ và thúc
đẩy phong trào thanh thiếu nhi.
Những hạn chế, yếu kém trên đây có nguyên nhân khách quan và nguyên
nhân chủ quan, trong đó, những nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, đó là:
Một số chủ trương của Đoàn chưa sát thực tế, khi triển khai thiếu đôn đốc, kiểm
tra, tổng kết kịp thời; công tác cán bộ của Đoàn còn bất cập; năng lực, trình độ
nghiệp vụ, kiến thức kinh tế, xã hội của một bộ phận cán bộ đoàn còn thấp. Việc
tham mưu cho Đảng trong tạo nguồn, đào tạo, sử dụng và luân chuyển cán bộ ở
một số khu vực chưa tốt. Đoàn chậm thích ứng với sự phát triển kinh tế - xã hội và
nhu cầu của thanh niên.
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác thanh niên chưa đáp
ứng yêu cầu đặt ra. Điều kiện, phương tiện hoạt động và nguồn lực cho công tác
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
140
Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi còn khó khăn. Sự chuyển dịch nhanh của cơ
cấu kinh tế, tình trạng vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội gia tăng, sự không gương
mẫu của một bộ phận cán bộ, đảng viên có ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình tư
tưởng thanh niên, công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi.
II - Tình hình thanh niên, Mục tiêu, phương hướng công tác Đoàn và phong
trào thanh thiếu nhi nhiệm kỳ 2007 - 2012
Cùng với sự phát triển của đất nước, của công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu
nhi, thái độ và ý thức chính trị của thanh niên có chuyển biến tích cực. ý thức lập
thân, lập nghiệp của thanh niên cao hơn trước. Lòng nhân ái, tính tích cực chính trị
- xã hội và tinh thần xung phong, tình nguyện của thanh thiếu nhi ngày càng được
khơi dậy mạnh mẽ. Tâm thế, năng lực hội nhập quốc tế của thanh niên tự tin và
chủ động hơn. Vai trò, vị trí của thanh niên trong xã hội tiếp tục được đề cao và
nhận được sự quan tâm nhiều hơn của Đảng, Nhà nước và xã hội.
Tuy nhiên, cùng với sự chuyển đổi nhanh của cơ cấu kinh tế và quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, thanh niên đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, đó là: trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức kinh tế, quản lý, kiến thức pháp
luật và ý thức chấp hành luật pháp của thanh niên nhìn chung còn thấp; xu hướng
chạy theo bằng cấp, nhận thức lệch lạc về học nghề, chọn nghề, định hướng nghề
nghiệp còn khá phổ biến trong thanh niên. Lao động chưa qua đào tạo, tình trạng
thất nghiệp, thiếu việc làm, hoặc việc làm không ổn định và thu nhập thấp vẫn là
vấn đề bức xúc của thanh niên; không ít thanh niên thụ động, ỷ lại, chưa tích cực
vươn lên tự tạo việc làm, còn ngại khó, ngại khổ, ngại về nông thôn, miền núi công
tác.
Sức khỏe thể chất của thanh niên còn thấp so với khu vực và thế giới; tệ nạn xã
hội, đặc biệt là tệ nạn ma tuý và tình trạng lây nhiễm HIV/AIDS trong thanh niên
đang diễn ra phức tạp. Một bộ phận thanh niên thiếu ý thức rèn luyện, nhận thức
chính trị kém, chưa xác định được lý tưởng sống đúng đắn, sống thực dụng, thụ
động, thờ ơ, ngại tham gia vào các hoạt động chính trị - xã hội, vi phạm pháp luật,
tin vào những điều mê tín dị đoan.
Kính thưa các đồng chí đại biểu,
Là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên, vì thanh niên, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
tiếp tục đổi mới toàn diện, phấn đấu thực sự trở thành đội hậu bị tin cậy của Đảng,
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
141
người bạn thân thiết của thanh niên, định hướng cho thanh niên đến với lý tưởng
cách mạng và những giá trị cao đẹp, đồng hành với thanh niên lập thân, lập
nghiệp, xung kích trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Đoàn xác định chăm lo lợi ích chính đáng, hợp pháp của thanh niên, tạo môi
trường giúp thanh niên phát huy vai trò xung kích trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội, là động lực cơ bản của công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi trong
thời kỳ mới. Các phong trào, các cuộc vận động và các hoạt động của Đoàn đều
phải hướng tới mục tiêu tập hợp, đoàn kết, giáo dục thanh niên, tạo môi trường
lành mạnh, an toàn cho thanh niên rèn luyện và tự khẳng định, vì sự phát triển của
đất nước và sự tiến bộ của thanh niên.
Từ nhận thức đó và từ kết quả và kinh nghiệm công tác Đoàn và phong trào thanh
thiếu nhi nhiệm kỳ qua, mục tiêu chung của công tác Đoàn và phong trào thanh
thiếu nhi nhiệm kỳ mới là: "Tăng cường bồi dưỡng lòng yêu nước và ý thức công
dân, lý tưởng và đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị và văn hoá cho thanh thiếu
nhi; xây dựng Đoàn vững mạnh; tích cực chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của thanh niên; phát huy tiềm năng to lớn của thế hệ trẻ Việt Nam xung kích
"Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển", phấn đấu cùng toàn Đảng,
toàn dân thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu
Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Với khẩu hiệu hành động “TT Việt Nam xây hoài bão lớn, đoàn kết, xung kích, sáng
tạo, tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Đoàn triển khai tổ chức rộng khắp
trong các đối tượng thanh thiếu nhi phong trào "5 xung kích phát triển kinh tế - xã
hội, bảo vệ Tổ quốc" và "4 đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp".
III- Xây dựng lớp thanh niên giàu lòng yêu nước, có lối sống đẹp, có lý tưởng
cách mạng, có bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam.
Nhiệm vụ quan trọng của Đoàn trong giai đoạn mới là xây dựng lớp thanh niên giầu
lòng yêu nước, có lối sống đẹp, có lý tưởng cách mạng, có bản lĩnh văn hóa con
người Việt Nam, biết xử lý hài hoà lợi ích của bản thân trong lợi ích chung của tập
thể, cộng đồng và đất nước; có tri thức, chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng lao
động giỏi; có văn hóa và sống tình nghĩa; có sức khỏe thể chất và tinh thần lành
mạnh; giàu nhiệt huyết sáng tạo và tinh thần tình nguyện.
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
142
Người thanh niên của thời kỳ mới mà Đoàn tập trung xây dựng vừa biết giữ gìn và
phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa biết làm giàu văn hóa dân
tộc bằng những giá trị, những tinh hoa văn hóa nhân loại, là hiện thân của các giá
trị văn hóa Việt Nam, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, trung thành với
chế độ xã hội chủ nghĩa và thể hiện bằng quyết tâm hành động vì “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Để làm được điều đó, Đoàn tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả cuộc vận động
“TT Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”, thiết thực hưởng ứng cuộc vận động
chính trị lớn trong toàn Đảng, toàn dân “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”. Đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao hiệu quả công tác giáo
dục của Đoàn theo hướng gần gũi, thiết thực, coi trọng giáo dục thông qua tổ chức
để cho thanh niên được đắm mình trong thực tiễn sinh động của thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát hiện, tuyên dương, nhân rộng các điển hình tiên tiến làm theo lời Bác. Phát
huy các nguồn lực xã hội trong bồi dưỡng, giáo dục thanh thiếu nhi. Tổ chức
chương trình “Thắp sáng ước mơ TT Việt Nam” để các điển hình tiên tiến là các
doanh nhân trẻ giỏi, nhà khoa học trẻ, nhà quản lý trẻ, người thợ trẻ, Anh hùng lực
lượng vũ trang, Anh hùng lao động,... lan tỏa và truyền thụ những giá trị tốt đẹp
đến đông đảo thanh niên.
Không ngừng hoàn thiện tổ chức, bộ máy làm công tác tuyên truyền, giáo dục; đầu
tư nâng cao năng lực cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp. Phát
huy vai trò của báo chí, xuất bản và các thiết chế do Đoàn quản lý trong giáo dục
thanh thiếu nhi, đồng thời chủ động phối hợp chặt chẽ với gia đình, nhà trường,
các tổ chức, các cấp chính quyền trong công tác giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ.
IV - Xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc
Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vừa đòi hỏi vừa tạo ra
môi trường thuận lợi cho TT phát huy tiềm năng sức trẻ, tinh thần xung kích trong
những lĩnh vực trọng yếu của đất nước. Vì vậy, trong 5 năm tới, Đoàn tập trung
triển khai phong trào “5 xung kích phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc”.
Thứ nhất, xung kích lao động sáng tạo nhằm phát huy vai trò tiền phong gương
mẫu của thanh niên trong lao động với năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn và
hiệu quả thiết thực hơn. Tổ chức rộng rãi các hoạt động "TT sáng tạo" trong các
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
143
đối tượng thanh niên. Phấn đấu ở đâu có đoàn viên, thanh niên và hoạt động
Đoàn, ở đó có hoạt động sáng tạo.
Thứ hai, xung kích, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng. Phát triển phong trào
"Thanh niên tình nguyện" theo hướng đa dạng về nội dung, nâng cao về chất
lượng, phù hợp với đối tượng, góp phần tập hợp, giáo dục thanh niên và tham gia
giải quyết những vấn đề bức xúc của cộng đồng, đặc biệt là trật tự an toàn giao
thông và bảo vệ môi trường.
Thứ ba, xung kích bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia, dân tộc; phát huy vai trò của
TT tham gia phòng chống tệ nạn xã hội.
Thứ tư, xung kích thực hiện cải cách hành chính, góp phần thực hiện nhiệm vụ
cấp bách của Đảng, Nhà nước trong quá trình đổi mới đất nước và hội nhập kinh tế
quốc tế, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội; phát huy vai trò của tổ chức Đoàn
và đoàn viên trong xây dựng nền hành chính trong sạch, hiện đại, xây dựng người
công chức trẻ năng động, sáng tạo, giỏi nghề, tận tụy và cầu thị.
Thứ năm, xung kích trong hội nhập kinh tế quốc tế, định hướng thanh niên chủ
động nắm bắt thông tin, tham gia chuẩn bị cho thanh niên về ngoại ngữ, tin học,
luật pháp quốc tế, bản lĩnh chính trị, văn hoá, nâng cao năng lực hội nhập; vận
động, hỗ trợ và tổ chức lực lượng thanh niên là chủ các cơ sở sản xuất kinh
doanh, các doanh nghiệp trẻ, đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường xây
dựng và quảng bá thương hiệu, sản phẩm của doanh nghiệp trẻ.
V- Đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp
Sức sống của tổ chức Đoàn nằm ở mối quan hệ mật thiết, gắn bó với thanh niên.
Để có vị trí xứng đáng trong lòng thanh niên, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phải thực
sự quan tâm hỗ trợ, khơi dậy khả năng vốn có của thanh niên trong giải quyết các
nhu cầu, lợi ích chính đáng và hợp pháp. Vì vậy, cùng với việc tổ chức cho thanh
niên xung kích trong phát triển kinh tế – xã hội, Đoàn triển khai thực hiện phong
trào "4 đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp", góp phần bảo vệ, chăm lo
lợi ích hợp pháp, chính đáng của thanh niên, khơi dậy mạnh mẽ tiềm năng của
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
144
thanh niên và huy động các nguồn lực xã hội góp phần định hướng, hướng dẫn, hỗ
trợ thanh niên.
Thứ nhất, đồng hành với thanh niên trong học tập, nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn, nghiệp vụ, tạo điều kiện tốt nhất để thanh niên được học tập, nâng
cao trình độ, phát triển tài năng.
Thứ hai, đồng hành với thanh niên trong nghề nghiệp và việc làm. Tạo ra sự
chuyển biến có tính đột phá trong nhận thức của thanh niên về nghề nghiệp và việc
làm. Khuyến khích và vận động thanh niên học nghề, lập nghiệp. Đoàn sẽ hình
thành những trung tâm mẫu mực trong hướng nghiệp, dạy nghề, giải quyết việc
làm. Phấn đấu mỗi cơ sở Đoàn là một địa chỉ tin cậy tư vấn nghề và việc làm cho
thanh niên.
Thứ ba, đồng hành với thanh niên trong nâng cao sức khỏe thể chất và đời sống
văn hoá tinh thần, góp phần nâng cao thể lực, định hướng và xây dựng lối sống,
nếp sống lành mạnh cho thanh niên.
Thứ tư, đồng hành với thanh niên trong phát triển kỹ năng xã hội, giúp thanh niên
phát triển các kỹ năng cần thiết trong làm việc và hoạt động xã hội, nhất là trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, như: Làm việc nhóm, trình bày vấn đề, xây dựng
kế hoạch, xử lý tình huống.
VI - Công tác chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng
Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thiếu niên, nhi đồng là trách nhiệm của mỗi đoàn viên,
thanh niên và tổ chức Đoàn. Trong nhiệm kỳ mới, Đoàn tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện cuộc vận động “Vì đàn em thân yêu”, đồng thời vận động các lực lượng xã hội
tham gia bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng. Nâng cao nhận thức
và trách nhiệm của cán bộ, đoàn viên và tổ chức cơ sở đoàn trong bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục thiếu nhi. Đẩy mạnh cuộc vận động “Vì đàn em thân yêu”. Đầu tư
nguồn lực để nâng cao chất lượng phong trào “Nói lời hay, làm việc tốt, xứng đáng
là con ngoan, trò giỏi, đội viên tốt, cháu ngoan Bác Hồ”.
Củng cố và phát triển hệ thống nhà thiếu nhi, điểm vui chơi dành cho trẻ em; nâng
cao chất lượng hoạt động thiếu nhi trên địa bàn dân cư; tích cực tham mưu cho
chính quyền và huy động các nguồn lực xã hội phục vụ công tác chăm sóc, giáo
dục thiếu nhi và tổ chức các phong trào thiếu nhi ở cơ sở. Vận động và phối hợp
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
145
chặt chẽ với gia đình, nhà trường trong công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục thiếu
niên, nhi đồng và tổ chức các phong trào thiếu nhi.
VII - Đổi mới nội dung, hình thức Công tác quốc tế thanh niên
Với tinh thần Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và TT Việt Nam sẵn sàng làm bạn với
thanh thiếu nhi và các tổ chức thanh niên trên thế giới, phấn đấu cho hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, Đoàn tập trung phát triển quan hệ hữu nghị,
hợp tác với các tổ chức thanh niên các nước láng giềng, bạn bè truyền thống; tổ
chức các hoạt động giao lưu hữu nghị thanh niên Việt Nam - Lào, Việt Nam - Trung
Quốc, Việt Nam - Campuchia, .v.v...;
Thúc đẩy và mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức thanh niên các nước bạn bè
truyền thống, các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương và các khu vực khác
trên thế giới. Tích cực tham gia các hoạt động của thanh niên ASEAN và các cơ
chế đa phương phù hợp; tham gia có trách nhiệm vào các hoạt động của Liên đoàn
Thanh niên Dân chủ thế giới và phong trào thanh niên tiến bộ trên thế giới. Tăng
cường các hoạt động giao lưu quốc tế giữa các tỉnh, thành có chung đường biên
giới với nước bạn.
VIII - Xây dựng tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vững mạnh; mở rộng mặt
trận tập hợp, đoàn kết thanh niên; tích cực tham gia xây dựng Đảng và chính
quyền nhân dân.
Trong nhiệm kỳ mới, phương châm cơ bản xây dựng tổ chức Đoàn là: Mặt trận tập
hợp, đoàn kết thanh niên phải rộng rãi; Đoàn phải mạnh; đoàn viên phải tiêu biểu
trong mỗi tập thể thanh niên và ở cộng đồng dân cư.
Để làm được điều đó, phải tập trung nâng cao chất lượng đoàn viên, coi trọng chất
lượng đầu vào, xác định giải pháp rèn luyện đoàn viên cả về nhận thức và hành
động để nâng cao bản lĩnh chính trị, tính tiền phong gương mẫu và sức quy tụ
thanh thiếu nhi của người đoàn viên. Nâng cao chất lượng chi đoàn, đoàn cơ sở
bằng cuộc vận động "Xây dựng chi đoàn mạnh". Nâng chất đội ngũ cán bộ Đoàn
đáp ứng yêu cầu của công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi trong giai đoạn
mới, xây dựng phong cách, phương pháp công tác của cán bộ Đoàn với yêu cầu
là: tôn trọng, gần gũi và có trách nhiệm với thanh niên, phải thực sự dám đổi mới,
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, "nói đi đôi với làm".
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
146
Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chú trọng đào tạo kỹ năng, nghiệp vụ
công tác thanh niên, bồi dưỡng kiến thức kinh tế, quản lý; đào tạo cán bộ gắn với
quy hoạch, sử dụng cán bộ; xây dựng chế độ học tập bắt buộc hàng năm đối với
chức danh lãnh đạo các cấp của Đoàn. Củng cố các trường đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ Đoàn, phấn đấu đưa Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam trở thành cơ quan
nghiên cứu hàng đầu về thanh niên và công tác thanh niên, đào tạo ở trình độ đại
học, trên đại học và đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ.
Mở rộng mặt trận tập hợp, đoàn kết thanh niên, xây dựng tổ chức Hội LHTN Việt
Nam, Hội Sinh viên Việt Nam, Hội các nhà doanh nghiệp trẻ Việt Nam và các tổ
chức thanh niên do Đoàn làm nòng cốt chính trị. Đẩy mạnh công tác tập hợp, đoàn
kết thanh niên và xây dựng Hội trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, kiên trì
vận động chủ doanh nghiệp và thanh niên, xây dựng cốt cán, tuỳ theo điều kiện cụ
thể để lập tổ chức Hội hoặc Đoàn; tổ chức các hoạt động thanh niên thông qua tổ
chức Công đoàn, Hội doanh nghiệp trẻ và trên địa bàn, nơi thanh niên sinh sống
sau giờ làm việc.
Coi trọng công tác tập hợp, đoàn kết thanh niên Việt Nam ở ngoài nước, đặc biệt là
du học sinh; chủ động phối hợp với các ngành liên quan chuẩn bị cho thanh niên
trước khi đi lao động, học tập, công tác ở nước ngoài; tăng cường mối liên hệ giữa
tổ chức Đoàn, Hội ở nước ngoài với trong nước.
Làm tốt trách nhiệm phụ trách Đội TNTP Hồ Chí Minh của Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh, chăm lo xây dựng Đội vững mạnh. Triển khai thực hiện tốt chương trình “Rèn
luyện phụ trách Đội”, chương trình “Rèn luyện đội viên " chuẩn bị nguồn lực cho
Đoàn.
Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đoàn với trọng tâm vào việc
kiểm tra, giám sát thực hiện các chủ trương công tác của Đoàn, đánh giá được
hiệu quả việc thực hiện cũng như tính thiết thực của các chủ trương do cấp bộ
Đoàn ban hành; kiểm tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ Đoàn và kịp thời giải
quyết khiếu nại, tố cáo, góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đoàn viên, thanh
niên.
Tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, xây dựng chính quyền và các đoàn
thể nhân dân; tập trung vận động đoàn viên, thanh niên “Sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật”, gương mẫu thực hiện chính sách, luật pháp của Nhà
nước, quy chế dân chủ ở cơ sở; tham mưu xây dựng chính sách, pháp luật; thực
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
147
hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội đối với các chính sách, luật pháp của
Nhà nước liên quan đến thanh niên và công tác thanh niên.
IX - Đổi mới phương thức hoạt động; nâng cao chất lượng tham mưu, chỉ
đạo của Đoàn.
Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy các cấp của Đoàn từ Trung ương đến cơ sở, tổ
chức bộ máy chuyên trách đảm bảo tinh gọn, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của
từng đơn vị, nhằm nâng cao hiệu quả tham mưu; trong chỉ đạo tăng cường tính
chủ động, khuyến khích sự sáng tạo của cấp tỉnh, đề cao tính chỉ đạo vĩ mô và
tham mưu chính sách của cấp Trung ương. Đổi mới triệt để việc ban hành và tổ
chức thực hiện các chủ trương công tác của mỗi cấp bộ Đoàn, kiên trì phương
châm tập trung cho cơ sở, hướng đến thanh niên, khắc phục tình trạng ban hành
nhiều chủ trương, hoặc chủ trương chồng chéo, không sát với yêu cầu thực tiễn.
Đổi mới công tác thông tin trong hệ thống Đoàn, tin học hoá công tác thông tin của
Đoàn; không ngừng đổi mới công tác thi đua, khen thưởng của Đoàn, xác định các
tiêu chí cụ thể, thiết thực để đánh giá thi đua hàng năm. Rà soát để bổ sung, sửa
đổi tiêu chuẩn các danh hiệu thi đua, các hình thức khen thưởng. Tiếp tục tổ chức
trong toàn Đoàn "Tháng Thanh niên" hàng năm. Đổi mới và nâng cao chất lượng
tham mưu cho cấp uỷ Đảng trong lãnh đạo công tác thanh niên; mở rộng mối quan
hệ cộng đồng trách nhiệm với các cấp chính quyền, các đoàn thể trong công tác
thanh niên; coi trọng phối hợp với gia đình trong chăm lo giáo dục thanh thiếu nhi,
bồi dưỡng và phát huy thanh niên.
X - Một số chương trình, dự án và chỉ tiêu cụ thể
Một trong những thách thức của nhiệm kỳ mới là phải nâng cao chất lượng, hiệu
quả của các phong trào thanh niên do Đoàn khởi xướng và tổ chức thực hiện, thể
hiện tính hành động của thanh niên và phong trào thanh niên. Kết quả ấy phải đóng
góp tích cực vào thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, của
từng địa bàn, được xã hội thừa nhận. Đoàn sẽ thực hiện các chương trình, dự án
cụ thể mà tiêu biểu là: Xây dựng và phát triển Đề án "Đoàn tham gia giữ gìn trật tự
an toàn giao thông"; Đề án hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm;
Hành trình "Thắp sáng ước mơ TT Việt Nam"; xây dựng mới 1.000 điểm tuyên
truyền phổ biến kiến thức khoa học, công nghệ và trang cấp Internet cho thanh
niên nông thôn, miền núi; Chương trình hỗ trợ sáng kiến, ý tưởng sáng tạo của
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
148
thanh niên; Chương trình “Vì các chiến sỹ nơi biên giới, hải đảo”. Phấn đấu đến
cuối nhiệm kỳ 2007- 2012, cả nước có 7,5 triệu đoàn viên; giới thiệu cho Đảng 1
triệu đoàn viên ưu tú, trong đó, số đảng viên mới kết nạp từ đoàn viên ưu tú đạt
trên 60% số đảng viên kết nạp hàng năm; tư vấn, hướng nghiệp, dạy nghề cho 3
triệu đoàn viên, thanh niên, giới thiệu và giải quyết việc làm cho 2 triệu thanh niên;
mỗi cơ sở Đoàn có ít nhất 01 công trình, phần việc “Vì đàn em thân yêu”.
Về bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Trung ương
Đoàn xác định việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đoàn phải giải quyết được những vấn
đề thực tiễn đặt ra trong công tác xây dựng Đoàn; phản ánh được xu thế phát triển
của tình hình thanh niên và tổ chức Đoàn; thể hiện rõ quan điểm coi trọng chất
lượng trong công tác phát triển đoàn viên, xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với
yêu cầu của thời kỳ mới; đáp ứng yêu cầu đổi mới công tác tập hợp, đoàn kết
thanh niên ở cơ sở cho phù hợp với sự chuyển đổi cơ chế quản lý của Nhà nước
trong các cơ quan, đơn vị kinh tế, sự nghiệp; kế thừa những nội dung của Điều lệ
Đoàn khoá VIII và những bài học kinh nghiệm về xây dựng Đoàn đã được tổng kết
trong nhiệm kỳ qua; bảo đảm tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Trên cơ sở nhận thức đó, có 22 điểm đề nghị bổ sung, sửa đổi, tập trung vào
những nội dung cơ bản là:
- Về độ tuổi kết nạp đoàn viên, để phù hợp với quy định của Luật thanh niên và
Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, độ tuổi đoàn viên cần được xác định là từ
16 đến 30 tuổi.
- Về tăng thẩm quyền cho Ban Thường vụ Trung ương Đoàn trong hướng dẫn các
vấn đề phát sinh từ thực tiễn, đó là: Việc quản lý đoàn viên đi lao động ở xa, thời
gian không ổn định; việc bổ sung uỷ viên Ban Chấp hành trong trường hợp quá hai
phần ba số lượng uỷ viên Ban Chấp hành do đại hội quyết định, việc thành lập Ban
Cán sự Đoàn ở các đơn vị đặc thù,....
- Về việc xoá tên, cho rút tên và thôi tham gia Ban Chấp hành Đoàn các cấp, bổ
sung theo hướng thực sự linh hoạt, phù hợp với phân cấp công tác quản lý cán bộ
của Đảng, đồng thời, đảm bảo sự tham gia có trách nhiệm của Đoàn cấp trên đối
với nhân sự chủ chốt cấp dưới.
- Về bổ sung chức năng giám sát cho Uỷ ban kiểm tra các cấp của Đoàn, giao
nhiệm vụ giám sát cho Uỷ ban kiểm tra các cấp trong giám sát uỷ viên Ban Chấp
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
149
hành, cán bộ cùng cấp và tổ chức Đoàn cấp dưới trong việc thực hiện chủ trương,
nghị quyết, qui định của Đoàn theo hướng dẫn của Ban Thường vụ Trung ương
Đoàn.
Đại hội lần này sẽ bầu Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khoá IX có đủ năng lực
lãnh đạo công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi trong nhiệm kỳ mới; với yêu
cầu của thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn không
chỉ có cán bộ đoàn chuyên trách mà cần có doanh nhân trẻ tiêu biểu, nhà khoa học
trẻ, cán bộ lãnh đạo quản lý trẻ, ... tiêu biểu cho các lĩnh vực hoạt động của thanh
niên.
Với tinh thần trách nhiệm cao, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khoá VIII đã phát
huy tinh thần dân chủ, thực hiện đúng các quy trình, đảm bảo công khai, và đã
chuẩn bị được danh sách gồm 153 đồng chí để giới thiệu cho Đại hội xem xét,
quyết định lựa chọn những đồng chí có đủ phẩm chất, năng lực, tiêu chuẩn, đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới, xứng đáng với niềm tin tưởng của Đại hội
và đoàn viên thanh niên cả nước.
Kính thưa các đồng chí đại biểu,
Kính thưa Đại hội,
Là Đại hội đoàn kết, sáng tạo, hội nhập và phát triển, Đại hội tập trung cao nhất
của khát vọng, ý chí của thế hệ trẻ Việt Nam được đem tài năng, sức trẻ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với tinh thần TT xung kích phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Đoàn đồng hành với thanh niên lập thân, lập
nghiệp, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX kêu gọi toàn thể thanh thiếu nhi Việt
Nam hãy giương cao ngọn cờ vinh quang của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, nguyện
tiếp bước truyền thống cha anh, nắm chắc thời cơ, vận hội, quyết tâm khắc phục
mọi khó khăn, thách thức, đổi mới mạnh mẽ, phấn đấu cùng toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân thực hiện thành công mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước
kém phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ văn minh, vì tương lai tươi sáng của TT.
Trân trọng cảm ơn các đồng chí.
VÕ VĂN THƯỞN
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
150
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã có bài phát biểu quan trọng. TT xin trân
trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư.
Thưa Đoàn Chủ tịch,
Thưa các đồng chí đại biểu,
Thưa các vị khách quý,
Hôm nay, tôi rất vui mừng đến dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đoàn
Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Thay mặt Đảng và Nhà nước, tôi thân ái gửi
đến các vị khách quý, các đồng chí đại biểu và qua các đồng chí, gửi đến toàn thể
cán bộ, đoàn viên, hội viên, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng cả nước lời chúc
mừng nồng nhiệt nhất.
Các đồng chí thân mến,
Trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước, thanh niên ta luôn nêu cao truyền thống
yêu nước, chí khí anh hùng, bất khuất của dân tộc, hăng hái đi tiên phong trên mọi
lĩnh vực và có nhiều cống hiên vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Đặc biệt từ
khi có Đảng ta lãnh đạo, được Đảng, Bác Hồ hết lòng chăm lo, dìu dắt, lớp lớp
thanh niên đã phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, dũng cảm chiến đấu, hy
sinh làm nên những chiến công và thành tích huy hoàng, cùng toàn dân hoàn
thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do, thống nhất đất
nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế ngày nay, các tầng lớp thanh niên đã tiếp bước cha anh, nhận thức
đúng tình hình và nhiệm vụ, nêu cao chí tiến thủ, phát huy phẩm chất tốt đẹp và thế
mạnh của TT, xung kích, đảm đương những việc khó, nơi khó, chấp nhận mọi gian
nan, thách thức, chủ động, sáng tạo, góp phần làm nên những thành tựu mới to
lớn và có ý nghĩa lịch sử. Nhiều tấm gương thanh niên tiêu biểu trong lao động sản
xuất, làm kinh tế, trong hoạt động văn hoá- xã hội, khoa học kỹ thuật cũng như
trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.v.v...
đã làm sâu sắc thêm niềm tự hào của thế hệ trẻ trong giai đoạn mới.
Các hoạt động của TT trong những năm gần đây tiếp tục phát triển. Các phong trào
“Thanh niên lập nghiệp"", “ Thanh niên tình nguyện"", “TT giữ nước"" v.v... đã tạo
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
151
được những dấu ấn tốt đẹp trong đời sống xã hội. Các hình thức sinh hoạt truyền
thống, giáo dục đạo đức, lối sống, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể
thao, giúp nhân dân chống bão lụt v.v... đã thu hút đông đảo lực lượng trẻ tham
gia, vừa đóng góp vào nhiệm vụ chung, vừa thiết thực chăm lo lợi ích chính đáng
của thanh niên.
Thông qua các hoạt động thực tiễn, tổ chức Đoàn được củng cố và lớn mạnh. Mặt
trận đoàn kết, tập hợp thanh niên được mở rộng; việc chăm sóc và giáo dục thiếu
niên, nhi đồng được chú trọng hơn; số đoàn viên ưu tú được kết nạp vào Đảng
ngày một tăng; đội ngũ cán bộ đoàn ngày càng trở thành nguồn cán bộ trẻ dồi dào
của Đảng, chính quyền và đoàn thể ở các cấp.
Thành tích và sự tiến bộ của thế hệ trẻ Việt Nam rất to lớn và rất đáng tự hào.Thay
mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi nhiệt liệt biểu dương và khen ngợi những
thành tích xuất sắc của phong trào thanh niên, sự nỗ lực vươn lên của toàn thể cán
bộ, đoàn viên, thanh niên, các cháu thiếu nhi và các cấp bộ đoàn trong những năm
qua.
Bên cạnh những thành tích, ưu điểm và tiến bộ, chúng ta cần nghiêm túc nhìn
nhận những khuyết điểm, nhược điểm và hạn chế trong thanh niên và hoạt động
của Đoàn hiện nay. Việc giáo dục lý tưởng cách mạng, hoài bão cho thanh niên
chưa sâu sắc.Tổ chức đoàn chưa có nhiều biện pháp và hình thức phong phú linh
hoạt để hướng mọi hoạt động của thanh niên phục vụ cho mục tiêu, lý tưởng, đổi
mới hoạt động Đoàn.
Phong trào thanh niên phát triển không đồng đều, chất lượng đoàn viên, thanh niên
trong các lĩnh vực, các đối tượng còn có khoảng cách. Một bộ phận thanh niên
chưa chuyên tâm vào việc học tập, rèn luyện, tự lực vươn lên và cống hiến cho đất
nước, còn bị chi phối bởi cuộc sống hưởng thụ, đua đòi, xa rời bản sắc văn hóa
dân tộc, sa vào các loại tệ nạn xã hội, sống buông thả, thiếu trách nhiệm với mọi
người và chính mình.Trong khi đó, thế lực thù địch đang ra sức lôi kéo, tìm mọi
cách để tha hóa thanh thiếu niên. Đây là vấn đề cần được xã hội quan tâm, trong
đó tổ chức Đoàn có trách nhiệm rất to lớn.
Thưa các đồng chí,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra mục tiêu, phương hướng
tổng quát: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
152
mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Đối với thế hệ trẻ, Đảng ta xác định: “Thường xuyên giáo dục chính trị, truyền
thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát
triển thể lực, trí tuệ, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khuyến khích thanh
niên tự học, tự nâng cao tay nghề, tự tạo việc làm…thu hút rộng rãi thanh niên,
thiếu niên và nhi đồng vào các tổ chức do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
làm nòng cốt và phụ trách.”
Theo tinh thần đó, tôi bày tỏ sự nhất trí cao với các nội dung cơ bản đã nêu trong
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khóa VIII trình Đại hội. Đề nghị các
đồng chí tập trung trí tuệ, thảo luận đánh giá đúng tình hình, tổng kết sâu sắc thực
tiễn, đề ra được phương hướng, nhiệm vụ và những biện pháp thiết thực, đạt được
hiệu quả cao. Tôi nhấn mạnh thêm một số vấn đề sau đây:
Trước hết, các đồng chí phải thường xuyên coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, đổi mới và mở rộng các hình thức sinh hoạt, học tập, không ngừng bồi
dưỡng, nâng cao nhận thức lý luận, quán triệt đường lối nhiệm vụ cách mạng,
nâng cao nhận thức lý luận, quán triệt đường lối nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ
thanh niên, xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin, xác định rõ trách nhiệm
của mình trước yêu cầu và nhiệm vụ của đất nước, nâng cao lòng yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội, tinh thần tự lực, tự cường, ý chí chiến thắng đói nghèo, lạc hậu
và xây dựng đất nước phồn vinh.
Đoàn phải đi đầu trong xây dựng lối sống mới có kỷ cương, có văn hóa trong thanh
niên và trong toàn xã hội. Phải tổ chức thực hiện thật tốt cuộc vận động “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và phải xứng đáng với tổ chức được
mang tên Bác. Phải kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện của chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa cơ hội, lối sống thực dụng, ích kỷ.
Hai là, Đoàn cần gắn chặt các hoạt động của mình với các nhiệm vụ chung của đất
nước, nhất là nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, xây
dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, củng
cố quốc phòng và an ninh. Đoàn cần có nhiều hình thức và biện pháp đưa thanh
niên tham gia tích cực các phong trào cách mạng trên các lĩnh vực, các địa bàn,
đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, các lĩnh vực quan trọng cần đến
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
153
vai trò xung kích của TT. Phải thể hiện thật rõ vai trò “đâu cần thanh niên có, việc gì
khó có thanh niên”.
Có tổ chức tốt việc đưa thanh niên tham gia các phong trào cách mạng của toàn
dân thì hoạt động của Đoàn Thanh niên mới đúng hướng, thiết thực, mới có sức
cuốn hút và động viên đông đảo các tầng lớp thanh niên rèn luyện, trưởng thành,
lập thân, lập nghiệp và cống hiến cho đất nước.
Ba là, Đoàn Thanh niên cần làm nòng cốt trong phong trào xây dựng một xã hội
học tập, lấy việc học tập về các mặt, tiến công vào khoa học - công nghệ, nghiệp
vụ quản lý, rèn luyện tay nghề để cống hiến ngày càng nhiều cho đất nước làm
mục tiêu phấn đấu không ngừng của mình. Đảng và Nhà nước ta coi phát triển
giáo dục và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, coi việc bồi dưỡng các
thế hệ cách mạng cho đời sau là nhiệm vụ chiến lược hết sức quan trọng. Bởi vậy,
Đoàn Thanh niên cần ý thức sâu sắc về điều này và có những biện pháp tích cực
và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ đó.
Bốn là, phải ra sức xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ
chức của thanh niên vững mạnh, toàn diện về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ
sức đảm nhận vai trò nòng cốt trong phong trào thanh niên và các hội thanh niên,
sinh viên. Mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên bằng nhiều hình thức đa
dang, phong phú, tránh phô trương, hình thức, hành chính hóa trong công tác
Đoàn.Chú trọng nâng cao chất lượng đoàn viên, nhất là chất lượng chính trị - tư
tưởng và tính tiên phong, gương mẫu. Tổ chức Đoàn cần quan tâm đầy đủ và chủ
động quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và luân chuyển cán bộ đoàn, rèn
luyện và lựa chọn những cán bộ đoàn ưu tú, đủ phẩm chất và năng lực để giới
thiệu nguồn cán bộ cho Đảng, Nhà nước và các đoàn thể khác.
Đoàn Thanh niên còn có một nhiệm vụ quan trọng là tổ chức, giáo dục và rèn luyện
các em thiếu niên và nhi đồng, nêu gương tốt cho các em noi theo và hướng các
em phấn đấu trở thành đoàn viên thanh niên ưu tú, những công dân có ích cho đất
nước.
Đảng ta luôn xác định, chăm lo xây dựng tổ chức Đoàn là xây dựng Đảng trước
một bước. Bác Hồ kính yêu đã căn dặn:” Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
là một việc rất quan trọng và cần thiết”. Tôi đề nghị các cấp ủy Đảng và các cấp
chính quyền tin tưởng ở thanh niên, giao nhiệm vụ cho thanh niên, thường xuyên
quan tâm, theo dõi, kiểm tra, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện cho thanh niên hăng hái
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
154
và tự tin tham gia vào các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của cả nước, của các
địa phương và đơn vị.
Một nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đại hội là bầu Ban chấp hành Trung ương
Đoàn khóa mới. Tôi đề nghị các đồng chí đại biểu Đại hội hãy sáng suốt lựa chọn
những đồng chí tiêu biểu, có đủ bản lĩnh chính trị, có năng lực, phẩm chất và được
sự tín nhiệm cao vào Ban chấp hành Trung ương Đoàn khóa IX để thực hiện tốt
các Nghị quyết mà Đại hội đã đề ra, đưa phong trào thanh niên nước ta tiếp tục
tiến lên đạt những thành tích to lớn hơn nữa trong thời gian tới như Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta mong đợi ở thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay.
Các đồng chí thân mến,
Với lịch sử hơn 70 năm xây dựng và phát triển, trưởng thành, Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh đã làm nên những truyền thống tốt đẹp và vẻ vang. Tôi tin
tưởng rằng, bằng nghị lực, tài năng, sức mạnh và sự sáng tạo của mình, thế hệ trẻ
Việt Nam hôm nay sẽ trưởng thành nhanh chóng, công tác đoàn và phong trào
thanh niên nước ta sẽ có bước phát triển mới, xứng đáng với tầm vóc của một dân
tộc anh hùng trong thời đại mới. ĐoànThanh niên cộng sản Hồ Chí Minh nhất định
sẽ đóng vai trò hạt nhân chính trị, vai trò nòng cốt trong phong trào thanh niên
nước nhà, xứng đáng là trường học của những người cộng sản trẻ tuổi, là đội dự
bị tin cậy của Đảng cộng sản Việt Nam.
Chúc Đại hội đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh thành công tốt đẹp!
Chúc các đồng chí mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt!
Xin trân trọng cảm ơn.
Thưa các đồng chí đại biểu,
Nhân dịp này, thay mặt Ban chấp hành Trung ương Đảng, tôi trân trọng tặng Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh bức trướng:” TT VIỆT NAM XÂY HOÀI BÃO
LỚN, ĐOÀN KẾT, SÁNG TẠO, XUNG KÍCH TRONG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ
QUỐC”.
NÔNG ĐỨC MẠNH
Luận văn thạc sĩ Báo chí học
155