ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

---------------------

Nguyễn Tá Nam

ĐÁNH GIÁ, DỰ BÁO MỨC ĐỘ NGUY HIỂM ĐỊA CHẤN

VÀ RỦI RO MÔI TRƢỜNG TẠI CÔNG TRÌNH THỦY ĐIỆN SÔNG

LÔ 6, TỈNH HÀ GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội – 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

---------------------

Nguyễn Tá Nam

ĐÁNH GIÁ, DỰ BÁO MỨC ĐỘ NGUY HIỂM ĐỊA CHẤN

VÀ RỦI RO MÔI TRƢỜNG TẠI CÔNG TRÌNH THỦY ĐIỆN SÔNG

LÔ 6, TỈNH HÀ GIANG

Chuyên ngành: Khoa học môi trƣờng

Mã số: 60440301

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS. TS. Nguyễn Hồng Phƣơng

Hà Nội - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.

Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo

đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm hiểu, phân tích

một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết

quả này chƣa từng đƣợc công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.

Ngƣời cam đoan

Nguyễn Tá Nam

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG ............................................................................................... iii

DANH MỤC HÌNH ................................................................................................ iii

MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN .................................................................................. 3

1.1 Tổng quan ...................................................................................................... 3

1.1.1 Tổng quan về nghiên cứu địa chấn ......................................................... 3

1.1.2 Tổng quan về rủi ro môi trƣờng .............................................................. 7

1.1.3 Tổng quan về tình hình năng lƣợng ........................................................ 8

1.2 Tổng quan về khu vực nghiên cứu .............................................................. 10

1.2.1 Công trình thủy điện Sông Lô 6 ........................................................... 10

1.2.2 Hoạt động địa chấn xung quanh khu vực nghiên cứu .......................... 10

CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ... 13

2.1 Đối tƣợng nghiên cứu .................................................................................. 13

2.2 Nội dung nghiên cứu ................................................................................... 13

2.3 Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................. 13

2.3.1 Phƣơng pháp đánh giá độ nguy hiểm địa chấn ..................................... 13

2.3.2 Phƣơng pháp đánh giá rủi ro môi trƣờng gây ra do địa chấn tại công

trình thủy điện ....................................................................................................... 31

CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ............................. 35

3.1 Đánh giá độ nguy hiểm động đất tại thủy điện Sông Lô 6 .......................... 35

3.1.1 Đánh giá bằng phƣơng pháp xác suất ................................................... 35

3.1.2 Đánh giá bằng phƣơng pháp tất định. ................................................... 46

i

3.2 Rủi ro môi trƣờng do địa chấn tại thủy điện sông lô 6 ................................ 49

3.2.1 Xây dựng các bản đồ ngập lụt khu vực hạ lƣu đập thủy điện............... 49

3.2.2 Xây dựng bản đồ các yếu tố chịu rủi ro. ............................................... 52

3.2.3 Rủi ro môi trƣờng do vỡ đập thủy điện. ............................................... 54

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................ 58

DANH MỤC BÀI BÁO .......................................................................................... 60

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 61

ii

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1: Các đứt gãy có ảnh hƣởng tới thủy điện Sông Lô 6 (Nguyễn Hồng

Phƣơng, 2004) ........................................................................................................... 36

Bảng 3.2: Danh mục động đất của các phân vùng kiến tạo khu vực nghiên cứu ..... 39

Bảng 3.3: Tổng hợp kết quả tính bằng phƣơng pháp tất định ................................... 46

Bảng 4.1: Chiều dài đƣờng giao thông bị ảnh hƣởng bởi ngập lut ........................... 56

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1: Vị trí thủy điện Sông Lô 6 ....................................................................... 10

Hình 1.2: Bản đồ đƣờng đẳng chấn gây ra do trận động đất Lục Yên 1954 (Nguyễn

Đình Xuyên và nnk., 2004). ...................................................................................... 11

Hình 1.3: Bản đồ đƣờng đẳng chấn gây ra do trận động đất Bắc Giang năm 1961

(Nguyễn Đình Xuyên và nnk., 2004) ........................................................................ 12

Hình 2.1: Cơ sở lý thuyết của phƣơng pháp xác suất ............................................... 16

Hình 2.2: Các bƣớc đánh giá nguy hiểm địa chấn bằng xác suất ............................. 17

Hình 2.3: Nguồn chấn động dạng đƣờng và nguồn chấn động dạng diện. ............... 18

Hình 2.4: Các dạng đứt gãy ....................................................................................... 19

Hình 2.5: Góc cắm của đứt gãy và khoảng cách từ bề mặt tới chấn tâm .................. 19

Hình 2.6: Hằng số a và b trong biểu thức Gutenberg – Richter. ............................... 23

Hình 2.7: Ví dụ về quy luật tắt dần chấn động do động đất. .................................... 24

Hình 2.8: Áp dụng kỹ thuật cây logic trong đánh giá nguy hiểm động đất. ............. 26

Hình 2.9: Mô hình hoạt động của chƣơng trình Openquake..................................... 27

Hình 2.10: Các bƣớc đánh giá nguy hiểm địa chấn bằng phƣơng pháp tất định. ..... 28

Hình 2.11: Kỹ thuật chồng ghép bản đồ (nguồn:cnx.org) ........................................ 32

Hình 3.1: Hệ thống đứt gãy trong vòng bán kính 200km từ đập thủy điện Sông Lô 6.

(Nguyễn Hồng Phƣơng, 2004) .................................................................................. 36

Hình 3.2: Loại bỏ tiền, dƣ chấn khỏi danh mục động đất ......................................... 38

Hình 3.3: Chấn tâm động đất khu vực nghiên cứu ................................................... 39

Hình 3.4: Tính toán tần suất lặp lại động đất cho vùng kiến tạo Hoa Nam. ............. 41

Hình 3.5: Tính toán tần suất lặp lại động đất cho Miền uốn nếp Tây Việt Nam ...... 42

iii

Hình 3.6: Mô hình cây logic cho phƣơng trình tắt dần chấn động. .......................... 43

Hình 3.7: Cƣờng độ rung động nền khu vực nghiên cứu ứng với chu kỳ 145 năm . 45

Hình 3.8: Cƣờng độ rung động nền khu vực nghiên cứu ứng với chu kỳ 475 năm . 45

Hình 3.10: Kết quả phƣơng pháp tất định cho kịch bản (1) ...................................... 47

Hình 3.11: Kết quả phƣơng pháp tất định cho kịch bản (2) ...................................... 48

Hình 3.12: Kết quả phƣơng pháp tất định cho kịch bản (3) ...................................... 48

Hình 3.13: Kết quả phƣơng pháp tất định cho kịch bản (4) ...................................... 49

Hình 4.1: Bản đồ mô hình số độ cao (DEM) cho khu vực Sông Lô (mét) ............... 50

Hình 4.2: Một số kịch bản nƣớc dâng do vỡ đập thủy điện ...................................... 51

Hình 4.3: Bản đồ ngập lụt nếu xảy ra sự cố đập thủy điện Sông Lô 6 ..................... 52

Hình 4.4: Dữ liệu về nhà cửa đã đƣợc số hóa xung quanh khu vực nghiên cứu ...... 53

Hình 4.5: Dữ liệu về đƣờng giao thông xung quanh khu vực nghiên cứu ................ 54

Hình 4.6: Bản đồ nhà cửa bị ảnh hƣởng bởi ngập lụt ............................................... 55

Hình 4.7: Mức độ ngập lụt đối với nhà cửa .............................................................. 56

Hình 4.8: Ảnh hƣởng của ngập lụt tới đƣờng giao thông. ........................................ 57

iv

MỞ ĐẦU

Trong những năm gần đây, hiểm họa do các tai biến thiên nhiên nhƣ động đất,

núi lửa và sóng thần không ngừng gia tăng theo thời gian trên phạm vi toàn cầu.

Cùng với sự bùng nổ dân số, sự phát triển kinh tế với tốc độ chóng mặt chính là

nguyên nhân gây ra những tác động không đƣợc kiểm soát của con ngƣời vào lớp

vỏ rắn của Trái Đất (nhƣ khai thác dầu khí, khoáng sản, xây dựng các nhà máy điện

hạt nhân, hay thải các chất thải công nghiệp ra môi trƣờng, v.v…), góp phần đáng

kể vào sự gia tăng mức độ rủi ro do động đất gây ra đối với cộng đồng. Các kết quả

nghiên cứu cũng đã chỉ ra mối liên quan trực tiếp giữa tần suất xuất hiện động đất

với những thiệt hại về ngƣời và của do động đất gây ra

Các công trình thủy điện ngày nay đƣợc xây dựng ngày càng nhiều nhằm phục

vụ đời sống sinh hoạt, sản xuất của con ngƣời. Dựa vào khai thác thủy năng biến

đổi thành năng lƣợng, các nhà máy thủy điện thƣờng đƣợc xây dựng trên các con

sông lớn, nằm trong các vùng núi có địa hình hiểm trở, nhằm tận dụng thế năng của

nƣớc đi từ trên cao xuống. Đây lại là khu vực dễ ảnh hƣởng nhất bởi động đất do là

nơi tập trung các đứt gãy sinh chấn.

Nhằm giảm thiểu những thiệt hại do động đất và đảm bảo an toàn cho các hoạt

động phát triển kinh tế và dân sinh, vấn đề quan trọng là phải xác định đƣợc những

khu vực xây dựng nhà máy thủy điện có khả năng phải chịu thiệt hại nếu động đất

xảy ra hay không, từ đó đƣa ra những giải pháp hợp lý cho việc quy hoạch, thiết kế

kháng chấn và phát triển bền vững. Đánh giá độ nguy hiểm động đất (độ nguy hiểm

địa chấn) cho một khu vực nghiên cứu là quá trình áp dụng các phƣơng pháp và

công cụ tính toán để xác định các hiệu ứng chấn động do động đất gây ra (độ lớn,

tần suất hay chu kỳ lặp lại) tại khu vực đã cho trong một khoảng thời gian cho

trƣớc. Điều này sẽ giúp các nhà quản lý có thể đƣa ra các biện pháp quản lý, đối phó

phù hợp.

Công trình thủy điện Sông Lô 6 đang đƣợc xây dựng trên sông Lô – con sông

có vị trí địa lý chạy dọc theo đứt gãy Sông Lô có khả năng gây động đất rất lớn. Do

đó việc đánh giá nguy hiểm địa chấn và các rủi ro môi trƣờng tại nhà máy này là rất

1

cần thiết và có tính tham khảo cao trong công tác quản lý môi trƣờng, cứu hộ cứu

nạn. Luận văn sẽ áp dụng các kiến thức về địa chấn và môi trƣờng nhằm thực hiện

các đánh giá trên, đƣa ra khả năng ảnh hƣởng của việc xây dựng, vận hành nhà máy

tới môi trƣờng gây ra bởi động đất.

2

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN

1.1 Tổng quan

1.1.1 Tổng quan về nghiên cứu địa chấn

a. Lý thuyết về địa chấn

Động đất hay địa chấn là sự rung chuyển của mặt đất do kết quả của sự giải

phóng năng lƣợng bất ngờ ở lớp vỏ Trái Đất. Nó cũng xảy ra ở các hành tinh có cấu

tạo với lớp vỏ ngoài rắn nhƣ Trái Đất. Chúng gây ra bởi các nguyên nhân:

- Nội sinh: Do vận động kiến tạo của các mảng kiến tạo trong vỏ Trái đất,

dẫn đến các hoạt động đứt gãy và/hoặc phun trào núi lửa ở các đới hút

chìm.

- Ngoại sinh: Thiên thạch va chạm vào Trái Đất, các vụ trƣợt lở đất đá với

khối lƣợng lớn.

- Nhân sinh: Hoạt động của con ngƣời gồm cả gây rung động không chủ ý,

hay các kích động có chủ ý trong khảo sát hoặc trong khai thác hay xây

dựng, đặc biệt là các vụ thử hạt nhân dƣới lòng đất.

Trong quan niệm thông thƣờng thì động đất đƣợc hiểu là các rung chuyển đủ

mạnh trên diện tích đủ lớn, ở mức nhiều ngƣời cảm nhận đƣợc, có để lại các dấu vết

phá hủy hay nứt đất ở vùng đó. Về mặt vật lý, các rung chuyển đó phải có biên độ

đủ lớn, có thể vƣợt giới hạn đàn hồi của môi trƣờng đất đá và gây nứt vỡ. Nó ứng

với động đất có nguồn gốc tự nhiên, hoặc mở rộng đến các vụ thử hạt nhân. Chú ý

rằng các địa chấn kế tại các trạm quan sát địa chấn đƣợc thiết kế để ghi nhận các

động đất dạng nhƣ vậy, và lọc bỏ các chấn động do nhân sinh gây ra.

Độ lớn của trận động đất thƣờng đƣợc phân chia theo thang Richter, theo đó

độ lớn động đất có thể đƣợc chia thành các thang nhƣ sau:

- 1–2 trên thang Richter: Không nhận biết đƣợc

- 2–4 trên thang Richter: Có thể nhận biết nhƣng không gây thiệt hại

- 4–5 trên thang Richter: Mặt đất rung chuyển, nghe tiếng nổ, thiệt hại không

đáng kể

3

- 5–6 trên thang Richter: Nhà cửa rung chuyển, một số công trình có hiện

tƣợng bị nứt

- 6–7 trên thang Richter, 7–8 trên thang Richter: Mạnh, phá hủy hầu hết các

công trình xây dựng thông thƣờng, có vết nứt lớn hoặc hiện tƣợng sụt lún trên mặt

đất.

- 8–9 trên thang Richter: Rất mạnh, phá hủy gần hết cả thành phố hay đô thị,

có vết nứt lớn, vài tòa nhà bị lún

- >9 trên thang Richter: Rất hiếm khi xảy ra

- >10 trên thang Richter: Cực hiếm khi xảy ra

b. Tình hình nghiên cứu đánh giá độ nguy hiểm động đất

Trên thế giới

Phƣơng pháp tất định bắt đầu đƣợc áp dụng trên thế giới từ đầu thế kỷ 20.

Những nghiên cứu theo cách tiếp cận này thƣờng dựa trên việc đối sánh các số liệu

quan sát thực tế về những thiệt hại do động đất gây ra với phân bố không gian và

các đặc trƣng địa vật lý của các cấu trúc địa chất nằm bên dƣới khu vực bị thiệt hại.

Năm 1937, tập bản đồ phân vùng động đất đầu tiên ra đời tại Liên bang Xô

viết (Liên xô cũ). Đây là kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học tại Viện Vật lý

Trái Đất, Viện Hàn lâm khoa học Liên xô. Do không có đầy đủ các dữ liệu quan

trắc về rung động mạnh của nền, các bản đồ phân vùng động đất của Liên xô cũ và

Liên bang Nga hiện nay đều lựa chọn cƣờng độ chấn động trên mặt (I) theo thang

MSK-64 làm tham số thể hiện trên bản đồ. Ngay sau khi ra đời, phiên bản đầu tiên

của các bản đồ phân vùng động đất đƣợc đƣa vào tiêu chuẩn xây dựng của nƣớc

cộng hòa Nga lúc bấy giờ. Các bản đồ phân vùng động đất Liên xô trong thời gian

từ năm 1937 đến năm 1997 đƣợc xây dựng bằng phƣơng pháp tất định. Phƣơng

pháp xác suất chỉ đƣợc áp dụng trong phân vùng động đất ở Liên xô cũ bắt đầu từ

năm 1997. Các phiên bản cập nhật của tập bản đồ phân vùng động đất tại Nga đƣợc

ban hành vào các năm 1997, 2003 và 2012.

Ở Trung Quốc, bản đồ phân vùng động đất toàn lãnh thổ đầu tiên ra đời năm

1957. Bản đồ này đƣợc gọi là “bản đồ thế hệ 1”, đƣợc xây dựng bằng phƣơng pháp

4

tất định và chủ yếu dựa trên cơ sở các tiêu chí địa chất về nguy hiểm địa chấn. Các

bản đồ phân vùng động đất thế hệ sau đó của Trung quốc lần lƣợt đƣợc công bố vào

các năm 1977, 1990 và 2001.

Ở Mỹ, độ nguy hiểm địa chấn đƣợc biết đến và đƣa vào áp dụng cho các công

trình xây dựng sau sự kiện động đất 6.4 năm 1933 xảy ra ở Long Beach, California

làm 120 ngƣời thiệt mạng và gây thiệt hại 50 triệu USD. Sau sự kiện trên, nguy

hiểm địa chấn đã dần đƣợc đƣa vào để thiết kế các công trình xây dựng có khả năng

kháng trụ khi có động đất xảy ra. Từ năm 1940 đến 1950, các thông số định lƣợng

về nguy hiểm địa chấn đã đƣợc đƣa ra ngày càng hoàn thiện hơn. Sau đó các bản đồ

độ nguy hiểm địa chấn dựa trên phƣơng pháp phân tích xác suất cũng đƣợc giới

thiệu: Milne và Davenport (1969) đã công bố bản đồ độ nguy hiểm địa chấn cho

Canada, Cornel (1968)[4] đã phát triển một phƣơng pháp luận khác so với Milne và

Daveport, phƣơng pháp luận này sau đó đƣợc McGuire viết thành chƣơng trình tính

dựa trên nền FORTRAN. Trong phƣơng pháp tính của Cornell-McGuire, phân bố

không gian của động đất đƣợc thể hiện bằng các nguồn địa chấn, có thể là nguồn

diện (vùng nguồn địa chấn) hoặc nguồn đƣờng (đới đứt gãy). Các vùng địa chấn này

đƣợc xác định bởi thông tin về địa chấn kiến tạo. Tập bản đồ nguy hiểm động đất

quốc gia đƣợc thành lập bằng phƣơng pháp xác suất đƣợc Algermissen và Perkins

công bố lần đầu tiên năm 1976. Trong vòng vài thập kỷ sau đó, tập bản đồ này đƣợc

các chuyên gia của Cơ quan khảo sát địa chất Mỹ (USGS) liên tục cập nhật vào các

năm 1996, 2002 (Frankel và nnk.), 2008, 2012 và 2014 (Petersen và nnk.).

Tại nhiều quốc gia khác trên thế giới, công tác phân vùng động đất toàn lãnh

thổ cũng đƣợc thực hiện, mặc dù với những thời điểm khởi đầu khác nhau, nhƣng

đều cùng chung cách tiếp cận trong phƣơng pháp luận và quy trình thực hiện.

Bƣớc sang thế kỷ 21, những tiến bộ về khoa học và công nghệ, đặc biệt là các

công nghệ mới nhƣ GIS, viễn thám, và công nghệ tin học phục vụ tính toán là động

lực cho những tiến bộ và cải cách quan trọng trong quy trình thực hiện và phƣơng

pháp luận đánh giá độ nguy hiểm động đất. Việc đánh giá độ nguy hiểm động đất

trở thành một mối quan tâm đa ngành với sự tƣơng tác của nhiều lĩnh vực nghiên

5

cứu khác nhau nhƣ địa chấn học (nghiên cứu sự giải phóng và lan truyền năng

lƣợng địa chấn), địa chất (xác định vị trí, hình thể và tiềm năng của nguồn địa

chấn), địa vật lý (định lƣợng hoá các nguồn địa chấn mà khoa học địa chất không

xác định đƣợc), toán học (xây dựng các thuật toán và công cụ tính toán cho cả hai

phƣơng pháp tất định và xác suất), địa kỹ thuật (đánh giá các hiệu ứng địa phƣơng

tới sự rung động nền), xây dựng công trình (ƣớc lƣợng rủi ro động đất đô thị) và xã

hội học (nghiên cứu tác động kinh tế-xã hội của rủi ro động đất).

Tại Việt Nam

Ở Việt nam, phƣơng pháp tất định đã ra đời từ giữa thế kỷ 20 và phát triển

mạnh cho đến giữa thập kỷ 80. Trong khoảng thời gian từ năm 1968 đến năm 1985,

các phƣơng pháp tất định đƣợc áp dụng ở Việt Nam để đánh giá định lƣợng độ nguy

hiểm động đất. Các nghiên cứu trong thời kỳ này dựa trên giả thiết về sự tồn tại của

một chế độ hoạt động địa chấn “trung bình” đặc trƣng cho mỗi lãnh thổ nghiên cứu

và có thể coi là không đổi trong một khoảng thời gian dài tƣơng ứng với một thời kỳ

hoạt động địa chất kiến tạo của khu vực đó. Các kết quả đƣợc biểu diễn dƣới dạng

các bản đồ biểu thị phân bố không gian của các tham số của chế độ địa chấn nhƣ độ

hoạt động địa chấn, độ rung động địa chấn, … nhƣng đặc trƣng nhất là các bản đồ

phân vùng động đất, đƣợc hoàn thiện theo thời gian.

Bản đồ phân vùng động đất lãnh thổ Việt nam đƣợc thành lập lần đầu tiên vào

năm 1985 (Phạm Văn Thục chủ biên) và đƣợc cập nhật năm 1989 (Nguyễn Đình

Xuyên chủ biên), là sự kế thừa và hoàn thiện các sơ đồ phân vùng động đất tồn tại

trƣớc đó nhƣ sơ đồ phân vùng động đất miền Bắc Việt nam (Rezanov I.A. và

Nguyễn Khắc Mão, 1968). Trên bản đồ phân vùng động đất biểu diễn đồng thời các

vùng chấn động và các vùng nguồn phát sinh ra các chấn động ấy. Tại mỗi vùng

chấn động, các đặc trƣng địa chấn cơ bản nhƣ độ lớn cực đại Mmax và độ sâu chấn

tiêu trung bình h đƣợc xác định. Đây có thể coi là thế hệ đầu tiên của bản đồ phân

vùng động đất lãnh thổ Việt Nam, đƣợc xây dựng bằng phƣơng pháp tất định, với

các tham số đƣợc lựa chọn là cƣờng độ rung động nền trên bề mặt (I) theo thang

MSK-64)

6

Phạm Văn Thục và Kijko A . (1985) lần đầu tiên áp dụng phân bố cực trị loại I

của Gumbel để dự báo chu kỳ lặp lại và magnitude động đất cực đại cho toàn lãnh

thổ Việt nam trong khuôn khổ chung là khu vực Đông nam Á. Nguyễn Hồng

Phƣơng (1991) áp dụng các phân bố cực trị loại I và III của Gumbel để đánh giá các

tham số nguy hiểm động đất cho 7 vùng nguồn trên lãnh thỗ Việt nam, từ đó dự báo

xác suất phát sinh các động đất cực đại cho hai phần chính của lãnh thổ là miền Bắc

và miền Nam Việt nam trong các khoảng thời gian khác nhau.

Tập bản đồ xác suất nguy hiểm động đất đầu tiên đƣợc Nguyễn Hồng Phƣơng thành

lập cho lãnh thổ Việt Nam năm 1993. Dựa trên bản đồ phân vùng địa chấn kiến tạo,

thuật toán của A. C. Cornell và chƣơng trình EQRISK của R. K. McGuire đƣợc sử

dụng để tính toán và lập bản đồ gia tốc cực đại nền cho lãnh thổ Việt Nam. Đây là

lần đầu tiên các mô hình xác suất đƣợc áp dụng trong toàn bộ quy trình đánh giá độ

nguy hiểm động đất lãnh thổ Việt Nam, từ khâu xử lý thống kê các tài liệu động đất,

ƣớc lƣợng các tham số cho các vùng nguồn đến tính toán và thành lập các bản đồ

gia tốc cực đại nền. Năm 1997, tập bản đồ đƣợc tác giả cập nhật trên cơ sở bổ sung

thêm các vùng nguồn chấn động trên lãnh thổ Trung Quốc, Lào, Myanmar và Thái

Lan. Ngoài ra, để tính đến ảnh hƣởng lan truyền chấn động từ các vùng biển tới

lãnh thổ Việt Nam, ranh giới của một vùng nguồn chấn động trên Ấn Độ Dƣơng và

6 vùng nguồn khác trên khu vực Thái Bình Dƣơng cũng đƣợc xác định. Tổng cộng

có 17 vùng nguồn chấn động đƣợc sử dụng cho các tính toán và vẽ bản đồ xác suất

nguy hiểm động đất đƣợc sử dụng trong công trình này. Đến năm 2004, tập bản đồ

này đƣợc tác giả cập nhật lại một lần nữa, với việc hiệu chỉnh lại ranh giới các vùng

nguồn trên khu vực Biển Đông Việt Nam. Phiên bản gần đây nhất của tập bản đồ

xác suất nguy hiểm động đất lãnh thổ Việt Nam và khu vực Biển Đông đƣợc công

bố năm 2015(Phuong & Truyen, 2015).

1.1.2 Tổng quan về rủi ro môi trường

a. Lý thuyết về rủi ro môi trường

Rủi ro môi trƣờng là những mối đe dọa tiềm ẩn hoặc có thể là thực tế tác động

lên môi trƣờng và sinh vật sống qua nguồn khí thải, nƣớc thải, khí chất thải. Hoặc

7

có thể gây suy giảm tài nguyên. Rủi ro môi trƣờng luôn tồn tại song hành với sự

phát triển kinh tế xã hội và luôn không chắc chắn.

b. Tình hình nghiên cứu đánh giá rủi ro môi trường

Trên thế giới

Ở các nƣớc phát triển, yêu cầu đánh giá rủi ro đã đƣợc thực hiện bài bản theo

các phƣơng pháp nhất quán có lồng ghép với các giải pháp quản lý để hạn chế sự cố

và ứng phó kịp thời khi sự cố xảy ra. Các phƣơng pháp luận chung đánh giá rủi ro

môi trƣờng (ADB, 1997), tại Canada năm 2000 (Ministry of Environment, 2000),

tại Anh năm 2011 (Crandfield University, 2011), tại Úc năm 2011 (National

Environment Protection Council, 2011) hầu nhƣ không có sự khác biệt về phƣơng

pháp luận chung dù theo thời gian có sự khác nhau về tính ƣu tiên trong đánh giá.

Theo đó, sự truyền đạt thông tin đƣợc coi là thành phần cơ bản của quá trình ra

quyết định; sự phát triển về hiểu biết và thông tin khoa học sẽ trợ giúp cho đánh giá

rủi ro và tính xác đáng của đánh giá rủi ro sẽ đƣợc cải thiện qua các trƣờng hợp

nghiên cứu điển hình.

Tại Việt Nam

ở Việt Nam, công việc đánh giá rủi ro môi trƣờng chƣa thực sự đƣợc quan tâm

đúng mức và chỉ dừng ở mức độ nghiên cứu tiếp cận theo các mô hình đánh giá rủi

ro của các nƣớc phát triển. Tuy nhiên, trong hầu hết các nghiên cứu, các đánh giá

định lƣợng thƣờng chỉ dựa trên đánh giá bằng cảm nhận của chuyên gia nên khó có

thể chính xác, đặc biệt trong các trƣờng hợp khi nguyên nhân chính của rủi ro là sự

cố của hệ thống công nghệ sản xuất làm các nguồn phát thải chất ô nhiễm tăng đột

biến. Trong khi đó, việc dự báo định lƣợng chính xác các rủi ro lớn tiềm ẩn là cần

thiết để có ngay các biện pháp phòng ngừa hợp lý và khi sự cố xảy ra sẽ có ngay các

biện pháp ứng phó để giảm thiểu các thiệt hại.

1.1.3 Tổng quan về tình hình năng lượng

Trên thế giới

Theo số liệu Cơ quan Năng lƣợng Quốc tế IEA, từ năm 1974 đến năm 2007,

tổng sản lƣợng điện sản xuất toàn cầu tăng từ 6,298 TWh lên 25,721 TWh, tốc độ

8

tăng trƣởng kép hàng năm là 3.3%. Trừ năm 2008 và 2009 giảm do khủng hoảng

kinh tế, sản lƣợng điện sản xuất tăng liên tục trong toàn bộ giai đoạn 1974 – 2007.

Năm 2017, sản xuất điện từ các nƣớc không thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển

kinh tế OECD (non-OECD) chiếm 57% sản lƣợng điện sản xuất trên thế giới, tăng

hơn 2 lần so với con số 28% vào năm 1974. Sản lƣợng điện sản xuất từ các nƣớc

non-OECD vƣợt sản lƣợng điện của các nƣớc thuộc OECD từ 2011 và liên tục tăng

cao sau đó. Trong đó, điện đƣợc sản xuất từ các nguồn nguyên liệu dễ cháy nhƣ khí,

than, dầu… chiếm 66.8% tổng sản lƣợng điện sản xuất toàn cầu – theo số liệu năm

2017.

Nhóm các nƣớc thuộc OECD đang chứng kiến sự chuyển dịch về cơ cấu

nguồn điện. Các nguồn điện truyền thống nhƣ dầu, than và thủy điện đang có xu

hƣớng giảm dần, trong khi đó điện hạt nhân, nhiệt điện khí và nguồn năng lƣợng tái

tạo bắt đầu tăng mạnh trong 10 năm trở lại đây. Đặc biệt, trong năm 2018, lần đầu

tiên nhiệt điện khí đã vƣợt nhiệt điện than trở thành nguồn điện chiếm phần lớn

trong nhóm các nƣớc OECD. Ngƣợc lại, trong nhóm các nƣớc không thuộc OECD

lại chứng kiến sự tăng mạnh mẽ của nguồn nhiệt điện than và tiếp tục là nguồn điện

chủ yếu tại các nƣớc này. Nguồn điện năng lƣợng tái tạo cũng có sự tăng trƣởng

đột biến, tuy vậy vẫn chỉ chiếm một phần nhỏ trong cơ cấu nguồn điện.

Tại Việt Nam

Với Việt Nam, cơ cấu nguồn của hệ thống cung cấp năng lƣợng điện hiện tại

là nhiệt điện than chiếm 35,2%; thủy điện (35,9%), tuabin khí (12,6%), năng lƣợng

tái tạo (điện gió, mặt trời, áp mái, sinh khối) 12,6%; điện chạy dầu (2,1%); điện

nhập khẩu và từ nguồn khác chƣa tới 2%. Trong đó, các dự án liên quan đến sản

xuất điện từ năng lƣợng tái tạo phát triển ngành càng nhiều.

Việt Nam có tiềm năng đặc biệt lớn ở việc khai thác các nguồn năng lƣợng tái

tạo nhƣ: Thủy điện, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối. Trong đó, thủy điện

đƣợc tập trung phát triển gần nhƣ tối đa tại Việt Nam. Tính đến cuối năm 2018,

thủy điện là nguồn năng lƣợng chủ lực của nƣớc ta. Việt Nam có tiềm năng khai

thác công suất cho thủy điện khoảng 25.000 - 38.000 MW, trong đó 60% tập trung

9

ở miền Bắc, miền Trung là 27% và 13% còn lại ở miền Nam. Việt nam đã khai khác

gần hết thủy điện lớn (công suất trên 100 MW). Vì vậy, tới thời điểm hiện tại, nƣớc

ta đang tập trung vào phát triển thủy điện nhỏ.

1.2 Tổng quan về khu vực nghiên cứu

1.2.1 Công trình thủy điện Sông Lô 6

Công trình Nhà máy Thủy điện Sông Lô 6 đƣợc xây dựng thuộc địa bàn xã

Vĩnh Hảo, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang và xã Yên Thuận, huyện Hàm Yên,

tỉnh Tuyên Quang. Công trình có quy mô thiết kế 48MW, với tổng vốn đầu tƣ 1.852

tỷ đồng, khi công trình hoàn thành sản lƣợng điện năng đạt khoảng 187,25 triệu

Kwh/năm, doanh thu hàng năm đạt khoảng 187 tỷ đồng. Đến nay, dự án đã dần

hoàn thiện, có khả năng đƣa vào vận hành, khai thác điện năng trong quý II.2020.

Hình 1.1: Vị trí thủy điện Sông Lô 6

1.2.2 Hoạt động địa chấn xung quanh khu vực nghiên cứu

Khu vực nghiên cứu nằm trong vùng nền động Hoa Nam. Đây là vùng kiến tạo

chiếm toàn bộ diện tích Đông Bắc Bắc Bộ, đƣợc giới hạn phía Tây Nam bởi đứt gãy

10

sông Hồng, phía Nam bởi đứt gãy dọc quốc Lộ 13A, phía Đông Nam bởi đứt gãy

sông Thƣơng - Jangshin Shaosing.

Trong quá khứ đã từng xảy ra những trận động đất mạnh nằm không xa khu

vực địa điểm xây dựng công trình thủy điện Sông Lô 6, điển hình nhất là hai trận

động đất ở Lục Yên năm 1954 và ở Bắc Giang năm 1961.

Động đất Lục Yên năm 1954

Ở vùng Lục Yên (Yên Bái) thuộc đới sông Hồng trong hai năm liên tiếp 1953

và 1954 đã xẩy ra hai trận động đất cấp 7. Vùng chấn động cấp 7 kéo dài gần 30 km

theo hƣớng tây bắc - đông nam nhƣng rất hẹp. Động đất có độ lớn Ms = 5.4 và độ

sâu chấn tiêu đƣợc xác định là 16 km. Trận động đất này đƣợc phát hiện hoàn toàn

bằng điều tra thực địa. Chấn tâm của động đất Lục Yên chỉ nằm cách địa điểm công

trình thủy điện Sông Lô 6 khoảng 30 km.

Hình 1.2: Bản đồ đường đẳng chấn gây ra do trận động đất Lục Yên 1954 (Nguyễn Đình Xuyên và nnk., 2004).

11

Động đất Bắc Giang năm 1961

Động đất xảy ra lúc 16 giờ 58 phút ở Tân Yên, cách thị xã Bắc giang 11 km về

phía đông bắc, cấp độ mạnh ở chấn tâm đạt tới cấp 7, làm hƣ hại vừa một số nhà

cấp IV. Nhƣng vùng chấn động cấp 7 rất hẹp, trong khi các vùng cấp 6 và nhẹ hơn

lại rất rộng. Phần chính của chấn tiêu nằm ở độ sâu trung bình 28 km cho nên gây

chấn động yếu hơn trên mặt đất. Chấn tâm của động đất Bắc Giang chỉ nằm cách

địa điểm công trình thủy điện Sông Lô 6 khoảng 150 km.

Hình 1.3: Bản đồ đường đẳng chấn gây ra do trận động đất Bắc Giang năm 1961 (Nguyễn Đình Xuyên và nnk., 2004)

.

12

CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn nhƣ sau:

- Đánh giá độ nguy hiểm địa chấn (gây ra do hoạt động kiến tạo) tại Công

trình thủy điện Sông Lô 6.

- Đánh giá rủi ro môi trƣờng có thể xảy ra do địa chấn tại Công trình thủy

điện Sông Lô 6

Phạm vi nghiên cứu của luận văn:

- Các hoạt động địa chấn có khả năng ảnh hƣởng tới khu vực thủy điện Sông

Lô 6

- Rủi ro môi trƣờng gây ra do địa chấn, bao gồm 2 yếu tố: nhà cửa và giao

thông.

2.2 Nội dung nghiên cứu

- Xác định khu vực nghiên cứu

- Thu thập, xác định danh mục các trận động đất đã ghi nhận đƣợc có khả

năng ảnh hƣởng tới khu vực nghiên cứu.

- Xử lý số liệu, loại bỏ tiền chấn, dƣ chấn của các trận động đất bằng phƣơng

pháp cửa sổ.

- Xác định tính địa chấn của khu vực nghiên cứu thông qua danh mục động

đất và các đặc điểm về kiến tạo.

- Xác định độ nguy hiểm địa chấn tại khu vực nghiên cứu bằng phƣơng pháp

xác suất và tất định.

- Thu thập thông tin các đối tƣợng dễ bị tổn thƣơng nếu xảy ra sự cố tại

Công trình thủy điện

- Xác định rủi ro môi trƣờng do địa chấn tại khu vực Thủy điện Sông Lô 6.

2.3 Phƣơng pháp nghiên cứu

2.3.1 Phương pháp đánh giá độ nguy hiểm địa chấn

Để đánh giá độ nguy hiểm địa chấn, các nhà khoa học Việt Nam và trên thế

giới sử dụng 2 phƣơng pháp, bao gồm:

13

1) Phƣơng pháp tất định: cách tiếp cận dựa trên việc sử dụng mô hình địa

chấn kiến tạo, đó là các vùng nguồn có thể gây động đất, lựa chọn các kịch bản có

thể xảy ra trên các vùng nguồn đó, dựa vào khoảng cách từ địa điểm nghiên cứu tới

chấn tâm kịch bản để tính độ nguy hiểm. Khi sử dụng phƣơng pháp tất định để đánh

giá độ nguy hiểm địa chấn, thƣờng các kịch bản cực đoan nhất có thể xảy ra sẽ đƣợc

áp dụng, vì khi đó khu vực nghiên cứu sẽ bị ảnh hƣởng nặng nề nhất bởi động đất,

từ đó có thể đƣa ra các biện pháp xây dựng nhằm chống lại hậu quả gây ra bởi động

đất. Các kịch bản cực đoan nhất có thể là:

- Động đất có độ lớn lớn nhất có thể xảy ra trên 1 nguồn địa chấn.

- Động đất xảy ra tại vị trí gần nhất với khu vực nghiên cứu.

Phƣơng pháp tất định là phƣơng pháp đầu tiên ra đời để đánh giá độ nguy

hiểm địa chấn cho 1 khu vực. phƣơng pháp trên thƣờng đƣợc sử dụng cho các công

trình có tính trọng điểm nhƣ nhà máy điện hạt nhân, các đập thủy điện lớn, các địa

điểm chứa chất thải nguy hại,vv.

2) Phƣơng pháp xác suất: đây là các tiếp cận có thể xác định tần suất xuất

hiện trong một khoảng thời gian của các chỉ số nguy hiểm động đất nhƣ cƣờng độ

rung động nền, gia tốc nền. Đối với phƣơng pháp xác suất, tất cả các yếu tố đều

đƣợc đƣa vào tính toán nhƣ tần suất lặp lại, khoảng cách, độ lớn. Ƣu điểm lớn nhất

của phƣơng pháp xác suất là xác định đƣợc các ngƣỡng nguy hiểm động đất dựa

theo từng chu kỳ, nhƣ 50, 100, 250, 1000 năm. Nếu dựa vào các kết quả nghiên cứu

theo phƣơng pháp xác suất, các nhà đầu tƣ có thể tiết kiệm chi phí, phụ thuộc vào

vòng đời của công trình và kết quả tính toán theo các chu kỳ năm khác nhau.

Đánh giá xác suất là phƣơng pháp đƣợc sử dụng rộng rãi nhất để xác định rung

động nền phục vụ mục đích xây dựng kháng chấn. Sử dụng phƣơng pháp xác suất

cho phép tích hợp các biến số cả về độ lớn động đất, vị trí, tần suất xuất hiện động

đất, v.v…

Tùy vào mục đích nghiên cứu và áp dụng mà các nhà khoa học có thể lựa chọn

các phƣơng pháp áp dụng khác nhau. Mỗi phƣơng pháp kể trên đều có những ƣu

nhƣợc điểm riêng khi áp dụng cho từng mục đích nghiên cứu. Trong luận văn này,

14

cả hai phƣơng pháp đều đƣợc sử dụng nhằm tính toán nguy hiểm động đất cho khu

vực nhà máy thủy điện Sông Lô 6.

a. Phương pháp xác suất.

Cơ sở lý luận.

Phƣơng pháp giải tích đánh giá độ nguy hiểm động đất đƣợc A.C. Cornell

công bố lần đầu tiên năm 1968. Độ nguy hiểm động đất đƣợc định nghĩa là xác suất

P để cƣờng độ rung động nền Y tại một điểm sẽ bị vƣợt quá trong vòng T năm do

ảnh hƣởng của tất cả các nguồn thế động đất ở xung quanh điểm đó gây ra. Ở đây

cƣờng độ rung động có thể đƣợc biểu thị bằng các thông số rung động nền nhƣ gia

tốc A, vận tốc V hay dịch chuyển nền D. Phƣơng pháp Cornell dựa trên những giả

thiết cơ sở sau đây (Cornell, 1968):

1) Độ lặp lại các động đất có độ lớn vƣợt quá một cận dƣới Mmin cho trƣớc

tuân theo luật phân bố Poisson thuần nhất theo thời gian với tần suất trung bình là λ;

2) Tƣơng quan giữa độ lớn (magnitude) và tần suất lặp lại động đất là một hàm

tuyến tính cụt:

{

Trong đó Mmin và Mmax là các cận trên và dƣới của độ lớn, N(M) là số động đất

có độ lớn lớn hơn M xảy ra trong khu vực nghiên cứu, a và b là các hằng số của

biểu thức Gutenberg-Richter (Palacios, Molina, & Segovia, 2006) xét trong khoảng

(Mmin, Mmax). Hàm phân bố xác suất tích luỹ của độ lớn có dạng:

{

[ ( )]

Trong đó :

15

3) Tƣơng quan giữa độ lớn M, cƣờng độ rung động (gia tốc cực đại) nền Y tại

điểm đang xét và khoảng cách R từ điểm đó tới nguồn thế do động đất gây ra có

dạng:

(2.3)

Trong đó ε là sai số của quy luật tắt dần chấn động, còn c1, c2 và c3 là các

hằng số đặc trưng cho từng khu vực.

Hình 2.1: Cơ sở lý thuyết của phương pháp xác suất

Trên cơ sở thuật toán của phƣơng pháp Cornell, năm 1976, R.K. McGuire đã

xây dựng chƣơng trình EQRISK làm công cụ tính toán và vẽ bản đồ độ nguy hiểm

động đất, theo đó độ nguy hiểm động đất đƣợc tính bởi công thức (McGuire, 1976):

(2.4)

Trong đó P là ký hiệu chỉ xác suất, A là biến cố có xác suất cần tìm và M, r là

các biến ngẫu nhiên liên tục có ảnh hƣởng tới biến cố A. Nhƣ vậy, nếu coi A là giá

trị cƣờng độ chấn động tại điểm đang xét, M là giá trị độ lớn động đất (hay cƣờng

độ chấn động trên mặt), và r là khoảng cách từ nguồn tới điểm đang xét, thì từ (2.4)

ta có xác suất để cho chấn động tại điểm đang xét đạt cƣờng độ bằng A khi động đất

16

xảy ra, tính đƣợc bằng phép tích phân theo M và r của tích giữa xác suất có điều

kiện của A (khi cho trƣớc M và r) với các xác suất độc lập của M và r. Phép tích

phân theo độ lớn đƣợc đƣa về dạng giải tích, còn hàm mật độ xác suất của khoảng

cách fR(r) đƣợc cho bởi biểu thức lan truyền chấn động giữa nguồn và điểm đang

xét (2.3).

Quy trình chung của phương pháp xác suất.

Quy trình đánh giá độ nguy hiểm địa chấn bằng phƣơng pháp xác suất cho bất

ký khu vực nghiên cứu nào đều bao gồm các bƣớc dƣới đây:

Xác định vùng nguồn chấn động

Ƣớc lƣợng các tham số địa chấn

Lựa chọn phƣơng trình tắt dần chấn động

Tính bản đồ rung động nền (PGA, I)

Hình 2.2: Các bước đánh giá nguy hiểm địa chấn bằng xác suất

1) Xác định các vùng nguồn chấn động trong khu vực nghiên cứu:

Vùng nguồn động đất có thể định nghĩa cơ bản là những vùng có khả năng

phát sinh động đất. Vùng nguồn chấn động có thể là nguồn dạng diện hoặc dạng

đƣờng tùy theo các nghiên cứu chuyên sâu cho từng khu vực.

17

Hình 2.3: Nguồn chấn động dạng đường và nguồn chấn động dạng diện.

Nguồn động đất dạng đƣờng là các đứt gãy kiến tạo, một dạng biến vị của vỏ

Trái đất sinh ra do vận động kiến tạo. Trong quá trình vận động của vỏ Trái đất, các

mảng lục địa dịch chuyển, va chạm với nhau tạo ra các lớp đất đá bị vỡ vụn tại khu

vực ranh giới. Nguồn chấn động dạng đƣờng đƣợc thể hiện trên bản đồ dƣới dạng

đƣờng, thể hiện phân bố không gian của đứt gãy trên thực tế. Ngoài việc đƣợc thể

hiện trên bản đồ, các nguồn chấn động dạng đƣờng sẽ có các thuộc tính kèm theo,

đặc trƣng cho từng nguồn nhƣ góc cắm, kiểu dịch trƣợt, tốc độ dịch trƣợt, độ lớn

cực đại có thể phát sinh, tần suất xuất hiện động đất trên đứt gãy đó. Một vùng

nguồn động đất cũng có thể đƣợc chia thành nhiều phân vùng khác nhau, mỗi phân

vùng có những đặc trƣng kiến tạo và đặc trƣng địa chấn khác nhau.

Các tham số đặc trƣng và cần đƣợc xác định chính xác cho các đứt gãy bao

gồm loại đứt gãy, góc cắm và độ lớn động đất cực đại có thể phát sinh trên đứt gãy

đó.

Loại đứt gãy là cách chúng ta phân biệt các đứt gãy dựa trên dịch chuyển

tƣơng đối của 2 cánh đứt gãy với nhau. Đứt gãy trƣợt bằng có hiện tƣợng 2 cánh

dịch chuyển theo phƣơng nằm ngang với nhau. Nếu đứng ở một cánh của đứt gẫy

18

trƣợt bằng và nhìn thấy cánh bên kia dịch chuyển về bên phải thì đứt gẫy gọi là

trƣợt bằng phải. Trong trƣờng hợp ngƣợc lại, đứt gẫy đƣợc gọi là trƣợt bằng trái.

Đứt gãy thuận là đứt gãy có cánh treo trƣợt xuống dƣới so với cánh nằm (cánh nằm

phía dƣới mặt dịch trƣợt). Ngƣợc lại với đứt gãy thuận là đứt gãy nghịch, với dạng

đứt gãy này cánh treo sẽ trồi lên trên so với cánh nằm.

Hình 2.4: Các dạng đứt gãy

Góc cắm là góc của mặt dịch trƣợt đối với bề mặt nằm ngang. Góc cắm của

đứt gãy ảnh hƣởng rất lớn tới việc tính toán giá trị rung động nền do khoảng cách từ

điểm tính trên mặt đất đến chấn tâm động đất phụ thuộc rất lớn vào góc cắm của đứt

gãy.

Hình 2.5: Góc cắm của đứt gãy và khoảng cách từ bề mặt tới chấn tâm

19

Nguồn động đất dạng vùng là các vùng nguồn động đất không đƣợc xác định

rõ ràng bởi các đứt gãy kiến tạo, đƣợc đánh giá và xác định dựa vào các trận động

đất đã ghi nhận đƣợc. Ngoài ra đó còn là một khu vực có nhiều đứt gãy giống nhau

về tính địa chấn, qua đó có thể gộp lại tạo thành các vùng nguồn động đất với đặc

trƣng riêng. Các vùng địa chấn thƣờng đƣợc thể hiện qua bản đồ dƣới dạng

polygon, kèm theo đó cũng bao gồm các đặc điểm về địa chấn nhƣ tần suất xuất

hiện động đất trên vùng nguồn đó, vv.

Các vùng nguồn chấn động đƣợc xác định trên cơ sở nghiên cứu các qui luật

hoạt động động đất, tức là mối liên quan giữa động đất và các yếu tố địa chất kiến

tạo và địa động lực trong khu vực nghiên cứu. Đầu tiên, ranh giới các vùng phát

sinh động đất mạnh đƣợc vạch ra dọc theo các đứt gãy hoạt động liên quan theo

nguyên tắc: các vùng phát sinh động đất đƣợc coi là tổng cộng các vùng cực động

của tất cả các trận động đất cực đại có khả năng xảy ra trong mỗi đới phá hủy kiến

tạo. Đó chính là hình chiếu của các mặt đứt gãy kiến tạo (kể từ ranh giới bên dƣới

của tầng hoạt động) lên mặt đất. Tuy nhiên, trong nhiều trƣờng hợp, do điều kiện số

liệu địa chất, địa vật lý và động đất còn nghèo, ranh giới xác định theo nguyên tắc

nêu trên sau đó đƣợc mở rộng ra tùy theo mật độ phân bố các chấn tâm quan sát

đƣợc, hay căn cứ vào tổ hợp phân bố của các đứt gãy, các cung núi lửa liên quan.

Ranh giới cuối cùng nhận đƣợc này, vẫn phản ánh trung thực các đặc trƣng địa chấn

kiến tạo cơ bản của đới nhƣ thế nằm, phƣơng của các cấu trúc chính và phân bố

không gian của các chấn tâm, sẽ xác định các vùng nguồn động đất trong khu vực

nghiên cứu.

2) Ước lượng các tham số nguy hiểm động đất cho từng vùng nguồn

Đối với mỗi khu vực nghiên cứu, dựa vào số liệu động đất thu thập đƣợc có

thể xác định đƣợc các tham số đặc trƣng cho hoạt động động đất tại khu vực. Quá

trình xử lý số liệu động đất tại khu vực nghiên cứu cần thông qua các bƣớc sau:

- Loại bỏ tiền chấn, dƣ chấn nhằm đảm bảo độ chính xác của danh mục động

đất khi áp dụng phƣơng pháp xác suất.

20

- Xác định tần suất xảy ra động đất tại khu vực nghiên cứu thông qua xác

định các tham số của biểu thức Gutenberg – Richter.

a) Loại bỏ tiền chấn, dƣ chấn.

Đối với phƣơng pháp xác suất, việc xử lý số liệu động đất càng trở nên quan

trọng khi số liệu động đất đƣợc đƣa vào tính toán phải thỏa mãn độc lập với nhau về

mặt thống kê. Việc loại bỏ tiền chấn, dƣ chấn của động đất khỏi danh mục có thể

giúp xử lý vấn đề trên. Một trong các phƣơng pháp đơn giản để loại bỏ tiền, dƣ chấn

động đất là phƣơng pháp cửa sổ (Window method): Đối với mỗi trận động đất với

độ lớn M, các trận động đất xảy ra gần đó đƣợc coi là tiền chấn, dƣ chấn của trận

động đất chính (mainshock) trên nếu thỏa mãn đồng thời 2 điều kiện: xảy ra trong

khoảng thời gian T và khoảng cách L tới trận mainshock.

Công thức của Gardner và Knopoff (1974) là công thức đơn giản nhằm xác

định các giá trị cửa sổ thời gian và không gian cho mỗi trận động đất:

{

Áp dụng công thức trên vào danh mục động đất đã có cho 1 khu vực sẽ loại

bỏ đƣợc các tiền chấn, dƣ chấn khỏi danh mục động đất, chỉ giữ lại các trận động

đất chính. Sau khi loại bỏ tiền, dƣ chấn, danh mục đã có thể sử dụng để tính toán,

đánh giá tần suất lặp lại động đất.

Xác định tần suất xuất hiện động đất

Sau khi đã loại bỏ tiền chấn, dƣ chấn và chỉ giữ lại các động đất chính, chúng

ta có thể xác định đƣợc tần suất xảy ra động đất tại khu vực nghiên cứu bằng việc

áp dụng biểu thức Gutenberg-Richter cho danh mục động đất đã xử lý. Mặc dù có

nhiều mối quan hệ tƣơng tự đƣợc các nhà khoa học tìm ra, tuy nhiên Gutenberg-

Richter vẫn là mối quan hệ đƣợc áp dụng rộng rãi nhất. Biểu thức Gutenberg-

Richter đƣợc thể hiện dƣới dạng:

log10N(M) = a-bM

21

Trong đó : N(M) là số động đất có độ lớn lớn hơn M xảy ra trong khu vực

nghiên cứu, a và b là các hằng số của biểu thức Gutenberg-Richter.

Giá trị a-value trong mối quan hệ Gutenberg-Richter thể hiện mức độ thƣờng

xuyên xảy ra động đất tại khu vực nghiên cứu. Giá trị a-value càng cao thì khu vực

càng thƣờng xuyên xảy ra động đất và ngƣợc lại.

Giá trị của hằng số b-value thể hiện mối tƣơng quan giữa số lần xuất hiện

động đất lớn và động đất nhỏ, thƣờng có giá trị 1.0 đối với vùng có hoạt động địa

chấn mạnh. Tuy vậy đối với các danh mục động đất khác nhau tƣơng ứng các vùng

có hoạt động địa chấn khác nhau, giá trị b thƣờng dao động trong khoảng từ 0.6 đến

1.4. Đây là giá trị có tính quyết định trong việc tính toán độ nguy hiểm động đất

bằng phƣơng pháp xác suất, ngoài ra nó cũng có ý nghĩa rất lớn trong địa chấn khi

dựa vào b-value, ta có thể xác định tính địa chấn của khu vực. Làm cách nào tìm

đƣợc giá trị b-value thích hợp nhất là một thử thách tƣơng đối khó khăn đối với các

nhà khoa học, khi hằng số này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có việc lựa

chọn cận trên và cận dƣới cho danh mục động đất.

Có nhiều phƣơng pháp để xác định các giá trị a, b trong biểu thức trên, trong

đó hai phƣơng pháp phổ biến nhất thƣờng đƣợc sử dụng là phƣơng pháp bình

phƣơng tối thiểu (least-square) và phƣơng pháp hợp lý cực đại (maximum

likelihood).

- Phƣơng pháp bình phƣơng tối thiểu là phƣơng pháp dễ sử dụng, lý thuyết

của phƣơng pháp trên là dựa trên danh mục động đất, đếm ra giá trị N(M)

theo từng độ lớn M khác nhau, sau đó vẽ đồ thị dạng least-square và tìm

đƣợc giá trị của a, b.

- Phƣơng pháp hợp lý cực đại đƣợc sử dụng để tính giá trị b-value, qua đó

dựa vào mối quan hệ giữa danh mục động đất, a, b để tính ra giá trị a :

̅

22

Hình 2.6: Hằng số a và b trong biểu thức Gutenberg – Richter.

3) Thiết lâp, lựa chọn các phương trình thể hiện quy luật tắt dần chấn động.

Phƣơng trình tắt dần chấn động là các biểu thức đƣợc xây dựng thể hiện mối

quan hệ giữa động đất, đặc điểm kiến tạo, đặc điểm nền đất địa phƣơng và giá trị

rung động nền gây ra bởi trận động đất đó. Trên thế giới đã có rất nhiều dự án lớn,

đề tài nghiên cứu của các nhóm chuyên gia nhằm đƣa ra các phƣơng trình tắt dần

chấn động cho từng khu vực cụ thể. Các phƣơng trình tắt dần chấn động đƣợc xây

dựng dựa trên các số liệu cụ thể đo đƣợc bằng máy, số liệu ghi nhận có thể là băng

ghi gia tốc, băng ghi vận tốc, vv. Dựa vào khoảng cách từ chấn tâm động đất tới

trạm đo, kết hợp điều kiện nền địa phƣơng, đới đứt gãy sinh chấn, kiểu dịch trƣợt và

giá trị PGA mà các nhà khoa học đƣa ra các phƣơng trình cụ thể dựa trên số lƣợng

bản ghi động đất rất lớn.

23

Hình 2.7: Ví dụ về quy luật tắt dần chấn động do động đất.

4) Tính toán, vẽ các bản đồ, biểu đồ thể hiện kết quả nghiên cứu.

Độ nguy hiểm động đất theo xác suất đƣợc định nghĩa là xác suất để cƣờng độ

rung động nền tại một điểm bị vƣợt quá trong khoảng thời gian nhất định, gây ra bởi

tất cả các nguồn có khả năng gây ra động đất ảnh hƣởng tới điểm tính. Cƣờng độ

rung động nền có thể đƣợc biểu thị bởi các thông số nhƣ gia tốc (Acceleration), vận

tốc (Velocity), dịch chuyển nền (Displacement). Có nhiều chƣơng trình đã đƣợc xây

dựng, cung cấp miễn phí nhƣ Openquake, CRISIS nhằm tính toán độ nguy hiểm

động đất dựa trên các thông số đƣợc cung cấp. Các chƣơng trình trên đều tính độ

nguy hiểm động đất bằng cách chia khu vực nghiên cứu thành các ô lƣới với khoảng

cách giữa các điểm tính tùy chọn. Công nghệ GIS sẽ đƣợc áp dụng để tạo ra các bản

đồ độ nguy hiểm động đất cho từng khu vực.

Các kỹ thuật, chương trình sử dụng.

Kỹ thuật cây logic

Kỹ thuật cây logic đƣợc sử dụng rộng rãi trong đánh giá nguy hiểm động đất

dựa theo lý thuyết xác suất. Có rất nhiều các yếu tố đầu vào ảnh hƣởng lớn tới kết

quả tính, mỗi yếu tố đó lại đƣợc tính toán bằng nhiều phƣơng pháp, nhiều nghiên

24

cứu khác nhau dẫn tới các sai lệch khi đối chiếu các kết quả. Để có thể lƣờng hết

đƣợc các trƣờng hợp có thể ảnh hƣởng tới kết quả tính toán, kỹ thuật cây logic sẽ

đƣợc áp dụng nhằm đƣa vào tính toán tất cả các khả năng có thể xảy ra của các yếu

tố đầu vào.

Đối với quy trình đánh giá nguy hiểm địa chấn, điển hình cho việc áp dụng kỹ

thuật cây logic là việc đƣa vào các quy luật tắt dần chấn động khác nhau. Trên thế

giới có rất nhiều các nhà khoa học, nhóm nghiên cứu đã thu thập số liệu, xây dựng

nên các phƣơng trình tắt dần chấn động cho các khu vực cụ thể. Nếu xét chung trên

thế giới, có 2 nhóm khu vực có hoạt động địa chấn khác nhau. Vùng thứ nhất là các

khu vực có hoạt động địa chấn mạnh, động đất xảy ra thƣờng xuyên và độ lớn động

đất lớn. Vùng thứ hai bao gồm các khu vực còn lại, tính địa chấn không mạnh do

động đất không xảy ra thƣờng xuyên và độ lớn động đất không đáng kể và ít gây

ảnh hƣởng tới đời sống của con ngƣời. Mỗi vùng địa chấn sẽ đƣợc các nhà khoa học

quan tâm và xây dựng các phƣơng trình tắt dần chấn động riêng, đặc trƣng cho các

khu vực đó. Một điều đáng nói nữa là không phải tất cả các nơi trên thế giới đều

đƣợc xây dựng các phƣơng trình riêng, cũng đƣợc xác định rõ ràng nơi đó thuộc về

khu có hoạt động địa chấn mạnh hay yếu. Đây là lúc kỹ thuật cây logic thể hiện

đƣợc tầm quan trọng và khả năng mạnh mẽ của mình trong việc trung hòa các ý

kiến trái chiều, đƣa vào hầu hết các trƣờng hợp có thể xảy ra.

25

Hình 2.8: Áp dụng kỹ thuật cây logic trong đánh giá nguy hiểm động đất.

Ví dụ trong hình 2.1, kỹ thuật cây logic đƣợc áp dụng để đƣa vào tính toán các

thông số động đất khác nhau nhƣ góc cắm, Mmax có thể phát sinh trên đứt gãy, chế

độ kiến tạo khu vực nghiên cứu và lựa chọn mô hình tắt dần chấn động.

Không chỉ áp dụng đƣợc đối với các phƣơng trình tắt dần chấn động, cây logic

còn đƣợc sử dụng cho nguồn địa chấn: số lƣợng, vị trí nguồn, các thông số liên

quan tới hoạt động địa chấn nhƣ tần suất lặp lại động đất thông qua giá trị a,b của

biểu thức Gutenberg – Richter.

Chương trình OpenQuake[13]

Openquake là chƣơng trình mã nguồn mở đƣợc thiết kế để tính toán nguy

hiểm, rủi ro động đất cho một khu vực. Chúng đƣợc phát triển bởi GEM (Global

Earthquake Model) và đƣợc chia sẻ rộng rãi dƣới dạng mã nguồn mở. Ngƣời dùng

có thể mở rộng, phát triển hoặc tùy chỉnh để phù hợp hơn với mục đích sử dụng.

Điều khác biệt của Openquake so với các chƣơng trình tính độ nguy hiểm

động đất khác là việc đƣa vào áp dụng dễ dàng kỹ thuật cây logic, tối ƣu hóa việc

tính toán nhằm đƣa ra kết quả nhanh và chính xác.

26

Hình 2.9: Mô hình hoạt động của chương trình Openquake.

b. Phương pháp tất định.

Cơ sở lý luận.

Phƣơng pháp tất định đánh giá độ nguy hiểm động đất đƣợc gọi để phân biệt

với cách tiếp cận xác suất của cùng một phƣơng pháp luận. Phƣơng pháp tất định

đặc trƣng bởi việc tính toán và thành lập các bản đồ rung động nền sử dụng các

tham số của một trận động đất cụ thể đã xảy ra trong quá khứ. Một trong những ứng

dụng quan trọng của phƣơng pháp tất định là việc xây dựng các mô hình tính toán

theo các động đất kịch bản, tức là những trận động đất có các tham số nguồn cho

trƣớc, đƣợc xác định dựa trên số liệu động đất đã quan sát đƣợc và theo các tiêu

chuẩn địa chấn kiến tạo và địa động lực của khu vực nghiên cứu.

Ví dụ điển hình ở Việt nam, do phần lớn các trận động đất ghi nhận đƣợc đều

là những động đất có nguồn gốc kiến tạo, các kịch bản động đất đƣợc xây dựng trên

cơ sở mô hình nguồn tuyến, với giả thiết là nguồn phát sinh động đất (chấn tiêu) là

một đoạn đứt gẫy hoạt động. Mô hình nguồn tuyến cho Việt nam đƣợc xây dựng

27

trên cơ sở số liệu về các hệ thống đứt gẫy sinh chấn đã đƣợc xác định trên lãnh thổ

và vùng thềm lục địa Việt nam và đã đƣợc công bố rộng rãi trong nhiều công trình

nghiên cứu từ trƣớc đến nay. Việc xác định các đứt gẫy sinh chấn chủ yếu dựa trên

cơ sở quy luật về tính địa đới của các chấn tâm động đất, tức là sự phân bố của các

chấn tâm động đất dọc theo các đới đứt gẫy phá huỷ. Ngoài ra, các yếu tố địa chất,

địa vật lý và viễn thám khác cũng đƣợc tham khảo nhƣ các tiêu chuẩn bổ trợ cho

việc lựa chọn các đứt gẫy có khả năng sinh chấn.

Quy trình chung của phương pháp tất định.

Quy trình đánh giá tất định độ nguy hiểm động đất cho mỗi kịch bản đƣợc

thực hiện bao gồm bốn bƣớc :

Xác định khu vực nghiên cứu

Lựa chọn đứt gãy sinh chấn

Lựa chọn phƣơng trình tắt dần chấn động

Tính bản đồ rung động nền (PGA, I)

Hình 2.10: Các bước đánh giá nguy hiểm địa chấn bằng phương pháp tất

định.

1) Xác định khu vực nghiên cứu :

Việc xác định khu vực nghiên cứu chính là xác định vị trí địa lý của địa điểm,

khoanh vùng các nguồn địa chấn có khả năng phát sinh động đất ảnh hƣởng tới địa

điểm cần đánh giá. Tùy vào quy mô nghiên cứu, đối tƣợng nghiên cứu và đặc điểm

địa chấn kiến tạo, nhà khoa học có thể khoanh vùng khu vực nghiên cứu theo các

bán kính khác nhau tính từ địa điểm chính cần đánh giá nguy hiểm địa chấn. Đối

với các khu vực nghiên cứu gần biên giới, lãnh thổ các quốc gia, việc mở rộng

28

phạm vi nghiên cứu ra ngoài lãnh thổ là cần thiết, nhằm có đƣợc kết quả khách quan

và trung thực nhất.

2) Lựa chọn đứt gãy sinh chấn

Theo cơ sở lý thuyết của phƣơng pháp tất định, các trận động đất xảy ra đều

trên các đứt gãy hoạt động. Chấn tâm trận động đất trên thực tế không chỉ là một

điểm, nó là một đới phá hủy chạy dài theo các đứt gãy. Đã có các công trình nghiên

cứu chỉ ra mối quan hệ giữa độ lớn động đất và các thông số của đới phá hủy do

trận động đất đó. Một trong số đó là mối quan hệ đƣợc đƣa ra bởi Wells-

Coppersmith năm 1994. Theo nhƣ kết quả đƣợc công bố bởi 2 tác giả trên, mối

quan hệ giữa độ lớn động đất và thông số các đới đứt gãy có thể đƣợc xác định theo

công thức sau :

Trong đó : L là chiều dài đới phá hủy

A là diện tích bề mặt của đới phá hủy

Ngoài thông tin về chiều dài và diện tích đới phá hủy, các thông số khác của

đứt gãy nhƣ độ sâu tới bề mặt, góc cắm, kiểu dịch trƣợt đều đã đƣợc xác định trƣớc

đó thông qua các nghiên cứu chuyên sâu về từng đứt gãy.

3) Lựa chọn phương trình tắt dần chấn động

Tƣơng tự phƣơng pháp xác suất, phƣơng pháp tất định sử dụng các phƣơng

trình tắt dần chấn động nhằm mô tả lại mối quan hệ giữa động đất, đặc điểm kiến

tạo, đặc điểm nền đất địa phƣơng và giá trị rung động nền gây ra bởi trận động đất

đó. Từ vị trí chấn tâm của động đất kịch bản, kết hợp các bản đồ nền đất địa

phƣơng, chúng ta có thể tính ra bản đồ rung động nền gây ra bởi động đất kịch bản

đó.

4) Tính toán bản đồ nguy hiểm động đất

Dựa vào các thông số đã nêu, bƣớc cuối cùng của quy trình đánh giá độ nguy

hiểm động đất bằng phƣơng pháp tất định là tính ra bản đồ rung động nền, có thể

biểu thị bởi giá trị rung động nền cực đại (PGA) hoặc cƣờng độ rung động nền (I).

29

Có nhiều chƣơng trình đƣợc thiết kế sẵn để tính độ nguy hiểm địa chấn theo phƣơng

pháp tất định, tuy nhiên phƣơng pháp và quy trình chung đều đƣợc thể hiện nhƣ

trên.

Lựa chọn các kịch bản để đánh giá bằng phương pháp tất định.

Động đất kịch bản là động đất đƣợc dự báo sẽ xảy ra tại khu vực nghiên cứu,

với các thông số ban đầu đƣợc xác định trƣớc. Nói cách khác, động đất kịch bản là

sự mô phỏng những trận động đất khá gần với hiện thực. Các động đất kịch bản

đƣợc xây dựng với hai mục đích chính là: 1) mô phỏng các động đất đã xảy ra trong

quá khứ để kiểm nghiệm mô hình đánh giá tác động của động đất, và 2) dự báo ảnh

hƣởng của những trận động đất sẽ xảy ra trong tƣơng lai tại khu vực nghiên cứu.

Để đánh giá rung động nền cực đại tại lân cận địa điểm công trình thủy điện

Sông Lô 6 bằng phƣơng pháp tất định, các kịch bản động đất cực đoan đƣợc xây

dựng cho từng đới đứt gẫy hoạt động trong khu vực nghiên cứu dựa trên các điều

kiện ban đầu sau:

1) Động đất đƣợc phát sinh trên đứt gẫy nguồn cho trƣớc chạy qua vị trí gần

địa điểm xây dựng nhà máy thủy điện nhất. Chấn tiêu của động đất kịch

bản đƣợc lấy tại một điểm nằm trên đứt gẫy này và có khoảng cách gần

nhất tới địa điểm;

2) Động đất kịch bản có độ lớn cực đại dự báo cho nguồn gây động đất đã

cho;

3) Ngoài tọa độ chấn tâm, các tham số khác của động đất kịch bản đƣợc xác

định theo các tham số hình học và địa động lực của chấn đoạn đứt gẫy phá

huỷ phát sinh ra nó (chấn tiêu động đất kịch bản) theo các nguyên tắc của

mô hình nguồn tuyến đƣợc xây dựng trong khuôn khổ của đề tài.

Ngoài các tiêu chí nêu trên, việc lựa chọn các động đất kịch bản cho địa điểm

công trình thủy điện Sông Lô 6 có tham khảo thêm một số định nghĩa của Ủy ban

quốc tế về đập lớn về các động đất kịch bản đƣợc sử dụng trong đánh giá nguy hiểm

địa chấn cho các đập lớn. Các động đất kịch bản này bao gồm:

30

1) Động đất có độ tin cậy lớn nhất (Maximum Credible Earthquake), dƣới đây

gọi tắt là động đất MCE, còn đƣợc gọi là các động đất đặc trƣng

(characteristic earthquake) hoặc các động đất nổi trội (dominant

earthquake), là động đất hiện thực nhất có khả năng phát sinh trên một đứt

gẫy hoạt động hoặc trong phạm vi một vùng nguồn chấn động đƣợc xác

định trên khu vực nghiên cứu có chế độ hoạt động kiến tạo đã biết. Rung

động nền do động đất kịch bản này gây ra tại địa điểm xây dựng đập đƣợc

gọi là rung động nền MCE;

2) Động đất đánh giá an toàn (Safety Evaluation Earthquake), dƣới đây gọi tắt

là động đất SEE, là động đất gây ra rung động nền cực đại tại chân công

trình, và công trình phải đƣợc thiết kế để có thể chống chịu đƣợc rung

động nền do động đất này gây ra. Từ sau năm 2010 khái niệm SEE đƣợc sử

dụng để thay thế các khái niệm về động đất cực đại thiết kế (Maximum

Design Earthquake, hay MDE) và động đất cơ sở thiết kế (Design Basis

Earthquake, hay DBE) đƣợc sử dụng trƣớc đó;

Động đất cơ sở vận hành (Operating Basis Earthquake, hay OBE) là động đất

gây ra rung động nền tại chân đập và có khả năng gây ra thiệt hại nhỏ cho công

trình ở mức độ chấp nhận đƣợc. Trong nhiều trƣờng hợp, OBE đƣợc chọn với chu

kỳ lặp lại bằng 145 năm, (tƣơng đƣơng với xác suất 50% là giá trị rung động nền do

động đất này gây ra không bị vƣợt quá trong vòng 100 năm)

2.3.2 Phương pháp đánh giá rủi ro môi trường gây ra do địa chấn tại công trình

thủy điện

Cơ sở lý luận.

Rủi ro môi trƣờng gây ra do địa chấn tới công trình thủy điện thƣờng là những

hậu quả gây ra bởi vỡ đập do động đất. Khi đó một lƣợng nƣớc lớn trong hồ chứa sẽ

đƣợc giải phóng, gây hậu quả nghiêm trọng tới vùng hạ lƣu. Hiện tƣợng đầu tiên đó

là gây ngập lụt tại các khu vực quanh nhà máy thủy điện. Bên cạnh đó còn có các

ảnh hƣởng rất tiêu cực tới môi trƣờng nhƣ phá vỡ hệ sinh thái ban đầu ở khu vực hạ

lƣu, giải phóng bùn lầy lƣu trữ tại hồ chứa, vv. Có một số chƣơng trình đã đƣợc xây

31

dựng để đánh giá mức độ ảnh hƣởng của việc vỡ đập thủy điện tới khu vực xung

quanh, hầu hết các chƣơng trình trên đều dừng lại ở việc tính toán ra các bản đồ

ngập lụt theo thời gian, theo khu vực bị ảnh hƣởng. Để đánh giá rủi ro do vỡ đập

thủy điện, luận văn áp dụng công nghệ GIS nhằm chồng ghép các bản đồ ngập lụt,

bản đồ nhà cửa, giao thông, công trình công cộng xung quanh khu vực nghiên cứu

nhằm đƣa ra mức độ ảnh hƣởng của việc vỡ đập thủy điện tới khu vực xung quanh.

Kỹ thuật chồng ghép bản đồ là một trong những kỹ thuật chính có thể thực

hiện bởi hầu hết các chƣơng trình GIS nhƣ ArcGIS, QGIS, Mapinfo. Với khả năng

của các chƣơng trình trên, dữ liệu không gian của các lớp thông tin sẽ đƣợc phân

tích. Dựa vào các dữ liệu thuộc tính của các lớp thông tin đã có, chƣơng trình GIS

sẽ quy chiếu với dữ liệu không gian để đƣa ra các lớp thông tin mới dựa trên các

phƣơng pháp toán học khác nhau.

Hình 2.11: Kỹ thuật chồng ghép bản đồ (nguồn:cnx.org)

Các bước thực hiện.

1) Tính toán bản đồ ngập lụt gây ra bởi vỡ đập thủy điện do động đất.

Có nhiều chƣơng trình tính toán bản đồ ngập lụt gây ra do động đất, tuy nhiên

với quy mô luận văn, một phƣơng pháp đơn giản hơn, chỉ dựa trên bản đồ mô hình

32

số độ cao (Digital Elevation Map – DEM) sẽ đƣợc sử dụng. Phƣơng pháp trên tính

toán bản đồ ngập lụt dựa vào số liệu DEM đƣợc cung cấp rộng rãi trên mạng

internet. Đây là nguồn tài liệu chất lƣợng cao với độ phân giải 30m x30m đƣợc

cung cấp bởi NASA (dữ liệu SRTM, ASTER) hoặc Cơ quan thăm dò vũ trụ Nhật

Bản (dữ liệu JAXA). Ngoài ra cũng có các tổ chức khác cũng cung cấp bản đồ

DEM ở nhiều mức độ chi tiết khác nhau, có thể trả phí hoặc miễn phí.

Từ bản đồ DEM, kỹ thuật GIS đƣợc áp dụng để tìm ra các khu vực ở độ cao

thấp trong khu vực nghiên cứu, cho rằng đó là các khu vực sẽ dễ bị ngập lụt nếu có

hiện tƣợng vỡ đập thủy điện xảy ra.

2) Thu thập, tạo các bản đồ của yếu tố dễ bị ảnh hưởng.

Việc thực hiện điều tra, khảo sát tại khu vực nghiên cứu để đánh giá rủi ro môi

trƣờng là hết sức cần thiết, tuy nhiên công việc trên yêu cầu rất nhiều thời gian để

hoàn thiện. Với quy mô luận văn, các bản đồ thông tin của các yếu tố dễ bị ảnh

hƣởng nhƣ dân số, nhà cửa, giao thông sẽ đƣợc xây dựng dựa trên bản đồ vệ tinh và

bản đồ vệ tinh 3D của Google. Đối với mỗi yếu tố dễ bị tác động sẽ có các thông tin

khác nhau cần đƣợc làm rõ.

Ví dụ đối với nhà cửa, các thông tin đƣợc yêu cầu nhƣ sau:

Thông tin Dạng dữ liệu

STT 1 Loại nhà Dạng chữ

Dạng chữ 2

Mục đích sử dụng Chiều cao Dạng số 3

4 Vị trí

Dữ liệu không gian dạng điểm Định nghĩa Cấu trúc nhà: nhà gỗ, nhà sàn, nhà xây kiên cố, vv Mục đích: nhà ở, trƣờng học, bệnh viện, vv Chiều cao nhà tính từ mặt đất, dùng để đánh giá khi có ngập lụt Vị trí địa lý của nhà trên bản đồ

Đối với thông tin về tuyến đƣờng giao thông, các thông tin cần có nhƣ sau:

Dạng dữ liệu

STT 1 Dạng chữ

Thông tin Loại đƣờng giao thông

Định nghĩa Đƣờng liên huyện, liên tỉnh, liên xã, đƣờng trong khu dân cƣ

33

2 Vị trí

Dữ liệu không gian dạng đƣờng Vị trí của đƣờng giao thông trên bản đồ

3) Chồng ghép bản đồ, tạo ra bản đồ rủi ro môi trường

Sau khi đã có đƣợc bản đồ ngập lụt và bản đồ các yếu tố nhạy cảm, luận văn

sử dụng phƣơng pháp chồng ghép bản đồ trong phầm mềm Q-GIS để tạo ra các bản

đồ rủi ro môi trƣờng tại khu vực nghiên cứu.

Nhƣ vậy, trong nội dung Chƣơng 2 đã trình bày các phƣơng pháp nghiên cứu

sẽ đƣợc áp dụng để thu thập số liệu, xử lý số liệu, xây dựng kịch bản và tính toán độ

nguy hiểm địa chấn tại khu vực nghiên cứu và đánh giá rủi ro môi trƣờng do địa

chấn.

34

CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1 Đánh giá độ nguy hiểm động đất tại thủy điện Sông Lô 6

3.1.1 Đánh giá bằng phương pháp xác suất

Các bƣớc đánh giá độ nguy hiểm địa chấn tại thủy điện sông Lô 6 tuân thủ

chặt chẽ quy trình đã đƣợc trình bày trong chƣơng 2, bao gồm:

 Xác định các vùng nguồn nằm trong bán kính đƣợc xác định là có thể gây

ảnh hƣởng tới đập thủy điện.

 Ƣớc lƣợng các tham số xác định đặc trƣng động đất tại khu vực nghiên cứu,

dựa trên số liệu động đất lịch sử và động đất quan trắc đƣợc bằng máy.

 Lựa chọn các phƣơng trình tắt dần chấn động phù hợp với khu vực nghiên

cứu

 Tính toán độ nguy hiểm động đất tại vị trí đập thủy điện trong nhiều chu kỳ

thời gian khác nhau, ngoài ra xây dựng các bản đồ nguy hiểm động đất cho

khu vực.

a. Xác định các vùng nguồn gây động đất.

Phía bắc Việt Nam đƣợc coi là vùng có hoạt động động đất mạnh, thƣờng xảy

ra các trận động đất lớn và thƣờng xuyên. Chính vì vậy khoảng cách 200km từ đập

thủy điện xác định để lựa chọn các đứt gãy có thể gây động đất ảnh hƣởng tới công

trình. Dựa vào các nghiên cứu đã có trƣớc đó về các vùng nguồn địa chấn khu vực

nghiên cứu, các nhà khoa học đã xác định đƣợc hệ thống đứt gãy một cách chính

xác, chi tiết, thể hiện rõ trên bản đồ hình 3.1.

35

Nguồn: Nguyễn Hồng Phương 2004.

Hình 3.1: Hệ thống đứt gãy trong vòng bán kính 200km từ đập thủy điện Sông Lô 6

Danh mục các đới đứt gãy đƣợc xác định trong vùng ảnh hƣởng tới đập thủy

điện đƣợc xác định trên hình 2.1 và thống kê dƣới bảng 2.1.

Bảng 3.1: Các đứt gãy có ảnh hưởng tới thủy điện Sông Lô 6 (Nguyễn Hồng Phương, 2004)

Tên đứt gãy Cấp Loại Hƣớng ST T Góc cắm

1 Sơn La 1 Thuận - 80 Độ lớn động đất cực đại 7.2

- 70 7.3 2 Sông Mã 1 Nghịch

3 Sông Hồng 1 Thuận - 70 6.3

4 Sông Chảy 1 Thuận - 70 6.3

5 Sông Lô 1 - 50 5.3

TB ĐN TB ĐN TB ĐN TB ĐN Trƣợt bằng TB ĐN ĐB - 70 5.5 6 Sông Thƣơng 1 Nghịch

36

7 Vĩnh Ninh 1 Thuận - 70 6.3

8 Đông Triều - Uông Bí 1 Nghịch - 80 6.1

9 Sông Đà 2 - 80 5.3

10 Mƣờng La - Bắc Yên 2 - 70 5.4

11 Văn Sơn - Hà Giang 2 - 80 5.1

2 Nghịch - 90 5.7

12 Thái Nguyên - Bắc Cạn - Yên Minh 13 Cao Bằng - Tiên Yên 2 - 85 5.5

14 Phong Thổ 2 - 80 5.6

15 Nghĩa Lộ - Thanh Sơn 2 Thuận - 90 5.6

TN TB ĐN TB ĐN Trƣợt bằng TB ĐN Trƣợt bằng TB ĐN Trƣợt bằng TB ĐN TB ĐN Trƣợt bằng TB ĐN Trƣợt bằng TB ĐN TB ĐN

Ghi chú: TB: Tây Bắc; ĐN: Đông Nam; ĐB: Đông Bắc; TN: Tây Nam

b. Ước lượng các tham số xác định đặc trưng động đất tại khu vực nghiên cứu.

Loại bỏ tiền chấn, dư chấn khỏi danh mục động đất

Phƣơng pháp Cửa sổ loại bỏ tiền chấn, dƣ chấn đƣợc áp dụng nhằm loại bỏ

tiền, dƣ chấn đối với danh mục động đất khu vực sông Lô 6. Để thực hiện luận văn,

học viên sử dụng chƣơng trình Microsoft Excel để tạo bảng tính tự động để xác

định danh mục động đất có trận nào đƣợc coi là tiền, dƣ chấn hay không và loại bỏ

chúng. Đối với mỗi trận động đất trong danh mục động đất, cửa sổ không gian và

cửa sổ thời gian đƣợc xác định dựa vào công thức của Gardner và Knopoff (1974):

{

37

Hình 3.2: Loại bỏ tiền, dư chấn khỏi danh mục động đất

Nếu trận động đất trong danh mục nằm trong phạm vi cửa số không gian, thời

gian của trận động đất khác, nó sẽ có mối quan hệ tiền, dƣ chấn hoặc là trận động

đất chính sẽ xảy ra. Khi đó, trận động đất có độ lớn lớn hơn sẽ đƣợc giữ lại, trận

động đất có độ lớn nhỏ hơn sẽ đƣợc coi là tiền, dƣ chấn.

Để đánh giá độ nguy hiểm địa chấn cho khu vực Sông Lô 6, trong luận văn sử

dụng danh mục động đất đƣợc Viện Vật lý Địa cầu ghi nhận tại khu vực địa chấn

kiến tạo vùng nền Hoa Nam hay nền Việt Trung và vùng Miền uốn nếp Tây Việt

Nam. Đây là hai vùng địa chấn kiến tạo có các đặc trƣng về kiến tạo khác nhau nên

đƣợc chia thành 2 vùng để tính tần suất lặp lại động đất.

38

Hình 3.3: Chấn tâm động đất khu vực nghiên cứu

Dựa trên các số liệu ghi đƣợc bằng máy và các số liệu động đất lịch sử, danh

mục động đất của các phân vùng địa chấn đƣợc xác định nhƣ bảng 3.2 dƣới đây:

Bảng 3.2: Danh mục động đất của các phân vùng kiến tạo khu vực nghiên cứu

Số trận động đất sau Độ lớn Độ lớn Phân vùng kiến tạo khi loại bỏ tiền, dƣ chấn lớn nhất nhỏ nhất

Vùng Hoa Nam 99 2.3 5.8

Miền uốn nếp Tây Việt Nam 224 2.1 6.8

Xác định tần suất lặp lại động đất

Luận văn sử dụng phƣơng pháp bình phƣơng tối thiểu để xác định giá trị a,b

cho biểu thức Gutenberg-Richter. Gói GRTO của tác giả Daniel Amorese (đại học

Caen-Normandy – Pháp) trong chƣơng trình thống kê R đƣợc sử dụng để tính toán

ra các giá trị trong công thức trên, đƣợc áp dụng cho cả 2 phân vùng kiến tạo vùng

39

nền Hoa Nam và Miền uốn nếp Tây Việt Nam. Với mục đích sử dụng kết quả tần

suất lặp lại động đất để đánh giá độ nguy hiểm địa chấn, các trận động đất phải có

độ lớn từ 3.5 trở nên mới có thể gây ra thiệt hại về ngƣời và công trình. Chính vì

vậy luận văn áp dụng tính toán cho các danh mục động đất đã loại bỏ các trận động

đất lần lƣợt nhỏ hơn 3.5; 4; 4.5 để xác định giá trị a, b có độ chính xác cao hơn.

Kết quả áp dụng tính toán tần suất lặp lại động đất nhƣ sau:

40

Đối với vùng nền Hoa Nam: Tổng số trận động đất trong vùng: 99, độ lớn

động đất quan trắc từ 2.3 – 5.8:

Hình 3.4: Tính toán tần suất lặp lại động đất cho vùng kiến tạo Hoa Nam.

Đối với Miền uốn nếp Tây Việt Nam: Tổng số trận động đất trong vùng: 224,

độ lớn động đất quan trắc từ 2.1 – 6.8:

41

Hình 3.5: Tính toán tần suất lặp lại động đất cho Miền uốn nếp Tây Việt Nam

Theo trực quan, nhìn vào kết quả tính tần suất lặp lại động đất cho 2 phân

vùng kiến tạo khu vực nghiên cứu, mối quan hệ Gutenberg-Richter phù hợp nhất

đối với trƣờng hợp danh mục động đất với các trận có độ lớn lớn hơn hoặc bằng 4

cho cả 2 phân vùng. Khi đó đƣờng biểu diễn mối quan hệ sẽ có khít nhất với số liệu

thực tế thu thập đƣợc. Chính vì vậy, giá trị a,b tính đƣợc theo trƣờng hợp này sẽ

đƣợc sử dụng để đƣa vào đánh giá độ nguy hiểm động đất. Nhƣ vậy, đối với khu

vực nhà máy thủy điện Sông Lô 6, ta có mối quan hệ về tần suất lặp lại động đất

nhƣ sau:

- Vùng Hoa Nam: a = 4.48; b = 0.75.

42

- Miền uốn nếp Tây Việt Nam: a = 5.14; b = 0.9.

c. Lựa chọn các phương trình tắt dần chấn động cho khu vực nghiên cứu.

Dựa theo đặc điểm phân vùng địa chất kiến tạo của khu vực nghiên cứu, các

phƣơng trình tắt dần chấn động đƣợc lựa chọn dựa vào các công bố đã có của các

chuyên gia nƣớc ngoài. Các phƣơng trình thƣờng đƣợc sử dụng dựa vào đặc điểm

hoạt động địa chấn của miền Bắc Việt Nam bao gồm:

 Campbell-Bozorgnia (2008)

 Bore-Atkinson (2008)

 Chiu-Young (2008)

 Toro (1997) [12]

Luận văn cũng sử dụng các phƣơng trình tắt dần chấn động trên để đánh giá

độ nguy hiểm động đất bằng phƣơng pháp xác suất. Kỹ thuật cây logic đƣợc áp

dụng để tính toán độ nguy hiểm địa chấn cho 2 trƣờng hợp:

- Khu vực nghiên cứu thuộc vùng địa chấn hoạt động mạnh, áp dụng 3 phƣơng

trình tắt dần chấn động của Campbell-Bozorgnia (2008)[2], Bore-Atkinson (2008)

[1], Chiu-Young (2008) [3]

- Khu vực nghiên cứu thuộc vùng địa chấn hoạt động yếu, áp dụng Toro

(1997).

Campbell-Bozorgnia (2008) 0.34

Active (0.5)

Bore-Atkinson (2008) 0.33

GMPE

Chiu-Young (2008) 0.33

Stable (0.5)

Toro 1997 (1.0)

Hình 3.6: Mô hình cây logic cho phương trình tắt dần chấn động.

43

d. Tính toán độ nguy hiểm động đất tại vị trí đập thủy điện.

Để tính toán ra các thông số rung động nền, luận văn sử dụng OpenQuake –

chƣơng trình mã nguồn mở đƣợc cung cấp bởi GEM (Global Earthquake Model

Foundation). Kết quả tính toán sau đó đƣợc xử lý trong môi trƣờng GIS để đƣa ra

bản đồ rung động nền ( PGA,I) cho khu vực nghiên cứu.

e. Kết quả áp dụng phương pháp xác suất.

Chƣơng trình OpenQuake của tổ chức Global Earthquake Model đƣợc áp dụng

để tính toán độ nguy hiểm động đất bằng phƣơng pháp xác suất cho khu vực nghiên

cứu. Gia tốc cực đại nền đƣợc tính tại mỗi điểm trên toàn vùng nghiên cứu với

khoảng cách giữa các điểm tính là 5km x 5km. Các bản đồ thể hiện phân bố không

gian của gia tốc nền cực đại, cƣờng độ rung động nền đƣợc thành lập cho các chu

kỳ 145 năm, 475 năm, 950 năm.

Đơn vị để tính toán, đánh giá rung động nền cực đại do động đất gây ra thƣờng

là gia tốc nền cực đại. Tuy nhiên chúng cũng có thể quy đổi sang cƣờng độ rung

động nền qua khung tham chiếu đã đƣợc xác định. Đơn vị của gia tốc nền cực đại là

% gal, trong khi của cƣờng độ rung động nền theo khung MSK-64 đƣợc chia làm

10 cấp độ, mỗi cấp độ tƣơng đƣơng 1 khoảng giá trị PGA khác nhau.

Kết quả sau tính toán qua các chu kỳ nhƣ sau:

a) Chu kỳ 145 năm:

44

Hình 3.7: Cường độ rung động nền khu vực nghiên cứu ứng với chu kỳ 145 năm

Đối với chu kỳ 145 năm, cƣờng độ chấn động tại khu vực thủy điện Sông Lô 6

là 0.053 gal, tƣơng ứng với cƣờng độ chấn động cấp VI.

b) Chu kỳ 475 năm:

Hình 3.8: Cường độ rung động nền khu vực nghiên cứu ứng với chu kỳ 475 năm

45

Chu kỳ 475 năm có thời gian lặp lại dài hơn so với 145 năm, chính vì vậy giá

trị gia tốc nền cực đại ứng với chu kỳ 475 năm cao hơn, đạt tới 0.102 gal, tƣơng

đƣơng rung động nền cấp VII.

3.1.2 Đánh giá bằng phương pháp tất định.

Các kịch bản động đất dƣới đây đã đƣợc lựa chọn để áp dụng phƣơng pháp tất

định đánh giá khả năng rung động nền cho địa điểm nhà máy thủy điện:

- Kịch bản (1): Động đất Lục Yên năm 1954 phát sinh trên đứt gãy sông

Chảy

- Kịch bản (2): Động đất Bắc Giang năm 1961 phát sinh trên đứt gãy sông

Chảy

- Kịch bản (3): Động đất cực đoan phát sinh trên đứt gãy Sông Lô

- Kịch bản (4): Động đất cực đoan phát sinh trên đứt gãy Văn Sơn – Hà

Giang

Kết quả áp dụng phương pháp tất định.

Nhằm áp dụng phƣơng pháp tất định cho việc đánh giá độ nguy hiểm địa chấn

tại khu vực, luận văn áp dụng bộ công cụ RARE [11] đƣợc xây dựng cho mục đích

trên.

Bảng 3.1 đã tổng hợp lại các kết quả tính bằng phƣơng pháp tất định theo các

kịch bản trên, theo đó kịch bản có khả năng gây ảnh hƣởng lớn nhất tới công trình

thủy điện là kịch bản (3): động đất cực đoan xảy ra trên đới đứt gãy sông Lô. Đây là

kịch bản có độ lớn động đất không phải cao nhất, tuy nhiên chấn tâm động đất lại

gần nhất so với đập thủy điện, đồng thời độ sâu động đất kịch bản không quá lớn,

dẫn tới cƣờng độ rung động nền gây ra do động đất là lớn nhất, đạt tới cấp VII theo

thang MSK-64. Các kịch bản động đất còn lại đều gây ảnh hƣởng nhất định với vị

trí công trình, tuy nhiên cƣờng độ chấn động do các kịch bản đó gây ra đều tƣơng

đối nhỏ, đạt cấp V và cấp VI.

Bảng 3.3: Tổng hợp kết quả tính bằng phương pháp tất định

Toạ độ chấn tâm Kịch bản Độ lớn Độ sâu chấn Khoảng cách gần Rung động nền Rung động

46

Vĩ độ tiêu, km nhất tới địa điểm, km cực đại, PGA (gal) (Ms) Kinh độ

nền cực đại, I (MSK- 64)

Kịch bản hiện thực trên đới đứt gẫy Sông Hồng – Sông Chảy (động đất MCE) 1 2 104,75 22,08 104,91 21,91 0,035 0,033 28,6 43,8 5,4 5,9 VI VI 16 28

Kịch bản cực đoan trên đới đứt gẫy Sông Lô (động đất SEE)

3 5,3 104,88 22,27 0,086 12 4

4 VII Kịch bản cực đoan trên đới đứt gẫy Văn Sơn – Hà Giang (động đất SEE) V 104,91 22,30 47,37 0,018 5,1 10

1) Động đất Lục Yên năm 1954 phát sinh trên đứt gẫy Sông Chảy;

Hình 3.9: Kết quả phương pháp tất định cho kịch bản (1)

2) Động đất Bắc Giang năm 1961 phát sinh trên đứt gẫy Sông Chảy;

47

Hình 3.10: Kết quả phương pháp tất định cho kịch bản (2)

3) Động đất cực đoan phát sinh trên đứt gẫy Sông Lô;

Hình 3.11: Kết quả phương pháp tất định cho kịch bản (3)

4) Động đất cực đoan phát sinh trên đứt gẫy Văn Sơn – Hà Giang;

48

Hình 3.12: Kết quả phương pháp tất định cho kịch bản (4)

Nhƣ vậy kết quả đánh giá độ nguy hiểm địa chấn cho nhà máy thủy điện song

Lô 6 bằng cả 2 phƣơng pháp tất định và xác suất đã xác định cƣờng độ chấn động

lớn nhất có thể xảy ra tại khu vực nhà máy thủy điện Sông Lô 6 là cấp VII. Với tuổi

thọ của mỗi công trình thủy điện là khoảng 200 năm, cƣờng độ chấn động xác định

đƣợc là cấp VI (tƣơng đƣơng với chu kỳ 145 năm) và cấp VII (chu kỳ 475 năm). Để

đánh giá nhiều hơn về rủi ro địa chấn có thể gây ra cho khu vực đập thủy điện,

cƣờng độ chấn động cấp VII sẽ đƣợc sử dụng, do đánh giá rủi ro là đánh giá cho

những trƣờng hợp cực đoan nhất có thể xảy ra.

3.2 Rủi ro môi trƣờng do địa chấn tại thủy điện sông lô 6

3.2.1 Xây dựng các bản đồ ngập lụt khu vực hạ lưu đập thủy điện.

Theo thiết kế xây dựng của công trình thủy điện Sông Lô 6, dung tích hồ chứa tổng của đập thủy điện sông Lô 6 là 30.72x106 m3 nƣớc. Đây đƣợc coi là lƣợng

nƣớc có khả năng gây thiệt hại cho khu vực xung quanh nếu hiện tƣợng vỡ đập xảy

ra. Bản đồ mô hình số độ cao của khu vực đƣợc áp dụng để tính toán với các thông

số mực nƣớc dâng cho cả khu vực, qua đó tính đƣợc tổng lƣợng nƣớc phát tán ra

49

ngoài môi trƣờng, xác định đƣợc mực nƣớc dâng chính xác hơn cho kịch bản vỡ

đập.

Hình 3.13: Bản đồ mô hình số độ cao (DEM) cho khu vực Sông Lô (mét)

Dựa vào giá trị địa hình thấp nhất tại khu vực đƣợc chọn, luận văn lần lƣợt

tính các kịch bản mực nƣớc dâng lên theo độ cao tăng dần, xác định tổng lƣợng

nƣớc đã xả xuống lƣu vực do sự cố đập thủy điện. Kịch bản ngập lụt đƣợc lựa chọn

để đánh giá rủi ro môi trƣờng là kịch bản có lƣợng nƣớc đã xả xuống hạ lƣu phù

hợp nhất với lƣợng nƣớc đƣợc tính toán trong quá trình thiết kế xây dựng công trình

thủy điện. Một số kịch bản mực nƣớc dâng đƣợc thể hiện trong hình 4.2.

50

Dung tích nƣớc dƣới hạ lƣu:7.9x106 m3 Dung tích nƣớc dƣới hạ lƣu: 25.8 x106

m3

Dung tích nƣớc dƣới hạ lƣu:30.8x106 m3 Dung tích nƣớc dƣới hạ lƣu: 58.3x106 m3

Hình 3.14: Một số kịch bản nước dâng do vỡ đập thủy điện

Dựa vào dung tích hồ chứa tối đa của đập thủy điện, bản đồ mực nƣớc dâng

cho khu vực đƣợc xác định nhƣ hình 4.3. Theo nhƣ bản đồ hình 4.3, khu vực chịu

tác động lớn do ngập lụt gây ra tập trung quanh lƣu vực Sông Lô và các nhánh sông

phụ. Các khu vực trên đƣợc đặc trƣng trên bản đồ DEM ở hình 4.1 bởi địa hình thấp

hơn so với các khu vực khác.

51

Hình 3.15: Bản đồ ngập lụt nếu xảy ra sự cố đập thủy điện Sông Lô 6

Theo nhƣ bản đồ hình 4.2, các địa điểm ngập lụt tập trung quanh lƣu vực Sông

Lô và các nhánh sông. Các khu vực trên đƣợc đặc trƣng trên bản đồ DEM bởi địa

hình thấp hơn so với các khu vực khác.

3.2.2 Xây dựng bản đồ các yếu tố chịu rủi ro.

Yếu tố dễ bị tác động bởi hậu quả do ngập lụt gây ra đƣợc đánh giá trong luận

văn bao gồm nhà cửa và đƣờng giao thông. Đây là các yếu tố có vị trí cố định,

không có khả năng di dời khi có sự cố xảy ra.

a. Bản đồ nhà cửa.

Bản đồ nhà cửa đƣợc xây dựng trên nền tảng GIS thông qua chƣơng trình

QGIS 2.18 và các Plugin hỗ trợ. Vị trí địa lý của chúng đƣợc hiển thị trên bản đồ

ảnh vệ tinh của Google tích hợp ngay trong phần mềm QGIS. Từ đây thông tin về

nhà cửa đƣợc số hóa và bổ sung thêm các thông tin về chiều cao nhà, kết cấu nhà,

mục đích sử dụng. Dữ liệu không gian nhà cửa có thể đƣợc biểu thị dƣới dạng điểm

hoặc polygon. Trong khi dữ liệu điểm chỉ thể hiện đƣợc 1 vị trí duy nhất của nhà

52

cửa trên bản đồ thì dữ liệu dạng polygon sẽ thể hiện đƣợc cả hình chiếu của nhà cửa

trên mặt đất, bao gồm cả bề rộng và bề ngang. Tuy nhiên với mục đích xác định ảnh

hƣởng của ngập lụt tới nhà cửa, dữ liệu dạng điểm đã chứa đủ thông tin để có thể

đánh giá. Bản đồ nhà cửa xung quanh khu vực nghiên cứu đã đƣợc tác giả luận văn

số hóa nhƣ trong hình 4.4.

Dữ liệu quan trọng nhất về nhà cửa sẽ đƣợc sử dụng trong luận văn bao gồm

vị trí địa lý và chiều cao căn nhà. Vị trí địa lý của nhà cửa sẽ đƣợc sử dụng kết hợp

với bản đồ ngập lụt tạo thành bản đồ các căn nhà sẽ bị ảnh hƣởng. Mức độ ảnh

hƣởng đƣợc quyết định dựa trên tỉ lệ về chiều cao của từng căn nhà bị ngập trong

nƣớc. Kết hợp bản đồ ngập lụt và chiều cao nhà sẽ có đƣợc các thông tin trên.

Bản đồ nhà của đƣợc thành lập với 1016 công trình nằm rải rác quanh khu vực

nghiên cứu về phía hạ lƣu của đập thủy điện. Các công trình xây dựng tập trung

nhiều cạnh các trục đƣờng giao thông chính.

Hình 3.16: Dữ liệu nhà cửa đã được số hóa xung quanh khu vực nghiên cứu

53

b. Bản đồ đường giao thông.

Tƣơng tự với yếu tố nhà cửa, bản đồ đƣờng giao thông tại khu vực nghiên cứu

cũng đƣợc thành lập dựa trên việc số hóa bản đồ ảnh vệ tinh của Google. Ngoài việc

vị trí địa lý của các đƣờng giao thông đƣợc thể hiện thông qua các lớp bản đồ dạng

đƣờng, mỗi một tuyến đƣờng còn đƣợc phân chia dựa vào cấp bậc nhƣ đƣờng liên

huyện, đƣờng xã, đƣờng dân sinh. Bản đồ đƣờng giao thông đƣợc tác giả thành lập

dựa trên bản đồ Google map với 3 đoạn đƣờng liên huyện, 12 đoạn đƣờng liên xã

và 40 đoạn đƣờng dân sinh.

Hình 3.17: Dữ liệu về đường giao thông xung quanh khu vực nghiên cứu

3.2.3 Rủi ro môi trường do vỡ đập thủy điện.

Bản đồ ngập lụt và các bản đồ nhà cửa, giao thông đã đƣợc chuẩn bị để xác

định ảnh hƣởng của sự cố vỡ đập. Chƣơng trình QGIS tạo môi trƣờng cho ngƣời

dùng chồng ghép, phân tích số liệu trên các lớp bản đồ cả dạng raster và vector.

Đối với dữ liệu nhà cửa, thuộc tính không gian đƣợc thành lập dƣới dạng

điểm, vì vậy phƣơng pháp tách số liệu raster cho 1 lƣới điểm là vị trí nhà cửa sẽ

54

đƣợc thực hiện, qua đó biết đƣợc tại vị trí nhà đang xét, nƣớc do vỡ đập có làm

ngập nhà hay không và giá trị độ sâu mực nƣớc ngập nếu có. Kết hợp với độ cao

nhà đƣợc lƣu trữ trong dữ liệu thuộc tính, luận văn sẽ đƣa ra mức độ ảnh hƣởng do

ngập lụt tới từng địa điểm.

Hình 3.18: Bản đồ nhà cửa bị ảnh hưởng bởi ngập lụt

Xác định các công trình xây dựng thuộc trong vùng bị ảnh hƣởng bởi ngập lụt

là một phần trong đánh giá rủi ro do địa chấn xảy ra xung quanh đập thủy điện. Tuy

nhiên mức độ ảnh hƣởng của ngập lụt với các nhà có kết cấu, chiều cao khác nhau

sẽ khác nhau. Điều này ảnh hƣởng rất lớn nếu đánh giá rủi ro đƣợc áp dụng phục vụ

việc cứu hộ, cứu trợ. Chính vì thế chiều cao công trình đƣợc đƣa vào áp dụng. Mặc

dù công trình xây dựng nằm ở khu vực ngập nông hơn so với những khu khác

nhƣng lại cần đƣợc hỗ trợ, chịu rủi ro cao hơn do cấu trúc công trình không đảm

bảo, chiều cao thấp dẫn tới dễ bị ngập sâu trong nƣớc. Kết hợp độ sâu ngập lụt với

độ cao nhà đƣợc lƣu trữ trong dữ liệu thuộc tính, luận văn sẽ đƣa ra mức độ ảnh

55

hƣởng do ngập lụt tới từng địa điểm. Kết quả mức độ ảnh hƣởng do ngập lụt tới

từng công trình xây dựng đƣợc thể hiện ở hình 4.7.

Hình 3.19: Mức độ ngập lụt đối với nhà cửa

Đối với dữ liệu về đƣờng giao thông, bản đồ ngập lụt sẽ đƣợc chuyển từ dạng

raster sang vector để dễ dàng xử lý với số liệu dạng đƣờng của giao thông. Phƣơng

pháp chồng ghép bản đồ đƣợc áp dụng, xác định các đoạn đƣờng nằm trong khu

vực bị ngập lụt nhƣ trong hình 4.8. Phép đo chiều dài đoạn đƣờng bị ngập cũng

đƣợc tự động thực hiện trong môi trƣờng GIS, cung cấp số liệu chính xác nhằm tổ

chức công tác cứu hộ nếu ngập lụt làm chặn đƣờng đi.

Với kịch bản ngập lụt nhƣ trên, tổng số chiều dài đƣờng sẽ bị ảnh hƣởng đƣợc

thể hiện trong Bảng 4.1 .

Bảng 3.4: Chiều dài đường giao thông bị ảnh hưởng bởi ngập lut

Đƣờng liên huyện Đƣờng liên xã Đƣờng dân sinh

Chiều dài đoạn 4268 m 7890 m 3907 m bị ảnh hƣởng

56

Hình 3.20: Ảnh hưởng của ngập lụt tới đường giao thông.

Nhƣ vậy, bằng việc áp dụng mô hình ngập lụt đơn giản cùng công nghệ GIS

nhằm số hóa các bản đồ nhà cửa, đƣờng giao thông, luận văn đã bƣớc đầu đánh giá

rủi ro gây ra do sự cố đập thủy điện. Nhà cửa và đƣờng giao thông chỉ là 2 yếu tố cơ

bản để đánh giá rủi ro do vỡ đập thủy điện gây ra bởi địa chấn, có rất nhiều yếu tố

có thể bổ sung, đặc biệt là các yếu tố về môi trƣờng.

Thông qua việc đánh giá độ nguy hiểm địa chấn và xây dựng các bản đồ rủi

ro môi trƣờng, luận văn cho thấy tại khu vực thủy điện Sông Lô 6 có khả năng gây

ra nhiều rủi ro đối với các yếu tố nhạy cảm nhƣ nhà cửa, đƣờng giao thông. Để dự

báo và giảm nhẹ thiệt hại với tình huống có thể xảy ra, việc áp dụng, nghiên cứu các

công cụ mô hình hóa dự báo trƣớc đƣợc các khu vực ảnh hƣởng sẽ góp phần rất lớn

trong công tác phòng ngừa, ứng phó nếu sự cố xảy ra.

57

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

KẾT LUẬN

Luận văn đã áp dụng phƣơng pháp tất định và phƣơng pháp xác suất vào đánh

giá độ nguy hiểm địa chấn tại khu vực thủy điện Sông Lô 6. Kết quả đánh giá cho

thấy cƣờng độ rung động nền lớn nhất có thể xảy ra tại khu vực đập thủy điện sông

Lô 6 là cƣờng độ cấp VII theo thang đo MSK-64. Đây là cƣờng độ động đất có thể

gây hƣ hại nhà cửa và các công trình xây dựng. Đối với khu vực các đập thủy điện

còn nguy hiểm hơn nữa khi việc tích nƣớc tại hồ chứa đã tạo áp lực rất lớn cho công

trình, dƣới tác động cấp VII do động đất có thể gây ra.

Luận văn cũng đã đánh giá rủi ro do sự cố vỡ đập thủy điện gây ra đối với 2

yếu tố nhà cửa và giao thông. Mặc dù đây mới chỉ là bƣớc đầu tiên trong đánh giá

rủi ro môi trƣờng nhƣng cũng phần nào cho thấy đƣợc ảnh hƣởng to lớn của sự cố

vỡ đập do địa chấn gây ra đối với môi trƣờng xung quanh cũng nhƣ cuộc sống con

ngƣời. Công nghệ GIS cũng cho thấy đƣợc khả năng áp dụng cao trong việc xử lý

dữ liệu không gian và dữ liệu thuộc tính. Chúng có thể đƣợc sử dụng không chỉ cho

thành lập bản đồ mà còn có thể sử dụng trong công việc nghiên cứu, mô hình hóa,

vv.

KIẾN NGHỊ

Trong luận văn, đánh giá rủi ro vẫn dừng lại ở việc đặt tiền đề cho các nghiên

cứu sau này về quy trình đánh giá rủi ro môi trƣờng cho nhà máy thủy điện nói

riêng và cho tất cả các địa điểm đáng đƣợc lƣu tâm nói chung. Phƣơng pháp đánh

giá rủi ro bằng công nghệ GIS không chỉ có thể áp dụng cho nhà cửa, giao thông mà

còn có thể áp dụng cho rất nhiều các yếu tố khác, trong đó có yếu tố môi trƣờng. Số

liệu đƣợc sử dụng trong luận văn cũng đang dừng lại ở mức thử nghiệm, kiểm tra

khả năng hoạt động của phƣơng pháp đánh giá rủi ro. Để có đƣợc những nghiên cứu

sâu hơn, đảm bảo hơn về mặt thực tiễn cũng nhƣ mô hình, rất cần có những tìm hiểu

sâu về cả mô hình hóa thủy động lực học lẫn khảo sát thực địa để có đƣợc các dữ

liệu chính xác, sát thực tế hơn.

58

59

DANH MỤC BÀI BÁO

1. Nguyen Hong Phuong, Pham The Truyen, Nguyen Ta Nam (2016),

”Probabilistic seismic hazard assessment for the Tranh River hydropower

plant No2 site, Quang Nam province”, Vietnam Journal of Earth Sciences.

DOI: 10.15625/0866-7187/38/2/8601

2. Bui Thi Nhung, Nguyen Hong Phuong, Nguyen Ta Nam (2017). ”Assessment of

earthquake-induced ground liquefaction susceptibility for Hanoi city using

geological and geomorphologic characteristics”, Vietnam Journal of Earth

Sciences. DOI: 10.15625/0866-7187/39/2/9448

3. Bui Thi Nhung, Nguyen Hong Phuong, Pham The Truyen, Nguyen Ta Nam

(2017) “Assessment of earthquake-induced liquefaction hazard in urban

areas of Hanoi city using LPI method”. Vietnam Journal of Earth Sciences,

40(1), 78-96, DOI: 10.15625/0866-7187/40/1/10972.

4. Nguyen Hong Phuong, Nguyen Ta Nam, Pham The Truyen. “Development of a

Web-GIS based decision support system for earthquake warning services in

Vietnam”, Vietnam Journal of Earth Sciences, 40(3), 193-206, DOI:

10.15625/0866-7187/40/3/12638.

5. Phuong Hong Nguyen, Truyen The Pham, Nam Ta Nguyen. “Investigation of

long-term and short-term seismicity in Vietnam”, Journal of Seismology

(2019), DOI: 10.1007/s10950-019-09846-x.

60

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng việt

1. Nguyễn Đình Xuyên (chủ biên): 2004: Nghiên cứu dự báo động đất và dao

động nền lãnh thổ Việt Nam. Báo cáo tổng kết đề tài độc lập cấp nhà nước

(2000-2002). Hà Nội, (Lưu trữ tại Viện Vật lý Địa cầu). 115 trang

2. Nguyễn Đình Xuyên, 1989: Phân vùng động đất lãnh thổ Việt Nam. Tc. Các

Khoa học về Trái Đất, T.11, 3-4, 40-50.

3. Nguyễn Đình Xuyên và nnk, 1997: Tính động đất và độ nguy hiểm động đất

trên lãnh thổ Việt Nam. Thành tựu nghiên cứu vật lý địa cầu 1987-1997, 34-

91.

4. Nguyễn Hồng Phƣơng, Nguyễn Hồng Lân, Phạm Thanh Lƣơng (2002), “Áp

dụng các mô hình phân tích không gian để đánh giá độ nguy hiểm động đất.”,

Tạp chí Các khoa học trái đất, 20(1), 81-96, DOI:

https://doi.org/10.15625/0866-7187/24/1/11381.

5. Nguyễn Hồng Phƣơng. “Bản đồ độ nguy hiểm động đất Việt nam và Biển

Đông”. Tạp chí Các khoa học về Trái Đất, 26(2), 97-111, 2004.

6. Nguyễn Hồng Phƣơng, 1997: Đánh giá động đất cực đại cho các vùng nguồn

chấn động ở Việt Nam bằng tổ hợp các phƣơng pháp xác suất.. In trong: Các

công trình nghiên cứu địa chất và địa vật lý biển. Tập 3. H- Khoa học và Kỹ

thuật.

7. Nguyển Khắc Mão, I.A Rezanov, 1968: Sơ đổ phân vùng động đất miền Bắc

Việt Nam

Tiếng anh

8. Boore D.M. and Atkinson G.M., (2008), “Ground-Motion Prediction

Equations for the Average Horizontal Component of PGA, PGV, and 5%-

Damped PSA at Spectral Periods between 0.01 s and 10.0 s”, Earthquake

Spectra, 24(1), 1-341.

61

9. Bui Thi Nhung, Nguyen Hong Phuong, Nguyen Ta Nam (2017). ”Assessment

of earthquake-induced ground liquefaction susceptibility for Hanoi city using

geological and geomorphologic characteristics”, Vietnam Journal of Earth

Sciences. DOI: 10.15625/0866-7187/39/2/9448

10. Bui Thi Nhung, Nguyen Hong Phuong, Pham The Truyen, Nguyen Ta Nam

(2017) “Assessment of earthquake-induced liquefaction hazard in urban areas

of Hanoi city using LPI method”. Vietnam Journal of Earth Sciences, 40(1),

78-96, DOI: 10.15625/0866-7187/40/1/10972.

11. Campbell K.W. and Bozorgnia Y., (2008), “NGA Ground Motion Model for

the Geometric Mean Horizontal Component of PGA, PGV, PGD and 5%

Damped Linear Elastic Response Spectra for Periods Ranging from 0.01 to

10s”, Earthquake Spectra, 24(1), 1-341.

12. Chiou B.S.-J. and Youngs R.R., (2008), “An NGA Model for the Average

Horizontal Component of Peak Ground Motion and Response Spectra”,

Earthquake Spectra, 24(1), 1-341.

13. Cornell, C.A., (1968), “Engineering seismic risk analysis.” Bull. Seis. Soc.

Amer., 58(5), 1583-1606.

14. Gardner, J. K., and L. Knopoff (1974), Sequence of Earthquakes in

SouthernCalifornia, with Aftershocks Removed, Poissonian, Bulletin of the

Seismological Society of America, 64(15), 1363-1367. McGuire, R. K., 1976.

FORTRAN computer program for seismic risk ana-. lysis, U.S. Geol. Surv.

Open-File Rept. 76-67.

15. P. Palacios, I. Molina, M. Segovia, 2006. "The Gutenberg–Richter Law:

assumptions, limitations and interpretations", Statistics in Volcanology, H. M.

Mader, S. G. Coles, C. B. Connor, L. J. Connor

16. Nguyen Hong Phuong. Probabilistic Assessment of Earthquake Hazard in

Vietnam based on Seismotectonic Regionalization. TectoNo physics, Elsevier

Science Publisher, Amsterdam, 198, 1991.

62

17. Nguyen Hong Phuong, Pham The Truyen. Probabilistic seismic hazard maps

of Vietnam and the East Vietnam Sea. Journal of Marine Science and

Technology, DOI: 10.15625/1859-3097/15/1/6083

18. Nguyen Hong Phuong, Pham The Truyen, Nguyen Ta Nam (2016).

”Probabilistic seismic hazard assessment for the Tranh River hydropower plant

No2 site, Quang Nam province”, Vietnam Journal of Earth Sciences. DOI:

10.15625/0866-7187/38/2/8601.

19. Phuong Hong Nguyen, Truyen The Pham, Nam Ta Nguyen. “Investigation of

long-term and short-term seismicity in Vietnam”, Journal of Seismology, DOI:

10.1007/s10950-019-09846-x.

20. Nguyen Hong Phuong, Nguyen Ta Nam, Pham The Truyen (2018)

“Development of a Web-GIS based decision support system for earthquake

warning services in Vietnam”, Vietnam Journal of Earth Sciences, 40(3), 193-

206, DOI: 10.15625/0866-7187/40/3/12638.

21. Pham Van Thuc and Kijko, A., 1985. Estimation of maximum magnitude and

seismic hazard in Southeast Asia and Vietnam. Acta Geophys. Pol.,

XXX111(4), 377-387.

22. Toro, G. R., Abrahamson, N. A., and Schneider, J. F., (1997), “Engineering

model of strong ground motions from earthquakes in the central and eastern

United States”, Seismological Research Letters, 68(1), 41-57.

23. Openquake Official website: https://www.globalquakemodel.org/, last

accessed: 2019.

63