MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam thực hiện mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với phương châm công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đến năm 2020 đưa đất nước cơ bản trở thành nước công nghiệp. Với
đường lối chính sách và cơ chế hợp lý, cùng với lộ trình hội nhập kinh tế quốc
tế phù hợp với điều kiện cụ thể, Việt Nam đã thực hiện được chủ trương đa
dạng hóa thị trường, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tranh thủ được các nguồn lực từ bên ngoài
và chủ động phát huy nội lực, nền kinh tế đất nước đã có những bước phát
triển vượt bậc với tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng trưởng bình quân
tăng gần 8% năm, xã hội ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững.
Động lực cơ bản đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp mà
Đảng và nhà nước ta đã đề ra, chính là nguồn nhân lực được đào tạo, đó là
nhân tố con người tham gia trực tiếp vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã
khẳng định: "Con người vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển.
Là nhân tố quyết định mọi thắng lợi".[ 9, tr 120]. Muốn thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước hết phải chú
trọng đến phát triển nguồn nhân lực mà chất lượng nguồn nhân lực đó phụ
thuộc vào chất lượng giáo dục. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX chỉ rõ:
"Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung
phương pháp dạy - học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục,
thực hiện chuẩn hóa hiện đại hóa và xã hội hóa".[11, tr 132]
Bên cạnh nhu cầu bức thiết nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế trọng
điểm, thì nhu cầu về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân đã đặt ra những
áp lực lớn của xã hội với mục tiêu của ngành y tế là đảm bảo cho mọi người
được chăm sóc sức khỏe cơ bản với chi phí thấp, góp phần thực hiện công
bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn hóa, trật tự an toàn
xã hội, tạo niềm tin của nhân dân đối với xã hội chủ nghĩa.
Trước yêu cầu của xã hội, để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước thì vấn đề chăm sóc sức khỏe cho nhân dân đã được
Đảng, Nhà nước và Chính phủ đề cao. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ IV đã đề ra: "Một số vấn đề cấp bách trong sự nghiệp chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe nhân dân", Nghị quyết 37 của Chính phủ về "Định hướng
chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân đến năm 2000 và 2020"
đã cho thấy tầm quan trọng của vấn đề đó.
Tuy nhiên, việc chăm sóc và sức khỏe cho nhân dân có tốt hay không
thì một trong các yếu tố quan trọng hàng đầu là đội ngũ cán bộ y tế, đó là
nguồn nhân lực, là người trực tiếp khám và cung cấp các dịch vụ y tế cho
nhân dân. Các dịch vụ này có tốt hay không phần lớn phụ thuộc vào chính bản
thân người thầy thuốc. Một người thầy thuốc giỏi về chuyên môn, tận tụy với
nghề nghiệp, có lương tâm đạo đức tốt thì chất lượng phục vụ sẽ tốt , đặc biệt
là ở những vùng khó khăn về kinh tế, vùng sâu vùng xa, hải đảo nơi mà cán
bộ y tế vừa thiếu, vừa yếu trang bị còn nhiều thiếu thốn thì vai trò của người
thầy thuốc còn quan trọng hơn nữa.
Từ nhận thức đó, chúng tôi chọn đề tài “Vấn đề đào tạo nguồn nhân
lực ngành Y tế ở Việt Nam hiện nay” để thực hiện luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
triết học đồng thời mong góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng đào
tạo nhân lực y tế ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực nói
chung, và nguồn nhân lực trong ngành Y tế nói riêng, gần đây có nhóm đề tài
đề cập đến vấn đề đó:
- Đề tài khoa học “Nghiên cứu quản lý nguồn nhân lực y tế trong thời
kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước" do tác giả Lê Quang Hoành
2
cùng các cộng sự - thuộc “Viện chiến lược và chính sách y tế” thực hiện nhằm
nêu lên những vấn đề bất cập, những khó khăn trong công tác quản lý nguồn
nhân lực y tế ở các cấp đồng thời đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm giúp
nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng nguồn nhân lực y tế đảm bảo về chất
lượng và số lượng cho nhu cầu chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân trong
thời kỳ CNH và HĐH đất nước.
- Đề tài khoa học "Một số vấn đề về cơ sở khoa học, thực tiễn của việc
xã hội hóa y tế" do Thạc sĩ Vũ Thị Minh Hạnh thực hiện nhằm làm rõ một số
cơ sở khoa học và thực tiễn của vấn đề xã hội hóa y tế ở nước ta giai đoạn
hiện nay.
- Đề tài khoa học “Đánh giá hiệu quả hoạt động của bác sĩ
xã/phường tại một số địa phương” do tác giả Lưu Hoài Chuẩn và các cộng
sự thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động của bác sĩ tuyến xã/phường và
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của họ.
- Luận văn thạc sĩ khoa học triết học “Xu hướng và giải pháp phát
triển nguồn nhân lực ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” do Tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân thực hiện nhằm phân tích những xu
hướng và đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong
thời kỳ CNH, HĐH.
- Trong những năm gần đây đã có một số bài nghiên cứu, trao đổi xung
quanh vấn đề đổi mới và phát triển nguồn lực lao động y tế đăng trên các tạp
chí và website như website Việt báo, tạp chí Thông tin y học thư viện trung
ương, tạp chí Y học công cộng, tạp chí Chính sách y tế…
+ PGS.TS Nguyễn Thị Kim Tiến - Thứ trưởng Bộ Y tế "Bốn rào cản
chất lượng nguồn nhân lực y tế” đã chỉ ra nhiều vấn đề còn hạn chế về chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế.
+ Tác giả Thái Bình báo Sức khỏe và Đời sống “Đào tạo nguồn nhân
lực y tế: mấu chốt nâng cao chất lượng khám chữa bệnh” nhằm tìm những
3
bước đi thích hợp trong việc đảm bảo đào tạo được số lượng và chất lượng
cán bộ y tế.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Y tế đã tổ chức nhiều hội nghị, hội
thảo mở rộng về vấn đề phát triển nguồn nhân lực y tế, gần đây nhất là hội
thảo quốc gia về đào tạo nhân lực y tế theo nhu cầu xã hội được Bộ Giáo dục
và Bộ Y tế phối hợp tổ chức giữa năm 2008 với mục tiêu đưa ra một số giải
pháp cụ thể, khả thi nhằm nâng cao số lượng, chất lượng đào tạo nhân lực y tế
đáp ứng nhu cầu xã hội trong thời gian tới.
Các công trình trên đã phân tích nhiều vấn đề sâu sắc với một số lĩnh
vực khác nhau để áp dụng vào thực tiễn. Tuy nhiên, đề tài này của chúng tôi
tập trung nghiên cứu lĩnh vực đào tạo nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu của
ngành và nhu cầu chung của xã hội ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở phân tích thực trạng đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Y tế
ở nước ta hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ vai trò của đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế hiện nay đối với công
tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
- Phân tích thực trạng đào tạo nguồn nhân lực y tế ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
y tế nhằm đáp ứng yêu cầu ngành và nhu cầu xã hội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Công tác đào tạo nguồn nhân lực y tế - nguồn
lao động quyết định quá trình chăm sóc sức khỏe nhân dân.
4
* Phạm vi nghiên cứu: Các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực y tế mà chủ
yếu là các cơ sở đào tạo cán bộ y tế lớn ở nước ta.
Về thời gian: Các số liệu tiến hành khảo sát trong luận văn được giới
hạn từ năm 2000 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn vận dụng
phương pháp luận biện chứng duy vật mà chủ yếu là các phương pháp phân
tích - tổng hợp, so sánh, thống nhất lý luận với thực tiễn…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn tập trung làm rõ thực trạng của việc đào tạo nguồn nhân lực
ngành Y tế Việt Nam hiện nay, từ đó bước đầu đề xuất một số giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực ngành y tế ở nước ta hiện
nay.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng
dạy, học tập, hoạch định chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành Y tế Việt
Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chƣơng 1: Vai trò của việc đào tạo nguồn nhân lực đối với ngành Y tế
Việt Nam hiện nay trong công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Chƣơng 2: Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế Việt Nam
hiện nay (qua khảo sát một số cơ sở đào tạo cán bộ y tế).
Chƣơng 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo
nguồn nhân lực ngành Y tế Việt Nam hiện nay.
5
Chƣơng 1
VAI TRÕ CỦA VIỆC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
ĐỐI VỚI NGÀNH Y TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY TRONG CÔNG TÁC
CHĂM SÓC, BẢO VỆ SỨC KHỎE NHÂN DÂN
1.1. Khái quát về đào tạo nguồn nhân lực và nguồn nhân lực y tế
1.1.1. Về đào tạo nguồn nhân lực
Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình, luôn trung thành với tư
tưởng “vì con người và giải phóng con người” của C.Mác, Đảng ta thường
xuyên khẳng định “con người là vốn quý nhất của chế độ ta”. Bắt đầu từ đại
hội VI, đặc biệt là từ Đại hội VII, Đảng ta đã nhận thức ngày càng đầy đủ hơn
vai trò của con người trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Từ đó đến
nay, Đảng ta luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Đảng ta nhiều lần khẳng định rằng “nâng cao dân trí, bồi
dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết
định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [9, tr.21] nhằm
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Chính
vì vậy nguồn nhân lực được coi là nguồn lực quan trọng nhất, quý báu nhất,
có vai trò quyết định, đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và
nguồn lực vật chất còn hạn hẹp. Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định trong
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nói đến “nguồn nhân lực” (nguồn lực con người, nguồn tài nguyên
người), tức là nói đến con người - chủ thể đã, đang và sẽ tham gia vào quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam
đã khẳng định: Nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững,… Con người và nguồn nhân lực là nhân tố
quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
6
hóa…” [11, tr.112]. Khi nói đến khái niệm nguồn nhân lực, cần lưu ý hai
phương diện quan trọng:
- Thứ nhất, với tư cách là nguồn lực con người - chủ thể không tồn tại
một cách biệt lập, mà chúng liên kết chặt chẽ với nhau thành một chỉnh thể
thống nhất về tổ chức, tư tưởng và hành động. Nói cách khác, nguồn nhân lực
là tổng thể những con người - chủ thể với những phẩm chất nhất định đã,
đang và sẽ tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Thứ hai, nguồn nhân lực bao gồm không chỉ những con người - chủ
thể đã và đang tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà còn
cả những con người - chủ thể sẽ tham gia vào quá trình này. Bởi vì, lịch sử tự
nhiên của đời sống xã hội là quá trình phát triển kế tiếp nhau của các nền văn
minh; trong đó các giá trị do những thế hệ trước tạo ra là nền tảng để những
thế hệ sau kế thừa, phát triển và sáng tạo ra những gía trị mới. Không chú ý
đến phương diện này của nguồn nhân lực thì không thể triển khai công nghiệp
hóa, hiện đại hóa có hiệu quả, và do đó, không thể có sự phát triển bền vững
của đất nước.
Như vậy, khái niệm “nguồn nhân lực” chỉ những thế hệ nối tiếp nhau
của những “con người chủ thể” với những phẩm chất nhất định (thể lực, trí
lực, nhân cách) đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Báo cáo chính trị tại Đại hội X Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định:
“Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát triển nguồn
lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh
và bền vững";
Đầu tư đào tạo phát triển nguồn lực con người được hiểu ở cả ba lĩnh
vực chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống và giáo dục đào tạo,
7
nhưng trong đó giáo dục đào tạo có vị trí quan trọng nhất. Trong Từ điển bách
khoa Việt Nam, khái niệm đào tạo được hiểu là:
“Đào tạo, quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người
đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo… một cách có hệ
thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng
nhận một sự phân công nhất định góp phần của mình vào việc phát triển xã
hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài người. Về cơ bản, đào tạo là
giảng dạy và học tập trong nhà trường phải gắn với giáo dục đạo đức, nhân
cách. Kết quả và trình độ được đào tạo (trình độ học vấn) của một người còn
do việc tự đào tạo của người đã thể hiện ra ở việc tự học và tham gia các
hoạt động xã hội, lao động sản xuất rồi tự rút ra kinh nghiệm của người đó
quyết định. Chỉ khi nào quá trình đào tạo được biến thành quá trình tự đào
tạo một cách tích cực, tự giác thì quá trình đào tạo mới có hiệu quả cao. Tùy
theo tính chất chuẩn bị cho cuộc sống và cho lao động, người ta phân biệt
đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề nghiệp. Hai loại này gắn bó và hỗ trợ
cho nhau với những nội dung do các đòi hỏi của sản xuất, của các quan hệ xã
hội, của tình trạng khoa học kỹ thuật và văn hóa của đất nước… Có nhiều
dạng đào tạo: đào tạo cấp tốc, đào tạo chuyên môn, đào tạo cơ bản, đào tạo
lại, đào tạo ngắn hạn, đào tào từ xa" [44, tr.735].
Giáo dục đào tạo đóng vai trò hết sức to lớn trong việc nâng cao dân trí,
bồi dưỡng nhân lực và nhân tài cho đất nước. Đến lượt nó, chính những con
người đã được giáo dục và đào tạo sẽ trở thành yếu tố quyết định sự tiến bộ
của xã hội.
Không phải đến bây giờ chúng ta mới nhận ra tầm quan trọng của giáo
dục đào tạo, mà ngay khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã kêu gọi toàn dân diệt giặc đói, giặc rét và giặc dốt. Trải qua hơn nửa
thế kỷ, công tác giáo dục và đào tạo đã thu được nhiều thành tựu đáng phấn
khởi. Từ chỗ 95% dân số mù chữ, đến nay Việt Nam có trên 90% dân số biết
8
chữ. Nếu như năm 1945, Việt Nam chỉ có ba trường phổ thông trung học thì
đến nay số trường phổ thông các cấp đã đạt tới hơn 20.000 trường với hơn hai
mươi triệu học sinh. Năm 2006 - 2007 cả nước có hơn 100 trường cao đẳng,
đại học; gần 500 trường trung học và dạy nghề, trên 90 cơ sở được giao
nhiệm vụ đào tạo sau đại học. Ngành giáo dục và đào tạo với lực lượng hơn
80 vạn giáo viên đã đào tạo được 80 nghìn người có trình độ đại học, 9000
tiến sĩ khoa học và tiến sĩ chuyên ngành, trên 3 triệu công nhân kỹ thuật và
cán bộ trung cấp... [10, tr.20].
Do hiểu được tầm quan trọng của công tác đào tạo trong việc phát triển
nguồn lực con người, trong các văn kiện của Đảng như “Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII”, “Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII”, Đảng ta đã nhấn mạnh sự cần thiết của việc nâng cao
dân trí, bồi dưỡng và phát triển nguồn lực con người Việt Nam, của việc giáo
dục đào tạo những con người phát triển toàn diện…
Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị những kiến thức nhất định
về chuyên môn, nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ hiệu quả hơn trong công tác của họ. Đào tạo là quá trình
hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển hệ thống tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ, hành vi… của mỗi cá nhân, tạo tiền đề cho họ
có thể thực hiện một cách có năng suất và hiệu quả trong lĩnh vực công tác
của họ, hoặc để làm các công việc khác trong tương lai. Đào tạo là quá trình
tác động đến con người nhằm làm cho con người lĩnh hội và nắm vững những
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo… một cách có hệ thống, chuẩn bị cho con người
thích nghi với cuộc sống và khả năng tiếp nhận sự phân công lao động nhất
định, hoàn thành tốt công việc được giao.
1.1.2. Về đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế
Đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế là việc đào tạo trong các trường đại
học, cao đẳng hoặc trung ho ̣c chuyên nghiê ̣p thuộc khối ngành Y tế nhằm
9
trang bị những kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức… cho người
làm công tác y tế nhằm mục đích chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho con người.
Nội dung của đào tạo về chuyên môn nguồn nhân lực nói chung, và
nguồn nhân lực y tế nói riêng, bao gồm ba nội dung chính là:
Đào tạo mới: tức là đào tạo cho những người chưa biết nghề, để họ có
một nghề nào đó trong nền kinh tế.
Đào tạo lại: Là đào tạo cho những người đã có nghề, nhưng nghề đó
hiện không còn phù hợp nữa.
Đào tạo nâng cao trình độ tay nghề: là đào tạo cho những người đã có
nghề, để họ có thể đảm nhiệm những công việc phức tạp hơn, có yêu cầu trình
độ cao hơn.
Mục tiêu chung của đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế:
Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng thực hành cho đội
ngũ cán bộ làm công tác y tế, nâng cao chất lượng toàn diện nguồn nhân lực y
tế, đáp ứng nhu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong
tình hình mới.
Trang bị nâng cao kiến thức, kỹ năng quản lý điều hành cho đội ngũ
cán bộ làm công tác quản lý từ đó nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về y tế.
Nói tới vai trò của đào tạo nguồn nhân lực đối với ngành Y tế, Nghị
quyết 46 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: “nghề y là một nghề đặc biệt, vì vậy cần
được đào tạo và sử dụng một cách đặc biệt” chính vì vậy việc đào tạo đội ngũ
cán bộ y tế có những nét đặc thù mà không một ngành nghề nào có nhằm
nâng cao năng lực cán bộ.
Đào tạo thường gồm 3 cấp: đại học, sau đại học, trung học, ở 3 hệ: hệ
dài hạn, hệ ngắn hạn và hệ tại chức.
+ Đào tạo đại học gồm: Bác sĩ đa khoa hệ dài hạn 6 năm; Bác sĩ đa
khoa hệ ngắn hạn 4 năm; Bác sĩ y học cổ truyền hệ 4 năm và hệ 6 năm; Bác sĩ
10
y học dự phòng; Đại học Dược hệ dài hạn 5 năm và hệ 4 năm; Cử nhân Điều
dưỡng hệ 4 năm.
+ Đào tạo sau đại học gồm: Tiến sĩ; cao học; bác sỹ chuyên khoa cấp I,
cấp II và chuyên khoa định hướng thuộc các chuyên ngành chính chuyên
ngành lâm sàng và cận lâm sàng như nội, ngoại, sản phụ khoa, nhi khoa, y tế
công cộng, chấn thương chỉnh hình và y học cổ truyền...
+ Đào tạo trung học gồm các chuyên ngành: Y sĩ, dược sĩ, điều dưỡng,
hộ sinh, kỹ thuật viên...với thời gian 3 năm. Sau khi tốt nghiệp học sinh được
cấp bằng trung cấp y dược chính quy theo ngành đào tạo để làm việc tại các
cơ sở y tế công lập, tư nhân, hoặc các cơ sở y dược trong ngoài nước có yêu
cầu về chuyên môn.
- Hầu hết các bác sĩ mới ra trường đều phải tham gia các khóa đào tạo
chuyên khoa sơ bộ (chuyên khoa định hướng) hay đào tạo luân khoa... nhằm
bổ sung và hoàn thiện tay nghề chuyên môn tại trường và các cơ sở y tế.
- Hầu hết các cán bộ y tế đều phải tham gia các khóa đào tạo liên tục,
cập nhật và bổ túc chuyên môn định kỳ trong suốt quãng thời gian làm việc
của mình.
- Đào tạo bác sĩ nội trú, chuyên khoa I và chuyên khoa II là mô hình
đào tạo đặc thù của ngành y. Đặc biệt là đào tạo bác sĩ nội trú, đây chính là
mô hình đào tạo cán bộ y tế chuyên sâu, bồi dưỡng nhân tài theo chủ trương
của Nhà nước mà Bộ Y tế đã thực hiện từ rất lâu.
- Thêm vào đó các cán bộ y tế còn tham gia các chương trình đào tạo
sau đại học khác như thạc sĩ, tiến sĩ tùy theo nhu cầu của công việc và nguyện
vọng của cá nhân.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cùng với vấn đề đào tạo
nguồn nhân lực nói chung, đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế có chất lượng
cao là yêu cầu cơ bản, lâu dài đối với tất cả các quốc gia. Ở nước ta, vấn đề
này trở thành vấn đề hệ trọng, vừa cơ bản vừa cấp bách. Bởi lẽ, nếu không có
11
nguồn nhân lực đủ mạnh thúc đẩy ngành Y tế phát triển thì chúng ta khó tránh
khỏi những nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn với các nước.
Nói đến nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực trong ngành Y tế
nói riêng, không chỉ là số lượng mà điều quan trọng hơn là chất lượng của nó,
tức là những con người đã qua giáo dục và đào tạo. Ngành Y tế là một trong
những ngành đặc biệt cần những y bác sĩ có trình độ, không giống như trong
nhiều ngành công nghiệp chỉ cần nhân lực dồi dào, đối với công tác chăm sóc
và bảo vệ sức khỏe nhân dân, cần có một nguồn nhân lực đạt đến một trình độ
nhất định, phải trải qua một quá trình giáo dục, đào tạo lâu dài và nghiêm khắc.
Nguồn nhân lực ngành Y tế cũng như nguồn nhân lực con người nói
chung được đào tạo sẽ có cơ hội phát triển và hoàn thiện các năng lực và tài
năng của mình. Thông qua giáo dục đào tạo, các cá nhân được cung cấp
những kiến thức cơ bản, cần thiết làm cơ sở cho việc hoàn thiện và phát triển
những phẩm chất và tài năng của cá nhân, góp phần tạo ra những giá trị mới
để thay đổi, làm tăng khả năng tiếp nhận những ý tưởng mới và làm thay đổi
quá trình chăm sóc và bảo vệ sức khỏe con người ngày càng tốt hơn.
Hiện nay, cũng như nhiều nước châu Á, ngành Y tế Việt Nam đang bị
thiếu hụt khá nghiêm trọng về lực lượng có trình độ tay nghề và chuyên môn
cao. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng đó là do công tác đào tạo chưa đáp
ứng kịp nhu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội. Biện pháp khắc phục cơ bản
và có tầm chiến lược chính là phát triển chất lượng nguồn nhân lực ngành qua
đào tạo chuyên môn sâu.
Khác với đào tạo nguồn nhân lực tại các trường kinh tế, các trường
khoa học xã hội và nhân văn, quá trình đào tạo nguồn nhân lực ngành Y trình
độ bác sĩ được đào tạo trong 6 năm. Năm thứ nhất và năm thứ hai học khoa
học cơ bản và y học cơ sở, bắt đầu từ năm thứ hai sinh viên phải học trên
“lâm sàng” tại bệnh viện thực tập. Sang năm thứ ba sinh viên phải tham gia
trực đêm tại bệnh viện thực tập. Thời gian học tập của sinh viên trường y là
12
khá căng thẳng (đã từ lâu sinh viên y nổi tiếng với công thức sáng bệnh viện,
chiều giảng đường, đêm đi trực).
Để trở thành người thầy thuốc “vừa hồng vừa chuyên” đòi hỏi sinh viên
phải nỗ lực phấn đấu và thường xuyên tu dưỡng đạo đức. Hơn bất cứ nghề
nào khác, đối với sinh viên ngành Y lòng yêu nghề phải là tiêu chuẩn đầu
tiên. Bởi vì nghề y là nghề nhân đạo, nó đối lập với kinh doanh vì thế không
phải ai cũng có thể trở thành thầy thuốc được. Nếu một ai đó có ý định kiếm
tiền làm giàu thì tốt nhất không nên theo ngành Y và cũng không nên tuyển
họ vào học ngành y.
Như vậy, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực nói chung và nhân lực y tế nói
riêng với chất lượng cao có vai trò hết sức to lớn trong việc nâng cao dân trí,
bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Những con người đã được giáo dục và đào
tạo chính là yếu tố quyết định sự tiến bộ của xã hội.
Chính vì vậy, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng
cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục
đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng
và phát huy hiệu quả” [9, tr.107].
1.2. Sự phát triển của ngành Y tế và các yêu cầu về nguồn nhân lực
Hơn nửa thế kỷ qua, ngành Y tế Việt Nam đã giành được nhiều thành
tựu to lớn, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, gần 20 năm trở lại đây, ngành Y
tế nước ta đã phát triển vượt bậc. Về phòng bệnh, đã khống chế, đẩy lùi được
nhiều bệnh dịch nguy hiểm, không để dịch bệnh lớn xảy ra. Về chữa bệnh, đã
hình thành các trung tâm y tế chuyên sâu kỹ thuật cao, thực hiện được nhiều
tiến bộ khoa học, công nghệ y học hiện đại, chất lượng chẩn đoán và điều trị
được nâng cao rõ rệt. Về công nghiệp dược, đến nay chúng ta đã có gần 50
dây chuyền sản xuất thuốc đạt tiêu chuẩn thực hành tốt (GMP); mạng lưới y
tế cơ sở được củng cố, cung cấp các dịch vụ y tế gần dân hơn. Nhìn chung,
13
ngành Y tế đã đạt được các mục tiêu đề ra là, tuổi thọ của người dân được
tăng lên, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm, tỷ lệ chết mẹ và chết
trẻ sơ sinh giảm rõ rệt,… trong quá trình xây dựng và phát triển, ngành Y tế
Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn rất đáng tự hào trong sự nghiệp
xây dựng và phát triển mặc dù vẫn còn những yếu kém và những thách thức
cần được giải quyết. Nhìn một cách tổng quát ở mọi góc độ khác nhau, ngành
Y tế Việt Nam đã làm biến đổi một cách sâu sắc về tất cả các mặt, từ nhận
thức tư tưởng cho đến tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động, từ y tâm, y
thuật cho đến y đức.
Bước vào thời kỳ đổi mới, ngành Y tế phải đối phó với những tác động
của nền kinh tế thị trường, từng bước tháo gỡ khó khăn để thích ứng với cơ
chế trị trường, đáp ứng được mong muốn của người dân ngày càng nhiều và
càng cao về chăm sóc sức khỏe đã bị giảm sút sau 30 năm chiến tranh. Do xác
định được phương châm: đa dạng hoá các hoạt động của ngành, xã hội hoá
công tác y tế, nên từ khi đổi mới đến nay, công tác chăm sóc sức khỏe nhân
dân đã tiến được một bước dài, bao gồm một hệ thống các cơ sở y tế nhà
nước, y tế tư nhân, hướng tới việc phục vụ nhân dân với số lượng nhiều hơn
và chất lượng cao hơn, hiệu quả hơn và công bằng hơn. Phương pháp quản lý
các cơ sở khám chữa bệnh của Nhà nước cũng thay đổi bằng cách thu một
phần viện phí của người bệnh, xây dựng hệ thống bảo hiểm y tế, cho phép mở
rộng bệnh viện tư, phòng khám tư, nhà thuốc tư. Nhiều tổ chức cá nhân đứng
ra thành lập quỹ hỗ trợ bệnh nhân nghèo, nhà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế cho
người nghèo, cấp thuốc miễn phí cho người nghèo... Các chỉ tiêu sức khỏe
nhân dân ngày càng được cải thiện rõ rệt, năm sau tiến bộ hơn năm trước.
Theo đánh giá của cơ quan phát triển Liên hợp quốc (UNDP), nước ta đứng
vào hàng các nước có thành tựu nổi bật về y tế so với tổng sản phẩm quốc dân
(GDP). Năm 2000 chỉ số phát triển con người (HDI) xác định mức độ phát
triển con người trên cơ sở kết hợp các chỉ số về thành tựu giáo dục, tuổi thọ
14
và thu nhập, Việt Nam được xếp ở vị trí 108 (tăng 2 bậc so với năm 1999)
trong tổng số 174 nước, trong khi đó mức thu nhập bình quân đầu người, Việt
Nam được xếp ở vị trí 132/174 nước. Chỉ số phát triển theo giới (GDI) được
xếp ở vị trí 140 trên 194 nước.
Từ con số 47 bệnh viện từ thời Pháp để lại, đến nay trong cả nước đã có
876 bệnh viện, 75 khu điều dưỡng phục hồi chức năng, trên 1000 phòng khám
đa khoa và nhà hộ sinh khu vực, số giường bệnh tăng lên từ 11,6 giường cho
100.000 dân (1954) đến nay là 169 giường cho 100.000 dân (1999). Tỷ lệ
giường bệnh so với dân số nước ta tuy còn thấp so với nhiều nước song điều
đáng ghi nhận là chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh không ngừng được nâng
cao, ở các tỉnh, thành phố, bệnh viện đều được trang bị các loại máy móc
dùng trong chẩn đoán và điều trị rất hiện đại như máy cộng hưởng từ, máy CT
Scanner, máy chụp mạch máu, máy tán sỏi ngoài cơ thể, máy cô ban, máy
siêu âm màu, máy xét nghiệm nhanh... Các công nghệ mũi nhọn của y học thế
giới cũng đang được ứng dụng ở nước ta như ghép tạng, mổ nội soi, mổ tim,
mổ tách trẻ song sinh, thụ tinh nhân tạo...
Bên cạnh các cơ sở y tế Nhà nước đã bắt đầu hình thành một hệ thống y
tế tư nhân bao gồm 19.895 cơ sở hành nghề y, 14.048 cơ sở hành nghề dược,
7.015 cơ sở hành nghề y học cổ truyền, 5 bệnh viện tư có vốn đầu tư nước
ngoài đã góp phần làm giảm bớt sự quá tải ở các bệnh viện Nhà nước.
Về đào tạo chúng ta đã có một hệ thống các trường đại học y, dược
phân bổ trên cả nước. Mỗi năm có khoảng 2.500 bác sĩ, 200 dược sĩ đại học
tốt nghiệp ra trường. Chúng ta đã mở trường đào tạo kỹ thuật viên trung học
y, dược, nha và trong vòng mấy năm trở lại đây đã đào tạo ở trong nước cán
bộ có trình độ cử nhân, chuyên khoa I và II, bảo vệ luận án thạc sĩ và tiến sĩ.
Từ vài trăm cán bộ y tế vào những ngày đầu thành lập nước, đến nay đã có 25
vạn người, trong đó có 47 nghìn cán bộ đại học các loại và trên 1000 cán bộ
trên đại học.
15
Số bác sĩ tính theo dân số hiện nay là 1 bác sĩ cho 2.600 dân (2000) so
với năm 1945 là 1 bác sĩ cho 220.000 dân. Tỷ lệ này chưa cao nhưng điều
đáng kích lệ là đến cuối năm 2000, dự kiến sẽ có 40% số xã có bác sĩ. Một
việc khác mà 55 năm về trước chúng ta còn mơ ước nay đã trở thành sự thật
là cán bộ y tế xã được hưởng trợ cấp hàng tháng do Nhà nước đài thọ.
Việc kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại cũng đạt được nhiều
thành tựu, trước hết là quan điểm chỉ đạo của ngành xuyên suốt 65 năm qua
trong mọi lĩnh vực hoạt động. Chúng ta kế thừa và phát huy được nhiều bài
thuốc, phương thuốc dân gian có hiệu quả, thành lập được 2 viện và 42 bệnh
viện y học cổ truyền, 262 khoa học cổ truyền trong các bệnh viện đa khoa,
8000 cơ sở hành nghề tư nhân về y học cổ truyền, khám và chữa bệnh bằng y
học cổ truyền cho khoảng 30% bệnh nhân đến bệnh viện, đào tạo được hàng
nghìn bác sỹ chuyên khoa y học cổ truyền, từng bước hiện đại hoá y học cổ
truyền, trồng và di thực được nhiều cây thuốc quý, đóng góp nhiều kinh
nghiệm cho các nước trên thế giới và đang chuẩn bị những điều kiện cần thiết
cho việc mở một trường đại học y học cổ truyền.
Ngành Dược và ngành Trang thiết bị cũng đã trở thành ngành kinh tế
kỹ thuật. Chúng ta đã có những nhà máy sản xuất thuốc đạt tiêu chuẩn GMP,
thị phần thuốc trong nước tăng nhanh, mức sử dụng thuốc khoảng 6 USD/ đầu
người (2000). Tổng giá trị xuất khẩu thuốc và dược liệu đạt 15 triệu USD
(2000). Về sản xuất trang thiết bị, các nhà máy của ta đã liên doanh liên kết
với các nước sản xuất dụng cụ y tế thông thường, dụng cụ bằng cao su, chất
dẻo và lắp ráp một số máy móc hiện đại.
Hiện nay, ngành Y tế đã xây dựng được mạng lưới y tế cơ sở rộng khắp
cả nước, từ Trung ương đến tỉnh, huyện, xã, từ đồng bằng trung du, các vùng
xa xôi hẻo lánh đến tận biên giới hải đảo và đang mở rộng khắp thôn xóm bản
làng với hơn 10.000 trạm y tế xã, y tế cơ quan xí nghiệp. Nhờ mạng lưới đó
16
nước ta đã thực hiện được mục tiêu của tổ chức y tế thế giới đề ra là: sức khỏe
cho mọi người năm 2000.
Mặc dù hiện nay, trong hệ thống chung của ngành đào tạo, đã hình
thành và phát triển mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung học đào tạo
cán bộ y - dược; đã cung cấp cho ngành nguồn nhân lực dồi dào, có phẩm
chất, đạo đức tốt và có năng lực chuyên môn giỏi, làm tốt công tác bảo vệ và
chăm sóc sức khỏe nhân dân ở tất cả các tuyến y tế, từ Trung ương đến tỉnh,
huyện, xã và làng bản, thôn, ấp. Ngành Y tế là ngành tiên phong đào tạo và
đưa cán bộ đại học về xã. Đến hết năm 2004, cả nước đã có trên 65% số xã có
bác sỹ công tác và hầu hết các làng bản có nhân viên y tế. Đây là một thành
tựu rất đáng tự hào, là điều kiện tiên quyết dẫn đến mọi thành công của ngành
Y tế nước ta. Nhưng trong thời gian tới, ngành Y tế sẽ có nhiều thay đổi do sự
thay đổi của nền kinh tế thị trường đang phát triển mạnh mẽ. Khu vực y tế tư
nhân sẽ phát triển mạnh mẽ và tăng dẫn cả về số lượng và chất luợng.
Cùng với sự phát triển này không chỉ có dược sĩ đại học như hiện nay, mà
nhân lực y tế ở các lĩnh vực khác cũng sẽ tham gia nhiều hơn vào khu vực này,
đặc biệt là ở các chuyên ngành đang có nhiều nhu cầu cung cấp dịch vụ y tế.
Như vậy trong thời gian tới khu vực y tế công lập sẽ có khả năng đối
mặt với những thách thức trong thiếu hụt nguồn nhân lực nếu không có các
chế độ đãi ngộ thích hợp giống như tình trạng thiếu hụt nhân lực dược trong
hệ thống y tế công lập hiện nay.
Đối với các yêu cầu về nhân lực, song với đội ngũ nhân lực có trình độ đa
khoa công tác chủ yếu ở tuyến y tế cơ sở, ngành y sẽ cần đến đội ngũ nhân lực
có trình độ chuyên sâu ở các chuyên ngành khác nhau: như bác sĩ chuyên khoa,
dược, điều dưỡng, kỹ thuật viên... Xu hướng này sẽ giống như các nước trong
khu vực như Thái Lan, giai đoạn trước thì tập trung đào tạo một số loại cán bộ
như bác sĩ , dược sĩ đại học, răng hàm mặt. Nhưng ở Thái Lan cũng đã dự đoán
17
rằng trong khoảng 2 thập kỷ tới, sẽ có sự tập trung vào các năng lực chung của
cán bộ y tế để cung cấp chăm sóc sức khỏe ban đầu ở tuyến y tế cơ sở.
Như vậy, bước vào thế kỷ XXI, ngành Y tế nước ta có nhiều thuận lợi,
nhưng cũng gặp không ít khó khăn và thách thức, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu
của người dân về các dịch vụ sức khỏe với khả năng của nền kinh tế còn hạn
hẹp, là phải giải quyết vấn đề công bằng trong việc chăm sóc sức khỏe và hiệu
quả đạt được trong nền kinh tế thị trường có sự phân tầng xã hội, vấn đề phục
vụ sức khỏe cho nhân dân các vùng sâu, vùng xa. Chúng ta phải tìm cho ra con
đường đi thích hợp, biết đón trước những thành tựu về khoa học công nghệ của
thế kỷ XXI để có thể tiến kịp các nước trong khu vực, hội nhập với nền y tế của
thời đại xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, của nhân dân đã dành cho ngành Y
tế Việt Nam. Một trong những vấn đề quan trọng đặt ra là việc đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực ngành nhằm nâng cao cả về số lượng và chất lượng đào
tạo nhân lực y tế đáp ứng nhu cầu xã hội trong thời gian tới.
1.3. Tầm quan trọng của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế
Trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhu cầu về xây dựng
và phát triển nguồn nhân lực cho ngành Y tế để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe
nhân dân đang đặt ra những áp lực lớn đối với công tác đào tạo. Bởi lẽ, sức
khỏe là vốn quý của mỗi con người và toàn xã hội. Sức khỏe cũng là nhân tố
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sinh thời Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới sức khỏe của đồng bào, ngay từ những ngày
đầu Cách mạng tháng Tám thành công, Bác đã căn dặn: “Mỗi người dân khỏe
thì cả nước khỏe”.
Do tính chất đặc biệt quan trọng của ngành Y ở chỗ nó trực tiếp liên
quan đến tương lai, nòi giống, đến sức khỏe và sự cường thịnh của dân tộc,
của toàn xã hội. Do vậy nghề y đòi hỏi người cán bộ y tế không những có tài
mà còn cân cả đức, đức và tài của người cán bộ làm công tác y tế như hai mặt
không thể thiếu đối với thành công của nghề nghiệp. Tài ở đây là năng lực
18
chuyên môn, thể hiện ở hiệu quả trị bệnh cứu người và chăm sóc sức khỏe
con người. Còn Đức là phẩm chất đạo đức của người cán bộ y tế được cụ thể
hóa ở những yêu cầu như: lòng nhân ái, tình thương yêu con người, với
phương châm “tất cả vì người bệnh”. Đức và Tài là hai thành tố cơ bản luôn
quan hệ chặt chẽ với nhau. Đây là hai thành tố không thể thiếu trong nghề y
và là yêu cầu quan trọng đối với mỗi người làm công tác y tế. Đức là gốc, là
nền tảng, là điều kiện tiên quyết, còn tài là nhân tố vô cùng quan trọng. Đó là
hai mặt không thể tách rời mà hòa quyện vào nhau làm nên nhân cách người
thầy thuốc.
Thứ nhất, về đào tạo cái tài của người thầy thuốc, tức là mặt chuyên
môn, việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân có tốt hay không, một
trong các yếu tố quan trọng hàng đầu là đội ngũ cán bộ y tế, những người trực
tiếp khám, chăm sóc và cung cấp các dịch vụ y tế cho nhân dân. Chất lượng
của các dịch vụ y tế này phần lớn phụ thuộc vào chính bản thân người thầy
thuốc. Một người thầy thuốc giỏi về chuyên môn, tận tụy với nghề nghiệp, có
lương tâm đạo đức tốt thì chất lượng phục vụ sẽ được nâng cao, đặc biệt là ở
những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng sâu vùng xa, hải đảo
- nơi mà cán bộ y tế vừa thiếu, vừa yếu; trang thiết bị y tế còn nhiều thiếu
thốn, thì vai trò của người thầy thuốc càng trở nên quan trọng hơn nhiều lần.
Chính vì vậy, để góp phần hiện đại hoá nền y học và y tế nước ta, đáp
ứng nhu cầu về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, công tác
đào tạo và khoa học công nghệ phải đi trước một bước, đòi hỏi đội ngũ cán bộ
làm công tác đào tạo và khoa học y học, tiếp tục nỗ lực phấn đấu vươn lên
hơn nữa, thực hiện tốt Nghị quyết số 46-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày
23/2/2005 về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong
tình hình mới, là “Sắp xếp lại mạng lưới, mở rộng và nâng cấp các cơ sở đào
tạo, đáp ứng nhu cầu về cán bộ y tế phù hợp với quy hoạch phát triển ngành;
xây dựng một số trung tâm đào tạo cán bộ y tế ngang tầm các nước tiên tiến
19
trong khu vực” và “Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, tiếp cận và ứng dụng
những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ sinh
học và công nghệ thông tin; từng bước đưa nền y học nước ta đạt trình độ tiên
tiến trong khu vực và thế giới”. Thứ hai, bên cạnh mặt chuyên môn, mục tiêu
của quá trình đào tạo cán bộ y tế còn là đào tạo ra những người có y đức và có
đủ sức khoẻ để có thể hoàn thành được nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ
nhân dân. Đánh giá y đức không phải qua lời nói mà qua hành vi thái độ cụ
thể với người bệnh, với giáo viên, với đồng nghiệp. Trong giáo dục, nhiều khi
chúng ta chỉ chú ý đến kiến thức, kĩ năng, mà quên hoặc chưa quan tâm đúng
mức đến thái độ (hay hành vi ứng xử).
Giáo dục y đức cho sinh viên ngành Y chủ yếu diễn ra tại giảng đường,
nhất là tại bệnh viện thực tập, môi trường đụng chạm đến thực tiễn hàng ngày,
hàng giờ. Giáo dục y đức tại giảng đường là đặt mối liên hệ chủ yếu giữa thầy và
trò, còn tại bệnh viện thực tập, sinh viên đối mặt với nhiều đối tượng: bệnh nhân
và thân nhân bệnh nhân; ban giám đốc và phòng ban; thầy, các cán bộ giảng dạy
và các bác sĩ; tập thể sinh viên; xã hội. Mỗi đối tượng là một “tiểu môi trường”
sinh động, phong phú, qua đó thầy cũng như trò rèn luyện phong cách.
Tóm lại, giáo dục y đức là một công việc lâu dài, mỗi sinh viên và thầy
giáo phải tự rèn luyện suốt đời. Giáo dục ở trường, ở bệnh viện mới chỉ là
bước đầu. Đạo đức phải xuất phát từ tính tự nguyện, tự giác, tính không vụ lợi
của hành vi, lúc đó giá trị đạo đức mới cao. Để đạt được mục tiêu này, sinh
viên phải có tinh thần tự lập, có sự tự giác, tự nguyện, có ý chí rèn luyện y
đức bền bỉ.
Trong lịch sử y học Việt Nam, Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông,
Nguyễn Đình Chiểu đều rất quan tâm đến việc răn dạy y đức cho học trò của
mình và những người hành nghề y. Các ông đều là những tấm gương lớn về y
đức cả trong lời nói lẫn việc làm để muôn đời con cháu mai sau học tập.
20
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc rèn luyện đạo
đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ, nhân viên ngành Y
tế. Người đã để lại cho chúng ta nhiều di huấn quý báu về y đức, nhiều tư
tưởng, quan điểm vô cùng sâu sắc, phong phú, có ý nghĩa định hướng cho
việc phát triển một nền y học Việt Nam hiện đại.
Kế thừa truyền thống y đức của dân tộc, nhiều vị lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước trong các thời kì lịch sử cũng rất quan tâm tới việc giáo dục y đức, động
viên cán bộ và nhân viên ngành Y tế học tập và làm theo di huấn của Bác Hồ.
Trong bài nói chuyện với cán bộ và nhân viên y tế nhân ngày thầy
thuốc Việt Nam năm 1985, nguyên cố Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Phạm
Văn Đồng đã căn dặn:
“Đội ngũ cán bộ mà chúng ta dầy công đào tạo và rèn luyện phải là
những người vừa có phẩm chất, vừa có tài năng… Phải có tâm hồn người mẹ
hiền thì mới là cán bộ nhân viên y tế tốt. Ít có nghề nghiệp nào mà xã hội đòi
hỏi về phẩm chất và tài năng cao như đối với người làm công tác y tế. Đó là
một nghề đặc biệt, đòi hỏi hiểu biết sâu rộng, tấm lòng nhân ái, sự từng trải và
kinh nghiệm một nghề mà mọi công việc dù là nhỏ, đều có liên quan đến tính
mạng con người và hạnh phúc gia đình” [5, tr.140].
Tại buổi lễ kỷ niệm ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2/1996 và đón nhận
Huân chương Sao vàng, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã chỉ thị cho ngành Y
phải “phát huy hơn nữa truyền thống vẻ vang của ngành, không ngừng nâng
cao trình độ ngang tầm nhiệm vụ, rèn luyện phẩm chất, đặc biệt là nâng cao y
đức, hết lòng chăm lo người bệnh, thực hiện lời dạy của Bác Hồ “thầy thuốc
như mẹ hiền”” [5, tr.149].
Rất quan tâm đến sức khỏe của nhân dân, bằng tâm huyết của mình,
trong thư gửi báo “Sức khoẻ và đời sống”, nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu
đã ân cần căn dặn cán bộ ngành Y tế:
21
Công việc của người thầy thuốc được ví như công việc của Người Mẹ,
chăm lo cho con cái, cho gia đình, cho nòi giống, cho con người, từ thuở chưa
lọt lòng đến giây phút thanh thản từ giã cuộc đời; giúp cho bà con vượt qua số
phận hẩm hiu, những đau đớn quằn quại của bệnh tật, sự sinh nở được mẹ
tròn con vuông, giúp cho lứa đôi hạnh phúc, các cụ già trường thọ. Đồng chí
dặn dò mỗi cán bộ y tế: “Đem tình thương vĩnh cửu của Người Mẹ để làm
công việc cao quý của mình” [5, tr.271].
Luôn luôn lo tới sức khoẻ của nhân dân và rất quan tâm tới ngành Y tế,
trong thư gửi cán bộ y tế nhân ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2/2002, đồng
chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh viết: “Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân
dân là một công việc đặc biệt liên quan đến tài sản vô giá là sinh mệnh con
người. Cán bộ y tế phải không ngừng rèn luyện, gắn “đức và tài”, phải có “cái
tâm trong sáng” mới làm được nghề cao quý này” và đồng chí Tổng Bí thư
cũng nhắc nhở cán bộ y tế rất cụ thể trong việc thực hiện nhiệm vụ: “Phải tiếp
tục nâng cao y đức của cán bộ y tế, thể hiện bằng các hành động cụ thể từ tiếp
đón người bệnh, khám bệnh, chẩn đoán đến điều trị và chăm sóc tại các cơ sở
y tế. Mọi biểu hiện “thương mại hóa” trong ngành Y tế, dù dưới bất cứ hình
thức nào đều cần phải sớm được khắc phục” [5, tr.155].
Thủ tướng Chính phủ rất quan tâm chỉ đạo ngành Y tế nâng cao y đức.
Tại Nghị quyết số 37/CP của Chính phủ ngày 20 tháng 6 năm 1996 về định
hướng chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong thời gian
1996-2000 và chính sách quốc gia về thuốc của Việt Nam đã ghi rất rõ “coi y
đức là phẩm chất quan trọng ngang với chất lượng chuyên môn của người
thầy thuốc. Ban hành chế độ chính sách thích đáng để khuyến khích lao động
sáng tạo và tận tình phục vụ người bệnh của cán bộ y tế”. Trong chuyến thăm
các cơ sở y tế Trung ương cũng như các địa phương, các đồng chí Thủ tướng
và Phó Thủ tướng đều căn dặn cán bộ y tế cố gắng khắc phục mọi khó khăn,
22
tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn và rèn luyện phẩm chất đạo
đức, tận tình phục vụ người bệnh theo lời dạy của Bác Hồ.
Bộ Y tế luôn quan tâm chỉ đạo cán bộ y tế học tập, rèn luyện nâng cao
y đức. Thực hiện nghiêm túc và sáng tạo chủ trương của Đảng và Chính phủ,
Bộ Y tế đã tập trung chỉ đạo nâng cao đạo đức nghề nghiệp. Cố Bộ trưởng
Phạm Ngọc Thạch thường căn dặn cán bộ trong ngành hết lòng, hết sức phục
vụ người bệnh với những lời y đức gần gũi, cụ thể, chân tình: “Đến đón tiếp
niềm nở, về dặn dò ân cần, ở tận tình chăm sóc”. Cả cuộc đời của ông là tấm
gương sáng ngời về y đức, ở đâu có dịch bệnh là ông tìm đến. Ông đã vào tận
chiến trường Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ để trực tiếp chỉ đạo chăm
sóc sức khoẻ cho chiến sĩ và đồng bào. Ngày 7 tháng 11 năm 1968 ông đã anh
dũng hi sinh trên chiến trường miền Đông Nam Bộ. Cố Giáo sư Đặng Văn
Ngữ, nguyên Viện trưởng Viện Sốt rét Việt Nam, Anh hùng Lao động, trong
những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt, ông đã trực tiếp vào tuyến lửa Vĩnh
Linh, nghiên cứu vaccin phòng chống sốt rét cho bộ đội và nhân dân. Ông đã
hi sinh do bom B52 của Mỹ tại chiến trường miền Trung khi công trình còn
đang dang dở. Các học trò của ông mãi mãi noi gương ông, kế tục sự nghiệp
của ông. Giáo sư Tôn Thất Tùng với tài cao, đức trọng đã cứu sống hàng ngàn
chiến sĩ và đồng bào mắc bệnh hiểm nghèo. Cả cuộc đời ông gắn bó với cách
mạng, hết lòng, hết sức phục vụ người bệnh. Và nhiều tấm gương khác như
cố Bộ trưởng Hoàng Tích Trí, Vũ Văn Cẩn, Nguyễn Văn Hưởng và các giáo
sư Trần Hữu Tước, Đỗ Xuân Hợp, Nguyễn Xuân Nguyên, Đặng Văn Chung,
Vũ Công Hoè, Trương Cam Cống… được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí
Minh hoặc phong danh hiệu Anh hùng Lao động.
Những năm gần đây, Bộ Y tế đặc biệt chú ý thể chế hoá các nội dung y
đức để cán bộ trong ngành phấn đấu thực hiện. Đó là Chỉ thị 04/BYT- CT của
Bộ trưởng Bộ Y tế về vấn đề y đức và Quyết định số 2088/BYT- QĐ ngày
23
06/11/1996 của Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành quy định về y đức bao gồm 12
điều về tiêu chuẩn đạo đức của người làm công tác y tế.
Cùng với 12 điều quy định y đức ban hành chung cho toàn thể cán bộ y
tế trong ngành, trong mỗi lĩnh vực của ngành đều đã ban hành thêm một số
chuẩn mực có tính chất đặc thù cho phù hợp với mỗi lĩnh vực. Ví dụ Quyết
định số 2526/QĐ- BYT ngày 21/08/1999 về tiêu chuẩn cụ thể phấn đấu về y
đức áp dụng cho mỗi cá nhân, tập thể, khoa phòng và bệnh viện trong tất cả
các cơ sở khám chữa bệnh. Quyết định số 2965/BYT- QĐ ngày 30/9/1999 của
Bộ trưởng Bộ Y tế về kiểm tra, đánh giá hoạt động công tác chuyên môn và
tập trung vào đánh giá thực hiện các tiêu chuẩn cụ thể phấn đấu về y đức.
Trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những thành tựu to
lớn và toàn diện mà nhân dân ta đạt được, không ít vấn đề bức xúc cần phải
giải quyết. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống...
trong một bộ phận cán bộ, công chức - trong đó có cả cán bộ công chức ngành
Y tế - diễn ra một cách nghiêm trọng, đang trở thành những tấm gương phản
diện, có tác dụng không tốt đến công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt
Nam nói chung, sinh viên ngành Y nói riêng. Vấn đề càng trở nên cấp bách
hơn khi Việt Nam bước vào thời kì hội nhập kinh tế thế giới. Hơn lúc nào hết,
việc đào tạo nguồn nhân lực y tế vừa có tài vừa có đức trong mọi môi trường
được đặt ra một cách vô cùng nghiêm túc.
Tóm lại, sức khoẻ là vốn quý của mỗi người và là tài nguyên vô giá của
đất nước. Chăm lo cho sức khoẻ của con người cũng chính là chăm lo cho sự
cường thịnh của đất nước, của sự phát triển xã hội. Chính vì vậy, từ bậc danh y
như Hải Thượng Lãn Ông, đến Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đều rất quan
tâm tới việc giáo dục và đào tạo đội ngũ thầy thuốc vừa giỏi về y thuật, vừa
ngời sáng về y đức. Có thể nói, giá trị truyền thống về y đức vốn có của dân tộc
cùng với những lời dạy của Hồ Chủ tịch đã trở thành kim chỉ nam, thành động
24
lực phấn đấu to lớn cho toàn thể đội ngũ cán bộ ngành Y tế nước ta trong
những năm kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chế độ xã hội mới đã
tạo ra những người thầy thuốc xã hội chủ nghĩa biết dấn thân trong các phong
trào cách mạng để hoàn thành tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay, để xây dựng và phát triển nền y học nước
nhà, phát triển nguồn nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng và đề cao
việc đào tạo người cán bộ ngành Y tế “vừa hồng vừa chuyên”, đặc biệt đối
với sinh viên ngành y, bên cạnh đào tạo chuyên môn, việc giáo dục y đức
càng cần thiết và cấp bách hơn. Bởi phần lớn các em ở độ tuổi từ 18-25 tuổi,
xét về mặt nhân cách thì đây là giai đoạn “định hình”, đó là nhân cách đang
trưởng thành, đang phát triển, chưa phải là nhân cách “hoàn chỉnh”. Đào tạo
toàn diện nhằm giúp cho sinh viên nâng cao tri thức, đồng thời nâng cao hiểu
biết về các giá trị y đức truyền thống của dân tộc, qua đó có ý thức giữ gìn và
phát huy các giá trị y đức tốt đẹp và chuyển hoá những kiến thức, những hiểu
biết về y đức thành khả năng tự giáo dục, tự đánh giá, tự điều chỉnh hành vi
đạo đức của mình sao cho phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội. Biết biến
tri thức, tình cảm y đức thành hành vi chứa đựng giá trị đạo đức cao, thành
thực tiễn y đức.
25
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
NGÀNH Y YẾ VIỆT NAM HIỆN NAY
(QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ CƠ SỞ ĐÀO TẠO CÁN BỘ Y TẾ)
2.1. Hệ thống y tế và hệ thống đào tạo nguồn nhân lực y tế
2.1.1. Hệ thống y tế và nguồn nhân lực y tế Việt Nam hiện nay
Hệ thống y tế nước ta bao phủ khắp toàn quốc có sự chỉ đạo thống nhất
từ Trung ương đến cơ sở, thôn, bản, xã. Theo thống kê số cán bộ y tế phục vụ
10.000 dân từ năm 1990 - 2004 (26,5 - 29,5 cán bộ/10.000 dân), bao gồm cả
cán bộ y tế ở Trung ương và các Bộ ngành.
Thời kỳ đổi mới, 1986-2000, ngành Y tế đã đạt được nhiều kết quả
quan trọng. Mạng lưới y tế cơ sở được củng cố và phát triển, đặc biệt là cán
bộ y tế xã, phường được hưởng phụ cấp hoặc lương như cán bộ y tế trong
biên chế Nhà nước. Công tác phòng bệnh và phòng chống dịch bệnh đã được
triển khai mạnh mẽ và chủ động. Hệ thống khám chữa bệnh đã được đầu tư
nâng cấp và thực sự có những tiến bộ mới. Thời kỳ này, thực hiện Nghị định
95/CP và 33/CP của Chính phủ về thu một phần viện phí và Nghị định 58/CP
về bảo hiểm y tế. Mạng lưới y tế tư nhân có kiểm soát đã được phát triển
nhanh chóng, với sự tăng số lượng các cơ sở y tế. Hệ thống y dược học cổ
truyền được củng cố và phát triển. Công tác đào tạo đã chuyển biến tích cực,
bước đầu đáp ứng nhu cầu cán bộ cho y tế cơ sở, cũng như cán bộ cho các
chuyên khoa, y tế chuyên sâu. Công tác quản lý, sản xuất, cung ứng thuốc và
trang thiết bị y tế đã có nhiều tiến bộ.
Các chỉ tiêu sức khỏe nhân dân ngày càng được cải thiện rõ rệt. Theo
đánh giá của Cơ quan Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Việt Nam đứng vào
hàng các nước có thành tựu nổi bật về y tế so với tổng sản phẩm quốc dân
(GDP). Tuổi thọ trung bình đã tăng từ 65 tuổi năm 1989 lên 68 tuổi năm 1999
26
và 72,8 tuổi năm 2010. Các tỷ suất chết mẹ và trẻ em đã giảm xấp xỉ 2 lần
trong vòng 10-15 năm. Năm 2000, tỷ lệ chết mẹ còn 0,8‰ và tỷ lệ chết trẻ em
dưới 1 tuổi còn 36,7‰. Một số bệnh đã được thanh toán và loại trừ theo tiêu
chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới...
Thành tựu có ý nghĩa nhất trong giai đoạn này là đã xây dựng được
mạng lưới y tế cơ sở rộng khắp cả nước, từ Trung ương đến tỉnh, huyện, xã,
từ đồng bằng trung du, các vùng xa xôi hẻo lánh đến tận biên giới hải đảo và
đang mở rộng khắp thôn xóm bản làng với hơn 10.000 trạm y tế xã, y tế cơ
quan xí nghiệp. Nhờ mạng lưới đó Việt Nam đã thực hiện được mục tiêu của
Tổ chức Y tế Thế giới đề ra là: Sức khỏe cho mọi người năm 2000.
Phát huy những kết quả đã đạt được trong thời kỳ đổi mới, ngành Y tế
tiếp tục được củng cố, kiện toàn và phát triển cho phù hợp với tình hình mới,
khi nền kinh tế được chuyển hướng mạnh sang quản lý theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự
ủng hộ và hợp tác tích cực của các bộ, ngành, đặc biệt là sự kiên trì phấn đấu,
không ngại khó khăn, gian khổ của toàn thể cán bộ công chức, viên chức
ngành Y tế, sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân đã phát triển
vượt bậc và thu được những thành quả to lớn.
Các chỉ tiêu sức khỏe của nhân dân được nâng lên rõ rệt và tốt hơn
nhiều so với các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người. Nước ta
đứng vào hàng các nước có thành tựu nổi bật về y tế so với tổng thu nhập
quốc dân, chỉ số phát triển con người của Việt Nam tiếp tục tăng lên trong
suốt thập kỷ qua; chúng ta đã thanh toán được bệnh bại liệt, khống chế được
bệnh uốn ván sơ sinh, sởi, ho gà, bạch hầu; tỷ suất chết mẹ, chết trẻ em giảm
rõ rệt; tuổi thọ trung bình của Việt Nam đã đạt 72,8 tuổi. Đặc biệt năm 2009,
lần đầu tiên ngành Y tế hoàn thành vượt kế hoạch đối với 04/04 chỉ tiêu được
Quốc hội giao, đáng chú ý là đạt được mức giảm sinh 0,2‰ và hạ tỷ lệ suy
dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi xuống mức 18,9%. Ngành Y tế cũng đã hoàn
27
thành 15/15 chỉ tiêu được Chính phủ giao, trong đó có 6 chỉ tiêu được hoàn
thành vượt kế hoạch, gồm chỉ tiêu về tuổi thọ trung bình (đạt 72,8 tuổi so với
kế hoạch là 72 tuổi), tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi (đạt dưới mức kế hoạch là
16%), tỷ lệ trẻ đẻ có trọng lượng dưới 2,5kg (đạt 5,2% thấp hơn so với mức
kế hoạch là 6%), tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng (đạt 18,9% thấp hơn
so với mức kế hoạch là 19%), tỷ lệ bác sĩ trên 10.000 dân (đạt 7 bác sĩ cao
hơn so với mức 6,5 bác sĩ theo kế hoạch) và tỷ lệ xã có trạm y tế (đạt 98,2%
cao hơn mức kế hoạch là 98%).
Đã chủ động trong công tác phòng chống dịch bệnh. Nhiều bệnh dịch
nguy hiểm đã được khống chế và đẩy lùi, như dịch tả, dịch hạch, sốt rét... Đặc
biệt, chúng ta đã khống chế thành công dịch SARS, dịch cúm A/H5N1, dịch
cúm A/H1N1 - những loại dịch bệnh cực kỳ nguy hiểm đến tính mạng và sức
khỏe con người. Thành công này đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân đánh
giá cao và nâng cao uy tín của ngành Y tế Việt Nam trên thế giới.
Để giải quyết căn bản về cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh, trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm
đầu tư nguồn lực cho ngành Y tế. Ngành Y tế đã có những cố gắng vượt bậc
để thực hiện thành công các nhiệm vụ được Chính phủ giao trong Quyết định
số 47/2008/QĐ-TTg và Quyết định số 930/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về đầu tư cơ sở vật chất bằng trái phiếu Chính phủ cho y tế tuyến huyện và
tuyến tỉnh, phấn đấu năm 2011 hoàn thành việc xây dựng 621 bệnh viện đa
khoa tuyến huyện và bệnh viện đa khoa khu vực liên huyện, và đến hết năm
2013 hoàn thành việc đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp 78 bệnh viện đa khoa
tỉnh và Trung ương; 55 bệnh viện lao, 40 bệnh viện/trung tâm tâm thần, 33
bệnh viện nhi/sản nhi và 9 bệnh viện/trung tâm ung bướu, 7 khoa ung bướu
của các bệnh viện đa khoa thuộc Bộ Y tế, thuộc các bệnh viện đa khoa tỉnh,
thành phố, và một số đơn vị trực thuộc Bộ Y tế để đáp ứng nhu cầu khám
bệnh, chữa bệnh cho nhân dân theo các chuyên khoa trên địa bàn. Đến cuối
28
năm 2009, đã giải ngân được 90-95% số vốn thuộc kế hoạch 2008-2009 được
giao; với tiến độ như hiện nay, đến cuối năm 2011 sẽ hoàn thành việc xây
dựng 621 bệnh viện đa khoa tuyến huyện và khu vực liên huyện...
Công tác khám, chữa bệnh cũng có sự tiến bộ vượt bậc, không chỉ về
đội ngũ y bác sĩ, mà cả về số lượng và chất lượng dịch vụ y tế. Nhiều tiến bộ
kỹ thuật y học với công nghệ mới, hiện đại, tiên tiến của thế giới đã được ứng
dụng thành công ở nhiều bệnh viện, như chẩn đoán hình ảnh, mổ nội soi, mổ
tim hở, mổ đục thể tinh thủy bằng phương pháp Phaco, kỹ thuật mổ sọ não
bằng dao Gamma, ứng dụng y học hạt nhân trong điều trị, thụ tinh trong ống
nghiệm, ghép gan, thận, chẩn đoán và điều trị ung bướu,... Một số kỹ thuật
chuyên môn cao đã được sử dụng thường xuyên trong nhiều bệnh viện tuyến
tỉnh. Đặc biệt việc ứng dụng công nghệ thông tin trong chuyển giao công
nghệ y học hiện đại và chỉ đạo kỹ thuật từ xa cho các bệnh viện tuyến dưới đã
được thực hiện thành công và trở thành hoạt động thường xuyên của nhiều
bệnh viện Trung ương. Các trung tâm y tế chuyên sâu tiếp tục được đầu tư và
phát triển mạnh.
Nhằm nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn kỹ thuật và chất lượng
khám, chữa bệnh của y tế tuyến tỉnh, huyện, năm 2009 Bộ Y tế đã triển khai
Đề án "Cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ
các bệnh viện tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh", đã
luân chuyển cán bộ tuyến trên xuống hỗ trợ kỹ thuật, và nâng cao năng lực
khám, chữa bệnh cho các cơ sở y tế tuyến dưới, các cơ sở y tế ở vùng sâu,
vùng xa. Sau một năm thực hiện đã đạt được kết quả rất đáng kể, đã có 1.846
lượt cán bộ tuyến trên được cử đi luân phiên cho y tế cơ sở của những vùng
khó khăn, vùng sâu, vùng xa; 1.023 kỹ thuật thuộc 26 chuyên ngành được
chuyển giao cho các bệnh viện tuyến tỉnh; khám và điều trị được trên 210.000
lượt bệnh nhân và phẫu thuật được gần 5.000 ca; đặc biệt giảm trung bình
30% tỷ lệ chuyển tuyến không hợp lý của các bệnh viện tuyến dưới.
29
Hệ thống văn bản luật, văn bản quy phạm pháp luật y tế đã dần được
hoàn thiện. Cơ chế quản lý tài chính trong lĩnh vực y tế đã được nghiên cứu
để đổi mới, nhằm huy động tối đa mọi nguồn vốn hợp pháp đầu tư xây dựng
và phát triển các cơ sở y tế.
Công tác nghiên cứu khoa học được đẩy mạnh theo hướng đẩy mạnh
ứng dụng những công nghệ, kỹ thuật y tế tiên tiến trên thế giới vào Việt Nam.
Nhiều kết quả nghiên cứu đã được sử dụng trong chẩn đoán, điều trị, sản xuất
dược phẩm mới và sản xuất một số loại vaccin và sinh phẩm. Công tác quản
lý, sản xuất, cung ứng thuốc và trang thiết bị y tế đã được tăng cường. Ngành
dược tiếp tục phát triển, đảm bảo cung ứng thường xuyên và đủ thuốc có chất
lượng, giá hợp lý cho công tác phòng bệnh, chữa bệnh. Công tác bảo đảm an
toàn vệ sinh thực phẩm đã có nhiều tiến bộ và dần đi vào nền nếp.
Có những bước phát triển mạnh trong hợp tác quốc tế về lĩnh vực y tế.
Mối quan hệ hợp tác song phương và đa phương giữa ngành Y tế Việt Nam
với các nước và các tổ chức quốc tế ngày càng phát triển và mở rộng hoạt
động, góp phần quan trọng vào sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
Việt Nam.
Về hệ thống y tế cơ sở Việt Nam, cho đến năm 2007 hệ thống y tế cơ
sở đang như sau:
- Tỷ lệ xã, phường có trạm y tế: 98,8% với tổng số cán bộ: 52.064
người. Bình quân số cán bộ/trạm y tế: 4,7; Tỷ lệ có trình độ từ đại học và cao
đẳng: 13,4%
- Tỷ lệ xã, phường, thị trấn có bác sĩ: 67,38%
- Tỷ lệ xã, phường, thị trấn có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi: 93,6%
Thành tựu đáng lưu ý là các chỉ số sức khỏe của Việt Nam đã đạt ở
mức ngang tầm với các nước có nền kinh tế phát triển.
Về sự biến đổi cơ chế tổ chức quản lý hệ thống y tế cơ sở trong các
thập kỷ qua cũng có biến đổi rõ rệt, trước năm 1993 trạm y tế do UBND cấp
30
xã quản lý toàn diện. Với cơ chế khoán 10 trong nông nghiệp y tế cơ sở có
nguy cơ tan rã. Từ sau 1993 (ra Nghị quyết TW 4): trạm y tế được thừa nhận
nằm trong hệ thống y tế Nhà nước, được tổ chức theo địa bàn dân cư và đáp
ứng cho nhu cầu chăm sóc sức khỏe của cộng đồng. Hiện tại, một trạm y tế có
11 nhiệm vụ (nhiều hơn so với 8 nội dung được nêu trong Tuyên ngôn Alma-
Ata, 1978). Các nhiệm vụ này có thể xếp vào hai nhóm là chuyên môn, kỹ
thuật và tham mưu, quản lý. Tuy nhiên chế độ và chính sách cho khu vực
phục vụ y tế sát với cộng đồng này có nhiều điểm chưa phù hợp, như về mức
hưởng, phụ cấp, chế độ trực, công tác phí, cơ hội được đào tạo, tuyển dụng…
Số cán bộ y tế phục vụ 10.000 dân tăng dần theo năm . Tuy nhiên, so
với các ngành khác, sự tăng trưởng này không diễn ra ồ ạt, do hệ thống đào
tạo cán bộ y tế chưa có sự thay đổi đáng kể hoặc do sự hạn chế trong các định
mức cán bộ y tế không thay đổi hàng chục năm nay. Với tình trạng tăng rất
chậm chỉ số cán bộ y tế/10.000 dân trong 15 năm (tăng thêm xấp xỉ 3 cán bộ y
tế/10.000 dân) cho thấy về số lượng, cán bộ y tế chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển hệ thống y tế. Thêm vào đó, nếu trong tương lai định mức cán bộ y
tế tăng lên một cách đáng kể (khoảng 1.5 đến 2 lần) do thực hiện chế độ làm
việc ca kíp ở bệnh viện thì tình trạng thiếu cán bộ y tế này sẽ trở nên trầm
trọng hơn rất nhiều.
Số cán bộ y tế tăng ở một số vùng như Đông bắc, Bắc Trung Bộ, Đông
Nam Bộ và Tây Nguyên nhưng lại giảm ở Tây Bắc, Nam Trung Bộ và Đồng
bằng sông Cửu Long. Đặc biệt, bình quân tổng số cán bộ y tế /10.000 dân ở
khu vực Đông Bắc,Tây Bắc cao hơn con số này ở đồng bằng Sông Hồng. Đây
là những vùng kinh tế chậm phát triển. Thêm vào đó, về chất lượng, ở đây đội
ngũ cán bộ y tế có trình độ đại học trong công tác điều trị còn thấp, chủ yếu
vẫn là các loại hình như y sỹ, nữ hộ sinh trung học. Số bác sĩ phục vụ 10.000
dân từ năm 2001 - 2004 có xu hướng tăng dần đều (4.1 - 4.6/10.000 dân).
31
Cùng với xu hướng tăng chung của cả nước, hầu hết các vùng kinh tế
xã hội đều có sự gia tăng về số lượng bác sĩ. Trong đó tốc độ nhanh nhất diễn
ra ở các vùng: Tây Nguyên, Đông Nam Bộ. Đây là số liệu phản ánh việc thực
hiện Nghị quyết số 46 NQ/TW đã đề ra nhiệm vụ về phát triển nguồn nhân
lực, trong đó nêu bật nhiệm vụ tăng cường đào tạo cán bộ y tế theo hình thức
cử tuyển cho miền núi và Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên mức độ phát
triển ở miền núi phía Bắc lại chưa thấy. Có thể nói sự phát triển nhân lực y tế
về số lượng, có sự không đồng đều, cho thấy sự điều phối ở tầm vĩ mô chưa
đủ mạnh.
Trong những năm qua, Bộ Y tế có chính sách ưu tiên cho các tỉnh khó
khăn được đào tạo bác sĩ chính quy hệ 4 năm (chuyên tu) qua các cơ chế cử
tuyển và đào tạo theo địa chỉ, vì vậy xu hướng cải thiện (về số lượng) so với
các tỉnh giàu hơn cùng miền.
Xu hướng này cho thấy ở từng miền, số lượng cán bộ có xu hướng
chuyển dịch công bằng hơn, song đã đạt đến mức độ cần thiết hay chưa vẫn
cần phải nghiên cứu tiếp về phía kết quả đầu ra từ mức tăng bác sĩ trong hệ
thống y tế cũng như sự phân bố cán bộ y tế có trình độ đại học theo các tuyến.
Ngoài Tây Bắc có sự sụt giảm rõ rệt với nguyên nhân như phân tích ở
trên, số dược sỹ/10.000 dân của cả nước không có biến động lớn trong
khoảng 5 năm trở lại đây và giảm đáng kể, đạt tỉ lệ thấp: 0,2 vào năm 2004.
Nếu so với chỉ tiêu đã đặt ra trong chiến lược phát triển ngành Dược giai
đoạn đến 2010 là đến 2010 chúng ta phấn đấu có 1.5 dược sĩ đại học/10.000
dân, thì con số này thật là đáng lo ngại. Nhưng có một số vấn đề đặt ra đó là
con số dược sĩ đại học ra trường hàng năm tại các đơn vị đào tạo đều tăng đáng
kể (2005 có 505 dược sĩ đại học tốt nghiệp, so với năm 2000 là 300).
Như vậy số dược sĩ đại học ra trường đi đâu? Đa phần họ không vào
làm việc tại các cơ sở công lập hoặc làm các công việc theo đúng chuyên môn
mà đi làm cho các công ty thuốc nước ngoài, công ty TNHH kinh doanh
32
thuốc. Rõ ràng đang có sự dịch chuyển không thích hợp nhân lực dược đại
học trong toàn quốc, tăng đối với hệ thống tư nhân và không tăng hoặc giảm
đối với dược sĩ đại học trong hệ thống nhà nước.
Tây Bắc là một bằng chứng cho thấy số dược sĩ đại học đã giảm đi rất
nhiều so với vài năm trước, điều này thể hiện sự thiếu công bằng khá rõ, nhất
là khi hệ thống dược tư nhân ở vùng này cũng không phát triển như đồng
bằng. Nếu thiếu dược sĩ là một trong những chỉ điểm của tình trạng cung cấp
thuốc, quản lý thuốc yếu hơn thì đây thực sự là vấn đề trong khi nói về chất
lượng khám chữa bệnh cho đồng bào vùng núi, vùng nghèo.
Số y sĩ/10.000 dân giảm dần trong những năm gần đây. Điều này cũng
phù hợp với chủ trương giản đào tạo y sĩ của ngành Y tế do loại hình này chỉ
phù hợp trong giai đoạn trước đây (thời kỳ chiến tranh và bao cấp), khi đó
chúng ta quá thiếu về cán bộ y tế.
Trong giai đoạn hiện nay và trong tình hình mới, với thời gian đào tạo
chỉ 2 năm, y sĩ không đủ trình độ để đáp ứng nhu cầu tối thiểu về chăm sóc
sức khỏe của nhân dân. Mặt khác, chúng ta lại mất thêm 4 năm nữa để đào tạo
đối tượng này lên trình độ đại học chuyên tu. Vì vậy ngành Y tế chủ trương
giảm dần, tiến tới không đào tạo loại hình nhân lực này.
Thay vào đó, để hội nhập có thể theo một số nước có điều dưỡng thực
hành với thời gian đào tạo dài hơn 2 năm để có thể được thực hành lâm sàng ở
tuyến cơ sở như y sĩ trước đây, tạm thời giải quyết tình thế khi chưa thể có
ngay đội ngũ bác sĩ về làm việc tất cả các xã, đặc biệt là các xã vùng khó khăn.
Điều dưỡng trung học và hộ sinh trung học tăng nhanh trên cả nước,
điều này là phù hợp với chủ trương giảm dần y sĩ, khi đó đây sẽ là lực lượng
cán bộ y tế thay thế và mang tính chuyên biệt hơn làm công tác chăm sóc ban
đàu cho người dân. Tuy nhiên, điều dưỡng không chỉ có nhiệm vụ trong bệnh
viện mà còn phải làm việc tại cộng đồng như loại hình điều dưỡng trung học
ở một số nước trong khu vực là cần thiết.
33
Đối với khu vực bệnh viện, tỷ lệ điều dưỡng/bác sĩ cần phải rất cân đối
(tối thiểu phải bằng 3/1). Ở nước ta cũng như một số nước đang phát triển
khác, tỷ số này thường rất thấp, mới đạt 1,7/1 và càng ở bệnh viện tuyến trên
càng thấp. Mất cân đối giữa điều dưỡng/bác sĩ là bất cập khá rõ, vừa gây khó
khăn cho tổ chức khám chữa bệnh mà còn thể hiện sự điều phối chưa đủ mạnh
của các văn bản pháp quy hiện nay của ngành Y tế và Nội vụ.
Tính chung toàn bộ nhân lực y tế tuyến tỉnh trên toàn quốc. có 81,8%
nhân lực là thuộc hệ điều trị, khoảng 13% thuộc hệ dự phòng, số lượng quản
lý y tế tuyến tỉnh chiếm khoảng 4%.
Trong vùng địa lý miền Đông Nam Bộ là khu vực có tỷ lệ cán bộ làm
công tác quản lý và dự phòng thấp nhất: (1,8 và 7,1%) và tỷ lệ cán bộ thuộc
hệ điều trị cao nhất (89,5,%) khu vực Tây Bắc có tỷ lệ cán bộ điều trị thấp
nhất (63,1%) và tỷ lệ cán bộ dự phòng là cao nhất (28%). Bắc Trung Bộ là
vùng có tỷ lệ cán bộ làm công tác quản lý y tế tuyến tỉnh cao nhất (13,3%).
Tỷ lệ cán bộ y tế dự phòng và điều trị ở tuyến tỉnh cũng khác nhau giữa
các khu vực. Tỷ lệ cán bộ y tế dự phòng thấp nhất ở khu vực miền Đông Nam
Bộ và cao nhất ở khu vực Tây Bắc và ngược lại tỷ lệ cán bộ hệ điều trị ở miền
Đông Nam Bộ là cao nhất và thấp nhất ở vùng Tây Bắc. Tỷ lệ cán bộ quản lý
cao nhất ở khu vực Bắc Trung Bộ, tỷ lệ này cao hơn nhiều so với các khu vực
khác.
Với số liệu chung 64 tỉnh thành, số cán bộ y tế dự phòng chỉ bằng 1/6
so với số cán bộ hệ điều trị cho thấy sự bất hợp lý và chưa phù hợp với
phương châm dự phòng là chính. Tuy nhiên, sự điều phối vĩ mô khá hiệu quả
đối với vùng khó khăn, miền núi. Ở đây, số cán bộ hệ dự phòng chiếm tỷ
trọng cao hơn so với phân bố chung của cả nước.
2.1.2. Hệ thống đào tạo và các cơ sở đào tạo nhân lực y tế Việt Nam
Hệ thống đào tạo nhân lực y tế Việt Nam hoạt động theo sự điều chỉnh
của Luật Giáo dục nên có đặc điểm như giáo dục nghề nghiệp, đại học và sau
34
đại học. Do đặc thù của ngành Y tế, đối với giáo dục sau đại học còn đào tạo
Chuyên khoa 1, Chuyên khoa 2 và Bác sỹ nội trú bệnh viện.
Về chương trình khung và ngành nghề đào tạo: Từ năm 2001 đến nay,
Hội đồng Tư vấn xây dựng chương trình khung giáo dục đại học khối ngành
Khoa học Sức khoẻ đã chỉ đạo các Hội đồng ngành và tư vấn cho Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo ký ban hành 21 chương trình khung, gồm 13 chương
trình khung trình độ đại học và 8 chương trình khung trình độ cao đẳng.
Trong số 21 chương trình khung đã ban hành, chỉ có 4 chương trình
khung ban hành năm 2008, còn lại 17 chương trình khung ban hành năm
2001. Theo ý kiến của các nhà quản lý, các nhà khoa học và giảng viên các
trường đại học, cao đẳng y dược, các chương trình khung ban hành năm 2001
đã lạc hậu, cần thiết phải rà soát, đánh giá để điều chỉnh, bổ sung và cập nhật
những môn học mới, những kiến thức mới cho phù hợp với những tiến bộ của
khoa học - công nghệ, đặc biệt là những tiến bộ vượt bậc của khoa học y dược
nói riêng trong nước cũng như trên thế giới. Hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo
đang cùng với Bộ Y tế và các trường đại học xây dựng lại các chương trình
khung đã ban hành từ năm 2001.
Khác biệt so với các trường đại học, cao đẳng khối ngành kỹ thuật,
công nghệ, kinh tế - quản trị kinh doanh,… các trường đại học, cao đẳng y
dược chỉ đào tạo các ngành nghề về y dược, mà không đào tạo các ngành
ngoài y dược, vì vậy, cơ cấu ngành nghề đào tạo của các trường nhìn chung
không đa dạng và không phức tạp; trường đào tạo nhiều ngành nhất là trường
Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh 5 ngành đào tạo đại học 5 - 6 năm, 8
ngành đào tạo cử nhân 4 năm; nhiều trường cao đẳng chỉ đào tạo duy nhất 01
ngành.
Theo thống kê, hiện nay có 11 trường đại học đào tạo ngành điều
dưỡng trình độ đại học, 10 trường đào tạo ngành bác sĩ đa khoa, học 8 trường
35
đào tạo ngành dược sĩ đại học, chỉ có 1 trường đại học đào tạo ngành quản trị
bệnh viện, gây mê hồi sức và hộ sinh.
Đối với các trường cao đẳng, có đến 20 trường cao đẳng đào tạo ngành
điều dưỡng, 4 trường đào tạo ngành kỹ thuật y học và còn lại là ngành hộ sinh
và dược sĩ.
Sơ đồ 2.1. SƠ ĐỒ ĐÀO TẠO NHÂN LỰC Y TẾ CỦA VIỆT NAM
Trong đó:
- Thời gian đào tạo bác sỹ:
+ Hệ chính quy: 6 năm; Hệ chuyên tu: 4 năm (hệ tập trung 4 năm).
36
- Thời gian đạo tạo dược sỹ:
+ Hệ chính quy: 5 năm.
+ Hệ chuyên tu: 4 năm (hệ tập trung 4 năm).
- Thời gian đào tạo cử nhân: 4 năm.
Việt Nam hiện đã có mạng lưới đào tạo nhân lực y tế trải rộng trên toàn
quốc, thực hiện nhiệm vụ đào tạo nhân lực từ bậc nghề (sơ học) đến bậc trung
học, cao đẳng, đại học và sau đại học.
Hiện tại cả nước có 15 trường đại học, học viện đào tạo các ngành về y
dược, 5 trường đại học có khoa y dược hay khoa điều dưỡng và 30 trường cao
đẳng y dược, gần 50 trường trung học và cơ sở dạy nghề y tế.
Phân bố các trường đại học, cao đẳng có đào tạo các ngành y dược
không đều theo vùng kinh tế. Vùng Đồng bằng sông Hồng có 17 trường (11
trường đại học và 6 trường cao đẳng), chiếm tỷ lệ 41,5% tổng số trường; vùng
Đông bắc Bộ, vùng Bắc Trung Bộ và Vùng Đồng bằng sông Cửu Long, mỗi
vùng có 5 trường (1 trường đại học và 4 trường cao đẳng), chiếm tỷ lệ
12,2%/vùng; riêng vùng Tây bắc, đến nay chưa có trường đại học, cao đẳng
đào tạo ngành nghề về y dược. Trong 5 năm qua, số các trường cao đẳng y tế
được nâng cấp và thành lập mới chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các trường thành
lập mới những năm qua, đáp ứng nhu cầu quan trọng của việc đào tạo nhân
lực cho ngành Y tế.
Về đào tạo sau đại học, cả nước hiện có 18 trường đại học và viện
nghiên cứu được Chính phủ giao nhiệm vụ đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ;
trong đó: 15 cơ sở được giao đào tạo trình độ tiến sĩ, 12 cơ sở được giao đào
tạo trình độ thạc sĩ, 08 cơ sở đào tạo bác sĩ nội trú (Bộ Y tế quản lý và cấp
bằng), 10 cơ sở đào tạo bác sĩ chuyên khoa 1 (Bộ Y tế quản lý và cấp bằng),
08 cơ sở đào tạo bác sĩ chuyên khoa 2 (Bộ Y tế quản lý và cấp bằng).
Ngoài ra, bệnh viện tuyến trung ương, tuyến tỉnh cũng tham gia vào
công tác đào tạo nhân lực với vai trò là các cơ sở thực hành, thực tập cho học
37
sinh, sinh viên của các trường. Bên cạnh đó một số trung tâm y tế, bệnh viện
huyện, trạm y tế xã, xí nghiệp dược, cửa hàng thuốc cũng được lựa chọn để
trở thành các điểm thực hành, thực địa cho học sinh, sinh viên.
2.2. Thực trạng đào tạo chuyên môn tại các cơ sở đào tạo nhân lực y tế
2.2.1. Đội ngũ cán bộ giảng dạy
Là trường đào tạo thuộc khối ngành Y nhằm mục đich chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe nhân dân. Vì vậy đòi hỏi người cán bộ y tế phải có phẩm chất
chính trị, có kiến thức, có kỹ năng tay nghề, có đủ sức khỏe để đảm nhận
công việc tại các tuyến y tế, vì vậy việc lựa chọn đội ngũ giảng viên của các
trường đại học y dược rất kỹ, thường là những người giỏi, xuất sắc mới được
giữ lại trường. Giảng viên của các trường đại học y dược phần lớn đã qua có
thời gian tu nghiệp ở nước ngoài và bắt buộc phải kiêm nhiệm hay làm việc ở
các bệnh viên, vì vậy giảng viên các trường đại học y dược có ngoại ngữ và
khả năng thực hành tốt.
Theo số liệu thống kê từ báo cáo của 44 trường đại học, cao đẳng đào
tạo ngành nghề về y dược, cho thấy, tổng số giảng viên cơ hữu là 6.910 người
và giảng viên thỉnh giảng là 2.952 người. Trong đó, số giảng viên cơ hữu của
các trường đại học 71,8% và các trường cao đẳng là chiếm tỷ lệ 28,2%.
Một số trường có tỷ lệ giảng viên cơ hữu cao như trường Đại học Y
dược Thành phố Hồ Chí Minh, Cao đẳng Y Hà Nội, Đại học Y Hải Phòng…
Như trường Đại học Y Hải Phòng hiện có 120/185 giảng viên cơ hữu có trình
độ trên và sau đại học đạt tỷ lệ 64,8% và có 125 cán bộ thỉnh giảng đều có
trình độ sau đại học. Hiện trường có 45 cán bộ đang theo học các lớp sau đại
học, trong đó có 10 NCS, 35 cao học và hàng chục cán bộ đang theo học các
khoá học thực tập sinh và bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn ở trong và ngoài
nước. Đây là yếu tố thuận lợi thúc đẩy quá trình đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao của trường.
38
Bên cạnh đó một số trường có đội ngũ giảng viên cơ hữu không cao,
như trường Cao đẳng Y tế Quảng Ninh, đội ngũ giảng viên cơ hữu của nhà
trường hiện tại có 81 người, trong đó có 01 tiến sĩ, 10 thạc sĩ, bác sĩ chuyên
khoa cấp I là 06 người, giảng viên có trình độ đại học: 37 người, trình độ cao
đẳng 13, còn lại là trình độ trung học.
Trong số các trường đại học y dược, trường Đại học Y dược Thành phố
Hồ Chí Minh có số giảng viên cơ hữu cao nhất (905 người) và trường đại học
Răng - Hàm - Mặt có số giảng viên cơ hữu thấp nhất (51 người). Trong số các
trường cao đẳng y dược, trường Cao đẳng Y tế Hà Nội có số giảng viên cơ
hữu cao nhất (120 người) và Cao đẳng Y tế Tiền Giang có số giảng viên cơ
hữu thấp nhất (33 người).
Tỷ lệ giảng viên cơ hữu có chức danh giáo sư chung của các trường đại
học và cao đẳng y dược là 0,77%, trong đó tỷ lệ giảng viên cơ hữu có chức
danh giáo sư ở các trường đại học là 1,01% và các trường cao đẳng là 0,16% .
Tỷ lệ giảng viên cơ hữu có trình độ TS của các trường đại học và cao
đẳng y dược là 21,97%, trong đó tỷ lệ giảng viên cơ hữu có trình độ TS ở các
trường đại học y dược là 29,13% và tỷ lệ giảng viên cơ hữu có trình độ TS ở
các trường cao đẳng y tế là 3,72% .
Tuy nhiên, qua thống kê, có thể nhận thấy một yếu tố ảnh hưởng không
nhỏ tới chất lượng đào tạo nhân lực ngành Y tế chính là tỷ lệ giảng viên cơ
hữu/giảng viên thỉnh giảng chưa đảm bảo 70% ở hầu hết các trường trung
học, cao đẳng và cả một số trường đại học công lập. Tại các trường thuộc
khối ngành Y thường có nhiều giảng viên kiêm nhiệm ở các bệnh viện nhưng
nếu không có chuẩn sư phạm cho đội ngũ này thì sẽ ảnh hưởng nhiều tới chất
lượng đào tạo.
Công tác đào tạo giảng viên cho tới nay cũng chưa được chú ý đúng
mức. Trước đây chưa có đánh giá nào về chất lượng giảng viên trong các
trường đào tạo y dược. Chuẩn giảng viên mới bắt đầu đặt ra đối với các
39
trường trung cấp va cao đẳng mà chưa áp dụng cho trường đại học một cách
cụ thể.
Đối với các trường cao đẳng y dược chỉ có 0,16% giảng viên có chức
danh giáo sư và 3,72% giảng viên có trình độ tiến sĩ, 28% có học vị thạc sĩ.
chuyên khoa 1 và chuyên khoa 2, các trường trung cấp y dược chỉ có 3,5%
giảng viên có trình độ tiến sĩ, 27% thạc sĩ , chuyên khoa 1 và chuyên khoa 2.
Một trong những vấn đề cũng đang và sẽ là những thách thức đối với
chất lượng đào tạo các trường ngành Y là hiện tượng ngày càng thiếu những
giảng viên có trình độ, học vị chức danh cao dạy ở các chuyên khoa không
hấp dẫn như hệ dự phòng, các bộ môn hệ cận lâm sàng, một số hệ lâm sàng
như lao, tâm thần, nhi..
Bên cạnh đó, học trên lâm sàng tại bệnh viện đối với trường y và thực
hành tại cơ sở sản xuất thuốc của các trường dược cần có đội ngũ giảng viên
có kinh nghiệm thực tế nhưng đối với các trường đại học y giáo viên kiêm
nhiệm không nhiều nên vấn đề chất lượng học lâm sàng chưa đươc đặt ra.
2.2.2. Quy mô đào tạo
Quy mô đào tạo cao đẳng, đại học chính quy từ năm học 2004 - 2005
đến năm học 2007 - 2008 của các trường đại học, cao đẳng y dược được
thống kê ở bảng sau:
Bảng 2.1: Quy mô đào ta ̣o cao đẳ ng, đa ̣i ho ̣c chính quy tƣ̀ năm ho ̣c 2004- 2005 đến năm học 2007-2008 của các trƣờng đại học, cao đẳ ng y dƣơ ̣c
Quy mô đào tạo
Năm học
2004 - 2005 2005 - 2006 2006 - 2007 2007 - 2008 Bình quân
Tổng 23.164 29.801 33.328 41.335 31.907
Đại học 20.883 26.955 29.143 33.768 27.687
Tỷ lệ (%) Cao đẳng Tỷ lệ (%) 2.281 2.846 4.185 7.567 4.220
90,15 90,45 87,44 81,69 86,77
9,85 9,55 12,56 18,31 13,23
Nguồn: Theo niên giám thống kê của Bộ Y tế
40
Kết quả thống kê trên cho thấy:
Quy mô đào tạo đại học vẫn là chính, chiếm tỷ lệ 86,77%, trong khi đó
quy mô đào tạo cao đẳng chỉ chiếm 13,23%. Mức tăng bình quân về tổng quy
mô đào tạo đại học, cao đẳng sau 4 năm đạt 21,5%.
Quy mô đào tạo đại học, cao đẳng của các trường tăng, nhưng cơ cấu
về quy mô giữa đào tạo đại học và cao đẳng có sự thay đổi theo chiều hướng
giảm tỷ lệ đào tạo đại học và tăng tỷ lệ đào tạo cao đẳng.
Quy mô đào tạo đại học cao nhất trong số các trường đại học y dược
hiện nay là trường Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh, tổng quy mô đạt
6.612 sinh viên (5.678 sinh viên hệ chính quy và 934 sinh viên hệ không
chính quy). Với tổng số giảng viên cơ hữu là 861 người, thì tỷ lệ sinh viên/1
giảng viên (chưa quy đổi và không kể quy mô đào tạo sau đại học) là 7,7/1.
Trường Đại học Răng - Hàm - Mặt, không kể 15 nghiên cứu sinh và 53 học
viên cao học, thì quy mô đào tạo đại học hệ chính quy chỉ có 365 sinh viên,
với 51 giảng viên cơ hữu, tỷ lệ sinh viên/giảng viên là 7,2/1.
Nhìn chung, các trường đại học, cao đẳng y dược có quy mô đào tạo
không lớn, tổng quy mô đào tạo của tất cả các trường đại học, cao đẳng y
dược bình quân 4 năm (2004 - 2008) là 31.907 sinh viên, thấp hơn quy mô
đào tạo của một trường đại học khối ngành khác, ví dụ: Trường Đại học Kinh
tế quốc dân, quy mô đào tạo năm học 2007 - 2008 là 35.845 sinh viên;
Trường Đại học Bách khoa là 41.390 sinh viên;… Tỷ lệ sinh viên/1 giảng
viên của các trường đại học, cao đẳng y dược đều thấp hơn 10,0/1 và thấp hơn
nhiều so với tỷ lệ sinh viên/1 giảng viên bình quân của cả hệ thống giáo dục
đại học là 28,5/1.
Như vậy so với nhu cầu trong chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ y tế
đến năm 2010, với quy mô đào tạo rất nhỏ như hiện nay thì khả năng đáp ứng
yêu cầu mục tiêu sẽ rất khó khăn.
41
2.2.3. Số lượng học sinh, sinh viên ra trường hàng năm
Theo niên giám thống kê 2006, tổng số cán độ bộ y tế toàn ngành ước
tính có khoảng 271.149 người, trong đó tổng số cán bộ có trình chuyên môn
y, dược từ trung cấp trở lên là 211.813 người, có trình độ đại học là 64.074,
trình độ cao đẳng, trung cấp 148.701 người. Như vậy, nhu cầu tuyển thêm
nhân lực để bù đắp số về hưu, nghỉ việc, chuyển công tác (ước tính khoảng
5%), và để tăng trưởng (ước tính khoảng 5%) cộng với 10% số cán bộ y tế
làm việc trong lĩnh vực y tế tư nhân thì số cán bộ y tế cần thêm hằng năm là
20% tương ứng với: 54.230 người, trong đó tổng số cán bộ có trình độ chuyên
môn y, dược từ trung cấp trở lên là 43.363 người, có trình độ đại học là
12.815, trình độ cao đẳng và trung cấp 29.740 người.
Bảng 2.2. Ƣớc tính nhu cầu đào tạo nhân lực y tế đến năm 2015
(Ước tính dân số cả nước: 90 triệu)
Năm 2006
Số lượng cần 2015
Tổng cần có đến 2015
Số cần bổ sung đến 2015
Tỷ lệ /1 vạn dân (2006)
Số lượng 2006
Cho tư nhân (khoản g 10%)
Số cần đào tạo hàng năm
Mục yiêu đến 2015 /1 vạn dân
Năng lực đào tạo (khóa 2007- 2013)
Ƣớc vào 2015 Bổ sung cho về hưu và phát triển (khoảng 10%/năm
a
b
c
e
f=b*0.05 g=d+e+f g=f-b
i=h/9
d=c*DS /1van
369.000 36.900 570.133 976.033 704.844 78.320 27.300
Nhân lực 31 y tế chung
271.149
41
72.000
7.200 110.207 189.407 136.994 15.222 4.700
Bác sỹ
6
52.413 8
18.000
1.800 22.498
42.298
31.598 3.511 1.600
Dược sỹ 1
10.700 2
Điều dưỡng + Cán bộ y 24 tế khác
208.036
31
21.000
279.000 27.900 437.428 744.328 536.292 59.588
Nguồn: Tính theo mục tiêu về nhân lực y tế đến năm 2015 theo Quyết
định số 153/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Số liệu ước tính nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực y tế đến năm 2015 cho
thấy: số cán bộ y tế bậc đại học ra trường hàng năm vào thời điểm năm 2015
42
vẫn chưa thể đáp ứng nhu cầu phát triển của các cơ sở y tế công lập và tư
nhân kể cả ở điều kiện lý tưởng là tất cả học viên ra trường đều đi làm và
được tuyển dụng đồng đều giữa các vùng miền. Điều này cho thấy khả năng
đáp ứng của các cơ sở đào tạo hiện nay còn xa mới đạt được nhu cầu phát
triển của xã hội đặc biệt là với đội ngũ cán bộ y tế có trình độ đại học trở lên.
Năm 2008, các trường cung cấp khoảng gần 6.000 nhân viên y tế bậc
đại học mới bao gồm các chuyên ngành: bác sỹ đa khoa, dược sỹ đại học, bác
sỹ răng hàm mặt, bác sỹ y học cổ truyền, cử nhân y tế công cộng, cử nhân
điều dưỡng, cử nhân kỹ thuật viên. Những năm tới, số lượng này sẽ tiếp tục
tăng rất nhanh, đặc biệt là đối tượng bác sỹ, do các trường đều tăng chỉ tiêu
đào tạo trong thời gian qua và mới thành lập một số trường đại học như Đại
học Răng hàm mặt, Đại học Điều dưỡng Nam Định, Đại học Kỹ thuật Y học
Hải Dương (biểu đồ 2.1). Một số trường đào tạo đa ngành công lập và ngoài
công lập cũng tham gia vào đào tạo nhân lực y tế.
Biểu đồ 2.1. Ước tính số sinh viên bậc đại học các chuyên ngành ra trường hàng năm
Nguồn: Báo cáo hiện có và số lượng tuyển sinh hàng năm của Vụ Kế
hoạch Đầu tư, Bộ Y tế.
43
Theo thống kê chỉ số cán bộ y tế phục vụ 10.000 dân từ năm 1990 -
2006 tăng dần theo năm, từ 26,5 cán bộ lên 32 cán bộ/10.000 dân. Tuy nhiên,
so với các ngành kinh tế khác, sự tăng trưởng này diễn ra chậm, do hệ thống
các cơ sở đào tạo y dược quy mô tăng chậm hoặc sự hạn chế trong các định
mức cán bộ y tế không thay đổi hàng chục năm nay, vì thế số lượng cán bộ y
tế chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của cả hệ thống y tế.
Cùng với xu hướng tăng chung về số cán bộ y tế/1vạn dân trong cả
nước, hầu hết các vùng kinh tế đều có sự gia tăng về số lượng bác sĩ. Số bác sĩ
phục vụ 1vạn dân từ năm 2001 - 2006 tăng từ 4,1 bác sĩ lên 6,2 bác sĩ/1vạn
dân, nhưng các tỉnh vùng sâu, vùng xa tỷ lệ này lại rất thấp, ví dụ: Đồng Tháp
chỉ đạt 4,2 bác sĩ/1vạn dân; Lai Châu 3,3 bác sĩ/1vạn dân…
Đối với ngành Dược, nếu chỉ tiêu đặt ra trong chiến lược phát triển
ngành Dược giai đoạn 2001 - 2010 phấn đấu có 1,5 dược sĩ đại học/1vạn dân,
thì chỉ số này rất khó có thể đạt, nhất là các tỉnh vùng cao, vùng sâu, vùng xa,
ví dụ: Đồng Tháp tỷ lệ dược sĩ đại học đạt 0,2/1vạn dân; Lai Châu dược sĩ đại
học đạt 0,1/1vạn dân; Đồng Nai dược sĩ đại học đạt 0,21/1vạn dân…
Tuy số dược sĩ đại học ra trường hàng năm tại các cơ sở đào tạo đều
tăng đáng kể trong những năm qua, nhưng do quy mô tuyển sinh hàng năm
của ngành Dược rất hạn chế, nên một số lượng lớn sinh viên tốt nghiệp ngành
Dược không vào làm việc tại các cơ sở y tế công lập hoặc làm các công việc
không đúng chuyên môn đã được đào tạo, mà đi làm cho các công ty thuốc
nước ngoài, công ty TNHH kinh doanh thuốc. Như vậy, đang có sự bất cập
trong sự dịch chuyển nhân lực dược có trình độ đại học trong toàn quốc theo
xu thế tăng đối với hệ thống y tế tư nhân và không tăng hoặc giảm đối với hệ
thống y tế công lập.
Đối với khu vực bệnh viện, tỷ lệ điều dưỡng/1 bác sĩ cần phải đạt 2,5 -
3,5/1, tuy nhiên ở nước ta tỷ số này thường rất thấp, mới đạt 1,7/1 và càng ở
44
bệnh viện tuyến trên, tỷ số này càng thấp. Sự mất cân đối này thể hiện sự bất
cập, gây khó khăn cho tổ chức khám chữa bệnh tại các bệnh viện nói riêng
2.2.4. Thư viện, giáo trình, tài liệu phục vụ giảng dạy
Hầu hết các trường đào tạo thuộc khối ngành Y đều trang bị hệ thống
máy tính cho cán bộ và sinh viên/học viên nhà trường sử dụng trong các mục
đích giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Bên cạnh đó, một số nhà trường đã
trang bị một hệ thống máy tính được nối mạng Internet tốc độ cao (ADSL),
mạng máy tính nội bộ (mạng LAN); đồng thời lắp đặt nhiều điểm phát sóng
Internet không dây đảm bảo thuận lợi cho việc truy cập Internet miễn phí của
cán bộ, sinh viên/học viên và khách đến làm việc tại nhà trường.
Hiện nay, nhiều trường đang phối hợp với một công ty công nghệ thông
tin chuyên nghiệp xây dựng phần mềm tích hợp trong việc quản lý thông tin
nhân sự, quản lý hồ sơ học sinh viên/học viên, quản lý nghiên cứu khoa học,
quản lý tài chính và quản lý thư viện v.v… Phần mềm này sẽ được đưa vào sử
dụng trong thời gian sớm nhất nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý
thông tin một cách hệ thống và truy cập thông tin toàn diện, kịp thời.
Để phục vụ cho công tác nghiên cứu, một trong những cơ sở vật chất
không thể thiếu là hệ thống thư viện hiện đại hoạt động theo mô hình kho mở
với vốn tài liệu cập nhật, phong phú, bao gồm nhiều đầu sách, tạp chí nghiên
cứu uy tín trong và ngoài nước. Một số trường trang bị khá hiện đại, như
Trường Đại học Y tế Công cộng, cùng với cơ sở dữ liệu Libol giúp bạn đọc
tra cứu trực tuyến các tài liệu hiện có của nhà trường, thư viện còn tham gia
vào các liên hợp thư viện, các sáng kiến chia sẻ nguồn lực thông tin, góp phần
làm phong phú thêm nguồn tài nguyên thông tin, điển hình có HINARI với
quyền truy cập tới hơn 3750 tạp chí y sinh học tên tuổi trên thế giới, EBSCO
với các nguồn tin phong phú về y, dược học, khoa học xã hội... Bên cạnh đó,
với định hướng lấy bạn đọc làm trung tâm, thư viện còn triển khai nhiều hình
thức hỗ trợ bạn đọc như hỗ trợ tra cứu qua email, qua điện thoại, tổ chức các
45
lớp hướng dẫn người dùng tin định kỳ hàng tuần, lồng ghép phần hướng dẫn
sử dụng thư viện và khai thác thông tin vào các môn học chính khoá cho sinh
viên hệ cử nhân, cao học, mời chuyên gia đến báo cáo khoa học về khai thác
sử dụng các nguồn thông tin mới... Với đội ngũ cán bộ chuyên môn cao, tận
tình với bạn đọc, cơ sở vật chất được đầu tư hiện đại, như hệ thống quản lý
mượn trả qua Barcode, máy tính nối mạng phục vụ tra cứu, hệ thống Internet
không dây, các góc học tập cá nhân trong không khí yên tĩnh với đầy đủ tài
liệu hỗ trợ đã đáp ứng được tối đa yêu cầu của người sử dụng nói chung và
của sinh viên/học viên của nhà trường nói riêng.
Theo báo cáo của 10 trường (5 trường đại học và 5 trường cao đẳng) về thư viện cho thấy, diện tích xây dựng bình quân/1 thư viện là 412m2 và diện tích sử dụng bình quân/1 thư viện là 339m2; Học viện Quân y đang xây dựng
thư viện điện tử, còn lại 9 trường chưa có thư viện điện tử.
Tổng số giáo trình của 10 trường tự biên soạn là 277 với 19.111 cuốn,
trong đó 237 giáo trình do 5 trường đại học biên soạn và 40 giáo trình do 5
trường cao đẳng biên soạn. Nếu tính bình quân, một trường đại học y dược đã
biên soạn được 47,4 giáo trình và một trường cao đẳng y dược chỉ biên soạn
được 8 giáo trình phục vụ giảng dạy và học tập. Với tỷ lệ bình quân 69 cuốn/1
giáo trình cho thấy, giáo trình của các trường, đặc biệt là các trường cao đẳng
là không tương thích với quy mô đào tạo. Bên cạnh giáo trình tự biên soạn,
các trường cũng đã tổ chức dịch 18 tài liệu từ tiếng nước ngoài, trong đó các
trường đại học dịch 4 tài liệu và các trường cao đẳng dịch 14 tài liệu.
Đối với chương trình đào tạo của một ngành, số liệu thống kê cũng cho
thấy, tỷ lệ bình quân các môn học/học phần có giáo trình phục vụ giảng dạy,
học tập khối kiến thức giáo dục đại cương đạt 59,2% và khối kiến thức giáo
dục chuyên nghiệp đạt 62,3% [7, tr.33].
Về giáo trình giáo dục y đức, đã có khá nhiều sách viết về y đức, nhiều
lời dạy của các bậc tiền nhân trong ngành Y trong nước và trên thế giới về
46
đạo đức và phẩm chất người thầy thuốc. Chúng ta lại có nhiều tấm gương
sáng về đạo đức y tế từ xưa tới nay.
Nhiều bậc thầy mẫu mực trong ngành, nhiều các thầy dạy trong các
trường y, dược, nhiều cán bộ quản lý ngành đang công tác và đã nghỉ hưu tha
thiết với sự nghiệp y tế, sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc sức khỏe con người,
sức khỏe con người Việt Nam hôm nay và sức khỏe dân tộc Việt Nam ngày
mai, sánh vai cùng với các dân tộc trên thế giới sẽ hăng hái đóng góp kinh
nghiệm của mình trong nhiệm vụ giáo dục đạo đức y tế, một nhiệm vụ vẻ
vang và cực kỳ quan trọng trong công cuộc đào tạo cán bộ y tế ở nước ta.
Hiệu trưởng Trường Đa ̣i ho ̣c Y Hà Nội, GS Nguyễn Đức Hinh nhìn
nhận, ngành Y tế có một lịch sử rất đáng tự hào và có nhiều đóng góp cho đất
nước. Tuy nhiên, không thể phủ nhận ngành Y đúng là có những vấn đề về y
đức phải quan tâm tăng cường trang bị y đức cho cán bộ ngành Y tế: “Thực
tế, sự vận hành của y đức chưa theo kịp sự vận hành của cơ chế thị trường. Do
vậy, việc thành lập bộ môn Y đức và Y xã hội học thuộc Khoa Y tế công cộng
của trường là cần thiết để việc dạy y đức cho sinh viên đáp ứng đòi hỏi của
thực tiễn và xã hội”.
Trước mắt, hai trường gồm Đa ̣i ho ̣c Y Hà Nội và Đa ̣i ho ̣c Y dược Thành
phố Hồ Chí Minh đã thống nhất: Đa ̣i ho ̣c Y Hà Nội sẽ viết giáo trình dùng giảng dạy cho sinh viên hai trường những kiến thức về Y đức (khả năng chuyên môn)
và Y xã hội học (khả năng tư vấn bệnh lý) cần cho một bác sĩ. Sau đó, sẽ chỉnh
sửa giáo trình để dùng giảng dạy trong các trường y dược cả nước.
Thực tế vấn đề y đức đã - đang được dạy cho sinh viên trong các
trường nhưng chưa đúng. Qua khảo sát chương trình ở 7 trường có đào tạo về
y, điểm chung là các trường đều dạy về lịch sử ngành y, 12 điều y đức…
Điểm yếu của bác sĩ là không có kiến thức về xã hội học vì mảng này chưa
được học trong trường. Do vậy, khi làm việc họ tận dụng được rất ít về
chuyên môn dẫn đến không có khả năng tư vấn bệnh lý…
47
Trưởng Khoa Y tế Công cộng (Trường Đa ̣i ho ̣c Y Hà Nội), GS. TS
Trương Việt Dũng cho biết, y đức được giảng dạy trong nhà trường được 10
năm nay. Thế nhưng, việc đào tạo cho sinh viên mới chỉ dừng ở khâu chăm
sóc bệnh nhân chứ chưa chú trọng đến tâm lý. Việc đào tạo thêm cho sinh
viên về Y xã hội học để chăm sóc về tâm lý cộng với kiến thức xã hội thì việc
chăm sóc người bệnh được tốt hơn và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, vấn đề tổ
chức giảng dạy môn Y đức và Y xã hội học như thế nào cho hiệu quả đang là
vấn đề lúng túng không chỉ của một vài trường.
Nội dung bác sĩ được làm gì và không được làm gì thì nhà trường vẫn
đang giảng dạy cho sinh viên. Nhưng nội dung khoa lúng túng nhất là giảng
dạy “ứng xử với bệnh nhân” cho sinh viên thế nào, ứng xử như thế nào cho
đúng, hiệu quả trong điều trị cần sự tư vấn của các chuyên gia có nhiều kinh
nghiệm trong và ngoài nước.
Như vậy, có thể nói rằng, giáo trình của các trường đại học, cao đẳng y
dược là chưa đủ về số lượng, chưa đáp ứng yêu cầu giảng dạy và học tập, dẫn
đến dạy chay, học chay ở một số môn học, học phần.
2.3. Thực trạng việc giáo dục y đức tại các cơ sở đào tạo nhân lực y tế
2.3.1. Những thành tựu của việc giáo dục y đức tại các cơ sở đào tạo
nhân lực y tế
Hiện nay, đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ta đang ngày
càng ổn định và phát triển. Sự thành công của các nhiệm kỳ đại hội Đảng đã
tạo nên không khí phấn khởi, tin tưởng, củng cố vững chắc niềm tin của các
tầng lớp nhân dân trong cả nước vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp đổi
mới đất nước. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới WTO sẽ thúc đẩy và tạo điều kiện cho thanh niên và
sinh viên cơ hội phát triển.
Sống trong môi trường thông tin đa chiều, dưới áp lực cạnh tranh và
hội nhập quốc tế, sinh viên trong cả nước nói chung và sinh viên ngành Y nói
48
riêng đã nhận thức rõ hơn về tình hình nhiệm vụ của mình cũng như của đất
nước trong giai đoạn hiện nay. Là lớp người nhạy bén trước những sự kiện
trong nước và quốc tế, nên tư tưởng, đạo đức, lối sống của họ cũng có những
chuyển biến nhất định. Hầu hết sinh viên nói chung, sinh viên ngành Y nói
riêng có thái độ và nhận thức chính trị cao, luôn nêu cao tinh thần tình nguyện
xung kích. Màu áo xanh thanh niên, sinh viên tình nguyện, đã trở nên thân
thương và rất quen thuộc với người dân Việt Nam. Các công tác hội và các
phong trào sinh viên ngành Y ngày càng phát triển mạnh mẽ. Phong trào
“Thanh niên tình nguyện” đã có sức lan toả, ảnh hưởng tích cực tới đời sống
xã hội, tạo động lực to lớn thúc đẩy tinh thần sinh viên trong học tập, rèn
luyện. Sự chủ động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ Đoàn trong việc cụ thể hoá
phong trào phù hợp với các đối tượng, lĩnh vực công tác, việc triển khai, thực
hiện tháng Thanh niên, chiến dịch Mùa hè Thanh niên tình nguyện; thi đua
học tập, tham gia phát triển khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo; thi đua
lập nghiệp, lao động sáng tạo, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện mới, tình
nguyện chung sức vì cộng đồng; xung kích và bảo vệ Tổ quốc, tham gia đấu
tranh phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội; triển khai thực hiện các chương
trình dự án; kết quả thực hiện phong trào “Sáng tạo trẻ”, “Bốn mới”… Các
hoạt động hỗ trợ thiết thực cho nhu cầu và quyền lợi của thanh niên (việc làm,
du học, học bổng trợ cấp khó khăn, vay vốn). Các hoạt động của Hội sinh
viên ngày càng thu hút đông đảo sinh viên đến với Hội và tích cực tham gia
các hoạt động của Đoàn, Hội sinh viên tổ chức.
Quán triệt sâu sắc những quan điểm về giáo dục đạo đức của Đảng, Bộ
Y tế đã coi giáo dục y đức là một trong những nội dung cơ bản của giáo dục ở
bậc đại học, cao đẳng của ngành y. Nhận thức được điều đó, các trường đại
học, cao đẳng ngành Y ở nước ta rất chú trọng đến việc giáo dục y đức cho
sinh viên. Trong những năm gần đây, tất cả các trường ngành Y trong cả nước
49
đều đã đưa môn học đạo đức nghề nghiệp vào chương trình giảng dạy cho
sinh viên. Thông qua môn học, sinh viên được trang bị những khái niệm,
phạm trù, chuẩn mực đạo đức cơ bản; các khái niệm, các nguyên lý của đạo
đức y học; cung cấp những thông tin cần thiết để sinh viên thực hành y đức:
Tuyên ngôn của Hội y học thế giới về quyền của bệnh nhân; các nguyên tắc
trong giao tiếp, ứng xử với bệnh nhân; các tiêu chuẩn của việc thực hành
chăm sóc sức khoẻ có chất lượng; các nguyên tắc làm việc cùng đồng nghiệp;
Lời thề Hypôcrate, Tuyên ngôn Geneva, 12 điều y đức; các quy định của Bộ
Y tế về đạo đức của người thầy thuốc trong thực hành lâm sàng và nghiên cứu
khoa học.
Việc đưa môn đạo đức nghề nghiệp vào giảng dạy cho sinh viên ngành
y, bước đầu đã thu được những kết quả nhất định, góp phần nâng cao trình độ
nhận thức, cũng như điều chỉnh hành vi đạo đức cho sinh viên. Tuy nhiên,
qua khảo sát tình hình giảng dạy, học tập môn đạo đức nghề nghiệp ở các
trường đại học, cao đẳng ngành Y ở nước ta những năm qua chúng tôi thấy
vẫn còn nhiều hạn chế, cụ thể là:
Về sách giáo khoa và tài liệu phục vụ dạy và học môn đạo đức nghề
nghiệp chưa có, các trường tự biên soạn giáo trình để giảng dạy. Nội dung các
tài liệu đó chưa thống nhất, không đồng bộ, còn bộc lộ một vài nhược điểm,
cần khắc phục: các khái niệm, phạm trù nhiều chỗ chưa rõ, thiếu sự phân tích
một cách sâu sắc, lượng thông tin không nhiều do đó ảnh hưởng rất lớn tới
chất lượng và hiệu quả giảng dạy, học tập môn đạo đức cũng như mục tiêu
giáo dục y đức cho sinh viên.
Về đội ngũ giáo viên giảng dạy môn đạo đức nghề nghiệp ở các trường
đại học, cao đẳng ngành Y ở nước ta hiện nay, phần lớn là giáo viên “kiêm
nhiệm”. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức là một lĩnh vực
của tri thức triết học, là triết học của đời sống thực tiễn. Vì vậy nên giao cho
50
giáo viên triết học đảm nhiệm việc giảng dạy môn đạo đức nghề nghiệp trong
các trường ngành y.
Việc giảng dạy môn đạo đức nghề nghiệp ở các trường ngành Y hiện
nay, phần lớn sử dụng phương pháp thuyết trình, thậm chí còn cắt xén hoặc
không để thời gian cho sinh viên thảo luận. Kết quả, khi kiểm tra, sinh viên
chỉ học thuộc và nhắc lại những gì đã học, còn năng lực vận dụng tri thức thì
rất yếu.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả việc giảng dạy và học tập môn đạo
đức nghề nghiệp ở các trường ngành y, đáp ứng yêu cầu giáo dục y đức cho
sinh viên, Bộ Y tế cần phải biên soạn sách giáo khoa môn học, coi đó là giáo
trình thống nhất trong các trường ngành y. Đồng thời phải đổi mới nội dung,
cải tiến phương pháp giảng dạy môn học, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Hoà cùng với không khí sôi nổi của sinh viên cả nước, với phong trào
thi đua của sinh viên nói chung, công tác đoàn và phong trào sinh viên của
các trường đại học, cao đẳng ngành Y đã thu được những kết quả đáng khích
lệ. Theo báo cáo tổng kết công tác đoàn và phong trào sinh viên của các nhà
trường, qua khảo sát một số cơ sở đào tạo lớn thuộc khối ngành Y tế ta thấy
thực trạng giáo dục y đức cho sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng ngành
Y có những mặt mạnh sau:
Từ khi đất nước được giải phóng cho đến nay, hoà chung với công cuộc
đổi mới đất nước, Các trường đào tạo thuộc khối ngành Y luôn đi đầu trong
việc đào tạo trí thức ngành Y tế cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới
của đất nước, hội nhập với xu thế phát triển mới của thế giới và khu vực.
Trong bối cảnh đất nước hiện nay, thuận lợi rất nhiều nhưng khó khăn,
thách thức không ít, dưới sự chỉ đạo của Đảng uỷ, ban giám hiệu các nhà
trường, ban chấp hành đoàn trường và hội sinh viên luôn gắn giáo dục chính
trị tư tưởng với giáo dục những truyền thống quí báu của dân tộc, truyền
thống của ngành, của nhà trường, thường xuyên quan tâm bồi dưỡng cho đoàn
51
viên, sinh viên về nhận thức chính trị, các nghị quyết của Thành đoàn và của
hội sinh viên.
Trong các hoạt động chung, các đoàn trường đã tổ chức tốt nhiều
phong trào mang tính giáo dục đạo đức cao, do đoàn cấp trên và Bộ Y tế phát
động:
- Tổ chức cho đoàn viên, sinh viên tham gia góp ý kiến cho dự thảo văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên
tham gia và có những đóng góp tích cực vào diễn đàn quốc hội trẻ.
- Hưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh của Bộ Chính trị, các trường đã bằng nhiều hình thức, tích cực
tuyên truyền sâu rộng đến đoàn viên, sinh viên và phát tài liệu học tập đến
từng chi đoàn.
Cụ thể như Đoàn trường Đại học Y Hà Nội đã đứng ra tổ chức buổi
giao lưu, nhân chứng là em gái bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm, các thầy đã từng dạy
và các cựu sinh viên cùng khoá với bác sĩ Trâm. Buổi giao lưu đã phần nào
làm cho sinh viên thế hệ hôm nay thêm hiểu lí tưởng sống, ước mơ hoài bão
của thế hệ sinh viên đi trước, càng tự hào với truyền thống lịch sử của nhà
trường với những tấm gương đạo đức cao cả. Tổ chức cho đoàn viên, sinh
viên toàn trường tham gia cuộc thi tìm hiểu “70 năm truyền thống của Đoàn”
với gần 2000 bài dự thi; đặc biệt đoàn trường đã phát động và tổ chức hai
cuộc thi tìm hiểu lớn nhân những ngày kỉ niệm trọng đại của Thủ đô và đất
nước như: “60 năm nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, “60 năm
ngày toàn quốc kháng chiến”, “Hà Nội quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” và đã
thu được kết quả hết sức ấn tượng, lựa chọn được nhiều bài gửi đi dự thi cấp
thành phố và trung ương. Qua các cuộc thi này, nhận thức chính trị - xã hội;
đạo đức nghề nghiệp của sinh viên được nâng lên một bước.
Để đào tạo đội ngũ thầy thuốc “vừa hồng vừa chuyên” đồng thời với
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục lí tưởng cách mạng, truyền
52
thống yêu nước, ý thức trách nhiệm công dân, nhà trường đã thường xuyên tổ
chức các phong trào và hoạt động nhằm động viên hỗ trợ sinh viên tích cực
học tập, nghiên cứu khoa học, phát triển tài năng. Hằng năm hầu hết các nhà
trường đều định kì tổ chức cho đoàn viên, sinh viên toàn trường các buổi sinh
hoạt khoa học theo chủ đề như: Phương pháp học tập cho sinh viên Y1 mới
vào trường, phương pháp học cho sinh viên Y3 khi bắt đầu đi thực tập bệnh
viện; tổ chức các câu lạc bộ điều dưỡng, tiếng Anh. Hàng năm và từng học kì,
đoàn trường đều phát động phong trào “Mùa thi nghiêm túc và chất lượng”;
đặc biệt mới đây là phong trào “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh
thành tích trong giáo dục” tới toàn thể đoàn viên, sinh viên trong trường;
trong các kì ôn thi, nhà trường phối hợp với ban quản lí học sinh và các phòng
ban khác mở thêm giảng đường và thư viện để sinh viên tự học ngoài giờ và
buổi tối trong tuần.
Song song với việc học tập, phong trào sinh viên tham gia nghiên cứu
khoa học ngày càng được đông đảo sinh viên các trường hưởng ứng tham gia.
Để đào tạo sinh viên một cách toàn diện, các nhà trường thuộc khối
ngành Y đã chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho sinh viên, đẩy mạnh
các hoạt động văn hoá - văn nghệ - thể thao và công tác xã hội trong sinh
viên, tích cực phòng chống tệ nạn xã hội, tổ chức câu lạc bộ Nữ sinh, Vũ quốc
tế, Ghita, Phòng chống tác hại thuốc lá và HIV/AIDS… Đoàn thanh niên, Hội
sinh viên còn tổ chức nhiều hoạt động bổ ích nhân các ngày lễ lớn của dân
tộc, của trường và ngành Y tế như: thi giọng hát vàng, nữ sinh y khoa thanh
lịch, thi nấu ăn, thi cắm hoa… tổ chức đội bóng sinh viên; nhân dịp hội nghị
cấp cao lần thứ 14 các nhà lãnh đạo APEC diễn ra tại Việt Nam năm 2006,
Hội liên hiệp các tổ chức hữu nghị Hà Nội tổ chức cuộc thi tìm hiểu APEC
trên truyền hình, đội tuyển sinh viên của trường tham gia và đã đạt giải nhì.
Bên cạnh đó, tại các cuộc thi, sân chơi dành cho sinh viên trên truyền hình
như: Rung chuông vàng, Gala cười sinh viên… đều có mặt sinh viên ngành Y
53
với những ấn tượng riêng mà chỉ sinh viên y mới có thể tạo ra được; Các đoàn
trường còn tổ chức cho sinh viên toàn trường kí cam kết “Năm không” do
Thành đoàn chỉ đạo: không tham gia vận chuyển, mua bán, tàng trữ và sử
dụng các chất ma tuý; tổ chức cho đoàn viên tìm hiểu về luật chống ma túy;
luật giao thông; hưởng ứng ngày thế giới phòng chống HIV/AIDS 1/12/2005,
câu lạc bộ phòng chống tác hại của thuốc lá và HIV/AIDS, đặc biệt một số
trường như Trường Đại học Y Hà Nội, Đại học Y Hải Phòng, Đại học Y Thái
Bình… đã được thành lập và đi vào hoạt động, đã thu được những kết quả hết
sức tốt đẹp. được trung ương đoàn và Bộ Y tế đánh giá cao. Trong đó tiêu
biểu như đội thi tuyên truyền về phòng chống tác hại thuốc lá của trường Đại
học Y Hà Nội đã đạt giải nhất toàn miền Bắc và được mời báo cáo điển hình
tại Quảng Ninh tháng 12/2006 [37, tr.8].
Phát huy truyền thống ngành y, phong trào thanh niên tình nguyện
được đông đảo đoàn viên, sinh viên các trường đại học, cao đẳng và trung học
tham gia. Hưởng ứng các cuộc vận động mang tính giáo dục đạo đức cao, như
hiến máu nhân đạo, phong trào “Ngày thứ bảy tình nguyện- Hiến máu nhân
đạo”.
Tiêu biểu như trường Đại học Y Hải Phòng năm nào cũng phối hợp với
bênh viện đa khoa Việt Tiệp tổ chức hiến máu nhân đạo trong toàn trường,
Hay trường Đại học Y Hà Nội chỉ riêng trong nhiệm kì 2005- 2007 nhà
trường đã phối hợp với khoa huyết học và truyền máu bệnh viện Việt Đức
tuyên truyền, vận động và tổ chức 03 buổi hiến máu nhân đạo với đông đảo
đoàn viên, sinh viên tích cực tham gia thu được hơn 300 đơn vị máu kịp thời
cứu sống hàng trăm bệnh nhân trong cơn hiểm nghèo.
Từ năm học 2003 - 2004 các trường thuộc khối ngành Y đã triển khai
thực hiện việc đánh giá điểm rèn luyện đạo đức sinh viên trên cơ sở quy chế
đánh giá điểm rèn luyện sinh viên của Bộ Giáo dục - Đào tạo ban hành. Kết
quả đạt được rất tốt.
54
Bảng 2.3. Đánh giá điểm rèn luyện đạo đức sinh viên trƣờng đại học
Y Hải Phòng từ năm 2003 - 2007
Năm học
Xuất sắc
Tốt
Khá
Yếu kém
2003 - 2004
SV 65
% 8,95
SV 300
% 41,32
% 44,9
SV 326
Trung bình khá SV % 3,58 26
Trung bình SV % 0,55 4
SV % 0,55 4
2004 - 2005
65
8,95
305
42,0
45,5
330
25
3,45
0
0
0
0
2005 - 2006
80
11,0
300
41,37
44,0
319
25
3,44
1
0,14
0
0
2006 - 2007
78
320
10,75
302
41,65
41,13
23
3,17
2
0,27
0
0
Nguồn: Theo Báo cáo tổng kết công tác đào tạo trường ĐH Y Hải Phòng.
Từ kết quả trên ta thấy số sinh viên xếp loại xuất sắc và tốt khá cao, tăng
theo các năm, số sinh viên có điểm rèn luyện yếu kém giảm, điều này phù hợp
với kết quả học tập của sinh viên. Những sinh viên có học lực khá giỏi thường
có điểm rèn luyện tốt và ngược lại những sinh viên có kết quả yếu kém cũng
thường có điểm rèn luyện yếu. Tuy nhiên năm học 2003 - 2004 vẫn có 04 sinh
viên chiếm 0,55% xếp loại yếu kém, do sinh viên này không tham gia đánh giá
điểm rèn luyện, hội đồng đánh giá thống nhất xếp loại yếu [40, tr.11].
Kế thừa và phát huy đạo lý tốt đẹp của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”
đoàn thanh niên, hội sinh viên các nhà trường khối ngành Y tế đã tổ chức cho
đoàn viên, sinh viên thường xuyên thăm và tặng quà các Bà mẹ Việt Nam anh
hùng do nhà trường nhận phụng dưỡng với kinh phí tặng các mẹ hàng tháng
và trong các dịp lễ tết lên tới gần 20 triệu đồng; hưởng ứng đợt quyên góp ủng
hộ quỹ vì người nghèo của Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ủng hộ
đồng bào vùng thiên tai lũ lụt các tỉnh miền Trung, phát động sinh viên quyên
góp các vật dụng như quần áo, sách vở, đồ dùng học tập tặng các học sinh của
các huyện, xã vùng sâu, vùng xa trong cuộc vận động “áo trắng tặng bạn” do
các Thành đoàn phát động [37, tr.9].
Trong nhiều năm các đoàn trường ngành Y luôn tham gia tích cực và
có nhiều đóng góp cho phong trào thanh niên tình nguyện hè, liên tục tổ chức
các đoàn bác sĩ trẻ tình nguyện kết hợp với đoàn trường đại học đi khám
bệnh, tư vấn và phát thuốc miễn phí cho đồng bào các tỉnh biên giới phía Bắc
55
như: Lào Cai, Hà Giang, Điện Biên, Lai Châu, Ba Vì (Hà Tây), ví dụ như
trong đợt lũ tại một số tỉnh miền Trung năm 2006 trường Đại học Y Hà Nội
kết hợp với đoàn trường cử các bác sĩ trẻ tình nguyện tham gia khắc phục hậu
quả tại các địa phương bị thiên tai. Tổng số người được khám, tư vấn gần 50
nghìn lượt người và phát thuốc miễn phí với số tiền thuốc, dụng cụ y tế thiết
yếu trị giá hàng chục triệu đồng. Trường Đại học Y Hải Phòng mỗi năm đều
cử các đoàn bác sĩ tình nguyện đi khám chữa bệnh tại các huyện ngoại thành
Hải Phòng như An Lão, Kiến Thụy, Thủy nguyên và cả các tỉnh bạn như Hải
Dương, Hưng Yên… Đội thanh niên tình nguyện của các nhà trường đã nhận
được nhiều bằng khen của Trung ương đoàn, Thành đoàn các tỉnh thành phố
và uỷ ban nhân dân các tỉnh nơi đoàn bác sĩ trẻ tình nguyện có mặt.
Một trong những trường đại diện cho khối y tế cộng đồng là Trường Đại
học Y tế Công cộng. Nhiệm vụ trọng tâm của trường là đào tạo cán bộ y tế
trình độ đại học và sau đại học; nghiên cứu khoa học phục vụ sự nghiệp chăm
sóc và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng; nâng cao kiến thức quản lý, ngoại ngữ cho
các cán bộ hiện đang làm công tác quản lý ngành. Hàng năm nhà trường tuyển
sinh từ 100-120 sinh viên hệ chính quy, ngoài ra còn đào tạo sinh viên hệ tại
chức và học viên sau đại học. Đại đa số đoàn viên sinh viên của nhà trường đều
xác định đúng động cơ học tập, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và
rèn luyện y đức. Kết quả học tập của sinh viên như sau:
Bảng 2.4. Kết quả học tập của sinh viên trƣờng Đa ̣i ho ̣c Y tế Công cộng
Kết quả học tập
Số sinh viên giỏi Số sinh viên khá
Tổng số sinh viên
Số sinh viên trung bình 103 88 43 284 395 395 Học kỳ 1 (2006- 2007) Học kỳ 1 (2006- 2007) Học kỳ 2 (2006- 2007) 11 98 102 170 209 150
(Không có học sinh yếu kém và học sinh lưu ban)
Nguồn: Phòng Quản lý sinh viên trường Đại học Y tế Công cộng.
56
Bên cạnh việc học tập đoàn viên, sinh viên của trường Đại học Y tế
Công cộng tích cực tham gia nghiên cứu khoa học. Năm 2005: Nhà trường có
2 đề tài tham gia Hội nghị khoa học công nghệ tuổi trẻ y dược toàn quốc lần
thứ 12, trong đó có 1 giải xuất sắc, 1 giải nhất; năm 2006 trường Đại học Y tế
Công cộng có 7 đề tài tham gia Hội nghị khoa học công nghệ tuổi trẻ y dược
toàn quốc lần thứ 13, trong đó có 1 giải xuất sắc, 2 giải nhất, 1 giải ba, 2 giải
khuyến khích [41, tr.3].
Ngoài việc học tập và nghiên cứu khoa học, nhà trường còn chú ý rèn
luyện đạo đức cho sinh viên, nâng cao ý thức đạo đức nghề nghiệp thông qua
hoạt động chính trị - xã hội. Trong năm 2005 - 2007 các hoạt động của sinh
viên trong nhà trường được triển khai tích cực như thi “Nữ sinh thanh lịch” -
Hội cụm Đống Đa tổ chức; tham gia chương trình “Sao tháng giêng” do
Thành Đoàn tổ chức, kết quả 1 nữ sinh K2A đạt giải; thi “Cán bộ chi đoàn
giỏi” - Quận Ba Đình, kết quả 1 bí thư chi đoàn K2B đạt giải nhì, thi “Tiếng
hát sinh viên” toàn quốc năm 2006 do Cục Văn hoá Thông tin - Bộ Thông tin
tổ chức, kết quả trường đã đoạt 1 huy chương Bạc. Đoàn trường Đại học Y tế
Công cộng đã đạt giải nhất Hội thi “Thực phẩm và đời sống” năm 2006 do
Cục An toàn vệ sinh thực phẩm - Bộ Y tế tổ chức. Đoàn trường đã vận động
đông đảo đoàn viên, sinh viên tham gia các cuộc thi tìm hiểu về “75 năm lịch
sử vẻ vang của Đoàn”; cuộc thi tìm hiểu “Viết tiếp hành trình tuổi 20 - Sống
đẹp, sống có ích”; cuộc thi “Sống vì cộng đồng”…
Trong mùa hè tình nguyện 2006 bên cạnh chương trình tham gia cùng
các đơn vị do Thành Đoàn tổ chức tại huyện Thanh Trì - Hà Nội, Ban chấp
hành Đoàn trường đã tổ chức cho đoàn viên, sinh viên tham gia chương trình
tình nguyện tiếp sức mùa thi tại địa điểm thi của trường và tại Hải Dương.
Qua chương trình này, ý thức tập thể, tính cộng đồng, cái thiện… với tư cách
là những giá trị đạo đức không ngừng được củng cố, nâng cao.
Công tác phát triển Đảng trong sinh viên cũng được Đảng uỷ nhà
trường đặc biệt quan tâm.
57
Năm 2005- 2006 nhà trường đã mở một lớp tìm hiểu về Đảng với 50
đoàn viên được lựa chọn tham gia và 4 đồng chí đã được vinh dự đứng trong
hàng ngũ của Đảng.
Năm 2006- 2007 nhà trường đã mở một lớp tìm hiểu về Đảng với 55
đoàn viên được lựa chọn tham gia và 5 đồng chí đã được vinh dự đứng trong
hàng ngũ của Đảng [41, tr.4].
Với những kết quả đạt được, Đoàn trường Đại học Y tế Công cộng đã
nhận được Bằng khen tập thể Đoàn vững mạnh năm 2006.
Đại diện cho khối trường cao đẳng thuộc ngành Y là Trường Cao đẳng
Y tế Hà Nội, với hơn 40 năm thành lập, nhà trường đã đào tạo được hơn 20
nghìn cán bộ y tế. Lưu lượng học sinh hàng năm từ 800 đến 1400 học sinh
bao gồm điều dưỡng trung học, hộ sinh trung học và dược tá sơ học. Năm học
2006 - 2007 số sinh viên của trường là 1594 sinh viên được sinh hoạt tại 35
chi đoàn.
Căn cứ vào kết quả học tập và rèn luyện của sinh viên, căn cứ vào qui
chế thi đua, khen thưởng của nhà trường, năm học 2006 - 2007, toàn trường có:
+ 4 chi đoàn xuất sắc chiếm 11.4%
+ 7 chi đoàn tiên tiến chiếm 20%
+ 24 chi đoàn trung bình chiếm 68.6% [41, tr.2].
Còn về thành tích học tập cá nhân:
Năm học 2005-2006: Toàn trường có 280 sinh viên được khen thưởng.
Năm học 2006-2007: Toàn trường có 320 sinh viên được khen thưởng.
Trong đó năm 2005-2006 có 130 sinh viên đạt học sinh giỏi cấp thành
phố; con số đó của năm 2006-2007 là 40 sinh viên.
Ban Giám hiệu cũng như sinh viên của trường ý thức một cách sâu sắc
rằng, sự phát triển toàn diện của một nhân cách phải bao gồm cả hai thành tố:
đức và tài, “tài là văn hoá chuyên môn, đức là chính trị” (Hồ Chí Minh). Do
đó, cùng với sự cố gắng nỗ lực trong học tập, rèn luyện chuyên môn, tri thức
58
chuyên ngành, sinh viên nhà trường cũng đặc biệt quan tâm rèn luyện đạo đức
nghề nghiệp. Chỉ riêng năm học 2006-2007, toàn trường có:
+ 58 em xuất sắc, chiếm 3.23%;
+ 338 em tốt, chiếm 18.87%;
+ 868 em khá, chiếm 48.07%;
+ 405 em trung bình, khá chiếm 22.60 %;
+ 105 em trung bình, chiếm 5.8%;
+ 25 em yếu, chiếm 1.39% [41, tr.3].
Nhà trường luôn gắn công tác giáo dục y đức cho sinh viên với các
phong trào đoàn. Phong trào hiến máu nhân đạo hàng năm cũng là dịp để
đoàn viên, sinh viên của trường thể hiện tấm lòng của mình đối với cộng
đồng. Năm 2005-2006 đoàn viên, sinh viên của trường đã hiến tặng được 175
đơn vị máu/250 em; con số đó trong năm 2006-2007 là 118 đơn vị máu/165
em [41, tr.5].
Khảo sát các hoạt động, các phong trào Đoàn, Hội sinh viên của các
trường đại học, cao đẳng ngành Y một số cơ sở đào tạo lớn từ đại học đến
trung học có thể khẳng định rằng: hiện nay, truyền thống y đức vẫn được sinh
viên ngành Y giữ gìn, kế thừa và phát triển. Tuy nhiên nơi này, nơi kia, lúc
này hay lúc khác còn bộc lộ những hạn chế, tiêu cực, xa lạ với bản chất,
truyền thống y đức của ngành Y. Đây là hai mặt của thực trạng giáo dục y đức
của sinh viên ngành Y trong giai đoạn hiện nay.
Để giáo dục và nâng cao y đức cho sinh viên ngành Y trong điều kiện
nền kinh tế thị trường, các trường ngành Y trong cả nước đã không ngừng
thay đổi quy mô đào tạo, đổi mới phương pháp giáo dục. Vì thế, trong những
năm qua các trường đại học, cao đẳng ngành Y đã đạt được nhiều thành tích
trong việc giáo dục y đức cho sinh viên. ở mức độ khái quát nhất, các thành
tích đã đạt được, đó là:
59
Thứ nhất, đại bộ phận sinh viên ngành Y đều có ý thức chính trị vững
vàng, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng vào công cuộc
đổi mới của đất nước.
Các nhà trường luôn gắn giáo dục chính trị tư tưởng với giáo dục
những truyền thống quí báu của dân tộc, truyền thống y đức của ngành,
thường xuyên quan tâm bồi dưỡng cho đoàn viên, sinh viên về nhận thức
chính trị thông qua các buổi sinh hoạt chính trị đầu khoá, các buổi sinh hoạt
chi đoàn, thông qua các phong trào Đoàn, và Hội sinh viên. Do đó phần lớn
sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng ngành Y đều bám sát tình hình kinh
tế, xã hội của đất nước, tích cực tham gia những sinh hoạt chính trị lớn của
nhà trường, của ngành và của đất nước. Những phong trào như “Tuổi trẻ giữ
nước”, “Thanh niên lập nghiệp” do Đoàn thanh niên phát động được triển
khai rộng khắp, đã được sự hưởng ứng nhiệt tình của đoàn viên, sinh viên
ngành y.
Qua đó, nhiều sinh viên đã ra sức phấn đấu và vươn lên để lập thân, lập
nghiệp. Những hoạt động giáo dục tuyên truyền về những giá trị đạo đức
truyền thống của dân tộc, truyền thống cách mạng của Đảng, của Đoàn được
triển khai và đã đem lại hiệu quả. Những cuộc vận động: “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; “Tiếp lửa truyền thống - Mãi mãi
tuổi 20”. Những phong trào hành động: giúp đỡ và chăm sóc các Bà mẹ Việt
Nam anh hùng, các gia đình có công với cách mạng, các phong trào đền ơn
đáp nghĩa, hiến máu nhân đạo, ngày thứ bảy tình nguyện… mang ý nghĩa giáo
dục sâu sắc. Nhìn chung, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng của sinh viên
ngành Y diễn ra dưới hình thức đa dạng và phong phú. Hầu hết sinh viên
ngành Y đã tin tưởng, ủng hộ và hăng hái tham gia vào sự nghiệp đổi mới đất
nước, họ đã biến niềm tin ấy vào chính hoạt động thực tiễn của mình, mong
muốn được cống hiến đóng góp sức mình vào sự nghiệp cách mạng của đất
nước. Trong mỗi sinh viên lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, ý chí quyết tâm đẩy
60
lùi đói nghèo, tụt hậu, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh tiến bộ cũng được nâng cao hơn.
Thứ hai, đại đa số sinh viên ngành Y đều yêu ngành, yêu nghề, tự giác
rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của người thầy thuốc.
Trong điều kiện sinh hoạt học tập của sinh viên cả nước nói chung, sinh
viên ngành Y nói riêng còn nhiều khó khăn. Về cơ sở vật chất, điều kiện học
tập ở giảng đường, các khu nội trú cho sinh viên các trường hầu như chưa đáp
ứng được với mục tiêu đào tạo mà Bộ Giáo dục đề ra. Trong hoàn cảnh đó,
sinh viên các trường ngành Y vẫn nỗ lực vượt khó, tự giác rèn luyện, phấn
đấu vươn lên trong học tập, tham gia công tác xã hội. Hình ảnh những sinh
viên “áo trắng” trong phong trào sinh viên tình nguyện hè của các trường
thuộc khối ngành Y khu vực phía bắc ở các tỉnh biên giới phía Bắc như Lào
Cai, Hà Giang, Điện Biên, Lai Châu, Ba Vì đã phần nào thể hiện y đức của
người thầy thuốc với đồng bào nơi đây.
Thứ ba, hăng say học tập, tích cực nghiên cứu khoa học cũng là một
trong những nét đẹp về y đức của sinh viên các trường ngành Y hiện nay.
Đại đa số sinh viên đều xác định đúng động cơ học tập, có ý thức phấn
đấu vươn lên trong học tập với thái độ nghiêm túc chủ động sáng tạo. Bởi y
đức của người thầy thuốc không phải chỉ là năng lực chuyên môn, nhưng nó
lại được bắt đầu trước hết từ năng lực chuyên môn. Thực tế cho thấy không
hiếm những thầy thuốc do thiếu kiến thức và năng lực chuyên môn mà đã dẫn
tới những quyết định sai lầm, gây tổn hại cho sức khoẻ người bệnh.
Phong trào thi đua học tập, tham gia nghiên cứu khoa học đã tạo ra môi
trường học tập lành mạnh, không vi phạm qui chế thi và kiểm tra của các
trường ngành y, qua đó khẳng định đức tính trung thực của sinh viên. Đặc biệt
là truyền thống học tập, nghiên cứu khoa học của sinh ngành Y phải nói đến
trường Đại học Y Hà Nội - một trường đại học tốp đầu của cả nước, nhiều
giáo sư đầu ngành đã trưởng thành từ nơi đây. Năm 2005 trường Đại học Y
61
Hà Nội có 45 đề tài nghiên cứu cấp trường. Năm 2006 có 10 đề tài tham gia
Hội nghị khoa học công nghệ tuổi trẻ các trường y dược toàn quốc. Ghi nhận
những công lao, đóng góp, sự hướng dẫn tận tình của các nhà khoa học, các
thầy cô giáo, các cán bộ đoàn đối với thế hệ trẻ, Trung ương Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh đã trao tặng Kỉ niệm chương “Vì thế hệ trẻ” - Danh
hiệu cao quý nhất của tổ chức đoàn cho 10 thầy giáo, cô giáo và cán bộ đoàn
của trường Đại học Y Hà Nội.
2.3.2. Mặt hạn chế của việc giáo dục y đức tại các cơ sở đào tạo nhân
lực y tế
Bên cạnh những mặt mạnh mà sinh viên ngành Y đạt được trong những
năm qua, còn có mặt trái của nó mà chúng ta đang phải đối mặt, đó là hiện
tượng tiêu cực trong sinh viên vẫn còn. Hiện tượng đi học muộn, nghỉ học
không lí do, có thái độ gian lận trong thi cử, cờ bạc, rượu chè, cắm quán chưa
chấm dứt; ý thức, thái độ học tập, rèn luyện của một bộ phận sinh viên yếu kém.
Theo kết quả điều tra xã hội học ở một số trường của tác giả đề tài thì
những biểu hiện tiêu cực đó như sau:
Một trong những biểu hiện của đạo đức đối với người học đó là tính
trung thực trong học tập và thi cử, tác giả đã đề xuất một số câu hỏi tại một số
cơ sở đào tạo cán bộ ngành Y tế và thu được kết quả như sau:
Tác giả chọn sinh y viên đa khoa là đối tượng đào tạo lớn của khối
ngành y nhà trường, trong đó các khóa sinh viên từ Y6 đến Y3 là các khóa đã
có thời gian học tập tại trường hơn 1 năm trở nên; các lớp này đã học qua
môn đạo đức học, đã có ý niệm về tính trung thực là “tôn trọng sự thật, chân
lý và lẽ phải”.
Chọn sinh viên các khóa một cách ngẫu nhiên. Riêng đối với sinh viên
năm cuối (Y6), đã học và thi qua hầu hết các bộ môn trong trường, tác giả
chọn số lượng lớn hơn, và có sự phân tích kỹ hơn.
62
Bảng 2.5. Số lƣợng sinh viên các khóa tham gia khảo sát
Số sinh viên tham gia khảo sát SV Y6 SV Y5 SV Y4 SV Y3 Tổng 4 khóa
Số sinh viên tham gia khảo sát 120 95 135 125 475
Nguồn: Theo kết quả điều tra của tác giả luận văn.
Bảng 2.6. Trả lời câu hỏi: Tính trung thực quan trong đến mức nào
đối với việc học tập của mỗi sinh viên
Tổng
SV Y3 38 (30%) 166 (34%) 87 (70%) 305 (65%)
Mức độ Rất cần Cần Không cần SV Y6 47 (40%) 69 (57%) 4 (3%) SV Y5 36 (37%) 59 (63%) 0 SV Y4 45 (33%) 90 (67%) 0 0 0
Nguồn: Theo kết quả điều tra của tác giả luận văn.
Nhận xét: - Sinh viên học năm cuối (Y6) có tỷ lệ trả lời tính trung thực
rất cần cao hơn các khóa khác càng học, càng trưởng thành, càng nhiều
người nhận thức tính trung thực là rất cần thiết cho việc học tập.Tuy vậy,
cũng chính khóa này có 4 sinh viên cho rằng tính trung thực không cần, điều
này đã đặt ra nhiều suy nghĩ, đó có phải là suy nghĩ cực đoan? Có 34% số
sinh viên cho rằng tính trung thực là rất cần thiết với việc học tập, 65% có
rằng cần, 1% cho rằng không cần.
Bảng 2.7. Trả lời câu hỏi: Anh (chị) đá nh giá về mƣ́ c đô ̣ củ a nhƣ̃ng biểu hiê ̣n không trung thƣ̣c khi thi hết môn ở trƣờ ng ta? Sử dụng tài liệu Hỏi bài bạn Hiện tƣợng
Y6
Y5
Y4
Y3
Phổ biến Ít Phổ biến Ít Phổ biến Ít Phổ biến Ít
Tổng Phổ biến
Ít 22 (18%) 84 (82%) 15 (15%) 30 (85%) 12 (8%) 123 (92%) 19 (15%) 106 (35%) 68 (13%) 404 (87%) 76 (63%) 38 (37%) 41 (43%) 54 (57%) 52 (38%) 83 (62%) 46 (36%) 79 (64%) 215 (45%) 254 (55%) Nhìn bài bạn 18 (15%) 96 (85%) 13 (14%) 82 (86%) 17 (12%) 178 (88%) 21 (16%) 104 (84%) 49 (14%) 400 (86%)
Nguồn: Theo kết quả điều tra của tác giả luận văn.
63
Nhận xét:
- Hiện tượng sử dụng tài liệu trong các lớp được sinh viên công nhận là
có, nhưng không nhiều, chỉ có 13% sinh viên cho rằng đó là hiện tượng phổ
biến trong lớp, còn đa số (87%) sinh viên cho rằng đó là số ít.
- Hiện tượng hỏi bài của bạn khá phổ biến trong phòng thi, có đến 45%
số sinh viên khẳng định đó là hiện tượng phổ biến, 76% sinh viên khóa 27 cho
rằng đó là hiện tượng phổ biến trong lớp.
- Hiện tượng nhìn bài của bạn được xem là hiện tượng ít xảy ra, chỉ
khoảng 14%, ở đây hiện tượng gian lận “sử dụng tài liệu” và “nhìn bài bạn”
được đánh giá nặng nè hơn về mặt đạo đức, đó là hiện tượng quy chế cấm
nghiêm ngặt và bạn bè chưa đồng ý.
“Hỏi bài bạn” được coi là phổ biến, bởi không chỉ vì giám thị và quy
chế nương nhẹ, mà vì còn được sự đồng thuận của bạn - khi bạn trả lời, nên
không bị coi là “trộm cắp” kiến thức.
Bảng 2.8. Đá nh giá về tính chấ t củ a nhƣ̃ng biểu hiê ̣n không trung thƣ̣c trong thi hết môn
SV Y6 SV Y5 SV Y4 SV Y3 Cộng
Sử dụng
Xấu
82 (65%)
61 (46%)
48(51%)
80 70%)
271(58%
tài liệu
B.thường
38 (35%)
74 (54%)
47(49%)
40(30%)
204(42%)
Xấu
4 (3%)
6 (5%)
4 (5%)
3 (3%)
17 (4%)
Hỏi bài bạn
B.thường
121 (97%)
129(15%)
91(95%) 117(97%) 458 (96%)
Nhìn bài
Xấu
32 (26%)
21 (16%)
35(32%)
41 (34%)
129 (28%)
bạn
B.thường
93 (74%)
114(84%)
65(68%)
79 (66%)
346 (72%)
Hiện tượng Đánh giá mức độ
Nhận xét: 58% sinh viên được hỏi cho rằng sử dụng tài liệu là việc xấu,
42% cho là bình thường; nhìn bài của bạn: 72% sinh viên cho là bình thường,
không phải là xấu. Điều này đặt ra cho người quản lý cần phải có những cải
tiến hình thức thi cho phù hợp.
64
Bảng 2.9. Trả lời câu hỏi: Tƣ̀ khi ho ̣c ta ̣i trƣờ ng Đa ̣i ho ̣c Y Hả i Phòng, khi thi hết môn, anh (chị) đã bao giờ sƣ̉ du ̣ng cá c biê ̣n phá p trơ ̣ giú p?
Hiện tƣợng SV Y6 SV Y5 SV Y4 SV Y3
1 Không vi phạm mọi hình
thức 7/120 (5%) 9/95 (9%) 9/135 (6%) 5/125 (4%)
35 44 60 60
2 Không sử dụng tài liệu nhưng đã từng hỏi bạn
29 12 34 34
3 Không sử dụng tài liệu nhưng đã từng nhìn bài bạn
4 Đã từng sử dụng tài liệu, 49(41%) 30(32%) 32 (24%)
26 (21%) nhìn bài, hỏi bài bạn
Nguồn: Theo kết quả điều tra của tác giả luận văn.
Nhận xét:
73% sinh viên tự nhận không sử dụng tài liệu khi thi, chỉ có 6% sinh
viên không vi phạm mọi hình thức, 137/475 sinh viên (28%) trả lời đã từng sử
dụng tài liệu ít nhất 1 lần trong khi thi hết môn, và đã nhiều lần hỏi bài bạn,
nhìn bài bạn bên cạnh. Trong số này, tỷ lệ có xu hướng tăng dần từ 21% ở Y3
đến 41% ở Y6. Về nguyên nhân có tình trạng sinh viên gian lận khi thi hết
môn trong lớp. Đa số sinh viên trả lời (đến 90%) là do giám thị coi thi nơi
lỏng, thấy bạn sử dụng được, không bị nhắc nhở hoặc không bị phát hiện, nên
cũng tranh thủ. 10% trả lời do bản tính.
Nói chung, sinh viên đều nhận thức sử dụng tài liệu vừa vi phạm quy
chế, vừa vi phạm đạo đức, là không nên, nhưng vì học bài chưa vững, hình
thức thi mang nặng hướng đánh giá khả năng thuộc bài, trong khi việc coi thi
chua hoàn toàn đồng thuận, có giám thị còn dễ dãi, việc xử lý còn nương nhẹ,
nên dẫn đến tình trạng vi phạm quy chế khi thi theo hiệu ứng lây truyền Sử
dụng tài liệu, hỏi bài bạn bên cạnh tuy khác nhau về mức độ vi phạm nhưng
cùng một bản chất là vi phạm quy chế, vi phạm đạo đức. Không vi phạm mọi
hình thức thể hiện bản tính nhất quán trong quan điểm của những sinh viên có
65
lòng tự trọng cao. Đa số sinh viên không sử dụng tài liệu, nhưng nếu có thể
vẫn hỏi bạn bên cạnh là những sinh viên có lòng tự trọng, hiểu lẽ phải, nhưng
tùy hoàn cảnh biết tranh thủ thời cơ khi có điều kiện cho phép.
Trong hoàn cảnh kinh tế thị trường, sự tác động nhiều mặt từ thực tiễn
đời sống xã hội nhiều sinh viên coi việc sử dụng tài liệu mà không bị phát
hiện, nên được điểm cao hơn thường vô tư phấn khởi, còn nếu bị nhắc nhở thì
dừng lại, thậm chí tiếp tục.
Thứ hai là đối với những giá trị y đức truyền thống, trong sinh viên đây
đó còn một số ít có những biểu hiện đi ngược lại những giá trị y đức truyền
thống.
Bảng 2.10. Sinh viên trƣờng Đa ̣i ho ̣c Y Hà Nội đánh giá
về những biểu hiện tiêu cực trong sinh viên
Tỉ lệ % so với tổng số
Phẩm chất đạo đức
STT 1 2 3 4 5 Có 46 23 35 7 22 Không 54 77 75 93 78
Đi học muộn không lí do hoặc bỏ học Cờ bạc, rượu chè, cắm quán Văng tục, có hành vi thiếu văn hoá Thiếu tôn trọng thầy cô Vi phạm pháp luật Nguồn: Theo kết quả điều tra của tác giả luận văn.
Bảng 2.11. Sinh viên trƣờng Đa ̣i ho ̣c Y tế Công cộng đánh giá
về những biểu hiện tiêu cực trong sinh viên
Tỉ lệ % so với tổng số
STT Phẩm chất đạo đức
Có 25 20 12 5 10 Không 75 80 88 25 90 1 Đi học muộn không lí do hoặc bỏ học 2 Cờ bạc, rượu chè, cắm quán 3 Văng tục, có hành vi thiếu văn hoá 4 Thiếu tôn trọng thầy cô 5 Vi phạm pháp luật
Nguồn: Theo kết quả điều tra của tác giả luận văn.
66
Bảng 2.12. Sinh viên trƣờng Đa ̣i ho ̣c Y Hải phòng đánh giá
về những biểu hiện tiêu cực trong sinh viên
Tỉ lệ % so với tổng số
STT Phẩm chất đạo đức
1 Đi học muộn không lí do hoặc bỏ học 2 Cờ bạc, rượu chè, cắm quán 3 Văng tục, có hành vi thiếu văn hoá 4 Thiếu tôn trọng thầy cô 5 Vi phạm pháp luật Không 50 85 89 100 100
Có 50 15 11 0 0 Nguồn: Theo kết quả điều tra của tác giả luận văn.
Xem xét và đánh giá một cách toàn diện, trong những năm qua, ngoài
những thành tích đã đạt được trong công tác giáo dục y đức cho sinh viên các
trường đào tạo ngành y, cũng còn không ít những hạn chế, thiếu sót cần được
khắc phục:
Thứ nhất, ngoài việc giảng dạy môn học đạo đức nghề nghiệp ra thì
việc giáo dục và nâng cao y đức cho sinh viên ở một số trường đại học, cao
đẳng ngành Y chưa được thường xuyên, liên tục mà chỉ diễn ra từng đợt rồi
lại lắng xuống.
Mặc dù Đảng uỷ, Ban Giám hiệu các nhà trường luôn quan tâm, chỉ
đạo công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đoàn viên, sinh viên nhưng còn
dừng lại ở cái chung chưa có sự chỉ đạo cụ thể, động viên phong trào kịp thời.
Do vậy, ở các trường khối ngành Y những hoạt động giáo dục chính trị, y đức
truyền thống tuy đạt được nhiều tiến bộ song lại thiếu những buổi nói chuyện
về lịch sử và truyền thống của ngành Y nói chung, của nhà trường nói riêng
cho đoàn viên, sinh viên nhất là các em sinh viên mới nhập trường.
Trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tập trung nâng
cao chất lượng giáo dục, nhất là giáo dục đại học, nhìn chung kết quả đạt
được chưa tương xứng với sự mong mỏi của xã hội. ở các trường đại học, cao
đẳng ngành Y tuy phương pháp giáo dục đã được cải tiến nhiều nhưng việc
tiếp thu các ý kiến phản hồi của sinh viên về phương pháp dạy - học còn chưa
67
được quan tâm đúng mức. Phương pháp giáo dục còn mang tính thuyết giáo,
giảng giải một chiều, áp đặt, chưa coi “học sinh là trung tâm, giáo viên là chủ
đạo” của quá trình giáo dục. Do vậy, sức thuyết phục chưa cao, chưa kích
thích tính tích cực hoạt động của sinh viên trong học tập. Chưa mạnh dạn áp
dụng các phương pháp giảng dạy tiên tiến, như: tự nghiên cứu có định hướng,
thông tin chuyên đề, trao đổi toạ đàm... dẫn đến không khí học tập kém sôi
nổi, hiệu quả giáo dục chưa cao.
Thứ hai, kinh tế thị trường phát triển làm cho thang giá trị đạo đức ở
nước ta có những thay đổi. Theo đó, sự nhìn nhận, đánh giá và định hướng về
y đức trong sinh viên ngành Y cũng có những biến đổi nhất định. Không ít
sinh viên y khoa và cả một số thầy thuốc cho rằng làm chuyên môn giỏi là đã
có chính trị tốt, đã có đạo đức tốt rồi. Họ cho rằng thầy thuốc cứu người bằng
tài năng chứ không phải bằng lí luận chính trị, đạo đức. Quan điểm lệch lạc
này đã làm cho một số sinh viên trong các trường thuộc khối ngành Y chưa
tích cực học tập chính trị, ít quan tâm đến tình hình kinh tế - xã hội của đất
nước, ít trau dồi y đức, chỉ chú ý đến chuyên môn. Vì thế có rất nhiều sinh
viên ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, đã suy nghĩ cho tương lai của
mình theo hướng: có việc làm ổn định, ở lại thành phố, thu nhập cao, nhàn
hạ… và trong cuộc sống hàng ngày đã bộc lộ rõ tính ích kỉ, thích hưởng thụ-
mầm mống của chủ nghĩa cá nhân- nguyên tắc cơ bản của đạo đức tư sản.
Đánh giá tình hình sinh viên một số trường thuộc khối ngành Y (theo
báo cáo tổng kết công tác đoàn và phong trào sinh viên) cho thấy: Một bộ
phận đoàn viên, sinh viên do nhận thức chính trị và năng lực chưa tốt, không
có ý chí vươn lên, sớm biểu hiện sự buông xuôi, chấp nhận mỗi khi gặp khó
khăn thử thách, buông lỏng bản thân dẫn đến vi phạm kỉ luật, xa rời tập thể và
trở nên xa lạ với hoạt động của đoàn.
Thứ ba, vấn đề môi trường giáo dục. Đảng và Nhà nước luôn luôn
mong muốn nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục, nhất là giáo
68
dục đại học. Trong những năm gần đây công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng
của Bộ giáo dục có nhiều tiến bộ, đặc biệt là kì thi đại học, cao đẳng năm
2007 gần đây đã hạn chế đến mức thấp nhất nạn thí sinh thi hộ, thi kèm đại
học, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Hàng năm số sinh viên đỗ thủ khoa các
trường đại học nói chung, (trong đó có sinh viên ngành y) được tuyên dương
và tặng thưởng. Điều đó đã khích lệ sinh viên thủ đô nói chung, sinh viên
ngành Y nói riêng trong học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức. Bên cạnh
những cố gắng vượt bậc nhằm tạo ra môi trường giáo dục trong sạch lành
mạnh, trên thực tế môi trường giáo dục của chúng ta nhìn chung đang bị ô
nhiễm.
Những năm gần đây, các tệ nạn xã hội văn hoá phẩm không lành mạnh,
cộng với lối sống cá nhân vị kỉ, chạy theo đồng tiền.. đang len lỏi vào các
trường đại học, làm xói mòn các chuẩn mực đạo đức xã hội. Hơn bao giờ hết,
chúng ta phải quán triệt một cách sâu sắc luận điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen về sự thống nhất biện chứng giữa con người và hoàn cảnh: con
người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến
mức ấy.
Môi trường tại bệnh viện thực tập của sinh viên ngành Y cũng có ảnh
hưởng tới công tác giáo dục y đức cho sinh viên ngành y. Thực tế cho thấy,
tại một số bệnh viện mấy năm qua đã có những biểu hiện tiêu cực, sa sút về y
đức. Lợi ích cá nhân, đồng tiền đã xen vào mối quan hệ giữa một số thầy
thuốc và bệnh nhân một cách không lành mạnh. Những hành vi “vòi vĩnh”
tiền quà của bệnh nhân, hạch sách, thiếu trách nhiệm của cán bộ y tế tại bệnh
viện đã ảnh hưởng không tốt tới việc giáo dục y đức cho sinh viên. Thực tế
mấy năm qua, nhiều vụ việc tiêu cực của thầy thuốc và cán bộ y tế ở một số
bệnh viện ở khắp các tỉnh thành bị phanh phui. Vì vậy các nhà trường cần
phối hợp với các bệnh viện tăng cường giáo dục, nâng cao y đức đồng thời
69
đấu tranh kiên quyết chống các biểu hiện tiêu cực, sa sút về y đức cho cán bộ
y tế tại các bệnh viện.
Với cơ sở vật chất như hiện nay, các cơ sở đào tạo nhân lực ngành Y
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về kí túc xá của sinh viên, nhiều sinh viên
vẫn phải thuê nhà trọ để ở. Hàng năm, các trường chỉ bố trí được chỗ ở cho
khoảng 1/3 sinh viên nhập trường, chủ yếu là sinh viên thuộc diện chính sách
và khó khăn mới được ở trong kí túc xá của trường.
Thực tế đó ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lí sinh viên và ít nhiều
có tác động đến việc học tập, rèn luyện của sinh viên. Nhiều tệ nạn xã hội
xâm nhập vào nhà trường mà ban quản lí sinh viên không kiểm soát hết được,
nhất là đối với sinh viên ngoại trú. Còn có những hiện tượng sinh viên uống
rượu, đánh bạc, chơi đề, cắm quán trong kí túc xá sinh viên.
Mặc dù trong các cơ sở đào tạo thuộc ngành Y các hoạt động Đoàn,
Hội sinh viên khá sôi nổi, lôi cuốn được số đông đoàn viên, sinh viên tham
gia nhưng hiệu quả giáo dục chưa cao, chưa đáp ứng những yêu cầu bức xúc
do cuộc sống đặt ra. Thực tế vẫn còn một bộ phận sinh viên sống phai nhạt lí
tưởng, ít quan tâm đến vấn đề chính trị xã hội, chỉ đi tìm cho mình một cuộc
sống hưởng thụ, an nhàn. Hàng năm, số sinh viên ngành Y ra trường rất
nhiều, nhưng hầu hết không chịu tới các vùng sâu vùng xa công tác, có những
sinh viên ở nông thôn đã từ chối trở về phục vụ quê hương.
2.3.3. Nguyên nhân của thực trạng trên
2.3.3.1. Nguyên nhân của thành tựu
Những thành tựu đạt được trong quá trình giáo dục y đức của các cơ sở
đào tạo nhân lực ngành Y hiện nay là kết quả tổng hợp của các nguyên nhân
khách quan và chủ quan mà trước hết là do thắng lợi của công cuộc đổi mới
đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau 25 năm đổi mới đất nước chúng ta đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực trong đó có công tác giáo
70
dục. Đó là kết quả của đường lối giáo dục - đào tạo đúng đắn của Đảng và
Nhà nước ta, của chính sách đổi mới, trực tiếp là đổi mới trong giáo dục và
đào tạo. Đảng ta đã nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của giáo dục trong sự
phát triển đất nước. Nhà nước đã có những cố gắng lớn trong việc đầu tư cho
giáo dục, cùng với sự nỗ lực vượt bậc của toàn ngành giáo dục, của các nhà
trường, của đoàn viên, sinh viên, trong đó có phần đóng góp không nhỏ từ
phía gia đình và xã hội. Thực tế ấy đã tác động sâu sắc tới nhận thức, tình cảm
của đoàn viên, sinh viên cả nước trong đó có sinh viên các cơ sở đào tạo nhân
lực ngành y, tạo cho họ có cơ sở củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng,
sự điều hành của Nhà nước, tin tưởng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Thứ hai, do thường xuyên có sự lãnh đạo của Đảng uỷ, Ban Giám hiệu
các cơ sở đào tạo nhân lực ngành Y trong công tác giáo dục chính trị tư
tưởng, giáo dục đạo đức lối sống, giáo dục y đức cho sinh viên, coi đó là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Bên cạnh việc trang bị những tri thức lí luận
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách có hệ thống, các nhà trường
luôn gắn giáo dục chính trị tư tưởng với giáo dục truyền thống của dân tộc,
truyền thống của ngành, của nhà trường. Các nhà trường thường xuyên tổ
chức những buổi nghe báo cáo tình hình thời sự trong nước và quốc tế, các
chuyên đề về văn hoá, kinh tế, xã hội, học tập nghị quyết của Đảng, của
Đoàn… giúp cho sinh viên có sự hiểu biết nhất định về tình hình chính trị - xã
hội trong và ngoài nước.
Thứ ba, vai trò của người thầy giáo, người thầy thuốc đối với việc hình
thành và phát triển nhân cách của người học.
Đội ngũ thầy giáo, thầy thuốc ưu tú trong các cơ sở đào tạo nhân lực
ngành Y là những tấm gương sáng về mặt y đức cho các em noi theo. Các
thầy cô giáo đã tác động không nhỏ đến tư tưởng, lối sống của người học.
Nhiều thầy cô giáo có tâm huyết, gắn bó với nghề, ngoài việc truyền thụ kiến
71
thức, các thầy cô còn đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện y đức
cho sinh viên. Thực tiễn đó đã chứng minh lời dạy của Hồ Chủ tịch tại lớp
học chính trị giáo viên năm 1959 rằng: “Học trò tốt hay xấu là do thầy giáo,
cô giáo tốt hay xấu”.
Thứ tư, do quá trình tự tu dưỡng, tự rèn luyện của sinh viên trong các
cơ sở đào tạo nhân lực ngành y. Tự tu dưỡng, tự rèn luyện để trở thành người
có ích là một nguyên lý của triết học xã hội. Vận động bao giờ cũng là tự
thân, không thể chờ đợi từ cái “huých” ban đầu nào cả. Là lớp người trẻ, năng
động, đầy nhiệt huyết và thích được khẳng định mình. Đại đa số sinh viên
Việt Nam nói chung, sinh viên ngành Y nói riêng luôn luôn có ý thức vươn
lên, tự vượt qua mọi khó khăn, trở ngại trong học tập và sinh hoạt để đạt được
thành tích cao trong học tập và rèn luyện. Chưa bao giờ xã hội lại tạo nhiều cơ
hội cho người học thể hiện vai trò “trung tâm” trong mối tương quan vốn có
của quá trình sư phạm như hiện nay (học sinh là trung tâm, giáo viên là chủ
đạo). Nhìn vào bảng thành tích học tập và rèn luyện của sinh viên ngành Y
bước đầu làm cho những ai khó tính cũng phải hài lòng.
Khảo sát thực tế những trường ngành Y các cơ sở đào tạo nhân lực
ngành y, cho phép chúng ta khẳng định rằng, trong những năm gần đây, hầu hết
sinh viên trong các nhà trường y đều tích cực tự tu dưỡng, tự rèn luyện theo
những nguyên tắc, chuẩn mực về y đức. Số sinh viên đạt kết quả cao trong học
tập ngày càng nhiều hơn, sinh viên ngày càng tự giác thực hiện các nội quy,
quy chế của nhà trường. Tình trạng bỏ học và vi phạm nội quy, quy chế trong
học tập ngày càng giảm. Sinh viên ngành Y đã có những hiểu biết và những
việc làm cụ thể chứng tỏ vai trò của mình trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
2.3.3.2. Nguyên nhân của mặt hạn chế, yếu kém
Mặt hạn chế, yếu kém trong thực trạng giáo dục y đức ở các cơ sở đào
tạo nhân lực ngành Y hiện nay có thể có nhiều, ở mức độ khái quát nhất
chúng ta có thể đề cập đến những nguyên nhân chủ yếu sau:
72
Quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường đã làm thay đổi toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội nước ta.
Bên cạnh mặt tích cực cần được khẳng định, cơ chế thị trường cũng có mặt
trái, tác động tiêu cực đến đời sống xã hội nói chung, đến ý thức, tình cảm đạo
đức sinh viên nói riêng. Không ít sinh viên y khoa khi còn ngồi trên ghế nhà
trường được giáo dục đầy đủ, thấm nhuần lí tưởng cách mạng, nhưng khi
bước vào cuộc sống họ đã bị gục ngã trước sự cám dỗ của đồng tiền. Và cũng
chính sự cạnh tranh gay gắt trong thương trường đã dẫn đến tình trạng phân
hoá giàu nghèo ngày càng tăng trong xã hội. Sự phân hoá này đã tác động tới
mọi thành viên trong xã hội, trong đó có sinh viên ngành Y. Ngành Y là một
trong những ngành đòi hỏi phải có ý thức, chuẩn mực hành vi đạo đức cao
nhất. Nhưng lại là ngành có nhiều thuận lợi cho việc làm giàu. Do vậy, người
thầy thuốc phải đối mặt với hai xu hướng: nếu chạy theo đồng tiền, làm giàu
bằng mọi cách thì y đức bị tổn hại; nếu giữ gìn y đức thì phải chấp nhận cuộc
sống thanh đạm. Trong cuộc đấu tranh đó, nhiều thầy thuốc vẫn vững vàng,
nhưng cũng có một bộ phận cán bộ, nhân viên y tế chạy theo đồng tiền làm
tổn hại đến truyền thống y đức. Thực tế đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc
giáo dục y đức cho sinh viên ngành Y.
Mặt khác, âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch trong
và ngoài nước đang có tác động tiêu cực đến một bộ phận nhân dân, cán bộ,
đảng viên ngăn cản sự nghiệp đổi mới của nước ta. Đối với sinh viên, mục
tiêu của chúng hòng làm phai nhạt lí tưởng cách mạng, xa rời truyền thống
dân tộc. Chúng lợi dụng những đặc điểm tâm lí sinh viên như: năng động,
nhạy bén với cái mới, thích mạo hiểm, ưa khám phá… để kích động, lôi kéo
dẫn tới tình trạng một số sinh viên vi phạm đạo lí, vi phạm pháp luật. Lợi
dụng những sơ hở trong công tác quản lí của nhà nước, nhiều văn hoá phẩm
độc hại, tư tưởng tự do, lối sống theo kiểu phương Tây thích hưởng thụ đang
được truyền bá vào nước ta. Chúng sử dụng một số phần tử trí thức biến chất,
để xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng, phủ nhận những thành quả cách mạng và
73
quá khứ hào hùng của dân tộc, hòng làm cho thế hệ trẻ Việt Nam bị lẫn lộn,
không phân biệt được phải, trái, đúng, sai nhằm tạo nên một lớp người phi
chính trị, sống mờ nhạt không có lí tưởng, thiếu hoài bão và ước mơ.
Đối với các tổ chức Hội sinh viên, công tác Hội ở một số cơ sở đào tạo
nhân lực ngành y còn lúng túng, thụ động, cán bộ Hội đa phần là sinh viên
luân chuyển nhanh lại không thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng nên gặp
nhiều khó khăn trong chỉ đạo, điều hành. Việc tập huấn cán bộ Hội ở một số
trường còn mang tính hình thức, thiếu chiều sâu. Vì vậy hiệu quả hoạt động
thấp. Công tác chỉ đạo của các cấp Hội đôi khi còn chưa kịp thời, thiếu nhạy
bén, kém sáng tạo. Đặc biệt công tác kiểm tra còn chưa được chú trọng. Một
số trường, vai trò nòng cốt chính trị của tổ chức Đoàn đối với tổ chức Hội còn
hạn chế, nhất là trong việc phát huy vai trò, sự chủ động, sáng tạo của tổ chức
Hội sinh viên. Đối với hội viên, sinh viên còn có một bộ phận thờ ơ với tổ
chức, ít tham gia các hoạt động tập thể. Mặt khác, việc phát huy vai trò tự
nguyện, tự giác, ý thức trách nhiệm của sinh viên đối với công tác Hội và
phong trào sinh viên còn chưa cao.
Một nguyên nhân hết sức quan trọng khác là từ chính sinh viên- với tư
cách là đối tượng được giáo dục. Bên cạnh những mặt tích cực, trong một bộ
phận sinh viên tỏ ra thiếu ý thức rèn luyện y đức. Nhiều sinh viên tỏ thái độ
thờ ơ, lãnh đạm trong các giờ học các môn: đạo đức nghề nghiệp, tâm lí y
học, các môn lí luận Mác-Lênin. Còn có các hiện tượng bỏ học, bỏ trực bệnh
viện, ngại tham gia các hoạt động của Đoàn, của Hội. Còn một số sinh viên có
lối sống thực dụng, đua đòi ăn chơi, thậm chí một số sinh viên còn sa vào các
tệ nạn xã hội. Vì vậy, ở các cơ sở đào tạo nhân lực ngành Y hiện nay cần phải
tăng cường công tác quản lí sinh viên, kết hợp với việc đổi mới phương pháp
giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên. Phương pháp giáo dục đạo đức lối
sống cho sinh viên cần hết sức mềm dẻo, thiết thực.
Ngoài ra phương pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp ở các cơ sở đào
tạo thiếu linh hoạt, chưa nhạy bén và kém phần thiết thực. Nhiều khi chạy
74
theo phong trào (các đợt thi đua hay nhân dịp kỉ niệm một sự kiện nào đó).
Do sự quản lý của Nhà nước còn chưa chặt chẽ, công tác đấu tranh ngăn chặn
các tệ nạn tiêu cực trong xã hội chưa cao, môi trường xã hội nhìn chung còn ô
nhiễm. Bên cạnh đó, sự tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, từ những
tấm gương phản diện… cũng gây hậu quả không tốt cho công tác giáo dục
đạo đức cho sinh viên Việt Nam nói chung, sinh viên ngành Y nói riêng.
Tóm lại nguyên nhân của những mặt hạn chế trong thực trạng giáo dục
y đức cho sinh viên các cơ sở đào tạo nhân lực ngành Y chủ yếu là do ý thức
tự giáo dục, tự tu dưỡng của một bộ phận sinh viên còn thấp.
Tóm lại, nghề Y là một nghề đặc biệt trong đó nhân lực y tế là nguồn
lực quan trọng nhất, quyết định phạm vi cũng như chất lượng dịch vụ y tế.
Nghị Quyết 46-NQ/TW ngày 23/2/2005 của Bộ Chính trị về “Công tác bảo
vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới”, đã khẳng
định “nghề Y là một nghề đặc biệt, vì vậy cần được đào tạo và sử dụng một
cách đặc biệt”. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhu cầu
về xây dựng và phát triển nguồn nhân lực vừa đảm bảo đủ về số lượng, vừa
đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng và vừa có cơ cấu nhân lực y dược hợp
lý cho ngành Y tế để phục vụ chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân đang đặt
ra những áp lực lớn đối với công tác đào tạo. Vì vậy, đào tạo nhân lực y dược
nói riêng đáp ứng nhu cầu xã hội, đáp ứng nhu cầu chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe nhân dân là hướng đi đúng, nhằm làm thay đổi căn bản nhận thức của
các cơ sở đào tạo, nhận thức của các cơ sở y dược trong và ngoài công lập và
người học, tạo bước chuyển biến thực sự về tư duy, cách nghĩ, cách làm giáo
dục trong điều kiện ràng buộc về nguồn lực còn hạn hẹp, để từng bước nâng
cao chất lượng đào tạo và hiệu quả đầu tư cho giáo dục nói chung và nâng cao
chất lượng và hiệu quả đầu tư cho đào tạo nhân lực y dược nói riêng để có
được những người cán bộ y tế giỏi về chuyên môn, ngời sáng về y đức.
75
Chƣơng 3 MỘT SỐ GIẢ I PHÁ P CHỦ YẾ U NHẰ M NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐÀ O TẠO NGUỒ N NHÂN LƢ̣C NGÀ NH Y TẾ NƢỚ C TA HIỆN NAY
3.1. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ giảng dạy
Tăng cường đội ngũ cán bộ giảng dạy cho các cơ sở đào tạo nhân lực
ngành Y tế, nâng cao chất lượng và tăng về số lượng.
Đến năm 2015 đảm bảo tỷ lệ 5 - 10 sinh viên/1 giảng viên; đảm bảo tỷ
lệ sinh viên/1giảng viên của các trường đại học tối đa 5/1, các trường cao
đẳng tối đa 8/1 và các trường trung cấp tối đa 10/1. Các trường phải xây dựng
được kế hoạch đào tạo giảng viên, xác định cụ thể số lượng giảng viên gửi
đào tạo trong nước và nước ngoài. Đội ngũ giảng viên đạt 70% có trình độ
thạc sĩ, 30% có trình độ tiến sĩ và tương đương.
Cần nghiên cứu cơ chế ưu tiên tuyển dụng và chế độ đãi ngộ hợp lý để
thu hút tuyển dụng các sinh viên giỏi, gửi đào trong và ngoài nước để đào tạo
các giảng viên.
Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn năng lực giảng viên, xây dựng các
chương trình bồi dưỡng cần thiết về chuyên môn, nghiệp vụ cho giảng viên và
cán bộ quản lý trong các cơ sở đào tạo; sàng lọc, lựa chọn và tuyển dụng
giảng viên theo phương thức hợp đồng và trả lương theo hợp đồng.
Đồng thời các nhà trường cũng phải khai thác và tận dụng các chuyên
gia, bác sĩ có học vị và tay nghề ở các bệnh viện tham gia thỉnh giảng.
Các giảng viên thuộc khối lâm sàng cần phải gắn chặt chẽ tại các bệnh
viện thực hành.
3.2. Đa dạng hoá quy mô và hình thức đào tạo
Tiếp tục mở rộng quy mô, phát triển các chuyên ngành đào tạo gắn với
các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo; Triển khai đào tạo theo địa chỉ sử
76
dụng và theo nhu cầu xã hội.Tăng cường gắn kết chặt chẽ giữa các cơ sở đào
tạo với cơ quan sử dụng nhân lực y tế.
Nghiên cứu việc đào tạo theo hình thức liên kết với nước ngoài theo mô
hình 2 + 4 hoặc 3 + 3 để cấp bằng đại học hoặc đào tạo thạc sĩ đối với các
trường y thuộc các nước tiên tiến như Pháp, Hoa kỳ, Hà Lan...
Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo y tế đều khắp trên cả nước và các
vùng miền. Mỗi tỉnh phân đấu để có ít nhất một trường cao đẳng y tế để đào tạo
đội ngũ cán bộ chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân địa phương. Khuyến khích các
nhà đầu tư tư nhân thành lập các cơ sở đào tạo đa ̣i ho ̣c, cao đẳng y tế.
Tăng quy mô đào tạo của hệ thống các trường đa ̣i ho ̣c, cao đẳng y dược
đi liền với các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo. Tăng quy mô đào tạo để
đạt bình quân trên 45.000 sinh viên, học sinh/1 năm vào năm 2015, trong đó
5.800 sinh viên y khoa, 1.500 sinh viên dược đại học; đạt 50.000 sinh viên,
học sinh/1 năm vào năm 2020, trong đó 7.000 sinh viên y khoa, 1.700 sinh
viên dược đại học.
Dựa trên chỉ tiêu về số bác sĩ và cán bộ y tế khác/10.000 dân vào năm
2015 - 2020 (có tính đến dự báo dân số, số cán bộ sẽ về hưu hoặc chuyển
ngành), số lượng bác sĩ và cán bộ y tế cần tăng thêm mỗi năm cho các bệnh
viện tuyến là 5.965 bác sĩ, 1.500 dược sĩ, 10.142 điều dưỡng và 7.243 kỹ
thuật viên, hộ sinh, hộ lý.
Đối với cán bộ lĩnh vực y học dự phòng, đến năm 2010 tổng số cần
11.228 cán bộ y tế , mỗi năm cần 1.200 - 1.500 cán bộ trình độ đại học và
2.460 cán bộ trình độ trung cấp, cao đẳng.
Tỷ lệ sinh viên, học sinh điều dưỡng, kỹ thụât y học, trung cấp, cao
đẳng và tương đương so với sinh viên đại học duy trì tỷ lệ 3/1. Học sinh trung
cấp, cao đẳng duy trì xấp xỉ 4/1 so với sinh viên đại học.
77
3.3. Đổi mới nội dung và phƣơng pháp, quy trình đào tạo
Trên cơ sở các chương trình khung đã ban hành, các trường xây dựng
chương trình đào tạo dựa trên kết quả khảo sát, phân tích và đánh giá nhu cầu
đào tạo để sản phẩm đào tạo đáp ứng chuẩn đầu ra, phù hợp với nhu cầu sử
dụng của thị trường trong nước, tiếp cận với thị trường quốc tế cả về chuyên
môn và phát triển năng lực cá nhân.
Định kỳ tổ chức rà soát, đánh giá và bổ sung, cập nhật nội dung kiến
thức mới tiên tiến cho từng chương trình đào tạo với sự tham gia của các đơn
vị sử dụng lao động, chú ý phát triển các kỹ năng nghề nghiệp như kỹ năng
làm việc theo nhóm, làm việc độc lập, trình độ ngoại ngữ, trình độ tin học, tạo
cho người học có khả năng thích ứng linh hoạt với công việc. Nội dung
chương trình đào tạo phải đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nước,
tiếp cận với thị trường quốc tế, tăng thời lượng học tập lâm sàng, thực tập,
thực tế. Phương pháp giảng dạy tiên tiến cần được áp dụng rộng rãi cũng như
bảo đảm các điều kiện về cơ sở vật chất để thực hiện chương trình theo
phương pháp đề ra.
Từng cơ sở đào tạo chủ động đổi mới nội dung, phương pháp giảng
dạy, quy trình đào tạo thích hợp, hiệu quả, giúp người học vừa có kiến thức
chuyên môn sâu, vừa có kỹ năng thực hành vững. Gắn kết trường với viện,
bệnh viện để kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, tăng thời lượng
giảng dạy thực tế, thực nghiệm, tăng thời lượng học tập lâm sàng và nghiên
cứu khoa học, tăng cường trao đổi học thuật, chia sẻ thông tin, cập nhật kiến
thức mới.
Áp dụng các phương pháp đo lường đánh giá hiện đại, đảm bảo kết quả
đánh giá phản ánh khách quan, chính xác và thực chất chất lượng đào tạo.
Khuyến khích việc ra đề thi, kiểm tra để sinh viên có thể sử dụng nhiều nguồn
tư liệu, kỹ năng thực hành và khả năng vận dụng của sinh viên, tiến tới xoá bỏ
các hình thức thi bằng các đề thi thuộc lòng lý thuyết một cách máy móc. Chú
78
trọng đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng định kỳ cho giảng viên, cập nhật các
kiến thức mới, đặc biệt là về kỹ năng sư phạm y học.
Khuyến khích các trường áp dụng phương pháp dạy học tích cực, nâng
cao tính chủ động, sáng tạo, tự học của sinh viên.
Chú trọng đào tạo và đào tạo lại và bồi dưỡng định kỳ cho giảng viên,
cập nhật các kiến thức mới, đặc biệt là về kỹ năng sư phạm y học.
3.4. Tăng cƣờng cơ sở vật chất phục vụ đào tạo
Các trường tăng cường đầu tư kinh phí mua sắm, nâng cấp trang thiết
bị, phòng thí nghiệm, các Labo thí nghiệm, nhằm hiện đại hóa trang thiết bị
phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu của giảng viên và sinh viên. Đầu tư
xây dựng một số phòng thí nghiệm trọng điểm phục vụ giảng dạy, nghiên cứu
khoa học, chuyển giao khoa học, công nghệ chất lượng cao một số ngành
trọng điểm, chương trình tiến tiến.
Tranh thủ các nguồn vốn đầu tư của các dự án, sự hỗ trợ của các thành
phần kinh tế - xã hội và các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước để tăng
cường cơ sở vật chất phục vụ đào tạo đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân
lực y tế.
Tăng cường và phát triển cơ sở thực tập lâm sàng cho sinh viên, cơ sở
thực tập lâm sàng có tầm quan trọng đặc biệt, quyết định đến chất lượng đào
tạo các thầy thuốc tương lai. Tại các cơ sở thực tập lâm sàng, sinh viên được
thực hành trực tiếp trên bệnh nhân, từ khâu tiếp xúc khai thác bệnh sử đến
khâu khám thực thể để phát hiện các triệu chứng và các dấu hiệu của bệnh
bằng các thao tác khám cụ thể với việc rèn kỹ năng và cuối cùng đi tới hướng
chẩn đoán và điều trị.
Tại đây, sinh viên được vận dụng những kiến thức lý thuyết đã học, áp
dụng vào một ca bệnh cụ thể. Có thể nói, thực tập lâm sàng là phần cụ thể hóa và
vận dụng một cách tổng hợp các kiến thức từ lĩnh vực cơ sở đến bệnh học để
biến nó thành các kỹ năng và thể hiện thái độ của sinh viên trước người bệnh.
79
Với tầm quan trọng như vậy, nên việc xây dựng và phát triển cơ sở
thực tập lâm sàng là hết sức quan trọng. Chính vì vậy, các trường đại học, cao
đẳng y dược cần có bệnh viện trực thuộc trường hoặc hợp đồng với các bệnh
viện, để các bệnh viện cam kết hỗ trợ là cơ sở thực hành của các trường, tạo
điều kiện cho các trường triển khai giảng daỵ và học tập.
Về lâu dài các trường cần có kế hoạch chiến lược xây dựng mô hình
viện - trường. Các trường cần xây dựng bệnh viện thực hành theo mô hình
quốc tế, có quy mô đủ lớn với trang thiết bị hiện đại, để thực hiện được mục
tiêu gắn liền giảng dạy - nghiên cứu khoa học và khám chữa bệnh phục vụ
chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
3.5. Phát huy tính tích cực chủ động, vai trò tự giáo dục, tự rèn
luyện của sinh viên ngành Y
Con người với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức, quá trình cải
tạo thế giới, là chủ thể của mọi quan hệ xã hội, thông qua hoạt động giáo dục
(trong đó có mặt thứ hai của giáo dục là tự giáo dục) con người có khả năng
tự biến đổi nhân cách của mình một cách có ý thức. Sinh viên là những người
được giáo dục bởi gia đình, nhà trường và xã hội. Cùng với quá trình được
giáo dục tức là sự tác động từ khách thể đến chủ thể giáo dục, thì quá trình tự
giáo dục- một quá trình sinh viên tự hoàn thiện nhân cách của mình sao cho
phù hợp với yêu cầu của cuộc sống - có một vai trò cực kì quan trọng. Bởi lẽ
giáo dục dù toàn diện và được đẩy mạnh đến đâu cũng chỉ vạch ra được
đường, hướng, thúc đẩy quá trình giữ gìn và phát triển y đức. Trong thực tế, y
đức được giữ gìn và phát triển đến mức nào điều đó phụ thuộc một phần rất
lớn vào việc tự giáo dục, tự rèn luyện về y đức của bản thân sinh viên. Vì vậy
để nâng cao y đức cho sinh viên ngành Y hiện nay vừa phải tăng cường giáo
dục toàn diện, vừa phải đẩy mạnh tự giáo dục, tự rèn luyện y đức của sinh
viên ngành Y.
80
Sinh viên với những nét đặc thù về tâm sinh lý lứa tuổi với một trình độ
nhận thức và năng lực tư duy nhất định, quá trình giáo dục và tự giáo dục sẽ
giúp cho sinh viên không chỉ nắm vững kiến thức cơ bản, mà còn nắm vững
những tri thức đạo đức đã được nhà trường trang bị, cùng với giao tiếp xã hội,
sinh viên sẽ chuyển những kiến thức được học đó thành niềm tin cá nhân,
thành tình cảm đạo đức và được thể hiện ngay trong hành vi ứng xử hàng
ngày của sinh viên.
Quá trình tự giáo dục là một quá trình “tự thân vận động” đòi hỏi phải
có một nghị lực, một ý chí và quyết tâm cao để chiến thắng bản thân mình. Y
đức của người thầy thuốc không phải tự nhiên mà có đó là kết quả của quá
trình phấn đấu, rèn luyện vô cùng khó khăn gian khổ. Tu dưỡng đạo đức, rèn
luyện y đức cũng giống như “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong”.
Quá trình tự giáo dục muốn đạt kết quả cao, nhất thiết phải dựa trên
những tiền đề nhất định như: nhận thức được yêu cầu của xã hội, của tập thể,
của nghề nghiệp và khả năng của bản thân; có lí tưởng sống, biết cách điều
khiển bản thân tuân theo những nguyên tắc, chuẩn mực và đòi hỏi một nghị
lực cao…
Việc phát huy cao độ tính tích cực chủ động, vai trò tự giáo dục, tự rèn
luyện y đức của sinh viên ngành Y là một trong những nội dung hiện đại hoá
phương pháp giáo dục: lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là chủ đạo, là
hoàn toàn phù hợp với nguyên lý “tự thân vận động” của triết học. Với ý
nghĩa đó, hơn bao giờ hết chúng ta phải tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất giúp
cho sinh viên nói chung, sinh viên ngành Y nói riêng có cơ hội để thể hiện
mình, để tự mình vươn lên trong cuộc sống. Tính tự giác, tính chủ động, vai
trò tự giáo dục, tự rèn luyện y đức của sinh viên là con đường tất yếu đối với
sự phát triển, hoàn thiện nhân cách của sinh viên ngành Y hiện nay.
81
3.6. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, giáo dục y đức cho
sinh viên ngành Y thông qua các hình thức sinh hoạt mang ý nghĩa chính
trị - xã hội - thực tiễn
Như đã đề cập ở phần trên, một trong những nguyên nhân của những
biểu hiện tiêu cực, xuống cấp về y đức của một bộ phận sinh viên hiện nay là
do thời gian qua, việc giáo dục đạo đức, lối sống có phần bị coi nhẹ, chưa
được quan tâm một cách đúng mức. Vì vậy, để nâng cao y đức cho sinh viên
ngành Y hiện nay, đồng thời với việc tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng
cần phải tiếp tục đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, đạo đức nghề y, nêu
gương “người tốt, việc tốt” để sinh viên học tập.
Giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên ngành Y cần phải thực hiện
tốt các nội dung như: giáo dục truyền thống đạo đức, lối sống tốt đẹp của dân
tộc, những nguyên tắc chuẩn mực của đạo đức cách mạng, lối sống xã hội chủ
nghĩa, những phẩm chất, giá trị đạo đức của người thầy thuốc, pháp luật của
nhà nước, qui định của ngành… Trong đó, đặc biệt chú trọng giáo dục tiêu
chuẩn y đức theo 12 điều qui định về y đức do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
ngày 6/11/1996.
Giáo dục đạo đức cách mạng, đạo đức nghề y cho sinh viên cần sử
dụng tổng hợp nhiều hình thức, như: giáo dục tập trung thông qua các đợt học
tập, lễ kỉ niệm; giáo dục thông qua tổ chức các hoạt động thực tiễn, giao lưu
văn hoá giữa các trường.. Trong đó giáo dục y đức thông qua hoạt động thực
tiễn chuyên môn nghề nghiệp của sinh viên tại bệnh viện thực tập có vị trí đặc
biệt quan trọng. Thực tiễn vốn là “người thầy” vĩ đại của nhận thức. Nó
không chỉ giúp con người nhận thức được hiện thực khách quan, củng cố,
nâng cao những hiểu biết đã có, loại bỏ những hiểu biết không đúng hoặc đã
lỗi thời… mà còn là môi trường giúp con người hình thành những phẩm chất
nhân cách cần thiết.
82
Thực hiện phương châm: giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí
luận gắn với thực tiễn, học đi đôi với hành, trong công tác giáo dục y đức
ngoài những giờ lên lớp môn đạo đức nghề nghiệp, tâm lý y học và các môn
khoa học Mác-Lênin, các trường y cần kết hợp với Đoàn thanh niên, Hội sinh
viên tổ chức nhiều hình thức hoạt động mang ý nghĩa chính trị - xã hội - thực
tiễn để thông qua đó giáo dục đạo đức, giáo dục y đức cho sinh viên. Điều này
hoàn toàn phù hợp với phương pháp giáo dục hiện đại là phương pháp kết
hợp, sử dụng nhiều phương pháp giáo dục cho những đối tượng và môn học
khác nhau.
Đặc biệt phong trào hiến máu nhân đạo hàng năm, đã thu hút đông đảo
sinh viên tham gia, được sinh viên ngành Y hưởng ứng nhiệt tình. Hiến máu
cứu người là một nghĩa cử vô cùng cao đẹp, một hành động mang tính nhân
đạo và nhân văn sâu sắc, việc làm thể hiện và tiếp nối được truyền thống tốt
đẹp, quý báu của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay. Phong trào hiến máu
nhân đạo hàng năm ở các cơ sở đào tạo nhân lực y tế đã thu được kết quả tốt,
đòi hỏi Đoàn thanh niên, Hội sinh viên của các nhà trường vận động sinh
viên, triển khai phong trào tốt hơn nữa trong những năm tới.
Các phong trào thanh niên tình nguyện hè, đội sinh viên tình nguyện
tham gia khám chữa bệnh và phát thuốc miễn phí cho đồng bào vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, chăm sóc sức khoẻ cho các đối tượng chính
sách, người nghèo và người có công với cách mạng của sinh viên các trường
đại học, cao đẳng ngành Y cả nước thực sự là những hoạt động bổ ích, những
hoạt động đó có ý nghĩa giáo dục y đức cao. Đó là những buổi thực hành y
đức thiết thực cho sinh viên. Tuy nhiên số lượng sinh viên tham gia vào các
hoạt động của đội sinh viên tình nguyện còn hạn chế; thế mạnh vốn có của
sinh viên trường y trong hoạt động của các đội nói chung và đội sinh viên tình
nguyện nói riêng chưa được phát huy triệt để; số lượng và thời gian đến với
vùng sâu, vùng xa của các đoàn bác sĩ trẻ chưa đáp ứng được nhiều so với
83
nhu cầu và kì vọng của đồng bào nơi đây. Các phong trào này cần được triển
khai một cách rộng khắp và đa dạng, phong phú, vận động được nhiều sinh
viên tham gia hơn nữa.
Trong giáo dục đạo đức, giải pháp “Nêu gương tốt” (người tốt, việc tốt)
có ý nghĩa vô cùng to lớn. Năm 1968 Hồ Chí Minh chủ trương xuất bản loại
sách “Người tốt Việc tốt” và cho rằng “Lấy gương người tốt việc tốt để hàng
ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng,
xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”.
Đây là một quan điểm, một tư tưởng giáo dục lớn của Hồ Chí Minh. Trước
đây Người từng viết: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình
cảm, và đối với họ, một tấm gương sống còn giá trị hơn một trăm bài diễn văn
tuyên truyền” [22, tr.89]. Điều đó cho thấy, trong giáo dục - nhất là giáo dục
đạo đức - việc nêu gương tốt có tác dụng, có sức thuyết phục vô cùng to lớn
và ngày nay chúng ta cần phát huy.
Sinh thời từ năm 1959 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng phong
trào “người tốt, việc tốt” để xây dựng nhân rộng điển hình và mười năm sau
loại sách “người tốt, việc tốt” mới xuất bản. Hiện nay phong trào này đã và
đang được Đảng và Nhà nước quan tâm thực hiện. Thiết nghĩ các nhà trường
y cần tăng cường hưởng ứng phong trào đó, kịp thời phát hiện biểu dương
những thầy giáo, thầy thuốc, những sinh viên có những hành vi dù nhỏ nhưng
nói lên y đức cao cả của người thầy thuốc. Mặt khác, trên các phương tiện
thông tin, tuyên truyền của nhà trường cần thường xuyên đưa những thông tin
về người tốt, việc tốt trong ngành Y tế và trong các lĩnh vực khác trên phạm
vi cả nước. Gần đây Báo Pháp luật Việt Nam, ngày 13/7/2007 đưa tin Thủ
tướng Chính phủ đã kí quyết định khen thưởng đột xuất bác sĩ Ngô Đức Đễ,
trưởng khoa Ngoại tổng hợp Bệnh viện Đồng Nai sau khi tiến hành phẫu thuật
thành công một ca vỡ tim do tai nạn lao động. Đây là người đầu tiên của
ngành Y tế trong thời kì đổi mới được Thủ tướng khen thưởng đột xuất vì đã
84
có thành tích trong khám chữa bệnh, nêu cao tấm gương “Lương y như từ
mẫu”.
Mặt đối lập của “người tốt việc tốt” là “người xấu việc xấu”. Do đó,
cùng với việc nêu gương người tốt, việc tốt chúng ta cũng cần phê phán
những tấm gương phản diện về đời sống đạo đức nói chung, y đức nói riêng.
Bên cạnh những tấm gương sáng về y đức, dám hi sinh cả tính mạng của
mình để làm thí nghiệm hay sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì bệnh nhân, vì độc
lập tự do của Tổ quốc (như bác sĩ, liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm)… Cũng còn
không ít cán bộ, nhân viên ngành Y tế đã có biểu hiện tha hoá về phẩm chất
đạo đức nghề nghiệp làm ảnh hưởng xấu đến công tác giáo dục y đức cho sinh
viên. Theo Báo Công an nhân dân (số ra ngày 1/11/2006), chỉ riêng địa bàn
Thành phố Hà Nội từ năm 2004 đến nay đã khám phá 10 vụ, bắt 21 đối tượng,
thu giữ, tiêu huỷ hàng triệu cơ thuốc tân dược giả… cùng hàng tạ nhãn, mác
giả các biệt dược nổi tiếng thế giới.
Không chỉ mua bán, tàng trữ thuốc giả, nhãn, mác giả, đặc biệt hơn có
bác sĩ cai nghiện cũng bán thuốc nghiện. Báo Công an nhân dân (số ra ngày
13/9/2005) đưa tin bác sĩ Lí Thanh Sơn đã bị cơ quan cảnh sát điều tra về ma
tuý, công an Thành phố Cần Thơ khởi tố với tội danh “mua bán trái phép chất
ma tuý”...
3.7. Đổi mới chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về đào tạo nguồn
nhân lực đối với ngành Y tế
Để có thể phát huy hiệu quả công tác giáo dục và nâng cao y đức cho
sinh viên ngành Y và đội ngũ thầy thuốc hiện nay, đòi hỏi Đảng và Nhà nước
phải có chế độ đãi ngộ xứng đáng về vật chất và tinh thần cho đội ngũ này. Đãi
ngộ xứng đáng cho hoạt động của người thầy thuốc không đồng nghĩa với sự
ưu đãi, mà thực chất là sự đánh giá đúng giá trị của sản phẩm lao động trí tuệ
mà họ tạo ra cho xã hội. Đây cũng là một động lực quan trọng để xây dựng và
nâng cao y đức của người thầy thuốc trong công cuộc đổi mới ở nước ta.
85
Những năm gần đây, Nhà nước đã có nhiều cố gắng thực hiện chế độ
tiền lương. Song trên thực tế, điều kiện làm việc, phương tiện nghiên cứu,
khám chữa bệnh, chế độ tiền lương của đa số cán bộ y tế chưa tương xứng với
chi phí lao động và khả năng cống hiến của họ, nhất là cán bộ y tế vùng sâu,
vùng xa. Do đó, chưa tạo được động lực kích thích lao động đòi hỏi trình độ
tay nghề cao phát triển, chưa động viên được sự say mê sáng tạo của đội ngũ
thầy thuốc khi thường xuyên phải lựa chọn giữa đồng tiền và y đức. Thực tế
đó đã trực tiếp ảnh hưởng không tốt đến tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của
sinh viên ngành Y - những thầy thuốc tương lai. Sự cống hiến, chịu đựng của
con người là có hạn và có điều kiện, sẽ là phản tác dụng khi sự cống hiến,
chịu đựng đã vượt quá ngưỡng trong một điều kiện không cần thiết.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ ngành Y tế phát huy hết khả năng
của mình; để xây dựng, hình thành niềm tin, lí tưởng vào cuộc sống hiện tại
và nhất là trong tương lai cho các thế hệ sinh viên ngành Y, đòi hỏi Đảng và
Nhà nước phải đổi mới chính sách tiền lương, chính sách đãi ngộ đối với cán
bộ ngành Y tế. Chính sách tiền lương phải đảm bảo nguyên tắc phân phối
theo lao động, đảm bảo cho họ phải sống được bằng chính đồng lương của
mình. Chỉ như vậy, những người lao động trong ngành Y mới yên tâm dồn hết
sức lực, trí tuệ cho hoạt động chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ cho
nhân dân. Ngoài chính sách tiền lương, nhà nước cần tiếp tục cải tiến chế độ
thù lao cho lao động của họ thông qua chế độ phụ cấp chuyên môn, thù lao
giờ trực bệnh viện, giờ giảng đồng thời phải có chính sách bảo hiểm về tính
mạng, sức khoẻ cho đội ngũ thầy thuốc làm việc trong những môi trường
nguy cơ phơi nhiễm cao. Nhà nước phải có chính sách bảo hộ quyền tác giả,
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của trí thức ngành Y tế, Nhà nước cần ban hành
những văn bản pháp quy nhằm thực hiện việc bảo hộ những quyền lợi chính
đáng của họ, đồng thời cũng tạo một sinh lực quan trọng để phát huy tính
sáng tạo của người thầy thuốc, người cán bộ y tế.
86
Đổi mới chế độ tiền lương, điều chỉnh hợp lý chính sách đãi ngộ đối
với cán bộ ngành Y tế trong điều kiện hiện nay là việc làm cần thiết và có ý
nghĩa nhất định đối với công tác giáo dục y đức cho sinh viên. Song, cái quan
trọng hơn là công tác cán bộ (tuyển dụng, đào tạo, bố trí sắp xếp cán bộ…).
Công tác này ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên
ngành Y. Việc bố trí và sử dụng cán bộ nếu đảm bảo đúng tiêu chuẩn, nếu đề
bạt cán bộ đúng lúc, đúng người, đúng việc… sẽ tạo cho sinh viên có niềm tin
vào tương lai tươi sáng của mình, kích thích họ hăng hái học tập, rèn luyện vì
ngày mai lập thân, lập nghiệp.
Cái đáng quý trong cuộc sống của con người nói chung, của sinh viên
nói riêng, đó là niềm tin lí tưởng. Sống không có niềm tin, sống thiếu lí tưởng,
lúc gặp khó khăn sẽ không vượt qua được. Chính sách của Đảng và Nhà nước
vừa thể hiện tính nhân đạo, nhân văn, vừa là động lực thúc đẩy xã hội phát
triển. Điều đó đối với ngành Y tế cũng hoàn toàn chính xác. Với ý nghĩa đó,
việc đổi mới chính sách của Đảng và Nhà nước đối với ngành Y tế, tạo điều
kiện tốt nhất để cán bộ, nhân viên ngành Y tế đóng góp sức lực và trí tuệ của
mình trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân có ý nghĩa tích cực
trong việc định hướng giá trị đạo đức cho sinh viên ngành Y nước ta hiện nay.
Như vâ ̣y , vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế những năm gần
đây đã đạt được nhiều thành tích đáng tự hào. Có được những thành công đó
trước hết là do Đảng và Nhà nước đã có sự đổi mới và đầu tư đúng hướng cho
giáo dục - đào tạo. Bên cạnh đó, nhờ sự chỉ đạo sâu sát của Đảng uỷ, Ban
giám hiệu các cơ sở đào tạo cán bộ y tế và quá trình tự tu dưỡng, tự rèn luyện
của bản thân người học trong việc học tập, trau dồi đạo đức lối sống, giữ gìn
và phát huy truyền thống y đức của ngành.
Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận sinh viên ngành Y chưa ý thức được
nghĩa vụ đạo đức cũng như nghĩa vụ pháp lý của mình, còn có những biểu
hiện tiêu cực vi phạm đạo đức xã hội, đạo đức sinh viên. Những hạn chế đó
87
trong sinh viên một phần do ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường, một
phần do sự phối hợp chưa chặt chẽ của các đoàn thể, hiệp hội, còn nhiều hạn
chế trong công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên. Nguyên nhân chủ
yếu vẫn là do chính bản thân một số sinh viên chưa tự giác phấn đấu, rèn
luyện tu dưỡng đạo đức lối sống, sớm có những biểu hiện tiêu cực gây ra
nhiều hậu quả xấu cho bản thân và xã hội.
Để công tác đào tạo nhân lực ngành Y tế đạt được kết quả tốt hơn nữa,
trước hết cần quán triệt quan điểm của Đảng, đổi mới nhận thức đối với công
tác đào tạo cho sinh viên ngành Y, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực cho
ngành Y tế với các biện pháp như tăng chỉ tiêu đào tạo cho các trường thuộc
khối ngành Y, mở thêm các mã ngành, mở rộng các hình thức liên kết giữa
các cơ sở đào tạo cán bộ y tế với địa phương. Đồng thời với tăng chỉ tiêu đao
tạo là phải có biện pháp đảm bảo chất lượng đào tạo, bởi vì đào tạo người
thầy thuốc gắn liền với tính mạng và sức khỏe của con người. Bên cạnh đó,
cần có chủ trương ưu tiên trang bị cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo và đội
ngũ giảng viên ở mức cao nhất. Thứ hai, kết hợp đào tạo chuyên môn với giáo
dục y đức truyền thống và những giá trị y đức hiện đại cho sinh viên ngành Y.
Xây dựng môi trường kinh tế - xã hội trong sạch lành mạnh tác động tích cực
đến việc giáo dục y đức cho sinh viên ngành Y trong giai đoạn hiện nay. Để
thực hiện các phương hướng chủ yếu trên đây, trước mắt cần phải tiếp tục đẩy
mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, đạo đức nghề y, nêu gương “người tốt,
việc tốt”; thứ hai, phát huy tính tích cực chủ động, vai trò tự giáo dục, tự rèn
luyện của sinh viên ngành Y; thứ ba, giáo dục y đức cho sinh viên ngành Y
thông qua các hình thức sinh hoạt mang ý nghĩa chính trị - xã hội - thực tiễn;
thứ tư, đổi mới chính sách của Đảng và Nhà nước đối với ngành Y, đây cũng
là một giải pháp thực tế nhằm hạn chế sự xuống cấp về y đức trong ngành Y
đồng thời tạo động lực cho sinh viên ngành Y học tập rèn luyện phấn đấu trở
thành những người thầy thuốc chân chính.
88
KẾ T LUẬN
Trong những năm qua, nhân lực y tế đã có nhiều đóng góp to lớn và đã
đạt được nhiều thành tựu; nhiều dịch bệnh và bệnh xã hội đã được khống chế
hoặc loại trừ; sức khỏe và tuổi thọ của nhân dân tăng; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ
em ngày càng giảm. Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân ngày
càng tốt hơn. Nhiều kỹ thuật cao, tiên tiến đã được áp dụng và triển khai
thành công như ghép gan, ghép thận... đưa nền y học nước ta tiến dần tới trình
độ khu vực và thế giới.
Trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhu cầu về xây dựng
và phát triển nguồn nhân lực cho ngành Y tế để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe
nhân dân đang đặt ra những áp lực lớn đối với công tác đào tạo.
Việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân có tốt hay không, một
trong các yếu tố quan trọng hàng đầu là đội ngũ cán bộ y tế, những người trực
tiếp khám, chăm sóc và cung cấp các dịch vụ y tế cho nhân dân. Chất lượng
của các dịch vụ y tế này phần lớn phụ thuộc vào chính bản thân người thầy
thuốc. Một người thầy thuốc giỏi về chuyên môn, tận tụy với nghề nghiệp, có
lương tâm đạo đức tốt thì chất lượng phục vụ sẽ được nâng cao, đặc biệt là ở
những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng sâu vùng xa, hải đảo
- nơi mà cán bộ y tế vừa thiếu, vừa yếu; trang thiết bị y tế còn nhiều thiếu
thốn, thì vai trò của người thầy thuốc càng trở nên quan trọng hơn nhiều lần.
Vì vậy, để từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực qua đào tạo và đẩy
mạnh việc thực hiện chủ trương đào tạo theo nhu cầu xã hội, vấn đề cấp bách
hiện nay mà ngành Y tế cần giải quyết đó là về nhu cầu nhân lực như: số
lượng và chất lượng, về chuyên môn nghiệp vụ, về kỹ năng thực hành nghề
nghiệp và y đức. Để giải quyết vấn đề đó, ngành Y tế nói chung và cac các cơ
sở đào tạo nhân lực y tế nói riêng cần thực hiện các biện pháp nhằm mục đích
89
định hướng đào tạo nhân lực Y , xây dựng các chính sách và cơ chế phù hợp
với yêu cầu đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực qua đào tạo.
Các cơ sở đào tạo y dược cần có những chuyển biến tích cực trong đổi
mới mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu của ngành Y tế.
Các cơ sở y dược công lập và ngoài công lập, các nhà tuyển dụng nắm
được năng lực đào tạo, khả năng đáp ứng của các cơ sở đào tạo về số lượng
và chất lượng để đặt hàng và cung ứng các dịch vụ hỗ trợ đào tạo, tạo môi
trường cho sinh viên các trường thực hành, thực tập, rèn luyện kỹ năng thực
hành nghề nghiệp.
Để có được những cán bộ ngành Y giỏi về chuyên môn, ngời sáng về y
đức, cùng với việc nâng cao kiến thức chuyên môn, văn hoá, khoa học kĩ
thuật… chúng ta cần tăng cường hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên ngành Y. Để công tác giáo
dục đạo đức, giáo dục y đức đạt được hiệu quả tốt hơn nữa cần phải thực hiện
nhiều giải pháp đồng bộ, trước mắt cần tiếp tục đẩy mạnh giáo dục đạo đức
cách mạng, đạo đức nghề Y, nêu gương người tốt việc tốt; phát huy tính tích
cực chủ động, vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện của sinh viên ngành Y; giáo
dục y đức cho sinh viên ngành Y thông qua các hình thức sinh hoạt mang ý
nghĩa chính trị - xã hội - thực tiễn; đổi mới chính sách của Đảng và Nhà nước
đối với ngành Y. Chúng ta tin rằng, một xã hội lành mạnh, lấy công bằng,
thương yêu đùm bọc làm phương châm sẽ là đất lành cho ngành Y tế Việt
Nam phát triển.
90
DANH MỤC TÀ I LIỆU THAM KHẢ O
1. Ban Khoa giáo Trung ương (2006), Triển khai Nghị quyết Đại hội X
trong lĩnh vực khoa giáo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Y tế (1995), Sơ lược lịch sử y tế Việt Nam, tập I, Nxb Y học, Hà Nội.
3. Bộ Y tế (1996), Sơ lược lịch sử y tế Việt Nam, tập II, Nxb. Y học, Hà Nội.
4. Bộ Y tế (2001), Giáo dục và đào tạo nhân lực y tế - Dự án WHO/HRH-
001, Nxb. Y học, Hà Nội.
5. Bộ Y tế (2002), Ngành y tế Việt Nam vững bước vào thế kỷ XXI, Nxb. Y
học, Hà Nội.
6. Bộ Y tế (2002), 55 năm phát triển sự nghiệp y tế cách mạng (1945-
2000), Nxb. Y học, Hà Nội.
7. Bộ Y tế (2002), Kỷ yếu Hội nghị y dược (tháng 12/2008), Nxb. Y học,
Hà Nội.
8. Nguyễn Tấn Dũng (2007), Cổ phần hoá bệnh viện, trợ giá thuốc cho
người nghèo, bài nói chuyện với các giáo sư, bác sĩ, lãnh đạo ngành y tế
Hà Nội nhân ngày thầy thuốc Việt Nam 27-2-2007.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn
quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 2, Ban
Chấp hà nh Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn
quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn
quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Lê Trần Đức (1971), Thân thế và sự nghiệp của Hải Thượng Lãn Ông
Lê Hữu Trác, Nxb. Y học và Thể dục - Thể thao, Hà Nội.
91
14. Phạm Mạnh Hùng (2001), “Y đức và một số giải pháp nâng cao y đức”,
Tạp chí Bảo hiểm y tế Việt Nam, (8), tr.6-7.
15. Phạm Mạnh Hùng (2002), “Y đức và vấn đề nâng cao y đức”, Tạp chí
cộng sản, (7), tr.33-34.
16. Ngô Gia Hy (1998), Nguồn gốc của y đức, sự đóng góp của nền y học
và văn hoá Việt Nam, Hà Nội.
17. Đoàn Văn Khái (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
18. Trần Hậu Kiêm (chủ biên - 1997), Giáo trình đạo đức học, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
19. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb. Tiến bộ, Maxcơva.
20. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 35, Nxb. Tiến bộ, Maxcơva.
21. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb. Tiến bộ, Maxcơva.
22. Hồ Chí Minh (2005), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đỗ Mười (1994), Chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ của nhân dân là nhiệm vụ
rất cao quí và nặng nề của thầy thuốc Việt Nam, bài phát biểu cuộc họp
nhân ngày thầy thuốc Việt Nam 27-2-1994.
24. Phạm Công Nhất (2001), Tư tưởng triết học về con người qua các tác
phẩm y học của Hải Thượng Lãn Ông, Luận án tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
25. Bùi Văn Nhơn (2006), Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã
hội,Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
26. Trần Sĩ Phán (1996), “Sinh viên với định hướng giá trị đạo đức”, Tạp
chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, (3), tr.22.
27. Trần Sĩ Phán (1997), “Giáo dục đạo đức cho sinh viên- Một số phương
pháp cơ bản”, Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, (7), tr.20.
28. Đỗ Nguyên Phương (1997), Phát triển sự nghiệp y tế ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay, Nxb. Y học, Hà Nội.
92
29. Đỗ Nguyên Phương (1998), Một số vấn đề xây dựng ngành y tế phát
triển ở Việt Nam, Nxb. Y học, Hà Nội.
30. Đỗ Nguyên Phương (1999), Y tế Việt Nam trong quá trình đổi mới, Nxb.
Y học, Hà Nội.
31. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai
đoạn 2001- 2010, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Trung ương Hội sinh viên Việt Nam (2003), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc, Hội sinh viên Việt Nam lần thứ VII, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
33. Trường Cao đẳng Y tế Cộng đồng (2007), Văn bản về đào tạo và tuyển dụng.
34. Trường Cao đẳng Y tế Hà Nội (2007), Báo cáo tổng kết công tác đoàn
và phong trào sinh viên nhiệm kỳ 2005- 2007.
35. Trường Cao đẳng Y tế Hải Phòng (2006), Tổng kết công tác đào tạo
năm học 2005 - 2006.
36. Trường Cao đẳng Y tế Hải Phòng (2008), Tổng kết công tác đào tạo
năm học 2007-2008.
37. Trường Đại học Y Hà Nội (2007), Báo cáo tổng kết công tác đoàn và
phong trào sinh viên nhiệm kỳ 27 (2005-2007).
38. Trường Đại học Y Hải Phòng (2002), Báo cáo tổng kết công tác đào tạo
năm học 2001 - 2002.
39. Trường Đại học Y Hải Phòng (2004), Báo cáo tổng kết công tác đào tạo
năm học 2003 - 2004.
40. Trường Đại học Y Hải Phòng (2006), Báo cáo tổng kết công tác đào tạo
năm học 2005 - 2006.
41. Trường Đại học Y tế Công cộng (2006), Báo cáo tổng kết công tác đoàn
và phong trào sinh viên năm học 2005- 2006.
42. Trường Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh (2008), Văn bản về
đào tạo và tuyển dụng.
93
43. Trường Đại học Y Thái Bình (2008), Văn bản về đào tạo và tuyển dụng.
44. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Tập 1, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.
45. Phạm Viết Vượng (1996), Giáo dục học đại cương, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội.
94
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. THỐNG KÊ SỐ LƢỢNG TRƢỜNG ĐÀO TẠO NHÂN LỰC NGÀNH Y
I. PHÂN THEO LOẠI HÌNH TRƢỜNG
STT
Loại trƣờng Quốc lập Dân lập Tổng cộng
1 Đại học/ Học viện 17 3 20
2 Cao đẳng 29 1 30
Tổng cộng 46 4 50
II. PHÂN BỐ THEO LÃNH THỔ
STT
Vùng/Miền Cao đẳng Đại học/ học viện Tổng cộng
1 Vùng Đồng bằng sông Hồng 11 8 19
2 Vùng Đồng bằng sông Cửu Long 1 6 7
3 Vùng Đông Bắc 1 4 5
4 Vùng Bắc trung bộ 1 4 5
5 Vùng Đông Nam Bộ 3 4 7
6 Vùng duyên hải Nam Trung bộ 1 4 5
7 Vùng Tây Nguyên 2 0 2
8 Vùng Tây Bắc 0 0 0
20 30 50 Tổng cộng
Nguồn: Bộ Y tế (2010), Kỷ yếu hội thảo quốc gia về đào tạo nhân lực
ngành y tế theo nhu cầu xã hội.
95
thạc sĩ BNT BSCK2 BSCK1
+ + +
+ + +
DSCK2 DSCK1
III. DANH SÁCH CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC Tiến sĩ + + + + + + + + + + + + + + +
Tên cơ sở đào tạo TT 1 Trường ĐH Y Hà Nội 2 Đại học YD TP.HCM 3 Trường Đại học Y Huế 4 Trường Đại học Dược HN 5 Học Viện Quân Y 6 Trường ĐH Y Thái Nguyên 7 Trường ĐH Y Thái Bình 8 Trường ĐH Y tế công cộng 9 Trường ĐH Y Hải Phòng 10 Trường ĐH RHM 11 Học viện YHCT T W 12 Viện NCYDLS 108 13 Viện VS DTT W 14 Viện Dinh Dưỡng 15 Viện Dược liệu 16 Viện Pasteur TP.HCM 17 Viện SRKST&CTTW 18 Viện YHCTQD
+ + + + + + + + + + + +
+ + + + + + + +
+ + + + +
+ + + + + + +
Nguồn: Bộ Y tế (2010), Kỷ yếu hội thảo quốc gia về đào tạo nhân lực
ngành y tế theo nhu cầu xã hội.
96
PHỤ LỤC 2. CƠ CẤU GIẢNG VIÊN TRONG CÁC TRƢỜNG ĐÀO TẠO KHỐI NGÀNH Y DƢỢC
Tổng số giáo viên toàn ngành y dƣợc
Các trƣờng ĐH Y Dƣợc
Các trƣờng CĐ Y Dƣợc
S
Cơ hữu
Thỉnh giảng
Cơ hữu
Thỉnh giảng
Cơ hữu
Thỉnh giảng
Nội dung
TT
Tổng
Tổng
Tổng
Số lƣợng
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Số lƣợng
Số lƣợng
Số lƣợng
Số lƣợng
Số lƣợng
I
Phân loa ̣i theo chƣ́ c danh 0,86 56
Giáo sư
1
45
1,73
52
1,12
40
4,79
4 0,22
5
0,28
101
92
9
2 Phó Giáo sư
410
6,33
126
400
8,59
117
10
4,85
0,55
9
0,51
14,01 517
536
19
I
Phân loa ̣i theo trình đô ̣
I
280
4,32
56
2,16
279
5,99
44
5,27
1
0,05
12
0,68
336
323
13
Tiến sĩ khoa 1 học
1236
19,07
521
81
4,43
202
11,47
319
20,07 1757 1155 24,82
38,20 1474
283
2114
26,66
864
49,06
386
2 Tiến sĩ 3 Thạc sĩ
32,62 1250 48,15 3364 1627 34,96
46,23 2013 487
1351
2864
44,19
961
762
43,27
199
4 Đa ̣i ho ̣c
37,02 3825 1710 36,74
23,83 1909 1154 63,16
1916
193
2,98
50
1,93
82
1,76
0,60
111
6,08
45
2,56
5
5 Cao đẳng
243
87
156
316
4,88
46
1,77
131
2,81
0,00
185
10,13
46
2,61
0
6 Khác
362
131
231
Tổ ng chung
7469
115,24 3055 117,68 10524 5436 116,80 1110 132,93 6546 2033 111,28 1945
110,45 3978
Nguồn: Bộ Y tế (2010), Kỷ yếu hội thảo quốc gia về đào tạo nhân lực ngành y tế theo nhu cầu xã hội
97
PHỤ LỤC 3. CƠ CẤU NGÀNH NGHỀ ĐÀO TẠO TRONG CÁC TRƢỜNG ĐÀO TẠO KHỐI NGÀNH Y DƢỢC
Số lƣợng trƣờng đào tạo
trình độ STT Tên ngành Tổng Tỷ lệ
- Bác sĩ đa khoa CĐ 10 12,05 ĐH 10
- Dược sĩ đại học 1 9 10,84 8
- Cử nhân điều dưỡng 20 31 37,35 11
- Bác sĩ Y học dự phòng 6 7,23 6
- Bác sĩ Răng Hàm Mặt 7 8,43 7
- Kỹ thuật Y học 4 8 9,64 4
- Bác sĩ Y Dược học cổ truyền 5 6,02 5
- Y tế công cộng 3 3,61 3
- Quản trị bệnh viện 1 1,20 1
- Gây mê hồi sức 1 1,20 1
- Hộ sinh 1 2 2,41 1
Tổng cộng 26 83 100,00
57
Nguồn: Bộ Y tế (2010), Kỷ yếu hội thảo quốc gia về đào tạo nhân lực ngành y tế theo nhu cầu xã hội )
98
PHỤ LỤC 4. THỐNG KÊ SỐ LƢỢNG GIẢNG VIÊN CỦA CÁC TRƢỜNG CÓ ĐÀO TẠO NHÂN LỰC KHỐI NGÀNH Y DƢỢC
STT
Cơ sở đào tạo
Giảng viên cơ hữu, kiêm nhiê ̣m GS PGS TSKH TS ThS ĐH CĐ TC
Giảng viên thỉnh giảng GS PGS TSKH TS ThS ĐH CĐ TC
Tổ ng số GV cả trƣờ ng
Tổ ng GV cơ hƣ̃u
1 2
Tr. ĐH Y Hà Nội Tr. ĐH Y Duợc TP HCM
8 7
81 212 75 75 94 62 158 285 123 233
5
32
545 905
545 905
Tổ ng GV thỉnh giảng 0 0
3
5
26
Tr. ĐH Y Hải Phòng
20
60 19 72
7 10
39
17
41
2
25
5
348
203
145
4
33
Tr. ĐH Y Thái Bình
16 138 194
1
2
21
3
7
415
355
60
5
37
Tr. ĐH Duợc Hà Nội
16
27 80 45
10 17
2
55
36
1
326
169
157
6
Tr. ĐH Y Duợc Cần Thơ
6
62
1
69
69
0
7
Tr. ĐH Răng Hàm Mặt
4
27
11
7
2
51
51
0
8
9
Tr. ĐH Y tế cộng cộng
11 38 40
8 32
55
43
5
241
94
147
9
16
2
48 99
18
12
9
17
221
179
42
Tr. ĐH Điều duỡng Nam Định
10 Học viện Y học cổ truyền
2
14
34 63 99
1
10
1 10
30
30
294
223
71
Việt Nam
11 Tr. ĐH Y khoa Phạm Ngọc
9
9
18 89 117
2
52
296
296
0
Thạch
35
12 Tr. ĐH Kỹ thuật Y tế Hải
2
8
80 110
8 30
80
60
413
200
213
Duơng
28
13 Tr. ĐH Y Thái Nguyên
7
13 120 82
54
2
20
18
276
344
68
14 Tr. ĐH Y Huế
3
31
57 180 185
4
21 127
456
608
152
15 Học viện Quân y
13 107
190 397 74
0
781
781
16 Khoa Y duợc ĐH Tây
1
10
22
59
0
92
92
99
Nguyên
4
32
103 170 183
492
492
0
17 Khoa Điều duỡng ĐH Yersin Đà Lạt
18 Khoa Y ĐH Đà Nẵng
2
4
14
20
20
0
4
19 Khoa Điều dưỡng ĐH
1
1
9
3 10
3
4
3
38
11
27
Thăng Long
11
20 Khoa Điều dưỡng ĐH
1
1
5
3
9
2
7
8
47
19
28
Hồng Bàng
21 Tr. CĐ Y tế Lạng Sơn
9
30
7
2
29
10
1
1
89
49
40
91
22 Tr. CĐ Kỹ thuật Y tế II Đà
1
33 79
20
10
8
1
1
244
144
100
Nẵng
4
23 Tr. CĐ Duợc Hải Duơng
8
36
3
2
20
20
93
44
49
40
24 Tr. CĐ Y tế Hà Nội
8
53 59
5
11
176
120
56
40
25 Tr. CĐ Y tế Hà Tây
8
53 59
5
11
176
120
56
26 Tr. CĐ Y tế Hải Phòng
6
40
10
2
2
60
56
4
20
1
27 Tr. CĐ Y tế Cần Thơ
19 59
3
23
10
135
104
31
18
1
28 Tr. CĐ Y tế Bạc Liêu
1
6
17
2
6
3
24
78
32
46
62
29 Tr. CĐ Y tế Bình Duơng
6
33
1
5
8
115
45
70
4
30 Tr. CĐ Y tế Bình Thuận
12 23
16
1
18
74
51
23
37
31 Tr. CĐ Y tế Đồng Nai
9
2
10 22
1
9
41
131
44
87
32 Tr. CĐ Y tế Ca Mau
0
0
0
33 Tr. CĐ Y tế Bình Định
0
0
0
34 Tr. CĐ Nghề thiết bị y tế
0
0
0
100
20
35 Tr. CĐ Y tế Hà Nam
14 32
8
12
1
20
107
66
41
20
3
2
36 Tr. CĐ Y tế Hà Tĩnh
16 24
2
4
6
8
50
135
52
83
8
37 Tr. CĐ Y tế Khánh Hòa
1
8
35
4
17
16
9
98
48
50
19
38 Tr. CĐ Y tế Kiên Giang
4
16
15
4
8
1
67
35
32
39 Tr. CĐ Y tế Nghệ An
16 59 90
8
20
91
284
173
111
6
7
11
40 Tr. CĐ Y tế Ninh Bình
29 33
15
1
2
4
53
161
80
81
8
41 Tr. CĐ Y tế Phú Thọ
27 127 10
3
6
11 172 60
424
173
251
20
42 Tr. CĐ Y tế Quảng Nam
10
6
34
3
13
2
17
35
140
66
74
10
6
43 Tr. CĐ Y tế Quảng Ninh
3
7
24 38
7
9
11
5
5
28
153
99
54
44 Tr. CĐ Y tế Thái Bình
22
3
6
1
32
32
0
40 15 26
45 Tr. CĐ Y tế Thái Nguyên
21 72
1
2
25
202
96
106
78
1
46 Tr. CĐ Y tế Thanh Hóa
4
30 59
4
9
25
79
289
106
183
13
47 Tr. CĐ Y tế Trà Vinh
8
17
3
15
46
102
43
59
69
48 Tr. CĐ Y tế Huế
18 58
1
6
62
214
77
137
20
1
7
49 Tr. CĐ Y tế Tiền Giang
2
31
1
1
6
1
4
74
41
33
23
2
1
2
6
9
5
8
6
2
9
12
85
37
48
50 Khoa Điều dưỡng và
KTYTế - Tr. CĐ Nguyễn Tất Thành
Tổng
10484
7469
56
410
280 1236 2114 2864 193 316
3015
45 126
56
521 1250 921 50
46
Nguồn: Bộ Y tế (2010), Kỷ yếu hội thảo quốc gia về đào tạo nhân lực ngành y tế theo nhu cầu xã hội.
101
PHỤ LỤC 5. THỐNG KÊ QUY MÔ ĐÀO TẠO CỦA CÁC TRƢỜNG CÓ ĐÀO TẠO NHÂN LỰC NGÀNH Y DƢỢC
Quy mô đào tạo các ngành y dƣợc Đào tạo không
Đào tạo chính
Tên trƣờng
qui
CQ
NCS
CH
Số TT
Tổng chung ĐH, CĐ
Tổng ĐH
CĐ
CĐ 150
359 934 211 58 1625
225 2197 62 330 263 259 53 263
58 165 10 29 15 15
597 908
24
351 86
861
358
34
1598
11
Tr. ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch Tr. ĐH Kỹ thuật Y tế Hải Dương Tr. ĐH Y Thái Nguyên Tr. ĐH Y Huế
2335 1524
0
60
150 65
2771 5678 2054 4126 3289 2216 365 397 1072 1313 927 236 2379 2567 545 845
359 934 211 58 0 1625 0 597 908 0 861 358 2335 1524
437
437
1 Tr. ĐH Y Hà Nội 2 Tr. ĐH Y Dưuợc TP Hồ Chí Minh 3 Tr. ĐH Y Hải Phòng 4 Tr. ĐH Y Thái Bình 5 Tr. ĐH Dược Hà Nội 6 Tr. ĐH Y Dược Cần Thơ 7 Tr. ĐH Răng Hàm Mặt 8 Tr. ĐH Y tế cộng cộng Tr. ĐH Điều dưỡng Nam Định 9 10 Học viện Y học cổ truyền VN 11 12 13 14 15 Học viện Quân y 16 Khoa Y dược ĐH Tây Nguyên Tr. CĐ Y tế Lạng Sơn 17
Tổng ĐH 2771 5678 2054 4126 3439 2216 365 397 1423 1399 927 1834 2379 2567 545 845 244
0
244
3130 6612 2265 4184 3439 3841 365 994 2331 1399 1788 2192 4714 4091 545 1282 244
0 0
77
Tr. CĐ Kỹ thuật Y tế II Đà Nẵng Tr. CĐ Dưuợc Hải Dư ơng Tr. CĐ Y tế Hà Nội Tr. CĐ Y tế Cần Thơ Tr. CĐ Y tế Bạc Liêu
77 0 0
725 45 825 116 161
725 45 825 116 161
725 45 902 116 161
18 19 20 21 22
102
23 24 25
Tr. CĐ Y tế Bình Dương Tr. CĐ Y tế Bình Thuận Tr. CĐ Y tế Đồng Nai
84 59 287
0 0 0
84 59 287
84 59 287
60
26 27 28 29
Tr. CĐ Y tế Hà Nam Tr. CĐ Y tế Hà Tĩnh Tr. CĐ Y tế Khánh Hòa Tr. CĐ Y tế Kiên Giang
95 287 578 198
0 60 0 0
95 347 578 198
95 287 578 198
30
Tr. CĐ Y tế Nghệ An
1304
65
65
1369
1304
189
78
33
189 0 0 0 111 0
31 32 33 34 35 36 37
634 571 208 640 1212 589 76
0
634 571 208 640 1212 589 76
Tr. CĐ Y tế Phú Thọ Tr. CĐ Y tế Quảng Ninh Tr. CĐ Y tế Thái Bình Tr. CĐ Y tế Thái Nguyên Tr. CĐ Y tế Thanh Hóa Tr. CĐ Y tế Huế Tr. CĐ Y tế Tiền Giang Tổng
823 571 208 640 1323 589 76 52612
363
3925 41903 30780 11123 10709
9927
782
Nguồn: Bộ Y tế (2010), Kỷ yếu hội thảo quốc gia về đào tạo nhân lực ngành y tế theo nhu cầu xã hội.
103
104