ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN TIẾN ANH
HÌNH THÀNH LUẬN ĐIỂM VỀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ
NĂNG LỰC ĐỔI MỚI CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP CÔNG TY CỔ PHẦN
NỘI DUNG SỐ TOÀN CẦU - GDC)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Hà Nội – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN TIẾN ANH
HÌNH THÀNH LUẬN ĐIỂM VỀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ
NĂNG LỰC ĐỔI MỚI CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP CÔNG TY CỔ PHẦN
NỘI DUNG SỐ TOÀN CẦU - GDC)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Mã số: 60 34 04 12
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đào Thanh Trƣờng
1
Hà Nội – 2019
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn Thạc sĩ này, với tình cảm chân thành, tôi xin
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Khoa Khoa học Quản lý - Trƣờng Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tạo điều kiện cho tôi có môi trƣờng học tập
tốt trong suốt thời gian tôi học tập, nghiên cứu tại trƣờng.
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới PGS.TS Đào Thanh Trƣờng -
giáo viên hƣớng dẫn đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và trực
tiếp hƣớng dẫn tôi hoàn thành Luận văn. Đồng thời tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn
sâu sắc tới tới đề tài ―Nghiên cứu thực trạng và đề xuất chính sách, giải pháp
nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo (innovation) của doanh nghiệp Việt Nam‖
- Mã số Kx01.25/16-20 thuộc Chƣơng trình khoa học và công nghệ trọng
điểm cấp quốc gia giai đoạn 2016-2020: ―Nghiên cứu những vấn đề trọng yếu
về khoa học xã hội và nhân văn phục vụ phát triển kinh tế xã hội‖ - Mã số
Kx.01/16-20 do TS. Trịnh Ngọc Thạch làm chủ nhiệm đã cung cấp số liệu, tài
liệu để tôi hoàn thành Luận văn.
Sau cùng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình đã luôn động viên, nhiệt tình
giúp đỡ tôi trong quá trình làm Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn
Học viên cao học
Trần Tiến Anh
2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 7
1. Tên đề tài ................................................................................................................. 7
2. Lý do nghiên cứu..................................................................................................... 7
3. Tóm tắt lịch sử nghiên cứu ...................................................................................... 8
4. Mục tiêu nghiên cứu .............................................................................................. 10
5. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................... 11
6. Mẫu khảo sát ......................................................................................................... 11
7. Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................... 11
8. Giả thuyết nghiên cứu ........................................................................................... 11
9. Phƣơng pháp chứng minh giả thuyết .................................................................... 11
10. Nội dung nghiên cứu ........................................................................................... 11
11. Kết cấu luận văn .................................................................................................. 12
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................. 13
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC ĐỔI MỚI CỦA DOANH
NGHIỆP ................................................................................................................... 13
1.1. Khái niệm doanh nghiệp .................................................................................... 13
1.2. Khái niệm đổi mới .............................................................................................. 15
1.3. Khái niệm năng lực đổi mới ............................................................................... 17
1.4. Khái niệm về năng lực đổi mới của doanh nghiệp ............................................. 19
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC ĐỔI MỚI CỦA DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM HIỆN NAY .......................................................................................... 23
2.1. Bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ ............................................. 23
2.2. Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tƣ ..................................................................................... 27
2.3. Thực trạng năng lực đổi mới của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay ................. 31
2.3.1. Năng lực cải tiến – nâng cấp ........................................................................... 31
2.3.2. Năng lực nghiên cứu – sáng tạo công nghệ mới ............................................. 36
CHƢƠNG 3. LUẬN ĐIỂM VỀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐỔI MỚI
CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƢ ............................................................................ 39
3
3.1. Thách thức của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay trong việc nâng cao năng lực
đổi mới ...................................................................................................................... 39
3.1.1. Năng lực cạnh tranh ........................................................................................ 39
3.1.2. Thách thức về tài chính ................................................................................... 43
3.1.3. Thách thức về nguồn nhân lực ........................................................................ 47
3.1.4. Thách thức về chiến lƣợc phát triển kinh tế .................................................... 50
3.1.5. Thách thức về mô hình vận hành, quản trị ...................................................... 51
3.1.6. Thách thức về môi trƣờng kinh doanh ........................................................... 52
3.1.7. Thất bại thị trƣờng trong đổi mới .................................................................... 53
3.2. Một số nghiên cứu về đo lƣờng năng lực đổi mới và các yếu tố tác động đến
năng lực đổi mới của doanh nghiệp .......................................................................... 54
3.2.1. Giới thiệu về Chỉ số Đổi mới toàn cầu ............................................................ 54
3.2.2. Giới thiệu về Hệ thống i2-Metrix .................................................................... 57
3.3. Hình thành luận điểm về xây dựng bộ tiêu chí đánh giá năng lực đổi mới của
doanh nghiệp phù hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam ........................................ 61
3.4. Lƣợng hoá các tiêu chí ....................................................................................... 79
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ......................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 89
4
DANH MỤC HÌNH VÀ BẢNG BIỂU
1. Hình:
Hình 1: Các yếu tố liên quan tới năng lực đổi mới ................................................... 19
Hình 2: Mô hình năng lực đổi mới của S.P.O ........................................................... 20
Hình 3: Các giai đoạn của cuộc cách mạng công nghiệp.......................................... 24
Hình 4: Các lĩnh vực chính của các cuộc cách mạng công nghệ .............................. 25
Hình 5: Lý do thực hiện cải tiến, nâng cấp công nghệ của doanh nghiệp(%) .......... 32
Hình 6: Nguồn vốn đƣợc huy động cho cải tiến, nâng cấp (đơn vị %) .................... 33
Hình 7: Kết quả kỳ vọng khi thực hiện hoạt động NC-TK (% doanh nghiệp) ......... 37
Hình 8: Nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng cho nghiên cứu (% doanh nghiệp)
Nguồn: Kết quả điều tra của CIEM .......................................................................... 37
Hình 9: Năng lực ứng dụng công nghệ mới - các chỉ số thành phần ........................ 39
Hình 10: Cạnh tranh - các chỉ số thành phần ............................................................ 41
Hình 11: Đánh giá về những khó khăn trong quá trình hoạt động............................ 42
Hình 12: Nhu cầu các nguồn tài chính khác nhau trong vòng đời phát triển của
doanh nghiệp KH&CN .............................................................................................. 44
Hình 13: Nguồn vốn dành cho nghiên cứu (tỷ lệ %) ................................................ 45
Hình 14: Tỷ lệ doanh nghiệp nhận vốn đầu tƣ mạo hiểm theo quy mô (tỷ lệ %) ..... 46
Hình 15: Tỷ lệ phần trăm nhân sự theo nhiệm vụ trong hoạt động KH&CN của
doanh nghiệp phân theo quy mô doanh nghiệp (tỷ lệ %).......................................... 49
Hình 16: Sơ đồ lƣợng hoá năng lực đổi mới dựa trên 10 tiêu chí của giáo sƣ Nancy
K. Napier (Boise University, Mỹ) ............................................................................. 58
Hình 17: Yếu tố cản trở hoạt động đổi mới .............................................................. 79
Hình 18: Các hoạt động đổi mới của Dreamlab trong 5 năm trở lại đây .................. 80
2. Bảng biểu:
Bảng 1: Mức độ công nghệ đƣợc tiếp nhận trong các doanh nghiệp ........................ 34
Bảng 2: Nguồn gốc công nghệ đang sử dụng ........................................................... 35
Bảng 3: Tổng chi của doanh nghiệp công nghiệp cho hoạt động nghiên cứu .......... 38
Bảng 4: Các yếu tố hình thành năng lực đổi mới của doanh nghiệp ........................ 64
5
Bảng 5: Tiêu chí và các tiêu chí thành phần cấu thành năng lực đổi mới của doanh
nghiệp ........................................................................................................................ 81
6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tên đề tài
Hình thành luận điểm về tiêu chí đánh giá năng lực đổi mới của doanh
nghiệp Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 (Nghiên cứu trƣờng
hợp Công ty cổ phần nội dung số toàn cầu - GDC)
2. Lý do nghiên cứu
1) Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, công nghệ, tri thức và sáng tạo đang trỏ thành yếu tố then chốt
quyết định năng lực cạnh tranh và tăng trƣởng kinh tế của mỗi quốc gia. Sự hình
thành và phát triển nền kinh tế tri thức toàn cầu đang làm thay đổi diện mạo nền
kinh tế thế giới. Trong đó, doanh nghiệp dựa trên tri thức hay doanh nghiệp đổi mới
giữ vai trò trung tâm trong quá trình phát triển.
Hội nhập quốc tế đƣợc hiểu là hội nhập vào nền kinh tế tri thức kết nối toàn
cầu: sản xuất kinh doanh toàn cầu, chuỗi cung ứng toàn cầu, chuỗi giá trị toàn
cầu… Do đó, sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt (siêu cạnh tranh). Mỗi nền
kinh tế, mỗi doanh nghiệp cần biết mình đang đứng ở đâu trong nền kinh tế toàn cầu
này. Quốc gia nào biết nắm bắt cơ hội, quốc gia đó sẽ vƣợt lên. Chính vì vậy, đã hội
nhập mà vẫn giữ mô hình tăng trƣởng dựa vào nhân công rẻ và bán tài nguyên,
không lấy tri thức và đổi mới làm nguồn lực chính thì không thể tham gia vào các
phân khúc có giá trị cao hơn mà chỉ làm gia công - khâu thấp nhất trong chuỗi giá
trị và sẽ trở thành lệ thuộc.
Sau hơn 30 năm đổi mới, nƣớc ta đã đạt những thành tựu quan trọng, từ nƣớc
thu nhập kém trở thành nƣớc thu nhập trung bình (thấp), đời sống nhân dân đƣợc
cải thiện, Việt Nam có vai trò rõ nét hơn trên trƣờng quốc tế. Tuy nhiên so với các
nƣớc trong khu vực thì chúng ta vẫn đang tụt hậu. GDP/đầu ngƣời của Việt Nam
ngày càng tụt xa so với các nƣớc ASEAN và Trung Quốc. Việt Nam đang hội nhập
ngày càng sâu vào toàn cầu hóa, thu hút FDI nhiều hơn, xuất nhập khẩu tăng, nhƣng
doanh nghiệp không nâng cao đƣợc trình độ công nghệ, và vẫn đứng ở đáy chuỗi
giá trị toàn cầu, không cạnh tranh đƣợc với các doanh nghiệp nƣớc ngoài. Phần lớn
các doanh nghiệp dựa chủ yếu vào vốn, đất đai, ƣu đãi của chính phủ, các khe hở
của pháp luật để có lợi nhuận. Các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ
rất khó tiếp cận nguồn vốn, nhân lực, công nghệ, thông tin về thị trƣờng. Khu vực 7
đầu tƣ nƣớc ngoài đã phát triển mạnh, nhƣng chỉ một số nhỏ các doanh nghiệp này
tiến hành nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Số doanh nghiệp sử dụng
các phƣơng pháp sản xuất mới nhất còn ít. Đáng lƣu ý là hiệu ứng lan tỏa từ các
doanh nghiệp đầu tƣ nƣớc ngoài chƣa thấy rõ. Nhà nƣớc chƣa có những chính sách
khuyến khích mạnh các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên kết với các doanh
nghiệp FDI có công nghệ tiên tiến để tiếp cận và đổi mới công nghệ.
Có thể nói, doanh nghiệp đổi mới - nhân vật trung tâm đƣa nền kinh tế nƣớc
ta lên kinh tế tri thức, đang đứng trƣớc những cơ hội và thách thức mới do nền kinh
tế tri thức toàn cầu tạo ra. Doanh nghiệp nếu không đổi mới, nâng cao năng lực
cạnh tranh thì sẽ bị chèn ép, khó vƣơn lên. Nhà nƣớc nếu không thay đổi chính
sách, cơ chế tạo môi trƣờng kinh doanh thuận lợi hỗ trợ và thúc đẩy sự đổi mới
trong nƣớc thì rốt cuộc các doanh nghiệp nƣớc ngoài, sản phẩm nƣớc ngoài sẽ
chiếm lĩnh thị trƣờng trong nƣớc. Khi đó, Việt Nam vẫn chỉ là nền kinh tế gia công.
Xác định đƣợc tầm quan trọng về năng lực đổi mới đối với sự phát triển của
doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế Việt Nam nói chung. Với những kiến thức
đã trang bị đƣợc qua thời gian theo học chƣơng trình thạc sĩ Quản lý khoa học và
công nghệ tại khoa Khoa học Quản lý, trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, cùng với sự định hƣớng của giáo viên hƣớng dẫn,
tôi đã lựa chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là: ―Hình thành luận điểm về tiêu chí đánh
giá năng lực đổi mới của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công
nghiệp 4.0 (Nghiên cứu trƣờng hợp Công ty cổ phần nội dung số toàn cầu - GDC)‖.
Đề tài mong rằng sẽ xây dựng đƣợc bộ tiêu chí đánh giá năng lực đổi mới của
doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, qua đó đề xuất
đƣợc một số giải pháp cụ thể cho doanh nghiệp trƣớc ngƣỡng cửa cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0
3. Tóm tắt lịch sử nghiên cứu
Vấn đề về năng lực đổi mới và sáng tạo trong các lĩnh vực khác nhau, ngày
càng nhận đƣợc quan tâm của các tổ chức xã hội, cơ quan, ban ngành. Hiện nay, đã
có một số đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn về đề tài liên quan đến năng lực
sáng tạo trong nƣớc và nƣớc ngoài, nhƣ:
Đề tài ―Đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp Việt Nam‖ của 02 tác giả Phùng
Xuân Nhạ, Lê Quân – Đại học Quốc Gia Hà Nội. Nghiên cứu đƣợc thực hiện năm
8
2012 nhằm làm sáng tỏ hiện trạng đổi mới tại các doanh nghiệp Việt Nam, thể hiện
qua các nội dung: nhận thức và văn hóa về đổi mới, kết quả đổi mới, hình thức đổi
mới, năng lực nguồn nhân lực phục vụ đổi mới. Mẫu nghiên cứu gồm 583 doanh
nghiệp. Dữ liệu đƣợc thu thập theo phƣơng pháp phỏng vấn có cấu trúc và bảng hỏi.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam nhận thức khá rõ vai trò
và lợi ích của hoạt động đổi mới, tuy nhiên chƣa có nhiều doanh nghiệp ban hành
chính sách thúc đẩy hoạt động này. Hơn nữa, đổi mới hiện nay chủ yếu mang tính
cải tiến, rất ít doanh nghiệp phát triển sản phẩm, dịch vụ hoàn toàn mới đối với thị
trƣờng. Đa phần doanh nghiệp đƣợc khảo sát chƣa có bộ phận nghiên cứu và phát
triển (R&D). Thay vào đó, khi có ý tƣởng mới về sản phẩm (chủ yếu đến từ nội bộ
lãnh đạo doanh nghiệp), họ sẽ đặt hàng thiết kế, sản xuất với đối tác cung ứng (nhà
sản xuất ở nƣớc ngoài). Ít doanh nghiệp chú trọng đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ. Quan hệ hợp tác giữa doanh nghiệp và đơn vị sản xuất tri thức (viện nghiên
cứu, trƣờng đại học) chƣa đƣợc định hình.
Đề tài ―Năng lực đổi mới sáng tạo của chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa
bàn Thành phố Hà Nội‖ của tác giả Nguyễn Thanh Cƣờng đƣợc thực hiện vào năm
2014. Nghiên cứu là luận văn đƣợc tác giả thực hiện trong quá trình bảo vệ Thạc sĩ
Quản trị Kinh doanh tại trƣờng Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, qua đó,
tác giả đã đánh giá thực trạng về năng lực đổi mới của chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa
trên địa bàn thành phố Hà Nội, tiếp đó, đề xuất một số giải pháp phù hợp nâng cao
năng lực đổi mới trong kinh doanh của chủ doanh nhỏ và vừa.
Đề tài ―Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực công nghệ trong doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp (Nghiên cứu trƣờng hợp tỉnh Phú Thọ)‖ của tác giả
Nguyễn Hoàng Anh đã đƣa ra hệ thống tiêu chí (công cụ) để doanh nghiệp có thể
xem xét, tham khảo vận dụng kết quả của đề tài này vào việc đánh giá năng lực đổi
mới công nghệ của doanh nghiệp mình, để biết đƣợc thực trạng về năng lực đổi mới
công nghệ của doanh nghiệp mạnh, yếu thế nào? cần phải ƣu tiên mặt nào? có đảm
bảo cho việc đổi mới công nghệ hay không? để điều chỉnh, bổ sung hoặc tìm ra giải
pháp cho việc xây dựng kế hoạch và thực hiện việc đổi mới công nghệ đem lại hiệu
quả. Nghiên cứu cũng cung cấp một số luận cứ cho việc tham mƣu, đề xuất việc ban
hành các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đổi mới và hiện đại hoá công
nghệ; nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý công nghệ thông qua một số giải pháp
9
rút ra từ kết quả nghiên cứu của đề tài. Bản thân tác giả có thêm kiến thức để vận
dụng vào công tác quản lý KH&CN tại tỉnh Phú Thọ. Tuy nhiên, do đề tài nghiên
cứu tại thời điểm năm 2009 nên một số tiêu chí còn chƣa phù hợp với sự phát triển
của cuộc cách mạng lần thứ tƣ.
Nguyễn Võ Hƣng với đề tài ―Nghiên cứu cơ chế, chính sách khoa học và
công nghệ khuyến kích đổi mới công nghệ đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa của
Việt Nam có vốn nhà nƣớc‖ (2003), đề tài này cũng đi vào nghiên cứu chính sách
khuyến kích đổi mới công nghệ đối với loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhƣng
có sử dụng vốn của nhà nƣớc, đề tài không đi vào nghiên cứu việc xây dựng hệ
thống tiêu chí đánh giá năng lực đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
Nguyễn Thanh Duy với đề tài ― Giải pháp thúc đẩy ứng dụng kết quả nghiên
cứu và triển khai trong hoạt động đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp ở Bình
Định‖ (2007), đề tài này đi vào nghiên cứu mối quan hệ giữa hoạt động nghiên cứu
và triển khai với hoạt động đổi mới công nghệ, nghiên cứu việc ứng dụng kết qủa
hoạt động nghiên cứu và triển khai vào đổi mới công nghệ, chứ không đi vào xây
dựng hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực đổi mới công nghệ của doanh nghiệp sản
xuất công nghiệp.
Bên cạnh đó, quốc tế cũng đã có một số nghiên cứu về năng lực công nghệ,
nhƣ: Ngân hàng thế giới, M. Fransman..., các nghiên cứu này đi sâu vào nghiên cứu
năng lực công nghệ ở tầm vĩ mô (ngành kinh tế, Quốc gia).
Ngoài ra, cũng đã có nhiều luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học nghiên cứu
về đổi mới trong doanh nghiệp, mối liên hệ giữa đổi mới và khởi nghiệp bền vững
của doanh nghiệp,… Tuy nhiên, đứng trƣớc ngƣỡng cửa của cuộc Cách mạng công
nghệ 4.0, chúng ta cần thiết phải có những cái nhìn mới hơn, hợp thời điểm và thích
ứng nhanh chóng với sự phát triển vƣợt bậc của cuộc cách mạng này, bởi vậy, tác
giả cho rằng, đề tài: Hình thành luận điểm về tiêu chí đánh giá năng lực đổi mới của
doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 (Nghiên cứu
trƣờng hợp Công ty cổ phần nội dung số toàn cầu - GDC) có đầy đủ tính mới, tính
khoa học và tính cấp thiết cần có.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Hình thành luận điểm về tiêu chí đánh giá năng lực đổi mới của doanh
nghiệp Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ.
10
5. Phạm vi nghiên cứu
1) Giới hạn phạm vi về nội dung: Trong phạm vi giới hạn của đề tài, đề tài
tập trung hình thành luận điểm về tiêu chí đánh giá năng lực đổi mới của doanh
nghiệp Việt Nam trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ.
2) Giới hạn phạm vi quãng thời gian diễn biến của đối tƣợng nghiên cứu:
thời gian nghiên cứu: 2017-2018
3) Giới hạn phạm vi không gian khảo sát: Thành phố Hà Nội
6. Mẫu khảo sát
Nghiên cứu trƣờng hợp Công ty cổ phần nội dung số toàn cầu - GDC
7. Câu hỏi nghiên cứu
Tiêu chí đánh giá năng lực đổi mới của doanh nghiệp Việt Nam trong bối
cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ đƣợc xây dựng dựa trên các yếu tố nào?
8. Giả thuyết nghiên cứu
Tiêu chí đánh giá năng lực đổi mới của doanh nghiệp Việt Nam đƣợc xây
dựng dựa vào trên việc đánh giá các yếu tố bên trong và bên ngoài của doanh
nghiệp. Trong đó, các yếu tố bên trong bao gồm các tiêu chí: nhân sự, nguồn lực
của doanh nghiệp, năng lực làm chủ công nghệ, năng lực cải tiến – nâng cấp công
nghệ, năng lực nghiên cứu – sáng tạo công nghệ mới, năng lực lựa chọn mục tiêu
chiến lƣợc, năng lực thích nghi với chuẩn và thông lệ quốc tế. Các yếu tố bên ngoài
bao gồm: Quan hệ liên kết, khung pháp lý.
9. Phƣơng pháp chứng minh giả thuyết
- Nghiên cứu tài liệu
- Khảo sát trực tiếp; Phỏng vấn
10. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng hợp cơ sở lý thuyết, lý luận từ tài liệu, từ đó diễn giải,bố
cục phù hợp với mục đích về nội dung của luận văn.
- Từ việc nghiên cứu cơ sở lý thuyết và xác định cơ sở lý luận đánh giá để
tiến hành xây dựng hệ thống câu hỏi, thiết lập phiếu khảo sát.
- Tiến hành điều tra theo mẫu phiếu khảo sát để thu thập dữ liệu cần thiết, từ
đó phân tích và đánh giá một cách khách quan về thực trạng và đƣa ra các biện pháp
cải tiến phù hợp với mục tiêu của luận văn.
11
11. Kết cấu luận văn
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC ĐỔI MỚI CỦA DOANH
NGHIỆP
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC ĐỔI MỚI CỦA DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM HIỆN NAY
CHƢƠNG 3. LUẬN ĐIỂM VỀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐỔI MỚI
CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG
NGHIỆP LẦN THỨ TƢ
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
12
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC ĐỔI MỚI CỦA DOANH
NGHIỆP
1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế, có mối quan
hệ chặt chẽ với các bộ phận khác. Sự phát triển của doanh nghiệp gắn liền với sự
phát triển của các phƣơng thức sản xuất. Doanh nghiệp Việt Nam là khu vực kinh tế
đóng góp quan trọng nhất vào quy mô và tốc độ tăng trƣởng kinh tế của đất nƣớc.
Do đó, hiểu về doanh nghiệp một cách sâu sắc là cơ sở để nghiên cứu cấu trúc vốn
một cách toàn diện hơn. Hiện nay trên phƣơng diện lý thuyết có khá nhiều định
nghĩa thế nào là một doanh nghiệp, các tác giả đứng trên nhiều quan điểm khác
nhau khi tiếp cận doanh nghiệp để phát biểu. Chẳng hạn:
Xét theo quan điểm luật pháp: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tƣ cách
pháp nhân, có con dấu, có tài sản, có quyền và nghĩa vụ dân sự hoạt động kinh tế
theo chế độ hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh tế
trong phạm vi vốn đầu tƣ do doanh nghiệp quản lý và chịu sự quản lý của nhà nƣớc
bằng các loại luật và chính sách thực thi.
Xét theo quan điểm phát triển: Doanh nghiệp là một cộng đồng ngƣời sản
xuất ra của cải. Nó sinh ra, phát triển, có những thất bại, có những thành công, có
lúc vƣợt qua những thời kỳ nguy kịch và ngƣợc lại có lúc phải ngừng sản xuất, đôi
khi tiêu vong do gặp phải những khó khăn không vƣợt qua đƣợc.
Điều 4, Luật Doanh nghiệp năm 2014 định nghĩa: ―Doanh nghiệp là tổ chức
có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, đƣợc đăng ký thành lập theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh‖. Kinh doanh là ―việc thực hiện liên tục
một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình, đầu tƣ, từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trƣờng nhằm mục đích sinh lợi‖.
Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam 2019 định nghĩa: ―Doanh nghiệp là tổ
chức kinh tế có tên riêng, có trụ sở giao dịch, có tài sản, đƣợc đăng ký thành lập
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh, bao gồm: công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tƣ nhân. Các loại
hình doanh nghiệp bao gồm: a) Doanh nghiệp khu vực nhà nƣớc: Bao gồm Công ty
13
TNHH một thành viên 100% vốn Nhà nƣớc; Công ty cổ phần, công ty TNHH có
vốn Nhà nƣớc lớn hơn 50%. Doanh nghiệp khu vực nhà nƣớc trong ấn phẩm này
quy ƣớc bao gồm toàn bộ các doanh nghiệp thuộc các tập đoàn, tổng công ty nhà
nƣớc thành viên cấp 1,2,3,4. b) Doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nƣớc: Các doanh
nghiệp có vốn trong nƣớc thuộc sở hữu tƣ nhân một ngƣời hoặc nhóm ngƣời hoặc
thuộc sở hữu Nhà nƣớc nhƣng chiếm từ 50% vốn điều lệ trở xuống. Khu vực doanh
nghiệp ngoài Nhà nƣớc gồm: Doanh nghiệp tƣ nhân; Công ty hợp danh; Công ty
TNHH tƣ nhân; Công ty TNHH có vốn Nhà nƣớc từ 50% trở xuống; Công ty cổ
phần không có vốn Nhà nƣớc; Công ty cổ phần có vốn Nhà nƣớc từ 50% trở xuống.
c) Doanh nghiệp khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài: Các doanh nghiệp có vốn đầu
tƣ của nƣớc ngoài, không phân biệt tỷ lệ vốn góp. Khu vực có vốn đầu tƣ của nƣớc
ngoài gồm: Doanh nghiệp 100% vốn nƣớc ngoài; doanh nghiệp nhà nƣớc liên
doanh với nƣớc ngoài; doanh nghiệp khác liên doanh với nƣớc ngoài.
Ngoài ra có thể liệt kê hàng loạt những định nghĩa khác nữa khi xem xét
doanh nghiệp dƣới những góc nhìn khác nhau. Song giữa các định nghĩa về doanh
nghiệp đều có những điểm chung nhất, nếu tổng hợp chúng lại với một tầm nhìn
bao quát trên phƣơng diện tổ chức quản lý là xuyên suốt từ khâu hình thành tổ chức,
phát triển đến các mối quan hệ với môi trƣờng, các chức năng và nội dung hoạt
động của doanh nghiệp cho thấy doanh nghiệp về cơ bản có thể định nghĩa nhƣ sau:
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế có tƣ cách pháp nhân, quy tụ các phƣơng tiện tài
chính, vật chất và con ngƣời nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu
thụ sản phẩm hoặc dịch vụ, trên cơ sở tối đa hóa lợi ích của ngƣời tiêu dùng, thông
qua đó tối đa hóa lợi của chủ sở hữu, đồng thời kết hợp một cách hợp lý các mục
tiêu xã hội.
Về cơ bản, dựa trên các tiêu chí khác nhau, có nhiều cách để phân loại các
loại hình doanh nghiệp, nhƣ: Phân loại theo ngành nghề kinh doanh, hình thức pháp
lý… Tuy nhiên, một doanh nghiệp đƣợc cấu thành đƣợc đảm bảo bởi các yếu tố
sau:
- Yếu tố tổ chức: một tập hợp các bộ phận chuyên môn hóa nhằm thực hiện
các chức năng quản lý nhƣ các bộ phận sản xuất, bộ phận thƣơng mại, bộ phận hành
chính.
- Yếu tố sản xuất: các nguồn lực lao động, vốn, vật tƣ, thông tin.
14
- Yếu tố trao đổi: những dịch vụ thƣơng mại - mua các yếu tố đầu vào, bán
sản phẩm sao cho có lợi ở đầu ra.
- Yếu tố phân phối: thanh toán cho các yếu tố sản xuất, làm nghĩa vụ nhà
nƣớc, trích lập quỹ và tính cho hoạt động tƣơng lai của doanh nghiệp bằng khoản
lợi nhuận thu đƣợc. 1.2. Khái niệm đổi mới1
Khái niệm đổi mới đến nay đã không còn là một vấn đề quá mới mẻ với các
quốc gia trên thế giới, tuy nhiên đến với thời đại của xã hội thông tin, đổi mới lại trở
thành tâm điểm của việc nghiên cứu, vì đổi mới có quan hệ mật thiết đến việc nâng
cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. Các nghiên cứu trên thế giới xoay quanh chủ
đề này khá nhiều, hầu hết đều tập trung vào làm rõ hệ khái niệm: đổi mới, năng lực
đổi mới, doanh nghiệp, năng lực đổi mới của doanh nghiệp.
Một trong những khái niệm đầu tiên về đổi mới đƣợc đƣa ra vào năm 1934
bởi nhà kinh tế ngƣời Áo, Joseph Schumpeter, ông định nghĩa ―Đổi mới là quá trình
thƣơng mại hóa những yếu tố mới hoặc những yếu tố cũ trong các tổ chức công
nghiệp, liên quan tới vật liệu mới, quy trình mới, thị trƣờng mới, hoặc cơ cấu tổ
chức mới, phần lớn đƣợc khởi xƣớng bởi ngƣời chủ doanh nghiệp‖ . Trong định
nghĩa mà Schumpeter đƣa ra, đổi mới có một số đặc trƣng là: (1) Thƣơng mại hóa
sản phẩm của sự sáng tạo của con ngƣời về vật liệu mới, quy trình mới,... (2) Đề
cao vai trò trung tâm của ngƣời chủ doanh nghiệp.
Theo cuốn Những kiến thức cơ bản về đổi mới, đổi mới (innovation) là một
từ bắt nguồn từ gốc ―nova‖, gốc Latin có nghĩa là ―mới‖. Theo cách hiểu thông
thƣờng, đổi mới đƣợc hiểu là sự đổi mới cho một giải pháp nào đó, khác với giải
pháp đã triển khai, hoặc đổi mới là việc áp dụng những ý tƣởng mới vào tổ chức.
Trong Đổi mới sáng tạo – Sáng tạo để khoa học công nghệ phục vụ hiệu quả cho
phát triển và hội nhập quốc tế của tác giả Đặng Ngọc Dinh, đổi mới là làm mới lại,
thay đổi hoặc tạo ra một sản phẩm, một quá trình hoặc một cách làm hiệu quả hơn,
là đƣa vào một ý tƣởng, một phƣơng pháp mới (introduce something new). Đối với
doanh nghiệp, đổi mới có nghĩa là thực hiện những ý tƣởng mới, tạo ra những sản
phẩm năng động hoặc hoàn thiện những dịch vụ hiện có. Đổi mới là chất xúc tác
1 Hiện nay, trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng, một số văn bản quy phạm pháp luật đang sử dụng các khái niệm đổi mới sáng tạo, năng lực đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, trong giới hạn của luận văn này, tác giả sử dụng các khái niệm ―Innovation‖ và ―Innovative Capacity‖ với cách hiểu là ―đổi mới‖ và ―năng lực đổi mới‖. 15
cho tăng trƣởng và thành công của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp thích ứng và
thành công trong thị trƣờng.
Tại Điều 3.16 của Luật Khoa học và Công nghệ 2013 cũng đề cập đến khái
niệm ―đổi mới sáng tạo‖: “Đổi mới sáng tạo (innovation) là việc tạo ra, ứng dụng
thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản
phẩm, hàng hóa”.
Trong nghiên cứu Mô hình sáng tạo của tổ chức trong doanh nghiệp Việt
Nam đăng trong Tạp chí Tâm lý học số 12 (2012) của tác giả Phạm Thành Nghị
cũng đã phân biệt sự khác nhau giữa đổi mới và sáng tạo. Sáng tạo đƣợc coi là
thành tố ý tƣởng, là giai đoạn tạo ra ý tƣởng mới, bƣớc đầu tiên của quá trình đổi
mới. Trong khi đó, đổi mới bao gồm cả thành phần ý tƣởng và thành phần hoạt
động áp dụng ý tƣởng mới vào thực tiễn.
Đổi mới cũng khác với phát minh (invention). Đổi mới là quá trình doanh
nghiệp phát triển các sản phẩm, dịch vụ, quy trình hay hệ thống quản lý mới để đáp
ứng các yêu cầu do sự thay đổi của môi trƣờng kinh doanh, công nghệ hay mô hình
cạnh tranh. Đổi mới gồm nhiều công đoạn, từ nghiên cứu, lập kế hoạch đến tìm
kiếm các giải pháp kỹ thuật và thƣơng mại hóa. Nói cách khác, chỉ khi doanh
nghiệp biến một phát minh thành sản phẩm, dịch vụ mới bán đƣợc ra thị trƣờng
(đáp ứng nhu cầu khách hàng) và mang lại lợi nhuận thì mới đƣợc coi là đổi mới.
Trong khi đó, không phải phát minh nào cũng dẫn tới thỏa mãn nhu cầu khách hàng.
Khả năng phát minh thƣờng thể hiện qua số lƣợng sáng chế đƣợc đăng ký bản
quyền.
Nhìn chung, các nghiên cứu tại Việt Nam hiện nay đã đƣa ra khá chính xác
về khái niệm đổi mới, và đều có kết luận thống nhất rằng đây là một yếu tố then
chốt cho sự thành công của doanh nghiệp nói riêng và cả một quốc gia nói chung.
Tựu chung lại, định nghĩa của OECD (2005) có thể xem là đầy đủ nhất: Đổi mới
sản phẩm và qui trình công nghệ bao gồm các sản phẩm và qui trình mới về công
nghệ đƣợc thực hiện và cải tiến công nghệ đáng kể trong sản phẩm và qui trình. Một
đổi mới sản phẩm và qui trình công nghệ đƣợc thực hiện nếu nó đƣa đƣợc ra thị
trƣờng (đổi mới sản phẩm) hoặc đƣợc sử dụng trong qui trình sản xuất (đổi mới qui
16
trình). Đổi mới sản phẩm và qui trình công nghệ bao gồm một loạt các hoạt động
khoa học, công nghệ, tổ chức, tài chính và thƣơng mại.
Trong giới hạn của luận văn, tôi xin định nghĩa: Đổi mới là kết quả cuối cùng
của hoạt động đổi mới dƣới dạng sản phẩm mới, sản phẩm hoàn thiện, quá trình
công nghệ mới hoặc đƣợc hoàn thiện dịch vụ mới. Hoạt động đổi mới là hoạt động
sử dụng và thƣơng mại hóa kết quả nghiên cứu nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ
mới có sức cạnh tranh trên thị trƣờng.
1.3. Khái niệm năng lực đổi mới
Trƣớc khi có những định nghĩa hoàn chỉnh, nhiều ngƣời vẫn nghĩ năng lực
đổi mới và đổi mới là một, có thể dùng thay thế cho nhau. Tuy nhiên, đổi mới
(innovation) lại rất khác so với năng lực đổi mới (innovative capacity).
Năm 1990, Giáo sƣ Suarez – Villa đã đƣa ra quan niệm về năng lực đổi mới
(innovate capacity) là thƣớc đo mức độ sáng chế và tiềm năng công nghệ của mỗi
quốc gia, vùng lãnh thổ hay hoạt động kinh tế. Sáng chế ở đây đƣợc hiểu là những ý
tƣởng đã đƣợc cấp bằng độc quyền sáng chế. Khi những ý tƣởng đƣợc sử dụng cho
mục đích kinh tế hay xã hội thì nó trở thành những sáng chế. Sáng chế thƣờng có
nguồn gốc từ những ý tƣởng mới, và những ý tƣởng mới chính là nền tảng của
những công nghệ mới. Trình độ sáng chế càng tăng thì càng có khả năng xuất hiện
nhiều những sáng chế, những công nghệ mới. Chính vì vậy, việc đo lƣờng trình độ
sáng chế của một doanh nghiệp, quốc gia,… sẽ cung cấp những chỉ số quan trọng
và cần thiết để các nhà hoạch định chính sách, các nhà phân tích kinh tế có thể xác
định đƣợc tiềm năng, năng lực đổi mới của một tổ chức, một quốc gia,… Có thể
nhận thấy các cấp độ của đổi mới bao gồm: đổi mới quốc gia, đổi mới ngành, vùng
và đổi mới doanh nghiệp.
Ở cấp độ quốc gia, năng lực đổi mới có thể cung cấp đƣợc một cái nhìn tổng
quan nhất về những hoạt động liên quan đến sáng chế đã thay đổi nhƣ thế nào qua
thời gian. Bên cạnh đó cũng xác định đƣợc mối quan hệ của những hoạt động này
với những lĩnh vực khác trong xã hội nhƣ: giáo dục, sở hữu trí tuệ, luật,… Bằng
việc xác định mối quan hệ này, các nhà hoạch định chính sách, có thể đƣa ra những
chính sách có lợi hơn cho hoạt động sáng chế.
Đối với ngành, vùng và khu vực địa lý nhƣ các tỉnh, đô thị, quận hay thành
phố,… những chỉ số đo năng lực đổi mới có thể cung cấp các chỉ báo quan trọng về
17
việc khu vực đó hiện tại những nguồn để tạo ra công nghệ mới, sáng chế mới đang
nhƣ thế nào. Những khu vực có năng lực đổi mới cao thƣờng phát triển nhanh về
kinh tế, thu hút nhân lực có tay nghề cao, có kinh nghiệm, điều này sẽ giúp chính
khu vực đó tăng thu nhập và tăng khả năng thƣơng mại của các sản phẩm và dịch vụ
của khu vực đó.
Còn đối với những doanh nghiệp, năng lực đổi mới có thể đƣợc đo ở bất cứ
thời điểm nào, hay giữa các địa điểm khác nhau. Việc cung cấp những chỉ số đó sẽ
giúp những nhà lãnh đạo có thể xác định đƣợc năng lực đổi mới khác nhau nhƣ thế
nào giữa các ngành. Vì vậy, những chỉ số này còn có thể cảnh báo sớm đƣợc mức
độ suy giảm khả năng đổi mới của bất cứ ngành công nghiệp nào, hoặc những khó
khăn và khả năng suy giảm của ngành công nghiệp đó trong tƣơng lai.
Wang và Ahmed (2004) đƣa ra khái niệm ―năng lực đổi mới‖ là tổng thể các
khả năng đổi mới của tổ chức trong việc đƣa ra các sản phẩm mới, thị trƣờng mới
thông qua chiến lƣợc định hƣớng trong hành động và quy trình. Năng lực đổi mới
phản ánh định hƣớng của tổ chức trong việc tham gia cũng nhƣ hỗ trợ những ý
tƣởng mới lạ, sáng tạo vào đổi mới quy trình, để cho ra những sản phẩm mới, dịch
vụ mới hoặc công nghệ mới.
Theo nghiên cứu ―Yếu tố quyết định năng lực đổi mới trong các doanh
nghiệp nhỏ tại Anh‖ đăng trong dự án nghiên cứu ―Doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
Châu Âu và Đông Nam Á, cạnh tranh, hợp tác và bài học cho hỗ trợ chính sách‖
thực hiện phối hợp giữa đại học Edinburgh và tài trợ bởi chƣơng trình TSER của
Liên minh châu Âu bởi Henny Romijn và Manuel Albaladejo cho rằng đổi mới là
yếu tố quan trọng nhất của doanh nghiệp. Đó là khả năng để thực hiện những cải
tiến lớn và sửa đổi các công nghệ hiện có, đồng thời tạo ra các công nghệ mới. Các
khái niệm về năng lực đổi mới đƣợc áp dụng vào quá trình công nghệ, sản phẩm
cũng nhƣ cách thức quá trình sản xuất đƣợc tổ chức và quản lý. Yếu tố này là vô
cùng quan trọng trong môi trƣờng kinh tế cạnh tranh, bởi sự các doanh nghiệp nhỏ
và vừa tại khu vực Đông Nam Á và Châu Âu đang thay đổi một cách rất nhanh
chóng. Nghiên cứu cũng chỉ ra những yếu tố tác động tới năng lực đổi mới của tổ
chức, bao gồm những nguồn lực bên trong và bên ngoài:
18
Hình 1: Các yếu tố liên quan tới năng lực đổi mới
Nghiên cứu về ―Xây dựng năng lực đổi mới, vai trò của con người trong sự
hình thành vốn doanh nghiệp – một nghiên cứu tài liệu‖ của Đại học Ballarat phối
hợp với Đại học quốc gia Úc có định nghĩa năng lực đổi mới là khả năng của doanh
nghiệp đó trong việc xác định xu hƣớng và công nghệ mới, cũng nhƣ tiếp thu và
khai thác những nguồn kiến thức và thông tin này. Nghiên cứu cũng phân biệt sự
khác nhau giữa ―năng lực đổi mới‖ và ―khả năng đổi mới‖[1].
Mỗi tác giả đều có những khái niệm đƣợc biểu hiện khác nhau, tuy nhiên, từ
những khái niệm trên có thể khẳng định đƣợc, ―đổi mới‖ và ―năng lực đổi mới‖ là
hai thuật ngữ khác nhau nhƣng có liên quan mật thiết đến nhau. Nếu ―đổi mới‖ là
một quy trình hoặc sản phẩm mới thì ―năng lực đổi mới‖ chính là những khả năng
để tổ chức có thể thực hiện đổi mới thành công.
1.4. Khái niệm về năng lực đổi mới của doanh nghiệp
Năng lực đổi mới của doanh nghiệp có thể hiểu nhƣ tiềm năng của doanh
nghiệp trong việc tạo ra những sản phẩm mang tính sáng tạo đổi mới[2]. Hiện nay
trên thế giới đã có rất nhiều tác giả định nghĩa ―năng lực đổi mới của doanh
nghiệp‖, tuy nhiên có thể thấy tựu chung lại rằng, năng lực đổi mới thực chất là
thƣớc đo khả năng sáng chế và tiềm năng công nghệ của một tổ chức kinh doanh.
Vậy nghĩa là để biết đƣợc một doanh nghiệp có tiềm năng công nghệ hay không,
các nhà phân tích, hoạch định sẽ phân tích và xác định dựa trên những chỉ số đo
19
năng lực đổi mới của doanh nghiệp đó, sau đó có những biện pháp phù hợp để khắc
phục, duy trì hay nâng cao năng lực đổi mới của doanh nghiệp đó.
Năng lực đổi mới của doanh nghiệp (The firm’s capacity to innovate) đƣợc
Andy Neely và Jasper Hii cho rằng, đó là tiềm năng của doanh nghiệp đó để tạo ra
đƣợc những sản phẩm sáng tạo. Chính vì vậy, năng lực đổi mới của doanh nghiệp
phụ thuộc vào nguồn tài nguyên và khả năng mà doanh nghiệp đó sở hữu, cho phép
họ có cơ hội để khám phá và tìm ra những cái mới[3]. Nghiên cứu cũng chỉ ra
những yếu tố quyết định năng lực đổi mới của một doanh nghiệp bao gồm: văn hóa,
nguồn lực, khả năng cạnh tranh và sự kết nối.
Một nghiên cứu khác về xác định năng lực đổi mới của các tổ chức bằng
phƣơng pháp định tính Meta Tổng hợp và phƣơng pháp Delphi, các tác giả
Momeni, Mostafa; Nielsen, Susanne Balslev; Kafash, Mahdi Haghighi đã nhấn
mạnh rằng năng lực đổi mới đóng một vai trò quan trọng và mạnh mẽ nhất trong sự
thành công của doanh nghiệp, nó cũng đƣợc liên kết với những nguồn năng lực
khác trong tổ chức. Nghiên cứu cũng tập trung vào các khía cạnh của năng lực đổi
mới và đề xuất một mô hình toàn diện mới về năng lực đổi mới, đó là mô hình
S.P.O nhƣ dƣới đây[4].
Hình 2: Mô hình năng lực đổi mới của S.P.O
Marotti de Mello, Adriana; Demonel de Lima, Wander; Vilas Boas,
Eduardo; Sbragia, Roberto; Marx nhận định về những yếu tố cấu thành năng lực đổi
mới của doanh nghiệp gồm[5]: Văn hóa (những hỗ trợ từ doanh nghiệp cho đổi 20
mới), các nguồn lực (tài chính, vật chất, con ngƣời, trí tuệ), năng lực (những khả
năng phát triển cho đổi mới), và mạng lƣới liên kết (bao gồm các khách hàng, nhà
cung cấp,đối thủ cạnh tranh, và quan hệ đối tác với các viện nghiên cứu và các
trƣờng đại học).
- Về văn hóa: Theo nghiên cứu của CBI/DTI[6] đã đƣa ra dẫn chứng các
doanh nghiệp có năng lực đổi mới là các doanh nghiệp có một nền văn hóa doanh
nghiệp mạnh, có sứ mệnh và mục tiêu rõ ràng, tầm nhìn, chiến lƣợc tốt và triết lý
kinh doanh luôn đƣợc cải tiến. Văn hóa doanh nghiệp có thể là hữu hình hoặc vô
hình. Hữu hình có thể kể đến nhƣ chiến lƣợc đổi mới doanh nghiệp, các cơ sở hạ
tầng, máy móc, trang thiết bị và công nghệ phục vụ cho đổi mới,... Vô hình có thể
kể đến những nỗ lực của nhà quản lý trong thực hiện đổi mới thông qua ra quyết
định, ban hành chính sách đẩy mạnh ý tƣởng sáng tạo đổi mới,...
- Về nguồn lực: Các nguồn lực là tài chính, vật chất, con ngƣời, trí tuệ.
Nguồn lực về tài chính là những đầu tƣ trực tiếp cho các hoạt động đổi mới sản
phẩm hoặc đẩy mạnh phát triển các hoạt động R&D. Vốn là yếu tố không thể không
có khi đổi mới và trở thành yếu tố để cạnh tranh. Các nghiên cứu cho thấy, các
doanh nghiệp lớn thƣờng có năng lực đổi mới cao hơn so với các doanh nghiệp nhỏ
và vừa vì họ có nguồn tài chính dồi dào, tuy nhiên lại có khó khăn trong thực hiện
đổi mới vì quy mô doanh nghiệp quá lớn nên thực hiện đổi mới sẽ khó hơn so với
các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Nguồn nhân lực đổi mới chính là số lƣợng các kỹ
sƣ, kỹ thuật, nhà quản lý và các chuyên gia, những ngƣời tham gia vào quá trình đổi
mới. Đây là những ngƣời có trình độ, kiến thức, sẽ sử dụng những kiến thức chuyên
môn vào đổi mới, tùy vào từng vị trí chức năng cụ thể.
- Về năng lực: Năng lực biểu hiện ở việc đƣa ra những ý tƣởng mới mẻ,
các sản phẩm mới lạ độc đáo cũng nhƣ quá trình đƣa ra những sản phẩm đó phải
đƣợc đổi mới. Ngoài ra năng lực còn thể hiện ở cách thức quản lý, cải tiến, tìm hiểu
những thông tin về thị trƣờng và công nghệ. Một sự thật hiển nhiên là các công ty
có năng lực đổi mới cao luôn tìm kiếm và tạo ra những ý tƣởng mới mẻ. Các kế
hoạch nhân viên đƣợc đƣa ra thảo luận rộng rãi, những ý tƣởng thành công sẽ nhận
đƣợc những phần thƣởng xứng đáng, và những ý tƣởng chƣa thành công phải đƣợc
xem nhƣ là một phần không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu. Đây vừa là thể
21
hiện kỹ năng quản lý, vừa là động lực để nhân viên tích cực đƣa ra những ý tƣởng
sáng tạo.
- Về mạng lưới liên kết: Đây chính là nguồn lực tiềm năng của các ý tƣởng
đổi mới nằm bên ngoài tổ chức. Đó là các khách hàng, nhà cung cấp,đối thủ cạnh
tranh, hay quan hệ đối tác với các viện nghiên cứu và các trƣờng đại học hoặc có
thể là chính quyền. Việc liên kết với các nguồn lực bên ngoài này giúp cho doanh
nghiệp thu thập đƣợc các thông tin có giá trị rất lớn. Ngoài ra, Nhà nƣớc cũng đóng
một vai trò hết sức quan trọng trong đổi mới bằng việc đề ra các chính sách đổi mới
ở khu vực doanh nghiệp.
Tiểu kết chƣơng 1:
- Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có trụ sở giao dịch, có tài sản,
đƣợc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh,
bao gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh
nghiệp tƣ nhân.
- Đổi mới là kết quả cuối cùng của hoạt động đổi mới dƣới dạng sản phẩm
mới, sản phẩm hoàn thiện, quá trình công nghệ mới hoặc đƣợc hoàn thiện dịch vụ
mới. Hoạt động đổi mới là hoạt động sử dụng và thƣơng mại hóa kết quả nghiên
cứu nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới có sức cạnh tranh trên thị trƣờng.
- Năng lực đổi mới là tổng thể các khả năng đổi mới của tổ chức trong việc
đƣa ra các sản phẩm mới, thị trƣờng mới thông qua chiến lƣợc định hƣớng trong
hành động và quy trình. Năng lực đổi mới phản ánh định hƣớng của tổ chức trong
việc tham gia cũng nhƣ hỗ trợ những ý tƣởng mới lạ vào đổi mới quy trình, để cho
ra những sản phẩm mới, dịch vụ mới hoặc công nghệ mới.
- Năng lực đổi mới của doanh nghiệp có thể hiểu nhƣ tiềm năng của doanh
nghiệp trong việc tạo ra những sản phẩm mang tính mới, là khả năng của doanh
nghiệp trong việc hiện thực hoá các yếu tố mang tính nguồn lực để thay thế công
nghệ này bằng công nghệ khác, hoặc công đoạn này bằng công đoạn khác hoặc sử
dụng nguyên liệu này thay cho nguyên liệu khác trong quy trình công nghệ.
Trong phạm vi luận văn, tác giả đề xuất một số quan điểm cá nhân về các
tiêu chí đánh giá năng lực đổi mới cho các doanh nghiệp Việt Nam theo hƣớng tiếp
cận năng lực đổi mới là năng lực của con ngƣời trong chuỗi hoạt động từ tiếp cận,
sử dụng và phát triển công nghệ phục vụ cho việc sản xuất trong doanh nghiệp. 22
Trong đó, các yếu tố bên trong bao gồm các tiêu chí: nhân sự, nguồn lực của doanh
nghiệp, năng lực làm chủ công nghệ, năng lực cải tiến – nâng cấp công nghệ, năng
lực nghiên cứu – sáng tạo công nghệ mới, năng lực lựa chọn mục tiêu chiến lƣợc,
năng lực thích nghi với chuẩn và thông lệ quốc tế. Các yếu tố bên ngoài bao gồm:
Quan hệ liên kết, khung pháp lý.
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC ĐỔI MỚI CỦA DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ
Khái niệm ―cách mạng‖ ám chỉ những thay đổi mang tính đột phá và cấp
tiến. Cách mạng đã xảy ra suốt chiều dài lịch sử, khi công nghệ và những cách nhìn
nhận mới mẻ về thế giới châm ngòi cho các thay đổi sâu sắc trong hệ thống kinh tế
và cấu trúc xã hội. Vì khuôn khổ tham chiếu là lịch sử, sự ―đột phá‖ của những thay
đổi này có thể mất hàng năm mới diễn ra.
Thay đổi lớn lao đầu tiên trong lối sống của chúng ta - sự chuyển đổi từ săn
bắt và hái lƣợn sang trồng trọt và chăn nuôi - diễn ra khoảng 10.000 năm trƣớc và
xảy ra nhờ việc thuần hóa động vật. Cách mạng nông nghiệp kết hợp sức lao động
của động vật và con ngƣời nhằm mục đích sản xuất, vận tải và thông tin liên lạc.
Dần dà, sản xuất lƣơng thực đƣợc cải thiện, thúc đẩy gia tăng dân số và cho phép
các cộng đồng dân cƣ lớn hơn ra đời. Điều này cuối cùng đã dẫn đến đô thị hóa và
sự phát triển của các thành phố.
Tiếp nối cách mạng nông nghiệp là một loạt cuộc cách mạng công nghiệp bắt
đầu từ nửa sau thế kỷ XVIII. Những cuộc cách mạng này đánh dấu sự dịch chuyển
từ sức mạnh cơ bắp sang sức mạnh cơ khí, và tiến triển đến ngày nay, với cách
mạng công nghiệp lần thứ tƣ, khi tăng cƣờng năng lực nhận thức đang gia tăng năng
suất lao động của con ngƣời.
Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên kéo dài từ năm 1760 đến khoảng năm
1840. Với chất xúc tác là việc xây dựng đƣờng sắt và phát minh ra máy hơi nƣớc,
nó mở đƣờng cho sản xuất cơ khí. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai, bắt đầu
vào khoảng cuối thế kỉ XIX sang đầu thế kỉ XX, mở ra cơ hội cho sản xuất hàng
loạt nhờ sự ra đời của điện và dây chuyền lắp ráp. Cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ ba bắt đầu vào những năm 1960. Nó thƣờng đƣợc gọi là cách mạng máy tính
23
hoặc cách mạng số bởi chất xúc tác là sự phát triển của linh kiện bán dẫn, máy tính
chủ (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và internet (thập
niên 1990)[8]. Hiện chúng ta đang trong giai đoạn khởi đầu của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tƣ, cuộc cách mạng này bắt đầu vào đầu thế kỉ XXI trên nền
tảng của cuộc cách mạng số. Đặc trƣng của nó là internet di động phổ biến ở khắp
mọi nơi, là những thiết bị cảm ứng nhỏ hơn, mạnh hơn nhƣng rẻ hơn, cùng với trí
tuệ nhân tạo và máy tự học. Công nghệ số với cốt lõi là phần cứng, phần mềm và
mạng máy tính không phải là điều gì mới mẻ, nhƣng điểm đột phá so với cuộc cách
mạng công nghệ lần thứ ba nằm ở chỗ chúng có độ phức tạp và tích hợp ngày càng
cao, và do đó, thay đổi các xã hội và nền kinh tế toàn cầu. Đây là lý do khiến Erik
Brynjolfsson và Andrew McAfee của Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) có một
nhận định nổi tiếng đánh giá cuộc cách mạng lần thứ tƣ này là ―kỷ nguyên máy móc
thứ hai‖ và lấy đây làm nhan đề cho cuốn sách xuất bản năm 2014 của họ, cho rằng
thế giới đang ở một thời điểm bƣớc ngoặt, khi hiệu ứng của các công nghệ số này sẽ
đƣợc triển khai ―toàn lực‖ thông qua tự động hóa và việc chế tạo những sản phẩm
―chƣa từng có‖[9].
Hình 3: Các giai đoạn của cuộc cách mạng công nghiệp
Thuật ngữ khoa học ―Industry 4.0 (Công nghiệp 4.0)‖ đƣợc giới thiệu lần đầu
tiên ở Cộng hòa Liên bang Đức vào năm 2011 tại Hội chợ công nghiệp Hannover,
nơi nó đƣợc sử dụng để biểu thị khả năng thông minh hóa quá trình sản xuất và
quản lý trong ngành công nghiệp chế tạo. Bằng việc biến ―nhà máy thông minh‖
thành hiện thực, cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ đã tạo ra một thế giới trong đó
24
các hệ thống ảo và thực của sản xuất toàn cầu có thể phối hợp với nhau một cách
linh hoạt. Điều này cho phép tùy biến sản phẩm đến mức tối đa và tạo ra những mô
hình vận hành mới. Tuy nhiên,cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ không chỉ có các
máy móc và hệ thống thông minh kết nối với nhau. Phạm vi của nó rộng hơn nhiều.
Những làn sóng đột phá đang xuất hiện đồng thời ở nhiều lĩnh vực, từ giải mã trình
tự gen đến công nghệ nano, từ năng lƣợng tái tạo đến điện toán lƣợng tử. Chính sự
hòa trộn của các công nghệ này và sự tƣơng tác của chúng trong tất cả lĩnh vực của
thế giới thực, thế giới số và thế giới sinh học đã làm nên khác biệt căn bản của cách
mạng công nghiệp lần thứ tƣ so với các cuộc cách mạng trƣớc đó. Bằng sự lan tỏa
và quy mô rộng khắp, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ đã lan rộng ra nhiều
nƣớc. Bằng chứng là các quốc gia phát triển trong vài năm qua đều đã có các
chƣơng trình cho riêng mình về sản xuất dựa trên những tiến bộ của khoa học và
công nghệ. Nƣớc Mỹ có ―Chiến lƣợc quốc gia về sản xuất tiên tiến‖, Nƣớc Pháp có
―Bộ mặt mới của công nghiệp nƣớc Pháp‖, Hàn Quốc có ―Chƣơng trình tăng trƣởng
của Hàn Quốc trong tƣơng lai‖, Trung Quốc có ―Sản xuất tại Trung Quốc năm
2025‖. Nhật Bản có ―Xã hội thông minh 5.0″…
Hình 4: Các lĩnh vực chính của các cuộc cách mạng công nghệ
Về bản chất, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ dựa trên nền tảng công
nghệ số và tích hợp các công nghệ thông minh để tối ƣu hóa quy trình, phƣơng thức
sản xuất; những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn tới quá trình phát triển là
công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động
hóa, ngƣời máy, internet vạn vật... với xu hƣớng tự động hóa và trao đổi dữ liệu
25
trong công nghệ sản xuất. Cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ tác động mạnh mẽ đến
hoạt động sản xuất, tạo nên sự thay đổi lớn trong phƣơng thức sản xuất, sự hội tụ
giữa ứng dụng vật lý và ứng dụng kỹ thuật số tạo nên sự xuất hiện Internet vạn vật
(Internet of Things - IoT) sẽ thay đổi nhanh chóng, sâu rộng toàn bộ chuỗi giá trị từ
nghiên cứu phát triển đến sản xuất, logistics đến dịch vụ khách hàng, giảm đáng kể
chi phí giao dịch, vận chuyển, dẫn đến những điều kỳ diệu trong sản xuất và năng
suất. Trong quá trình này, IoT sẽ tác động làm biến đổi tất cả các ngành công
nghiệp, từ sản xuất đến cơ sở hạ tầng đến chăm sóc sức khỏe. Với việc thay đổi
phƣơng thức sản xuất khi có những công nghệ hiện đại có thể kết nối thế giới thực
và ảo, con ngƣời có thể điều khiển quy trình ngay tại nhà mình mà vẫn bao quát tất
cả mọi hoạt động của nhà máy thông qua sự vƣợt trội về Internet.
Đối với lĩnh vực thƣơng mại, cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ giúp giảm
đáng kể chi phí giao dịch, vận chuyển. Đối với lĩnh vực đầu tƣ, với bản chất của
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ, công nghệ là mảng đầu tƣ trở nên hấp dẫn
và đầy tiềm năng nhất của các nhà đầu tƣ trong thời gian tới, đặc biệt là công nghệ
số và Internet. Song cuộc cách mạng này cũng có thể tạo ra sự bất công lớn hơn,
đặc biệt là gây ra nguy cơ phá vỡ thị trƣờng lao động. Khi tự động hóa thay thế con
ngƣời trong toàn bộ nền kinh tế, ngƣời lao động sẽ bị dƣ thừa và điều đó làm trầm
trọng hơn khoảng cách giữa lợi nhuận so với đồng vốn và lợi nhuận so với sức lao
động. Trong khi sự đổi mới công nghệ thƣờng dẫn đến năng suất cao hơn thì tốc độ
thay đổi cũng sẽ tạo ra một áp lực lớn tới doanh nghiệp do sự dịch chuyển của
nguồn nhân lực. Ngƣời lao động cần có sự thay đổi về nhận thức, nâng cao năng lực
cá nhân, sẵn sàng làm việc cùng với những máy móc ngày càng thông minh và đƣợc
kết nối với những công nghệ mới, môi trƣờng làm việc và phƣơng cách tổ chức
công việc hoàn toàn mới.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ đƣợc nhận định là sẽ ngày càng phát
triển mạnh mẽ do nhu cầu tìm kiếm phƣơng thức sản xuất mới hiệu quả, bền vững
hơn. Nhiều cơ hội phát triển và hội nhập đang tới gần, nhƣng đồng thời cũng đặt ra
nhiều thách thức với các nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam.
26
2.2. Cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ
Trong khoảng 2 năm trở lại đây, tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ
tƣ đến nền kinh tế cũng nhƣ xã hội trở nên rõ rệt hơn ở Việt Nam. Từ sự phổ biến
ngày càng rộng rãi của phƣơng thức kinh tế chia sẻ nhƣ: Uber, Grab trong lĩnh vực
vận tải hay Airbnb trong lĩnh vực lƣu trú, cho đến phƣơng thức bán hàng trực tuyến
thông qua các nền tảng của Facebook, Lazada… Cũng nhƣ sự phát triển nhanh
chóng của điện mặt trời, điện gió… Hay cách thức ngƣời dân trao đổi, tƣơng tác
thông qua các mạng truyền thông xã hội đã minh chứng rõ nét về tác động của cách
mạng công nghiệp lần thứ tƣ đến những mặt khác nhau của kinh tế - xã hội ở Việt
Nam
Bởi vậy, Chính phủ đã có Chỉ thị 16/Ct-TTg ngày 4/5/2017 về tăng cƣờng
năng lực tiếp cận cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ của Việt Nam, trong đó có yêu
cầu các cơ quan đánh giá những cơ hội và thách thức của đất nƣớc nói chung và các
ngành, lĩnh vực nói riêng trong bối cảnh mới của tiến bộ công nghệ.
Báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 2016 đã xếp hạng các quốc gia trên thế
giới trong quá trình chuyển đổi số, các nƣớc trên thế giới đƣợc chia làm 3 nhóm
theo thứ tự tăng dần về mức độ chuyển đổi số: mới bắt đầu, quá độ, chuyển đổi.
Đồng thời các nƣớc cũng đƣợc phân loại làm 4 nhóm theo mức thu nhập bình quân
đầu ngƣời gồm thu nhập thấp, thu nhập trung bình thấp, thu nhập trung bình cao,
thu nhập cao.
Việt Nam hiện đang đƣợc xếp ở nhóm nƣớc đang trong giai đoạn quá độ của
quá trình chuyển đổi số và cũng có vị trí cao hơn so với nhóm các nƣớc thu nhập
trung bình thấp. Nhƣ vậy, công nghệ và các yếu tố bổ trợ ở Việt Nam đi khá đều
nhau, không có hiện tƣợng nhóm yếu tố này đi quá nhanh so với nhóm yếu tố kia.
Vị trí vƣợt trội của Việt Nam trong quá trình chuyển đổi số trong tƣơng quan
so sánh với các nƣớc có trình độ phát triển tƣơng đồng, tức là các nƣớc có thu nhập
trung bình thấp, cũng nhƣ năng lực của lớp trẻ Việt Nam về toán là minh chứng cho
điều đó. Thúc đẩy quá trình chuyển đổi cần phải là chiến lƣợc xuyên suốt để thúc
đẩy tăng trƣởng nhanh, bền vững và mang tính bao trùm ở Việt Nam.
Dù có vị trí khá tích cực trong tƣơng quan với các nƣớc có cùng trình độ phát
triển, nhƣng Việt Nam vẫn ở trong nhóm quá độ trong quá trình số hóa và cần phải
27
có nhiều nỗ lực để có thể nắm bắt cơ hội trong cuộc cách mạng số - nội dung cốt lõi
của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ . Nếu công nghệ đi quá nhanh so với
các yếu tố bổ trợ, ví dụ nhƣ khi kỹ năng không theo kịp thì có thể gây xáo trộn trên
thị trƣờng lao động. Hay trong trƣờng hợp phƣơng thức kinh tế chia sẻ, việc thiếu
các qui định điều tiết phù hợp đối với Uber, Grab trong lĩnh vực vận tải khách đô thị
hay Airbnb trong lĩnh vực lƣu trú đã dẫn đến những xung đột lợi ích ở nhiều nƣớc
trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Liên quan đến năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp, nghiên cứu gần
đây về mức độ sẵn sàng tiếp cận cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ của các doanh
nghiệp thuộc các ngành công nghiệp do Bộ Công Thƣơng cho thấy, chỉ có một tỷ lệ
nhỏ các doanh nghiệp công nghiệp của Việt Nam đã bắt đầu ứng dụng các công
nghệ điển hình của cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ .
Theo đó, chỉ có 1,3% doanh nghiệp công nghệ của Việt Nam đang áp dụng
trí tuệ nhân tạo; 0,5% đang áp dụng phân tích và quản trị dữ liệu (Big Data); 0,9 %
áp dụng công nghệ in 3D… Chỉ có điện toán đám mây và kết nối thiết bị với thiết
bị/sản phẩm đƣợc trên 10% tổng số các doanh nghiệp ứng dụng. Với các công nghệ
khác, tỷ lệ này ở dƣới mức 10%.
Đối với điện toán đám mây, công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tƣ có tỷ lệ sử dụng cao nhất, có sự khác biệt giữa các nhóm doanh nghiệp về tỷ
lệ áp dụng, tỷ lệ sử dụng có xu hƣớng tăng lên khi qui mô tăng lên. Đối với hình
thức sở hữu, tỷ lệ này không khác biệt nhiều giữa nhóm doanh nghiệp có vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài và doanh nghiệp tƣ nhân trong nƣớc.
Đặc biệt, yếu tố trang bị vốn cho một lao động không có ảnh hƣởng gì đến
việc doanh nghiệp có sử dụng công nghệ điện toán đám mây hay không. Trong khi
đó, các yếu tố nhƣ tỷ lệ ngƣời lao động có sử dụng máy vi tính và doanh nghiệp có
sử dụng internet để quản lý vận hành doanh nghiệp, là những yếu tố tác động đến
việc doanh nghiệp có sử dụng điện toán đám mây.
Trƣớc tình hình thực tiễn, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ sẽ mang
lại những cơ hội và thách thức tác động đến phát triển kinh tế Việt Nam thời gian
tới. Cụ thể:
Về cơ hội
28
Một là: Các doanh nghiệp có điều kiện tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ,
thành tựu công nghệ của nhân loại, trƣớc hết là công nghệ thông tin, công nghệ số,
công nghệ điều khiển và tự động hóa để nâng cao năng suất, hiệu quả trong tất cả
các khâu của nền sản xuất xã hội.
Hai là: Doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội phát triển các ngành kinh tế mới
thông qua mở rộng ứng dụng những tiến bộ, thành tựu về công nghệ thông tin, công
nghệ số, công nghệ điều khiển, công nghệ sinh học (thuộc các lĩnh vực nhƣ công
nghiệp không gian, công nghiệp sáng tạo, công nghiệp giải trí, công nghiệp sinh
học, công nghiệp quốc phòng, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao,...).
Ba là: Thông qua quá trình tiếp thu, làm chủ và ứng dụng nhanh vào sản xuất
kinh doanh, quản lý những tiến bộ, thành tựu công nghệ (kể cả phƣơng thức sản
xuất, quản lý) từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ, Việt Nam có cơ hội thu
hẹp khoảng cách và đuổi kịp những nƣớc đi trƣớc trong khu vực và trên thế giới.
Bốn là: Lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ mạng xã hội, di động, phân
tích và điện toán đám mây (SMAC) đang là xu hƣớng mới mẻ của cả thế giới và
doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội phát triển lĩnh vực này. Với các lợi thế hiện nhƣ
hạ tầng Internet tƣơng đối tốt, giá rẻ trong khi thiết bị di động cấu hình cao, giá thấp
đang trở nên phổ biến cũng nhƣ sự khuyến khích phát triển của chính phủ, doanh
nghiệp Việt Nam có tiềm năng phát triển công nghệ SMAC rất lớn. Một yếu tố
thuận lợi nữa là Việt Nam có các đối tác quan trọng là các tập đoàn công nghệ lớn
và có nhiều kinh nghiệm nhƣ Microsoft trong quá trình tƣ vấn, xây dựng, và phát
triển SMAC nói chung và điện toán đám mây tại Việt Nam. Cách mạng công
nghiệp lần thứ tƣ này là một cơ hội để Việt Nam đuổi kịp các nƣớc phát triển trong
kỷ nguyên số. Việc ứng dụng kỷ nguyên số còn cho phép chúng ta đẩy nhanh đƣợc
việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong nhiều ngành nghề, góp phần khắc phục những
khó khăn hiện có. Những ngành cần ứng dụng này nhất hiện nay là thƣơng mại điện
tử, giao thông vận tải, đo lƣờng địa chất, hay đo lƣờng chất lƣợng môi trƣờng.
Năm là: Công nghệ sinh học, cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ có tác động
mạnh mẽ đến năng suất cũng nhƣ chất lƣợng cây trồng vật nuôi, từ đó, tăng giá trị
gia tăng trong mỗi sản phẩm nông nghiệp. Việt Nam vẫn luôn đƣợc đánh giá cao
đối với ngành nông nghiệp. Nếu doanh nghiệp có thể tận dụng thời cơ, có những sự
29
cải cách về giống cùng cách thức nuôi, trồng sẽ tạo ra một nền nông nghiệp sạch với
các sản phẩm có chất lƣợng cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trƣờng thế giới.
Đối với lĩnh vực y tế, nhiều bệnh nan y, nhất là ung thƣ đang trở thành vấn
đề sức khỏe mang tính chất toàn cầu, gây ra những mất mát về ngƣời, sự tốn kém về
kinh tế trong điều trị và ngăn chặn. Những công trình nghiên cứu của công nghệ
sinh học ứng dụng thành công trong y dƣợc, đặc biệt là trong sản xuất thuốc và
trong chuẩn đoán bệnh cũng là một trong những nội dung mà các doanh nghiệp y
dƣợc của Việt Nam có thể lƣu ý và tận dụng để phát triển trong giai đoạn tới đây.
Về thách thức
Một là: Thách thức trong lĩnh vực giải quyết việc làm: với sự mở rộng ứng
dụng các thành tựu của công nghệ thông tin, điều khiển, tự động hóa. Các hệ thống
robot có trí thông minh nhân tạo sẽ thay thế con ngƣời trong nhiều công đoạn hoặc
trong toàn bộ dây chuyền sản xuất nhất là trong những ngành sử dụng nhiều lao
động. Đây là một trong những thách thức lớn nhất, bởi chuyển dịch cơ cấu lao động
trong gần 20 năm qua của Việt Nam rất chậm và chậm hơn nhiều nếu so với chuyển
dịch cơ cấu GDP. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn dựa nhiều vào các ngành
thâm dụng lao động giá rẻ. Tuy nhiên, trong xu thế phát triển của kinh tế tri thức,
nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn giỏi, có năng lực sáng tạo mới là lợi thế.
Hơn thế, các công nghệ hiện đại châm ngòi cho cuộc cách mạng mới trong nhiều
ngành trong nền kinh tế thế giới nhƣ công nghệ in 3D, robot và tự động hóa lại sử
dụng rất ít nhân công. Các loại hình công nghệ này sẽ thách thức mô hình ―sản xuất
hàng loạt‖ bằng mô hình ―tùy chỉnh hàng loạt‖ và tự động hóa với chi phí thấp hơn.
Trong tƣơng lai, nhiều lao động trong các ngành nghề của Việt Nam có thể thất
nghiệp ví dụ nhƣ lao động dệt may, lắp ráp, số lao động này hiện đang chiếm một tỷ
trọng không nhỏ trong lực lƣợng lao động của nƣớc ta hiện nay. Ngoài ra, chất
lƣợng nguồn nhân lực thấp cũng làm cản trở về nâng cao năng lực tiếp thu, làm chủ
và ứng dụng hiệu quả các công nghệ mới ở các quy mô doanh nghiệp, ngành lĩnh
vực và cả nền kinh tế trong điều kiện xuất phát điểm phát triển của Việt Nam còn
thấp so với nhiều nƣớc.
Hai là: Thách thức về quản trị nhà nƣớc cũng là một trong những thách thức
lớn nhất đối với nƣớc ta. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc sẽ gặp
nhiều khó khăn nếu công cuộc cải cách cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trƣởng
30
đƣợc Nhà nƣớc đề ra trong thời gian qua thực hiện không thành công. Bên cạnh đó,
những thách thức về an ninh phi truyền thống sẽ tạo ra áp lực lớn nếu Nhà nƣớc
không đủ trình độ về công nghệ và kỹ năng quản lý để ứng phó.
Ba là: Các nƣớc công nghiệp mới nổi và nhiều nƣớc đang phát triển đều cạnh
tranh quyết liệt, tìm cách thu hút, hợp tác để có đầu tƣ, chuyển giao công nghệ,
nhanh chóng ứng dụng những thành tựu công nghệ từ cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tƣ đem lại để giành lợi thế phát triển. Áp lực lớn cho doanh nghiệp Việt
Nam trong quá trình hội nhập, hợp tác quốc tế, phát triển nền kinh tế thị trƣờng nhất
là thị trƣờng khoa học công nghệ, cải thiện đổi mới môi trƣờng đầu tƣ kinh doanh,
tích lũy đầu tƣ để thu hút chuyển giao, ứng dụng nhanh những thành tựu khoa học
công nghệ vào phát triển nền kinh tế.
2.3. Thực trạng năng lực đổi mới của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
Tiêu chí đánh giá năng lực đổi mới của doanh nghiệp Việt Nam đƣợc xây
dựng dựa vào trên việc đánh giá các yếu tố bên trong và bên ngoài của doanh
nghiệp. Trong đó, các yếu tố bên trong bao gồm các tiêu chí: nhân sự, nguồn lực
của doanh nghiệp, năng lực làm chủ công nghệ, năng lực cải tiến – nâng cấp công
nghệ, năng lực nghiên cứu – sáng tạo công nghệ mới. Các yếu tố bên ngoài bao
gồm: Quan hệ liên kết, khung pháp lý. Trong đó, các yếu tố năng lực cải tiến – nâng
cấp công nghệ, năng lực nghiên cứu – sáng tạo công nghệ mới đƣợc tác giả tập
trung nghiên cứu, đánh giá. Bởi lẽ, hai yếu tố này mang vai trò quan trọng và chiếm
tỉ trọng cao trong việc đánh giá năng lực đổi mới của doanh nghiệp.
2.3.1. Năng lực cải tiến – nâng cấp
- Lý do của cải tiến – nâng cấp:
Khảo sát về trải nghiệm và dự định tiếp tục cải tiến – nâng cấp công nghệ
của các doanh nghiệp, CIEM[10] đã khu trú các lý do chính để các doanh nghiệp có
ý kiến là: công suất thấp, năng suất thấp, cải tiến chất lƣợng, đa dạng hóa sản xuất,
công nghệ lạc hậu và yêu cầu pháp lý.
Kết quả thu thập ý kiến phản hồi của doanh nghiệp (Hình 5) đã cho thấy,
động cơ chính để các doanh nghiệp thực hiện cải tiến – nâng cấp công nghệ là để
cải tiến chất lƣợng sản phẩm. Dù nhiều doanh nghiệp đã có thành công hay thất bại
trong quá khứ với các nỗ lực hiệu chỉnh công nghệ để nâng cao chất lƣợng sản
phẩm nhƣng trong tƣơng lai họ (40% doanh nghiệp) vẫn tiếp tục theo đuổi mục tiêu
31
này dựa trên các cải tiến về công nghệ hiện có. Sự chú trọng vƣợt trội vào việc nâng
cao chất lƣợng sản phẩm, thay vì vào nâng cao công suất, năng suất hay đa dạng
hóa sản phẩm và nâng cấp công nghệ lạc hậu cũng đồng thời cho thấy, có thể do
nguồn lực tài chính còn hạn chế, chất lƣợng nguồn nhân lực còn chƣa cao nên việc
thúc đẩy cải tiến về năng suất hay công suất là công việc khó khăn và cần thời gian
hơn là tập trung vào cải tiến chất lƣợng, đáp ứng ngay các nhu cầu thị trƣờng để có
nguồn thu cho quay vòng sản xuất. Trên phƣơng diện khác, sự kém quan tâm đến đa
dạng hóa sản xuất phản ánh phần nào vị thế khiêm tốn của các doanh nghiệp trên thị
trƣờng trong nƣớc hay nƣớc ngoài nên việc tăng thêm các sản phẩm, hàng hóa mới
sẽ ít mang lại lợi ích, do khó cạnh tranh, cho doanh nghiệp trong thời gian trƣớc
mắt. Ngoài ra, các nỗ lực để nâng cấp công nghệ lạc hậu đối với các doanh nghiệp
có thể là quá sức do khả năng khai thác tri thức công nghệ mới còn yếu, chất lƣợng,
trình độ nhân lực còn thấp và đặc biệt, có thể do tầm nhìn của doanh nghiệp, phần
nhiều là ở quy mô nhỏ và vừa còn chƣa đủ rộng để kiến tạo đƣợc lộ trình phát triển
lâu dài cho doanh nghiệp dựa trên ƣu thế về công nghệ.
Hình 5: Lý do thực hiện cải tiến, nâng cấp công nghệ của doanh nghiệp(%)
Nguồn: Kết quả điều tra của CIEM
- Vốn cho cải tiến, nâng cấp:
Bên cạnh các hạn chế về chất lƣợng nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động
khoa học và công nghệ để cải tiến, nâng cấp công nghệ trong doanh nghiệp, yếu tố
về nguồn vốn huy động cho các hoạt động này cũng thực sự rất quan trọng.
32
Kết quả phản ánh của doanh nghiệp (Hình 2) về các nỗ lực huy động nguồn
vốn để thực hiện cải tiến, nâng cấp công nghệ trong quá khứ (cả thành công và thất
bại) cũng nhƣ kỳ vọng tìm kiếm nguồn vốn để thực hiện trong tƣơng lai cho thấy
tác động của các chính sách và nguồn lực đầu tƣ của nhà nƣớc tới các nỗ lực của
doanh nghiệp là rất thấp. Với các nỗ lực thực hiện cải tiến công nghệ trong quá khứ,
trên 77% các doanh nghiệp đã sử dụng vốn tự có của doanh nghiệp, một phần nhỏ là
dựa vào vốn vay tín dụng (13%-21%) hoặc liên doanh.
Ngay cả khi đề cập đến các dự định thực hiện cải tiến trong tƣơng lai, các
doanh nghiệp vẫn đặt nhiều kỳ vọng vào nguồn tự có của doanh nghiệp (55,4% ý
kiến) và vốn tín dụng (40% ý kiến) hơn là khai thác các kênh hỗ trợ từ ngân sách
nhà nƣớc (0,9%).
Hình 6: Nguồn vốn đƣợc huy động cho cải tiến, nâng cấp (đơn vị %)
Nguồn: Kết quả điều tra CIEM
- Chuyển giao – tiếp nhận công nghệ:
+ Mức độ tiếp nhận công nghệ
Khả năng vận hành sản xuất của doanh nghiệp chịu ảnh hƣởng nhiều từ công
nghệ - thiết bị đƣợc tiếp nhận sử dụng ở mức độ nào. Phản ánh của doanh nghiệp
trong ngành công nghiệp chế tạo, chế biến cho thấy đa phần các doanh nghiệp tiếp
nhận các máy móc, thiết bị hoàn chỉnh, trung bình chiếm khoảng 50% tổng số
doanh nghiệp đƣợc khảo sát (thông qua nhập khẩu hoặc chuyển giao trong nƣớc).
33
Bảng 1: Mức độ công nghệ đƣợc tiếp nhận trong các doanh nghiệp
Tỷ lệ doanh nghiệp (%)
Mức độ công nghệ TB HC- CBTP CS-PL KLĐ ĐT-TBĐ TP-D SPHC
Máy móc thiết bị của CN hoàn 53.0 49.7 41.6 49.1 51.0 54.3 49.8 chỉnh trong nƣớc
Máy móc của CN hoàn chỉnh 57.0 31.7 40.6 34.4 69.0 86.8 53.3 ngoài nƣớc
Phần mềm của CN hoàn chỉnh 29.0 13.2 9.6 9.1 26.5 25.1 18.8 trong nƣớc
Phần mềm của CN hoàn chỉnh 19.4 4.7 8.2 7.4 78.4 24.7 23.8 ngoài nƣớc
Thực hiện chuyển giao từ 7.5 48.3 0 40.6 20.6 3.7 20.1 phòng thí nghiệm trong nƣớc
Thực hiện chuyển giao từ 4.5 11.6 16.7 27.5 44.1 2.2 17.8 phòng thí nghiệm ngoài nƣớc
Mua sáng chế trong nƣớc 5.2 38.3 60.0 21.6 4.9 2.3 22.1
Mua sáng chế ngoài nƣớc 6.7 1.6 23.3 9.8 19.6 1.8 10.5
Nguồn: Kết quả điều tra của VCCI 2016. Phạm Thị Thu Hằng
Ghi chú: CBTP: Chế biến thực phẩm; HC-SPHC: Hóa chất và sản phẩm hóa chất;
CS-PL: Sản phẩm từ cao su và Plastic; KLĐ: Kim loại đúc sẵn; ĐT-TBĐ: Sản
phẩm điện tử, máy tính, thiết bị điện; TP-D: Sản phẩm trang phục – da
Số liệu trên cho thấy một thực tế là nhu cầu cấp bách của doanh nghiệp hiện
nay là có ngay máy móc thiết bị để phục vụ sản xuất cấp thiết hơn là việc tiếp thu
các tri thức công nghệ mang tính hệ thống, logic để tiến tới có thể phát triển, sáng
tạo đƣợc các công nghệ hay sản phẩm mới. Điều này đƣợc thể hiện ở mức độ quan
tâm của doanh nghiệp chỉ chiếm 10-20% khi đề cập đến tiếp cận phần mềm của
34
công nghệ hay khai thác các kết quả nghiên cứu khoa học hoặc sáng chế ở trong
nƣớc và nƣớc ngoài (Bảng 1).
+ Nguồn công nghệ đang sử dụng
Kết quả điều tra các doanh nghiệp công nghiệp dƣới đây (Bảng 2) cho thấy
có tới 30% các doanh nghiệp hiện tại đang sử dụng công nghệ từ các nƣớc đang
phát triển. Dù cho năm sản xuất thiết bị - công nghệ trong khoảng 10 năm trở lại
đây nhƣng do có xuất xứ từ các nƣớc đang phát triển nên về cơ bản vẫn thuộc loại
lạc hậu trung bình khoảng 1-2 thế hệ so với các nƣớc phát triển. Mặt khác, số liệu
thống kê trung bình cũng cho thấy, nhiều doanh nghiệp vẫn sử dụng công nghệ có
nguồn gốc từ Trung Quốc (chiếm 22,1% phản hồi từ doanh nghiệp). Điều này phản
ánh ở mức độ nào đó về độ ổn định và bền vững của công nghệ cũng nhƣ sự phù
hợp về công nghệ Trung Quốc đối với các doanh nghiệp Việt Nam nếu nhƣ so với
công nghệ xuất xứ từ các nƣớc công nghiệp phát triển, dù có thể lạc hậu nhƣng có
thể tối ƣu hóa khả năng thƣơng mại hóa của sản phẩm, sản phẩm có sự phù hợp với
thị trƣờng Việt Nam.
Bảng 2: Nguồn gốc công nghệ đang sử dụng
Tỷ lệ doanh nghiệp (%) Nguồn công nghệ nhập TB HC- ĐT- khẩu CBTP CS-PL KLĐ TP-D SPHC TBĐ
Các nƣớc đang phát triển 9.0 7.3 7.2 10.2 6.9 5.5 7.7 (trƣớc năm 2005)
Các nƣớc đang phát triển 42.0 38.5 18.6 28.4 25.0 25.1 29.6 (sau năm 2005)
Trung Quốc (trƣớc năm 2.3 5.2 7.2 3.6 2.6 5.5 4.4 2005)
Trung Quốc (sau năm 14.3 22.9 26.8 24.4 16.4 27.9 22.1 2005)
Các nƣớc công nghiệp
phát triển (trƣớc năm 14.3 12.5 19.6 23.6 14.7 16.9 16.9
2005)
35
Các nƣớc công nghiệp 12.8 9.4 15.5 8.4 33.6 17.4 16.2 phát triển (sau năm 2005)
Khác 5.3 4.2 5.2 1.4 -- 1.8
Nguồn: Kết quả điều tra của VCCI 2016. Phạm Thị Thu Hằng 2
Ghi chú: CBTP: Chế biến thực phẩm; HC-SPHC: Hóa chất và sản phẩm hóa chất;
CS-PL: Sản phẩm từ cao su và Plastic; KLĐ: Kim loại đúc sẵn; ĐT-TBĐ: Sản
phẩm điện tử, máy tính, thiết bị điện; TP-D: Sản phẩm trang phục – da
2.3.2. Năng lực nghiên cứu – sáng tạo công nghệ mới
- Mức độ thực hiện hoạt động NC-TK trong doanh nghiệp:
+ Động lực khi thực hiện nghiên cứu của doanh nghiệp
Có lẽ do còn nhiều khó khăn, cản trở trong hoạt động sản xuất, tích lũy
nguồn lực. Cũng nhƣ là khả năng cạnh tranh trên thị trƣờng nên các doanh nghiệp
công nghiệp chƣa dành sự quan tâm đến hoạt động nghiên cứu – triển khai. Trong điều tra của CIEM3, chỉ có gần 900 doanh nghiệp, trong tổng số hơn 8.000 doanh
nghiệp đƣợc khảo sát, có phản hồi về hoạt động NC-TK trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Trong số ý kiến trả lời, các doanh nghiệp cũng chỉ đặt kỳ vọng khiêm
tốn đối với các kết quả mà hoạt động NC-TK đạt đƣợc là tạo ra sản phẩm, quy trình
có tính mới với doanh nghiệp (chiếm 43,7%) và mới với thị trƣờng trong nƣớc
(54,4%). Chỉ có 1,8% doanh nghiệp là đặt mục tiêu đạt đƣợc kết quả có tính mới so
với thế giới.
2 Phạm Thị Thu Hằng (2016), Báo cáo về nhu cầu cập nhật thông tin công nghệ mới trong doanh nghiệp, VCCI. 3 CIEM (2013), Năng lực cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp tại Việt Nam: Kết quả điều tra năm 2012, NXB Lao động xã hội, Hà Nội. 36
Hình 7: Kết quả kỳ vọng khi thực hiện hoạt động NC-TK (% doanh nghiệp)
Nguồn: Kết quả điều tra của CIEM4
+ Nguồn vốn sử dụng cho hoạt động nghiên cứu
Đối với nguồn vốn sử dụng cho hoạt động NC-TK, cũng tƣơng tự nhƣ việc
thực hiện nghiên cứu – nâng cấp công nghệ hiện có, các doanh nghiệp thƣờng phải
tự cân đối nguồn vốn tự có. Kết quả điều tra cho thấy có tới 84,3% doanh nghiệp sử
dụng vốn tự có, 12,3% sử dụng nguồn vay tín dụng. Trong khi đó, nguồn vốn từ
nguồn ngân sách chỉ có 1,9%.
Hình 8: Nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng cho nghiên cứu (% doanh
nghiệp)
N
guồn: Kết quả điều tra của CIEM5
+ Mức độ chi cho hoạt động nghiên cứu của doanh nghiệp Thống kê năm 2013 của Cục Thông tin KH&CN6 quốc gia về mức độ chi
tiêu cho hoạt động NC&TK đã phản ánh rằng doanh nghiệp đã dành khoảng 4.000
tỷ cho nghiên cứu, trong đó, nhóm dệt may và giấy có nhiều đầu tƣ nhất, trung bình
khoảng 1.700 tỷ đồng. Tốp doanh nghiệp thứ hai là thiết bị điện và máy móc đạt
mức khoảng 600 tỷ. 4 CIEM (2013), Năng lực cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp tại Việt Nam: Kết quả điều tra năm 2012, NXB Lao động xã hội, Hà Nội. 5 CIEM (2013), Năng lực cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp tại Việt Nam: Kết quả điều tra năm 2012, NXB Lao động xã hội, Hà Nội. 6 Cục Thông tin KH&CN Quốc gia (2013), Số liệu thống kê về hoạt động KH&CN trong doanh nghiệp. Báo cáo Bộ KH&CN. 37
Bảng 3: Tổng chi của doanh nghiệp công nghiệp cho hoạt động nghiên cứu
Phân ngành công nghiệp chế biến , chế tạo
Chi cho NC&TK (triệu đồng) 165.030,0 17.028,3
Mã ngành cấp 2 10 11 12 13 14 15 847.196,6 212.330,7 1.451,4
16
886.246,6 14.858,4 0.0 52.914,3
17 18 19 20 21 22 23 24 188.334,7 232.462,5 515,5
25 37.179,9
26 153.808,5
27 28 29 30 31 32 Sản xuất chế biến thực phẩm Sản xuất đồ uống Sản xuất sản phẩm thuốc lá Dệt Sản xuất trang phục Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giƣờng, tủ, bàn, ghế); sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy In, sao chép bản ghi các loại Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế Sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất Sản xuất thuốc, hoá dƣợc và dƣợc liệu Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác Sản xuất kim loại Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học Sản xuất thiết bị điện Sản xuất máy móc, thiết bị chƣa đƣợc phân vào đâu Sản xuất xe có động cơ Sản xuất phƣơng tiện vận tải khác Sản xuất giƣờng, tủ, bàn, ghế Công nghiệp chế biến, chế tạo khác
320.149,0 288.500,1 163.806,2 164.050,4 169.455,5 124.428,1 4.039.746,7 Nguồn: Cục Thông tin KH&CN Quốc gia
38
CHƢƠNG 3. LUẬN ĐIỂM VỀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐỔI MỚI
CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƢ
3.1. Thách thức của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay trong việc nâng cao năng
lực đổi mới
3.1.1. Năng lực cạnh tranh
Năng lực ứng dụng công nghệ mới đo lƣờng khả năng mà một nền kinh tế
có thể nhanh chóng áp dụng công nghệ tiên tiến trên thế giới nhằm nâng cao năng
suất của các ngành công nghiệp, chủ yếu nhấn mạnh đặc biệt về khả năng thực hiện
đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp trong nƣớc, cho dù các công nghệ đƣợc sử
dụng này có thể không phải đƣợc phát triển trong nƣớc. Nguyên nhân là do các
doanh nghiệp trong nƣớc tại Việt Nam có ít cơ hội tiếp cận với các công nghệ tiên
tiến cũng nhƣ khả năng hấp thụ và sử dụng chúng kém nhất trong số các nƣớc đƣợc
so sánh.
Hình 9: Năng lực ứng dụng công nghệ mới - các chỉ số thành phần
Nguồn: Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu 2015-2016
Trong khi FDI thƣờng coi là đóng một nhân tố quan trọng, đặc biệt là cho
các nƣớc đang ở giai đoạn ít tiên tiến trong việc phát triển công nghệ, thúc đẩy các
39
hoạt động chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp địa phƣơng, thì ở Việt Nam
việc chuyển giao công nghệ thông qua FDI khá mờ nhạt, chỉ nhỉnh hơn Ấn Độ
trong số các quốc gia đƣợc so sánh. Trong khi Việt Nam tự hào là quốc gia hấp dẫn
dòng vốn FDI (đặc biệt là trong ngành điện tử trong vài năm gần đây, với hàng chục
tỷ đô la đầu tƣ từ các tập đoàn đa quốc gia nhƣ Samsung, Intel, LG, Microsoft).
Theo Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu năm 2015-2016, tăng cƣờng khả năng
cạnh tranh trong nƣớc là cách để nâng cao năng suất và khai thác các nguồn lực cho
đổi mới và tăng trƣởng. Blundell (et al. 1999) chỉ ra rằng tại những ngành công
nghiệp mà cạnh tranh càng khốc liệt sẽ kích thích càng nhiều các hoạt động đổi
mới, và các công ty có thị phần cao có xu hƣớng thực hiện các hoạt động sáng chế
mạnh hơn cả. Việt Nam đã trở thành thành viên đầy đủ của WTO từ năm 2007, và
tham gia Cộng đồng kinh tế châu Á kể từ cuối năm 2015. Việc hội nhập sâu này sẽ
mở ra cơ hội cạnh tranh quốc tế cho thị trƣờng trong nƣớc và từ đó cho phép thị
trƣờng lựa chọn ra những doanh nghiệp tốt nhất. Ở mức xếp hạng tƣơng đối, Việt
Nam có mức độ cạnh tranh trong nƣớc cao hơn so với Philippines và Ấn Độ, nhƣng
lại thấp hơn so với các nƣớc khác, bao gồm cả Trung Quốc.
40
Hình 10: Cạnh tranh - các chỉ số thành phần
Nguồn: Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu 2015-2016
Sự cạnh tranh tƣơng đối thấp của thị trƣờng trong nƣớc là do chính sách
chống độc quyền của Việt Nam ít hiệu quả. Sự thống trị của doanh nghiệp nhà nƣớc
trong nhiều ngành kinh tế trọng điểm nhƣ mua bán cung cấp điện và khí đốt, viễn
thông, ngân hàng, bảo hiểm và thăm dò khoáng sản (bao gồm thăm dò dầu khí),
cũng nhƣ việc cấp phép quyền đƣợc nhập khẩu và xuất khẩu một số hàng hóa (nhƣ
gạo và ô tô) cho một số ít các doanh nghiệp là những yếu tố làm suy giảm mức độ
cạnh tranh của thị trƣờng trong nƣớc Việt Nam
Trong bối cảnh Việt Nam đang mở cửa và cũng dần hội nhập về khoa học
công nghệ thì các doanh nghiệp cũng đánh giá khả năng hội nhập và cạnh tranh của
mình. Trên thực tế các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, khả năng tự đổi mới hạn chế trong khi Nhà nƣớc chƣa có cơ chế, chính sách
hiệu quả. Sự gắn kết giữa viện nghiên cứu, trƣờng đại học và doanh nghiệp còn hạn
chế. Mặt khác, việc thực thi Luật Sở hữu trí tuệ tại nhiều địa phƣơng chƣa nghiêm
túc, tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn diễn ra tại nhiều nơi. Điều này cũng
41
làm hạn chế việc thu hút đầu tƣ cho R&D tại Việt Nam. Hơn nữa, Luật KH&CN
đƣa ra quy định mới về doanh nghiệp KH&CN chƣa phù hợp nhƣ đã phân tích,
trong khi chƣa ban hành văn bản hƣớng dẫn thi hành, vô tình hình thành nên một
rào cản mới đối với việc hình thành và phát triển doanh nghiệp KH&CN trong thời
điểm hiện nay.
Các doanh nghiệp thƣờng nhận thức đƣợc những sự đổi mới, cải tiến có thể
thực hiện ở công ty của họ nhƣng thƣờng thiếu khả năng và nguồn lực để đầu tƣ vào
những lĩnh vực cần thiết phải đổi mới công nghệ, ví dụ nhƣ hiện đại hóa máy móc,
trang thiết bị. Mặc dù vậy, để có thể đạt đƣợc sự tăng trƣởng lâu dài và bền vững,
sáng tạo để tăng trƣởng là thiết yếu. Đối với Việt Nam, những lợi ích kinh tế thu
đƣợc từ sau công cuộc Đổi Mới cần phải đƣợc duy trì bằng việc cải tiến công nghệ,
chứ không phải tăng trƣởng nhờ các nhân tố cơ bản (vốn, lao động) hay đầu tƣ, để
đảm bảo tăng trƣởng dẫn đến mức sống đƣợc nâng cao. Điều này đặc biệt quan
trọng đối với ngƣời nghèo ở nông thôn và thành thị. Do vậy, tìm hiểu kỹ về những
khó khăn, trở ngại mà doanh nghiệp gặp phải trong hoạt động kinh doanh là rất cần
thiết.
Hình 11: Đánh giá về những khó khăn trong quá trình hoạt động
của doanh nghiệp
42
Nguồn: Bộ KH&CN, 2015, Nghiên cứu kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động
chuyển giao công nghệ của Australia, đề xuất mô hình tổ chức và hoạt động CGCN
phù hợp cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Ở Việt Nam dƣờng nhƣ các doanh nghiệp đầu tƣ vào R&D chủ yếu nhằm
phát triển các công nghệ đã có sẵn ở nơi khác. Do xác suất thất bại cao của R&D và
chi phí tốn kém, có thể sẽ có lợi hơn cho các doanh nghiệp khi tiếp nhận và điều
chỉnh công nghệ sẵn có thay vì đầu tƣ vào R&D. Điều chỉnh công nghệ cũng có thể
mang lại nhiều lợi ích hơn là nhận chuyển giao, do doanh nghiệp có thể tìm công
nghệ phù hợp với điều kiện của mình, trong khi nhận chuyển giao bị giới hạn bởi
trình độ công nghệ của doanh nghiệp chuyển giao và việc chuyển giao có thể còn
không xảy ra. Do năng suất tăng lên nhờ điều chỉnh công nghệ, các chính sách để
thúc đẩy loại hình đầu tƣ này cần đƣợc xem xét nghiêm túc và nên bao gồm việc gỡ
khó cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam bị đánh giá là còn yếu ở các chỉ
số thuộc nhóm đầu vào của đổi mới, nhƣ môi trƣờng kinh doanh, xếp hạng các
trƣờng đại học, việc làm thâm dụng tri thức, tỷ lệ lao động nữ có trình độ, số lƣợng
đăng ký sáng chế quốc tế theo hệ thống Hiệp ƣớc hợp tác sáng chế (PCT),
xuất/nhập khẩu dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông (ICT).
3.1.2. Thách thức về tài chính
Hàng năm, Việt Nam đầu tƣ cho KH&CN là 2% tổng chi ngân sách, tƣơng
đƣơng 0,5% GDP, nhƣng hầu hết lại đƣợc phân chia cho các viện nghiên cứu, công
ty, xí nghiệp do Nhà nƣớc quản lý, trong đó, nhiều đơn vị sử dụng lãng phí, không
hiệu quả, thậm chí không sử dụng tốt. Với các công ty cổ phần (vốn nhà nƣớc dƣới
50%), doanh nghiệp tƣ nhân lại không đƣợc cấp kinh phí nghiên cứu, áp dụng
KH&CN mới.
43
Xét về tổng thể đầu tƣ tài chính dành cho doanh nghiệp khoa học công
nghệ có thể khái quát nhƣ hình sau:
Hình 12: Nhu cầu các nguồn tài chính khác nhau trong vòng đời phát triển của
doanh nghiệp KH&CN
Trong giai đoạn đầu (giai đoạn ƣơm tạo và thành lập doanh nghiệp), mức
độ rủi ro cao thì kênh tài chính thích hợp là từ các sáng lạp viên, gia đình và bạn bè,
nhà bảo trợ kinh doanh và nhà đầu tƣ mạo hiển. Trong giai đoạn tăng trƣởng sớm,
khi mức độ rủi ro đã giảm bớt thì kênh tài chính từ các loại quỹ đầu tƣ và các
chƣơng tình có hỗ trợ tài chính là phù hợp. Trong giai đoạn cuối cùng là phát triển
và mở rộng, lúc này mức độ rủi ro thấp hơn các giai đoạn khác thì kênh tài chính
doanh nghiệp lựa chọn hàng đầu là từ các ngân hàng thƣơng mại, nhà đầu tƣ tƣ
nhân thông thƣờng.
Kênh cung ứng vốn cho khu vực tƣ nhân bao gồm nguồn chính thức và phi
chính thức. Nguồn chính thức chủ yếu gồm: (i) vốn Nhà nƣớc (dạng tín dụng đƣợc
Chính phủ bảo lãnh hoặc vốn ODA) - nguồn vốn này rất ít hoặc hầu nhƣ không có;
nếu có, chủ yếu dƣới dạng quỹ hỗ trợ doanh nghiệp, quỹ bảo lãnh); (ii) vốn tự có;
(iii) vốn vay (từ các định chế tài chính hoặc từ thị trƣờng vốn bằng cách phát hành
trái phiếu); và (iv) nguồn vốn khác nhƣ tín dụng nhà cung cấp, tín dụng thƣơng mại,
v.v... Nguồn vốn phi chính thức chủ yếu vay từ gia đình, bạn bè, ngƣời thân, và tín
dụng đen.
44
Hình 13: Nguồn vốn dành cho nghiên cứu (tỷ lệ %)
Nguồn: Bộ KH&CN, 2015, Nghiên cứu kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động
chuyển giao công nghệ của Australia, đề xuất mô hình tổ chức và hoạt động CGCN
phù hợp cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Có thể thấy chi phí dành cho nghiên cứu mới chủ yếu từ vốn chủ sở hữu
(86.2%), trong khi đó hỗ trợ từ vốn ngân sách nhà nƣớc cho nghiên cứu công nghệ
mới rất hạn chế (3.1%). Nhìn chung, mặc dù R&D có vai trò quan trọng đối với
việc tiếp tục cải tiến và các tiến bộ công nghệ, những lan tỏa tích cực và cải tiến
những công nghệ đã có sẵn sẽ có ích hơn đối với tăng năng suất tại một nền kinh tế
đang nổi nhƣ Việt Nam, trong ngắn hạn, cơ chế này nên đƣợc ƣu tiên hơn thay vì
đầu tƣ vào nghiên cứu và triển khai công nghệ nguồn.
Doanh nghiệp có thể đầu tƣ vào các hoạt động nghiên cứu và triển khai
mới hoặc có cải tiến; một cách tiếp cận dựa trên việc nghiên cứu và triển khai
những công nghệ chƣa có trên thị trƣờng. Nói một cách khác, doanh nghiệp có thể
tiến hành cải tiến dựa trên sự khuếch tán, chú trọng tới cải tiến những công nghệ có
sẵn, sử dụng kiến thức và kỹ thuật đã đƣợc phát triển, nhƣng lại mới mẻ với doanh
nghiệp. Nghiên cứu và triển khai (R&D) đƣợc xem là chỉ số quan trọng về khả năng
đổi mới và trình độ công nghệ. Tuy nhiên, bằng chứng về hiệu quả của R&D đối
với một nƣớc đang phát triển hoặc một nền kinh tế đang nổi lại khá mâu thuẫn. Các
dự án R&D đã đƣợc minh chứng là rủi ro, chi phí cao và đòi hỏi nhiều nguồn lực
vật chất và con ngƣời. Do các nền kinh tế đang nổi thƣờng có khoảng cách khá xa
45
so với các công nghệ hàng đầu, doanh nghiệp vẫn có thể cải thiện năng suất khi đầu
tƣ vào các công nghệ đã có để nâng cao hiệu quả hoạt động hiện nay của doanh
nghiệp.
Hình 14: Tỷ lệ doanh nghiệp nhận vốn đầu tƣ mạo hiểm theo quy mô (tỷ lệ %)
Nguồn: Bộ KH&CN, 2015, Nghiên cứu kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động
chuyển giao công nghệ của Australia, đề xuất mô hình tổ chức và hoạt động CGCN
phù hợp cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Theo biểu đồ, chúng ta có thể thấy trên 80% các doanh nghiệp không nhận
đƣợc vốn đầu tƣ mạo hiểm. Trong đó hầu hết các doanh nghiệp nhỏ không nhận
đƣợc vốn đầu tƣ nhiều nhất với 82.7%. Và nhóm doanh nghiệp lớn là nhóm nhận
đƣợc vốn nhiều nhất trong 3 nhóm doanh nghiệp với 18.9%.
Xem xét khía cạnh thị trƣờng vốn mạo hiểm, thì tuy hiện tại số quỹ đầu tƣ
đang hoạt động tại Việt Nam khá nhiều khoảng 56 quỹ, và phân loại theo hình thức
đầu tƣ: Đầu tƣ chủ yếu vào cổ phần tƣ nhân:3 quỹ; đầu tƣ công nghệ cao và đầu tƣ
mạo hiểm: 3 quỹ (Mekong Capital, IDGVV- IDG Venture VietNam, VinaCapital);
Đầu tƣ vào bất động sản: 7 quỹ. Đầu tƣ vào cổ phiếu niêm yết, các công ty cổ phần
và các khoản đầu tƣ cơ hội: 43 quỹ. Nhƣ vậy, tuy có khá nhiều quỹ đầu tƣ đang hoạt
động tại Việt Nam nhƣng các quỹ mang tính chất đầu tƣ vốn mạo hiểm thì chiếm tỷ
46
trọng rất thấp (3/56 quỹ). Cần phải thừa nhận rằng, hầu hết nguồn vốn đầu tƣ mạo
hiểm tại nƣớc ta chƣa thực sự hoạt động với đầy đủ chức năng vốn có của nó.
Thực tế, các doanh nghiệp thì rất ít khi mạo hiểm chấp nhận các kết quả
còn cần phải hoàn thiện thêm do tính chất may rủi đối với hoạt động sản xuất-kinh
doanh của họ. Nhƣ vậy các kết quả nghiên cứu này cần thêm một giai đoạn sản xuất
thử nghiệm để hoàn chỉnh công nghệ trong điều kiện thực tế, thông qua đó hoàn
chỉnh các dây chuyền thiết bị nhằm ổn định quá trình sản xuất, độ tin cậy của từng
thiết bị, cũng nhƣ của cả dây chuyền, đồng thời tạo cơ sở cho việc đào tạo nhân lực
cho công nghệ sản xuất đƣợc chuyển giao. Nhƣ vậy, rõ ràng sau nghiên cứu từ
phòng thí nghiêm cần một công đoạn trung gian nhƣ vừa trình bày để hoàn chỉnh
công nghệ và đánh giá các mặt kinh tế-kỹ thuật của công nghệ đó. Để làm việc đó
cần phải có nguồn vốn tài trợ dƣới dạng các quỹ đầu tƣ mạo hiểm hay ƣơm tạo công
nghệ, cũng nhƣ các tổ chức nghiên cứu triển khai dƣới dạng Trung tâm hay Công ty
khoa học kỹ thuật hoạt động không vì mục đích lợi nhuận.
Hệ thống tài chính không chính thức chƣa đƣợc kiểm soát chặt chẽ. Tài
chính không chính thức tại Việt Nam xuất phát từ các nguồn vốn nhƣ vay mƣợn từ
gia đình, bà con, bạn bè, tín dụng đen, họ (hụi, phƣờng), vốn chiếm dụng từ nhà
cung cấp, cửa hàng cầm đồ…v.v. Nghiên cứu của CIEM (2014) cho thấy cơ cấu
nguồn vốn kinh doanh của các DNNVV năm 2014 có sự chuyển biến với 34,5% là
vốn chủ sở hữu, 51,8% là vay ngân hàng và các nguồn tín dụng chính thức, 13,7%
vay từ nguồn tín dụng phi chính thức.
3.1.3. Thách thức về nguồn nhân lực
Vốn con ngƣời hay vốn nhân lực đóng vai trò chủ yếu trong phát triển kinh
tế Vốn nhân lực đƣợc thể hiện ở trình độ giáo dục, sức khỏe và các kỹ năng mềm
trong công việc và học tập. Cùng với quá trình phát triển, vốn nhân lực của một
quốc gia đƣợc cải thiện, và sự cải thiện của vốn nhân lực là tăng năng suất và thúc
đẩy phát triển kinh tế. Mặc dù vậy, năng suất lao động của Việt Nam thấp và chậm
đƣợc cải thiện. Hiện nay khoảng cách chênh lệch giữa năng suất lao động của Việt
Nam với hầu hết các nƣớc khu vực ASEAN và Trung Quốc vẫn còn khá lớn. Đánh
giá tình hình phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2001-2010, Đại hội Đảng lần thứ XI
(2011) đã nêu rõ: ―Thể chế kinh tế thị trƣờng, chất lƣợng nguồn nhân lực, kết cấu
hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển‖. Từ đó, Đại hội đã xác định
47
ba đột phá chiến lƣợc giai đoạn 2011-2020 là:―(1) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trƣờng định hƣớng XHCN, trọng tâm là tạo lập môi trƣờng cạnh tranh bình đẳng và
cải cách hành chính; (2) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lƣợng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc
dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa
học, công nghệ; (3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công
trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn‖.
Theo đánh giá của các chuyên gia, xu thế hội nhập sẽ kéo theo tính cạnh
tranh trong thị trƣờng nhân lực sẽ rất cao, trong khi mức độ sẵn sàng của giáo dục
nghề nghiệp Việt Nam còn chậm. Cạnh tranh giữa nƣớc ta với các nƣớc trên thế
giới trong việc cung cấp nguồn lao động chất lƣợng cao ngày càng tăng đòi hỏi chất
lƣợng giáo dục nghề nghiệp phải đƣợc cải thiện đáng kể theo hƣớng tiếp cận đƣợc
các chuẩn của khu vực và thế giới nhằm tăng cƣờng khả năng công nhận văn bằng
chứng chỉ giữa Việt Nam và các nƣớc khác.
Không những thế, Việt Nam sẽ phải đối mặt với vấn đề già hóa dân số sẽ
làm cho lợi thế lực lƣợng lao động trẻ mất dần đi theo thời gian. Một vấn đề khác là
nền kinh tế sẽ chịu ảnh hƣởng nặng nề từ hiện tƣợng biến đổi khí hậu khiến một số
ngành suy giảm mạnh và lợi thế cạnh tranh.
Ngoài ra, chất lƣợng nguồn nhân lực lao động Việt Nam hiện nay còn
nhiều hạn chế. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo còn thấp, thiếu hụt lao
động có tay nghề cao vẫn chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của thị trƣờng lao động và
hội nhập; Khoảng cách giữa giáo dục nghề nghiệp và nhu cầu của thị trƣờng lao
động ngày càng lớn. Đồng thời, sự chuyển dịch mô hình, cơ cấu kinh tế khiến cho
cung và cầu trong lao động thay đổi, trong khi các ngành đào tạo trong nhà trƣờng
chƣa bắt kịp đƣợc xu thế sử dụng lao động của doanh nghiệp.
Khảo sát cho thấy, khả năng hòa nhập của học sinh, sinh viên Việt Nam
sau tốt nghiệp trong môi trƣờng lao động mới; Khả năng thích ứng với thay đổi, kỹ
năng thực hành và ý thức, tác phong làm việc cũng là những thách thức không nhỏ
đối với lao động Việt Nam.
Không chỉ có vai trò quan trọng đối với tăng trƣởng kinh tế, nguồn nhân
lực cho phát triển KH&CN có chất lƣợng cao còn có ý nghĩa trong việc giải quyết
các vấn đề xã hội, nhƣ bất bình đẳng, đói nghèo, các vấn đề về môi trƣờng và sự
48
tiến bộ về mọi mặt của xã hội. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, khi mà sự cạnh
tranh diễn ra ngày càng gay gắt, nguồn nhân lực đóng vai trò ngày càng quan trọng.
Đặc biệt, trong bối cảnh khả năng phát triển kinh tế theo chiều rộng đã tới mức trần,
Việt Nam đứng trƣớc đòi hỏi phải bằng mọi cách chuyển từ lợi thế so sánh dựa trên
lao động giá rẻ và nhờ cậy vào tài nguyên, môi trƣờng, sáng tạo ra lợi thế cạnh tranh
chủ yếu dựa trên phát huy nguồn lực con ngƣời, nguồn nhân sự chất lƣợng cao, nắm
vững KH&CN.
Hình 15: Tỷ lệ phần trăm nhân sự theo nhiệm vụ trong hoạt động KH&CN của
doanh nghiệp phân theo quy mô doanh nghiệp (tỷ lệ %)
Nguồn: Bộ KH&CN, 2015, Nghiên cứu kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động
chuyển giao công nghệ của Australia, đề xuất mô hình tổ chức và hoạt động CGCN
phù hợp cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Nhƣng đến nay, Đảng và Nhà nƣớc luôn đƣa ra các chủ trƣơng, chính sách
tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, nhƣ Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày
16/5/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; Nghị quyết số
19/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trƣờng kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia... nhằm mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam
đạt điểm số trung bình của nhóm nƣớc ASEAN 4 trên các nhóm chỉ tiêu về năng lực
cạnh tranh (theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới); các chỉ số đổi mới (theo
49
đánh giá của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO) đạt trung bình của nhóm
ASEAN...
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp vẫn hoạt động trong các lĩnh vực dựa vào lao
động giá rẻ và sản xuất gia công. Trong khi đó, trình độ của ngƣời lao động nói
riêng và nguồn nhân lực nói chung của Việt Nam đƣợc đánh giá là còn lạc hậu,
chƣa đáp ứng đƣợc đòi hỏi và yêu cầu của việc áp dụng thành tựu của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tƣ, hoàn toàn có thể dẫn đến nguy cơ mất việc vì các rô-
bốt tự động hóa. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì 86% số ngƣời lao động
trong ngành dệt may và 75% số ngƣời lao động trong ngành điện, điện tử có thể
phải đối mặt với nguy cơ mất việc làm cao do tự động hóa. Còn theo Ngân hàng
Thế giới (WB) thì chất lƣợng nhân lực của Việt Nam hiện đạt 3,79/10 điểm, phần
lớn đều thiếu kỹ năng mềm nhƣ ngoại ngữ, công nghệ thông tin, kỹ năng làm việc
nhóm, giao tiếp, tác phong công nghiệp... Bên cạnh đó, hiện nay hoạt động sản xuất
thế giới đang có xu hƣớng chuyển dịch dần từ nƣớc có nhiều lao động phổ thông,
lao động giá rẻ sang nơi có nhiều lao động kỹ năng, chuyên môn cao và gần thị
trƣờng tiêu thụ.
Nếu vốn nhân lực chất lƣợng thấp và sự thiếu hụt lao động kỹ năng cao
đang là vấn đề lớn nhất với doanh nghiệp thì cần quan sát đƣợc bằng chứng cho
thấy doanh nghiệp đang phải chi trả rất lớn để giải quyết khó khăn này.
Các bằng chứng cho thấy nền kinh tế vẫn đang ở thời kỳ công nghiệp hóa
thâm dụng lao động kỹ năng thấp, giá rẻ và do đó chất lƣợng vốn nhân lực hiện tại
không những đáp ứng tốt nhu cầu của đại bộ phận doanh nghiệp mà còn đang bị sử
dụng lãng phí, dƣới tiềm năng do nền kinh tế không tạo đủ việc làm kỹ năng cao.
Cơ cấu việc làm thay đổi theo hƣớng giảm việc làm không có kỹ năng và việc làm
trong nông nghiệp, tuy nhiên tốc độ chuyển dịch còn rất chậm. 10 năm qua, tỷ lệ lao
động là nhà chuyên môn chỉ tăng từ 6,1% lên 9,4%.
3.1.4. Thách thức về chiến lƣợc phát triển kinh tế
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ thúc đẩy nền kinh
tế thế giới chuyển sang kinh tế tri thức - thông minh, các doanh nghiệp buộc phải
thay đổi chiến lƣợc phát triển từ khai thác tài nguyên sang dựa vào công nghệ, đổi
mới và sáng tạo cho phù hợp với xu thế chung của thế giới. Cách mạng công nghiệp
lần thứ tƣ đang cấu trúc lại bản đồ kinh tế trên thế giới theo hƣớng suy giảm quyền
50
lực của các quốc gia phát triển dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và các yếu tố
tăng trƣởng truyền thống, gia tăng sức mạnh của các quốc gia phát triển dựa chủ
yếu vào ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới là các động lực phát triển không
giới hạn. Trong khi đó, phần lớn doanh nghiệp có tiềm lực của Việt Nam hiện nay
hầu nhƣ đều dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên nhƣ dầu mỏ, than đá, khoáng
sản, rừng..., tập trung nhiều sức lao động chất lƣợng trung bình hoặc thấp là yếu tố
tăng trƣởng có giới hạn. Nếu không kịp thời thay đổi để thích ứng, các doanh
nghiệp sẽ lâm vào tình trạng tụt hậu, thậm chí có thể bị các doanh nghiệp trẻ khởi
nghiệp trong cùng lĩnh vực kinh doanh vƣợt qua nhƣ tình trạng của các doanh
nghiệp công nghệ IBM, Microsoft, Intel phải chật vật ứng phó và tìm mọi cách cơ
cấu lại trƣớc sự tăng trƣởng nhanh của Google, Facebook...
Trƣớc yêu cầu ngày càng cao của thị trƣờng, các doanh nghiệp Việt Nam
đã quan tâm đến chất lƣợng sản phẩm và xây dựng chiến lƣợc sản phẩm để đáp ứng
nhu cầu của khách hàng và thị trƣờng. Tuy nhiên các sản phẩm của doanh nghiệp
Việt Nam có hàm lƣợng tri thức và công nghệ thấp, chủ yếu dựa vào lợi thế lao
động (nhƣ gạo, thuỷ sản) hoặc điều kiện tự nhiên. Ngoài một số ít sản phẩm mang
đậm bản sắc tự nhiên và văn hóa nhƣ hàng thủ công mỹ nghệ, phần lớn các sản
phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam chƣa có tính độc đáo, luôn đi sau các nƣớc
khác về kiểu dáng, tính năng, giá trị gia tăng sản phẩm trong tổng giá trị của sản
phẩm thấp, năng suất lao động thấp, chất lƣợng sản phẩm chƣa đủ sức cạnh tranh
trên thị trƣờng thế giới. Việc xây dựng kế hoạch kinh doanh cũng nhƣ kế hoạch giá
thành của các doanh nghiệp Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào sự biến động giá cả
nguyên liệu nhập khẩu, tỷ giá hối đoái... do nguyên vật liệu nhập khẩu chiếm tỷ
trọng cao trong giá thành sản phẩm.
3.1.5. Thách thức về mô hình vận hành, quản trị
Các doanh nghiệp cần nhanh chóng thay đổi mô hình vận hành, quản trị để
tăng tính chủ động, tích cực để có thể tiếp tục giữ vai trò ―đầu tàu kinh tế‖ trong nền
kinh tế quốc dân cũng nhƣ cạnh tranh sòng phẳng, bình đẳng với các công ty, doanh
nghiệp nƣớc ngoài hoạt động kinh doanh tại Việt Nam và trong khu vực. Đối với
các doanh nghiệp Nhà nƣớc việc phân cấp trên dƣới, ngang dọc chƣa rõ ràng đã gây
ra tình trạng doanh nghiệp chịu nhiều cấp, nhiều ngành cùng quản lý, công tác thanh
tra, kiểm tra chồng chéo, gây phiền hà cho doanh nghiệp hoạt động. Cơ chế "bộ chủ
51
quản", "cấp chủ quản" đang gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Trong mỗi
doanh nghiệp Nhà nƣớc tổ chức quản lý còn quá cồng kềnh so với doanh nghiệp
ngoài Nhà nƣớc, nhiều ban, bệ, nhiều thủ tục hành chính rƣờm rà chƣa đƣợc sửa đổi
đã làm cho doanh nghiệp không thể năng động, linh hoạt, đáp ứng kịp thời yêu cầu
của thị trƣờng. Trình độ cán bộ quản lý thấp, hạn chế trong tiếp cận với những kiến
thức, phong cách quản lý hiện đại, đặc biệt kinh nghiệm giao dịch xuất nhập khẩu,
nghiên cứu tiếp cận với thị trƣờng thế giới của cán bộ còn thấp. Thiếu đội ngũ lao
động có trình độ chuyên môn cao. Biên chế bộ máy quản lý cũng nhƣ số lƣợng lao
động của doanh nghiệp Nhà nƣớc cao hơn so với doanh nghiệp ngoài Nhà nƣớc
cùng ngành nghề và quy mô.
3.1.6. Thách thức về môi trƣờng kinh doanh
Việt Nam đang trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, môi trƣờng kinh
doanh chƣa thực sự ổn định và hoàn thiện (theo Báo cáo về chỉ số cạnh tranh toàn
cầu thì Việt Nam đứng thứ 60/130 về năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2016 -
2017, đạt 4,36/10 điểm, đứng thứ 55/137 năm 2017 - 2018). Điều này hạn chế khả
năng ứng dụng, tiếp thu thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ đối
với các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế nhà nƣớc với đại diện tiêu biểu là
các doanh nghiệp.
Công tác nghiên cứu thị trƣờng còn hạn chế, nhiều thị trƣờng tiềm năng
chƣa đƣợc khai thác, nhiều doanh nghiệp đã phải chịu thua lỗ lớn và mất thị trƣờng
do không đi sâu vào nghiên cứu thị trƣờng. Chi phí thăm quan, khảo sát thị trƣờng
nƣớc ngoài rất hạn chế vì mỗi chuyến đi chi phí khá tốn kém, hiệu quả không cao.
Thêm nữa khả năng tìm kiếm, khai thác và xử lý thông tin của cán bộ còn yếu. Hoạt
động nghiên cứu thị trƣờng của các doanh nghiệp chƣa đƣợc tổ chức một cách khoa
học, còn nhiều hạn chế trong việc sử dụng công nghệ thông tin, công cụ toán học,
thống kê trong nghiên cứu thị trƣờng. Các thông tin sơ cấp về thị trƣờng không có
đủ chi phí để thu thập, dẫn đến tình trạng đa số các doanh nghiệp kinh doanh thụ
động chủ yếu dƣa vào kinh nghiệm của nhà quản lý.
Doanh nghiệp nhà nƣớc của Việt Nam đƣợc thành lập bằng các quyết định
hành chính xuất phát từ yêu cầu mở cửa hội nhập trên cơ sở sắp xếp các doanh
nghiệp nhỏ, manh mún thành những doanh nghiệp lớn để đủ khả năng cạnh tranh
với các doanh nghiệp nƣớc ngoài, tăng cƣờng vị trí của doanh nghiệp nhà nƣớc
52
trong việc bảo đảm vai trò chủ đạo, dẫn dắt doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế khác hoạt động theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, và các doanh nghiệp hoạt động
hiệu quả sẽ làm nòng cốt trong nền kinh tế quốc dân. Thực tế hoạt động của các
doanh nghiệp trong thời gian qua cho thấy đã có đóng góp tích cực vào ổn định kinh
tế vĩ mô, bảo đảm cân đối lớn của nền kinh tế, cơ bản thực hiện vai trò đầu tàu trong
nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất hiện nay là các hoạt động chƣa
hiệu quả so với nguồn lực sở hữu, chậm đổi mới và thích ứng với môi trƣờng kinh
doanh thay đổi nhanh chóng.
3.1.7. Thất bại thị trƣờng trong đổi mới
Các hoạt động đổi mới tại Việt Nam còn nhiều hạn chế do đa phần doanh
nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các tổ chức nghiên cứu khoa học
hoạt động không hiệu quả, thiếu mối liên kết giữa các trƣờng đại học, viện nghiên
cứu và các doanh nghiệp. Năng lực ứng dụng công nghệ mới của Việt Nam còn
thấp so các nƣớc trong khu vực do thiếu sự liên kết giữa khu vực kinh tế tƣ nhân và
khu vực kinh tế FDI dẫn đến việc chuyển giao công nghệ thông qua FDI khá mờ
nhạt. Việc thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ vẫn chƣa tốt và hiệu quả, dẫn đến
không khuyến khích các công ty đầu tƣ vào hoạt động R&D. Độc quyền và thiếu
cạnh tranh trong nƣớc do chính sách chống độc quyền không hiệu quả cũng làm
giảm hoạt động đổi mới của các doanh nghiệp. Các kiểm định và bằng chứng cho
thấy thất bại thị trƣờng là rào cản đối với các hoạt động đổi mới của các doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay đồng thời có thể là điểm nghẽn tăng trƣởng trong dài
hạn. Trong điều kiện này, Nhà nƣớc cần có thêm các cơ chế xây dựng một môi
trƣờng cạnh tranh trong nƣớc mạnh mẽ thông qua việc khuyến khích gia tăng số
lƣợng/chất lƣợng của các nhà cung cấp trong nƣớc, phát triển các cụm doanh
nghiệp, tăng cƣờng tham gia vào chuỗi giá trị, giảm bớt sự chi phối của khu vực
kinh tế nhà nƣớc trong những lĩnh vực có sự tham gia mạnh mẽ của khu vực kinh tế
tƣ nhân, giảm bớt sự thống trị thị trƣờng của các doanh nghiệp lớn, tăng cƣờng hiệu
quả thực thi của chính sách chống độc quyền. Xây dựng cơ chế tài chính khuyến
khích các hoạt động đổi mới nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tƣ vào nghiên
cứu phát triển, khuyến khích hơn nữa việc đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp
(Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, miễn thuế nhập khẩu công nghệ tiên tiến, miễn
thuế thu nhập cá nhân với lao động kỹ thuật cao…). Nâng cao chất lƣợng các viện
53
nghiên cứu, tập trung phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật cao trong các ngành mũi
nhọn. Xây dựng cơ chế hợp tác ―mạng lƣới đổi mới sáng tạo‖ (innovation system)
thông qua việc tăng cƣờng liên kết giữa doanh nghiệp - viện nghiên cứu - trƣờng đại
học, xây dựng chính sách khuyến khích sự liên kết giữa các nhà sản xuất trong nƣớc
và các doanh nghiệp FDI nhằm tăng cƣờng sự lan tỏa công nghệ và tăng cƣờng
năng lực thực thi trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Đối mặt với các thách thức nhƣ vậy, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn
trong quá trình thực hiện việc đánh giá năng lực đổi mới trƣớc khi thực hiện dự án
đổi mới công nghệ; trong khi đó việc đánh giá năng lực đổi mới đối với doanh
nghiệp là rất cần thiết. Nguyên nhân để không thực hiện đƣợc đánh giá năng lực đổi
mới trƣớc khi thực hiện dự án đổi mới công nghệ, nhƣ chƣa có phƣơng pháp, tiêu
chí, chƣa đƣợc hƣớng dẫn, nhƣng quan trọng nhất là chƣa có tiêu chí đánh giá. Bởi
vậy, việc sớm hoàn thiện một hệ tiêu chí đánh giá năng lực đổi mới cho doanh
nghiệp là hết sức cần thiết và là một vấn đề cấp bách cần sớm đƣợc thực hiện.
3.2. Một số nghiên cứu về đo lƣờng năng lực đổi mới và các yếu tố tác động đến
năng lực đổi mới của doanh nghiệp
3.2.1. Giới thiệu về Chỉ số Đổi mới toàn cầu
Chỉ số đổi mới toàn cầu (Global Innovation Index thƣờng đƣợc viết tắt là
GII) là một bộ công cụ đánh giá, xếp hạng năng lực đổi mới của các quốc gia hoặc
nền kinh tế, đƣợc Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) phối hợp với Trƣờng kinh
doanh INSEAD, Pháp và Đại học Cornell, Hoa Kỳ) xây dựng lần đầu tiên vào năm
2007 và liên tục hoàn thiện nhằm có đƣợc một bộ công cụ đo lƣờng hệ thống đổi
mới ở cấp quốc gia hoặc nền kinh tế. Bộ công cụ đo này đƣợc cho là tốt hơn, phong
phú và xác đáng hơn so với các thƣớc đo đổi mới truyền thống nhƣ số lƣợng các bài
báo nghiên cứu đƣợc công bố, số đăng ký bằng sáng chế hay chi tiêu cho R&D
(hoạt động nghiên cứu và triển khai).
Trong phƣơng pháp GII, đổi mới đƣợc hiểu theo nghĩa rộng (không chỉ là đổi
mới dựa trên hoạt động nghiên cứu và triển khai mà còn là những đổi mới không
dựa trên hoạt động nghiên cứu và triển khai và bao trùm cả đổi mới về tổ chức, các
sáng kiến cải tiến kỹ thuật của ngƣời dân … Cách tiếp cận này thể hiện quan điểm
năng lực đổi mới của mỗi quốc gia có liên hệ mật thiết với trình độ phát triển và
hiệu quả hoạt động của hệ thống đổi mới của quốc gia đó và sự kết nối với các quốc
54
gia/nền kinh tế khác. Với cách tiếp cận này, GII đƣợc tích hợp từ số đo (đƣợc quy
chuẩn) của 7 trụ cột lớn, mỗi trụ cột lớn đƣợc tích hợp từ số đo của 3 trụ cột nhỏ,
mỗi trụ cột nhỏ lại bao gồm từ 2 đến 5 chỉ số thành phần, tổng thể có khoảng 70 -
80 chỉ số, thay đổi tùy từng năm.
Có bốn chỉ số chính đƣợc tính toán, đo lƣờng gồm:
1) Chỉ số phụ về Đầu vào đổi mới: Năm trụ cột đầu vào phản ánh những yếu
tố trong nền kinh tế tạo điều kiện cho các hoạt động đổi mới, bao gồm (1) Thể chế,
(2) Nguồn nhân lực và nghiên cứu, (3) Cơ sở hạ tầng, (4) Mức độ phát triển của thị
trƣờng và (5) Mức độ phát triển kinh doanh.
2) Chỉ số phụ Đầu ra đổi mới: Đầu ra đổi mới là kết quả của các hoạt động
đổi mới trong một nền kinh tế. Đầu ra của đổi mới có hai trụ cột chính là: (6) Sản
phẩm tri thức và công nghệ và (7) Sản phẩm sáng tạo.
3) Chỉ số đổi mới tổng hợp là trung bình cộng đơn giản của Chỉ số Đầu vào
và Chỉ số Đầu ra.
4) Tỷ lệ Hiệu quả đổi mới là tỷ lệ giữa Chỉ số Đầu ra trên Chỉ số Đầu vào. Tỷ
lệ này cho biết một quốc gia tạo ra bao nhiêu đầu ra đổi mới ứng với số đầu vào đổi
mới của quốc gia đó.
Nguồn dữ liệu
Các chỉ số thành phần đƣợc Tổ chức WIPO tính toán hoàn toàn từ số liệu thứ
cấp, là kết quả đã đƣợc thu thập và phân tích trực tiếp hoặc đã đƣợc tính toán tổng
hợp bởi các tổ chức quốc tế khác. Có khoảng 30 nguồn dữ liệu/cơ sở dữ liệu đƣợc
sử dụng để lấy thông tin, số liệu cho các chỉ số thành phần, trong đó, các cơ sở dữ
liệu của Ngân hàng thế giới và các tổ chức của Liên hợp quốc là nhiều nhất. Ngoài
ra, một số cơ sở dữ liệu của các tổ chức nghiên cứu độc lập hoặc kết quả nghiên
cứu, khảo sát của một số tổ chức khác cũng đƣợc sử dụng. Một số chỉ số thành phần
đƣợc WIPO lấy dữ liệu ở nhiều nguồn khác nhau (tùy thuộc vào từng quốc gia/nền
kinh tế có số liệu sẵn có và cập nhật hơn ở nguồn nào).
Với mỗi chỉ số thành phần và với mỗi nền kinh tế, số liệu năm gần nhất có
sẵn sẽ đƣợc sử dụng. Trƣờng hợp một quốc gia/nền kinh tế nào đó không có số liệu
cho một chỉ số nhất định, hoặc số liệu năm gần nhất có sẵn là trƣớc năm 2006 thì
chỉ số đó đƣợc tính là bị thiếu, không có.
Phương pháp tính toán Chỉ số đổi mới
55
Về cơ bản, mỗi một chỉ số thành phần đƣợc sử dụng sẽ có số liệu gốc (value)
hoặc số liệu đƣợc WIPO tính toán lại từ số liệu gốc. Giá trị số liệu của quốc gia/nền
kinh tế này sẽ đƣợc quy đổi sang điểm số (score). Điểm số đƣợc tính từ 0 cho đến
100, quốc gia/nền kinh tế nào có giá trị số liệu (value) cao nhất thì sẽ đƣợc điểm số
(score) cao nhất là 100.
Thứ hạng của từng quốc gia ứng với mỗi chỉ số đƣợc sắp xếp căn cứ theo
điểm số. Với mỗi một chỉ số thành phần, quốc gia/nền kinh tế nào có điểm số cao
nhất đƣợc xếp hạng 1, điểm số thấp nhất sẽ xếp hạng cuối (ví dụ năm 2019 là hạng
129 - vì có 129 quốc gia/nền kinh tế đƣợc tham gia).
Các yếu tố ảnh hưởng đến xếp hạng GII
Các điểm số, xếp hạng từ năm này qua năm khác là không so sánh trực tiếp
đƣợc và nếu làm nhƣ vậy rất dễ dẫn đến những sai lệch. Kết quả xếp hạng của mỗi
năm phản ánh vị trí tƣơng đối của quốc gia/ nền kinh tế trên cơ sở khung lý thuyết,
các dữ liệu đƣợc sử dụng, và tổng thể các quốc gia đƣợc chọn tham gia xếp hạng
của năm đó. Khi những yếu tố này thay đổi sẽ làm thay đổi kết quả xếp hạng.
Có 4 yếu tố ảnh hƣởng đến xếp hạng hàng năm của một quốc gia/nền kinh tế,
đó là:
(i) mức độ thực hiện thực sự của quốc gia/nền kinh tế đó;
(ii) những điều chỉnh về khung lý thuyết tính toán của WIPO (ví dụ nhƣ
thêm, bớt chỉ số);
(iii) cập nhật dữ liệu, cách xử lý giá trị ngoại lai, số liệu bị thiếu;
(iv) việc thêm hay bớt các quốc gia/nền kinh tế trong mẫu so sánh.
Năm 2019, việc tính toán chỉ số GII có thay đổi về phƣơng pháp, cụ thể là
thay đổi về chỉ số, nguồn dữ liệu và phƣơng pháp tính toán chỉ số. GII năm 2019
với 21 nhóm chỉ số và 80 tiểu chỉ số vẫn đƣợc chia thành 7 trụ cột chính với 5 trụ
cột đầu vào là: Thể chế vĩ mô, Nguồn nhân lực và nghiên cứu, Cơ sở hạ tầng, Thị
trƣờng và Môi trƣờng kinh doanh và 2 trụ cột đầu ra là: Sản phẩm tri thức và công
nghệ, Sản phẩm sáng tạo.Theo đó, Chỉ số GII năm 2019 của Việt Nam đã cải thiện
vị trí, tăng 03 bậc, lên vị trí 42 trên 129 quốc gia/nền kinh tế đƣợc xếp hạng so với
năm 2018. Thứ hạng này đã cải thiện 17 bậc so với xếp hạng năm 2016 và đƣa Việt
Nam vƣơn lên xếp thứ nhất trong nhóm 26 quốc gia thu nhập trung bình thấp và
đứng thứ 3 trong ASEAN sau Singapore và Malaysia. Quan trọng hơn, Việt Nam có
56
sự tiến bộ ở cả nhóm chỉ số đầu vào (tăng 02 bậc so với năm 2018) và đầu ra (tăng
04 bậc so với năm 2018), cũng nhƣ có điểm số cao trong cả 7 trụ cột, đều cao hơn
mức trung bình. Một số chỉ số có cải thiện đáng chú ý so với năm 2018 là: Trình độ
phát triển của thị trƣờng tăng 3 bậc; Tín dụng tăng 4 bậc; Tăng năng suất lao động
tăng 3 bậc. Và đặc biệt là hai chỉ số liên quan đến đầu vào và đầu ra của Khoa học,
công nghệ và đổi mới đã có những bƣớc nhảy vọt, cụ thể là: chỉ số Tổng chi cho
nghiên cứu và phát triển tăng 5 bậc; và chỉ số Sản phẩm dựa trên tri thức và công
nghệ tăng 8 bậc.
3.2.2. Giới thiệu về Hệ thống i2-Metrix
Đối mới là một trong những nền tảng của Kinh tế Sáng tạo – Kinh tế Tri thức
và cũng là nền tảng của xây dựng thƣơng hiệu đối với mỗi một doanh nghiệp. Hệ thống i2-Metrix7 là bộ chỉ tiêu đo lƣờng năng lực đổi mới doanh nghiệp của Boise
State University (Mỹ) đã đƣợc ứng dụng tại Việt Nam cho cộng đồng doanh nghiệp
Hàng Việt Nam Chất lƣợng cao bởi công ty DHVP Research & Consultancy. Đánh
giá Năng lực Sáng tạo (Creative & Innovative Audit) là lĩnh vực cao cấp của
Creativity và Marketing Innovation.
7 Tham khảo thêm tại i2Metrix- thước đo năng lực đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp, cập nhật lần cuối: 13/08/2014 10:08,http://first-most.vn/vi-VN/tin-tuc/tin-khoa-hoc-va-cong-nghe/i2metrix-thuoc-do-nang-luc- doi-moi-sang-tao-cua-doanh-nghiep_t114c74n184 57
Hình 16: Sơ đồ lƣợng hoá năng lực đổi mới dựa trên 10 tiêu chí của giáo sƣ
Nancy K. Napier (Boise University, Mỹ)
Bộ chỉ số đo lƣờng i2-Metrix gồm 10 tiêu chí có thể giúp kiểm đếm quy mô
nguồn lực đổi mới, hiệu suất sử dụng, đồng thời gợi ý giải pháp gia tăng hiệu quả
khai thác các nguồn lực này cho doanh nghiệp:
1. Output – Lợi ích/thành tựu sinh ra từ đổi mới;
2. Innovator – Nguồn nhân lực đổi mới;
3. F-resources – Nguồn lực tài chính đầu tƣ cho hoạt động đổi mới và quá
trình ―khởi nghiệp định hƣớng đổi mới‖ nội bộ;
4. Supports – Mức độ hỗ trợ mang tính chất tổ chức đổi với định hƣớng đổi
mới;
5. Differentiation – Mức độ tạo ra sự chuyên biệt hóa và khác biệt trong cạnh
tranh thị trƣờng;
6. Trend-setting – Tính thích ứng với xu hƣớng nhu cầu, tầm nhìn về chu kỳ
sống của sản phẩm, sức ảnh hƣởng xu hƣớng (khả năng tạo xu hƣớng mới cho thị
trƣờng);
7. Multi-filtering – Năng lực xử lý thông tin đa tầng tạo hiểu biết thấu
đáo/sâu sắc để chuẩn bị cho quá trình đổi mới;
8. Mindsponge – Năng lực xây dựng lõi giá trị văn hóa thích ứng với thay đổi
và định hƣớng đổi mới;
9. Implementation – Khả năng điều phối nhịp nhàng để một ý tƣởng đƣợc
quyết tâm đầu tƣ đến trở thành sản phẩm, đƣa ra thị trƣờng và cải tiến cho tới bán
hàng (từ ý tƣởng đến thƣơng mại hóa sản phẩm);
10. C-readiness – Năng lực quan sát, dự báo nguy cơ và đánh giá khả năng
đáp ứng nguy cơ trong doanh nghiệp/tổ chức (nhƣ cắt lỗ, chuyển hƣớng, tái định
dạng hoạt động).
Khi xem xét đổi mới nhƣ một quá trình, 10 tiêu chí của i2Metrix phân thành
ba nhóm:
1. Nhóm ―Đầu vào‖ gồm 02 tiêu chí: Innovator và F-Resources
Các doanh nghiệp chủ yếu tham gia khảo sát về bề dày nguồn lực (cả con
ngƣời và tài chính) cho đổi mới. Độ đo chung cho mẫu khảo sát là 8,1 và 8,6 tƣơng
58
ứng với Innovator và F-Resources. Về nguồn lực con ngƣời, vai trò của ngƣời lãnh
đạo doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định tới toàn bộ hoạt động đổi mới trong doanh
nghiệp. Ngƣời đứng đầu doanh nghiệp phải luôn xác định đổi mới là yếu tố mang
tính sống còn của doanh nghiệp dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Trong hai tháng đầu năm 2014 với 19 thành viên của CLB Doanh nghiệp
Dẫn đầu (hoạt động trong 8 nhóm ngành sản xuất) thử nghiệm đánh giá i2-Metrix
có thể xem là ghi nhận đầu tiên về đóng góp trách nhiệm xã hội của nhóm doanh
nghiệp sớm nhận thức giá trị của đổi mới toàn diện trong sản xuất và kinh doanh.
Nhóm doanh nghiệp này có quy mô tổng tài sản ƣớc trên 24.000 tỷ đồng, sử dụng
trên 28.000 lao động và ƣớc đạt doanh thu 35.000 tỷ đồng trong năm 2013. Ba
nhóm ngành có số doanh nghiệp tham gia nhiều nhất là gia dụng, dƣợc phẩm và
thực phẩm. Trong giai đoạn khảo sát, khá nhiều doanh nghiệp đƣợc đánh giá là
đang hoạt động theo kiểu doanh nghiệp gia đình và trong giai đoạn chuyển giao thế
hệ (có doanh nghiệp đang chuẩn bị năng lực cho thế hệ sau; có doanh nghiệp đã bắt
đầu chuyển giao từng phần; có doanh nghiệp đã hoàn tất chuyển giao). Đặc trƣng
nổi bật này của mẫu khảo sát đặt câu hỏi nghiên cứu ứng dụng lý thuyết quản trị về
mô hình ―tổ chim-cái trứng‖. Cách thức lặp lại là: Cha, mẹ gây dựng doanh nghiệp.
Khi các con trƣởng thành thì sẽ đƣợc định hƣớng và phân bổ đi học các ngành khác
nhau để tới lúc học xong sẽ quay về quản lý các bộ phận căn bản nhất của doanh
nghiệp. Thƣờng thì đó là các ngành: quản trị kinh doanh và tài chính (để quản lý và
điều hành chung), một ngành kỹ thuật xƣơng sống của doanh nghiệp (công ty cơ khí
thì học chế tạo máy, công ty thực phẩm thì là hóa thực phẩm), một ngành về thị
trƣờng (nhƣ marketing, thiết kế mẫu). ―Chiến lƣợc gia đình‖ kiểu này đƣa ra vài gợi
ý: Vấn đề ―niềm tin chiến lƣợc‖ rất đƣợc coi trọng trong các doanh nghiệp gia đình.
Niềm tin này chỉ trao cho thành viên của gia đình. Lãnh đạo các công ty gia đình
nhận thức đầy đủ về vai trò quan trọng của kỹ nghệ quản trị. Quản lý tốt cần thiết
không kém gì có năng lực sản xuất tốt. Vì thế, dù thƣờng khởi đầu bằng thế mạnh
sản xuất nhƣng các bậc cha, chú khi chuyển giao thế hệ đều rất quan tâm tới năng
lực điều hành và quản trị bao quát. Tuy vẫn giữ truyền thống gia đình nhƣng
phƣơng thức quản trị hiện đại đang dần định hình trong các doanh nghiệp này. Các
doanh nghiệp gia đình có năng lực nạp-xả giá trị văn hóa và tính thích ứng với biến
động môi trƣờng kinh doanh (mindsponge) đƣợc tôi luyện qua nhiều lần dịch
59
chuyển của môi trƣờng kinh doanh, nhƣ trƣởng thành từ doanh nghiệp tƣ nhân (thời
kỳ kinh tế thị trƣờng kiểu Mỹ), sang hộ cá thể (thời kỳ kinh tế kế hoạch), rồi trở lại
doanh nghiệp tƣ nhân (thời kỳ Đổi Mới), hƣớng tới mô hình công ty đại chúng (cổ
phần hóa, niêm yết trên TTCK), và chuẩn bị nền tảng cho mô hình kinh doanh toàn
cầu. Về tài chính, các doanh nghiệp đều dành ƣu tiên cao cho các nỗ lực đổi mới.
Ngoài thực tế có chỉ số Nợ/(Tổng Nợ và Tài sản) ở mức dƣới 5%, gần nhƣ tất cả
doanh nghiệp tham gia khảo sát sử dụng nguồn vốn tự có hoặc tích lũy từ lợi nhuận
qua các năm để tài trợ cho đổi mới.
Đổi mới đƣợc xem công việc khó, đòi hỏi nỗ lực đầu tƣ lâu dài, song có ý
nghĩa sống còn với doanh nghiệp trong duy trì ƣu thế hiện tại trên thƣơng trƣờng
vừa kiến tạo tƣơng lai doanh nghiệp.
2. Nhóm ―Đầu ra‖ gồm 03 tiêu chí: Output, Differentiation và Trend-Setting
Đóng góp trực tiếp – thể hiện qua đóng góp đổi mới vào doanh số/lợi
nhuận/chi phí tiết kiệm đƣợc – vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp còn ở mức
khiêm tốn. Tuy nhiên, đổi mới góp phần rất đáng kể tạo ra sự khác biệt của doanh
nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp trong cạnh tranh thƣơng trƣờng cũng nhƣ tính
thích ứng với xu hƣớng nhu cầu, tầm nhìn về chu kỳ sống của sản phẩm và khả
năng tạo nhu cầu/sở thích tiêu dùng mới của doanh nghiệp. Thực tế này hợp lý.
Dòng doanh thu lớn nhất của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp đã ―thành
danh‖ trên thị trƣờng, lẽ thƣờng, đến từ những sản phẩm đã đạt tới mức độ chín
muồi chứ không phải những sản phẩm mới lần đầu xuất hiện. Sản phẩm mới chào
bán ra công chúng dù thu hút sự quan tâm nhƣng sẽ phải đợi tới những chu kỳ kinh
doanh tiếp theo mới trở thành mặt hàng tạo doanh số chủ lực.
Ý nghĩa ―sống còn‖ của đổi mới thể hiện không chỉ ở doanh số mà còn cả sự
khác biệt và khả năng đi đúng hƣớng của thị trƣờng. Doanh số cao trong một kỳ
kinh doanh, có nhiều lúc, không quan trọng bằng kịp nhận diện và chuẩn bị đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng mới sẽ xuất hiện ở chu kỳ tiếp sau. Bài học về cú suýt ngã quỵ
của Microsoft nếu bỏ qua làn sóng Internet là một minh họa điển hình.
3. Nhóm ―Hỗ trợ‖ gồm 05 tiêu chí: C-Readiness, Multi-Filtering,
Implementation, Support và Mindsponge
05 tiêu chí thuộc nhóm ―Hỗ trợ‖ còn có thể xem nhƣ những đầu vào gián tiếp
của quá trình đổi mới. Nếu hai tiêu chí trong nhóm ―Đầu vào‖ (nhân lực và tài lực)
60
có thể kiểm điểm tƣơng đối dễ dàng qua số lƣợng và quy mô thì nhóm hỗ trợ cung
cấp các công cụ/phƣơng tiện để hai đầu vào kể trên đƣợc khai thác với hiệu suất tốt
nhất. Hơn thế, nhóm kích thƣớc này kiến thiết nên hệ sinh thái đổi mới từ bên trong
doanh nghiệp, tích lũy năng lƣợng đổi mới sinh ra trong quá trình vận hành sản
xuất-kinh doanh của doanh nghiệp trong ràng buộc hữu hạn của nguồn lực đầu vào.
Thông qua các tiêu chí đánh giá về sản phẩm đầu ra, nguồn lực và công cụ
hỗ trợ, doanh nghiệp sẽ nhận thấy ý nghĩa sống còn của đổi mới không nằm ở
doanh thu hay đầu tƣ về tài chính, nhân lực mà chính là khả năng đi đúng hƣớng
của thị trƣờng.
Với những ngƣời làm chính sách và nghiên cứu, bộ dữ liệu i2Metrix cung
cấp bằng chứng thực nghiệm và chỉ rõ những nội dung cần ƣu tiên trọng điểm về
nguồn lực, chính sách và giải pháp trong thúc đẩy, hỗ trợ đổi mới-sáng tạo. Trên thị
trƣờng, các nhà đầu tƣ có tín hiệu để nhận biết tiềm năng phát triển trong tƣơng lai
của doanh nghiệp. Công chúng tiêu dùng có thêm thông số tin cậy để lựa chọn hàng
hóa và dịch vụ cũng nhƣ tăng cƣờng hiểu biết một cách trực quan và sinh động về
hoạt động đổi mới vốn mang tính trừu tƣợng cao.
3.3. Hình thành luận điểm về xây dựng bộ tiêu chí đánh giá năng lực đổi mới
của doanh nghiệp phù hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam
Tiêu chí đánh giá là công cụ mang tính cơ sở, tính khoa học của đánh giá.
Xuất phát từ các loại hình, quy mô, tính chất hay đối tƣợng đánh giá mà chủ thể
đánh giá sẽ xem xét, lựa chọn các phƣơng pháp đánh giá, tiêu chí đánh giá khác
nhau. Việc lựa chọn đúng đối tƣợng, phƣơng pháp và tiêu chí đánh giá có ảnh
hƣởng rất lớn đến kết quả và hiệu quả của việc đánh giá.
Bởi vậy, tiêu chí đánh giá năng lực đổi mới của doanh nghiệp có thể hiểu là
hệ thống các dấu hiệu, qua đó thể hiện tính chất của các giá trị hiện tại về các yếu tố
mang tính nguồn lực có liên quan mang tính quyết định đến đổi mới của doanh
nghiệp.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, hoạt động đổi mới là một trong những
biện pháp hàng đầu giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất, hiệu quả, khả năng cạnh
tranh, đặc biệt trong bối cảnh đất nƣớc ta đang hƣớng đến hội nhập kinh tế quốc tế.
Đổi mới tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trƣờng sản phẩm, đồng thời
góp phần thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển nhằm tạo ra các sản phẩm
61
mới, quy trình mới, công nghệ mới. Chất lƣợng sản phẩm đƣợc nâng lên đồng nghĩa
với việc vị thế bền vững của doanh nghiệp trên thị trƣờng. Cùng với lợi ích giảm
chi phí, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, việc ứng dụng công nghệ hiện đại, công
nghệ cao đang dần trở thành ―kim chỉ nam‖ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần thấy rõ đƣợc vai trò của quản lý đổi mới là tiến
trình liên kết các lĩnh vực khác nhau nhằm hoạch định, phát triển, thực hiện, giám
sát và kiểm soát năng lực của mình, từ đó, hình thành và thực thi các mục tiêu chiến
lƣợc phát triển cụ thể trong quá trình sản xuất kinh doanh. Thông qua việc đổi mới
công nghệ, các nhà quản lý thể hiện khả năng nắm bắt nhu cầu của thị trƣờng, thị
hiếu của thị trƣờng công nghệ, giúp cho doanh nghiệp quyết định đƣợc việc nên duy
trì hay thay đổi các hoạt động kinh doanh, công nghệ, sản phẩm hiện tại, mở rộng
sản xuất, hay cần có công nghệ, sản phẩm mới...
Nhƣ đã trình bày ở các nội dung trƣớc, quan điểm về năng lực đổi mới của
doanh nghiệp còn chƣa có sự thống nhất, đặc biệt là về khái niệm, tiêu chí, chuẩn so
sánh, điểm và thang điểm cho các tiêu chí đánh giá. Mỗi quốc gia tồn tại các điều
kiện về kinh tế, xã hội, trình độ khoa học và công nghệ, cơ cấu - trình độ nguồn
nhân lực; trình độ, cơ cấu và năng lực công nghệ khác nhau. Mặc dù, thời điểm thực
hiện các nghiên cứu trên tính đến nay chƣa xa lắm, song với sự phát triển không
ngừng của nền khoa học và công nghệ nhƣ hiện nay đã làm thay đổi mọi mặt trong
đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, thay đổi cơ cấu công nghệ... của các
quốc gia, nền kinh tế do vậy việc làm thế nào để xem xét điều chỉnh, bổ sung cho
phù hợp với điều kiện của Việt Nam nói chung và doanh nghiệp Việt Nam nói riêng
trở nên hết sức cấp bách và cần thiết. Yêu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp
rất cần phải thực hiện việc đánh giá, vì đây là cách làm khoa học, phù hợp với tiến
trình hội nhập và phát triển trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ.
Trong quá trình điều tra khảo sát tại công ty cổ phần nội dung số toàn cầu -
GDC (nay đã đổi tên thành Dreamlab), đây là một là công ty công nghệ đƣợc thành
lập với mong muốn ứng dụng công nghệ cao vào hoạt động dạy, học và quản lý
giáo dục. Công ty hoạt động dựa trên kiến thức và tâm huyết của những chuyên gia
với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục. Việc ứng dụng những sản
phẩm công nghệ đã tạo bƣớc "nhảy vọt" cho cuộc cách mạng giáo dục tại Việt Nam
hiện nay. Mỗi sản phẩm của Dreamlab luôn bám sát chƣơng trình học của Bộ Giáo
62
dục và Đào tạo, đạt tiêu chuẩn quốc tế để đi đầu trong công cuộc phát triển giáo dục
của đất nƣớc, cạnh tranh với nền giáo dục quốc tế. Với sứ mệnh mang đến những
trải nghiệm giáo dục tiến tiến, hiệu quả và tiện lợi. Với công nghệ, Dreamlab đồng
hành cùng đội ngũ ngƣời làm giáo dục tạo nên những thế hệ học sinh chủ động,
sáng tạo, có khả năng cạnh tranh trong môi trƣờng quốc tế. Dreamlab mong mỏi trở
thành đơn vị đi đầu trong việc mang công nghệ thay đổi, thúc đẩy sự phát triển của
giáo dục Việt Nam. Dreamlab đƣa công nghệ vào hoạt động giáo dục, đến với phần
lớn trƣờng học, học sinh và giáo viên, trở thành đơn vị đi đầu trong lĩnh vực công
nghệ giáo dục. Một số sản phẩm nổi bật của Dreamlab cho đến nay đó là:
- ECOSTUDY: hệ thống hỗ trợ hoạt động quản lý của các tổ chức giáo dục.
ECOSTUDY tích hợp tất cả các tính năng trong một hệ thống, hạn chế tuyệt đối sự
nhầm lẫn, thiếu đồng bộ trong khâu lƣu trữ, xử lý thông tin. Với sự thuận tiện, dễ sử
dụng, ECOSTUDY đem lại hiệu quả làm việc chƣa từng có cho các tổ chức giáo
dục tại Việt Nam. Chăm chỉ là chƣa đủ mà nhờ cách vận hành thông minh mới có
thể tiết kiệm thời gian, công sức và chi phí. ECOSTUDY đem đến hệ thống quản lý
tích hợp thông minh để kiểm soát toàn bộ doanh nghiệp và kết nối từng bộ phận
trong doanh nghiệp.
- iDIGI: thành lập vào tháng 11/2017 là dự án phát triển giải pháp công nghệ
giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế, phù hợp với ngƣời Việt Nam. Sản phẩm của iDIGI
ứng dụng phƣơng pháp giáo dục STEAM, đặc biệt hỗ trợ dạy Toán và Khoa học
bằng Tiếng Anh. Kiến thức đƣợc trực quan hóa đƣa tới những trải nghiệm học tập
thực tế và sinh động. Thông qua việc xây dựng nền tảng giáo dục hỗ trợ giáo viên
soạn bài, giảng dạy, iDIGI đồng hành cùng giáo viên đem tới từng tiết học hứng
thú, tạo cơ hội giúp học sinh tự do trải nghiệm, sáng tạo, khơi nguồn và nuôi dƣỡng
niềm say mê học tập. Với phƣơng pháp học chủ động từ những bài giảng của iDIGI,
học sinh có thể tìm thấy và phát huy tối đa năng lực bản thân.
- THILADO: Với kho đề thi phong phú, trải rộng ở tất cả các môn học từ lớp
01 đến lớp 12, THILADO là nền tảng tạo đề trắc nghiệm và thi trực tuyến (testing
online) bám sát với chƣơng trình và đề thi mẫu của Bộ Giáo dục & Đào tạo, hỗ trợ
tối ƣu giáo viên, nhà trƣờng trong việc quản lý quá trình học tập của học sinh.
THILADO xây dựng một cộng đồng chia sẻ bài tập, câu hỏi trong và ngoài trƣờng
học, tạo nên môi trƣờng sƣ phạm rộng rãi. Trong tƣơng lai, THILADO sẽ trở thành
63
nền tảng tạo đề thi trắc nghiệm hiện đại, cập nhật nhất, bám sát nội dung học của
quốc gia và đƣợc triển khai rộng rãi đến với các trƣờng học trên lãnh thổ Việt Nam.
Cùng với việc tiếp cận một số công trình nghiên cứu kể trên, tác giả nhận
thấy rằng phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ dừng lại ở việc mua các
công nghệ từ bên ngoài về để phục vụ cho việc sản xuất tại đơn vị mình. Bởi vậy,
trong phạm vi luận văn, tác giả đề xuất một số quan điểm cá nhân về các tiêu chí
đánh giá năng lực đổi mới cho các doanh nghiệp Việt Nam theo hƣớng tiếp cận
năng lực đổi mới là năng lực của con ngƣời trong chuỗi hoạt động từ tiếp cận, sử
dụng và phát triển công nghệ phục vụ cho việc sản xuất trong doanh nghiệp. Cụ thể:
STT Năng lực đổi mới của Tiêu chí đánh giá
doanh nghiệp
1. Yếu tố bên trong 1.1. Năng lực của nhân lực
1.2. Nguồn lực của doanh nghiệp.
1.3. Năng lực làm chủ công nghệ.
1.4. Năng lực cải tiến – nâng cấp công nghệ.
1.5. Năng lực nghiên cứu – sáng tạo công nghệ mới.
1.6. Năng lực lựa chọn mục tiêu chiến lƣợc
1.7. Năng lực Thích nghi với chuẩn và thông lệ quốc tế
2. Yếu tố bên ngoài 2.1. Quan hệ liên kết.
2.2. Khung pháp lý.
Bảng 4: Các yếu tố hình thành năng lực đổi mới của doanh nghiệp
Nhóm yếu tố bên trong tác động đến năng lực đổi mới của doanh nghiệp bao
gồm:
1.1. Năng lực của nhân lực
Nhân sự hay nguồn nhân lực chất lƣợng cao là một trong những nhân tố
không thể thiếu đối với năng lực đổi mới của doanh nghiệp. Có cách hiểu nguồn
nhân lực chất lƣợng cao thiên về trình độ đào tạo cao (từ đại học trở lên), tức là
đồng nhất chất lƣợng cao với trình độ cao; có cách hiểu nguồn nhân lực chất lƣợng
cao là nguồn nhân lực đƣợc sử dụng trong thực tế mang lại năng suất và hiệu quả
cao. Cả lý luận, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn cho thấy khi nói về nguồn nhân
lực chất lƣợng cao đều phải bao hàm mối quan hệ giữa các tiêu chí chất lƣợng và
trình độ của nguồn nhân lực quốc gia, đồng thời nguồn nhân lực chất lƣợng cao
64
phải đƣợc thể hiện trực tiếp ở vai trò chủ đạo đối với sự phát triển nhanh và bền
vững đất nƣớc.
Trên thực tế, chất lƣợng cao không hoàn toàn đồng nhất với trình độ cao.
Đồng thời khái niệm nguồn nhân lực chất lƣợng cao cần đƣợc hiểu theo hai nghĩa
(có quan hệ mật thiết với nhau): thứ nhất, đó là nguồn nhân lực có trình độ và chất
lƣợng đáp ứng có hiệu quả cao đối với việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể, trình độ
phát triển cụ thể, điều kiện cụ thể; thứ hai, đó là nguồn nhân lực có trình độ và chất
lƣợng cao trong tƣơng quan với yêu cầu phát triển của đất nƣớc trong giai đoạn mới
và trong tƣơng quan với nhân lực quốc tế. Sự phân định này là cần thiết để xác định
rõ yêu cầu, bƣớc đi, tính hiện thực, tính hiệu quả trong phát triển nguồn nhân lực
trên bình diện quốc gia cũng nhƣ trong từng ngành, lĩnh vực, đơn vị và mỗi ngƣời
lao động.
Nguồn nhân lực chất lƣợng cao là một bộ phận quan trọng của nguồn nhân
lực quốc gia, là nguồn nhân lực đáp ứng đồng thời các tiêu chí về chất lƣợng cao và
trình độ cao - đó là nguồn lực con ngƣời đƣợc đào tạo và sử dụng có chất lƣợng và
hiệu quả cao với tổng hợp các phẩm chất về nhân cách (tâm lực), tri thức sáng tạo
(trí lực), năng lực thực hành (kỹ lực) và thể lực.
Đặc trƣng cơ bản của nguồn nhân lực chất lƣợng cao của một quốc gia gồm:
số lƣợng nhân lực; chất lƣợng nhân lực; cơ cấu nhân lực (cơ cấu trình độ, ngành
nghề, vùng miền); mức độ đáp ứng (và hiệu quả) đối với yêu cầu phát triển của đất
nƣớc.
Những tiêu chí cơ bản của nhân lực chất lƣợng cao có thể khái quát nhƣ sau:
văn hoá, văn hoá nghề nghiệp, đạo đức, nhân cách, trách nhiệm xã hội, ý thức công
dân; năng lực tƣ duy sáng tạo; năng lực tri thức chuyên môn; năng lực thực hành;
kỹ năng mềm. Nguồn nhân lực chất lƣợng cao luôn có sự vận động và phát triển
trong mối quan hệ với sử dụng và đối sánh với yêu cầu phát triển mới. Đối với cá
nhân (ngƣời lao động) với tƣ cách là nhân lực chất lƣợng cao khi có tổng hợp hữu
cơ những tiêu chí cơ bản nêu trên của nhân lực: văn hoá, đạo đức, nhân cách cao;
năng lực tri thức chuyên môn cao; năng lực tƣ duy sáng tạo cao; năng lực thực hành
cao; kỹ năng mềm phong phú, hiệu quả. Còn đối với một đơn vị, ngành, lĩnh vực
hay quốc gia, thì nguồn nhân lực chất lƣợng cao không chỉ bao gồm những cá nhân
ngƣời lao động chất lƣợng cao, mà còn phải đƣợc thể hiện ở sự hợp lý, hiệu quả về
65
số lƣợng nhân lực chất lƣợng cao, về chất lƣợng nhân lực chất lƣợng cao, về cơ cấu
nhân lực hợp lý (cơ cấu trình độ, ngành nghề, vùng miền), về mức độ đáp ứng (và
hiệu quả sử dụng) nhân lực đối với yêu cầu phát triển của đơn vị, ngành, hay của cả
đất nƣớc.
Đối với một quốc gia, nguồn nhân lực chất lƣợng cao đƣợc thể hiện ở sự
đồng bộ, phù hợp với yêu cầu về đội ngũ nhân lực chất lƣợng cao từ cao xuống
thấp: đội ngũ lãnh đạo - quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ - công chức giỏi; đội ngũ cán
bộ khoa học - công nghệ chất lƣợng cao và trình độ cao; đội ngũ doanh nhân giỏi;
đội ngũ chuyên gia kỹ thuật lành nghề; đội ngũ công nhân lành nghề; đội ngũ lao
động phổ thông có chất lƣợng. Nhà nƣớc đóng một vai trò hết sức quan trọng trong
việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lƣợng cao.
Phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao - trình độ cao phải kết hợp có hiệu
quả giữa từng bƣớc nâng cao chất lƣợng chung của hệ thống giáo dục - đào tạo với
đào tạo có trọng tâm, trọng điểm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
phát triển kinh tế tri thức trong mỗi giai đoạn.
1.2. Nguồn lực của doanh nghiệp
Quản lý và tận dụng tối đa các nguồn lực của doanh nghiệp là cách để doanh
nghiệp sẵn sàng ứng phó với mọi thay đổi của môi trƣờng kinh doanh. Có nhiều
định nghĩa khác nhau về nguồn lực: Theo nghĩa hẹp, nguồn lực thƣờng đƣợc hiểu là
các nguồn lực vật chất cho phát triển, ví dụ tài nguyên thiên nhiên, tài sản vốn bằng
tiền… Theo nghĩa rộng, nguồn lực đƣợc hiểu gồm tất cả những lợi thế, tiềm năng
vật chất và phi vật chất để phục vụ cho một mục tiêu phát triển nhất định nào đó.
Tuy nhiên, có thể định nghĩa nguồn lực doanh nghiệp là khả năng cung cấp các yếu
tố cần thiết cho quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp thành công là doanh nghiệp kiểm soát đƣợc 04 nguồn lực
cơ bản sau: nguồn lực vật chất, nguồn lực thông tin, nguồn lực tài sản, nguồn lực
nhân lực.
Quản lý nguồn nhân lực đúng người, đúng việc, đúng thời điểm để đạt mục
tiêu phát triển. Đây đƣợc coi là nguồn lực quan trọng nhất của doanh nghiệp, đóng
vai trò vô cùng quan trọng trong việc thúc đấy, phát triển doanh nghiệp cũng nhƣ
giữ mối quan hệ mật thiết giữa ngƣời lãnh đạo với cấp quản lý. Nguồn lực, đặc biệt
là nhân lực, luôn chiếm vị trí trọng tâm trong các kế hoạch hoạt động, chiến lƣợc
66
phát triển của các công ty bao gồm tất cả khả năng, kiến thức, hành vi ứng xử, đạo
đức của toàn thể cán bộ nhân viên công ty. Chính cung cách quản trị tài nguyên
nhân sự này tạo ra bộ mặt văn hoá của tổ chức, tạo ra bầu không khí có sự đoàn kết
giúp đỡ lẫn nhau hay lúc nào cũng căng thẳng bất ổn định. Dù ở bất cứ giai đoạn
nào, điểm mấu chốt của quản trị vẫn luôn là quản trị nguồn nhân lực. Bởi một
doanh nghiệp có nguồn lực vật chất phong phú, nguồn lực dài sản dồi dảo nhƣ nào
thì cũng đều vô ích nếu không có nguồn tài nguyên nhân sự phù hợp. Mục tiêu của
quản lý nguồn nhân lực hiểu đơn giản chính là sắp xếp đúng ngƣời có kỹ năng và
trình độ phù hợp vào đúng công việc ở đúng thời điểm thích hợp để đạt đƣợc mục
tiêu chung của công ty.
Nguồn lực vật chất còn có thể gọi là nguồn lực hữu hình của doanh nghiệp
và được chia ra thành hai loại là nguồn lực vật chất cần thiết và nguồn lực vật chất
bắt buộc phải có. Mặc dù rất nhiều doanh nghiệp nhận thức đƣợc tầm quan trọng
của việc đảm bảo chất lƣợng cho nguồn lực vật chất nhƣng rất ít trong số đó thật sự
áp dụng đúng phƣơng pháp. Cách đầu tiên và mang lại hiệu quả cao nhất mà hầu hết
doanh nghiệp có thể áp dụng ngay là nâng cao tiêu chí lựa chọn nhà cung cấp. Cụ
thể, công ty cần tìm kiếm và ký hợp đồng cung ứng lâu dài với những nhà cung cấp
uy tín, đảm bảo máy móc hoạt động ổn định, không ảnh hƣởng để chất lƣợng sản
phẩm và tiến độ sản xuất.
Gia tăng nguồn lực tài sản để doanh nghiệp tránh thâm hụt ngân sách, tối đa
lợi nhuận. Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn mở rộng sản xuất kinh doanh đều cần
đến một lƣợng vốn nhất định đƣợc đo bằng tiền (dù ở dạng vật chất hay phi vật
chất) và đó chính là nguồn lực tài sản của doanh nghiệp. Gia tăng nguồn lực tài sản
là mục tiêu chung của tất cả các doanh nghiệp nhƣng không phải doanh nghiệp nào
cũng dễ dàng đạt đƣợc mục tiêu này. Một nhà lãnh đạo giỏi là ngƣời biết cách sử
dụng nguồn lực này của công ty một cách hợp lý nhất; tận dụng triệt để với những
nguồn lực khác để làm gia tăng lợi nhuận, tránh thâm hụt ngân sách. Dựa vào nguồn
gốc hình thành có thể chia nguồn lực tài sản của doanh nghiệp thành hai loại chính:
Một là nợ phải trả bao gồm giá trị tất cả các loại vật tƣ, hàng hóa hay dịch vụ mà
doanh nghiệp đã nhận của nhà cung cấp và các khoản tiền vay mƣợn từ ngân hàng
hoặc các tổ chức kinh tế và các khoản phải trả khác nhƣ phải trả công nhân viên,
phải nộp cho cơ quan thuế… Hai là nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm tất cả các loại
67
tài sản nhƣ nhà máy, thiết bị, máy móc, vốn bằng tiền,…mà doanh nghiệp đã đầu tƣ
để có thể tiến hành các hoạt động kinh tế đã xác định
Quản lý nguồn lực thông tin chính xác, an toàn để hỗ trợ doanh nghiệp phát
triển. Nhờ vào việc quản trị thông tin, doanh nghiệp sẽ đánh giá đƣợc hính xác
những giá trị cũng những thông tin đƣợc xác lập để đảm bảo thông tin đƣợc truyền
tải đúng mục tiêu. Cùng với vật chất, tài sản và nhân lực, thông tin cũng là một
nguồn lực then chốt của doanh nghiệp, đồng hành cùng sự phát triển của doanh
nghiệp.
1.3. Năng lực làm chủ công nghệ
Công nghệ là tập hợp các phƣơng pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công
cụ, phƣơng tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành các sản phẩm. Nhƣ vậy, có thể
hiểu công nghệ là một hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến
vật liệu và xử lý thông tin, bao gồm tất cả các kỹ năng, thiết bị và phƣơng pháp sử
dụng trong việc tạo ra hàng hóa và cung cấp dịch vụ. Một công nghệ có bốn thành
phần liên quan mật thiết và bổ sung cho nhau:
Thứ nhất là kỹ thuật, tức mọi phƣơng tiện vật chất nhƣ các công cụ, thiết bị
máy móc, phƣơng tiện và các cấu trúc hạ tầng khác, thƣờng làm thành dây chuyền
ứng với một quy trình công nghệ nhất định.
Thứ hai là con ngƣời, bao gồm kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng do học hỏi,
tích lũy đƣợc trong quá trình hoạt động, đồng thời cũng bao gồm các tố chất nhƣ
tính sáng tạo, sự khôn ngoan, khả năng phối hợp, đạo đức trong lao động...
Thứ ba là thông tin, tức các dữ liệu đƣợc tổng hợp và hệ thống hóa, sử dụng
trong công nghệ. Thành phần cuối cùng là tổ chức, thể hiện qua những quy định về
trách nhiệm, quyền hạn, mối quan hệ và sự phối hợp giữa các cá nhân hoạt động
trong doanh nghiệp, kể cả những quy trình đào tạo công nhân, bố trí sắp xếp nhằm
làm chủ công nghệ.
Hiện nay, trong bất kỳ doanh nghiệp nào, quản trị công nghệ cần đƣợc coi là
một bộ phận quan trọng trong toàn bộ hoạt động quản trị kinh doanh. Quản trị công
nghệ liên quan đến việc xây dựng và triển khai thực hiện các chính sách để giải
quyết vấn đề phát triển và sử dụng công nghệ, đặc biệt là việc hoạch định và tăng
cƣờng năng lực công nghệ của doanh nghiệp. Quản trị công nghệ tốt sẽ giúp doanh
nghiệp nhìn nhận rõ về năng lực công nghệ của mình nhằm khắc phục các điểm yếu
68
và phát huy các điểm mạnh sẵn có, bảo đảm các quyết định đƣa ra hiệu quả và
chính xác. Kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển cho thấy, muốn phát triển dựa
trên nền tảng tri thức, trong đó coi khoa học, công nghệ là quốc sách, sẽ khó phát
triển bền vững nếu nhƣ quốc gia đó không nắm bắt đƣợc công nghệ nguồn. Tuy
nhiên, cũng thẳng thắn nhìn nhận, nhiều ngành công nghệ mũi nhọn hiện nay đang
chỉ dừng ở mức gia công thuê cho nƣớc ngoài. Với xu hƣớng thế giới phẳng, hiện
không có khái niệm công nghệ thuộc về quốc gia, trừ những loại liên quan đến an
ninh quốc phòng, mà bản quyền thuộc về các công ty. Với doanh nghiệp, mục tiêu
lợi nhuận đƣợc xem nhƣ yếu tố hàng đầu khi họ quyết định đầu tƣ. Vì thế, không có
lý do gì để giữ độc quyền công nghệ hiện đại nhất cho nƣớc mình và áp dụng công
nghệ lạc hậu ở nƣớc khác. Động cơ duy nhất để doanh nghiệp áp dụng công nghệ
cao hay thấp là nó có mang lại lợi nhuận cao nhất trong hoàn cảnh cụ thể hay
không. Do đó, không khó để tiếp cận với những công nghệ cao nếu nhƣ chúng ta
đáp ứng đƣợc các yêu cầu mà đối tác đƣa ra. Tuy nhiên, để làm chủ đƣợc công nghệ
hiện đại nhất đòi hỏi quốc gia tiếp nhận phải đáp ứng những yêu cầu nào? Có một
cách làm chủ công nghệ nguồn đã đƣợc áp dụng khá thành công tại Nhật Bản, Hàn
Quốc là "giải mã công nghệ". Họ đã bắt đầu bằng việc thu thập công nghệ tiên tiến
từ các nƣớc phát triển, ứng dụng, từng bƣớc nâng cao và kết hợp với nền khoa học
kỹ thuật trong nƣớc. Từ sản xuất, lắp ráp, từng bƣớc phát triển qua tiến trình cải
cách, canh tân và phát triển nền công nghệ kỹ thuật cao. Ƣơm tạo doanh nghiệp,
hình thành doanh nghiệp công nghệ cao là một cách tiếp cận công nghệ tiên tiến
phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam. Thông qua các doanh nghiệp này,
công nghệ cao của nƣớc ngoài đƣợc nhập về, sau khi nắm vững quy trình, sẽ đƣợc
nghiên cứu giải mã, từ đó Việt hóa và sáng tạo công nghệ "Made in Vietnam". Hiện
nay, đã có một số doanh nghiệp công nghệ cao thành công với mô hình này. Tuy
nhiên, những điển hình này vẫn còn quá ít so với nhu cầu phát triển của đất nƣớc.
Để nắm giữ đƣợc công nghệ nguồn, doanh nghiệp rất cần vai trò đỡ đầu của Nhà
nƣớc trong việc hình thành nguồn nhân lực chất lƣợng cao phù hợp với nhu cầu
thực tế sản xuất; tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của các doanh
nghiệp công nghệ; tạo mối liên kết để thu hút chất xám từ các viện nghiên cứu,
trƣờng đại học thành lực lƣợng hỗ trợ mạnh mẽ cho doanh nghiệp; có chính sách ƣu
đãi về thuế, vay vốn ngân hàng cho những doanh nghiệp mới sở hữu công nghệ cao.
69
1.4. Năng lực cải tiến – nâng cấp công nghệ
Trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ đang phát triển
nhanh chóng nhƣ hiện nay, doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm đến việc đầu tƣ ứng
dụng các công nghệ hiện đại phục vụ trong các khâu của hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp. Việc tăng cƣờng ứng dụng công nghệ hiện đại sẽ đem lại
nhiều lợi ích cho doanh nghiệp nhƣ góp phần tăng đáng kể năng suất lao động, giảm
thiểu rủi ro sai sót, giảm chi phí vận hành, giảm số lƣợng lao động. Để có đƣợc
công nghệ phục vụ cho mục đích duy trì lợi thế cạnh tranh, doanh nghiệp có thể tự
phát triển khả năng công nghệ thông qua tự nghiên cứu. Tuy nhiên, còn có một hình
thức rất hiệu quả mà các doanh nghiệp yếu thế về công nghệ có thể áp dụng là học
hỏi từ các đàn anh đi trƣớc hoặc thông qua các liên minh chiến lƣợc.
Liên minh sản xuất
Hình thức liên minh chiến lƣợc đầu tiên là liên minh sản xuất. Chẳng hạn, tại
Nhật Bản, Matsushita đã sản xuất máy tính IBM bằng cách sử dụng khả năng sản
xuất dƣ thừa. Volvo và Renault cũng chia sẻ những linh kiện quan trọng trong chiến
lƣợc liên doanh sản xuất của mình. Những động cơ của Saab cũng đƣợc sản xuất tại
nhà máy Opel của GM châu Âu.
Hình thức liên minh này nhằm mục đích tận dụng lợi thế kinh tế hơn là để
học hỏi khả năng công nghệ và cũng là hình thức khá tiện lợi, tiết kiệm đƣợc chi phí
do có thể tối đa hóa công suất dƣ thừa của doanh nghiệp đối tác cũng nhƣ không
phải đầu tƣ vào nhà máy và trang thiết bị mới. Tuy nhiên, hình thức liên minh này
cũng có những nhƣợc điểm bởi vì hệ thống quản trị doanh nghiệp sẽ phải làm việc
với cả hai bên đối tác khác nhau trong quá trình sản xuất; đồng thời cũng lại giới
hạn trong việc thúc đẩy quá trình học hỏi so với hai hình thức liên minh còn lại do
mục tiêu ban đầu là tận dụng khả năng dƣ thừa lẫn nhau hơn là chủ động học hỏi.
Liên minh cho hoạt động nghiên cứu và triển khai
Liên minh chiến lƣợc để thực hiện hoạt động R&D tƣơng đối khác biệt so
với hình thức liên minh sản xuất. Bên cạnh mục tiêu cung cấp những lợi thế kinh tế,
tốc độ tiếp cận và nguồn lực quản trị, hình thức liên minh R&D đóng vai trò quan
trọng đối với sự tồn tại của doanh nghiệp. Hình thức liên minh với các đối thủ cạnh
tranh nhằm mục tiêu để không bị đối thủ bỏ xa, đồng thời đảm bảo đối thủ cũng
70
hoạt động theo những tiêu chuẩn công nghệ đồng nhất trên thị trƣờng nhằm tiêu
chuẩn hóa quy trình hoạt động và thiết bị.
Với thực tế hoạt động R&D ngày càng sôi động, thị trƣờng cũng chứng kiến
sự ra đời của nhiều sản phẩm mới. Điều này sẽ làm tăng áp lực cạnh tranh trên thị
trƣờng. Để đối phó với môi trƣờng cạnh tranh không ngừng thay đổi, doanh nghiệp
buộc phải tăng cƣờng hoạt động R&D, nếu không sẽ mất lợi thế cạnh tranh dựa vào
công nghệ. Những liên minh chiến lƣợc để thực hiện hoạt động R&D sẽ tạo ra con
đƣờng để duy trì lợi thế cạnh tranh và giúp giảm bớt áp lực tài chính cho doanh
nghiệp.
Hơn thế nữa, tại nhiều thị trƣờng, sản phẩm phải tích hợp những công nghệ
mới để thu hút khách hàng. Chẳng hạn, với trƣờng hợp của Saab, trong khi ô tô của
hãng này có đƣợc lợi thế cạnh tranh đặc biệt thông qua những chiếc xe có hình dạng
khí động học, thì túi khí, động cơ turbo 16 valve cũng đã có những tiêu chuẩn
chung. Chính quy tắc về việc tiêu chuẩn hóa các thiết bị trong sản phẩm mới đã tạo
ra tiền đề cho sự tham gia trên phạm vi toàn cầu ở nhiều ngành công nghiệp và thúc
đẩy hoạt động liên minh chiến lƣợc trong khâu R&D.
Liên doanh
Mặc dù đây là hình thức liên minh có nhiều ƣu điểm, nhƣng nhiều doanh
nghiệp vẫn không sẵn sàng tham gia các hoạt động liên doanh này, ngoại trừ có sự
bắt buộc hoặc khuyến khích từ chính phủ. Hình thức liên doanh chiến lƣợc bao gồm
chuyển giao nguồn vốn, nguồn nhân lực, và quan trọng hơn cả là khả năng công
nghệ từ những đối tác nƣớc ngoài sang một doanh nghiệp địa phƣơng đang tồn tại
(đổi lại, doanh nghiệp nội địa này sẽ cung cấp khả năng am hiểu thị trƣờng và một
số khả năng có thể bổ sung cho doanh nghiệp nƣớc ngoài).
Chuyển giao công nghệ là vấn đề quan trọng cho cả đối tác nƣớc ngoài lẫn
trong nƣớc. Bởi vì hình thức liên doanh này đƣợc hình thành trên cơ sở nguồn vốn
hoạt động đƣợc chia sẻ giữa những đối tác, nên sẽ có những rủi ro khi khả năng
công nghệ (cũng đƣợc xem là lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp) sẽ bị hao mòn vì
phải chia sẻ những thông tin quan trọng cho đối tác. Có thể lấy ví dụ là trƣờng hợp
các công ty Đông Á nhƣ Trung Quốc, Hàn Quốc liên doanh với các công ty hàng
đầu châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Khi liên doanh, các công ty chủ nhà sẽ tận dụng
71
cơ hội để học hỏi công nghệ từ đối tác và dần nâng cấp mình lên trong chuỗi giá trị
toàn cầu.
Nhìn chung, hoạt động liên minh là một quá trình không tự nhiên và hình
thành trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, đặc biệt là hình thức liên doanh. Do vậy, cần có
khung pháp lý rõ ràng nhằm thúc đẩy sự tin cậy lẫn nhau. Chẳng hạn có thể khuyến
khích hoạt động liên minh để giúp công ty yếu thế hơn trở thành đối tác, nhà cung
cấp và bổ sung lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp ngoại hơn là trở thành đối thủ
tiềm tàng của doanh nghiệp đối tác. Tuy nhiên, cũng cần có các chính sách và quy
định nhằm thúc đẩy và ngay cả bắt buộc phải có liên minh và liên doanh giữa doanh
nghiệp ngoại và doanh nghiệp nội tại một số ngành nhƣ là yêu cầu tham gia thị
trƣờng nhằm tạo cơ hội cho các công ty nội địa học hỏi từ các công ty tiên tiến hơn.
1.5. Năng lực nghiên cứu – sáng tạo công nghệ mới
Trong thời điểm hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam đƣợc tổ chức sắp xếp
lại và đã mang lại những tác động lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Công nghệ
lạc hậu sẽ không đáp ứng đƣợc yêu cầu ngày càng cao của phát triển kinh tế - xã
hội. Quá trình đổi mới với sự cố gắng, nỗ lực tập trung đầu tƣ ứng dụng các thành
tựu của khoa học, công nghệ hiện đại vào sản xuất mà trực tiếp là việc đổi mới máy
móc thiết bị kỹ thuật công nghệ phù hợp, đã tạo đƣợc bƣớc tiến mới nâng cao trình
độ công nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp, tạo ra năng suất lao động cao, chất
lƣợng sản phẩm đƣợc cải tiến, là cơ sở để mở rộng thị trƣờng hàng hóa của Việt
Nam cả trong và ngoài nƣớc. Doanh nghiệp là trung tâm của nghiên cứu – sáng tạo
công nghệ mới. Để thực hiện thành công cho nghiên cứu – sáng tạo công nghệ mới,
doanh nghiệp cần phát huy vai trò chủ động, sáng tạo. Doanh nghiệp cũng cần phải
thực hiện đầy đủ các giải pháp mang tính vi mô tƣơng tự nhƣ các giải pháp vĩ mô
tuy nhiên ở cấp độ doanh nghiệp và tập trung cụ thể vào các nội dung của doanh
nghiệp mình. Các nội dung nghiên cứu – sáng tạo công nghệ mới phải gắn liền với
doanh nghiệp, gắn liền với bảo vệ, cải thiện môi trƣờng sinh thái, phát triển bền
vững.
1.6. Năng lực lựa chọn mục tiêu chiến lƣợc
Mục tiêu của doanh nghiệp là toàn bộ kết quả cuối cùng hay trạng thái mà
doanh nghiệp muốn đạt tới trong một khoảng thời gian nhất định. Mục tiêu của
chiến lƣợc là kết quả cụ thể của doanh nghiệp cần đạt đƣợc khi thực hiện chiến
72
lƣợc. Thông thƣờng các doanh nghiệp chia mục tiêu thành hai loại: mục tiêu dài hạn
và mục tiêu ngắn hạn.
Một mục tiêu đúng đắn cần đạt đƣợc các tiêu thức sau:
- Tính nhất quán: đòi hỏi các mục tiêu này không làm cản trở việc thực hiện
các mục tiêu khác. Đây là yêu cầu đầu tiên, đóng vai trò quan trọng để đảm bảo
rằng hệ thống mục tiêu phải đƣợc thực hiện và phải hƣớng vào hoàn thành các mục
tiêu tổng quát của từng thời kỳ chiến lƣợc.
- Tính cụ thể: xét trên phƣơng diện lý luận, khoảng thời gian càng dài bao
nhiêu thì hệ thống mục tiêu càng giảm bấy nhiêu. Tuy nhiên, yêu cầu về tính cụ thể
của hệ thống mục tiêu không đề cập đến tính dài ngắn của thời gian mà yêu cầu mục
tiêu chiến lƣợc phải đảm bảo tính cụ thể. Muốn vậy, khi xác định mục tiêu chiến
lƣợc cần chỉ rõ: Mục tiêu liên quan đến vấn đề gì? Giới hạn thời gian thực hiện? Kết
quả cụ thể cuối cùng cần đạt.
- Tính khả thi: mục tiêu chiến lƣợc là mục tiêu doanh nghiệp xác định trong
thời kỳ chiến lƣợc xác định. Do đó các mục tiêu này đòi hỏi ngƣời có trách nhiệm
một sự cố gắng trong việc thực hiện nhƣng lại không quá cao mà phải sát thực và có
thể đạt đƣợc. Có nhƣ vậy hệ thống mục tiêu mới có tác dụng khuyến khích nỗ lực
vƣơn lên của mọi bộ phận (cá nhân) trong doanh nghiệp và cũng không quá cao đến
mức làm nản lòng ngƣời thực hiện. Vì vậy, giới hạn của sự cố gắng là ―vừa phải‖
nếu không sẽ không đem lại hiệu quả mong muốn.
- Tính linh hoạt: môi trƣờng kinh doanh thƣờng xuyên thay đổi nên đòi hỏi
hệ thống mục tiêu phải linh hoạt để có thể điều chỉnh khi môi trƣờng kinh doanh
thay đổi. Tính linh hoạt là điều kiện đảm bảo để biến các mục tiêu chiến lƣợc thành
hiện thực. Đây là đặc trƣng quan trọng của chiến lƣợc so với kế hoạch khi xác định
mục tiêu.
Quá trình soạn thảo chiến lƣợc, doanh nghiệp cần xác định rõ nhiệm vụ và
mục tiêu theo đuổi để làm căn cứ quyết định các nội dung chiến lƣợc và tổ chức
thực thi chiến lƣợc đó. Điều quan trọng trong phần này là giữa nhiệm vụ và mục
tiêu phải ăn khớp nhau, có mối quan hệ qua lại hữu cơ. Mục tiêu phải luôn có sự
linh hoạt, thay đổi phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội.
73
1.7. Năng lực thích nghi với chuẩn và thông lệ quốc tế
Thông lệ quốc tế (International best practices) là những quy tắc, chuẩn mực,
tiêu chuẩn… mà nhiều quốc gia, tổ chức, liên minh hay cộng đồng chung trên thế
giới đã thống nhất sử dụng. Khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng hơn với thế
giới thì hàng loạt các quy định, tiêu chuẩn trong các lĩnh vực quản lý của chúng ta
đã, đang và sẽ đƣợc xây dựng theo đúng hay ít nhất là gần sát với thông lệ quốc tế.
Công bằng mà nói, thông lệ quốc tế là những quy tắc, chuẩn mực, tiêu
chuẩn... đã đƣợc kiểm chứng. Với các lĩnh vực đã có thông lệ quốc tế thì chúng ta
(với tƣ cách là quốc gia đi sau) sẽ có lợi thế là không phải mất quá nhiều thời gian
để nghiên cứu, thí điểm.
Hiện nay, các chuẩn mực và thông lệ quốc tế đã đƣợc hầu hết các quốc gia
trên thế giới áp dụng theo những cách thức khác nhau, mang lại nhiều lợi ích thiết
thực cho doanh nghiệp cũng nhƣ nền kinh tế. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, đòi hỏi đặt ra đối với doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay là cần sớm thúc đẩy nghiên cứu, áp dụng thích nghi với chuẩn và
thông lệ quốc tế trong tƣơng lai gần.
Nhóm yếu tố bên ngoài tác động đến năng lực đổi mới của doanh nghiệp bao
gồm:
2.1. Quan hệ liên kết
Mối quan hệ hợp tác giữa nhà trƣờng và doanh nghiệp là điều có ý nghĩa rất
quan trọng. Sự hiệp lực giữa trƣờng đại học với nhà nƣớc và các doanh nghiệp đƣợc
coi là động lực cốt yếu của xã hội và nền kinh tế dựa trên tri thức. Thành công của
mối quan hệ hợp tác này có thể là kết quả nâng cao chất lƣợng đào tạo và triển vọng
việc làm tƣơng lai cho sinh viên, hay những nghiên cứu do các trƣờng thực hiện và
việc chuyển giao công nghệ, tri thức cho khu vực sản xuất kinh doanh. Thêm vào đó
còn có những kết quả gián tiếp nhƣ hỗ trợ cho sự phát triển của kinh tế tri thức, hỗ
trợ các doanh nghiệp địa phƣơng, tạo ra công ăn việc làm, kích thích tăng trƣởng
kinh tế và nâng cao tiêu chuẩn sống.
Có thể định nghĩa quan hệ hợp tác giữa nhà trƣờng và doanh nghiệp là tất cả
mọi hình thức tƣơng tác trực tiếp hay gián tiếp, có tính chất cá nhân hay tổ chức
giữa trƣờng đại học và các doanh nghiệp nhằm hỗ trợ lẫn nhau vì lợi ích của cả hai:
hợp tác trong nghiên cứu và phát triển, kích thích sự vận động năng động qua lại
74
của giảng viên, sinh viên và các nhà chuyên môn đang làm việc tại các doanh
nghiệp; thƣơng mại hóa các kết quả nghiên cứu; xây dựng chƣơng trình đào tạo; tổ
chức học tập suốt đời; hỗ trợ các nỗ lực sáng nghiệp và quản trị tổ chức.
Trên toàn thế giới, mọi quốc gia đều đang đƣơng đầu với những thách thức
to lớn trong việc không ngừng đáp ứng với đòi hỏi của một thị trƣờng toàn cầu hóa,
quốc tế hóa cao độ và năng động chƣa từng có. Sân chơi của một thế giới phẳng
khiến tất cả các nƣớc đều đối mặt với một thách thức cách đây năm mƣơi năm là
không thể hình dung ra đƣợc, do khả năng tiếp cận và hòa nhập với thị trƣờng toàn
cầu đã mở rộng hơn bao giờ hết. Trong một vài thập kỷ vừa qua, đã có một sự thay
đổi nhanh chóng trong nhận thức của các nhà hoạch định chính sách cũng nhƣ các
nhà quản lý đại học, về cái đƣợc gọi là ―sứ mạng thứ ba‖ của trƣờng đại học.
Thông qua sứ mạng này, vai trò của các trƣờng đại học tập trung vào việc
đóng góp cho xã hội bằng những cách thức có ý nghĩa thực tiễn nhƣ sáng tạo tri
thức mới và chuyển giao công nghệ. Những năm gần đây, nhiều trƣờng đại học rất
có ý thức về việc đóng góp cho xã hội, nhƣ là tổ chức đào tạo kiến thức liên ngành,
hỗ trợ khởi nghiệp, tổ chức các buổi đối thoại, giao lƣu giữa sinh viên và doanh
nghiệp. Nhờ đó, những giá trị từ việc liên kết với doanh nghiệp đã trở nên ngày
càng quan trọng đối với các trƣờng và ngày càng đƣợc nhân lên rộng rãi.
Nhƣ đã nêu khái quát ở phần trên, ta thấy có nhiều hình thức hợp tác đa dạng
giữa nhà trƣờng và doanh nghiệp:
- Hợp tác trong nghiên cứu: Đây là hình thức hợp tác cao nhất giữa nhà
trƣờng và doanh nghiệp, nhƣng thực tế còn diễn ra rất khiêm tốn. Mục đích của sự
hợp tác này là hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu của nhà trƣờng, thực hiện các dự án
liên kết. Các trƣờng đại học có thể tìm kiếm sự hợp tác này bằng cách chủ động giới
thiệu với doanh nghiệp những chƣơng trình nghiên cứu khả dĩ đem lại lợi ích trực
tiếp cho doanh nghiệp.
- Thƣơng mại hóa các kết quả nghiên cứu: Đây là điều khá phổ biến trong
các nƣớc phát triển mặc dù còn ít đƣợc giới nghiên cứu trong trƣờng đại học chú ý.
Nó bao gồm cả chuyển giao công nghệ. Ở các nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam,
để có thể đẩy mạnh hình thức hợp tác này, rất cần phải củng cố bộ khung thể chế
bảo đảm việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Hoạt động này cần thúc đẩy lợi ích của
cả ba bên, giới hàn lâm, nhà trƣờng và doanh nghiệp, và ủng hộ các nỗ lực của họ.
75
- Thúc đẩy khả năng di động của sinh viên: Bằng cách tạo ra các cơ chế hỗ
trợ, ví dụ nhƣ đƣa sinh viên đi thực tập và tạo ra cơ hội giao lƣu để sinh viên có các
trải nghiệm của thế giới bên ngoài nhà trƣờng. Tăng cƣờng phối hợp với phòng
nhân sự của các công ty, doanh nghiệp để tạo điều kiện cho sinh viên thử việc.
- Thúc đẩy khả năng di động của giới nghiên cứu: Khuyến khích những hoạt
động giao lƣu hay hợp đồng làm việc ngắn hạn của giới nghiên cứu trong trƣờng đại
học tại doanh nghiệp nhằm xây dựng quan hệ, chia sẻ quan điểm và nắm bắt thực tế.
Cần có luật lệ, quy định để quyền lợi của giảng viên (nhƣ hƣu bổng, kỳ nghỉ, sự
thăng tiến, v.v.) không bị ảnh hƣởng bởi thời gian làm việc ngắn hạn nhƣ thế.
- Xây dựng và thực hiện chƣơng trình đào tạo: Có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc nâng cao chất lƣợng đào tạo và giúp sinh viên thích ứng tốt với đòi hỏi
của thị trƣờng lao động. Cần khuyến khích sự tham gia của giới doanh nghiệp vào
việc xây dựng và cập nhật chƣơng trình của nhà trƣờng, thông qua các cuộc thảo
luận và trao đổi thông tin. Thậm chí, có thể tính đến việc mời các chuyên gia đang
làm việc tại các doanh nghiệp đảm nhận một phần việc giảng dạy trong nhà trƣờng.
- Hỗ trợ các hoạt động khởi nghiệp: Nâng cao tinh thần khởi nghiệp trong
nhà trƣờng, tạo ra một văn hóa kích thích giảng viên và sinh viên suy nghĩ và hành
động với tinh thần khởi nghiệp, giúp giảng viên và sinh viên thoát ra khỏi lối mòn
tƣ duy.
2.2. Khung pháp lý
Hiện nay, ở Việt Nam, vấn đề hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đã trở nên
quen thuộc và không thể thiếu đối với cộng đồng doanh nghiệp. Bởi lẽ, năng lực
tiếp cận các văn bản, hệ thống chính sách pháp luật của doanh nghiệp còn rất nhiều
hạn chế mà chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan từ chính các doanh nghiệp chƣa
thực sự tìm hiểu các chính sách pháp luật để nâng cao năng lực của mình trong sản
xuất, kinh doanh. Một số giải pháp có thể kể đến nhƣ: Hoàn thiện khung pháp lý
cho doanh nghiệp hoạt động; tăng cƣờng năng lực tiếp cận thông tin chính sách
pháp luật; tăng cƣờng công tác đào tạo, bồi dƣỡng kiến thức pháp luật cho doanh
nghiệp, tổ chức các hoạt động dƣới nhiều hình thức nhằm tuyên truyền, khuyến cáo
doanh nghiệp thực thi pháp luật; xây dựng mạng lƣới tƣ vấn, hỗ trợ pháp lý cho
doanh nghiệp tại các vùng, địa phƣơng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
76
Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn,
hạn chế sau: (i) Khó khăn trong tiếp cận vốn vay, hồ sơ vay vốn phức tạp; 50%
thiếu tài sản có giá trị cao để thế chấp, ngân hàng không đa dạng hóa tài sản thế
chấp nhƣ hàng trong kho, các khoản thu; 80% tỷ lệ lãi suất chƣa phù hợp; các điều
kiện vay vốn hiện nay chƣa phù hợp với doanh nghiệp; việc tiếp cận từ các quỹ hỗ
trợ, quỹ bảo lãnh doanh nghiệp cũng vô cùng khó khăn; (ii) Khó khăn về công
nghệ: Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa đƣợc kỳ vọng là có thể đóng góp vào sự phát
triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ hoặc đóng vai trò là nhà cung ứng dịch vụ,
sản phẩm đầu vào cho các doanh nghiệp nƣớc ngoài hoặc các dự án lớn của Nhà
nƣớc. Quá trình này sẽ thúc đẩy cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trở thành trụ cột
để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Trong thời gian qua, Nhà nƣớc ta đã ban
hành hàng loạt các chính sách pháp luật, có thể nói hệ thống pháp luật trong kinh
doanh ngày càng hoàn thiện, mặc dù vậy, năng lực tiếp cận với các văn bản và hệ
thống chính sách pháp luật của doanh nghiệp nhỏ và vừa còn rất nhiều hạn chế, bắt
nguồn từ nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan, nguyên nhân khách quan
do nội tại của nền kinh tế nƣớc ta nhƣ: Cải cách hành chính diễn ra còn chậm, chính
sách kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, gây mất lòng tin cho doanh nghiệp... Tuy nhiên,
phần lớn là do chủ quan các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam chƣa thực sự
tìm hiểu các chính sách pháp luật và thông lệ quốc tế để nâng cao năng lực của
chính mình trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đây là vấn đề rất đáng lƣu tâm
đòi hỏi Nhà nƣớc và doanh nghiệp phải có những giải pháp đồng bộ nhằm thay đổi
nhận thức, tăng cƣờng năng lực tiếp cận với các thông tin, chính sách pháp luật và
thông lệ quốc tế trong kinh doanh. Chính vì vậy, nhu cầu đƣợc tiếp cận các thông
tin pháp lý, các kiến thức pháp luật về kinh doanh đối với doanh nghiệp là rất cần
thiết để tăng cƣờng năng lực cạnh tranh của mình, cụ thể là:
Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động. Việc ban
hành các văn bản chính sách liên quan đến doanh nghiệp phải đƣợc thực hiện theo
hƣớng tạo những điều kiện thông thoáng nhất cho doanh nghiệp hoạt động (nhƣ
trong lĩnh vực đấu thầu, đất đai, thuế, đầu tƣ, phá sản doanh nghiệp…). Không làm
chính sách theo lối ―không quản đƣợc thì cấm hay hạn chế‖, hay ban hành văn bản,
chính sách thì tùy tiện, thiếu cân nhắc và xa lạ với thực tế đời sống thƣờng ngày,
giảm bớt các quy định, giấy phép can thiệp hành chính vào thị trƣờng.
77
Thứ hai, tăng cường năng lực tiếp cận thông tin chính sách pháp luật cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc xây dựng trang thông tin điện tử về hỗ trợ pháp lý
cho doanh nghiệp là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, hiện nay chúng ta chƣa
có một chuyên trang riêng biệt về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, với
đặc điểm chính của Việt Nam đa phần là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hiện nay,
chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đƣợc ban hành rất nhiều, từ cấp
Chính phủ đến các bộ, ngành, địa phƣơng về các lĩnh vực nhƣ trợ giúp doanh
nghiệp nhỏ và vừa, về thuế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ công nghiệp phụ
trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích doanh nghiệp đầu tƣ vào nông
nghiệp nông thôn, chính sách khoa học công nghệ đối với doanh nghiệp... Các văn
bản này nằm tản mạn tại các bộ, ngành và địa phƣơng và thực tế các doanh nghiệp
nhỏ và vừa Việt Nam rất khó tiếp cận. Chính vì vậy, để phù với tinh thần của Hiến
pháp năm 2013, đề nghị cần hình thành chuyên trang về hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp và liên kết đến các trang thông tin của các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp
để cung cấp thông tin một cách có hệ thống các văn bản chính sách pháp luật đến
đƣợc với doanh nghiệp.
Thứ ba, tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho
doanh nghiệp, tổ chức các hoạt động dưới nhiều hình thức nhằm tuyên truyền
khuyến cáo doanh nghiệp thực thi pháp luật. Thực tiễn trong những năm qua nhiều
doanh nghiệp phản ánh về những khó khăn của họ trong quá trình thực hiện các
hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp do không có nguồn lực, đội ngũ cán bộ
không có kỹ năng, không đƣợc đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ hỗ trợ pháp lý cho
doanh nghiệp. Do vậy, ngoài việc tập trung vào việc đào tạo bồi dƣỡng kiến thức
pháp luật kinh doanh cho chủ sở hữu, ngƣời quản lý doanh nghiệp, cần xây dựng
thêm các chƣơng trình bồi dƣỡng kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ thực hiện công tác
hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, đặc biệt là về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp.
Thứ tư, về xây dựng mạng lưới tư vấn hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại
các vùng, địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Hiện nay, Hiệp hội
doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam có hệ thống mạng lƣới tại 49 tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ƣơng, đó là các Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa các tỉnh, thành
phố. Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Quản lý Chƣơng trình hỗ trợ pháp lý liên ngành
78
dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2015 - 2020 (Chƣơng trình 585), Hiệp hội doanh
nghiệp nhỏ và vừa đã cử cán bộ tham gia tổ chuyên gia xây dựng đề án thí điểm xây
dựng mạng lƣới tƣ vấn pháp luật tại các các vùng, địa phƣơng có điều kiện kinh tế -
xã hội khó khăn. Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam sẽ có trách nhiệm
hƣớng dẫn các Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa địa phƣơng làm tốt vai trò đầu
mối khi triển khai mạng lƣới tƣ vấn pháp luật cho các doanh nghiệp tại các địa bàn
khó khăn tại các địa phƣơng đƣợc lựa chọn.
3.4. Lƣợng hoá các tiêu chí
Trong đánh giá, ngƣời ta luôn mong có thể lƣợng hoá đƣợc hiện trạng của
đối tƣợng đánh giá để kết quả đánh giá mang tính định lƣợng, nếu không lƣợng hoá
đƣợc thì việc đánh giá sẽ không đem lại kết quả, hoặc kết quả không đủ độ tin cậy
để sử dụng.
Hình 17: Yếu tố cản trở hoạt động đổi mới
(Kết quả khảo sát của luận văn)
Kết quả khảo sát tại Dreamlab cho thấy hoạt động đổi mới của doanh nghiệp
gặp các rào cản đến từ cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Trên thực tế, hiện
nay ở Việt Nam pháp luật liên quan đến doanh nghiệp KH&CN chƣa đồng bộ với
các Luật trong một số lĩnh vực có liên quan (ví dụ nhƣ Luật Đất đai), dẫn tới việc
doanh nghiệp KH&CN chƣa đƣợc hƣởng ƣu đãi theo quy định. Cụ thể, doanh
79
nghiệp KH&CN chƣa đƣợc hƣởng những ƣu đãi liên quan đến quyền sử dụng đất,
đƣợc thuê đất, cơ sở hạ tầng với mức giá thấp nhất theo khung giá của Nhà nƣớc tại
địa phƣơng nơi doanh nghiệp KH&CN thuê, đặc biệt đối với các doanh nghiệp
KH&CN nằm ngoài các khu công nghệ cao. Bên cạnh đó, chính sách thuế của Nhà
nƣớc đối với một số ngành, lĩnh vực hiện còn một số điểm chƣa hợp lý đối với việc
khuyến khích phát triển doanh nghiệp KH&CN. Ví dụ, trong việc quy định áp dụng
mức thuế nhập nguyên liệu cao hơn mức thuế sản phẩm nhập khẩu của một số mặt
hàng mà đại đa số các doanh nghiệp tại Việt Nam chƣa sản xuất đƣợc, khiến cho
sản phẩm mà doanh nghiệp KH&CN đầu tƣ nghiên cứu và thực hiện sản xuất trong
nƣớc (chịu mức thuế cao do nhập nguyên liệu) phải cạnh tranh không bình đẳng với
sản phẩm nhập khẩu (đƣợc áp dụng mức thuế suất rất thấp, thậm chí là 0%). Và
Việt Nam cũng thiếu các văn bản hƣớng dẫn triển khai thực hiện các cơ chế, chính
sách trong ngành, khiến các nội dung ƣu đãi cũng chƣa thể triển khai trong thực
tiễn. Ví dụ, quy định liên quan đến kinh phí, hồ sơ để xác nhận đánh giá các kết quả
KH&CN do doanh nghiệp tự đầu tƣ cho hoạt động R&D; việc xây dựng, áp dụng
tiêu chuẩn, quy chuẩn của các vật liệu mới, công nghệ mới,… Chính những hiện
trạng về chính sách nhƣ vậy ảnh hƣởng không nhỏ đến sự phát triển của doanh
nghiệp
Hình 18: Các hoạt động đổi mới của Dreamlab trong 5 năm trở lại đây
Trong đề tài này tác giả lƣợng hoá hiện trạng của các tiêu chí bằng cách đƣa
ra thang điểm, mức điểm, tổng điểm: Để thực hiện việc lƣợng hoá tác giả đƣa điểm
tối đa cho từng tiêu chí và ra tổng điểm cho 04 tiêu chí. Trong đó, điểm tối đa của
80
các tiêu chí không giống nhau; Tổng điểm cho 12 tiêu chí là 100 điểm; Điểm của
tiêu chí sẽ chia ra điểm cho các tiêu chí thành phần; Điểm của tiêu chí thành phần
cũng không giống nhau.Việc đƣa ra mức điểm cho các tiêu chí là để đƣa về cùng
một mặt bằng để đánh giá.
Cụ thể về việc lƣợng hoá các tiêu chí và các tiêu chí thành phần đƣợc thể
hiện trong bảng dƣới đây:
Bảng 5: Tiêu chí và các tiêu chí thành phần cấu thành năng lực đổi mới của
doanh nghiệp
Điểm tối đa ( 100 điểm) và mức
STT
Tên tiêu chí và các tiêu chí
điểm cúa các tiêu chí thành phần
thành phần
Điểm tối đa: 20 điểm 1. Năng lực của nhân lực thuộc doanh
nghiệp
- LĐ chƣa qua đào tạo:
- Cơ cấu, tỷ lệ về: trình độ của nhân lực
thuộc doanh nghiệp (lao động phổ thông, ≥ 10 ≤ 20%: 2 điểm;
công nhân kỹ thuật, Kỹ thuật viên, kỹ sƣ ≥ 20 ≤ 30%: 1 điểm;,
và tƣơng đƣơng). - Công nhân kỹ thật:
≥ 10 ≤ 20%: 1 điểm;
≥ 20 ≤ 30%: 2 điểm;
≥ 30 ≤ 40%: 3 điểm;
- Kỹ thuật viên:
≥ 5 ≤ 10%: 1 điểm;
≥ 10 ≤ 20%: 2 điểm;
- Kỹ sƣ và tƣơng đƣơng:
≥ 5 ≤ 10%: 1 điểm;
≥ 10 ≤ 20%: 2 điểm;
- Nhận xét về trình độ của nhân lực với - Đáp ứng yêu cầu: 1 điểm
yêu cầu của doanh nghiệp - Không đáp ứng yêu cầu: 0 điểm
- Nhận xét về năng lực làm việc của - Đáp ứng yêu cầu: 2 điểm
nhân lực thuộc doanh nghiệp - Không đáp ứng yêu cầu: 0 điểm
- Nhận xét về năng lực của đội ngũ nhân - Đáp ứng yêu cầu: 2 điểm
lực trong việc đƣa công nghệ mới vào - Không đáp ứng yêu cầu: 0 điểm
81
hoạt động
Điểm tối đa: 50 điểm 2. Nguồn lực doanh nghiệp
2.1. Năng lực về vốn
- Khả năng đáp ứng yêu cầu vốn cho sản - Có: 1 điểm
xuất, kinh doanh từ nguồn vốn tự có của - Không: 0 điểm
DN
- Khả năng huy động vốn từ các tổ chức - Có: 1 điểm
tín dụng để ĐMCN của DN - Không: 0 điểm
- Khả năng huy động vốn ngoài các tổ - Có: 1 điểm
chức tín dụng để ĐMCN của DN - Không: 0 điểm
- Khả năng huy động vốn từ nguồn quỹ - Có: 1 điểm
đầu tƣ mạo hiểm để thực hiện dự án - Không: 0 điểm
ĐMCN
2.2. Năng lực hạ tầng, cơ sở vật chất
Doanh nghiệp có phòng thí nghiệm - Có: 1 điểm
hay không? - Không: 0 điểm
Khả năng về hạ tầng, cơ sở vật chất có - Có: 1 điểm
đáp ứng đƣợc nhu cầu ĐMCN của DN - Không: 0 điểm
hay không?
2.3. Năng lực về thông tin công nghệ
- Bộ phận thông tin công nghệ của DN - Có: 1 điểm
- Không: 0 điểm
- Hệ thống trang thiết bị để thu thập, - Có: 1 điểm
khai thác và lƣu giữ thông tin về công - Không: 0 điểm
nghệ tại DN
- Xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu về - Có: 1 điểm
82
công nghệ tại DN - Không: 0 điểm
- Mức độ đáp ứng của hệ thống thông - Đáp ứng 1 phần: 1 điểm
tin, dữ liệu cho hoạt động NC&TK tại - Đáp ứng đƣợc các yêu cầu: 2
điểm DN
- Không đáp ứng đƣợc nhu cầu: 0
điểm
2.4. Năng lực hoạt động nghiên cứu và
triển khai của doanh nghiệp
- DN có đơn vị chuyên về hoạt động - Có: 1 điểm
nghiên cứu và triển khai hay không? - Không: 0 điểm
- Số lƣợng kết quả nghiên cứu đƣợc đơn - Dƣới 3: 0,3 điểm
vị NC&TN áp dụng thử nghiệm - Dƣới 5: 0,5 điểm
- Dƣới 7: 0,7 điểm
- Dƣới 10: 1 điểm
- Các hoạt động ĐMCN đƣợc thực hiện ĐM quy trình CN: 01 điểm
từ kết quả của hoạt động NC&TN của ĐM công đoạn: 01 điểm
DN ĐM nguyên liệu: 0,5 điểm
ĐM chi tiết: 0,3 điểm
ĐMCN chế tạo: 01 điểm
ĐM vật liệu: 0,5 điểm
ĐM công dụng của SP: 0,5 điểm
ĐM chức năng: 01 điểm
- Số sản phẩm mới đƣợc đƣa ra thị ≤ 2 sản phẩm: 0,1 điểm
trƣờng trên cơ sở NC&TN tại DN trong 2 ≤ 4 sản phẩm: 0,3 điểm
05 năm trở lại đây > 4 sản phẩm: 0,5 điểm
2.5. Năng lực làm chủ công nghệ.
- Hiểu về tổng quan công nghệ đang sử Hiểu đƣợc: 1 điểm
dụng Ở một số khâu: 0,5 điểm
Không: 0 điểm
- Khả năng đọc và hiểu về tài liệu lắp đặt Đủ năng lực: 1 điểm
và vận hành dây chuyền công nghệ Đủ 1 số công đoạn: 0,5 điểm
83
Không đủ năng lực: 0 điểm
- Khả năng đọc và hiểu về tài liệu Đủ năng lực: 1 điểm
bảo dƣỡng, sửa chữa thiết bị công nghệ Đủ 1 số công đoạn: 0,5 điểm
Không đủ năng lực: 0 điểm
- Điều kiện hạ tầng cơ sở để tiếp nhận Đủ năng lực: 1 điểm
công nghệ (mặt bằng lắp đặt thiết bị Đủ 1 số công đoạn: 0,5 điểm
công nghệ, điện, nƣớc và công trình phụ Không đủ năng lực: 0 điểm
trợ)
- Khả năng tự đƣa công nghệ mới vào Đủ năng lực: 1 điểm
hoạt động của DN Đủ 1 số công đoạn: 0,5 điểm
Không đủ năng lực: 0 điểm
2.6. Năng lực cải tiến – nâng cấp công
nghệ.
- Sự quan tâm thƣờng xuyên đến việc cải - Có: 1 điểm
tiến quy trình công nghệ tại DN - Không: 0 điểm
- Hoạt động xử lý thông tin cho nghiên - Có: 1 điểm
cứu cải tiến quy trình công nghệ - Không: 0 điểm
- Các quy trình công nghệ đƣợc cải - Có: 1 điểm
tiến trong 5 năm trở lại đây (kể tên). - Không: 0 điểm
- Các hình thức thực hiện cải tiến quy Tự thực hiện: 1 điểm
trình công nghệ tại DN Thông qua chuyên gia: 0,5đ
- Doanh nghiệp có đơn vị tìm kiếm và - Có: 1 điểm
lựa chọn công nghệ (TK&LCCN) - Không: 0 điểm
không?
- Năng lực đàm phán Hợp đồng chuyển - Có: 1 điểm
giao công nghệ có đáp ứng đƣợc nhu cầu - Không: 0 điểm
của DN hay không?
- Hiểu biết về các nội dung của hợp - Có: 1 điểm
đồng CGCN - Không: 0 điểm
- Kinh nghiệm về đàm phán một hợp - Có: 1 điểm
đồng CGCN - Không: 0 điểm
84
2.7. Năng lực nghiên cứu – sáng tạo công
nghệ mới.
- Ý tƣởng về ĐMCN cho DN trong 5 - Có: 02 điểm
năm trở lại đây (tên ý tƣởng) - Không: 0 điểm
- Số lƣợng ý tƣởng về đổi ĐMCN cho - ≤ 1: 01 điểm
DN đƣợc đƣa ra xem xét (tên ý tƣởng) - 2-3: 02 điểm
- 4-5: 03 điểm
- Những ý tƣởng về ĐMCN cho DN - 1: 02 điểm
đƣợc đƣa vào triển khai thực hiện - 2-3: 03 điểm
- 4-5: 05 điểm
- Lý do những ý tƣởng về ĐMCN cho - Ý tƣởng tốt nhƣng:
doanh nghiệp đƣợc đƣa ra xem xét, + Không phù hợp với DN: 02 điểm;
nhƣng không đƣợc đƣa vào triển khai + Không vay đƣợc vốn: 03 điểm
thực hiện. + Không có nhà đầu tƣ mạo hiểm
đầu tƣ: 03 điểm.
2.8 Năng lực lựa chọn mục tiêu chiến
lƣợc
- Doanh nghiệp có thƣờng xuyên thay - Có: 1 điểm
đổi các mục tiêu chiến lƣợc - Không: 0 điểm
- Mục tiêu chiến lƣợc của doanh nghiệp - Có: 1 điểm
thay đổi theo sự thay đổi của xã hội - Không: 0 điểm
- Có: 1 điểm 2.9 Năng lực thích nghi với chuẩn và
- Không: 0 điểm thông lệ quốc tế
Điểm tối đa: 15 điểm 3. Quan hệ liên kết.
- Mối quan hệ của DN với các trƣờng - Có: 5 điểm
trong cùng lĩnh vực - Không: 0 điểm
- Khả năng giới thiệu việc làm đối với - Có: 5 điểm
sinh viên sau khi ra trƣờng? - Không: 0 điểm
- DN có hỗ trợ kinh phí đối với các hoạt - Có: 5 điểm
động R&D tại nhà trƣờng hay không? - Không: 0 điểm
Điểm tối đa: 15 điểm 4. Khung pháp lý.
85
- Hiệu lực của các văn bản quy định về - Phát huy đƣợc hiệu lực: 5 điểm
đổi mới/cải tiến công nghệ - Không phát huy đƣợc hiệu lực: 0
điểm
Rào cản về mặt pháp lý đối với doanh - Có: 5 điểm
nghiệp - Không: 0 điểm
Rào cản về các chính sách vốn - Có: 5 điểm
- Không: 0 điểm
Qua đó, trong phạm vi đề tài này, năng lực đổi mới của doanh nghiệp Việt
Nam đƣợc tác giả đánh giá theo 04 cấp độ trên thang điểm 100. Bao gồm:
STT Thang điểm Năng lực đổi mới của doanh nghiệp
Trung bình
1.
Dƣới 40 điểm
Khá
2.
Từ 40 - 60 điểm
Tốt
3.
Từ 60 - 85 điểm
Rất tốt
4.
Từ 85 - 100 điểm
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Việc cải thiện môi trƣờng kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
và năng lực đổi mới của doanh nghiệp có mối quan hệ mật thiết và có vai trò quan
trọng trong thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Nhiệm vụ sắp tới của khoa học công
nghệ phải là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững, giữ vai
trò then chốt trong việc nâng cao trình độ lãnh đạo – quản lý đất nƣớc, phát triển lực
lƣợng sản xuất hiện đại, nâng cao năng suất, chất lƣợng, hiệu quả, tốc độ phát triển
và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển mạnh mẽ lực lƣợng sản xuất với trình
độ khoa học công nghệ ngày càng cao, đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất và thể
chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Tăng nhanh đầu tƣ cho khoa
học công nghệ một cách có trọng tâm, trọng điểm. Phát triển đồng bộ và sử dụng có
hiệu quả cơ sở vật chất và nhân lực. Đứng trƣớc sức ép cạnh tranh của cơ chế thị
trƣờng, xu hƣớng toàn cầu hoá, việc đổi mới công nghệ đang đƣợc các doanh
nghiệp, ngành, địa phƣơng hết sức quan tâm bởi nó đóng vai trò quyết định sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Sự thành công
86
của đổi mơí công nghệ phụ thuộc vào năng lực đổi mới, không thể đổi mới công
nghệ thành công khi không có hoặc năng lực đổi mới công nghệ không đáp ứng
đƣợc nhu cầu của sự phát triển kinh tế. Ở Việt Nam đánh giá công nghệ đƣợc xem
xét từ thập niên 70, nhƣng hoạt động đánh giá công nghệ chƣa đƣợc quan tâm đúng
mức, khoảng 10 năm trở lại đây một số địa phƣơng đã thực hiện việc đánh giá này
và tập trung chủ yếu vào trình độ công nghệ, về năng lực công nghệ chiếm tỷ lệ ít
hơn. Nguyên nhân của tình trạng trên từ nhƣng lý do sau:
Hệ thống phƣơng pháp luận chung về đánh giá năng lực công nghệ hiện chƣa
có; phƣơng pháp đánh giá năng lực nói chung và năng lực đổi mới công nghệ nói
riêng rất thiếu và lạc hậu; Quan điểm đánh giá còn chƣa có sự thống nhất nên việc
đề xuất và áp dụng tiêu chí, phƣơng pháp đánh giá còn có sự khác nhau; Thiếu hệ
thống tiêu chí (công cụ quan trọng nhất trong hoạt động đánh giá), hoặc có nhƣng
không đầy đủ, nhất là về chuẩn so sánh và định lƣợng trong đánh giá;
Chƣa có nghiên cứu ở tầm bao quát để có thể đƣa ra tiêu chí và phƣơng pháp
có khả năng áp dụng chung vào hoạt động đánh giá năng lực công nghệ của doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp, một số nghiên cứu của lĩnh vực này mới đi vào một số
khía cạnh, chƣa có nghiên cứu mang tầm bao quát có thể giải quyết đƣợc một cách
cơ bản (bao gồm cả nghiên cứu tiêu chí và phƣơng pháp mà một số nƣớc đã áp
dụng để điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với điều kiện Việt Nam). Các cấp, các
ngành và cả doanh nghiệp thiếu quan tâm đến hoạt động này, chƣa thấy hết vai trò
của hoạt động đánh giá trong việc xây dựng kế hoạch và hoạch định chính sách;
chƣa thấy hết vai trò của năng lực công nghệ đối với sự phát triển và tăng trƣởng
kinh tế;
Đánh gía năng lực công nghệ là lĩnh vực khó, bởi các yếu tố đánh giá rất
rộng và luôn trong trọng thái động, nhƣng chúng ta lại thiếu phƣơng pháp luận,
thiếu cán bộ có kiến thức, kinh nghiệm trong lĩnh vực này, tổ chức hoạt động về
đánh giá công nghệ còn rất ít. Bởi vây, nghiên cứu đề xuất các luận điểm để xây
dựng các tiêu chí đánh giá năng lực đổi mới của doanh nghiệp Việt Nam trong bối
cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ giúp cho việc điều chỉnh, bổ sung và nâng
cao năng lực đổi mới phục vụ cho hoạt động đổi mới công nghệ vừa là nhiệm vụ
vừa trở thành giải pháp của doanh nghiệp.
87
Các tiêu chí đánh giá đƣợc xây dựng phải dựa trên cơ sở và đạt đƣợc các yêu
cầu sau:
- Yêu cầu của thực tiễn về đổi mới công nghệ về đánh giá năng lực đổi mới
công nghệ của các doanh nghiệp;
- Mối quan hệ giữa năng lực đổi mới công nghệ với đổi mới công nghệ;
- Cơ sở lý luận về công nghệ, thành phần công nghệ; đánh giá trình độ, năng
lực công nghệ và đánh giá năng lực đổi mới công nghệ; kế thừa các kết quả nghiên
cứu về năng lực công nghệ và đổi mới công nghệ về đánh giá năng lực công nghệ.
Tính khoa học trong hoạt động đổi mới công nghệ;
- Các yếu tố tác động và liên quan mật thiết đến đổi mới công nghệ trong
doanh nghiệp;
- Tiêu chí phải phản ánh trung thực khác quan về hiện trạng của đối tƣợng
đánh giá, đồng thời không tách rời các thành phần công nghệ.
Qua đó, tác giả xin đề xuất một số khuyến nghị nhƣ sau:
- Về phía doanh nghiệp: Cần xác định việc đánh giá năng lực công nghệ là
một nhiệm vụ của doanh nghiệp cần phải thực hiện trƣớc khi đổi mới công nghệ
họăc đánh giá theo định kỳ; Bố trí cán bộ tham dự các khoá học về quản lý công
nghệ tại doanh nghiệp (quản lý công nghệ, đổi mới công nghệ, chuyển giao công
nghệ...), các khoá tập huấn về đánh giá năng lực công nghệ; Dành kinh phí để
thực hiện việc đánh giá năng lực công nghệ phục vụ cho việc phát triển doanh
nghiệp; Tăng cƣờng hợp tác với các tổ chức khoa học và công nghệ, các nhà khoa
học, chuyên gia về công nghệ trong việc nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ nói chung, đánh gía năng lực công nghệ nói riêng.
- Về phía cơ quan Nhà nƣớc: Cần sớm thể chế hoá và lập pháp hoá hoạt động
đánh giá, sớm hình thành hệ thống đổi mới quốc gia; Có các biện pháp đảm bảo tính
thực thi của các quy định và biện pháp cũng nhƣ chính sách về phát triển và đổi mới
công nghệ; Tổ chức các khoá tập huấn nâng cao kiến thức cho cán bộ doanh nghiệp
về quản lý công nghệ tại doanh nghiệp, về đổi mới công nghệ, về chuyển giao công
nghệ…; Cung cấp thông tin về công nghệ, danh sách các tổ chức, chuyên gia hoạt
động trong lĩnh vực dịch vụ KH&CN cho các doanh nghiệp; Hỗ trợ các doanh
nghiệp trong việc đánh gía và đổi mới công nghệ.
88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam, năm 2019
2. Bộ KH&CN, 2015, Nghiên cứu kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động chuyển
giao công nghệ của Australia, đề xuất mô hình tổ chức và hoạt động CGCN phù
hợp cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
3. Bộ KH&CN, Tầm nhìn Việt Nam 2020, Tài liệu chuẩn bị phục vụ Đại hội Đảng
lần thứ IX, 2000.
4. Bộ KH&CN, Viện chiến lƣợc và chính sách KH&CN, Cải cách chính sách
nghiên cứu và phát triển trong bối cảnh chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng ở VN,
Nxb Nông nghiệp, 2004.
5. CIEM (2013), Năng lực cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp tại Việt
Nam: Kết quả điều tra năm 2012, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.
6. Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Chiến lƣợc phát triển KT-XH 2011-
2012 và nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011, đăng ngày 17/12/2013.
7. Cục Thông tin KH&CN Quốc gia (2013), Số liệu thống kê về hoạt động
KH&CN trong doanh nghiệp. Báo cáo Bộ KH&CN.
8. Cục Thông tin KH&CN quốc gia, Xếp hạng Chỉ số đổi mới toàn cầu năm 2017:
Việt Nam tăng 12 bậc, 2017
9. D.Larua.A Caillat, Kinh tế doanh nghiệp, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội 1992
10. Đảng Cộng sản VN, Nghị quyết của Bộ chính trị về Chính sách Khoa học và Kỹ
thuật,Nhà máy in Tiến bộ,1981.
11. Đoàn chuyên gia quốc tế IDRC, Báo cáo đánh giá về chính sách KH&CN và đổi
mới của VN, 1997.
12. Thủ tƣớng Nguyễn Tấn Dũng, Báo cáo của Thủ tƣớng về tình hình KT-XH tại kỳ
họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII, ngày 20/10/2014
13. Vũ Cao Đàm, Tuyển tập các công trình đã công bố, tập I Lý luận và phƣơng pháp
luận khoa học, Nxb Thế giới, 2009.
14. Vũ Cao Đàm, Tuyển tập các công trình đã công bố, tập III Nghiên cứu quản lý,
Nxb Thế giới, 2009.
89
15. Prof. Andy Neely & Dr. Jasper Hii, Năng lực đổi mới của doanh nghiệp,Tạp chí
kinh doanh Nang Yan – 1.1 – 2012, p. 49
16. Võ Văn Quang, Đánh giá năng lực sáng tạo doanh nghiệp, cập nhật lần cuối
27/04/2014, http://www.brandsvietnam.com/4113-Danh-gia-Nang-luc-Sang-tao-
Doanh-nghiep
17. Phạm Thị Thu Hằng (2016), Báo cáo về nhu cầu cập nhật thông tin công nghệ
mới trong doanh nghiệp, VCCI
18. Phạm Thành Nghị (2012), Mô hình sáng tạo của tổ chức trong doanh nghiệp Việt
Nam, Tạp chí Tâm lý học số 12 (2012)
19. Phùng Xuân Nhạ, Lê Quân (2013), Đổi mới của doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí
Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh, Tập 29, Số 4, trang 3.
20. Henny Romijn and Manuel Albaladejo, Yếu tố quyết định năng lực đổi mới trong
các doanh nghiệp nhỏ tại Anh, trang 4.
http://www3.qeh.ox.ac.uk/pdf/qehwp/qehwps40.pdf
21. Hoàng Văn Tuyên (2006). Nghiên cứu quá trình phát triển chính sách đổi mới
(innovation policy) – kinh nghiệm quốc tế và gợi suy cho Việt Nam. Báo cáo
tổng hợp đề tài (Viện CL&CS KH&CN).
22. Hoàng Văn Tuyên (2012). Mô hình tạo hành lang liên kết. Tạp chí chính sách và
quản lý KH&CN. Số 2/2012.
23. Klaus Schwab (2018), Cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ, NXB Thế giới, Hà
Nội.
24. Luật Doanh nghiệp năm 2014
25. Nguyễn Văn Thu (2007), Kinh nghiệm hỗ trợ đổi mới công nghệ đối với khu vực
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Canada‖, Tạp chí hoạt động khoa học, số 9;
26. PGS. TS. Phạm Minh Sơn, Hội nhập quốc tế - những thời cơ, thách thức, yêu cầu
đối với hoạt động đối ngoại của Việt Nam, Tạp chí Biên phòng Việt Nam, ngày
08/11/2012
27. TS. Phạm Quốc Trụ, Hội nhập quốc tế : một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
website : Nghiên cứu Biển Đông, đăng ngày 31/08/2011
28. Đặng Duy Thịnh (chủ biên), Cải cách chính sách nghiên cứu và phát triển trong
bối cảnh chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà
Nội, 2004
90
29. Đào Thanh Trƣờng (Chủ biên) (2015), Hệ thống Khoa học, Công nghệ và Đổi
mới sáng tạo ở Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế, NXB Thế giới, trang
100.
30. TS. Trần Công Yên (Chủ biên) (2012), Những kiến thức cơ bản về đổi mới sáng
tạo, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
31. Việt Nam hƣớng tới năm 2010, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001
Tài liệu tiếng Anh
32. Ahmed Mohammed Kamaruddeen, Nor Aini Yusof, Ilias Said (2009), Innovation
and Innovativeness: Difference and Antecedent Relationship, The IUP Journal of
Architecture, Vol II, No 1, 2010.
33. Andrew Smith, Jerry Courvisanos, JacquelineTuck, Steven McEachern, Building
innovation capacity: the role of human capital formation in enterprises—a review
of the literature, Department of Education, Employment and Workplace Relation,
trang 8. http://files.eric.ed.gov/fulltext/ED517803.pdf
34. Andy Neely, Jasper Hii (2012), The Innovative Cappaticy of Firms, Nang Yan
Bussiness Journal, page 47.
35. Carlsson, B., Jacobsson, S., Holmén, M. and Rickne (2002). A. Innovation
systems: analytical and methodological issues. Research Policy 31.
36. Edquist, C. and Hommnen, L. (2008). Small country innovation system. Edward
Elgar.
37. Erik Brynjolfsson and Andrew McAfee , The Second Machine Age: Work,
Progress and Prosperity in a Time of Brilliant Technologies, W.W.
Norton&Company, 2014
38. Galli, R. and Teubal, M. (1997). Paradigmatic shifts in national innovation
systems, in: Edquist, C. Systems of Innovation, Pinter, London, 1997.
39. Gault, F. (2010). Innovation strategies for a global economy. Edward Elgar.
40. Hekkert, M.P., Suurs, M.P., Negro, M.P., Kuhlmann, S. and Smits, R.E.H.M.
(2007). Functions of innovation systems: A new approach for analysing
technological change. Technological Forecasting & Social Change 74.
41. Marotti de Mello, Adriana; Demonel de Lima, Wander; Vilas Boas, Eduardo;
Sbragia, Roberto; Marx, Roberto, INNOVATIVE CAPACITY AND
ADVANTAGE: A CASE STUDY OF BRAZILIAN FIRMS, RAI - Revista de
91
Administração e Inovação, vol. 5, núm. 2, 2008, pp. 57-72 Universidade de São
Paulo São Paulo, Brasil
42. Momeni, Mostafa ; Nielsen, Susanne Balslev; Kafash, Mahdi Haghighi (2015),
Determination of Innovation Capability of Organizations: Qualitative Meta
Synthesis and Delphi Method, Proceedings of RESER2015 - Innovative Services
in the 21st Century, page 5.
92