VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

__________________

VŨ MINH CHIẾN

ĐẤU THẦU THI CÔNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG

BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THEO PHÁP

LUẬT ĐẤU THẦU TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ QUẢNG YÊN,

TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI - năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

___________________

VŨ MINH CHIẾN

ĐẤU THẦU THI CÔNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG

BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THEO PHÁP

LUẬT ĐẤU THẦU TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ QUẢNG YÊN,

TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. HỒ NGỌC HIỂN

HÀ NỘI - năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các số liệu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có

nguồn trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của luận văn

không có sự trùng lặp với bất kỳ công trình nào đã công bố.

Hà Nội, tháng 06 năm 2019

Tác giả

Vũ Minh Chiến

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU THẦU VÀ PHÁP

LUẬT VỀ ĐẤU THẦU THI CÔNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG

BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC. .................................... 8

1.1 Khái niệm, đặc điểm của đấu thầu thi công công trình xây dựng

bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. ......................................................... 8

1.2. Ý nghĩa của đấu thầu thi công công trình xây dựng bằng nguồn vốn

ngân sách nhà nước. .................................................................................. 15

1.3. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về đấu thầu thi công công trình

xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. ....................................... 19

1.4. Nội dung của pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây dựng

bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước ........................................................ 23

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU THI CÔNG

CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN

SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN

THỊ XÃ QUẢNG YÊN, TỈNH QUẢNG NINH.......................................... 33

2.1. Thực trạng pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây dựng

bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước ........................................................ 33

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây

dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Thị xã Quảng Yên, tỉnh

Quảng Ninh ............................................................................................... 46

2.3 Đánh giá pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu thi

công công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước qua thực

tiễn Thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh ................................................. 51

Chương 3: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT VỀ ĐẤU THẦU THI CÔNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG

BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH TẠI THỊ XÃ QUẢN YÊN TÍNH

QUẢNG NINH............................................................................................... 66

3.1. Những định hướng cơ bản ................................................................. 66

3.2. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật đấu thầu, xây dựng và đầu tư

công ........................................................................................................... 69

3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đấu thầu thi công

các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách từ thực tiến thị xã

Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh ................................................................... 74

KẾT LUẬN .................................................................................................... 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 81

MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài

Quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời gian gần đây đã kéo theo những thay đổi

căn bản trong cơ chế vận hành của nền kinh tế trong đó có những thay đổi về

chính sách, pháp luật liên quan đến đầu tư công và xây dựng. Trong thời qua

cùng với sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách

nhà nước (đầu tư công) cho lĩnh vực xây dựng cơ bản tăng rất nhanh. Để đảm

bảo hiệu quả của việc sử dụng vốn nhà nước, tiết kiệm chi phí, chống thất

thoát trong xây dựng cơ bản, nâng cao chất lượng các công trình xây dựng,

đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị

trường thì pháp luật về đấu thầu xây dựng đóng vai trò quan trọng. Nếu trước

đây, chủ đầu tư và nhà thầu thực hiện việc giao nhận thầu theo chỉ tiêu của kế

hoạch nhà nước thì đến nay, các nhà thầu được lựa chọn thông qua đấu thầu

cạnh tranh, minh bạch, công khai, bình đẳng và trên cơ sở của pháp luật về

đấu thầu. Đây là sự thay đổi về chất trong công tác sử dụng vốn nhà nước

trong các công trình xây dựng và cả nền kinh tế nói chung.

Trong hoạt động xây dựng, hoạt động thi công xây lắp các công trình

đóng vai trò quyết định đến sự thành công của dự án đầu tư. Đây cũng là hoạt

động chiếm khối lượng công việc nhiều nhất, chi phí cao nhất và đáp ứng các

yêu cầu kỹ thuật cao nhất trong dự án đầu tư. Bên cạnh đó, sản phẩm của hoạt

động thi công xây dựng là sản phẩm được hình thành phụ thuộc vào nhiều yếu

tố khác nhau như vị trí công trình, điều kiện đất đai, thiên nhiên, nhiều hạng

mục khác nhau, thời gian thực hiện kéo dài, liên quan đến nhiều chủ thể khác

nhau như chủ đầu tư, tư vấn, thiết kế, thi công, giám sát, quản lý… Vì vậy,

đấu thầu thi công mang nhiều tính chất đặc thù so với đấu thầu hàng hóa

thông thường và đòi hỏi quy trình, thủ tục pháp lý khá phức tạp, chặt chẽ.

1

Bên cạnh đó, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, nhà nước là chủ đầu tư

quan trọng, thể hiện ở quy mô các dự án, số lượng vốn đấu tư cũng như tầm

quan trọng của các công trình xây dựng. Hoạt động đầu tư cho các công trình

xây dựng cơ bản được điều chỉnh bới pháp luật đầu tư công theo quy trình

chặt chẽ nhằm đảm bảo cho hiệu quả cao. Đây là lĩnh vực chiếm một phần rất

lớn trong chi ngân sách nhà nước, theo báo cáo của Bộ Tài chính, hàng năm

chỉ số mua sắm công trong đó có chi cho xây dựng cơ bản chiếm từ 19.26%

đến 21% chi cân đối ngân sách Trung ương.

Với tầm quan trọng như vậy, việc đấu thầu xây dựng các công trình

bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước trong những năm qua đã được hoàn thiện

theo hướng tiếp cận với thể chế kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. Đó là

sự ra đời của Luật Đấu thầu 2013, Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng…. Tuy

nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy, hoạt động đấu thầu các công trình xây

dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước ở nhiều nơi còn phát sinh nhiều

tiêu cực dẫn đến công trình xây dựng không đảm bảo chất lượng, thời gian thi

không đảm bảo tiến độ, các hành vi vi phạm trong lĩnh vực xây dựng ngày

càng nhiều để lại những hậu quả nghiêm trọng không chỉ liên quan tới việc

mất mát về tài sản, tính mạng con người mà còn ảnh hưởng đến cả vấn đề

chính trị xã hội. Nguyên nhân của tình trạng này nằm ở chỗ pháp luật về đấu

thầu, xây dựng và đầu tư công của Việt Nam vẫn còn tồn tại những bất cập,

việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này chưa nghiêm chỉnh. Từ đó, đặt ra

nhu cầu cần nghiên cứu đặc biệt là nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật ở

các địa phương nhằm tìm ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao

hiệu quả của công tác đấu thầu nói chung và đấu thầu thi công các công trình

xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước nói riêng. Đây là lý do, học

viên lựa chọn Đề tài luận văn: Đấu thầu thi công các công trình xây dựng

bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước theo pháp luật đấu thầu từ thực tiễn

thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh.

2

2.Tình hình nghiên cứu đề tài

Pháp luật về đấu thầu xây dựng không phải là vấn đề mới trong khoa

học pháp lý ở Việt Nam. Đã có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu viết về

vấn đề này ở các cấp độ, quy mô, phạm vi khác nhau.

- Báo cáo đánh giá tình hình giải quyết kiến nghị trong đấu thầu ở việt

nam và đề xuất giải pháp cải thiện tình hình của Học viện chính sách phát

triển- bộ Kế hoạch đầu tư phối hợp với Ngân hàng thế giới thực hiện năm

2018. Báo cáo này nhận định: Quá trình thực hiện Luật đấu thầu tuy cho thấy

các ưu việt nhưng cũng đang dần bộc lộ những thiếu sót cần phải được chỉnh

sửa, bổ sung. Thông tin trên báo chí cho biết, những vụ án, những sai phạm

liên quan đến hoạt động đấu thầu do việc cố tình vi phạm những quy định của

pháp luật về đấu thầu xuất hiện nhiều. Trong quá trình đấu thầu, những vấn đề

không đúng hoặc chưa đúng chưa được báo cáo, giải quyết thỏa đáng theo

những quy định của pháp luật. Cơ chế giải quyết kiến nghị trong đấu thầu

chưa phát huy được tác dụng và chưa phù hợp với cách thức vận hành theo

thông lệ của thế giới. Trên cơ sở đó, nghiên cứu này đã tiến hành nghiên cứu

về hiện trạng kiến nghị và giải quyết kiến nghị trong đấu thầu và trên cơ sở đó

để xuất cơ chế giải quyết và các giải pháp để thúc đẩy việc giải quyết kiến

nghị trong đấu thầu phù hợp với thông lệ quốc tế.

- Các công trình nghiên cứu về đấu thầu trong xây dựng: Trước hết

phải kể đến luận văn: Đấu thầu xây lắp trong lĩnh vực xây dựng theo pháp

luật Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Thu Hằng, bảo vệ năm 2004 tại Viện

Nhà nước và Pháp luật. Trong công trình này, tác giả đã làm rõ đặc thù của

đấu thầu xây lắp, phân tích bình luận các quy định của pháp luật Việt nam về

thủ tục, quy trình trong đấu thầu xây lắp và đề xuất một số giải pháp hoàn

thiện pháp luật về đấu thầu xây lắp ở Việt Nam.

3

- Luận văn thạc sĩ luật đề tài : Pháp luật Việt nam về đấu thầu xây

dựng, của Nguyễn Thành Nam, bảo vệ tại Khoa Luật Đại học quốc gia Hà

Nội năm 2004

Ngoài ra, luận văn tham khảo những công trình nghiên cứu về pháp luật

kinh tế, luật cạnh tranh, luật đầu tư công….đề xây dựng cơ sở lý luận cho đề

tài đó là các công trình: TS. Nguyễn Như Phát Tiến tới xây dựng pháp luật

cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt nam,

NXB Công an nhân dân năm 2001.TS. Lương Xuân, Cơ chế thị trường và vai

trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường Việt nam, NXB Thống kê, Hà

nội 2004; PGS. TS Trần Đình Hảo (2000), Nhà nước pháp quyền và kinh tế

thị trường ở Việt nam, Báo cáo khoa học tại hội thảo khoa học Nhà nước và

pháp quyền trong bối cảnh Việt nam do Viện Nhà nước và pháp luật tở chức

11/9/2000 tại Hà nội. Nguyễn Thị Xuân Thủy (2011), Báo cáo, Thực trạng

đấu thầu ở Việt Nam- Một số giải pháp nhằm hoàn thiện, Hà Nội. Văn phòng

Chính phủ, Tổng hợp ý kiến thành viên chính phủ về Luật Đấu thầu sửa đổi,

Hà Nội 2002.

Các công trình trên đã nghiên cứu pháp luật, thực tiễn của đấu thầu nói

chung, đấu thầu các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước

nói riêng ở các phương diện khác nhau. Kết quả của các công trình này là cơ

sở để tác giả sử dụng giải quyết các nhiệm vụ của luận văn. Tuy nhiên, hiện

nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về đấu thầu thi công các

công trình xây dựng ở một địa bàn cụ thể. Đây sẽ là nhiệm vụ bao quát của

luận văn này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài có mục đích làm rõ nền tảng lý luận pháp luật về đấu thầu xây

dựng, trên cơ sở đó phân tích thực trạng các qui định pháp luật hiện hành và

thực tiễn thi hành để tìm ra những bất cập, nguyên nhân của những bất cập

nhằm đưa ra các kiến nghị hoàn thiện lĩnh vực pháp luật và giái pháp tổ chức

4

thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đấu thầu thi công các công trình xây dựng

bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước cho thực tiễn thị xã Quảng Yên tỉnh

Quảng Ninh và cả nước.

Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau đây:

- Phân tích, luận giải để làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về đấu thầu

thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, nghiên

cứu bản chất, đặc điểm của lĩnh vực đấu thầu này.

- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về đấu thầu thi công xây dựng các

công trình bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước cũng như thực trạng thực thi

pháp luật trong lĩnh vực này trên địa bàn thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh

để chỉ ra , giải quyết những mâu thuẫn, bất cập trong thực tiễn áp dụng các

quy định đấu thầu trong thực tiễn.

- Kiến nghị hướng sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về đấu thầu ở Việt Nam

cho phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế và đề xuất một số giải pháp nhằm

nâng cao chất lượng đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn

vốn ngân sách trên địa bàn thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh và cả nước nói

chung.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận và thực tiễn về

đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà

nước của Việt Nam

Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ tập trung vào các khía cạnh pháp

lý, cơ sở lý luận, thực tiễn và nội dung pháp luật đấu thầu thi công xây dựng.

Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu này, luận văn đưa ra những đề xuất cụ thể

nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu thầu thi công các công trình xây

dựng bằng nguồn vốn ngân sách trên địa bàn thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng

Ninh và cả nước nói chung.

5

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Được sử dụng Luận văn, sử dụng phép biện chứng duy vật của triết học

Mác - Lênin làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Ngoài ra,

trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng một số phương pháp sau:

Trong quá trình tiếp cận và giải quyết những vấn đề mà luận văn đặt ra, luận

văn sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu phổ dụng trong khoa học

xã hội như: phương pháp thống kê, khảo sát; phương pháp so sánh, đối chiếu

pháp luật; phương pháp phân tích, tổng hợp… nhằm làm sáng tỏ những vấn

đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Thứ nhất: làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về đấu thầu thi công các

công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước và pháp luật về đấu

thầu. Các nội dung như khái niệm và đặc điểm của đấu thầu thi công, sự khác

nhau cơ bản giữa đấu thầu thi công trong xây dựng với đấu thầu khác, khái

niệm và phạm vi điều chỉnh của pháp luật về đấu thầu thi công các công trình

bằng nguồn vốn ngân sách, mối quan hệ giữa pháp luật về thi công xây dựng

các chế định pháp luật khác. Từ đó cho thấy vai trò của pháp luật trong việc

bảo đảm những mục tiêu cần đạt được trong đấu thầu thi công xây dựng

Thứ hai: Khái quát về sự phát triển của pháp luật Việt Nam trong thời

gian qua, đồng thời hệ thống hóa các quy định hiện hành để từ đó đưa ra bức

tranh toàn cảnh về pháp luật đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng

nguồn vốn ngân sách.

Thứ ba: Đối chiếu các quy định của pháp luật hiện hành với thực tiễn

để phân tích, đánh giá làm rõ ưu điểm và hạn chế của các quy định và hoạt

động thực thi pháp luật về đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng

nguồn vốn ngân sách.

Thứ tư: Nghiên cứu về lý luận cũng như thực trạng pháp luật, luận văn

tìm ra cơ sở cho việc tiếp tục xây dựng pháp luật về đấu thầu thi công các

6

công trình xây dựng ở Việt Nam và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả hoạt động đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn

ngân sách trên địa bàn thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh và cả nước

7. Kết cấu của luận văn

Chương 1: Những vấn đề lý luận về đấu thầu thi công các công trình

xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước và pháp luật về đấu thầu thi

công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây

dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước và thực tiễn áp dụng pháp luật đấu

thầu thi công công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Thị

xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh

Chương 3: Những định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu

thầu thi công công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước và

nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây dựng

bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh

7

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU THẦU VÀ PHÁP LUẬT VỀ

ĐẤU THẦU THI CÔNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG BẰNG

NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC.

1.1 Khái niệm, đặc điểm của đấu thầu thi công công trình xây dựng

bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.

1.1.1 Khái niệm đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng

nguồn vốn ngân sách nhà nước

Xây dựng là một lĩnh vực có vai trò quan trọng trong nền kinh tế cũng

như sự phát triển của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Ngành công nghiệp

xây dựng tạo ra cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế không chỉ đáp ứng nhu cầu

thiết yếu của con người và đặc biệt là đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã

hội của quốc gia. Việt Nam đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, cho nên ngành xây dựng càng ngày càng trở nên có vai trò to lớn trong

việc xây dựng đất nước. Trong bối cảnh, kinh tế thị trường, xây dựng trở

thành ngành sản xuất, kinh doanh và lĩnh vực xây dựng được điều chỉnh bởi

thể chế kinh tế thị trường. Trong thể chế đó, không thể thiếu hoạt động đấu

thầu điều chỉnh quan hệ giữa người mua và người bán. Trong đó đó bên mua

là các chủ đầu tư: họ mong muốn giống như người mua trong các hoạt động

thương mại thuần túy khác là khoản đầu tư mình bỏ ra là có lợi nhất, hàng hóa

mua được phải là hàng hóa có chất lượng tốt và giá cả có lợi nhất cho họ. Bên

bán ở đây chính là các nhà thầu thường là các doanh nghiệp, cá nhân kinh

doanh trong lĩnh vực xây dựng. Những người này hướng đến mục đích bán

được càng nhiều hàng hóa là các sản phẩm xây dựng càng nhiều, càng tốt với

giá có lợi nhất cho doanh nghiêp và mục tiêu của các nhà thầu tạo ra nhiều giá

trị khác nữa hay chính là việc thắng thầu trong nhiều gói thầu. Để đảm bảo

cho thị trường xây dựng phát triển lành mạnh vận hành theo đúng cơ chế thị

8

trường mà đặc trưng là cạnh tranh lành mạnh, tạo cơ hội cho người mua lựa

chọn được người bán phù hợp pháp luật đấu thầu ra đời

Đấu thầu là phương thức giao dịch đặc biệt, theo đó người muốn xây

dựng một công trình (người mời thầu) công bố trước các yêu cầu và điều kiện

xây dựng công trình để người nhận xây dựng công trình (người dự thầu) công

bố giá mà mình muốn nhận. Người mời thầu sẽ lựa chọn người chủ thầu nào

phù hợp với điều kiện của mình và có giá thấp hơn.

Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp

đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp;

lựa chọn nhà đầu tư để ký kết và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình

thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh

tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.

“Đấu thầu là tiến hành mua sắm hàng hóa, xây lắp và dịch vụ theo một

cách nào đó”. Theo luật thực định của Việt Nam thì “Đấu thầu là quá trình

lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu để thực hiện gói

thầu thuộc dự án quy định tại điều 1 của Luật này trên cơ sở đảm bảo tính

cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế”.

Như vậy, đấu thầu xét dưới phương diện kinh tế là một hình thức mua

bán hàng hóa chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường khi mà ở đó

sản xuất và trao đổi hàng hóa luôn ở trong tình trạng cung lớn hơn cầu. Khi

một chủ thể nào đó có nhu cầu mua sắm hàng hóa, sử dụng dịch vụ hoặc sản

phẩm xây lắp thì cũng là lúc rất nhiều chủ thể khác có khả năng đáp ứng nhu

cầu đó. Chính vì vậy, đấu thầu bị điều chỉnh bởi các quy luật của thị trường

như quy luật cạnh tranh , quy luật giá trị, tính công khai, minh bạch của thị

trường. bởi lẽ không có cạnh tranh thì không có đấu thầu và cũng không cần

đến đấu thầu. Có thể nói đấu thầu là phương thức giao dịch mua bán hàng hóa

đặc biệt. Thông thường trên thị trường mua bán hàng hóa hay xây dựng các

công trình dân sự hay công trình hạ tầng của nền kinh tế khi có nhiều người

9

cung cấp hàng hóa, dịch vụ, thì người ta thường áp dụng hoặc bắt buộc phải

áp dụng hình thức đấu thầu cạnh tranh công khai.

Xét dưới phương diện pháp lý, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong đó có

đấu thầu xây dựng các công trình hạ tầng là một quan hệ pháp luật mà chủ thể

là các thương nhân thực hiện việc đấu thầu nhằm mục đích lợi nhuận hoặc các

mục tiêu kinh tế, xã hội, đồng thời đối tượng có nó là hàng hóa, dịch vụ.

Quan hệ đấu thầu cũng làm phát sinh các quyền nghĩa vụ pháp lý của các chủ

thể được điều chỉnh bởi luật thương mại với tư cách là luật chung và các lĩnh

vực pháp luật chuyên ngành khác.

Đấu thầu có thể được nhìn nhận từ các phương diện khác nhau.

Thứ nhất: từ phương diện người bán hàng hóa (nhà thầu), đấu thầu

được coi như là cách bán hàng hóa, dịch vụ giúp cho nhà thầu có được những

dự án, công trình. Thực chất của đấu thầu là quá trình cạnh tranh với nhà thầu

khác về khả năng đáp ứng yêu cầu về chất lượng, tiến độ, chi phí, xây dựng

do bên mời thầu đặt ra. Bên cạnh đó, đấu thầu mở ra cơ hội quảng bá sản

phẩm, tiếp cận khách hàng, tìm hiểu nhu cầu của thị trường, hoàn thiện sản

phẩm, đánh giá năng lực cạnh tranh của mình…mới của nhà thầu.

Thứ hai: từ phương diện người mua hàng hóa (chủ đầu tư), đấu thầu là

cách mà người mua có cơ hội lựa chọn các nhà thầu cung cấp sản phẩm đáp

ứng tốt nhất các yêu cầu của mình. Các nhà thầu khi tham gia đấu thầu đều

mong muốn trúng thầu vì vậy họ cạnh tranh với nhau về chất lượng lẫn giá cả.

Chính sự cạnh tranh này làm cho bên mời thầu lựa chọn được những sản

phẩm hợp lý nhất xét từ góc độ mối quan hệ giá cả - chất lượng.

Thứ ba: Đối với nhà nước, đấu thầu là phương thức quản lý các hoạt

động đầu tư, mua sắm, xây dựng thông qua việc ủy quyền cho các chủ đầu tư

theo chế độ công khai tuyển chọn nhà thầu

Như trên đã nói, hoạt động xây dựng xét dưới góc độ thương mại là

việc cung cấp cho xã hội sản phẩm đặc thù đó là các công trình xây dựng.

10

Công trình xây dựng là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con

người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết định vị

với đất, có thể bao gồm phần dưới mặt đất, phần trên mặt đất, phần dưới mặt

nước và phần trên mặt nước, được xây dựng theo thiết kế. Công trình xây

dựng bao gồm công trình dân dụng, công trình công nghiệp, giao thông, nông

nghiệp và phát triển nông thôn, công trình hạ tầng kỹ thuật và công trình

khác. Nhu cầu có các công trình xây dựng đến từ các chủ thể khác nhau, trong

đó, nhà nước tham gia vào quan hệ đấu thầu với tư cách là bên mua hàng hóa

(chủ đầu tư) là khá phổ biến. Từ đó, xuất hiện quan hệ trong việc đấu thầu các

công trình xây dựng mà ở đó nhà nước là chủ đầu tư với nguồn ngân sách nhà

nước muốn có các công trình xây dựng và bên kia là các nhà thầu bao gồm tư

vấn, thiết kế, cung cấp thiết bị và thi công các công trình xây dựng luôn có

nhu cầu bán các sản phẩm là các công trình trình xây dựng. Quan hệ này có

những đặc điểm riêng so với quan hệ đấu thầu đối với hàng hóa thông thường

và do đó, cần có các quy phạm phạm pháp luật điều chỉnh đặc thù.Khái niệm

đầu tư xây dựng cơ bản: Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư nhằm

tạo ra các công trình xây dựng theo mục đích của người đầu tư, là lĩnh vực

sản xuất vật chất tạo ra các tài sản cố định và tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật

cho xã hội. Đầu tư xây dựng cơ bản là một hoạt động kinh tế.

Đầu tư xây dựng cơ bản được hình thành từ các nguồn vốn khác nhau

trong đó quan trọng là nguồn vốn ngân sách nhà nước bao gồm:

Ngân sách nhà nước cấp phát. Vốn của các doanh nghiệp nhà nước có

nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, bao gồm vốn từ khấu hao cơ bản để lại, từ

lợi nhuận sau thuế, từ đất đai, nhà xưởng còn chưa sử dụng đến... được huy

động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh; vốn góp của nhà nước trong liên

doanh, liên kết với các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài. Vốn tín

dụng đầu tư phát triển của nhà nước mà Chính phủ cho vay theo lãi suất ưu

đãi bằng nguồn vốn tự có hoặc nhà nước đi vay để cho vay lại đầu tư vào các

11

dự án thuộc lĩnh vực được ưu tiên trong kế hoạch nhà nước đối với một số

doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Vốn vay nợ, viện trợ từ bên ngoài

của Chính phủ thông qua kênh hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Trên thực tế,

một phần vốn này sẽ đưa vào ngân sách đầu tư, còn phần ODA cho các doanh

nghiệp vay lại thì đưa vào nguồn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.

Trong đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước, vốn là vốn của nhà nước

mà không phải là của tư nhân, do vậy rất khó quản lý sử dụng, dễ xảy ra thất

thoát, lãng phí, tham nhũng. Ở đây quyền sở hữu về vốn không trùng hợp với

quyền sử dụng và quản lý vì thế trách nhiệm quản lý vốn không cao. Động lực

cá nhân đối với việc sử dụng hiệu quả đồng vốn không rõ ràng, mạnh mẽ như

nguồn vốn tư nhân. Vì vậy việc quản lý hiệu quả vốn trong đầu tư xây dựng

cơ bản ( ĐTXDCB ) của nhà nước rất khó khăn, phức tạp. Về lĩnh vực đầu

tư, đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước thường nhằm vào lĩnh vực ít được

thương mại hoá, không thu hồi vốn ngay, ít có tính cạnh tranh. Về mục tiêu

đầu tư, ĐTXDCB của nhà nước thường ít nhắm tới mục tiêu lợi nhuận trực

tiếp. Nó phục vụ lợi ích của cả nền kinh tế, trong khi ĐTXDCB của tư nhân

và đầu tư nước ngoài thường đề cao lợi nhuận. Về môi trường đầu tư,

ĐTXDCB của nhà nước thường diễn ra trong môi trường thiếu vắng sự cạnh

tranh. Và nếu có sự cạnh tranh thì cũng ít khốc liệt hơn khu vực đầu tư khác.

Phạm vi đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước: Nhìn trong tổng thể

việc đầu tư của toàn xã hội, mỗi một nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử

nhất định phải tự định đoạt cho mình phạm vi ĐTXDCB để đạt được mục tiêu

mà nhà nước ấy đặt ra. Nhà nước phải quyết định ĐTXDCB ở đâu, công trình

nào, nhằm mục đích gì, để giải quyết những vấn đề gì. Nhà nước cũng phải

xác định rõ ràng phạm vi nào dành cho các nguồn đầu tư khác ngoài đầu tư

xây dựng cơ bản của nhà nước, quyết định các chính sách ưu tiên ưu đãi, thuế

khoá để khuyến khích, điều tiết vĩ mô về đầu tư xây dựng cơ bản.

12

Nhìn chung nhà nước chỉ nên đầu tư vào những nơi có sự thất bại của

thị trường, khi mà khu vực vốn khác không thể đầu tư, không muốn đầu tư và

không được phép đầu tư, khi nhà nước cần giải quyết các vấn đề xã hội, văn

hoá, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng. Việc đầu tư theo vùng miền và theo

các ngành kinh tế cũng phải được nhà nước tính đến. Việc định đoạt phạm vi

ĐTXDCB của nhà nước khác biệt với việc xác định phạm vi đầu tư của khu

vực tư nhân ở chỗ nhà nước phải giữ vai trò điều tiết, khắc phục thất bại thị

trường, giải quyết vấn đề kinh tế xã hội cùng với việc tính toán lợi ích chung.

Trong lúc đó khu vực đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài nhìn chung chỉ chú

trọng đến lợi ích kinh tế.

Từ các phân tích trên có thể đưa ra khái niệm Đấu thầu xây dựng các

công trình xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước là quá trình mà chủ đầu tư là

có sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước lựa chọn các nhà thầu hoặc một nhóm

nhà thầu (liên danh) đáp ứng được tốt nhất các yêu cầu do bên mời thầu đặt ra

để xây dựng các công trình xây dựng

1.1.2 Đặc điểm đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng

nguồn vốn ngân sách nhà nước.

Ngoài những đặc điểm chung của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ nói

chung, đấu thầu xây dựng các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách

nhà nước còn có những đặc thù sau đây:

Thứ nhất, đấu thầu trong xây dựng các công trình từ nguồn vốn ngân

sách nhà nước mang tính phức hợp. thể hiện ở tính đa dạng của sản phẩm xây

dựng. sản phẩm xây dựng có các loại và cấp công trình với công năng, diện

tích sử dụng, quy mô của các công trình… rất khác nhau. Do đó, quá trình tạo

lập các sản phẩm này phải tuân thủ các quy chuẩn, tiêu chuẩn nhất định. Bên

cạnh đó, hoạt động xây dựng gắn liền với với gói thầu của dự án, được phân

chia theo những tiêu chí nhất định về tiêu chuẩn kỹ thuật, sự đồng bộ, thời

gian thực hiện. Do đó, một dự án xây dựng có thể có một hoặc nhiều gói thầu.

Tính phức tạp của đấu thầu các công trình xây dựng còn bị chi phối bởi các

13

yếu tố chi phí cấu thành giá trị sản phẩm xây dựng. Chí phí này phụ thuộc

nhiều vào giá cả vật liệu, chi phí nhân công, trình độ công nhân. Tính phức

tạp của đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng vốn ngân sách nhà

nước còn thể hiện bởi sự tham gia của nhiều nhà thầu. Bởi lẽ, đấu thầu là

phương thức giúp chủ đầu tư lựa chọn nhà thầu thi công bằng các gói thầu

khác nhau nên nhiều chủ thể tham gia đấu thầu sẽ tạo ra sự cạnh tranh lớn,

thông qua đó, chủ đầu tư lựa chọn được bên thi công tốt nhất.

Thứ hai, tiêu chí lựa chọn nhà thầu trong các công trình xây dựng khác

với tiêu chí đấu thầu mua bán hàng hóa thông thường bởi lẽ, các sản phẩm

xây dựng mà chủ đầu tư đưa ra chỉ là bản vẽ, hồ sơ tài liệu. Nhà thầu trong

hoạt động xây dựng là đơn vị tổ chức có trách nhiệm hiện thực hóa công

trình, dự án từ bản vẽ thiết kế. Do đó, đòi hỏi họ phải có đủ năng lực hoạt

động xây dựng, năng lực hành nghề xây dựng khi tham gia quan hệ hợp đồng

trong hoạt động xây dựng, nếu không thì hậu quả thực sự rất khôn lường. Có

rất nhiều tiêu chí được đưa ra khi lựa chọn nhà thầu thi công công trình.

Chính vì vậy tiêu chí mà chủ đầu tư lựa chọn đối với nhà thầu trong xây dựng

là: biện pháp thi công, tiến độ thi công, quản lý giá cả vật tư, xây dựng là

những tiêu chí có tính chất quyết định.

Thứ ba, Theo quy định của Luật Đấu thầu hiện hành, Dự án đầu tư phát

triển sử dụng vốn nhà nước của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức

chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề

nghiệp, tổ chức xã hội, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự

nghiệp công lập; Vốn Nhà nước bao gồm vốn ngân sách Nhà nước, công trái

quốc gia, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, vốn hỗ trợ

phát triển chính thức, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ; vốn từ quỹ phát triển

hoạt động sự nghiệp, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn tín

dụng do Chính phủ bảo lãnh, vốn vay được bảo đảm bằng tài sản của Nhà

nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước; giá trị quyền sử dụng

đất. Chính vì vậy, các gói thầu xây dựng các công trình có vốn từ ngân sách

14

nhà nước là những gói thầu có giá trị lớn. Từ đó dẫn đến các hình thức đấu

thầu trong xây dựng cũng khác nhau. Đối với những gói thầu không yêu cầu

về yếu tố kỹ thuật cao, hầu hết các doanh nghiệp hoạt động ở lĩnh vực nhất

định đều có thể đáp ứng được yêu cầu của gói thầu thì quy trình đấu thầu sẽ

thực hiện theo hình thức đấu thầu rộng rãi. Đối với những gói thấu có yêu cầu

kỹ thuật cao, biện pháp tổ chức thi công phức tạp hoặc xây dựng những công

trình chuyên ngành mà chỉ có một số nhà thầu mới có khả năng đáp ứng thì

việc lựa chọn nhà thầu sẽ thực hiện theo hình thức đấu thầu hạn chế.

Thứ tư, quá trình tổ chức đấu thầu các công trình xây dựng có vốn đầu

tư nhà nước có thời gian thực hiện kéo dài hơn so với đấu thầu mua bán hàng

hóa từ khâu mời thầu, chuẩn bị hồ sơ dự thầu đến khâu đánh giá hồ sơ dự

thầu. Hồ sơ mời thầu trong trường hợp này bao gồm nhiều chỉ dẫn cụ thể, đặc

biệt gồm cả hồ sơ bản vẽ thiết kế, tiên lượng dự toán và các công việc này đòi

hỏi nhiều thời gian chuẩn bị. Ngoài ra, tiêu chuẩn đánh giá cũng bao gồm các

tiêu chí rất phức tạp cần cụ thể và có tính định lượng cao để đảm bảo cho việc

đánh giá chính xác, nhất là các tiêu chí về biện pháp thi công, tiến độ, tài

chính thương thương mại.

Thứ năm, vì chủ đầu tư (bên mời thầu) là các cơ quan, tổ chức có sử

dụng vốn ngân sách nhà nước nên các gói thầu xây dựng có nguồn gốc từ

ngân sách nhà nước luôn có sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền

như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Chính phủ, các cơ quan quản lý

nhà nước các cấp thanh tra chuyên ngành. Điều này đảm bảo cho việc sử dụng

ngân sách nhà nước tiết kiệm, hiệu quả tránh thất thoát.

1.2. Ý nghĩa của đấu thầu thi công công trình xây dựng bằng nguồn

vốn ngân sách nhà nước.

Đấu thầu trong thi công các công trình xây dựng là khâu qua trọng để

thực hiện dự án xây dựng. Thậm chí, nó còn quyết định sự thành công hay

thất bại của dự án ở tất cả các khía cạnh kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng.

Mục tiêu của dự án xây dựng công tình bằng ngân sách nhà nước chỉ đạt được

15

khi mà thời gian thi công dự án đúng tiến độ dự kiến, các công trình xây dựng

có chất lượng cao với chi phí thấp nhất. Điều này phụ thuộc vào lực của nhà

thầu được lựa chọn. Việc lựa chọn nhà thầu có năng lực lại phụ thuộc vào

công tác đấu thầu. Ý nghĩa của đấu thầu thi công các công trình sử dụng vốn

ngân sách nhà nước thể hiện ở các khía cạnh cụ thể sau đây:

Một là, đối với chủ đầu tư, đấu thầu giúp chủ đầu tư lựa chọn được nhà

thầu đủ điều kiện, năng lực thi công trình, đưa công trình xây dựng vào sử

dụng đúng với tiến độ, với chi phí đầu tư hợp lý. Dưới góc độ kinh tế, tính

hiệu quả trong quá trình xây dựng được thể hiện ở việc chủ đầu tư lựa chọn

được nhà thầu thi công với chi phí thấp. Thực tế tỷ lệ tiết kiệm do sử dụng

đấu thầu thông thường đạt được từ 10 đến 15% so với giá gói thầu. Bởi lẽ,

các nhà thầu khi tham gia đấu thi công đều mong muốn trúng thầu vì vậy họ

cạnh tranh với nhau về chất lượng lẫn giá cả. Chính sự cạnh tranh này làm

cho bên mời thầu lựa chọn được những sản phẩm hợp lý nhất xét từ góc độ

mối quan hệ giá cả, chất lượng của kinh tế thị trường.

Bên cạnh đó công tác đấu thầu trong thi công còn giúp chủ đầu tư kiểm

soát được chất lượng, tiến độ và chi phí trong quá trình thi công công trình

xây dựng; đồng thời hạn chế được rủi ro do việc đấu thầu được thực hiện theo

một quy trình chặt chẽ và nghiêm ngặt từ khâu lập, thẩm định, phê duyệt, kế

hoạch đấu thầu, dự toán gói thầu, hồ sơ thiết kế, kết quả lựa chọn nhà thầu

đến việc ký kết hợp đồng với nhà thầu. Công tác này giúp cho chủ đầu tư hạn

chế được tiêu cực có thể phát sinh trong nội bộ chủ đầu tư và giúp họ có được

giải pháp thi công, giải pháp tài chính phù hợp. Hơn nữa, trong quá trình thi

công, chủ đầu tư được linh hoạt trong việc hoàn thiện hồ sơ tài liệu thiết kế,

dự toán trên cơ sở đề nghị của nhà thầu.

Hai là, dưới góc độ người bán (các nhà thầu xây dựng), khi tham gia

đấu thầu nhà thầu dành được quyền thi công công trình xây dựng, có được lợi

nhuận đảm bảo cho việc phát triển của doanh nghiệp. Đấu thầu, đặc biệt là

16

đấu thầu rộng rãi thi công các công trình xây dựng tạo ra sân chơi bình đẳng

cho các nhà thầu xây dựng, thông qua việc tham gia đấu thầu, các nhà thầu

tạo dựng được uy tín, thương hiệu của mình. Tiếp cận với khách hàng mới.

Với việc tham gia đấu thầu thì nhà thầu có cơ hội gặp gỡ với khách hàng mới

để tìm hiểu nhu cầu mua sắm, đây là yếu tố quan trọng trong hoạt động

nghiên cứu thị trường của nhà thầu.

Tiếp cận với đối thủ cạnh tranh. Một cuộc đấu thầu có thể có rất nhiều

nhà thầu tham gia và bên cạnh đó, các điều kiện dự thầu của các nhà thầu này

lại được thông báo công khai. Như vậy đấu thầu đã tạo ra cơ hội cho các nhà

thầu gặp gỡ nhau, tìm hiểu điểm mạnh và hạn chế của những đối thủ cạnh

tranh để hoàn thiện mình và tìm kiếm cơ hội hợp tác.

Tiếp cận với những quy định về đấu thầu của các cơ quan quản lý nhà

nước và các tổ chức quản lý vốn khác. Đấu thầu là hoạt động mua bán theo

những quy định mang tính pháp luật, vì vậy khi tham gia đấu thầu các nhà

thầu phải tìm hiểu nắm vững các quy định này.

Hoàn thiện sản phẩm. Đứng trước yêu cầu của bên mời thầu về dịch

vụ, công trình hay hàng hóa thì nhà thầu sẽ xác định xem sản phẩm của mình

có đáp ứng được hay không. Qua những lần không trúng thầu nhà thầu sẽ tìm

được nguyên nhân thất bại để từ đó hoàn thiện sản phẩm về chất lượng, giá

cả, dịch vụ bán hàng..

Ba là, đối với nhà nước, Đấu thầu là một công cụ quan trọng giúp các

chính phủ quản lý chi tiêu, sử dụng các nguồn vốn của Nhà nước sao cho có

hiệu quả và chống thất thoát, lãng phí. Đó là những khoản tiền được chi dùng

cho đầu tư phát triển mà có sự tham gia của các tổ chức nhà nước, doanh

nghiệp nhà nước ở một mức độ nào đó, cũng như cho mục tiêu duy trì các

hoạt động của bộ máy Nhà nước.

Đấu thầu thúc đẩy chuyển giao công nghệ, chia sẻ kiến thức, kinh

nghiệm giữa các quốc gia, các tổ chức phát triển với các quốc gia đang phát

17

triển. Hoạt động đấu thầu không chỉ diễn ra trong phạm vi hẹp mà được diễn

ra trên toàn thế giới. Các nhà thầu danh tiếng trên thế giới, họ là những người

sẵn sàng và có khả năng tham gia vào tất cả các hoạt động của các quốc gia,

thông qua đó họ sẵn sàng chuyển giao công nghệ, chia sẻ kiến thức, kinh

nghiệm.

Đấu thầu giúp Nhà nước có điều kiện xem xét, quản lý và đánh giá một

cách minh bạch các khoản chi tiêu do quá trình đấu thầu phải tuân thủ các quy

trình chặt chẽ với sự tham gia của nhiều bên. Tạo điều kiện để thúc đẩy tiến trình

đổi mới nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp, cơ chế “xin”, “cho” sang cơ chế

cạnh tranh. Thực hiện dân chủ hóa nền kinh tế, khắc phục những nhược điểm

của những thủ tục hành chính nặng nề cản trở sự năng động, sáng tạo.

Đấu thầu là một công cụ quan trọng giúp các chính phủ quản lý chi

tiêu, sử dụng các nguồn vốn của Nhà nước sao cho có hiệu quả và chống thất

thoát, lãng phí. Đó là những khoản tiền được chi dùng cho đầu tư phát triển

mà có sự tham gia của các tổ chức nhà nước, doanh nghiệp có cổ phần, vốn

góp của nhà nước ở một mức độ nào đó, cũng như cho mục tiêu duy trì các

hoạt động của bộ máy Nhà nước. Việc chi tiêu, sử dụng tiền của Nhà nước

thông qua đấu thầu sẽ giúp các cơ quan quản lý có điều kiện xem xét, quản lý

và đánh giá một cách minh bạch các khoản chi tiêu do quá trình đấu thầu phải

tuân thủ các quy trình chặt chẽ với sự tham gia của nhiều bên; tạo điều kiện

để thúc đẩy tiến trình đổi mới nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp, cơ chế

“xin”, “cho”sang cơ chế cạnh tranh; thực hiện dân chủ hóa nền kinh tế, khắc

phục những nhược điểm của những thủ tục hành chính nặng nề cản trở sự

năng động, sáng tạo.

Pháp luật về đấu thầu đang cùng với các quy định về thực hành tiết

kiệm chống lãng phí, pháp luật về phòng, chống tham nhũng tạo thành chuỗi

công cụ hữu hiệu để chống lại các hành vi gian lận, tham nhũng và lãng phí

18

trong việc chi tiêu các nguồn tiền của Nhà nước, góp phần làm lành mạnh hóa

các quan hệ xã hội.

1.3. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về đấu thầu thi công công

trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.

Hoạt động đấu thầu thi công các công trình xây dựng có nguồn vốn

ngân sách nhà nước làm phát sinh các quan hệ xã hội giữa các chủ thể khác

nhau. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đấu thầu thi

công các công trình xây dựng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cần có hệ

thống bao gồm tập hợp các quy phạm pháp luật để điều chỉnh nhằm đảm bảo

cho hoạt động này được hiện một cách có trật tự, đạt được mục đích đề ra là

nhà nước và xã hội có những công trình xây dựng đạt chất lượng cao, bền

vững, chi phí rẻ. Như vậy, pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây

dựng có nguồn vốn ngân sách nhà nước là hệ thống các quy phạm pháp luật

điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đấu thầu thi công các

công trình xây dựng có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.

Mỗi lĩnh vực pháp luật đều có đối tượng điều chỉnh và phương pháp

điều chỉnh riêng. Việc xác định rõ đối tượng điều chỉnh sẽ là tiền đề cơ bản

cho sự hình thành và phát triển của từng lĩnh vực pháp luật, xác định phương

hướng, giải pháp hoàn thiện phù hợp với yêu cầu của từng lĩnh vực pháp luật

và cũng để phân biệt lĩnh vực pháp luật này với lĩnh vực pháp luật khác. Lĩnh

vực pháp luật về đấu thầu thi công các công trình có nguồn vốn từ ngân sách

nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các chủ thể

thực hiện việc đấu thầu này. Bao gồm các quan hệ sau đây:

Thứ nhất, nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa các cơ quan nhà nước có

liên quan với chủ thể có nhu cầu xây dựng các công trình bằng nguồn vốn

ngân sách nhà nước. Trong việc thực hiện các thủ tục đấu thầu thi công. Đây

là nhóm quan hệ theo “chiều dọc”, thể hiện bản chất là quan hệ quản lý giữa

chủ thể có nhu cầu đầu tư các công trình xây dựng bằng vốn ngân sách nhà

19

nước với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện thủ

tục đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà

nước. Theo Luật đầu tư công năm 2014 thì: Cơ quan chuyên môn quản lý

đầu tư công là đơn vị có chức năng quản lý đầu tư công thuộc Bộ Kế hoạch và

Đầu tư; đơn vị được giao quản lý đầu tư công của bộ, cơ quan trung ương,

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan, tổ chức

khác được giao kế hoạch đầu tư công; Sở Kế hoạch và Đầu tư; phòng, ban có

chức năng quản lý đầu tư công thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã.

Xét về bản chất, nhóm quan hệ xã hội này được xác lập giữa chủ thể có

nhu cầu đầu tư xây dựng các công trình bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước

với các cơ quan nhà nước khác (chủ thể có thẩm quyền) nhằm thực hiện các

thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật trong quá trình tổ chức đấu

thầu thi công. Trên nguyên tắc, các chủ thể tham gia vào nhóm quan hệ xã hội

này bao gồm: cơ quan được giao ngân sách nhà nước để xây dựng các công

trình phục vụ mục đích công cộng (là cơ quan có trách nhiệm lập kế hoạch

xây dựng, tổ chức lựa chọn bên thi công thông qua phương thức đấu thầu, ký

kết hợp đồng thi công công trình với bên thi công và tổ chức thực hiện hợp

đồng); cơ quan phê duyệt kế hoạch xây dựng, thi công (thường là cơ quan chủ

quản của chủ thể có nhu cầu xây dựng); cơ quan thẩm định kết quả của từng

giai đoạn thi công và cuối cùng là cơ quan kiểm soát quá trình thi công. Trong

quá trình đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân

sách , quan hệ phát sinh giữa các cơ quan nhà nước chủ yếu mang tính chất

chấp hành, điều hành, do đó các quy định pháp luật điều chỉnh những quan hệ

này mang tính chất quyền uy, mệnh lệnh hành chính .

Thứ hai, nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa chủ thể có nhu cầu xây

dựng các công trình bằng nguồn vốn ngân sách (gọi là bên mời thầu) với chủ

thể là các nhà thầu có đủ tiêu chuẩn tham gia đấu thầu thi công. Đây là nhóm

quan hệ theo “chiều ngang”, thể hiện bản chất là quan hệ giao dịch dân sự,

20

thương mại bình đẳng giữa các bên tham gia trên cơ sở thỏa thuận và tuân thủ

đúng các quy định chung của pháp luật về đấu thầu xây dựng.

Nhóm quan hệ này phát sinh khi bên mời thầu đưa ra các yêu cầu và

nhà thầu tiến hành nộp hồ sơ đăng ký dự thầu hoặc hồ sơ dự thầu thể hiện

việc đáp ứng yêu cầu đó. Khi một nhà thầu hoặc một nhóm nhà thầu được xác

định là trúng thầu thì khi đó các bên sẽ xác lập quan hệ hợp đồng thi công,

theo các tiêu chuẩn, điều kiện và giá cả đã xác định khi trúng thầu. Về nguyên

tắc, nhóm quan hệ xã hội này sẽ được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật

mang tính dân sự, thương mại, thể hiện nguyên tắc công bằng, bình đẳng,

tránh sự lạm quyền một cách tối đa từ phía nhà nước.

Thứ ba, nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa các nhà thầu thi công với

các cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng. Quan hệ này phát sinh trong quá

trình thực hiện việc đấu thầu thi công, theo đó, những người tham gia đấu

thầu thi công, giao kết, thực hiện hợp đồng thi công các công trình xây dựng

bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước phải đảm bảo các tiêu chuẩn, điều kiện

theo quy định của pháp luật về xây dựng. Ví dụ: theo quy định của pháp luật

xây dựng, khi tham gia dự thầu, các bên dự thầu công trình xây dựng cơ bản

thường phải đáp ứng những yêu cầu như: yêu cầu về năng lực kĩ thuật, yêu

cầu về tài chính và yêu cầu về kinh nghiệm. Đối với gói thầu xây dựng cơ bản

tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự tuyển còn phải phù hợp với yêu cầu về điều kiện

năng lực đối với từng loại, cấp công trình xây dựng theo quy định của luật

xây dựng. Sau khi được lựa chọn nhà thầu còn phải kí kết hợp đồng để đảm

bảo tính pháp lý cho hoạt động đấu thầu cũng như cho quá trình xây dựng

diễn ra sau này. Trong quá trình đấu thầu, chủ đầu tư, cơ quan có thẩm quyền

phải thẩm tra là việc kiểm tra, đánh giá về chuyên môn của tổ chức, cá nhân

có đủ điều kiện năng lực hoạt động xây dựng, năng lực hành nghề xây dựng

đối với những nội dung cần thiết trong quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án

đầu tư xây dựng làm cơ sở cho công tác thẩm định.

21

Thứ tư, nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa các nhà thầu với nhau khi

tham gia quan hệ đấu thầu thi công các công các công trình xây dựng bằng

vốn ngân sách nhà nước. Đây không phải là nhóm quan hệ chủ yếu, điển hình

nhưng cũng có sự tác động nhất định đến sự thành công của quan hệ đấu thầu

thi công, bởi lẽ nếu các nhà thầu không tuân thủ đúng các nguyên tắc cạnh

tranh công bằng trong đấu thầu mà “bắt tay”với nhau khi tham gia đấu thầu

thì hậu quả xảy ra là mục tiêu chính của việc đấu thầu sẽ không đạt được và

bên mời thầu có thể sẽ không chọn được nhà thầu có phương án thi công tốt

nhất như mình mong muốn để tiến tới việc ký kết và thực hiện hợp đồng thi

công.

Đối tượng đưa ra đấu thầu ở đây là công việc thi công các công trình

xây dựng, do đó khi đấu thầu thi công công trình xây dựng còn được điều

chỉnh bằng các văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng. Về chủ thể áp dụng

là các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước; tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt

động đầu tư xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam. Nội dung điều chỉnh, pháp luật

về xây dựng quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức,

cá nhân và quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư xây dựng.

Bao trùm lên lĩnh vực này đó chính là các văn bản quy phạm pháp luật,

các án lệ, tập quán về đấu thầu. Quan trọng nhất là Luật đấu thầu và các văn

bản hướng dẫn thi hành trong đó, các quy phạm pháp luật điều chỉnh quản lý

nhà nước về đấu thầu; trách nhiệm của các bên có liên quan và các hoạt động

đấu thầu; lựa chọn nhà thầu, nguyên tắc đấu thầu, quy trình, thủ tục thực hiện

việc đấu thầu… Những quy định về chủ thể; lựa chọn hình thức đấu thầu;

trình tự, thủ tục đấu thầu; lựa chọn nhà thầu và ký kết hợp đồng; quyền và

nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đấu thầu; và xử lý vi phạm.

Như vậy, lĩnh vực pháp luật liên quan đến đấu thầu thi công các công

trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước là rất rộng bao gồm các

lĩnh vực pháp luật khác nhau và có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong pháp

22

luật đấu thầu là luật chung, pháp luật về xây dựng, đầu tư công là luật riêng

(luật chuyên ngành). Trong quá trình áp dụng nguyên tắc luật chung, luật

riêng được tuân thủ. Điều 3, Khoản 1, Luật Đấu thầu năm 2013 quy định:

“Trường hợp có đặc thù về đấu thầu quy định ở Luật khác thì áp dụng theo

quy định của Luật đó”. Điều này có nghĩa là luật đấu thầu được coi là luật

chung, điều chỉnh những vấn đề cơ bản nhất về đấu thầu, làm cơ sở cho các

luật chuyên ngành khác có liên quan đến hoạt động này. Do đó, đấu thầu thi

công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước trước hết

phải tuân theo pháp luật luật đấu thầu. Tuy nhiên đây lại là hoạt động đấu

thầu trong lĩnh vực cụ thể nên nhất thiết phải chịu sự điều chỉnh đồng thời của

luật xây dựng. Những nguyên tắc chung, thống nhất của luật đấu thầu sẽ được

áp dụng cùng với luật xây dựng để hoạt động này có thể diễn ra trên thực tế

mà không gặp phải những vướng mắc hay chồng chéo trong sự điều chỉnh của

pháp luật.

1.4. Nội dung của pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây

dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước

1.4.1 Các nguyên tắc về đấu thầu thi công các công trình xây dựng

bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước

Nguyên tắc pháp lí là tư tưởng chỉ đạo để xây dựng hệ thống pháp luật

một cách thống nhất, đồng bộ . Các nguyên tắc về đấu thầu thi công các công

trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước là những quan điểm và tư

tưởng xuất phát điểm, mang tính chủ đạo, xuất phát từ đòi hỏi khách quan của

sự phát triển xã hội, có khả năng chỉ đạo hoạt động xây dựng và hoàn thiện

pháp luật về đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân

sách nhà nước, có ý nghĩa “dẫn dắt” thực tiễn, làm kim chỉ nam cho các hoạt

động của các chủ thể trong quá trình đấu thầu thi công các công trình bằng

nguồn vốn ngân sách nhà nước. Những nguyên tắc này thể hiện quan điểm

của Nhà nước về kinh tế thị trường nói chung, về đấu thầu, đầu tư công và

23

lĩnh vực xây dựng nói riêng đồng thời nó thể hiện vai trò quản của nhà nước

trong lĩnh vực này. Các nguyên tắc chỉ đạo đấu thầu thi công các công trình

bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước có thể chia thành ba nhóm: các nguyên

tắc về đấu thầu nói chung, các nguyên tắc của lĩnh vực xây dựng và lĩnh vực

đầu tư công.

1.4.1.1 Các nguyên tắc về đấu thầu

Các nguyên tắc về đấu thầu là tư tưởng chỉ đạo được rút ra từ các quy

định pháp luật về đấu thầu do tổ chức có thẩm quyền ban hành, trên bình diện

nào đó buộc các bên tham gia đấu thầu phải tuân theo. Các hoạt động đấu

thầu nói chung trong đó có hoạt động đấu thầu thi công các công trình bằng

nguồn vốn ngân sách nhà nước phải được thực hiện dựa trên các nguyên tắc

sau đây:

- Nguyên tắc hiệu quả: Các gói thầu liên quan đến thi công các công

trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước được thực hiện trên cơ sở

tính toán kỹ lưỡng về hiệu quả kinh tế của việc đấu thầu mang lại. Nguyên tắc

này đòi hỏi, bên chủ đầu tư chỉ tổ chức việc đấu thầu khi họ chứng minh được

ưu thế hiệu quả kinh tế của việc đấu thầu so với không thực hiện đấu thầu. Để

làm việc này, chủ đầu tư phải tính toán chi phí trong lựa chọn nhà thầu bao

gồm: Chi phí liên quan đến việc chuẩn bị hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển,

hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất và tham dự thầu thuộc trách nhiệm của nhà thầu;

chi phí liên quan đến quá trình lựa chọn nhà thầu được xác định trong tổng

mức đầu tư hoặc dự toán thi công và các chi phí khác. Hơn nữa, mục đích của

đấu thầu chính là chọn được nhà thầu tốt nhất có đủ năng lực cung cấp hàng

hóa, dịch vụ tốt nhất với giá cả hợp lý. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi không

được lợi dụng việc đấu thầu để thu lợi bất chính cơ quan, tổ chức, cá nhân có

liên quan gây tốn kém, lãng phí cho các bên tham gia đấu thầu. việc phân chia

các gói thầu, lựa chọn các hình thức đấu thầu…cần tính toán hiệu quả kinh tế

mà đấu thầu đem lại.

24

- Nguyên tắc bảo đảm cạnh tranh công bằng, lành mạnh trong đấu

thầu: Ở góc độ thương mại, cạnh tranh là ghanh đua giữa các doanh nghiệp

nhằm chiếm được sự chấp nhận của khách hàng. Đấu thầu xuất phát từ ưu thế

của cạnh tranh trong kinh tế thị trường, từ việc cạnh tranh dẫn đấu thầu và

thông qua cạnh tranh bản chất và mục đích của đấu thầu là lựa chọn được

người bán tốt nhất mới thể hiện. Chính vì vậy, đảm bảo cạnh tranh là nguyên

tắc quan trọng trong đấu thầu nói chung và đấu thầu thi công các công trình

xây dựng nói riêng. Tuy nhiên, cạnh tranh ở đây phải dựa trên yêu cầu công

bằng và lành mạnh. Để đảm bảo cạnh tranh công bằng và lành mạnh, nguyên

tắc này đòi hỏi mỗi gói thầu phải có sự tham dự của số lượng nhà thầu nhất

định có đủ năng lực và điều kiện theo luật định phù hợp với từng lĩnh vực đủ

để đảm bảo cạnh tranh. Để đảm bảo cạn tranh nhà thầu nộp hồ sơ quan tâm,

hồ sơ dự sơ tuyển phải độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính với các nhà

thầu tư vấn lập hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển; đánh giá hồ sơ quan

tâm, hồ sơ dự sơ tuyển; thẩm định kết quả mời quan tâm, kết quả sơ tuyển.

Nhà thầu tham dự thầu phải độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính với các

bên sau đây: Chủ đầu tư, bên mời thầu; các nhà thầu tư vấn lập, thẩm tra,

thẩm định hồ sơ thiết kế, dự toán; lập, thẩm định hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu

cầu; đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất; thẩm định kết quả lựa chọn nhà

thầu gói thầu đó; các nhà thầu khác cùng tham dự thầu trong một gói thầu đối

với đấu thầu hạn chế. Chỉ khi đảm bảo sự tham gia đông đảo của các nhà thầu

và đảm bảo sự độc lập của họ thì việc đấu thầu mới đảm bảo tính cạnh tranh.

Cạnh tranh công bằng và lành mạnh cũng đòi hỏi quá trình đấu thầu các nhà

thầu bình đẳng với nhau trong tiếp cận thông tin về gói thầu. Nguyên tắc này

cũng nghiêm các hành vi hạn chế thông tin hay các hành vi khác nhằm ngăn

cản sự tham gia đấu thầu của các nhà thầu, nghiêm cấm việc phân biệt đối xử

giữa những người tham gia đấu thầu hợp lệ trong việc đánh giá hồ sơ dự thầu.

Mục đích của nguyên tắc này là đảm bảo cho các nhà thầu các nhà thầu đều

25

phải được hưởng những cơ hội, điều kiện ngang nhau trong suốt quá trình đấu

thầu. Bên mời thầu có nghĩa vụ đảm bảo sự bình đẳng này mà không có sự ưu

ái hay phân biệt đối xử với bất kỳ nhà thầu nào.

- Nguyên tắc đầy đủ thông tin và công khai: Một trong những ưu thế

của đấu thầu đó là nhằm minh bạch hóa quy trình đấu thầu của bên mời thầu

nhằm tránh tình trạng tham nhũng trong đấu thầu và các hành vi vi phạm các

quy định về đấu thầu khác. Công khai và minh bạch có tác dụng thực hiện

mục đích này. Nguyên tắc đầy đủ công khai đòi hỏi, bên mời thầu phải có

nghĩa vụ cung cấp thông tin đầy đủ kế hoạch lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư;

Thông báo mời quan tâm, thông báo mời sơ tuyển; Thông báo mời chào hàng,

thông báo mời thầu; Kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư… Các thông tin

này được khuyến khích đăng tải trên trang thông tin điện tử của bộ, ngành, địa

phương hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng khác.

- Nguyên tắc đánh giá công bằng: Theo nguyên tắc này, các hồ sơ dự

thầu hợp lệ đều phải được xem xét, đánh giá khách quan và công bằng thông

qua một hội đồng xét thầu củ đủ năng lực, kinh nghiệm và uy tín. Năng lực

của những người dự thầu và trúng thầu phải được đánh giá dựa trên các tiêu

chí về năng lực, giải pháp kỹ thuật, giá dự thầu. Kết quả của cuộc đấu thầu

cũng phải được công khai và giải thích lý do các nhà thầu vì sao hồ sơ của họ

được lựa chọn hoặc bị loại. Khi đảm bảo công bằng, khách quan thì các tranh

chấp trong quá trình đấu thầu sẽ được hạn chế.

- Nguyên tắc bảo đảm dự thầu: Bảo đảm dự thầu là biện pháp đảm bảo

cho những người tham gia dự thầu về tư cách, điều kiện, năng lực, khả năng

tham gia đấu thầu…của bên dự thầu vì lợi ích của bên mời thầu trong một số

trường hợp nhất định. Theo đó, Nhà thầu, nhà đầu tư phải thực hiện biện

pháp bảo đảm dự thầu trước thời điểm đóng thầu đối với hồ sơ dự thầu, hồ sơ

đề xuất; trường hợp áp dụng phương thức đấu thầu hai giai đoạn, nhà thầu

thực hiện biện pháp bảo đảm dự thầu trong giai đoạn hai. Với tư cách là biện

26

pháp đảm bảo nên bên mời thầu có trách nhiệm hoàn trả hoặc giải tỏa bảo

đảm dự thầu cho nhà thầu. bên cạnh đó, bên mời thầu cũng có quyền không

hoàn trả bảo đảm dự thầu trong một số trường hợp như: nhà đầu tư không

được lựa chọn theo thời hạn quy định trong hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu

đồng thời bảo đảm dự thầu không được hoàn trả trong các trường hợp sau

đây, nhà đầu tư rút hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất sau thời điểm đóng thầu và

trong thời gian có hiệu lực của hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất….

1.4.1.2 Các nguyên tắc về đầu tư công và thi công công trình xây dựng.

Ngoài những nguyên tắc của đấu thầu nói chung, đấu thầu thi công các

công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước còn phải tuân thủ

các nguyên tắc của đầu tư công và xây dựng. Bởi vì sử dụng nguồn ngân sách

nhà nước, nên việc đấu thầu thi công các công trình từ nguồn vốn ngân sách

nhà nước đảm bảo nguyên tắc của đầu tư công như:

Nguyên tắc công khai, minh bạch trong đầu tư công . Sự công khai

minh bạch trong đầu tư công thể hiện trong công khai chính sách, pháp luật và

việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật trong quản lý và sử dụng vốn đầu

tư công; công khai nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công;

Nguyên tắc, tiêu chí, căn cứ xác định danh mục dự án trong kế hoạch

đầu tư công trung hạn và hằng năm; công khai quy hoạch, kế hoạch, chương

trình đầu tư công trên địa bàn; vốn bố trí cho từng chương trình theo từng

năm, tiến độ thực hiện và giải ngân vốn chương trình đầu tư công;danh mục

dự án trên địa bàn, bao gồm quy mô, tổng mức đầu tư, thời gian, địa điểm;

báo cáo đánh giá tác động tổng thể của dự án tới địa bàn đầu tư; kế hoạch

phân bổ vốn đầu tư công trung hạn và hằng năm theo từng nguồn vốn, bao

gồm danh mục dự án và mức vốn đầu tư công bố trí cho từng dự án;

Nguyên tắc nhân dân là chủ thể được hướng tới cao nhất. Con người là

trung tâm của mọi đường lối chính sách và pháp luật, nó không chỉ là phương

tiện đảm bảo tính mạng, sức khoẻ của con người mà còn tạo ra mọi điều kiện

27

để nâng cao chất lượng sống của con người. Pháp luật về đấu thầu thi công

công trình là một bộ phận trong hệ thống pháp luật nói chung nên các quy

định được thiết lập không chỉ đáp ứng tối đa hiệu quả về mặt kinh tế và giá trị

sử dụng mà còn phải đảm bảo các mục tiêu chính trị - xã hội của Nhà nước.

Nguyên tắc trong lĩnh vực xây dựng: Bảo đảm đầu tư xây dựng công

trình theo quy hoạch, thiết kế, bảo vệ cảnh quan, môi trường; phù hợp với

điều kiện tự nhiên, xã hội, đặc điểm văn hóa của từng địa phương; bảo đảm

ổn định cuộc sống của nhân dân; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc

phòng, an ninh và ứng phó với biến đổi khí hậu. Sử dụng hợp lý nguồn lực,

tài nguyên tại khu vực có dự án, bảo đảm đúng mục đích, đối tượng và trình

tự đầu tư xây dựng. Tuân thủ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy định của

pháp luật về sử dụng vật liệu xây dựng; bảo đảm nhu cầu tiếp cận sử dụng

công trình thuận lợi, an toàn cho người khuyết tật, người cao tuổi, trẻ em ở

các công trình công cộng, nhà cao tầng; ứng dụng khoa học và công nghệ, áp

dụng hệ thống thông tin công trình trong hoạt động đầu tư xây dựng . Bảo

đảm chất lượng, tiến độ, an toàn công trình, tính mạng, sức khỏe con người và

tài sản; phòng, chống cháy, nổ; bảo vệ môi trường. Bảo đảm xây dựng đồng

bộ trong từng công trình và đồng bộ với các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ

tầng xã hội. Tổ chức, cá nhân khi tham gia hoạt động xây dựng phải có đủ các

điều kiện năng lực phù hợp với loại dự án; loại, cấp công trình xây dựng và

công việc theo quy định pháp luật xây dựng. Bảo đảm công khai, minh bạch,

tiết kiệm, hiệu quả; phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thất thoát và tiêu cực

khác trong hoạt động đầu tư xây dựng.

1.4.2 Cấu trúc của pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây

dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước

Trên cơ sở các nhóm quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện

đấu thầu thi công các công trình có nguồn vấn ngân sách nhà nước, các

nguyên tắc của quá trình thực hiện các hoạt động này, nhà nước sẽ xây dựng

28

hệ thống pháp luật để điều chỉnh nó với yêu cầu toàn diện, đầy đủ, chặt chẽ,

minh bạch, khả thi…Việt Nam hiện nay, không có một đạo luật điều chỉnh

vấn đề đấu thầu trong xây dựng, đấu thầu thi công các công trình bằng nguồn

vốn ngân sách nhà nước riêng. Do đó, yêu cầu đặt ra tuy tản mạn nhưng, các

quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực này đảm bảo tính thống nhất,

tương thích với nhau. Đồng thời, các nội dung của pháp luật phải đảm bảo

quy định toàn diện và đầy đủ các vấn đề quan trọng của đấu thầu thi công các

công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước như trình tự đấu

thầu thi công, cơ chế quản lý, giám sát, xử lý vi phạm trong đấu thầu thi công

và giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình đấu thầu.

Mặc dù có sự khác biệt như vậy về cách thức thiết kế, xây dựng các

điều khoản của pháp luật nhưng ở bất kỳ quốc gia nào thì pháp luật đấu thầu

xây lắp cũng phải có những nhóm quy định cơ bản sau:

- Các quy định chung về đấu thầu

Nhóm quy phạm này điều chỉnh các vấn đề chung của đấu thầu bao

gồm các nhóm quy phạm sau đây: Phạm vi điều chỉnh của luật đấu thầu bao

gồm quản lý nhà nước về đấu thầu; trách nhiệm của các bên có liên quan và

các hoạt động đấu thầu; thứ hai. Quy phạm chung cũng xác định đối tượng áp

dụng của pháp luật đấu thầu đó là tổ chức, cá nhân tham gia hoặc có liên quan

đến hoạt động đấu thầu và các tổ chức cá nhân khác có áp dụng luật đấu thầu;

quy định nguyên tắc của đấu thầu, các điều kiện tham gia đấu thầu, các hành

vi bị cấm trong hoạt động đấu thầu

- Các quy định về hình thức lựa chọn nhà thầu thi công các công trình

xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.

Là cách thức mà bên mời thầu lựa chọn bên thi công công trình xây

dựng cho mình. Theo pháp luật Việt nam hiện hành, đấu thầu trong đó có đấu

thầu thi công công trình xây dựng có nhiều hình thức: đấu thầu rộng rãi, đấu

thầu hạn chế, chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh, tự thực hiện và lựa chọn

29

nhà thầu trong trường hợp đặc biệt. Trong thực tiễn đấu thầu thi công các

công trình xây dựng, việc lựa chọn nhà thầu phụ thuộc vào tính phức tạp và

quy mô của công trình xây dựng. Đối với các công trình dân dụng đòi hỏi kỹ

thuật không quá phức tạp thì áp dụng hình thức đấu thầu một gói hồ sơ hay

đấu thầu một giai đoạn. Đối với các công trình xây dựng mà việc thi công đòi

hỏi kỹ thuật cao, công nghệ mới….thì áp dụng hình thức đấu thầu hai túi hồ

sơ và hai giai đoạn. Mục đích của giai đoạn một là thu thập thêm thông tin, dữ

liệu qua trao đổi với các nhà thầu để các định cụ thể các nội dung về kỹ thuật

và tài chính của hồ sơ mời thầu làm cơ sở mời thầu cho giai đoạn sau.

- Các quy định về quy trình thực hiện đấu thầu.

Quy trình đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn

ngân sách là các bước để tiến hành đấu thầu. Quy trình bắt đầu từ việc lập kế

hoạch đầu tư công trình xây dựng của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã

hội cho đến khi lựa chọn được nhà thầu. Sau khi cơ quan, tổ chức này có nhu

cầu xây dựng lập kế hoạch đấu thầu thi công và được cơ quan có thẩm quyền

phê duyệt thì quá trình đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn

vốn ngân sách chính thức được thực hiện. Thông thường, đấu thầu phải thông

qua các thủ tục sau: mời thầu, sơ tuyển, nộp hồ sơ dự thầu, mở thầu và xét

thầu (kiểm tra, đánh giá và so sánh các hồ sơ dự thầu), công bố trúng thầu và

tiến hành ký hợp đồng thi công. Trong mỗi thủ tục này, pháp luật các nước

đều quy định một cách chi tiết trình tự tiến hành, khoảng thời gian để thực

hiện từng giai đoạn, quyền và nghĩa vụ các bên tham gia.

Các quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động đấu thầu thi công

các công trình có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước:

Đấu thầu là hoạt động quan trọng, phức tạp trong nền kinh tế thị

trường, chính vì vậy không thể thiếu sự quản lý nhà nước đối với hoạt quan

trọng này bằng các phương thức khác nhau một mặt đảm bảo cho đấu thầu

vận hành đúng quy luật của thị trường, một mặt đảm bảo đấu thầu khách

30

quan, công bằng, lành mạnh bảo vệ các nhà đầu tư chân chính một mặt xử lý

các hành vi vi phạm trọng hoạt động đấu thầu xây dựng. Để thực hiện quản

lý nhà nước trong hoạt động đấu thầu thi công các công các công trình xây

dựng có nguồn vốn ngân sách nhà nước là việc nhà nước tiến hành quản lý về

nguồn vốn, quản lí thông tin, quản lí về trình tự tiến hành hoạt động đấu thầu.

Để việc quản lí các hoạt động đấu thầu thi công, nhà nước tiến hành các hoạt

động như : phân cấp quản lý cho các cơ quan từ trung ương đến địa phương

và đặt ra các quy định về khiếu nại, tố cáo, kiểm tra, giám sát nhằm bảo đảm

cho hoạt động đấu thầu được những mục tiêu đề ra. Để hoạt động đấu thầu thi

công các công trình có nguồn vốn ngân sách được thực hiện trên thực tế, nhà

nước cần ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để chỉ rõ các thức

xử sự của các chủ thể khi tham gia đấu thầu.

- Nhóm các quy định của pháp luật về đầu tư công, pháp luật xây dựng

liên quan đến hoạt động đấu thầu thi công các công trình xây dựng có nguồn

vốn ngân sách nhà nước.

Như trên đã nói, đấu thầu thi công các công trình xây dựng có nguồn

vốn ngân sách nhà nước là lĩnh vực đặc thù. Tính đặc thù ở đây thể hiện ở nhà

đầu tư, bên mời thầu, tính chất của công trình xây dựng đặc biệt là nguồn vốn.

Các đặc thù này quy định pháp luật về đấu thầu trong lĩnh vực này. Đó là có

sự giao thoa của pháp luật đấu thầu, xây dựng và đầu tư công. Pháp luật về

đấu thầu ở phương diện nào đó là hình thức thực hiện đầu tư công, thực hiện

pháp luật xây dựng đối với các công trình công cộng. Đấu thầu thi công các

công tình bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước phải tuân thủ pháp luật đầu tư

công ở phương diện chủ thể đầu tư (bên mời thầu) như chủ trương đầu tư, lập

kế hoạch đầu tư, phê duyệt kế hoạch đầu tư’ tuân thủ pháp luật đầu tư công ở

việc tuân thủ các nguyên tắc của đầu tư công, trình tự, thủ tục thực hiện đầu

tư công; theo dõi, đánh giá qúa trình thực hiện đầu tư công bao gồm cả theo

31

dõi, giám sát việc thực hiện pháp luật trong đấu thầu các thi công các công

trình xây dựng có nguồn vốn ngân sách.

Đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách

còn được điều chỉnh bằng pháp luật về Xây dựng ở khía cạnh như các tiêu

chuẩn đánh giá về năng lực và kinh nghiệm; tiêu chuẩn đánh giá về kỹ thuật

của nhà thầu; các tiêu chuẩn kỹ thuật của công trình xây dựng, tuân thủ các

quy định về quản lý nhà nước về xây dựng…

Tiểu kết chương 1

Đấu thầu thi công các công trình xây dựng có nguồn vốn ngân sách nhà

nước là lĩnh vực đặc thù được điều chỉnh bới các lĩnh vực pháp luật khác

nhau. Đây là việc cơ cơ quan, tổ chức được quyền sử dụng vốn nhà nước

thực hiện để lựa chọn nhà thầu phù hợp với tiêu chuẩn đề ra để thi công các

công trình mang tính chất công cộng. Để kiểm soát và đảm bảo hoạt động đấu

thầu này đạt được tối đa tính hiệu quả kinh tế, đảm bảo những mục tiêu về

chính trị, xã hội, nhà nước đặt ra hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh

quan hệ phát sinh, phát triển trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, đấu thầu cũng là

một hoạt động của nền kinh tế thị trường, nó tuân theo các quy luật khách

quan của thị trường như quy luật cung – cầu, quy luật giá cả, giá trị. Vì vậy,

quy phạm pháp luật về đấu thầu thi công các công trình xây dựng có nguồn

vốn ngân sách nhà nước cần được xây dựng trên nguyên tắc đảm bảo tính

cạnh tranh, công bằng và minh bạch.

Xuất phát từ những vấn đề lý luận nêu trên, trong các chương tiếp theo,

luận văn tập trung nghiên cứu nội dung quy định hiện hành về đấu thầu thi

công các công trình xây dựng có nguồn vốn ngân sách của Việt Nam, từ đó

đưa ra một vài kiến nghị tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật và thực tiễn

thực hiện trong lĩnh vực này trên địa bàn thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh

32

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU THI CÔNG

CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH

NHÀ NƯỚC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ

QUẢNG YÊN, TỈNH QUẢNG NINH

2.1. Thực trạng pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây dựng

bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước

2.1.1. Khái quát Pháp luật về đấu thầu thi công xây dựng các công

trình bằng nguồn vốn ngân sách ở Việt Nam

Năm 1985, Văn bản pháp lý đầu tiên về giao nhận thầu trong xây dựng

cơ bản được ban hành. Đó là Quy chế về giao thầu và nhận thầu trong xây

dựng cơ bản ban hành kèm theo Quyết định 217/HĐBT của Hội đồng Bộ

trưởng. Quy chế này quy định Quy chế này quy định cụ thể chế độ giao thầu

và nhận thầu trong xây dựng cơ, quan hệ trách nhiệm vật chất, nghĩa vụ và

quyền hạn của các bên giao thầu, nhận thầu theo những nguyên tắc quản lý

xây dựng cơ bản và chế độ hợp đồng kinh tế của Nhà nước, nhằm tăng cường

trách nhiệm và đề cao quyền chủ động của các tổ chức cơ sở trong sản xuất -

kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư và xây dựng. Tại Điều 5 của

Quy chế này quy định phương thức đấu thầu xây dựng trong đó đề cập đến

điều kiện tổ chức đấu thầu là Bên giao thầu phải có đủ vốn đầu tư và điều

kiện vật chất bảo đảm việc thực hiện phương án giao thầu dự kiến; bên dự

thầu phải là tổ chức có tư cách pháp nhân, có chuyên môn, có kinh nghiệm tổ

chức sản xuất và có đủ cơ sở vật chất - kỹ thuật bảo đảm thực hiện phương án

dự thầu. Bên dự thầu có thể là các tổ chức: khảo sát, thiết kế, xây lắp quốc

doanh hoặc công ty hợp doanh, hợp tác xã xây dựng, nhà máy chế tạo thiết bị,

cung ứng thiết bị, vật tư, cấu kiện cho xây dựng... Hồ sơ kinh tế - kỹ thuật

của công trình, hạng mục công trình hoặc của từng công việc xây dựng đưa ra

đấu thầu được công bố trước, để các bên dự thầu có căn cứ và thời gian tính

33

toán phương án nhận thầu. Bên cạnh đó, chỉ tiêu đặt thầu đối với nhà thầu

trong xây dựng về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm, năng lực thực hiện công trình

cũng được đề cập

Cùng với quá trình chuyển biến của nền kinh tế chuyển sang vận hành

theo cơ chế thị trường và đặc biệt là hội nhập quốc tế cùng với việc chúng ta

tiếp nhận các nguồn vốn từ các định chế tài chính quốc tế như ADB, WB và

các nguồn vốn ODA khác thì chúng ta buộc phải thực hiện đấu thầu theo yêu

cầu của các chủ nợ, thì pháp luật về đấu trong đó có đấu thầu trong xây dựng

được quan tâm xây dựng. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường cho phép hình thành

và hoạt động của nhiều tổ chức tư vấn, thi công, cung cấp vật tư, thiết bị trong

lĩnh vực xây dựng cho phép chủ đầu tư có cơ hội để lựa chọn nhà thầu thi

công tốt nhất để thi công công trình. Điều đó cho thấy nhu cầu cấp thiết cần

phải có khuôn khổ pháp lý cụ thể, chi tiết phù hợp với thực tế cho hoạt động

đấu thầu trong lĩnh vực xây dựng. Trên cơ sở đó, Quyết định số 24/BXD-

VKT ngày 12 tháng 2 năm 1990 của Bộ xây dựng áp dụng trong lĩnh vực xây

dựng được ban hành. Tiếp theo là Quy chế đấu thầu xây lắp số 60/BXS-VKT

ra đời trên cơ sở khắc phục những bất cập của các văn bản cũ đồng thời bổ

sung nhiều quy định mới trong lĩnh vực đấu thầu xây dựng cho phù hợp với

tình hình mới. Đáng chú ý là sự ra đời của Hội đồng quốc gia xét chọn đơn vị

trúng thầu các dự án đầu tư lớn trên cơ sở Quyết định 183/QĐ-Ttg ngày

16/4/1994 của Chính phủ. Hội đồng này có chức năng, nhiệm vụ làm tư vấn

cho Thủ tướng Chính phủ thẩm định kết quả đấu thầu các dự án dùng vốn của

Nhà nước có vốn đầu tư từ 100 tỷ đồng Việt Nam trở lên (tương đương 10

triệu đô la Mỹ) hoặc các dự án có giá trị thấp hơn khi có quyết định riêng của

Thủ tướng Chính phủ. Các dự án dùng vốn của Nhà nước bao gồm dự án

dùng vốn ngân sách, vốn vay, vốn viện trợ nước ngoài và vốn của Nhà nước ở

các doanh nghiệp. Uỷ ban kế hoạch Nhà nước quy định những dự án, kể cả dự

34

án của các doanh nghiệp có vốn Nhà nước phải qua đấu thầu và trình lên Hội

đồng xét thầu quốc gia.

Nhằm hoàn thiện các quy định về đấu thầu, đồng thời thể hiện xu thế

hội nhập kinh tế thế giới của nước ta, năm 1996, lần đầu tiên Quy chế Đấu

thầu được ban hành kèm theo Nghị định 43/CP ngày 16/7/1996 và Nghị định

93/ngày 23/8/1997 của Chính phủ. Quy chế này được ban hành nhằm thống

nhất quản lý các hoạt động đấu thầu tuyển chọn tư vấn, mua sắm hàng hóa,

xây lắp mà không quy định riêng về đấu thầu xây lắp như Quy chế đấu thầu

số 60/BXD trước đó.

Trên cơ sở Quy chế đấu thầu được Chính phủ ban hành, các Bộ có liên

quan đến lĩnh vực xây dựng các công trình có nguồn vốn từ ngân sách nhà

nước tiếp tục cụ thể hóa Quy chế này vào trong lĩnh vực quản lý của mình.

Trước hết, là Bộ Kế hoạch đầu tư có Thông tư 04/2000/TT-BKHĐT ngày

26/5/2000 Hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu áp dụng chung cho đấu

thầu trong tất cả các lĩnh vực. tiếp theo là Bộ xây dựng với tư cách là cơ quan

quản lý nhà nước về xây dựng có Thông tư số 01/2002/TT-BXD ngày

2/2/2004 về Hướng dẫn thực hiện dự án theo hình thức hợp đồng thiết kế-

cung ứng vật tư, thiết bị- xây dựng (EPC). Bộ Tài chính ban hành Thông tư

số 121/2000/TT-BTC ngày 29/12/2000 hướng dẫn thực hiện đấu thầu mua

sắm đồ dùng, vật tư, trang thiết bị, phương tiện làm việc đối với các cơ quan

nhà nước, đoàn thể và doanh nghiệp nhà nước. Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn ban hành thông tư só 50/2001/TT/BNN-XDCB ngày 3/5/2001

Hướng dẫn thực hiện quy chế đấu thầu đối với các dự án đầu tư thuộc Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn…

Ngày 29/11/ 2005, quốc hội đã thông qua Luật Đấu thầu trên cơ sở

Pháp lệnh đấu thầu 1999. Trên cơ sở đó Chính phủ ban hành Nghị định

111/2006/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu theo quy

định của Luật xây dựng.

35

Luật Đấu thầu 2005, cũng như nghị định 111/2006/NĐ-CP và các văn

bản khác hướng dẫn Luật này được xây dựng trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc

kinh nghiệm quốc tế về đấu thầu cũng như các quy chế của các định chế tài

chính lớn trên thế giới như WB, ADB, JIBIC, Luật mẫu UNCITRAL về đấu

thầu. Chính vì vậy Luật đấu thầu 2005 đã tiếp cận được với yêu cầu của kinh

tế thị trường và thông lệ quốc tế và cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt đấu

thầu nói chung và đấu thầu trong xây dựng nói riêng. Có thể nói, Pháp luật về

đấu thầu ở Việt Nam có bước đi cùng với quá trình xây dựng và hoàn thiện

thể chế kinh tế thị trường ở nước ta.

Liên quan đến lĩnh vực xây dựng có nhiều quy định về đấu thầu xây

dựng các công trình từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước . Cụ thể, Luật Xây

dựng năm 2003 có nhiều quy định về hoạt động xây dựng, quyền nghĩa vụ

của tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng các loại công trình xây dựng khác nhau,

quản lý nhà nước về xây dựng. Đặc biệt tại Mục 1, Chương VI của luật xây

dựng có quy định riêng về áp dụng lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây

dựng và nhà thầu thi công nói riêng.

Thêm nữa, Luật đấu thầu xây lắp hiện nay cũng được điều chỉnh bởi

luật cạnh tranh: Cạnh tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội.

Nhưng để có sự cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt đối xử… lại phải giải

quyết nhiều vấn đề cả ở lĩnh vực xây dựng quy phạm pháp luật, thực thi pháp

luật, hành xử của doanh nghiệp... Dưới góc độ của lý luận về cạnh tranh, đấu

thầu được nhìn nhận là hình thức lựa chọn người cung cấp hàng hóa hoặc

cung ứng dịch vụ, hoặc sản phẩm xây lắp theo đó người tổ chức mời thầu sử

dụng cơ chế cạnh tranh bằng cách đưa ra gói thầu để các bên dự thầu cạnh

tranh về giá cả, chất lượng… Với mong muốn có thể lựa chọn được người

cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ hoặc sản phẩm xây lắp có chất lượng tốt

nhất và mức giá rẻ nhất. Cơ chế cạnh tranh được vận hành theo cách những

người dự thầu (là người có nhu cầu cung cấp hàng hóa, dịch vụ, xây lắp đang

36

mong muốn có được gói thầu) ganh đua nhau về các điều kiện thương mại

hoặc kỹ thuật, đặc biệt là giá cả. Người nào có mức giá thấp nhất (là mức mức

giá tối ưu đối với người mua) sẽ được lựa chọn. Tùy theo giá trị của gói thầu

và điều kiện của người mời thầu, mức độ cạnh tranh trong đấu thầu sẽ được

thiết lập khác nhau. Pháp luật về đấu thầu và pháp luật thương mại quy định

các hình thức đấu thầu tương ứng với mức độ cạnh tranh giữa những người

dự thầu. Cơ chế cạnh tranh được đánh giá là hiệu quả khi nó lựa chọn được

người trúng thầu là người đưa ra và có năng lực thực hiện các điều kiện

thương mại tốt nhất cho người mời thầu.

Quy định hiện tại luôn phải đảm bảo cả hai nhiệm vụ: tạo môi trường cho

cơ chế cạnh tranh vận hành trong hoạt động đấu thầu và duy trì, bảo đảm sự

lành mạnh của cơ chế cạnh tranh. Luật đấu thầu và Luật thương mại đảm

nhiệm toàn bộ nhiệm vụ đầu tiên và một phần của nhiệm vụ thứ hai bằng các

quy định về nguyên tắc đảm bảo cạnh tranh trong đấu thầu, nghĩa vụ của các

bên tham gia và xử lý vi phạm pháp luật về đấu thầu. Một phần của nhiệm vụ

duy trì và bảo đảm sự lành mạnh của cơ chế cạnh tranh được quy định trong

luật cạnh tranh với các quy định cấm sự thông đồng trong đấu thầu. Mục tiêu

của hoạt động đấu thầu nhằm đảm bảo tính cạnh tranh, công bằng và minh

bạch trong quá trình đấu thầu để có thể lựa chọn nhà thầu phù hợp, đảm bảo

hiệu quả kinh tế. Hoạt động đấu thầu chỉ có thể vận hành hiệu quả trong một

môi trường cạnh tranh thực sự. Luật đấu thầu là công cụ quan trọng nhất để

Nhà nước quản lý và kiểm soát hoạt động đấu thầu.

Tại khoản 6, 7 và 8, Điều 8 Luật cạnh tranh 2004. Theo đó, các thỏa thuận

nhằm hạn chế cạnh tranh để thông đồng trong đấu thầu được hiểu là việc các

bên dự thầu giàn xếp, thỏa thuận cùng hành động để một hoặc các bên trong

số họ thắng thầu. Việc này đã làm vô hiệu cơ chế cạnh tranh mà người mời

thầu đã nỗ lực tạo ra, các hành động này bị cấm hoàn toàn tại điều 9 Luật

cạnh tranh 2004.

37

Cơ chế cạnh tranh trong đấu thầu chỉ đạt được hiệu quả khi thông qua đó để

một bên lựa chọn được đối tác tốt nhất. Về lý thuyết, cạnh tranh trong đấu

thầu chỉ được đảm bảo khi có nhiều bên dự thầu, các bên dự thầu độc lập với

nhau và với bên mời thầu, không có bất cứ thỏa thuận nào giữa người mời

thầu với một, hoặc một số người dự thầu, hoặc giữa những người dự thầu với

nhau. Trong cuộc đấu thầu, trên cơ sở các nội dung mời thầu, các bên dự thầu

phải tự mình đưa ra các gói thầu có tính cạnh tranh với cam kết về chất lượng,

giá cả và đáp ứng các điều kiện khác của bên mời thầu.

2.1.2 Thực trạng các quy định của pháp luật về đấu thầu thi công

các công trình xây dựng bằng vốn nhà nước hiện nay

Các quy định của pháp luật đấu thầu thi công các công trình xây dựng

bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước tập trung vào hai nhóm chính: thứ nhất,

các quy định về đấu thầu nói chung; thứ hai, các quy định riêng về đấu thầu

thi công các công trình có nguồn vốn ngân sách nhà nước.

2.1.2.1 Các quy định về đấu thầu

- Quy định về hình thức đấu thầu. Để đa dạng hóa hoạt động đấu thầu

trên cơ sở đó để người mua có nhiều cơ hội và cách thức lựa chọn người bán,

pháp luật về đấu thầu quy định 7 hình thức lựa chọn nhà thầu trong đó có hai

hình thức đấu thầu. Đó là:

- Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu rộng rãi là hình thức lựa chọn nhà thầu,

nhà đầu tư trong đó không hạn chế số lượng nhà thầu, nhà đầu tư tham dự.

Đây là hình thức đấu thầu thể hiện rõ nhất tính chất của đấu thầu và cũng là

hình thức đấu thầu mang tính cạnh tranh cao nhất và do đó cũng là hình thức

đấu thầu mà người mua hàng hóa có nhiều cơ hội lựa chọn người bán hàng tốt

nhất cho mình. Để thực hiện đấu thầu rộng rãi, bên mời thầu có trách nhiệm

cung cấp thông tin công khai về gói thầu như điều kiện dự thầu, thơi gian dự

thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đấu thầu rộng rãi có thể thực

hiện theo hai bước sơ tuyển và đấu thầu hoặc kết hợp cả hai bước trên tùy

38

thuộc vào tính phức tạp yêu cầu cao của gói thầu hay điều kiện tổ chức đấu

thầu. Bước sơ tuyển ban đầu nhằm chọn được các nhà thầu có đủ năng lực,

điều kiện, kinh nghiệm thi công xây dựng, đáp ứng yêu cầu và tính chất của

gói thầu để tham gia đấu thầu. Ngoài ưu điểm nói trên, đấu thầu rộng rãi có

nhược điểm là thời gian lựa chọn nhà thầu kéo dài và đối với các dự án nhỏ

thường lãng phí, không đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả kinh tế của

đấu thầu.

- Đấu thầu hạn chế, là hình thức lựa chọn nhà thầu trong đó bên mời

thầu chỉ mời một số nhà thầu nhất định dự thầu. Đây là hình thức đấu thầu mà

chỉ có những nhà thầu có đủ kinh nghiệm và năng lực và đáp ứng các điều

kiện nhất định mới được tham gia dự thầu. Tuy là hạn chế số lượng người dự

thầu nhưng số lượng nhà thầu tham dự phải đủ rộng để đảm bảo tính cạnh

tranh và khả năng lựa chọn của bên mời thầu. Theo quy định hiện hành số

lượng nhà thầu tham gia đấu thầu hạn chế có từ 5 người trở lên. Trong hình

thức đấu thầu hạn chế, thông tin về đấu thầu không phải công khai rộng rãi

mà chỉ gửi cho từng nhà thầu hạn chế mà bên mời thầu quyết định. Đấu thầu

hạn chế được áp dụng với các gói thầu theo yêu cầu của nhà tài trợ nước

ngoài đối với nguồn vốn sử dụng cho gói thầu; gói thầu yêu cầu cao về mặt kỹ

thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù; gói thầu có tính chất nghiên cứu, thử

nghiệm mà chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng yêu cầu của gói thầu.

Đấu thầu hạn chế có ưu điểm là tính khả thi của việc lựa chọn nhà thầu

tương đối cao do các nhà thầu được lựa chọn theo danh sách mời thầu đều xác

định là có khả năng đáp ứng yêu cầu gói thầu. Ngoài ra, đấu thầu hạn chế có

thể rút ngắn được thời gian lựa chọn nhà thầu, tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên,

nhược điểm của đấu thầu hạn chế là thiếu tính cạnh tranh, tính công khai,

minh bạch không cao ảnh hưởng đến việc lựa chọn nhà thầu đáp ứng đủ tiêu

chuẩn thi công gói thầu.

39

- Các quy định về quy trình đấu thầu

Quy trình về đấu thầu là trình tự các bước và các hoạt động mà các chủ

thể tiến hành hoạt động đấu thầu bao gồm: chuẩn bị đấu thầu, tổ chức đấu

thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu, thẩm định và phê duyệt kết quả đấu thầu, thông

báo kết quả đấu thầu, thương thảo và ký kết hợp đồng đấu thầu.

Chuẩn bị kế hoạch đấu thầu:

Theo pháp luật hiện hành, trước khi bước vào đấu thầu trên thực tế, cơ

quan nhà nước phải tiến hành một số hoạt động trước đấu thầu, công việc này

gọi chung là khâu chuẩn bị đấu thầu. Chuẩn bị đấu thầu bao gồm chuẩn bị kế

hoạch đấu thầu và chuẩn bị hồ sơ mời thầu.

Kế hoạch đấu thầu: là sự thể hiện cụ thể của kế hoạch đầu tư công thể

hiện mong muốn của chủ thể có nhu cầu xây dựng các công trình bằng nguồn

vốn ngân sách nhà nước: xây dựng công trình gì?, xây như thế nào vào thời

điểm nào? Theo quy định tại Điều 6- Luật đấu thầu năm 2005: “Kế hoạch

đấu thầu phải được người có thẩm quyền phê duyệt bằng văn bản sau khi phê

duyệt quyết định đầu tư hoặc phê duyệt đồng thời với quyết định đầu tư trong

trường hợp đủ điều kiện để làm cơ sở pháp lý cho chủ đầu tư tổ chức lựa

chọn nhà thầu, trừ gói thầu cần thực hiện trước khi có quyết định đầu tư.

Người phê duyệt kế hoạch đấu thầu phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về

quyết định của mình”. Đối với các dự án đầu tư có quy mô lớn, yêu cầu kỹ

thuật cao thì trước khi phê duyệt kế hoạch đấu thầu cần phải có thủ tục phê

duyệt kế hoạch đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư công và pháp

luật về xây dựng. Trong kế hoạch đấu thầu phải nêu rõ số lượng gói thầu và

nội dung của từng gói thầu. Nội dung của từng gói thầu bao gồm: Tên gói

thầu; Giá gói thầu Nguồn vốn; Hình thức lựa chọn nhà thầu; phương thức

đấu thầu; Thời gian lựa chọn nhà thầu;Hình thức hợp đồng; Thời gian thực

hiện hợp đồng. Kế hoạch đấu thầu phải được người có thẩm quyền phê duyệt

bằng văn bản sau khi phê duyệt quyết định đầu tư hoặc phê duyệt đồng thời

40

với quyết định đầu tư trong trường hợp đủ điều kiện để làm cơ sở pháp lý cho

chủ đầu tư tổ chức lựa chọn nhà thầu, trừ gói thầu cần thực hiện trước khi có

quyết định đầu tư. Người phê duyệt kế hoạch đấu thầu phải chịu trách nhiệm

trước pháp luật về quyết định của mình.

Chủ đầu tư có trách nhiệm trình kế hoạch đấu thầu lên người có thẩm

quyền hoặc người được ủy quyền quyết định đầu tư xem xét, phê duyệt; đồng

thời gửi cho cơ quan, tổ chức thẩm định; trường hợp trình kế hoạch đấu thầu

lên Thủ tướng Chính phủ, chủ đầu tư còn phải gửi cho bộ quản lý ngành để có

ý kiến bằng văn bản trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt.

Chuẩn bị hồ sơ mời thầu: Chuẩn bị hồ sơ mời thầu là các yêu cầu do

chủ đầu tư (bên mời thầu) lập dựa trên các yêu cầu của gói thầu. Đối với các

gói thầu thi công thì phần quan trọng nhất của hồ sơ mời thầu là các tài liệu

bản vẽ thiết kế và bảng khối lượng công việc. Hồ sơ mời thầu bao gồm các

nội dung như: yêu cầu kỹ thuật đối với gói thầu thi công bao gồm yêu cầu

theo hồ sơ thiết kế kỹ thuật kèm theo bảng tiên lượng, chỉ dẫn kỹ thuật và các

yêu cầu cần thiết khác; yêu cầu về tài chính bao gồm các chi phí để thực hiện

gói thầu, giá chào thầu và biểu giá chi tiết, phương thức và điều kiện cụ thể

của hợp đồng. Hồ sơ mời thầu sẽ là căn cứ cho nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự

thầu và bên mời thầu đánh giá hồ sơ dự thầu. Hồ sơ mời thầu không được

điều chỉnh, thay đổi sau khi các hồ sơ dự thầu đã được nộp. theo quy định

hiện nay, đối với các gói thầu thi công xây dựng, hồ sơ mời thầu phải được

thẩm định và phê duyệt trước khi phát hành.

Tổ chức đấu thầu: Quá trình tổ chức đấu thầu bao gồm các công đoạn

sau đây: Mời thầu, sơ tuyển, nộp hồ sơ dự thầu, mở thầu, xét thầu, công bố

trúng thầu, trao hợp đồng thầu, khiếu nại và xử lý vi phạm trong đấu thầu.

Mời thầu và sơ tuyển nhà thầu:

Để đảm bảo nguyên tắc khách quan, minh bạch và bình đẳng trong đấu

thầu, pháp luật yêu cầu các thông tin về đấu thầu phải được công khai, trong

41

đó có các thông tin phải công bố trong giai đoạn mời thầu. Các thông tin phải

được đăng tải trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia. Các thông tin được

khuyến khích đăng tải trên trang thông tin điện tử của bộ, ngành, địa phương

hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng khác. Thông báo mời thầu phải

có các nội dung sau đây:

- Tên, địa chỉ bên mời thầu;

- Đặc điểm và khối lượng, địa điểm của công trình hoặc đặc trưng của

dịch vụ và địa điểm nó được cung cấp; thời hạn mong muốn, yêu cầu thời hạn

hoàn tất công trình xây dựng hoặc thời hạn thực hiện điều khoản dịch vụ;

- Bản thông báo không được điều chỉnh sau đó về điều kiện tham gia

của nhà thầu xem xét theo quốc tịch hoặc khẳng định rằng chỉ giới hạn xem

xét trên cơ sở quốc tịch; các cách thức, địa điểm có được hồ sơ mời thầu, giá

hồ sơ mời thầu, đồng tiền và phương thức thanh toán với hồ sơ mời thầu, địa

điểm và thời hạn nộp hồ sơ dự thầu.

Phát hành, sửa đổi, làm rõ hồ sơ mời thầu: Hồ sơ mời thầu được phát

hành cho các nhà thầu tham gia đấu thầu rộng rãi hoặc cho các nhà thầu có

tên trong danh sách ngắn. Đối với nhà thầu liên danh, chỉ cần một thành viên

trong liên danh mua hoặc nhận hồ sơ mời thầu, kể cả trường hợp chưa hình

thành liên danh khi mua hoặc nhận hồ sơ mời thầu.

Nộp hồ sơ dự thầu:

Nộp hồ sơ dự thầu xác nhận thời điểm có hiệu lực của hồ sơ dự thầu và

việc điều chỉnh và rút lại hồ sơ dự thầu. Pháp luật Việt Nam quy định, hiệu

lực hồ sơ dự thầu bắt đầu khi nhà thầu nộp hồ sơ cho bên mời thầu đúng hạn

và theo đúng thủ tục thu nhận hồ sơ đã thông báo, việc điều chỉnh và rút lại hồ

sơ dự thầu thường được gắn với trách nhiệm bảo lãnh. Bên mời thầu có thể

yêu cầu các nhà thầu để kéo dài thêm thời hạn. Nhà thầu có thể từ chối và

được nhận lại bảo lãnh dự thầu và hiệu lực của hồ sơ dự thầu của họ sẽ chấm

42

dứt tại thời điểm hết hạn. Nếu nhà thầu đồng ý gia hạn đồng thời phải gia hạn

bảo lãnh dự thầu.

Mở thầu:

Thủ tục mở thầu tuy chỉ mang tính hình thức nhưng lại được quy định

chặt chẽ vì đây là thủ tục thể hiện tính công bằng và minh bạch của quá trình

đấu thầu. Hồ sơ dự thầu sẽ được mở tại thời điểm quy định trong hồ sơ mời

thầu, đó chính là thời hạn cuối cùng để nộp thầu hoặc thời hạn cuối cùng quy

định kéo dài thời hạn cuối cùng nộp thầu, tại địa điểm và phù hợp với các thủ

tục đã quy định trong hồ sơ mời thầu. Tất cả các nhà thầu đã nộp hồ sơ dự

thầu hoặc các đại diện của họ cần được bên mời thầu cho phép tới dự lễ mở

thầu. Tên và địa chỉ của mỗi nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu được mở và giá dự

thầu phải được công bố cho những người có mặt tại lễ mở thầu, phải thông

báo tới các nhà thầu không có đại diện và vắng mặt tại lễ mở thầu về các yêu

cầu đối với các nhà thầu đã nộp hồ sơ dự thầu và phải được ghi âm lại và lưu

giữ thông tin về quá trình đấu thầu.

Xét thầu:

Thủ tục xét thầu gồm kiểm tra, đánh giá và so sánh các hồ sơ dự thầu.

Khi xét thầu, bên mời thầu có thể yêu cầu các nhà thầu làm rõ về các hồ sơ dự

thầu để giúp cho việc đánh giá, xem xét và so sánh giữa các hồ sơ dự thầu.

Không chấp nhận các thay đổi để biến những hồ sơ không đáp ứng thành hồ

sơ đáp ứng được. Khi phát hiện các lỗi về số học, bên mời thầu phải hiệu

chỉnh và gửi thông báo về việc hiệu chỉnh với nhà thầu đã nộp hồ sơ dự thầu.

Bên mời thầu chỉ có thể coi là đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu khi hồ

sơ đó tuân thủ tất cả điều kiện đặt ra và thuận lợi lợi nhất về mặt kinh tế cũng

như kỹ thuật.

Công bố trúng thầu:

Hồ sơ dự thầu xác nhận là trúng thầu sẽ được công nhận và thông báo

trúng thầu công khai, thông báo trúng thầu sẽ được gửi văn bản cho nhà thầu.

43

Ký kết Hợp đồng thi công:

Sau khi có quyết định công nhận trúng thầu, nhà thầu và cơ quan có

thẩm quyền sẽ tổ chức thương thảo, đàm phán, soạn thảo hợp đồng và ký kết

hợp đồng thi công.

Trong Luật đấu thầu năm 2005 quy định 4 loại hợp đồng:

- Hợp đồng trọn gói

- Hợp đồng hợp đồng theo đơn giá

- Hợp đồng theo thời gian

- Hợp đồng theo tỷ lệ phần trăm

Tuy nhiên, hoạt động xây lắp trong từng trường hợp cụ thể rất phức tạp,

vì vậy pháp luật quy định cho các bên có thể ký nhiều loại hợp đồng trong

cùng một dự án đảm bảo hiệu quả của quá trình xây lắp công trình.

2.1.2.2 Các quy định về xây dựng và đầu tư công liên quan đến đấu

thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.

Khác với đấu thầu hàng hóa, dịch vụ thông thường chủ thể trong đấu

thầu xây dựng cơ bản phải đáp ứng những điều kiện khắt khe hơn. Điều này

có thể dễ dàng lý giải trong thực tế khi công trình xây dựng cơ bản là những

công trình có đặc điểm phức tạp, liên quan đến nhiều hạng mục khác nhau,

nhiều gói thầu với số lượng vốn lớn, thời gian thi công kéo dài... do đó, chủ

thể trong đấu thầu xây dựng cơ bản cần phải đáp ứng được những yêu cầu đó

để đảm bảo an toàn cho công trình cũng như hiệu quả mà nó mang lại. Chính

vì vậy. ngoài các quy định chung của Luật Đấu thầu, đấu thầu thi công các

công trình xây dựng có vốn nhà nước còn được điều chỉnh bởi luật xây dựng

với tư cách luật chuyên ngành ở các phương diện chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, Tiêu chuẩn nhà thầu thi công xây dựng: Theo quy định tại

Điểm b, Khoản 1, Điều 43 Luật Đấu thầu, nhà thầu cung cấp dịch vụ phi tư

vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp được xem xét, đề nghị trúng thầu

khi có năng lực và kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu. Khoản 2 các Điều 68, 86,

44

112 và Điều 121 Luật Xây dựng quy định nhà thầu tư vấn, thi công xây dựng

công trình có đủ điều kiện năng lực phù hợp với loại, cấp công trình và công

việc do mình thực hiện. Với các quy định nêu trên, việc yêu cầu nhà thầu

tham dự gói thầu là đáp ứng yêu cầu về năng lực để thực hiện gói thầu. Công

trình xây dựng là sản phẩm được xây dựng theo thiết kế; tạo thành bởi hao phí

lao động của con người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình,

được liên kết định vị với đất, có thể bao gồm cả phần dưới mặt đất, phần trên

mặt đất, phần dưới mặt nước và phần trên mặt nước. Công trình xây dựng rất

đa dạng, bao gồm công trình công cộng, nhà ở, công trình công nghiệp, giao

thông, thuỷ lợi, năng lượng và các công trình khác. Việc thực hiện các gói

thầu xây dựng đồng nghĩa với việc tạo lập các công trình xây dựng.

Các đặc điểm trên cho thấy, để đánh giá đúng đắn các hồ sơ dự thầu

xây lắp thì việc làm rõ, chứng minh được sự phù hợp giữa các giải pháp thực

hiện gói thầu với các đề xuất của nhà thầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Yêu

cầu đặt ra là tổ chuyên gia phải đánh giá được “cách thức nhà thầu sẽ làm ra

sản phẩm xây dựng theo yêu cầu của chủ đầu tư”. Tính cá biệt hoá của từng

nhà thầu đồng nghĩa với việc không có tiêu chuẩn kỹ thuật chung cho mọi hồ

sơ dự thầu. Do đó, các nội dung của giải pháp kỹ thuật được đánh giá tách rời

các đề xuất về giá và tiến độ của nhà thầu là không hợp lý. Nói cách khác,

việc đánh giá hồ sơ dự thầu về mặt kỹ thuật bằng phương pháp chấm điểm

hoặc “đạt/không đạt” riêng rẽ với đề xuất về giá và tiến độ không phản ánh

được đặc điểm hình thành sản phẩm xây dựng. Điều này khác hẳn với việc

lựa chọn nhà thầu cung cấp hàng hoá, do hàng hoá đã có sẵn nên việc xem xét

các thông số, tính năng kỹ thuật của hàng hoá bằng phương pháp chấm điểm

hoặc các tiêu chí “đạt/không đạt” là cần thiết.

Thứ hai, về thủ tục đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng vốn

ngân sách có đặc thù về hồ sơ mời thầu. Bên cạnh những tài liệu có trong hồ

sơ mời thầu thông thường, hồ sơ đấu thầu thi công còn có Kinh nghiệm thực

45

hiện các gói thầu tương tự về quy mô, tính chất kỹ thuật, điều kiện địa lý, địa

chất, hiện trường (nếu có); kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực sản xuất,

kinh doanh chính có liên quan đến việc thực hiện gói thầu;năng lực kỹ thuật:

Số lượng, trình độ cán bộ chuyên môn chủ chốt, công nhân kỹ thuật trực tiếp

thực hiện gói thầu và số lượng thiết bị thi công sẵn có, khả năng huy động

thiết bị thi công để thực hiện gói thầu.

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu thi công công trình

xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Thị xã Quảng Yên,

tỉnh Quảng Ninh

2.2.1 Về thẩm định, quyết định chương trình dự án đầu tư công

Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13; Nghị định số 136/2015/NĐ-CP

ngày 31/12/2015; Văn bản số 1101/BKHĐT-TH ngày 02/3/2015 của Bộ Kế

hoạch và Đầu tư về hướng dẫn một số nội dung về lập, thẩm định, phê duyệt

chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư chương trình, dự án đầu tư công theo

Luật Đầu tư công; Quyết định số 4119/2015/QĐ-UBND ngày 22/12/2015 của

UBND tỉnh ban hành Quy định về trình tự, thủ tục đầu tư các chương trình,

dự án đầu tư công trên địa bàn tỉnh. Ủy ban nhân dân thị xã Quảng Yên đã chỉ

đạo các phòng ban chức năng thực hiện các bước theo đúng quy định. Lập

Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư, trình Sở Kế hoạch đầu tư, phòng Tài

chính-Kế hoạch thẩm định để trình HĐND, UBND tỉnh, thị xã phê duyệt chủ

trương đầu tư theo từng dự án.

Việc lập, thẩm định, quyết định đầu tư: Tuân thủ Luật Xây dựng năm

2014, Nghị định 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015 của Chính phủ về quản lý

dự án đầu tư xây dựng công trình; Nghị định số 32/2015/NĐ-CP ngày

25/3/2015 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình.

- Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng tổ chức lựa chọn các đơn vị tư vấn

có đủ năng lực để thực hiện lập dự án đầu tư; trình các ban ngành, cấp thẩm

quyền thẩm định và phê duyệt dự án các bước theo đúng quy định trong xây

46

dựng cơ bản, đảm bảo chặt chẽ, thuận lợi cho giai đoạn lập Thiết kế kỹ thuật -

Dự toán; không có trường hợp khi thẩm định phải lập lại.

- Việc quản lý thực hiện chương trình: Quản lý thống nhất theo từng

nguồn vốn và kế hoạch giao vốn đầu năm, phân cấp quản lý được giao kế

hoạch trong năm.

- Việc lập, thẩm định, quyết định đầu tư dự án thành phần thuộc

chương trình: Thực hiện theo hướng dẫn của cấp trên.

- Tình hình thực hiện kế hoạch vốn đầu tư: Nguồn vốn đầu tư chủ yếu

ngân sách thị xã và vốn hỗ trợ của tỉnh, vốn Trung ương theo chương trình

mục tiêu quốc gia, vốn xã, phường còn thấp. Công tác giải ngân đảm bảo theo

kế hoạch

Việc lập, thẩm định phê duyệt thiết kế kỹ thuật, dự toán: Nhìn chung

các dự án thực hiện đúng trình tự, đảm bảo tiến độ đề ra; khi có Quyết định

phê duyệt dự án, lựa chọn đơn vị tư vấn tiến hành lập thiết kế - dự toán để

trình các Sở ngành, bộn phận chuyên môn thẩm định và trình phê duyệt.

2.2.2 Tình hình triển khai thực hiện các dự án đầu tư theo quy định:

Việc quản lý thực hiện dự án:

Công tác quản lý thực hiện dự án hiện nay thực hiện theo Luật Xây dựng số

50/2014/QH13, đối với các dự án do thị xã làm chủ đầu tư thì giao cho Ban

Quản lý dự án đầu tư xây dựng trực tiếp quản lý thực hiện, bám sát kế hoạch chi

tiết của từng dự án để thực hiện, đảm bảo tính đồng bộ khi thực hiện các dự án từ

khâu chuẩn bị đầu tư, lập dự án, lựa chọn nhà thầu và triển khai thi công.

Đối với các dự án có nhiều gói thầu, trên cơ sở tiến độ chung của dự án

và tiến độ của từng gói thầu được duyệt để xây dựng kế hoạch thi công từng

hạng mục phù hợp với tiến độ thi công của gói thầu; Tổ chức nghiệm thu

hàng tháng các hạng mục hoàn thành để giải ngân vốn.

- Ban giám sát cộng đồng của các dự án triển khai tại địa bàn các xã do

UBMT Tổ Quốc xã thành lập giám sát thực hiện theo Quyết định số

47

80/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ. Kết quả xử lý

sau giám sát đầu tư của cộng đồng: Chủ đầu tư đã bắt buộc các nhà thầu thi công

xử lý các sai phạm, bảo đảm chất lượng công trình.

-. Nhìn chung các dự án triển khai đảm bảo tiến độ đề ra; công tác đảm

bảo chất lượng luôn đặt lên hàng đầu, thực hiện theo đúng quy định về quản

lý chất lượng công trình, thi công đúng hồ sơ thiết kế bản vẽ và có sự giám sát

chặt chẽ về mặt kỹ thuật, chất lượng thi công từng hạng mục công trình. Hợp

đồng với các đơn vị chuyên môn để kiểm định chất lượng các hạng mục công

trình. Thành lập tổ giám sát của chủ đầu tư, tổ nghiệm thu phân công nhiệm vụ

cụ thể cho từng thành viên phụ trách phần hành công việc phù hợp để phát huy

hiệu quả công tác quản lý dự án. Tổ chức nghiệm thu khối lượng chặt chẽ thực

tế tại công trình hoàn thành theo từng hạng mục mới giải ngân; có khối lượng

nghiệm thu mới giải ngân, không có trường hợp nghiệm thu khống.

Qua xem xét báo cáo công tác giám sát đầu tư của cộng đồng chưa thấy có

những sai phạm lớn trong triển khai các dự án

2.2.3 Việc thực hiện kế hoạch vốn đầu tư, phân bổ vốn

Đến 31/12/2018 đã chuyển phiếu giá và giải ngân được 300.739 triệu

đồng/340.440 triệu đồng bằng 88,34% kế hoạch vốn:

+ Nguồn vốn Trung ương: Đã giải ngân 10.798 triệu đồng/10.798 triệu

đồng bằng 100% kế hoạch vốn.

+ Nguồn ngân sách tỉnh tập trung: Đã giải ngân 195.393 triệu

đồng/195.393 triệu đồng bằng 100% kế hoạch vốn.

+ Ngân sách thị xã: Đã giải ngân 94.549 triệu đồng/133.853 triệu đồng

bằng 70,64% kế hoạch vốn.

2.2.4 Công tác lựa chọn nhà thầu:

Công tác đấu thầu được thực hiện theo Luật đấu thầu số 43/2013/QH13

ngày 26/11/2013 và Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ

quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đấu thầu về lựa chọn nhà thầu.

48

Nhìn chung công tác đấu thầu được Ủy ban nhân dân thị xã thực hiện

đảm bảo theo quy định tại tất cả các giai đoạn như phê duyệt kế hoạch đấu

thầu, hồ sơ mời thầu, đăng báo đấu thầu, thông báo kết quả trúng thầu.

Năm 2018: Ban quản lý dự án công trình (nay là Ban quản lý dự án đầu

tư xây dựng) đã tổ chức 43 gói thầu quy mô nhỏ đấu thầu rộng rãi (tư vấn và

xây lắp) được đăng tải trực tiếp thông báo mời thầu trên hệ thống đấu thầu

quốc gia kể từ ngày 01/3/2018 và đăng tải trực tiếp kết quả lựa chọn nhà thầu

đảm bảo theo qui định, tổng giá trị các gói thầu: 934. 564,1triệu đồng.

Cụ thể: Tổng số gói thầu: 43 gói thầu. Trong đó:

+ Đấu thầu rộng rãi: 33 gói thầu.

+ Đấu thầu hạn chế: 01 gói thầu.

+ Chỉ định thầu: 8 gói thầu.

- Tổng giá gói thầu: 934,564,1 triệu đồng.

- Tổng giá trúng thầu: 934,564,1 triệu đồng.

- Hình thức lựa chọn nhà thầu

+ Đấu thầu rộng rãi, một giai đoạn hai túi hồ sơ: 4 gói thầu

+ Đấu thầu rộng rãi, một giai đoạn 1 túi hồ sơ: 31 gói thầu

+ Hình thức hợp đồng: Trọn gói

- Hình thức lựa chọn nhà thầu qua mạng hiện nay trên địa bàn thị xã

chưa áp dụng hình thức này.

Với các dự án hoàn thành, các ban ngành có liên quan tổ chức nghiệm

thu bàn giao đưa vào sử dụng. Đơn vị được nhận bàn giao công trình trực tiếp

khai thác, vận hành và sử dụng công trình. Các công trình đưa vào sử dụng

phát huy được hiệu quả đầu tư.

49

2.2.5 . Tình hình thực hiện việc đăng tải thông tin trong đấu thầu và

lựa chọn nhà thầu qua mạng.

Từ năm 2017, Ban Quản lý Dự án thị xã Quảng Yên đã thực hiện đăng

ký thông tin của đơn vị trên mạng đấu thầu Quốc gia với tư cách là bên mời

thầu và đã thực hiện đăng tải thông báo mời thầu trên mạng đấu thầu Quốc

gia. Các đơn vị còn lại vẫn thực hiện đăng tải thông tin trên báo đấu thầu;

Thực hiện Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-BKH-BTC Bộ Kế hoạch và

Đầu tư và Bộ Tài chính quy định chi tiết việc cung cấp thông tin về đấu thầu

và lựa chọn nhà thầu qua mạng có hiệu lực thi hành; Ủy ban nhân dân thị xã

Quảng Yên đã quán triệt Ban quản lý dự án và Trung tâm Phát triển quỹ đất là

bên mời thầu nghiêm túc thực hiện các quy định tại Thông tư này trên quan

điểm đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch trong đấu thầu, tạo cơ sở

pháp lý trong việc cung cấp, đăng tải thông tin về đấu thầu, khuyến khích

thực hiện đấu thầu qua mạng, áp dụng triệt để công nghệ thông tin, tạo sự

thuận lợi cho các bên khi cung cấp, đăng tải thông tin về đấu thầu;

2.2.6 Năng lực của đội ngũ cán bộ tham gia hoạt động đấu thầu.

Đến thời điểm hiện nay tất cả cán bộ tham gia công tác đấu thầu của thị xã

đều có chứng chỉ tham gia khóa học về đấu thầu, trong đó riêng Ban quản lý dự án

có 5/10 cán bộ công chức đã có chứng chỉ tham gia khóa học về đấu thầu và được

phổ biến quán triệt nội dung Luật Đấu thầu 2013 và Nghị định số 63/2015/NĐ-CP

đồng thời luôn cập nhật các quy định mới để vận dụng. Về kinh nghiệm và nghiệp

vụ, trong năm qua đội ngũ cán bộ tham gia công tác đấu thầu được nâng lên một

bước, từng bước đáp ứng được yêu cầu. Tỉnh đã tổ chức các lớp tập huấn và cấp

chứng chỉ đấu thầu theo quy định, đến nay hầu hết các cán bộ làm công tác đấu

thầu đều được cấp chứng chỉ đấu thầu. Năng lực quản lý của các chủ đầu tư trong

công tác đấu thầu cơ bản đáp ứng yêu cầu. Hầu hết cán bộ của các ban quản lý dự

án trên địa bàn tình đều có chứng chỉ về đấu thầu

50

2.3 Đánh giá pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu

thi công công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước qua

thực tiễn Thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh

2.3.1 Đánh giá pháp luật đấu thầu thi công các công trình xây dựng

bằng nguồn vốn ngân sách qua thực tiễn thị xã Quảng Yên, Tỉnh Quảng Ninh

2.3.1.1 Ưu điểm:

Sau 4 năm thi hành, Luật đấu thầu đã góp phần nâng cao tính hiệu quả

công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát công tác đấu thầu của các cơ quan nhà

nước, các chủ đầu tư, bên mời thầu và nhà thầu, từng bước chuyên nghiệp hóa

trong hoạt động đấu thầu. Thực hiện lựa chọn nhà thầu theo luật đấu thầu

trong những năm gần đây đã giảm được vốn đầu tư khoảng 7 – 8% là một kết

quả đáng ghi nhận. Phải ghi nhận Luật đấu thầu đã có rất nhiều tiến bộ so với

Luật đấu thầu số 61/2005 về nhiều mặt, đấu thầu giá thấp hay đấu thầu là

cuộc đấu giá mà cả xã hội bức xúc tuy chưa được chấm dứt nhưng đã có

nhiều thay đổi, Luật đã có “khắc chế” để các chủ đầu tư lựa chọn áp dụng.

Một điểm đáng ghi nhận Luật đấu thầu đã thể chế hóa về pháp luật

được cho gần hết các hoạt động đầu tư, mua sắm, cung cấp các hàng hóa, dịch

vụ trong các hoạt động sử dụng vốn nhà nước, trong đó phải kể đến như đấu

thầu mua thuốc trong ngành y tế, đấu thầu quyền sử dụng đất, các dịch vụ tư

vấn phi tư vấn…

Đấu thầu trong hoạt động xây dựng là để phát huy mặt mạnh của cơ chế

cạnh tranh nhằm đạt được các mục tiêu là công trình có chất lượng tốt, giá cả

hợp lý và thời gian xây dựng ngắn. Muốn vậy thì công tác đấu thầu phải tuân

thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc công khai, công bằng, minh bạch. Theo đó

pháp luật trong đấu thầu phải hướng dẫn, quy định để các chủ thể hoạt động

đấu thầu như chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn lựa chọn nhà thầu… đạt được các

nguyên tắc đó, công khai đối với toàn bộ quá trình đấu thầu từ lập kế hoạch

đấu thầu đến khi giao thầu ký kết hợp đồng với nhà thầu; công bằng là thực

51

hiện các thủ tục, triển khai trong suốt quá trình mở thầu, xét chọn thầu; còn

bình đẳng là điều kiện mà bên giao thầu phải tạo ra cho các bên dự thầu, đồng

thời cũng là mối quan hệ giữa các bên giao thầu với bên nhận thầu. Nguyên

tắc chỉ có vậy nhưng thiết chế pháp luật và thực thi trong thực tiễn lại vô cùng

khó khăn. Để thực hiện các nguyên tắc này vì vậy mà Luật đấu thầu luôn phải

có các chế tài để chống được các hiện tượng thông đồng, móc ngoặc thỏa

thuận ngầm giữa bên giao thầu với bên nhận thầu hay giữa các bên dự thầu

với nhau để giành được gói thầu, để nâng giá… Theo đánh giá của tôi, Luật

đấu thầu đã tập trung các chế tài để đạt được các mục tiêu đó.

Luật đấu thầu còn tiệm cận ngày một gần với các quy định của thông lệ

quốc tế (về phương pháp đánh giá, kỹ thuật xét tuyển, hợp đồng…) và tiến tới

các dự án sử dụng các nguồn vốn ODA, các nguồn vốn khác sẽ có cùng hay

dùng chung một chế tài là Luật đấu thầu Việt nam.

Luật Xây dựng và các văn bản hướng dẫn đã tạo hành lang pháp lý để

thực hiện quản lý chất lượng công trình xây dựng, từ khâu khảo sát, thiết kế, thi

công xây dựng cho đến nghiệm thu, bàn giao, bảo hành, bảo trì công trình xây

dựng; quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, nội dung, thẩm quyền lập, thẩm

định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, công tác giám sát

thi công xây dựng, là những yếu tố có tác động rất lớn đến chất lượng công

trình; đồng thời xác định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư, tư vấn và nhà thầu thi

công xây dựng, cũng như đã có quy định về trách nhiệm của các cơ quan quản lý

nhà nước chuyên ngành trong công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng.

Nhìn chung, công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng của các

chủ thể tham gia hoạt động xây dựng đã có những chuyển biến theo hướng

tích cực và từng bước đi vào nề nếp, phần lớn các chủ thể tham gia hoạt động

xây dựng đã có ý thức tuân thủ đúng các quy định về quản lý chất lượng công

trình xây dựng, nhờ đó chất lượng công trình xây dựng đã được nâng lên. Mô

hình Hội đồng nghiệm thu nhà nước các công trình xây dựng được thành lập

52

theo quy định của Luật để giúp Thủ tướng Chính phủ kiểm tra công tác

nghiệm thu các công trình quan trọng quốc gia, công trình có quy mô lớn,

phức tạp đã phát huy hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng đối với các

công trình loại này.

Hệ thống các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn xây dựng đã được hình

thành trong nhiều năm qua và liên tục được bổ sung, hoàn thiện, đến nay cơ

bản đã phủ kín các lĩnh vực hoạt động đầu tư xây dựng, là một trong những

công cụ quan trọng để quản lý và nâng cao chất lượng công trình. Bộ Xây

dựng đã ban hành 18 quy chuẩn kỹ thuật, hơn 1250 tiêu chuẩn quốc gia về kỹ

thuật xây dựng (chiếm 1/5 tổng số các tiêu chuẩn kỹ thuật của cả nước), bao

gồm các lĩnh vực tiêu chuẩn hóa của ngành xây dựng; công tác quy hoạch xây

dựng đô thị và nông thôn; công tác khảo sát, thiết kế, thi công và nghiệm thu

các công trình xây dựng; đảm bảo an toàn phòng chống cháy nổ; quản lý chất

lượng sản phẩm hàng hóa vật liệu xây dựng... Bộ cũng đã ban hành Thông tư

số 18/2010/TT-BXD ngày 15/10/2010 “Quy định việc áp dụng quy chuẩn,

tiêu chuẩn trong hoạt động xây dựng”, trong đó có việc áp dụng các tiêu

chuẩn xây dựng nước ngoài tại Việt Nam để đáp ứng tốt hơn yêu cầu quản lý

chất lượng công trình.

Việc quy định điều kiện năng lực của tổ chức, cá nhân khi tham gia

hoạt động xây dựng (bao gồm cả nhà thầu xây dựng và tổ chức, cá nhân tư

vấn nước ngoài hoạt động xây dựng tại Việt Nam) là một trong các yếu tố để

đảm bảo chất lượng tư vấn và thi công xây dựng; đồng thời cũng tạo sự cạnh

tranh để các doanh nghiệp hoạt động xây dựng, các cá nhân hành nghề xây

dựng tự nâng cao năng lực của mình đáp ứng yêu cầu của thị trường xây

dựng.

Số lượng người đăng ký và đủ điều kiện được cấp chứng chỉ hành nghề

để đảm nhận các chức danh: chủ nhiệm đồ án quy hoạch; lập, thẩm tra dự án;

chủ nhiệm, chủ trì thiết kế xây dựng, thẩm tra thiết kế; tư vấn giám sát thi

53

công xây dựng, kỹ sư định giá xây dựng tăng lên hàng năm, qua đó góp phần

nâng cao chất lượng đồ án quy hoạch, chất lượng dự án, chất lượng thiết kế và

chất lượng xây dựng công trình.

Với các quy định về điều kiện năng lực hoạt động xây dựng, các doanh

nghiệp tư vấn xây dựng, doanh nghiệp thi công xây dựng, các ban quản lý dự

án đã từng bước kiện toàn và nâng cao năng lực của tổ chức, nhờ đó chất

lượng các dự án, công trình xây dựng đã được nâng lên đáng kể. Các doanh

nghiệp hoạt động xây dựng trong nước đã có bước trưởng thành vượt bậc, đủ

năng lực tổng thầu thiết kế, thi công nhiều công trình có quy mô lớn, áp dụng

công nghệ mới, kỹ thuật tiên tiến ngang tầm khu vực và quốc tế như: nhà cao

tầng, công trình cầu, đường cao tốc, nhà máy xi măng, nhà máy nhiệt điện,

thủy điện...

2.3.1.2 Những bất cập của pháp luật:

Thứ nhất, vẫn còn sự chồng chéo giữa pháp luật về đấu thầu với pháp

luật xây dựng trong việc điều chỉnh vấn đề đấu thầu thi công các công trình

xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Khi thảo luận về Luật đấu

thầu 2013, có rất nhiều ý kiến cho rằng cần có những đạo luật riêng về đấu

thầu trong các lĩnh vực cụ thể trong đó có lĩnh vực đấu thầu trong xây dựng

cơ bản. Tuy nhiên, Luật đấu thầu 2013 đã được xây dựng theo hướng thống

nhất các nội dung trong các văn bản quy phạm pháp luật khác quy định về

hoạt động đấu thầu, góp phần xử lý được mối quan hệ giữa luật đấu thầu này

với các luật khác có liên quan đến việc lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư đối với

các gói thầu, dự án sử dụng nguồn vốn nhà nước, kịp thời khắc phục những

hạn chế, khó khăn, vướng mắc, đáp ứng yêu cầu quản lý công tác đấu thầu.

Quá trình thực hiện, luật đấu thầu này cho thấy vẫn còn sự thiếu thống nhất

giữa pháp luật đấu thầu với pháp luật chuyên ngành như, xây dựng, mua sắm

công, cạnh tranh, đầu tư công.... Ví dụ, liên quan đến hợp đồng xây dựng cả

Luật đấu thầu 2013 và Luật xây dựng đều quy định cùng nội dung về Hợp

54

đồng. Trong đó lại có những nội dung hướng dẫn lại khác nhau, tình hình đó

đang gây nhiều vướng mắc khi thực hiện. Kiến nghị: chỉ nên quy định ở một

luật mà nên quy định ở Luật xây dựng. Riêng công tác đấu thầu quốc tế thì

thực hiện theo hướng dẫn của FIDIC. Luật phải quy định bắt buộc chủ đầu tư

phải tuân thủ các quy định về hợp đồng, tình trạng lựa chọn bỏ các quy định

bất lợi cho chủ đầu tư (ví dụ: sử phạt, đền bù, tiến độ giao mặt bằng, kéo dài

thời gian…) đang diễn ra khá phổ biến.

Có sự không thống nhất giữa pháp luật Đấu thầu và pháp luật cạnh

trạnh. Cụ thể: Theo quy định tại khoản 1, Điều 9, Luật cạnh tranh, hành

vi thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung

cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ, sản phẩm xây lắp bị cấm một cách tuyệt đối.

Điều đó là bởi hành vi này có bản chất hạn chế cạnh tranh rõ nét, có khả năng

làm vô hiệu cơ chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu. Vì vậy, hành vi này

cũng không có cơ hội được hưởng miễn trừ theo quy định tại Điều 10, Luật

cạnh tranh. Các hành vi vi phạm sẽ bị điều tra và xử lý theo các quy trình và

thủ tục của tố tụng cạnh tranh, bao gồm quá trình điều tra sơ bộ, điều tra chính

thức và xử lý. Các hoạt động điều tra sơ bộ, điều tra chính thức phải trên cơ

sở các điều kiện luật định và phải trong những khoảng thời gian xác định. Cơ

quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều tra là Cục Quản lý cạnh

tranh. Hội đồng cạnh tranh là cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử lý.

Theo quy định tại Điều 117 và 118, Luật cạnh tranh, hình thức xử lý đối với

bên vi phạm có thể là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền, và mức phạt tiền tối đa có

thể lên tới 10% tổng doanh thu của bên vi phạm trong năm tài chính trước

năm thực hiện hành vi vi phạm. Ngoài ra, bên vi phạm có thể bị áp dụng các

hình phạt bổ xung và các biện pháp khắc phục hậu quả.

Theo quy định tại Điều 90, Luật đấu thầu 2013, tổ chức, cá nhân vi

phạm pháp luật về đấu thầu và quy định khác của pháp luật có liên quan thì

tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành

chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp hành vi vi phạm

55

pháp luật về đấu thầu gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích

hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của

pháp luật. Ngoài ra, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi

phạm pháp luật về đấu thầu còn bị cấm tham gia hoạt động đấu thầu và đưa

vào danh sách các nhà thầu vi phạm trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia.

Thứ hai, Vấn đề năng lực nhà thầu đã được bàn, trao đổi rất nhiều qua

hội thảo, qua những hội nghị chuyên môn khi dự thảo Luật nhưng vẫn còn

nhiều ý kiến khác nhau. Năng lực nhà thầu và năng lực hoạt động của doanh

nghiệp là hai hay là một. Do chưa hiểu thống nhất nên Luật đấu thầu yêu cầu

nhà thầu phải có năng lực đáp ứng yêu cầu gói thầu và yêu cầu nhà thầu phải

đăng tải trên mạng đấu thầu quốc gia; Còn Luật xây dựng lại quy định doanh

nghiệp hoạt động xây dựng phải có đủ năng lực hoạt động theo quy định của

pháp luật và phải “có trách nhiệm đăng ký thông tin về năng lực hoạt động

xây dựng của mình với Bộ Xây dựng, Sở Xây dựng”. Xét cho cùng thì năng

lực để phù hợp với gói thầu mới là quan trọng đối với một doanh nghiệp. Vì

vậy cần giảm bớt thủ tục để doanh nghiệp giảm khó khăn, giảm bớt chi phí.

Bên cạnh đó, Luật Xây dựng tại điểm b mục 1, Điều 96 qui định “chọn được

nhà thầu có đủ điều kiện năng lực hoạt động xây dựng, năng lực hành nghề

xây dựng phù hợp, có giá dự thầu hợp lý Luật Đấu thầu: Tại mục 4 Điều 38

qui định chọn nhà thầu “có chi phí thấp nhất trên cùng một mặt bằng”. Việc

thống nhất giữa “giá dự thầu hợp lý” và “có chi phí thấp nhất trên cùng một

mặt bằng” là cần thiết đặc biệt phải có Tiêu chí cụ thể đánh giá thế nào là “giá

dự thầu hợp lý” hay “chi phí thấp nhất trên cùng một mặt bằng”. Các tiêu chí

này qui định trong Nghị định 16 chưa rõ, thiếu cụ thể, còn Nghị định hướng

dẫn về Luật Đấu thầu thì chưa có vì vậy cần có sự thống nhất về từ dùng

trong qui định của 2 Luật và thống nhất các tiêu chí đánh giá, một số ý kiến

còn cho rằng cần tính thêm điểm kỹ thuật vào giá chọn thầu này.

Luật doanh nghiệp quy định Xây dựng là một loại nghề được thực hiện

với các điều kiện hay nói cách khác, đây là hành nghề có điều kiện. Luật xây

56

dựng quy định Cơ quan chuyên môn thuộc Bộ Xây dựng có thẩm quyền, Sở

Xây dựng sát hạch, cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là việc làm

mang tính hành chính chưa phản ánh bản chất của vấn đề năng lực nhà thầu

xây dựng. Hiệp hội kiến nghị cần thay đổi hình thức tiền kiểm này bằng hình

thức hậu kiểm. Theo đó, Nhà thầu có trách nhiệm đăng ký và chịu trách nhiệm

tính trung thực thông tin, cơ quan có thẩm quyền của Bộ Xây dựng hay các Sở

xây dựng có trách nhiệm tiếp nhận thông tin và cấp cho họ giấy chứng nhận đã

đăng ký năng lực (Thực hiện trên hệ thống mạng). Trên cơ sở đó cơ quan quản

lý nhà nước xem xét, kiểm tra và đăng tải để công bố năng lực. Cách làm này

sẽ đảm bảo rằng tất cả các doanh nghiệp. Chủ đầu tư sẽ kiểm tra tất cả các điều

kiện năng lực của các nhà thầu phù hợp với gói thầu, của các tổ chức đã đăng

ký. Việc này tạo điều kiện để tất cả nhà thầu khi tham gia đấu thầu sẽ không vi

phạm Luật xây dựng.

Thứ ba, Về đánh giá hồ sơ dự thầu, Trong quy định đánh giá hồ sơ dự

thầu thi công chưa đưa ra được các tiêu chuẩn và phương pháp phù hợp để

đánh giá năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu dự thầu nên việc đánh giá còn

mang tính chủ quan. Việc quy định bước đánh giá về mặt kỹ thuật của gói

thầu xây lắp chưa đáp ứng được yêu cầu của việc lựa chọn nhà thầu xây dựng.

Phương án kỹ thuật được chọn trong hồ sơ dự thầu chưa chặt chẽ, còn quá sơ

sài nên việc áp dụng nó sau khi thắng thầu còn hạn chế do thiếu tính chính

xác, tính thực tiễn. Còn thiếu các hướng dẫn cụ thể trong việc xác định giá

đánh giá của hồ sơ dự thầu xây lắp. Quy trình tổ chức đánh giá hồ sơ dự thầu

xây lắp mất nhiều thời gian, làm tăng thời gian tổ chức đấu thầu và thực hiện

gói thầu xây lắp.

Thứ tư, về bảo lãnh hợp đồng thi công xây dựng, trong quan hệ hợp

đồng, phía nhà thầu phải thực hiện bảo lãnh hợp đồng, bảo lãnh thanh toán

nhưng chủ đầu tư lại không chịu trách nhiệm gì. Tình hình đó là không bình

đẳng và đây là nguyên nhân dẫn đến nợ đọng đã kéo dài nhiều năm nay. Vì

vậy để hạn chế tình trạng nợ đọng XDCB cần có chế tài đối với chủ đầu tư

57

theo nguyên tắc: chủ đầu tư phải thực hiện bảo lãnh để đảm bảo vốn cho nhà

thầu thực hiện gói thầu. Khi thanh toán còn 30% giá trị hợp đồng thì chủ đầu

tư phải thực hiện bảo lãnh giá trị thanh toán cho nhà thầu, Nghị định số:

37/2015/NĐ-CP cũng có đề cập vấn đề này nhưng chưa có cơ sở và chưa cụ

thể, đề nghị chế tài này cần được đưa vào Luật xây dựng. Nhà thầu được

quyền dừng thi công nếu chủ đầu tư không cam kết có vốn thanh toán khi nhà

thầu đã hoàn thành khối lượng và thực hiện đủ thủ tục thanh toán theo quy

định và gây nợ đọng XDCB.

Thứ năm, có sự không phù hợp giữa pháp luật Việt nam và pháp luật

quốc tế đặc biệt trong bối cảnh chúng ta đã gia nhập Hiệp định TPP và sắp tới

là Hiệp định thương mại Việt Nam- EU (EVFTA). Ví dụ như vấn đề chỉ định

thầu được coi là không minh bạch và không đảm bảo tính cạnh tranh, bình

đẳng trong đấu thầu. Theo tổng kết của Bộ kế hoạch đầu tư, hiện nay hình

thức chỉ định thầu vẫn chiếm 70% và 45% tổng vốn đầu tư công.

2.3.2 Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về đấu thầu thi công các

công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách qua thực tiễn thị xã Quảng

Yên, Tỉnh Quảng Ninh.

Thị xã Quảng Yên được thành lập theo nghị quyết 100/NQ – CP của

Chính Phủ ngày 25 tháng 11 năm 2011, đến nay thị xã đã có bước chuyển

biến rõ nét về mọi mặt và nơi đây cũng là mảnh đất giàu truyền thống lịch sử

và văn hóa. là đơn vị hành chính ven biển nằm ở phía Tây Nam của tỉnh

Quảng Ninh. Thị xã Quảng Yên có 19 đơn vị hành chính gồm 11 phường và 8

xã, với ngành nghề chủ yếu là thuần nông và nuôi trồng thủy hải sản, trung

tâm thị xã là phường Quảng Yên. Do có lợi thế về vị trí địa lý, vì vậy mà

trong những năm gần đây thị xã có sự vươn lên phát triển toàn diện về kinh tế,

xã hội, an ninh, quốc phòng.

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng bộ, chính quyền thị xã

Quảng Yên xác định sau khi tái lập thị xã là tập trung làm tốt công tác quy

hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị. Nhờ vậy, mà diện mạo của đô thị

58

Quảng Yên thời gian qua đã thay đổi nhanh chóng. Quảng Yên đang từng

bước phấn đấu trở thành đô thị văn minh, hiện đại theo hướng phát triển đô

thị xanh, hài hòa với thiên nhiên. Cả thị xã hiện tại như một đại công trường

vì có nhiều dự án đồng loạt triển khai, đặc biệt là dự án cao tốc 5B chạy qua

thị xã với chiều dài hơn 27km nối Quảng Ninh với Hải Phòng. Khi dự án

hoàn thành sẽ tạo nhiều cơ hội để Thị xã phát triển kinh tế, thu hút nhiều dự

án đầu tư của nước ngoài. Với lợi thế đường biển tiếp giáp với khu công

nghiệp Đình Vũ, thành phố Hải Phòng, cùng sự góp sức của tuyến đường cao

tốc 5B sẽ là điều kiện vô cùng thuận lợi để thị xã Quảng Yên thu hút đầu tư,

mở cửa giao lưu thương mại với các địa phương trong nước cũng như quốc tế,

đặc biệt là phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ, du lịch, công nghiệp

đóng, sửa chữa tàu biển, dịch vụ cảng và vận tải biển, phát triển khu du lịch di

tích lịch sử Bạch Đằng gắn với khu du lịch Tuần Châu (Hạ Long) và khu du

lịch sinh thái nghỉ dưỡng Cát Bà (Hải Phòng)… bằng đường biển và liên kết

không gian kinh tế với các thành phố Hạ Long, Hải Phòng để tạo thành trục

kinh tế động lực ven biển Hải Phòng – Thị xã Quảng Yên – Hạ Long của

vùng kinh tế trọng điểm Đông Bắc Bộ. Quảng Yên cũng đang phát huy thế

mạnh ngành công nghiệp và xây dựng để phát triển kinh tế biển, kinh tế công

nghiệp. Đến nay, một số cụm công nghiệp trên địa bàn đã và đang được đầu

tư, đi vào hoạt động như: Cụm công nghiệp sửa chữa và đóng mới tàu thuyền

Hà An, Cụm công nghiệp Tiền Phong… Đồng thời, thị xã quan tâm đầu tư

lớn cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là các công trình trọng điểm, các

tuyến giao thông chính, hạ tầng đô thị và nông thôn. Hiện nay trên địa bàn thị

xã Quảng Yên đã và đang hội tụ nhiều công trình trọng điểm không chỉ của

tỉnh Quảng Ninh mà xét về mặt tầm vóc, quy mô lợi ích thì những công trình

đó còn là những công trình mang lại sức bật về phát triển kinh tế cho cả vùng

tam giác Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, tiêu biểu như những công trình

đầu tư trong lĩnh vực giao thông vận tải, tuyến đường Cầu Chanh – Uông Bí,

Cầu Chanh – Liên Vị được xây mới, tuyến đường Biểu Nghi – Phà Rừng

59

được lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng, giờ đây như những mạch máu lưu

thông chính không chỉ tạo diện mạo mới cho thị xã Quảng Yên mà còn nâng

tầm về phát triển giao thương thuận lợi cho con người nơi đây. Một cuộc sống

mới đang mở ra với rất nhiều kỳ vọng. Trong thời gian không xa, thị xã

Quảng Yên sẽ có bước chuyển mình mạnh mẽ và phát triển toàn diện về mọi

mặt xứng đáng là địa phương anh hùng nơi miền tây nam của tỉnh Quảng

Ninh.

Do đặc điểm kinh tế - xã hội của thị xã Quảng Yên hiện nay với nhiều cơ

hội phát triển như vậy, Đảng bộ, Chính quyền địa phương rất quan tâm đến

việc đào tạo chuyên môn cho đội ngũ cán bộ. Đặc biệt các cán bộ kỹ thuật

nghành xây dựng, đến thời điểm hiện nay tất cả cán bộ tham gia công tác đấu

thầu của thị xã đều có chứng chỉ tham gia khóa học về đấu thầu. Trong đó

riêng Ban quản lý dự án Đầu tư xây dựng có 2/3 cán bộ công chức đã có

chứng chỉ tham gia khóa học về đấu thầu và được phổ biến quán triệt nội

dung Luật Đấu thầu 2013 và Nghị định số 63/2015/NĐ-CP đồng thời luôn

cập nhật các quy định mới để vận dụng. Về kinh nghiệm và nghiệp vụ, trong

năm qua của đội ngũ cán bộ tham gia công tác đấu thầu được nâng lên một

bước, từng bước đáp ứng được yêu cầu. Tỉnh Quảng Ninh đã tổ chức các lớp

tập huấn và cấp chứng chỉ đấu thầu theo quy định, đến nay hầu hết các cán bộ

làm công tác đấu thầu đều được cấp chứng chỉ đấu thầu. Năng lực quản lý của

các chủ đầu tư trong công tác đấu thầu cơ bản đáp ứng yêu cầu. Hầu hết cán

bộ của các ban quản lý dự án trên địa bàn tỉnh đều có chứng chỉ về đấu thầu.

Công tác đấu thầu trong năm đã đi vào nề nếp, các chủ đầu tư quan tâm hơn

đến công tác đấu thầu theo trình tự thủ tục của quy chế hiện hành, tích lũy về

kinh nghiệm và nghiệp vụ thuộc lĩnh vực đấu thầu được nâng lên, chất lượng

công tác đấu thầu ngày càng được nâng cao, hiệu quả. Ngoài ra, UBND tỉnh

chỉ đạo tăng cường cải cách hành chính, ban hành quy chế “một cửa” trong cải

cách hồ sơ thủ tục đấu thầu, góp phần quan trọng trong việc giải quyết hồ sơ

thủ tục trong công tác đấu thầu

60

Trong quá trình kiểm tra cho thấy thời gian qua các chủ đầu tư trên địa

bàn thị xã Quảng Yên thực hiện trình tự, thủ tục trong đầu tư xây dựng cơ bản

đáp ứng theo quy định của Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu và các văn bản

hướng dẫn của Bộ, Ngành. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được còn một

số hạn chế, cụ thể như sau:

Chất lượng của một số công việc chuẩn bị cho đấu thầu vẫn còn bất cập:

Xuất phát từ năng lực của chủ đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu phân

cấp cũng như đội ngũ tư vấn đấu thầu, chuyên gia đấu thầu còn hạn chế về số

lượng và chất lượng nên công tác lập, trình và phê duyệt kế hoạch đấu thầu -

công cụ định hướng, kim chỉ nam cho toàn bộ quá trình đấu thầu chưa được

thực hiện theo quy định. Qua kiểm tra công tác đấu thầu, nhiều địa phương

không phê duyệt kế hoạch đấu thầu tổng thể mà chỉ phê duyệt cho từng gói

thầu hoặc nếu có thì chưa đầy đủ như không bao gồm các gói thầu tư vấn, gói

thầu xây lắp áp dụng hình thức chỉ định thầu, kế hoạch đấu thầu không chia

thành 4 phần công việc rõ ràng nên khi kiểm tra có nhiều dự án vượt tổng

mức đầu tư đã duyệt nhưng không được phê duyệt điều chỉnh, từ đó dẫn đến

sự chậm trễ hoàn thành công trình do không bố trí đủ vốn và gây nợ đọng trong

xây dựng cơ bản. Ngoài ra, phần thuyết minh về các nội dung của từng gói thầu

hoặc cả kế hoạch đấu thầu còn sơ sài, đơn giản; thời gian tổ chức đấu thầu trong

kế hoạch đấu thầu còn chưa phù hợp với khả năng bảo đảm vốn thanh toán, hồ

sơ trình duyệt kèm theo còn thiếu. Việc phân chia gói thầu chưa căn cứ vào

tính đồng bộ về mặt kỹ thuật và quy mô triển khai. Giá gói thầu hầu hết còn tạm

tính, công tác thẩm định giá gói thầu còn bất cập, thiếu cơ sở pháp lý. Quyết

định phê duyệt kế hoạch đấu thầu còn phê duyệt cả phần công việc đã thực hiện,

công việc không tổ chức đấu thầu, thời gian thực hiện hợp đồng bao gồm cả

thời gian bảo hành công trình.

Chất lượng của hồ sơ mời thầu vẫn còn nhiều bất cập. Trong một số

trường hợp chỉ vì một vài chi tiết trong hồ sơ mời thầu do tư vấn lập không

chuẩn xác mà có thể dẫn đến phức tạp trong đánh giá hồ sơ dự thầu, phải xử

61

lý tình huống gây chậm trễ. Trong một số trường hợp khác còn phải hủy đấu

thầu làm ảnh hưởng đến tiến độ dự án và lãng phí tiền của nhà nước. Vẫn còn

không ít các đơn vị tổ chức thực hiện đấu thầu không đúng quy trình; hồ sơ

mời thầu ( HSMT), hồ sơ yêu cầu ( HSYC) của một số gói thầu không đúng

theo Quyết định đầu tư, thiết kế kỹ thuật được duyệt cũng như không có tiêu

chuẩn đánh giá năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu dẫn đến sai lệch kết quả

đấu thầu hoặc quá trình thực hiện gói thầu kéo dài. Tiêu chuẩn đánh giá của

một số gói thầu còn mang tính chủ quan, chưa rõ ràng và chưa phù hợp với

tính chất kỹ thuật của trang thiết bị, phương pháp xác định “giá đánh giá”

trong đánh giá về mặt tài chính còn sơ sài, thiếu tính khoa học. Việc lập

HSMT và hợp đồng còn sơ sài, nhất là các điều kiện cụ thể của hợp đồng,

điều chỉnh hợp đồng nên quá trình thực hiện không có chế tài để quản lý hợp

đồng dẫn đến chậm tiến độ thực hiện của gói thầu.

Bên cạnh đó năng lực chuyên môn của nhiều chủ đầu tư, bên mời thầu

đặc biệt là ở cấp huyện, xã, khu vực vùng sâu, vùng xa, các bệnh viện, trường

học.. còn hạn chế do các chủ đầu tư, bên mời thầu chưa có kinh nghiệm, tính

chuyên môn chưa cao dẫn đến chất lượng của hoạt động đấu thầu chưa được

đảm bảo. Ở rất nhiều địa phương, một số chủ đầu tư là Giám đốc bệnh viện,

Hiệu trưởng trường học.. rất ngại xem xét, phê duyệt kết quả đấu thầu vì thiếu

chuyên môn về lĩnh vực quản lý nhà nước về đấu thầu nhưng lại cũng e ngại

về chất lượng của các tổ chức tư vấn đấu thầu. Do đó, các chủ đầu tư nêu trên

vẫn trông mong vào sự hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước có chức năng quản

lý nhà nước về đấu thầu.

Chất lượng của một số đơn vị tư vấn ở địa phương còn hạn chế, đặc

biệt là tư vấn đấu thầu. Nhiều hồ sơ do các đơn vị tư vấn lập để chủ đầu tư

phê duyệt không đạt yêu cầu, có nhiều sai sót dẫn đến hồ sơ không đạt chất

lượng và yêu cầu theo quy định, kéo dài thời gian thẩm định, ảnh hưởng đến

tiến độ thực hiện dự án.

62

Sản phẩm của quá trình đấu thầu cuối cùng là hợp đồng ký kết giữa chủ

đầu tư và nhà thầu trúng thầu. Hiệu quả đạt được từ công tác đấu thầu phụ

thuộc rất nhiều vào việc thực hiện nghĩa vụ và ràng buộc giữa chủ đầu tư và

nhà thầu như đã nêu trong hợp đồng. Tuy nhiên, theo báo cáo của các địa

phương thì trong một số trường hợp việc quản lý thực hiện hợp đồng còn

chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt là trong bối cảnh giá cả leo thang.

Bên cạnh đó, công tác quản lý nhà thầu trong quá trình thi công chưa chặt

chẽ, một số nhà thầu sau khi trúng thầu không bố trí đủ nhân lực, thiết bị, tài

chính đảm bảo tiến độ thi công như hồ sơ dự thầu và hợp đồng đã ký kết

nhưng chủ đầu tư chưa có biện pháp tích cực xử lý chế tài đối với nhà thầu.

Nhìn chung công tác đấu thầu chịu nhiều ảnh hưởng của tình trạng lạm

phát kinh tế trong nước cũng như thế giới. Do đó các nhà thầu có tâm lý e

ngại tham gia đấu thầu, trong một số trường hợp ở các gói thầu xây lắp, nhà

thầu có tâm lý thực hiện hợp đồng cầm chừng để được điều chỉnh giá trị hợp

đồng khi có các thay đổi về chính sách của nhà nước về tiền lương, giá ca máy...

Trong một số trường hợp khác, nhà thầu khi thực hiện hợp đồng đã không đảm

bảo được năng lực tài chính dẫn đến chậm trễ trong triển khai dự án.

Ngoài ra, một số chủ đầu tư chưa quan tâm thực hiện công tác giám sát

thi công, đôn đốc các nhà thầu xây lắp đảm bảo tiến độ đúng quy định và việc

bảo đảm thực hiện hợp đồng theo quy định còn ít được các chủ đầu tư thực

hiện theo quy định của pháp luật, một số nơi khi nhà thầu thực hiện nghĩa vụ

bảo đảm thực hiện hợp đồng không đúng với thời hạn của hợp đồng nhưng

vẫn được chủ đầu tư bỏ qua.

Bên cạnh đó, nhiều công trình đã lựa chọn được nhà thầu nhưng chưa

hoàn thành bồi thường giải phóng mặt bằng, sau khi ký hợp đồng vẫn chưa có

mặt bằng thi công hoặc quá trình thi công phải tạm dừng vì một số vị trí

không giải phóng được mặt bằng theo tiến độ, gây khó khăn rất lớn cho nhà

thầu, tiến độ thi công phải kéo dài, rất nhiều thủ tục kéo theo do phải bổ sung

điều chỉnh dự án

63

Thuyết minh báo cáo kinh tế, kỹ thuật công trình còn thiếu một số nội

dung như: căn cứ cơ sở pháp lý, phương án bồi hoàn… lập hồ sơ yêu cầu

không thể hiện tính ràng buộc đối với các quy định về năng lực và kinh

nghiệm của nhà thầu.

- Không dự thảo hợp đồng và biên bản thương thảo hợp đồng để làm cơ

sở cho việc chỉ định thầu đối với các đơn vị tư vấn, tỷ lệ giảm giá dự thầu so

với giá gói thầu được duyệt còn thấp.

- Một số gói thầu với hình thức là đấu thầu rộng rãi nhưng số lượng các

nhà thầu tham gia dự thầu còn ít, số lượng nhà thầu đáp ứng về năng lực và

kinh nghiệm chưa nhiều, làm cho tính cạnh tranh trong đấu thầu chưa cao.

- Công tác báo cáo tình hình thực hiện đấu thầu chưa được các chủ đầu

tư tuân thủ, điều này gây khó khăn cho cơ quan tổng hợp báo cáo.

- Việc điều chỉnh, bổ sung giá, khối lượng sau khi đấu thầu do sai sót

của các đơn vị tư vấn (tư vấn thiết kế, tư vấn thẩm tra, tư vấn đấu thầu) còn

xảy ra nhiều. Điều này gây khó khăn trong công tác quản lý, làm chậm trễ tiến

độ thi công và làm giảm tính cạnh tranh trong đấu thầu.

- Còn nhiều trường hợp các nhà thầu sau khi trúng thầu, triển khai thi

công không đạt tiến độ theo yêu cầu; các biện pháp thi công, thiết bị, nhân

công không tuân thủ như hồ sơ dự thầu… chất lượng công trình chưa được

nhà thầu quan tâm đúng mức, còn nhiều nhà thầu vi phạm thời gian thi công,

vi phạm hợp đồng chưa được xử lý.

Tiểu kết chương 2

Qua phân tích pháp luật đấu thầu của Việt Nam, ta có thể thấy pháp

luật đấu thầu Việt Nam đã có nhiều điểm tiến bộ so với quy chế đấu thầu

trước đây. Tựu chung lại có 5 điểm cơ bản, tập trung giải quyết để khắc phục

những tồn tại của quy chế đấu thầu trước.

Như vậy, chủ đầu tư sẽ được tăng thêm quyền và kèm theo trách nhiệm.

Đây là một chủ trương hết sức đúng đắn. Tuy nhiên, pháp luật đấu thầu Việt

64

Nam hiện nay, so với tương quan hệ thống pháp luật kinh tế và tình hình phát

triển xã hội còn nhiều bất cập:

- Về tính đồng bộ: Các văn bản pháp luật về đấu thầu xây lắp còn

chồng chéo, không đồng bộ với các văn bản pháp luật khác có liên quan, thậm

chí còn có những nội dung chưa được pháp luật điều chỉnh. Chẳng hạn như

cùng một ủy ban kinh tế ngân sách của Quốc hội thẩm ra Luật Đầu tư, Luật

Xây dựng và Luật Đấu thầu nhưng trong ba bộ luật này có nhiều khái niệm

không đồng nhất.

- Về tính thực tiễn: Thực trạng hệ thống pháp luật về đấu thầu xây lắp

hiện nay chỉ phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của thời kỳ trước khi nền kinh

tế nước ta mới chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Quy định chưa đáp

ứng các yêu cầu về đấu thầu đó là quy định về minh bạch, đảm bảo cạnh

tranh, quyền nhiều nhưng lại không phân định trách nhiệm cụ thể. Quy định

đấu thầu còn lỏng lẻo nên đấu thầu còn mang tính hình thức, quy trình đấu

thầu còn nhiều phức tạp, thời gian tổ chức dài. Trách nhiệm trong đấu thầu

còn chưa rõ ràng, chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm. Đặc biệt là cơ chế giám

sát hoạt động đấu thầu, thông tin trong đấu thầu theo hướng công khai hóa

vừa yếu, tản mạn, thiếu tập trung. Phân cấp rà soát, kiểm tra trong quá trình

thực hiện còn yếu kém. Tiêu cực ở đấu thầu xây lắp trong thời gian qua bùng

phát ảnh hưởng đến hoạt động và phát triển của một số ngành kinh tế quan

trọng như điện lực, giao thông, y tế…

Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa, pháp luật về đấu thầu xây

lắp cần được hoàn thiện theo thông lệ quốc tế để tranh thủ tinh hoa trí tuệ

nhân loại trong lĩnh vực đấu thầu xây lắp của thế giới, do đó tránh được sự

chồng chéo, rườm rà.

65

Chương 3

NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU

THẦU THI CÔNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG BẰNG NGUỒN

VỐN NGÂN SÁCH TẠI THỊ XÃ QUẢN YÊN TÍNH QUẢNG NINH

3.1. Những định hướng cơ bản

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về đấu thầu thi công các công trình xây

dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, thực trạng quy định của pháp luật

điều chỉnh thực tiễn thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này ở thị xã, Quảng

Yên, tỉnh Quảng Ninh, chúng tôi cho rằng cần có giải pháp tiếp tục hoàn thiện

pháp luật và có giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu thầu thi công các

công trinh xây dựng bằng vốn ngân sách nhà nước. Để xuất các giải pháp này

dựa trên quan điểm chỉ đạo về xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung,

pháp luật đấu thầu, xây dựng, đầu tư công nói riêng. Quan điểm chỉ đạo bao

trùm đó là gắn việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực

hiện pháp luật về đấu thầu thi công các công trình bằng nguồn vốn ngân sách

nhà nước phải gắn với chủ trương hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định

hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở nước ta trong thời gian tới. Các quan điểm chỉ

đạo này được thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành

Trung ương Ðảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng

Xã Hội Chủ Nghĩa và trong Nghị quyết 48/NQ-TW về Chiến lược xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm

2020. Trong đó, các Nghị quyết này đã chỉ ra các nguyên tắc cơ bản như:

Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo nguyên tắc

công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm. Tạo cơ sở pháp luật

để công dân tích cực huy động mọi tiềm năng, nguồn lực và phát triển sản

xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân, gia đình và

66

góp phần làm giàu cho đất nước. Tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh

lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của WTO và các cam kết quốc

tế khác. Xây dựng một khung pháp luật chung cho các doanh nghiệp thuộc

mọi thành phần kinh tế, xoá bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh, cải thiện

môi trường đầu tư; từng bước thống nhất pháp luật áp dụng đối với đầu tư

trong nước và đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng theo

hướng tôn trọng thoả thuận của các bên giao kết hợp đồng, không trái với đạo

đức xã hội, không xâm phạm trật tự công cộng, phù hợp với tập quán, thông

lệ thương mại quốc tế. Hoàn thiện pháp luật về tài chính công, xác định rõ

nguồn thu và cơ cấu chi của ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương,

thống nhất chế độ chi tiêu; xác định cơ chế đầu tư và sử dụng có hiệu quả các

nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước

Xây dựng, đấu thầu và đầu tư công là các lĩnh vực có vai trò quan trọng

đối với nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay, trên cơ sở các nguyên tắc

cơ bản nói trên, việc hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật liên quan đến

lĩnh vực này cần được tiến hành theo phương hướng cụ thể sau đây:

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về đấu thầu thì phải khắc phục được tình

trạng các quy định về đấu thầu còn tản mạn, không tập trung, không thống

nhất. Tuy Luật đấu thầu 2013 đã thống nhất pháp luật về đấu thầu trong đó

Luật Đấu thầu được coi như là luật chung. Tuy nhiên, nhìn chung hiện nay ở

Việt Nam, lĩnh vực đấu thầu đang được chia nhỏ và quản lý không tập trung,

các quy định về đấu thầu nằm rải rác trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật

gây nên tình trạng chồng chéo, thiếu thống nhất giữa các văn bản và gây khó

khăn cho các đơn vị thực hiện.

Thứ hai, đảm bảo thống nhất quản lý việc chi tiêu sử dụng vốn nhà nước

Để bảo đảm thống nhất quản lý việc chi tiêu, sử dụng vốn nhà nước thì

hoạt động đấu thầu cần bảo đảm có một hệ thống các văn bản quy phạm pháp

luật thống nhất, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn. Để làm được điều này cần có

67

sự chỉ đạo thống nhất từ các cấp cao nhất, tiếp đến là sự đồng thuận, thống nhất

của các Bộ, ngành, địa phương, tránh lợi ích cục bộ mà không vì lợi ích toàn cục,

lợi ích của người dân.

Thứ ba, Tăng cường cạnh tranh trong đấu thầu

Một trong những yếu tố đạt được hiệu quả của công tác đấu thầu là phải

bảo đảm được quy luật cạnh tranh theo cơ chế thị trường. Trong hoạt động đấu

thầu nói chung và công tác đấu thầu của Việt Nam nói riêng, mục tiêu cạnh

tranh đang ngày càng được tăng cường, đặc biệt dự thảo Luật đưa ra các

nguyên tắc để tạo thuận lợi cho các nhà thầu trong nước tăng cường năng lực

cạnh tranh để có thể vững vàng hội nhập, tham gia thị trường quốc tế.

Thứ tư, đảm bảo công khai, minh bạch, công bằng trong đấu thầu.

Công khai, minh bạch trong đấu thầu vừa là một trong những mục tiêu, vừa là

một trong những yêu cầu cần quán triệt. Công khai trong đấu thầu có thể hiểu

là sự không “che đậy, dấu giếm”, không bí mật vì lợi ích của một cá nhân

hoặc tổ chức nào đó mà cần thể hiện, bày tỏ các nội dung thông tin theo quy

định cho mọi người liên quan hoặc có quan tâm được biết. Đây là mục tiêu

rất quan trọng trong đấu thầu. Trong quá trình thực hiện công tác đấu thầu,

phải hết sức tôn trọng quyền lợi của các bên có liên quan. Tính công bằng

trong đấu thầu thể hiện rằng các chủ thể tham gia đều phải thực hiện theo quy

định của pháp luật về đấu thầu.

Thứ năm, bảo đảm hiệu quả kinh tế của công tác đấu thầu phòng,

chống tham nhũng trong đấu thầu

Hiệu quả của công tác đấu thầu chính là việc sử dụng một cách có hiệu

quả nguồn vốn của Nhà nước. Việc sử dụng các nguồn vốn của Nhà nước có

thể mang lại hiệu quả ngắn hạn cho gói thầu, dự án và hiệu quả dài hạn về

kinh tế - xã hội.

Luật Đấu thầu là loại trừ tham nhũng. Đây là mục tiêu vừa có tính lâu

dài, vừa có tính cấp bách vì Việt Nam đã ký vào công ước quốc tế về chống

68

tham nhũng. Có thể nói rằng, tham nhũng là một trong những căn bệnh dễ nảy

sinh trong quá trình đấu thầu vì công quỹ, tài sản là của Nhà nước, của chung,

thuộc sở hữu toàn dân, đặc biệt trong lĩnh vực xây lắp, xây dựng giao thông,

lĩnh vực đấu thầu có lượng vốn đầu tư thường rất lớn.

Thứ sáu, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, đặt

ra cho lĩnh vực đấu thầu yêu cầu điện tử hóa các hoạt động quản lý nhà nước

nói chung và đấu thầu nói riêng . Thực hiện chủ trương hướng tới Chính phủ

điện tử mà một trong những nội dung quan trọng là ứng dụng thương mại

điện tử trong đấu thầu, trong Luật Đấu thầu mới chỉ có một điều quy định về

đấu thầu điện tử. Theo đó, các quy định về đấu thầu hiện hành cần được sửa

đổi theo hướng tạo khung pháp lý cho hoạt động đấu thầu qua mạng nhằm

giảm thiểu thời gian, tiết kiệm chi phí, đồng thời tăng cường tính minh bạch,

cạnh tranh trong đấu thầu, góp phần phòng, chống tham nhũng, lãng phí và

nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của Nhà nước.

3.2. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật đấu thầu, xây dựng và

đầu tư công

Một là, Về các quy định đối với các quy định về tiêu chuẩn đánh giá hồ

sơ dự thầu xây lắp: Cần sửa đổi các quy định về tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự

thầu xây lắp theo hướng Chủ đầu tư xem xét mức độ đáp ứng về kinh nghiệm,

năng lực của nhà thầu so với yêu cầu công việc cần thực hiện Việc đề ra các

tiêu chuẩn đánh giá về mặt kỹ thuật cần được đánh giá về sự phù hợp giữa các

giải pháp kỹ thuật thi công, biện pháp tổ chức tổng mặt bằng thi công xây

dựng với tiến độ thi công và giá thầu được đề xuất. Nhà nước cần có văn bản

hướng dẫn cụ thể để xây dựng các tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá cụ thể

hồ sơ dự thầu, tránh việc đánh giá mang nặng tính chủ quan của bên mời thầu.

Đối với các quy định về phương pháp xét thầu xây lắp: Xem xét đánh giá

đồng thời các đề xuất về mặt kỹ thuật của gói thầu với việc đánh giá các đề

xuất khác về tiến độ thực hiện, mức độ đảm bảo về chất lượng, giá dự

69

thầu…khi xét thầu cho phép giảm bớt các bước trong quy trình xét thầu, qua

đó rút ngắn thời gian tổ chức đấu thầu và tiến độ thực hiện dự án. Phải có một

cơ chế quản lý, giám sát, xử phạt nghiêm minh các hành vi tiêu cực trong các

hoạt động đấu thầu. Có thể quy định cho phép nộp hồ sơ dự thầu thay thế để

có thể có được phương án tiết kiệm được thời gian và chi phí. Do chưa tính

các yếu tố rủi ro, lãi suất, khả năng cạnh tranh xảy ra có thể xảy ra nên hồ sơ

dự thầu vượt quá mức dự toán vẫn có thể được tiếp tục xem xét. Do tình hình

giá cả thị trường luôn biến động, thời gian thi công công trình xây dựng

thường kéo dài nên luật cần có quy định chặt chẽ hơn về việc xác định giá,

xác định phương án kỹ thuật …để tránh rủi ro cho nhà thầu và đảm bảo tính

minh bạch trong thanh quyết toán vốn xây dựng công trình. Khi tuyển chọn tư

vấn thực hiện công tác đấu thầu phải nên qua đấu thầu cạnh tranh để lựa chọn

được đơn vị tư vấn đủ năng lực, kinh nghiệm và đạo đức.

Hai là, sửa đổi các quy định về giá gói thầu: Cụ thể là theo quy định tại

Điều 37 của Luật Đấu thầu có quy định về việc xét duyệt trúng thầu đối với

đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn như sau: Nhà thầu tư vấn được xem xét đề

nghị trúng thầu khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây: Có hồ sơ dự thầu

hợp lệ, Có giá đề nghị trúng thầu không vượt giá gói thầu được duyệt. Chính

vì quy định này mà trong nhiều năm qua, không ít chủ đầu tư đã chọn nhà

thầu có giá bỏ thấp nhất, khiến nhiều dự án chất lượng không đảm bảo, kéo

dài trong nhiều năm, sau đó lại loay hoay xin thay đổi tổng mức đầu tư, xin

thêm kinh phí

Bên cạnh đó, các chủ đầu tư chọn những nhà thầu có giá thấp là vì

trong Luật Đấu thầu hiện hành và các văn bản quy phạm pháp luật khác chỉ

quy định giá trần mà không áp dụng quy định giá sàn. Vì thế, các nhà thầu

đua nhau bỏ thầu thấp để trúng thầu bằng mọi giá. Điều này hết sức nguy

hiểm, bởi nhà thầu thấp thì phải luôn đối mặt với nguy cơ thua lỗ. Tuy nhiên,

nếu không bỏ thấp thì doanh nghiệp không có việc làm cho người lao động.

70

Vậy là cuộc chạy đua bỏ thầu thấp dẫn đến một vòng xoáy luẩn quẩn không

thể tháo gỡ. Hệ quả là hàng chục năm qua, dù rất nỗ lực sản xuất - kinh doanh

nhưng gần như tất cả các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây lắp ngành giao

thông - vận tải luôn phải ngụp lặn với nợ đọng, hoặc vốn sở hữu thấp và

không tương xứng với quy mô, năng lực thi công.

Ba là, sửa đổi các quy định liên quan đến thiết lập hồ sơ mời thầu,

Thông tư số 07/2016/TT-BKH&ĐT quy định chi tiết lập hồ sơ mời thầu, hồ

sơ yêu cầu đối với đấu thầu qua mạng là bước tiến quan trọng trong việc cụ

thể hóa các văn bản pháp lý thực hiện đấu thầu qua mạng. Việc có mẫu hồ sơ

mời thầu, hồ sơ yêu cầu đã tạo thuận lợi cho các đơn vị thực hiện. Tuy nhiên,

thời gian tới, các văn bản chính sách cần hoàn thiện hơn trong việc áp dụng,

triển khai đấu thầu qua mạng theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ.

Khi đó, số lượng gói thầu được thực hiện đấu thầu qua mạng dự kiến sẽ tăng

lên. Bên cạnh đó, cần cụ thể quy trình đánh giá hồ sơ dự thầu, quá trình xét

thầu giúp giảm thiểu thời gian cho bên mời thầu trong quá trình lựa chọn nhà

thầu. Với những quy định hiện hành, bên mời thầu phải đánh giá chi tiết, có

công văn hỏi, đề nghị từng nhà thầu làm rõ hồ sơ dự thầu. Song, trong trường

hợp số lượng nhà thầu tham gia gói thầu đông thì việc này rất mất thời gian.

Do đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần nghiên cứu, sớm ban hành văn

bản pháp lý về quy trình đánh giá ngược để các bên mời thầu áp dụng lựa

Khi xây dựng yêu cầu về kỹ thuật không được đưa ra các điều kiện

chọn nhà thầu được nhanh, hiệu quả, minh bạch.

nhằm hạn chế sự tham gia của nhà thầu hoặc nhằm tạo lợi thế cho một hoặc

một số nhà thầu gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng, đồng thời cũng

không được đưa ra các yêu cầu quá cao dẫn đến làm tăng giá dự thầu hoặc

làm hạn chế sự tham gia của các nhà thầu; không được nêu yêu cầu về nhãn

hiệu, xuất xứ cụ thể của hàng hóa, kể cả việc nêu tên nước, nhóm nước, vùng

lãnh thổ gây ra sự phân biệt đối xử.

71

Không được đưa ra các điều kiện để hạn chế sự tham dự thầu của nhà

thầu như: Yêu cầu nhân sự thực hiện gói thầu phải được đóng bảo hiểm xã

hội, phải là nhân sự đăng ký hợp đồng với nhà thầu, thiết bị thi công phải

thuộc sở hữu của nhà thầu mà không được đi thuê, đã thực hiện hợp đồng

tương tự trên một địa bàn cụ thể... hoặc quy định năng lực, kinh nghiệm của

nhà thầu cao hơn mức yêu cầu của gói thầu...

Hồ sơ mời thầu phải được xây dựng đảm bảo khoa học, khách quan,

phù hợp yêu cầu cụ thể từng gói thầu, đảm bảo theo đúng quy định, không

mang tính định hướng, tạo lợi thế hoặc cản trở sự tham gia của một hoặc một

số nhà thầu.

Bốn là, Bổ sung thêm mô hình “Nhà thầu quản lý” vào Luật đấu thầu

Đây là hình thức đang khá phổ biến theo thông lệ quốc tế và hình thức này

cũng đang được áp dụng hiện nay ở Việt nam. Hình thức này đang khá phổ

biến ở các dự án nhà thầu nước ngoài ở Việt nam: nhà thầu nước ngoài chỉ có

bộ máy quản lý dự án, còn lại họ đi thuê các nhà thầu tại Việt Nam. Đây là mô

hình tiên tiến nhưng Luật đấu thầu và Luật xây dựng đều chưa có quy quy

định, đề nghị đưa mô hình này vào Luật xây dựng và Luật đấu thầu để nhà thầu

Việt Nam có thêm một hình thức nhằm phát huy hết năng lực nhà thầu Việt

Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Năm là, sửa đổi các quy định về năng lực và chứng chỉ hành nghề. Vấn

đề năng lực nhà thầu đã được bàn, trao đổi rất nhiều qua hội thảo, qua những

hội nghị chuyên môn khi dự thảo Luật nhưng vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.

Năng lực nhà thầu và năng lực hoạt động của doanh nghiệp là hai hay là một.

Do chưa hiểu thống nhất nên Luật đấu thầu yêu cầu nhà thầu phải có năng lực

đáp ứng yêu cầu gói thầu và yêu cầu nhà thầu phải đăng tải trên mạng đấu

thầu quốc gia; Còn Luật xây dựng lại quy định doanh nghiệp hoạt động xây

dựng phải có đủ năng lực hoạt động theo quy định của pháp luật và phải “có

trách nhiệm đăng ký thông tin về năng lực hoạt động xây dựng của mình với

72

Bộ Xây dựng, Sở Xây dựng”. Xét cho cùng thì năng lực để phù hợp với gói

thầu mới là quan trọng đối với một doanh nghiệp. Vì vậy cần giảm bớt thủ tục

để doanh nghiệp khó khăn, giảm bớt chi phí.

Luật doanh nghiệp quy định Xây dựng là một loại nghề được thực hiện

với các điều kiện hay nói cách khác, đây là hành nghề có điều kiện. Luật xây

dựng quy định Cơ quan chuyên môn thuộc Bộ Xây dựng có thẩm quyền, Sở

Xây dựng sát hạch, cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là việc làm

mang tính hành chính chưa phản ánh bản chất của vấn đề năng lực nhà thầu

xây dựng. Hiệp hội kiến nghị cần thay đổi hình thức tiền kiểm này bằng hình

thức hậu kiểm. Theo đó, Nhà thầu có trách nhiệm đăng ký và chịu trách nhiệm

tính trung thực thông tin, cơ quan có thẩm quyền của Bộ Xây dựng hay các Sở

xây dựng có trách nhiệm tiếp nhận thông tin và cấp cho họ giấy chứng nhận đã

đăng ký năng lực (Thực hiện trên hệ thống mạng). Trên cơ sở đó cơ quan quản

lý nhà nước xem xét, kiểm tra và đăng tải để công bố năng lực. Cách làm này

sẽ đảm bảo rằng tất cả các doanh nghiệp. Chủ đầu tư sẽ kiểm tra tất cả các điều

kiện năng lực của các nhà thầu phù hợp với gói thầu, của các tổ chức đã đăng

ký. Việc này tạo điều kiện để tất cả nhà thầu khi tham gia đấu thầu sẽ không vi

phạm Luật xây dựng.

Sáu là, hoàn thiện các quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực đấu

thầu. Cần cụ thể hóa các quy định về loại tội phạm mạng (tội phạm tấn công

trang web, các cơ sở dữ liệu và phát tán virus và tội phạm lợi dụng môi

trường mạng để ăn cắp, tống tiền và tổ chức hoạt động phạm tội, như đánh

bạc qua mạng, ăn cắp và làm giả thẻ tín dụng,…) trong Bộ luật Hình sự; hoàn

thiện pháp luật về tố tụng để đấu tranh với loại tội phạm này thông qua việc

xây dựng các văn bản dưới luật để kịp thời điều chỉnh các hành vi liên quan

đến tội phạm mạng. Luật An ninh mạng vừa ra đời cũng là một bước tiến

quan trọng nhằm khắc phục vấn đề này. Cần xây dựng các quy định về điều

kiện, về quyền và nghĩa vụ của chủ đầu tư và nhà thầu khi tham gia hệ thống

73

đấu thầu điện tử; xây dựng hệ thống dữ liệu thông tin về nhà thầu làm cơ sở

cho việc thực hiện các hoạt động đấu thầu trên mạng. Cần có quy định hướng

dẫn về quy trình thống nhất, ban hành các biểu mẫu nghiệp vụ để thực hiện

hoạt động đấu thầu qua mạng chi tiết và dễ hiểu hơn nữa. Thực hiện các hoạt

động tuyên truyền, phổ biến, xây dựng cơ chế đào tạo, phối hợp đào tạo nhằm

nâng cao nhận thức, trình độ cho cán bộ trực tiếp tham gia hoạt động đấu thầu

điện tử và khuyến khích nhiều nhà thầu hơn nữa tham gia đấu thầu qua mạng.

3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đấu thầu thi

công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách từ thực tiến thị

xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh

3.3.1 Công tác đào tạo nhân lực để năng cao năng lực nhà thầu

Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến năng suất lao

động, tiến độ, giá thành, chất lượng của dự án góp phần quan trọng vào hiệu

quả đầu tư xây dựng. Các doanh nghiệp đều có chung nhận định lực lượng

nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường xây dựng, các

công trình phức tạp, công trình nhà cao trên 67- 70 tầng, công trình ngầm

phức tạp… doanh nghiệp trong nước khó cạnh tranh nổi với nhà thầu nước

ngoài do nguồn nhân lực bao gồm cả cán bộ kỹ thuật lẫn công nhân lành nghề

không đáp ứng khi cạnh tranh đấu thầu. Trong đấu thầu ngoài các tiêu chí như

vốn, kinh nghiệm, thiết bị thì nhân lực là tiêu chí quan trọng bậc nhất, cái yếu

của nhiều nhà thầu hiện nay ngoài kinh nghiệm thì thiếu nguồn nhân lực là

vấn đề đáng lo ngại nhất. Vì vậy ngành xây dựng cần có chiến lược về chính

sách đào tạo nguồn nhân lực theo hướng phù hợp với chế thị trường kết hợp

với cơ chế chính sách lương cho lực lượng cán bộ, kỹ sư, kỹ thuật, cán bộ

lãnh đạo chủ chốt như chỉ huy trưởng công trình, đốc công, kỹ sư trưởng v.v...

3.3.2 Đề nghị thành lập cơ quan quản lý đấu thầu cấp quốc gia

Ở Việt Nam hiện nay, cơ quan chuyên môn quản lý đấu thầu cao nhất

là Vụ Quản lý đấu thầu thuộc Bộ Kế hoạch, Đầu tư giúp Chính phủ quản lý

74

nhà nước về đấu thầu trong cả nước. Tuy nhiên, thực tế, việc quản lý đấu thầu

vẫn giao cho các Bộ, ngành khác thực hiện dẫn đến sự chồng chéo, mâu thuẫn

trong văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật đấu thầu, pháp luật xây dựng,

pháp luật đầu tư…. Trong quá trình thực hiện việc đấu thầu, xảy ra các tranh

chấp thì Cục Quản lý Đầu thầu không phải là cơ quan giải quyết các tranh chấp

này. Bên cạnh đó, Cục Quản lý đấu thầu vừa là cơ quan quản lý về đấu thầu vừa

là cơ quan xét thầu điều này cho thấy không có sự độc lập giữa cơ quan thi hành

pháp luật đấu thầu với cơ quan kiểm tra, giám sát thi hành pháp luật đấu thầu

được tổ chức độc lập với các Bộ, khách quan trong thực thi nhiệm vụ.

3.3.3 Mở rộng và nâng cao chất lượng của đấu thầu qua mạng

Dù đấu thầu qua mạng là hình thức lựa chọn nhà thầu văn minh, hiện

đại, hiệu quả, nhưng nhiều chủ đầu tư, bên mời thầu còn chưa thực sự tự

nguyện tham gia đấu thầu qua mạng, dẫn đến tình trạng cố tình viện dẫn nhiều

lý do để trì hoãn, chưa thực hiện dù lộ trình áp dụng đã được quy định. Với

những lợi ích nhiều mặt mà đấu thầu qua mạng đem lại, trong thời gian tới để

tăng cường, mở rộng, nâng cao hiệu qua của đấu thầu qua mạng cần có những

giải pháp sau đây:

Thứ nhất, mở rộng phạm vi đấu thầu qua mạng bao gồm cả các gói

thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp có giá trị

cao, áp dụng hình thức một giai đoạn hai túi hồ sơ, và tối ưu hóa quy trình lựa

chọn nhà thầu trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia. mẫu hóa trên hệ thống;

hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu của nhà thầu; xây dựng hệ thống cơ sở dữ

liệu liên quan đến các sản phẩm đấu thầu qua mạng…

Thứ hai, tiếp tục chú trọng công tác truyền thông nhằm từng bước thay

đổi thói quen và nhận thức của các bên liên quan về đấu thầu qua mạng gồm:

các cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu, chủ đầu tư, bên mời thầu, nhà

thầu… Đồng thời, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp

luật về đấu thầu qua mạng

75

Thứ ba, đảm bảo an ninh mạng và bảo mật đối với các thông tin trên

mạng là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu đối với các chủ đầu tư và

nhà thầu khi tham gia vào hệ thống đấu thầu điện tử. Việc xây dựng các quy

định pháp luật trong đó có các chế tài cụ thể nhằm ngăn chặn sự truy nhập bất

hợp pháp và bảo vệ thông tin trên mạng là một yêu cầu cần thiết và cấp bách

khi triển khai đấu thầu điện tử. Bản chất của đấu thầu điện tử là việc chuyển

từ quy trình thực hiện đấu thầu truyền thống sang thực hiện trên mạng

internet, trong đó các nội dung chủ yếu của quy trình đấu thầu không thay đổi,

chỉ có khác về phương pháp thực hiện. Vì vậy, cần có văn bản pháp luật

hướng dẫn về quy trình thống nhất để việc triển khai thực hiện đấu thầu điện

tử được thông suốt và rõ ràng từ Trung ương đến địa phương

Thứ tư, đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin với lộ trình thích hợp

để đáp ứng yêu cầu tham gia vào hệ thống đấu thầu điện tử. Nâng cao nhận

thức của các chủ đầu tư, ban quản lý dự án về bản chất, vai trò và hình thức

hoạt động của đấu thầu điện tử, đi đôi với việc nâng cao năng lực tài chính

của doanh nghiệp. Phải có chính sách đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực hợp

lý, nhất là nguồn nhân lực trực tiếp tham gia vào hoạt động đấu thầu điện tử.

3.3.4 Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về

đầu tư công, đấu thầu và xây dựng

Các cơ quan, đơn vị quản lý công tác đấu thầu bảo đảm thực hiện tốt

trách nhiệm kiểm tra, giám sát, bảo đảm yêu cầu chất lượng hoạt động đấu

thầu, kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý nghiêm những hành vi vi phạm,

bao gồm: Giám sát, theo dõi việc tuân thủ quy định của pháp luật về đấu thầu

trong quá trình lựa chọn nhà thầu và lựa chọn nhà đầu tư và; kiểm tra việc ban

hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện công tác đấu thầu, phân cấp

trong đấu thầu; kiểm tra đào tạo về đấu thầu; kiểm tra việc lập và phê duyệt

kế hoạch lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư; kiểm tra việc tổ chức lựa chọn nhà

thầu, nhà đầu tư (qua mạng và không qua mạng); ký kết hợp đồng; kiểm tra

76

tình hình thực hiện báo cáo về công tác đấu thầu; kiểm tra việc thực hiện hoạt

động kiểm tra, giám sát, theo dõi về công tác đấu thầu và các hoạt động khác

liên quan đến đấu thầu.

Chú trọng kiểm tra đối với những gói thầu quy mô lớn, phức tạp, các

gói thầu không nằm trong hạn mức nhưng áp dụng chỉ định thầu hoặc các gói

thầu có nhiều kiến nghị, khiếu nại, tố cáo. Trong quá trình kiểm tra, giám sát

cần đặc biệt lưu ý kiểm tra việc công khai thông tin trong đấu thầu theo đúng

quy định của pháp luật về đấu thầu.

Tổ chức các cuộc thanh tra, kiểm tra thường xuyên, chuyên sâu về công

tác đấu thầu. Các cuộc kiểm tra phải đảm bảo yêu cầu, chất lượng, giúp phát

hiện sớm và đầy đủ các vi phạm để đề xuất biện pháp xử lý kịp thời. Đồng

thời, tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát thực hiện các kết luận kiểm tra, đặc

biệt là xử lý các vi phạm.

Thường xuyên nắm bắt các thông tin, phản ánh, kiến nghị về các hành

vi tiêu cực, vi phạm trong đấu thầu để kịp thời xác minh, xử lý. Trường hợp

cần thiết hoặc phát hiện những vi phạm nghiêm trọng cần chủ động đề xuất

các cuộc thanh tra, kiểm tra đột xuất. Căn cứ mức độ vi phạm, đề nghị người

có thẩm quyền áp dụng biện pháp hủy, đình chỉ, không công nhận kết quả lựa

chọn nhà thầu, tuyên bố vô hiệu đối với các quyết định theo đúng quy định

của pháp luật.

Tiểu kết chương 3

Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời gian tới đòi hỏi phải

hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ và hiệu quả nhằm thúc đẩy kinh tế xã

hội phát triển và hội nhập quốc tế. Việc hoàn thiện pháp luật về đấu thầu, xây

dựng, chi tiêu công trong đó có đấu thầu thi công các công trình xây dựng

bằng vốn ngân sách nhà nước góp phần thực hiện nhiệm vụ đó. Xây dựng và

hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này phải đảm bảo các nguyên tắc như sự

77

thống nhất của hệ thống pháp luật, tính minh bạch, công khai, bình đẳng,

cạnh tranh lành mạnh trong đấu thầu, khắc phục được tình trạng lãng phí,

tham nhũng, tiêu cực trong đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng

nguồn vốn ngân sách nhà nước, đảm bảo hiệu quả của đầu tư công…

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của pháp luật và thực hiện pháp luật

trong đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng vốn ngân sách cần có

những giải pháp đồng bộ khả thi. Đó là hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu

thầu, pháp luật xây dựng, pháp luật về đầu tư công đang còn nhiều bất cập

hiện nay. Bên cạnh đó, về thực tiễn cần có giải pháp mang tính chất tổ chức,

kỹ thuật đảm bảo cho việc đấu thầu phát huy giá trị, ý nghĩa của nó trong bối

cảnh kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.

78

KẾT LUẬN

Xây dựng có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển mọi mặt của

đời sống xã hội. Đây cũng là lĩnh vực phức tạp phát sinh nhiều quan hệ khác

nhau đòi hỏi có sự điều chỉnh của pháp luật. Trong bối cảnh kinh tế thị

trường, xây dựng trở thành một lĩnh vực kinh doanh với nhiều chủ thể tham

gia. Để đảm bảo cho thị trường xây dựng phát triển, nhà đầu tư và xã hội có

sản phẩm xây dựng tốt nhất, chi phí thấp nhất, đấu thầu được coi là hình thức

quan trọng trong việc lựa chọn nhà cung cấp sản phẩm xây dựng. Tham gia

vào quan hệ xây dựng, nhà nước là chủ thể quan bởi nhu cầu của nhà nước

trong việc xây dựng các công trình xây dựng là rất lớn. Chính vì vậy, hàng

năm nhà nước ta phải đầu tư số tiền rất lớn cho việc xây dựng các công công

trình xây dựng mà nguồn vốn của nó lấy từ ngân sách nhà nước.

Để đảm bảo cho hoạt động xây dựng các công trình có nguồn vốn ngân sách

nhà nước được thực hiện trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, khách

quan trên cơ sở đó nhà nước với tư cách chủ đẩu tư lựa chọn được nhà thầu

tốt nhất cần có hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất và đòi thực tiễn thực

hiện nghiêm chỉnh pháp luật đó.

Ở Việt Nam, đấu thầu xây dựng là một lĩnh vực mới mẻ nhưng đã được

áp dụng phổ biến do sự ưu việt mà nó mang lại. Mặc dù phát triển nhanh

chóng, song trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những sai lầm, có

những vi phạm xuất hiện ngày càng đa dạng, tinh vi mà pháp luật về đấu thầu

xây dựng chưa đủ sức ngăn ngừa, khống chế, gây nên những thất thoát lớn về

ngân sách cho Nhà nước, làm cho đấu thầu xây dựng trở nên méo mó đi, làm

mất tính cạnh tranh giữa các nhà thầu, không đem lại được hiệu quả thực sự

như sự chờ đợi của các nhà lập pháp. Hệ thống pháp luật về đấu thầu xây

dựng được hoàn thiện chính là tiền đề để xây dựng và các hoạt động khác của

nền kinh tế đạt hiệu quả cao, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất các tiêu

cực có thể xảy ra. Với cái nhìn tổng quan về thực trạng hoạt động đấu thầu

79

xây dựng, và qua nghiên cứu tìm hiểu, nhà nước, các nhà lập pháp sẽ đưa ra

những chính sách và quy định phù hợp tiến tới hoàn thiện khung pháp luật về

đấu thầu xây dựng. Với những thành tựu đã đạt được trong thực tế cùng với

những nỗ lực hết mình hoạt động đấu thầu xây dựng sẽ có những bước tiến

trong tương lai, trong bối cảnh mở cửa và hội nhập Quốc tế.

80

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. TS. Lương Xuân Cường, Cơ chế thị trường và vai trò của Nhà nước

trong nền kinh tế thị trường Việt nam, NXB Thống kê, Hà nội 2004.

2. PGS. TS. Trần Đình Hảo (2000), Nhà nước pháp quyền và kinh tế

thị trường ở Việt nam, Báo cáo khoa học tại hội thảo khoa học Nhà

nước và pháp quyền trong bối cảnh Việt Nam do Viện Nhà nước và

pháp luật tổ chức 11/9/2000 tại Hà nội

3. Nguyễn Thị Thu Hằng: Đấu thầu xây lắp trong lĩnh vực xây dựng

theo pháp luật Việt Nam hiện nay, bảo vệ năm 2004 tại Viện Nhà

nước và Pháp luật.

4. PGS. TS. Nguyễn Như Phát: Tiến tới xây dựng pháp luật cạnh tranh

trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt nam, NXB

Công an nhân dân năm 2001.

5. Nguyễn Thị Xuân Thủy (2011), Báo cáo, Thực trạng đấu thầu ở

Việt Nam- Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, Hà Nội.

6. Luật Đấu thầu 2005.

7. Luật Xây dựng 2003.

8. Luật Đấu thầu 2013.

9. Luật Xây dựng 2014.

10. Nghị định 63/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đấu thầu về lựa chọn

nhà thầu

11. Thông tư 03/2015/TT-BKHĐT Quy định chi tiết lập hồ sơ mời

thầu xây lắp

81