VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
__________________
VŨ MINH CHIẾN
ĐẤU THẦU THI CÔNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG
BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THEO PHÁP
LUẬT ĐẤU THẦU TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ QUẢNG YÊN,
TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI - năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
___________________
VŨ MINH CHIẾN
ĐẤU THẦU THI CÔNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG
BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THEO PHÁP
LUẬT ĐẤU THẦU TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ QUẢNG YÊN,
TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ NGỌC HIỂN
HÀ NỘI - năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có
nguồn trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của luận văn
không có sự trùng lặp với bất kỳ công trình nào đã công bố.
Hà Nội, tháng 06 năm 2019
Tác giả
Vũ Minh Chiến
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU THẦU VÀ PHÁP
LUẬT VỀ ĐẤU THẦU THI CÔNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG
BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC. .................................... 8
1.1 Khái niệm, đặc điểm của đấu thầu thi công công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. ......................................................... 8
1.2. Ý nghĩa của đấu thầu thi công công trình xây dựng bằng nguồn vốn
ngân sách nhà nước. .................................................................................. 15
1.3. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về đấu thầu thi công công trình
xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. ....................................... 19
1.4. Nội dung của pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước ........................................................ 23
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU THI CÔNG
CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN
THỊ XÃ QUẢNG YÊN, TỈNH QUẢNG NINH.......................................... 33
2.1. Thực trạng pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước ........................................................ 33
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây
dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Thị xã Quảng Yên, tỉnh
Quảng Ninh ............................................................................................... 46
2.3 Đánh giá pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu thi
công công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước qua thực
tiễn Thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh ................................................. 51
Chương 3: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ ĐẤU THẦU THI CÔNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG
BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH TẠI THỊ XÃ QUẢN YÊN TÍNH
QUẢNG NINH............................................................................................... 66
3.1. Những định hướng cơ bản ................................................................. 66
3.2. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật đấu thầu, xây dựng và đầu tư
công ........................................................................................................... 69
3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đấu thầu thi công
các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách từ thực tiến thị xã
Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh ................................................................... 74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 81
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời gian gần đây đã kéo theo những thay đổi
căn bản trong cơ chế vận hành của nền kinh tế trong đó có những thay đổi về
chính sách, pháp luật liên quan đến đầu tư công và xây dựng. Trong thời qua
cùng với sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách
nhà nước (đầu tư công) cho lĩnh vực xây dựng cơ bản tăng rất nhanh. Để đảm
bảo hiệu quả của việc sử dụng vốn nhà nước, tiết kiệm chi phí, chống thất
thoát trong xây dựng cơ bản, nâng cao chất lượng các công trình xây dựng,
đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường thì pháp luật về đấu thầu xây dựng đóng vai trò quan trọng. Nếu trước
đây, chủ đầu tư và nhà thầu thực hiện việc giao nhận thầu theo chỉ tiêu của kế
hoạch nhà nước thì đến nay, các nhà thầu được lựa chọn thông qua đấu thầu
cạnh tranh, minh bạch, công khai, bình đẳng và trên cơ sở của pháp luật về
đấu thầu. Đây là sự thay đổi về chất trong công tác sử dụng vốn nhà nước
trong các công trình xây dựng và cả nền kinh tế nói chung.
Trong hoạt động xây dựng, hoạt động thi công xây lắp các công trình
đóng vai trò quyết định đến sự thành công của dự án đầu tư. Đây cũng là hoạt
động chiếm khối lượng công việc nhiều nhất, chi phí cao nhất và đáp ứng các
yêu cầu kỹ thuật cao nhất trong dự án đầu tư. Bên cạnh đó, sản phẩm của hoạt
động thi công xây dựng là sản phẩm được hình thành phụ thuộc vào nhiều yếu
tố khác nhau như vị trí công trình, điều kiện đất đai, thiên nhiên, nhiều hạng
mục khác nhau, thời gian thực hiện kéo dài, liên quan đến nhiều chủ thể khác
nhau như chủ đầu tư, tư vấn, thiết kế, thi công, giám sát, quản lý… Vì vậy,
đấu thầu thi công mang nhiều tính chất đặc thù so với đấu thầu hàng hóa
thông thường và đòi hỏi quy trình, thủ tục pháp lý khá phức tạp, chặt chẽ.
1
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, nhà nước là chủ đầu tư
quan trọng, thể hiện ở quy mô các dự án, số lượng vốn đấu tư cũng như tầm
quan trọng của các công trình xây dựng. Hoạt động đầu tư cho các công trình
xây dựng cơ bản được điều chỉnh bới pháp luật đầu tư công theo quy trình
chặt chẽ nhằm đảm bảo cho hiệu quả cao. Đây là lĩnh vực chiếm một phần rất
lớn trong chi ngân sách nhà nước, theo báo cáo của Bộ Tài chính, hàng năm
chỉ số mua sắm công trong đó có chi cho xây dựng cơ bản chiếm từ 19.26%
đến 21% chi cân đối ngân sách Trung ương.
Với tầm quan trọng như vậy, việc đấu thầu xây dựng các công trình
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước trong những năm qua đã được hoàn thiện
theo hướng tiếp cận với thể chế kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế. Đó là
sự ra đời của Luật Đấu thầu 2013, Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng…. Tuy
nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy, hoạt động đấu thầu các công trình xây
dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước ở nhiều nơi còn phát sinh nhiều
tiêu cực dẫn đến công trình xây dựng không đảm bảo chất lượng, thời gian thi
không đảm bảo tiến độ, các hành vi vi phạm trong lĩnh vực xây dựng ngày
càng nhiều để lại những hậu quả nghiêm trọng không chỉ liên quan tới việc
mất mát về tài sản, tính mạng con người mà còn ảnh hưởng đến cả vấn đề
chính trị xã hội. Nguyên nhân của tình trạng này nằm ở chỗ pháp luật về đấu
thầu, xây dựng và đầu tư công của Việt Nam vẫn còn tồn tại những bất cập,
việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này chưa nghiêm chỉnh. Từ đó, đặt ra
nhu cầu cần nghiên cứu đặc biệt là nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật ở
các địa phương nhằm tìm ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả của công tác đấu thầu nói chung và đấu thầu thi công các công trình
xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước nói riêng. Đây là lý do, học
viên lựa chọn Đề tài luận văn: Đấu thầu thi công các công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước theo pháp luật đấu thầu từ thực tiễn
thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh.
2
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về đấu thầu xây dựng không phải là vấn đề mới trong khoa
học pháp lý ở Việt Nam. Đã có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu viết về
vấn đề này ở các cấp độ, quy mô, phạm vi khác nhau.
- Báo cáo đánh giá tình hình giải quyết kiến nghị trong đấu thầu ở việt
nam và đề xuất giải pháp cải thiện tình hình của Học viện chính sách phát
triển- bộ Kế hoạch đầu tư phối hợp với Ngân hàng thế giới thực hiện năm
2018. Báo cáo này nhận định: Quá trình thực hiện Luật đấu thầu tuy cho thấy
các ưu việt nhưng cũng đang dần bộc lộ những thiếu sót cần phải được chỉnh
sửa, bổ sung. Thông tin trên báo chí cho biết, những vụ án, những sai phạm
liên quan đến hoạt động đấu thầu do việc cố tình vi phạm những quy định của
pháp luật về đấu thầu xuất hiện nhiều. Trong quá trình đấu thầu, những vấn đề
không đúng hoặc chưa đúng chưa được báo cáo, giải quyết thỏa đáng theo
những quy định của pháp luật. Cơ chế giải quyết kiến nghị trong đấu thầu
chưa phát huy được tác dụng và chưa phù hợp với cách thức vận hành theo
thông lệ của thế giới. Trên cơ sở đó, nghiên cứu này đã tiến hành nghiên cứu
về hiện trạng kiến nghị và giải quyết kiến nghị trong đấu thầu và trên cơ sở đó
để xuất cơ chế giải quyết và các giải pháp để thúc đẩy việc giải quyết kiến
nghị trong đấu thầu phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Các công trình nghiên cứu về đấu thầu trong xây dựng: Trước hết
phải kể đến luận văn: Đấu thầu xây lắp trong lĩnh vực xây dựng theo pháp
luật Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Thu Hằng, bảo vệ năm 2004 tại Viện
Nhà nước và Pháp luật. Trong công trình này, tác giả đã làm rõ đặc thù của
đấu thầu xây lắp, phân tích bình luận các quy định của pháp luật Việt nam về
thủ tục, quy trình trong đấu thầu xây lắp và đề xuất một số giải pháp hoàn
thiện pháp luật về đấu thầu xây lắp ở Việt Nam.
3
- Luận văn thạc sĩ luật đề tài : Pháp luật Việt nam về đấu thầu xây
dựng, của Nguyễn Thành Nam, bảo vệ tại Khoa Luật Đại học quốc gia Hà
Nội năm 2004
Ngoài ra, luận văn tham khảo những công trình nghiên cứu về pháp luật
kinh tế, luật cạnh tranh, luật đầu tư công….đề xây dựng cơ sở lý luận cho đề
tài đó là các công trình: TS. Nguyễn Như Phát Tiến tới xây dựng pháp luật
cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt nam,
NXB Công an nhân dân năm 2001.TS. Lương Xuân, Cơ chế thị trường và vai
trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường Việt nam, NXB Thống kê, Hà
nội 2004; PGS. TS Trần Đình Hảo (2000), Nhà nước pháp quyền và kinh tế
thị trường ở Việt nam, Báo cáo khoa học tại hội thảo khoa học Nhà nước và
pháp quyền trong bối cảnh Việt nam do Viện Nhà nước và pháp luật tở chức
11/9/2000 tại Hà nội. Nguyễn Thị Xuân Thủy (2011), Báo cáo, Thực trạng
đấu thầu ở Việt Nam- Một số giải pháp nhằm hoàn thiện, Hà Nội. Văn phòng
Chính phủ, Tổng hợp ý kiến thành viên chính phủ về Luật Đấu thầu sửa đổi,
Hà Nội 2002.
Các công trình trên đã nghiên cứu pháp luật, thực tiễn của đấu thầu nói
chung, đấu thầu các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước
nói riêng ở các phương diện khác nhau. Kết quả của các công trình này là cơ
sở để tác giả sử dụng giải quyết các nhiệm vụ của luận văn. Tuy nhiên, hiện
nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về đấu thầu thi công các
công trình xây dựng ở một địa bàn cụ thể. Đây sẽ là nhiệm vụ bao quát của
luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài có mục đích làm rõ nền tảng lý luận pháp luật về đấu thầu xây
dựng, trên cơ sở đó phân tích thực trạng các qui định pháp luật hiện hành và
thực tiễn thi hành để tìm ra những bất cập, nguyên nhân của những bất cập
nhằm đưa ra các kiến nghị hoàn thiện lĩnh vực pháp luật và giái pháp tổ chức
4
thực hiện pháp luật trong lĩnh vực đấu thầu thi công các công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước cho thực tiễn thị xã Quảng Yên tỉnh
Quảng Ninh và cả nước.
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích, luận giải để làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về đấu thầu
thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, nghiên
cứu bản chất, đặc điểm của lĩnh vực đấu thầu này.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về đấu thầu thi công xây dựng các
công trình bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước cũng như thực trạng thực thi
pháp luật trong lĩnh vực này trên địa bàn thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh
để chỉ ra , giải quyết những mâu thuẫn, bất cập trong thực tiễn áp dụng các
quy định đấu thầu trong thực tiễn.
- Kiến nghị hướng sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về đấu thầu ở Việt Nam
cho phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế và đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn
vốn ngân sách trên địa bàn thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh và cả nước nói
chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận và thực tiễn về
đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà
nước của Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ tập trung vào các khía cạnh pháp
lý, cơ sở lý luận, thực tiễn và nội dung pháp luật đấu thầu thi công xây dựng.
Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu này, luận văn đưa ra những đề xuất cụ thể
nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu thầu thi công các công trình xây
dựng bằng nguồn vốn ngân sách trên địa bàn thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng
Ninh và cả nước nói chung.
5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Được sử dụng Luận văn, sử dụng phép biện chứng duy vật của triết học
Mác - Lênin làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Ngoài ra,
trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng một số phương pháp sau:
Trong quá trình tiếp cận và giải quyết những vấn đề mà luận văn đặt ra, luận
văn sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu phổ dụng trong khoa học
xã hội như: phương pháp thống kê, khảo sát; phương pháp so sánh, đối chiếu
pháp luật; phương pháp phân tích, tổng hợp… nhằm làm sáng tỏ những vấn
đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Thứ nhất: làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về đấu thầu thi công các
công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước và pháp luật về đấu
thầu. Các nội dung như khái niệm và đặc điểm của đấu thầu thi công, sự khác
nhau cơ bản giữa đấu thầu thi công trong xây dựng với đấu thầu khác, khái
niệm và phạm vi điều chỉnh của pháp luật về đấu thầu thi công các công trình
bằng nguồn vốn ngân sách, mối quan hệ giữa pháp luật về thi công xây dựng
các chế định pháp luật khác. Từ đó cho thấy vai trò của pháp luật trong việc
bảo đảm những mục tiêu cần đạt được trong đấu thầu thi công xây dựng
Thứ hai: Khái quát về sự phát triển của pháp luật Việt Nam trong thời
gian qua, đồng thời hệ thống hóa các quy định hiện hành để từ đó đưa ra bức
tranh toàn cảnh về pháp luật đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng
nguồn vốn ngân sách.
Thứ ba: Đối chiếu các quy định của pháp luật hiện hành với thực tiễn
để phân tích, đánh giá làm rõ ưu điểm và hạn chế của các quy định và hoạt
động thực thi pháp luật về đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng
nguồn vốn ngân sách.
Thứ tư: Nghiên cứu về lý luận cũng như thực trạng pháp luật, luận văn
tìm ra cơ sở cho việc tiếp tục xây dựng pháp luật về đấu thầu thi công các
6
công trình xây dựng ở Việt Nam và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn
ngân sách trên địa bàn thị xã Quảng Yên tỉnh Quảng Ninh và cả nước
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận về đấu thầu thi công các công trình
xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước và pháp luật về đấu thầu thi
công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây
dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước và thực tiễn áp dụng pháp luật đấu
thầu thi công công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Thị
xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh
Chương 3: Những định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu
thầu thi công công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước và
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU THẦU VÀ PHÁP LUẬT VỀ
ĐẤU THẦU THI CÔNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG BẰNG
NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC.
1.1 Khái niệm, đặc điểm của đấu thầu thi công công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
1.1.1 Khái niệm đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước
Xây dựng là một lĩnh vực có vai trò quan trọng trong nền kinh tế cũng
như sự phát triển của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Ngành công nghiệp
xây dựng tạo ra cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế không chỉ đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của con người và đặc biệt là đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã
hội của quốc gia. Việt Nam đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, cho nên ngành xây dựng càng ngày càng trở nên có vai trò to lớn trong
việc xây dựng đất nước. Trong bối cảnh, kinh tế thị trường, xây dựng trở
thành ngành sản xuất, kinh doanh và lĩnh vực xây dựng được điều chỉnh bởi
thể chế kinh tế thị trường. Trong thể chế đó, không thể thiếu hoạt động đấu
thầu điều chỉnh quan hệ giữa người mua và người bán. Trong đó đó bên mua
là các chủ đầu tư: họ mong muốn giống như người mua trong các hoạt động
thương mại thuần túy khác là khoản đầu tư mình bỏ ra là có lợi nhất, hàng hóa
mua được phải là hàng hóa có chất lượng tốt và giá cả có lợi nhất cho họ. Bên
bán ở đây chính là các nhà thầu thường là các doanh nghiệp, cá nhân kinh
doanh trong lĩnh vực xây dựng. Những người này hướng đến mục đích bán
được càng nhiều hàng hóa là các sản phẩm xây dựng càng nhiều, càng tốt với
giá có lợi nhất cho doanh nghiêp và mục tiêu của các nhà thầu tạo ra nhiều giá
trị khác nữa hay chính là việc thắng thầu trong nhiều gói thầu. Để đảm bảo
cho thị trường xây dựng phát triển lành mạnh vận hành theo đúng cơ chế thị
8
trường mà đặc trưng là cạnh tranh lành mạnh, tạo cơ hội cho người mua lựa
chọn được người bán phù hợp pháp luật đấu thầu ra đời
Đấu thầu là phương thức giao dịch đặc biệt, theo đó người muốn xây
dựng một công trình (người mời thầu) công bố trước các yêu cầu và điều kiện
xây dựng công trình để người nhận xây dựng công trình (người dự thầu) công
bố giá mà mình muốn nhận. Người mời thầu sẽ lựa chọn người chủ thầu nào
phù hợp với điều kiện của mình và có giá thấp hơn.
Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp
đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp;
lựa chọn nhà đầu tư để ký kết và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình
thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh
tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
“Đấu thầu là tiến hành mua sắm hàng hóa, xây lắp và dịch vụ theo một
cách nào đó”. Theo luật thực định của Việt Nam thì “Đấu thầu là quá trình
lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu để thực hiện gói
thầu thuộc dự án quy định tại điều 1 của Luật này trên cơ sở đảm bảo tính
cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế”.
Như vậy, đấu thầu xét dưới phương diện kinh tế là một hình thức mua
bán hàng hóa chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường khi mà ở đó
sản xuất và trao đổi hàng hóa luôn ở trong tình trạng cung lớn hơn cầu. Khi
một chủ thể nào đó có nhu cầu mua sắm hàng hóa, sử dụng dịch vụ hoặc sản
phẩm xây lắp thì cũng là lúc rất nhiều chủ thể khác có khả năng đáp ứng nhu
cầu đó. Chính vì vậy, đấu thầu bị điều chỉnh bởi các quy luật của thị trường
như quy luật cạnh tranh , quy luật giá trị, tính công khai, minh bạch của thị
trường. bởi lẽ không có cạnh tranh thì không có đấu thầu và cũng không cần
đến đấu thầu. Có thể nói đấu thầu là phương thức giao dịch mua bán hàng hóa
đặc biệt. Thông thường trên thị trường mua bán hàng hóa hay xây dựng các
công trình dân sự hay công trình hạ tầng của nền kinh tế khi có nhiều người
9
cung cấp hàng hóa, dịch vụ, thì người ta thường áp dụng hoặc bắt buộc phải
áp dụng hình thức đấu thầu cạnh tranh công khai.
Xét dưới phương diện pháp lý, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong đó có
đấu thầu xây dựng các công trình hạ tầng là một quan hệ pháp luật mà chủ thể
là các thương nhân thực hiện việc đấu thầu nhằm mục đích lợi nhuận hoặc các
mục tiêu kinh tế, xã hội, đồng thời đối tượng có nó là hàng hóa, dịch vụ.
Quan hệ đấu thầu cũng làm phát sinh các quyền nghĩa vụ pháp lý của các chủ
thể được điều chỉnh bởi luật thương mại với tư cách là luật chung và các lĩnh
vực pháp luật chuyên ngành khác.
Đấu thầu có thể được nhìn nhận từ các phương diện khác nhau.
Thứ nhất: từ phương diện người bán hàng hóa (nhà thầu), đấu thầu
được coi như là cách bán hàng hóa, dịch vụ giúp cho nhà thầu có được những
dự án, công trình. Thực chất của đấu thầu là quá trình cạnh tranh với nhà thầu
khác về khả năng đáp ứng yêu cầu về chất lượng, tiến độ, chi phí, xây dựng
do bên mời thầu đặt ra. Bên cạnh đó, đấu thầu mở ra cơ hội quảng bá sản
phẩm, tiếp cận khách hàng, tìm hiểu nhu cầu của thị trường, hoàn thiện sản
phẩm, đánh giá năng lực cạnh tranh của mình…mới của nhà thầu.
Thứ hai: từ phương diện người mua hàng hóa (chủ đầu tư), đấu thầu là
cách mà người mua có cơ hội lựa chọn các nhà thầu cung cấp sản phẩm đáp
ứng tốt nhất các yêu cầu của mình. Các nhà thầu khi tham gia đấu thầu đều
mong muốn trúng thầu vì vậy họ cạnh tranh với nhau về chất lượng lẫn giá cả.
Chính sự cạnh tranh này làm cho bên mời thầu lựa chọn được những sản
phẩm hợp lý nhất xét từ góc độ mối quan hệ giá cả - chất lượng.
Thứ ba: Đối với nhà nước, đấu thầu là phương thức quản lý các hoạt
động đầu tư, mua sắm, xây dựng thông qua việc ủy quyền cho các chủ đầu tư
theo chế độ công khai tuyển chọn nhà thầu
Như trên đã nói, hoạt động xây dựng xét dưới góc độ thương mại là
việc cung cấp cho xã hội sản phẩm đặc thù đó là các công trình xây dựng.
10
Công trình xây dựng là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con
người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết định vị
với đất, có thể bao gồm phần dưới mặt đất, phần trên mặt đất, phần dưới mặt
nước và phần trên mặt nước, được xây dựng theo thiết kế. Công trình xây
dựng bao gồm công trình dân dụng, công trình công nghiệp, giao thông, nông
nghiệp và phát triển nông thôn, công trình hạ tầng kỹ thuật và công trình
khác. Nhu cầu có các công trình xây dựng đến từ các chủ thể khác nhau, trong
đó, nhà nước tham gia vào quan hệ đấu thầu với tư cách là bên mua hàng hóa
(chủ đầu tư) là khá phổ biến. Từ đó, xuất hiện quan hệ trong việc đấu thầu các
công trình xây dựng mà ở đó nhà nước là chủ đầu tư với nguồn ngân sách nhà
nước muốn có các công trình xây dựng và bên kia là các nhà thầu bao gồm tư
vấn, thiết kế, cung cấp thiết bị và thi công các công trình xây dựng luôn có
nhu cầu bán các sản phẩm là các công trình trình xây dựng. Quan hệ này có
những đặc điểm riêng so với quan hệ đấu thầu đối với hàng hóa thông thường
và do đó, cần có các quy phạm phạm pháp luật điều chỉnh đặc thù.Khái niệm
đầu tư xây dựng cơ bản: Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư nhằm
tạo ra các công trình xây dựng theo mục đích của người đầu tư, là lĩnh vực
sản xuất vật chất tạo ra các tài sản cố định và tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật
cho xã hội. Đầu tư xây dựng cơ bản là một hoạt động kinh tế.
Đầu tư xây dựng cơ bản được hình thành từ các nguồn vốn khác nhau
trong đó quan trọng là nguồn vốn ngân sách nhà nước bao gồm:
Ngân sách nhà nước cấp phát. Vốn của các doanh nghiệp nhà nước có
nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, bao gồm vốn từ khấu hao cơ bản để lại, từ
lợi nhuận sau thuế, từ đất đai, nhà xưởng còn chưa sử dụng đến... được huy
động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh; vốn góp của nhà nước trong liên
doanh, liên kết với các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài. Vốn tín
dụng đầu tư phát triển của nhà nước mà Chính phủ cho vay theo lãi suất ưu
đãi bằng nguồn vốn tự có hoặc nhà nước đi vay để cho vay lại đầu tư vào các
11
dự án thuộc lĩnh vực được ưu tiên trong kế hoạch nhà nước đối với một số
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Vốn vay nợ, viện trợ từ bên ngoài
của Chính phủ thông qua kênh hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Trên thực tế,
một phần vốn này sẽ đưa vào ngân sách đầu tư, còn phần ODA cho các doanh
nghiệp vay lại thì đưa vào nguồn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
Trong đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước, vốn là vốn của nhà nước
mà không phải là của tư nhân, do vậy rất khó quản lý sử dụng, dễ xảy ra thất
thoát, lãng phí, tham nhũng. Ở đây quyền sở hữu về vốn không trùng hợp với
quyền sử dụng và quản lý vì thế trách nhiệm quản lý vốn không cao. Động lực
cá nhân đối với việc sử dụng hiệu quả đồng vốn không rõ ràng, mạnh mẽ như
nguồn vốn tư nhân. Vì vậy việc quản lý hiệu quả vốn trong đầu tư xây dựng
cơ bản ( ĐTXDCB ) của nhà nước rất khó khăn, phức tạp. Về lĩnh vực đầu
tư, đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước thường nhằm vào lĩnh vực ít được
thương mại hoá, không thu hồi vốn ngay, ít có tính cạnh tranh. Về mục tiêu
đầu tư, ĐTXDCB của nhà nước thường ít nhắm tới mục tiêu lợi nhuận trực
tiếp. Nó phục vụ lợi ích của cả nền kinh tế, trong khi ĐTXDCB của tư nhân
và đầu tư nước ngoài thường đề cao lợi nhuận. Về môi trường đầu tư,
ĐTXDCB của nhà nước thường diễn ra trong môi trường thiếu vắng sự cạnh
tranh. Và nếu có sự cạnh tranh thì cũng ít khốc liệt hơn khu vực đầu tư khác.
Phạm vi đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước: Nhìn trong tổng thể
việc đầu tư của toàn xã hội, mỗi một nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử
nhất định phải tự định đoạt cho mình phạm vi ĐTXDCB để đạt được mục tiêu
mà nhà nước ấy đặt ra. Nhà nước phải quyết định ĐTXDCB ở đâu, công trình
nào, nhằm mục đích gì, để giải quyết những vấn đề gì. Nhà nước cũng phải
xác định rõ ràng phạm vi nào dành cho các nguồn đầu tư khác ngoài đầu tư
xây dựng cơ bản của nhà nước, quyết định các chính sách ưu tiên ưu đãi, thuế
khoá để khuyến khích, điều tiết vĩ mô về đầu tư xây dựng cơ bản.
12
Nhìn chung nhà nước chỉ nên đầu tư vào những nơi có sự thất bại của
thị trường, khi mà khu vực vốn khác không thể đầu tư, không muốn đầu tư và
không được phép đầu tư, khi nhà nước cần giải quyết các vấn đề xã hội, văn
hoá, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng. Việc đầu tư theo vùng miền và theo
các ngành kinh tế cũng phải được nhà nước tính đến. Việc định đoạt phạm vi
ĐTXDCB của nhà nước khác biệt với việc xác định phạm vi đầu tư của khu
vực tư nhân ở chỗ nhà nước phải giữ vai trò điều tiết, khắc phục thất bại thị
trường, giải quyết vấn đề kinh tế xã hội cùng với việc tính toán lợi ích chung.
Trong lúc đó khu vực đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài nhìn chung chỉ chú
trọng đến lợi ích kinh tế.
Từ các phân tích trên có thể đưa ra khái niệm Đấu thầu xây dựng các
công trình xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước là quá trình mà chủ đầu tư là
có sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước lựa chọn các nhà thầu hoặc một nhóm
nhà thầu (liên danh) đáp ứng được tốt nhất các yêu cầu do bên mời thầu đặt ra
để xây dựng các công trình xây dựng
1.1.2 Đặc điểm đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Ngoài những đặc điểm chung của đấu thầu hàng hóa, dịch vụ nói
chung, đấu thầu xây dựng các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách
nhà nước còn có những đặc thù sau đây:
Thứ nhất, đấu thầu trong xây dựng các công trình từ nguồn vốn ngân
sách nhà nước mang tính phức hợp. thể hiện ở tính đa dạng của sản phẩm xây
dựng. sản phẩm xây dựng có các loại và cấp công trình với công năng, diện
tích sử dụng, quy mô của các công trình… rất khác nhau. Do đó, quá trình tạo
lập các sản phẩm này phải tuân thủ các quy chuẩn, tiêu chuẩn nhất định. Bên
cạnh đó, hoạt động xây dựng gắn liền với với gói thầu của dự án, được phân
chia theo những tiêu chí nhất định về tiêu chuẩn kỹ thuật, sự đồng bộ, thời
gian thực hiện. Do đó, một dự án xây dựng có thể có một hoặc nhiều gói thầu.
Tính phức tạp của đấu thầu các công trình xây dựng còn bị chi phối bởi các
13
yếu tố chi phí cấu thành giá trị sản phẩm xây dựng. Chí phí này phụ thuộc
nhiều vào giá cả vật liệu, chi phí nhân công, trình độ công nhân. Tính phức
tạp của đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng vốn ngân sách nhà
nước còn thể hiện bởi sự tham gia của nhiều nhà thầu. Bởi lẽ, đấu thầu là
phương thức giúp chủ đầu tư lựa chọn nhà thầu thi công bằng các gói thầu
khác nhau nên nhiều chủ thể tham gia đấu thầu sẽ tạo ra sự cạnh tranh lớn,
thông qua đó, chủ đầu tư lựa chọn được bên thi công tốt nhất.
Thứ hai, tiêu chí lựa chọn nhà thầu trong các công trình xây dựng khác
với tiêu chí đấu thầu mua bán hàng hóa thông thường bởi lẽ, các sản phẩm
xây dựng mà chủ đầu tư đưa ra chỉ là bản vẽ, hồ sơ tài liệu. Nhà thầu trong
hoạt động xây dựng là đơn vị tổ chức có trách nhiệm hiện thực hóa công
trình, dự án từ bản vẽ thiết kế. Do đó, đòi hỏi họ phải có đủ năng lực hoạt
động xây dựng, năng lực hành nghề xây dựng khi tham gia quan hệ hợp đồng
trong hoạt động xây dựng, nếu không thì hậu quả thực sự rất khôn lường. Có
rất nhiều tiêu chí được đưa ra khi lựa chọn nhà thầu thi công công trình.
Chính vì vậy tiêu chí mà chủ đầu tư lựa chọn đối với nhà thầu trong xây dựng
là: biện pháp thi công, tiến độ thi công, quản lý giá cả vật tư, xây dựng là
những tiêu chí có tính chất quyết định.
Thứ ba, Theo quy định của Luật Đấu thầu hiện hành, Dự án đầu tư phát
triển sử dụng vốn nhà nước của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự
nghiệp công lập; Vốn Nhà nước bao gồm vốn ngân sách Nhà nước, công trái
quốc gia, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, vốn hỗ trợ
phát triển chính thức, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ; vốn từ quỹ phát triển
hoạt động sự nghiệp, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn tín
dụng do Chính phủ bảo lãnh, vốn vay được bảo đảm bằng tài sản của Nhà
nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước; giá trị quyền sử dụng
đất. Chính vì vậy, các gói thầu xây dựng các công trình có vốn từ ngân sách
14
nhà nước là những gói thầu có giá trị lớn. Từ đó dẫn đến các hình thức đấu
thầu trong xây dựng cũng khác nhau. Đối với những gói thầu không yêu cầu
về yếu tố kỹ thuật cao, hầu hết các doanh nghiệp hoạt động ở lĩnh vực nhất
định đều có thể đáp ứng được yêu cầu của gói thầu thì quy trình đấu thầu sẽ
thực hiện theo hình thức đấu thầu rộng rãi. Đối với những gói thấu có yêu cầu
kỹ thuật cao, biện pháp tổ chức thi công phức tạp hoặc xây dựng những công
trình chuyên ngành mà chỉ có một số nhà thầu mới có khả năng đáp ứng thì
việc lựa chọn nhà thầu sẽ thực hiện theo hình thức đấu thầu hạn chế.
Thứ tư, quá trình tổ chức đấu thầu các công trình xây dựng có vốn đầu
tư nhà nước có thời gian thực hiện kéo dài hơn so với đấu thầu mua bán hàng
hóa từ khâu mời thầu, chuẩn bị hồ sơ dự thầu đến khâu đánh giá hồ sơ dự
thầu. Hồ sơ mời thầu trong trường hợp này bao gồm nhiều chỉ dẫn cụ thể, đặc
biệt gồm cả hồ sơ bản vẽ thiết kế, tiên lượng dự toán và các công việc này đòi
hỏi nhiều thời gian chuẩn bị. Ngoài ra, tiêu chuẩn đánh giá cũng bao gồm các
tiêu chí rất phức tạp cần cụ thể và có tính định lượng cao để đảm bảo cho việc
đánh giá chính xác, nhất là các tiêu chí về biện pháp thi công, tiến độ, tài
chính thương thương mại.
Thứ năm, vì chủ đầu tư (bên mời thầu) là các cơ quan, tổ chức có sử
dụng vốn ngân sách nhà nước nên các gói thầu xây dựng có nguồn gốc từ
ngân sách nhà nước luôn có sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Chính phủ, các cơ quan quản lý
nhà nước các cấp thanh tra chuyên ngành. Điều này đảm bảo cho việc sử dụng
ngân sách nhà nước tiết kiệm, hiệu quả tránh thất thoát.
1.2. Ý nghĩa của đấu thầu thi công công trình xây dựng bằng nguồn
vốn ngân sách nhà nước.
Đấu thầu trong thi công các công trình xây dựng là khâu qua trọng để
thực hiện dự án xây dựng. Thậm chí, nó còn quyết định sự thành công hay
thất bại của dự án ở tất cả các khía cạnh kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Mục tiêu của dự án xây dựng công tình bằng ngân sách nhà nước chỉ đạt được
15
khi mà thời gian thi công dự án đúng tiến độ dự kiến, các công trình xây dựng
có chất lượng cao với chi phí thấp nhất. Điều này phụ thuộc vào lực của nhà
thầu được lựa chọn. Việc lựa chọn nhà thầu có năng lực lại phụ thuộc vào
công tác đấu thầu. Ý nghĩa của đấu thầu thi công các công trình sử dụng vốn
ngân sách nhà nước thể hiện ở các khía cạnh cụ thể sau đây:
Một là, đối với chủ đầu tư, đấu thầu giúp chủ đầu tư lựa chọn được nhà
thầu đủ điều kiện, năng lực thi công trình, đưa công trình xây dựng vào sử
dụng đúng với tiến độ, với chi phí đầu tư hợp lý. Dưới góc độ kinh tế, tính
hiệu quả trong quá trình xây dựng được thể hiện ở việc chủ đầu tư lựa chọn
được nhà thầu thi công với chi phí thấp. Thực tế tỷ lệ tiết kiệm do sử dụng
đấu thầu thông thường đạt được từ 10 đến 15% so với giá gói thầu. Bởi lẽ,
các nhà thầu khi tham gia đấu thi công đều mong muốn trúng thầu vì vậy họ
cạnh tranh với nhau về chất lượng lẫn giá cả. Chính sự cạnh tranh này làm
cho bên mời thầu lựa chọn được những sản phẩm hợp lý nhất xét từ góc độ
mối quan hệ giá cả, chất lượng của kinh tế thị trường.
Bên cạnh đó công tác đấu thầu trong thi công còn giúp chủ đầu tư kiểm
soát được chất lượng, tiến độ và chi phí trong quá trình thi công công trình
xây dựng; đồng thời hạn chế được rủi ro do việc đấu thầu được thực hiện theo
một quy trình chặt chẽ và nghiêm ngặt từ khâu lập, thẩm định, phê duyệt, kế
hoạch đấu thầu, dự toán gói thầu, hồ sơ thiết kế, kết quả lựa chọn nhà thầu
đến việc ký kết hợp đồng với nhà thầu. Công tác này giúp cho chủ đầu tư hạn
chế được tiêu cực có thể phát sinh trong nội bộ chủ đầu tư và giúp họ có được
giải pháp thi công, giải pháp tài chính phù hợp. Hơn nữa, trong quá trình thi
công, chủ đầu tư được linh hoạt trong việc hoàn thiện hồ sơ tài liệu thiết kế,
dự toán trên cơ sở đề nghị của nhà thầu.
Hai là, dưới góc độ người bán (các nhà thầu xây dựng), khi tham gia
đấu thầu nhà thầu dành được quyền thi công công trình xây dựng, có được lợi
nhuận đảm bảo cho việc phát triển của doanh nghiệp. Đấu thầu, đặc biệt là
16
đấu thầu rộng rãi thi công các công trình xây dựng tạo ra sân chơi bình đẳng
cho các nhà thầu xây dựng, thông qua việc tham gia đấu thầu, các nhà thầu
tạo dựng được uy tín, thương hiệu của mình. Tiếp cận với khách hàng mới.
Với việc tham gia đấu thầu thì nhà thầu có cơ hội gặp gỡ với khách hàng mới
để tìm hiểu nhu cầu mua sắm, đây là yếu tố quan trọng trong hoạt động
nghiên cứu thị trường của nhà thầu.
Tiếp cận với đối thủ cạnh tranh. Một cuộc đấu thầu có thể có rất nhiều
nhà thầu tham gia và bên cạnh đó, các điều kiện dự thầu của các nhà thầu này
lại được thông báo công khai. Như vậy đấu thầu đã tạo ra cơ hội cho các nhà
thầu gặp gỡ nhau, tìm hiểu điểm mạnh và hạn chế của những đối thủ cạnh
tranh để hoàn thiện mình và tìm kiếm cơ hội hợp tác.
Tiếp cận với những quy định về đấu thầu của các cơ quan quản lý nhà
nước và các tổ chức quản lý vốn khác. Đấu thầu là hoạt động mua bán theo
những quy định mang tính pháp luật, vì vậy khi tham gia đấu thầu các nhà
thầu phải tìm hiểu nắm vững các quy định này.
Hoàn thiện sản phẩm. Đứng trước yêu cầu của bên mời thầu về dịch
vụ, công trình hay hàng hóa thì nhà thầu sẽ xác định xem sản phẩm của mình
có đáp ứng được hay không. Qua những lần không trúng thầu nhà thầu sẽ tìm
được nguyên nhân thất bại để từ đó hoàn thiện sản phẩm về chất lượng, giá
cả, dịch vụ bán hàng..
Ba là, đối với nhà nước, Đấu thầu là một công cụ quan trọng giúp các
chính phủ quản lý chi tiêu, sử dụng các nguồn vốn của Nhà nước sao cho có
hiệu quả và chống thất thoát, lãng phí. Đó là những khoản tiền được chi dùng
cho đầu tư phát triển mà có sự tham gia của các tổ chức nhà nước, doanh
nghiệp nhà nước ở một mức độ nào đó, cũng như cho mục tiêu duy trì các
hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Đấu thầu thúc đẩy chuyển giao công nghệ, chia sẻ kiến thức, kinh
nghiệm giữa các quốc gia, các tổ chức phát triển với các quốc gia đang phát
17
triển. Hoạt động đấu thầu không chỉ diễn ra trong phạm vi hẹp mà được diễn
ra trên toàn thế giới. Các nhà thầu danh tiếng trên thế giới, họ là những người
sẵn sàng và có khả năng tham gia vào tất cả các hoạt động của các quốc gia,
thông qua đó họ sẵn sàng chuyển giao công nghệ, chia sẻ kiến thức, kinh
nghiệm.
Đấu thầu giúp Nhà nước có điều kiện xem xét, quản lý và đánh giá một
cách minh bạch các khoản chi tiêu do quá trình đấu thầu phải tuân thủ các quy
trình chặt chẽ với sự tham gia của nhiều bên. Tạo điều kiện để thúc đẩy tiến trình
đổi mới nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp, cơ chế “xin”, “cho” sang cơ chế
cạnh tranh. Thực hiện dân chủ hóa nền kinh tế, khắc phục những nhược điểm
của những thủ tục hành chính nặng nề cản trở sự năng động, sáng tạo.
Đấu thầu là một công cụ quan trọng giúp các chính phủ quản lý chi
tiêu, sử dụng các nguồn vốn của Nhà nước sao cho có hiệu quả và chống thất
thoát, lãng phí. Đó là những khoản tiền được chi dùng cho đầu tư phát triển
mà có sự tham gia của các tổ chức nhà nước, doanh nghiệp có cổ phần, vốn
góp của nhà nước ở một mức độ nào đó, cũng như cho mục tiêu duy trì các
hoạt động của bộ máy Nhà nước. Việc chi tiêu, sử dụng tiền của Nhà nước
thông qua đấu thầu sẽ giúp các cơ quan quản lý có điều kiện xem xét, quản lý
và đánh giá một cách minh bạch các khoản chi tiêu do quá trình đấu thầu phải
tuân thủ các quy trình chặt chẽ với sự tham gia của nhiều bên; tạo điều kiện
để thúc đẩy tiến trình đổi mới nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp, cơ chế
“xin”, “cho”sang cơ chế cạnh tranh; thực hiện dân chủ hóa nền kinh tế, khắc
phục những nhược điểm của những thủ tục hành chính nặng nề cản trở sự
năng động, sáng tạo.
Pháp luật về đấu thầu đang cùng với các quy định về thực hành tiết
kiệm chống lãng phí, pháp luật về phòng, chống tham nhũng tạo thành chuỗi
công cụ hữu hiệu để chống lại các hành vi gian lận, tham nhũng và lãng phí
18
trong việc chi tiêu các nguồn tiền của Nhà nước, góp phần làm lành mạnh hóa
các quan hệ xã hội.
1.3. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về đấu thầu thi công công
trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Hoạt động đấu thầu thi công các công trình xây dựng có nguồn vốn
ngân sách nhà nước làm phát sinh các quan hệ xã hội giữa các chủ thể khác
nhau. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đấu thầu thi
công các công trình xây dựng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cần có hệ
thống bao gồm tập hợp các quy phạm pháp luật để điều chỉnh nhằm đảm bảo
cho hoạt động này được hiện một cách có trật tự, đạt được mục đích đề ra là
nhà nước và xã hội có những công trình xây dựng đạt chất lượng cao, bền
vững, chi phí rẻ. Như vậy, pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây
dựng có nguồn vốn ngân sách nhà nước là hệ thống các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đấu thầu thi công các
công trình xây dựng có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
Mỗi lĩnh vực pháp luật đều có đối tượng điều chỉnh và phương pháp
điều chỉnh riêng. Việc xác định rõ đối tượng điều chỉnh sẽ là tiền đề cơ bản
cho sự hình thành và phát triển của từng lĩnh vực pháp luật, xác định phương
hướng, giải pháp hoàn thiện phù hợp với yêu cầu của từng lĩnh vực pháp luật
và cũng để phân biệt lĩnh vực pháp luật này với lĩnh vực pháp luật khác. Lĩnh
vực pháp luật về đấu thầu thi công các công trình có nguồn vốn từ ngân sách
nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các chủ thể
thực hiện việc đấu thầu này. Bao gồm các quan hệ sau đây:
Thứ nhất, nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa các cơ quan nhà nước có
liên quan với chủ thể có nhu cầu xây dựng các công trình bằng nguồn vốn
ngân sách nhà nước. Trong việc thực hiện các thủ tục đấu thầu thi công. Đây
là nhóm quan hệ theo “chiều dọc”, thể hiện bản chất là quan hệ quản lý giữa
chủ thể có nhu cầu đầu tư các công trình xây dựng bằng vốn ngân sách nhà
19
nước với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện thủ
tục đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà
nước. Theo Luật đầu tư công năm 2014 thì: Cơ quan chuyên môn quản lý
đầu tư công là đơn vị có chức năng quản lý đầu tư công thuộc Bộ Kế hoạch và
Đầu tư; đơn vị được giao quản lý đầu tư công của bộ, cơ quan trung ương,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan, tổ chức
khác được giao kế hoạch đầu tư công; Sở Kế hoạch và Đầu tư; phòng, ban có
chức năng quản lý đầu tư công thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã.
Xét về bản chất, nhóm quan hệ xã hội này được xác lập giữa chủ thể có
nhu cầu đầu tư xây dựng các công trình bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước
với các cơ quan nhà nước khác (chủ thể có thẩm quyền) nhằm thực hiện các
thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật trong quá trình tổ chức đấu
thầu thi công. Trên nguyên tắc, các chủ thể tham gia vào nhóm quan hệ xã hội
này bao gồm: cơ quan được giao ngân sách nhà nước để xây dựng các công
trình phục vụ mục đích công cộng (là cơ quan có trách nhiệm lập kế hoạch
xây dựng, tổ chức lựa chọn bên thi công thông qua phương thức đấu thầu, ký
kết hợp đồng thi công công trình với bên thi công và tổ chức thực hiện hợp
đồng); cơ quan phê duyệt kế hoạch xây dựng, thi công (thường là cơ quan chủ
quản của chủ thể có nhu cầu xây dựng); cơ quan thẩm định kết quả của từng
giai đoạn thi công và cuối cùng là cơ quan kiểm soát quá trình thi công. Trong
quá trình đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân
sách , quan hệ phát sinh giữa các cơ quan nhà nước chủ yếu mang tính chất
chấp hành, điều hành, do đó các quy định pháp luật điều chỉnh những quan hệ
này mang tính chất quyền uy, mệnh lệnh hành chính .
Thứ hai, nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa chủ thể có nhu cầu xây
dựng các công trình bằng nguồn vốn ngân sách (gọi là bên mời thầu) với chủ
thể là các nhà thầu có đủ tiêu chuẩn tham gia đấu thầu thi công. Đây là nhóm
quan hệ theo “chiều ngang”, thể hiện bản chất là quan hệ giao dịch dân sự,
20
thương mại bình đẳng giữa các bên tham gia trên cơ sở thỏa thuận và tuân thủ
đúng các quy định chung của pháp luật về đấu thầu xây dựng.
Nhóm quan hệ này phát sinh khi bên mời thầu đưa ra các yêu cầu và
nhà thầu tiến hành nộp hồ sơ đăng ký dự thầu hoặc hồ sơ dự thầu thể hiện
việc đáp ứng yêu cầu đó. Khi một nhà thầu hoặc một nhóm nhà thầu được xác
định là trúng thầu thì khi đó các bên sẽ xác lập quan hệ hợp đồng thi công,
theo các tiêu chuẩn, điều kiện và giá cả đã xác định khi trúng thầu. Về nguyên
tắc, nhóm quan hệ xã hội này sẽ được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật
mang tính dân sự, thương mại, thể hiện nguyên tắc công bằng, bình đẳng,
tránh sự lạm quyền một cách tối đa từ phía nhà nước.
Thứ ba, nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa các nhà thầu thi công với
các cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng. Quan hệ này phát sinh trong quá
trình thực hiện việc đấu thầu thi công, theo đó, những người tham gia đấu
thầu thi công, giao kết, thực hiện hợp đồng thi công các công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước phải đảm bảo các tiêu chuẩn, điều kiện
theo quy định của pháp luật về xây dựng. Ví dụ: theo quy định của pháp luật
xây dựng, khi tham gia dự thầu, các bên dự thầu công trình xây dựng cơ bản
thường phải đáp ứng những yêu cầu như: yêu cầu về năng lực kĩ thuật, yêu
cầu về tài chính và yêu cầu về kinh nghiệm. Đối với gói thầu xây dựng cơ bản
tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự tuyển còn phải phù hợp với yêu cầu về điều kiện
năng lực đối với từng loại, cấp công trình xây dựng theo quy định của luật
xây dựng. Sau khi được lựa chọn nhà thầu còn phải kí kết hợp đồng để đảm
bảo tính pháp lý cho hoạt động đấu thầu cũng như cho quá trình xây dựng
diễn ra sau này. Trong quá trình đấu thầu, chủ đầu tư, cơ quan có thẩm quyền
phải thẩm tra là việc kiểm tra, đánh giá về chuyên môn của tổ chức, cá nhân
có đủ điều kiện năng lực hoạt động xây dựng, năng lực hành nghề xây dựng
đối với những nội dung cần thiết trong quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án
đầu tư xây dựng làm cơ sở cho công tác thẩm định.
21
Thứ tư, nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa các nhà thầu với nhau khi
tham gia quan hệ đấu thầu thi công các công các công trình xây dựng bằng
vốn ngân sách nhà nước. Đây không phải là nhóm quan hệ chủ yếu, điển hình
nhưng cũng có sự tác động nhất định đến sự thành công của quan hệ đấu thầu
thi công, bởi lẽ nếu các nhà thầu không tuân thủ đúng các nguyên tắc cạnh
tranh công bằng trong đấu thầu mà “bắt tay”với nhau khi tham gia đấu thầu
thì hậu quả xảy ra là mục tiêu chính của việc đấu thầu sẽ không đạt được và
bên mời thầu có thể sẽ không chọn được nhà thầu có phương án thi công tốt
nhất như mình mong muốn để tiến tới việc ký kết và thực hiện hợp đồng thi
công.
Đối tượng đưa ra đấu thầu ở đây là công việc thi công các công trình
xây dựng, do đó khi đấu thầu thi công công trình xây dựng còn được điều
chỉnh bằng các văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng. Về chủ thể áp dụng
là các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước; tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt
động đầu tư xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam. Nội dung điều chỉnh, pháp luật
về xây dựng quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức,
cá nhân và quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư xây dựng.
Bao trùm lên lĩnh vực này đó chính là các văn bản quy phạm pháp luật,
các án lệ, tập quán về đấu thầu. Quan trọng nhất là Luật đấu thầu và các văn
bản hướng dẫn thi hành trong đó, các quy phạm pháp luật điều chỉnh quản lý
nhà nước về đấu thầu; trách nhiệm của các bên có liên quan và các hoạt động
đấu thầu; lựa chọn nhà thầu, nguyên tắc đấu thầu, quy trình, thủ tục thực hiện
việc đấu thầu… Những quy định về chủ thể; lựa chọn hình thức đấu thầu;
trình tự, thủ tục đấu thầu; lựa chọn nhà thầu và ký kết hợp đồng; quyền và
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đấu thầu; và xử lý vi phạm.
Như vậy, lĩnh vực pháp luật liên quan đến đấu thầu thi công các công
trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước là rất rộng bao gồm các
lĩnh vực pháp luật khác nhau và có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong pháp
22
luật đấu thầu là luật chung, pháp luật về xây dựng, đầu tư công là luật riêng
(luật chuyên ngành). Trong quá trình áp dụng nguyên tắc luật chung, luật
riêng được tuân thủ. Điều 3, Khoản 1, Luật Đấu thầu năm 2013 quy định:
“Trường hợp có đặc thù về đấu thầu quy định ở Luật khác thì áp dụng theo
quy định của Luật đó”. Điều này có nghĩa là luật đấu thầu được coi là luật
chung, điều chỉnh những vấn đề cơ bản nhất về đấu thầu, làm cơ sở cho các
luật chuyên ngành khác có liên quan đến hoạt động này. Do đó, đấu thầu thi
công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước trước hết
phải tuân theo pháp luật luật đấu thầu. Tuy nhiên đây lại là hoạt động đấu
thầu trong lĩnh vực cụ thể nên nhất thiết phải chịu sự điều chỉnh đồng thời của
luật xây dựng. Những nguyên tắc chung, thống nhất của luật đấu thầu sẽ được
áp dụng cùng với luật xây dựng để hoạt động này có thể diễn ra trên thực tế
mà không gặp phải những vướng mắc hay chồng chéo trong sự điều chỉnh của
pháp luật.
1.4. Nội dung của pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây
dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước
1.4.1 Các nguyên tắc về đấu thầu thi công các công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước
Nguyên tắc pháp lí là tư tưởng chỉ đạo để xây dựng hệ thống pháp luật
một cách thống nhất, đồng bộ . Các nguyên tắc về đấu thầu thi công các công
trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước là những quan điểm và tư
tưởng xuất phát điểm, mang tính chủ đạo, xuất phát từ đòi hỏi khách quan của
sự phát triển xã hội, có khả năng chỉ đạo hoạt động xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân
sách nhà nước, có ý nghĩa “dẫn dắt” thực tiễn, làm kim chỉ nam cho các hoạt
động của các chủ thể trong quá trình đấu thầu thi công các công trình bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước. Những nguyên tắc này thể hiện quan điểm
của Nhà nước về kinh tế thị trường nói chung, về đấu thầu, đầu tư công và
23
lĩnh vực xây dựng nói riêng đồng thời nó thể hiện vai trò quản của nhà nước
trong lĩnh vực này. Các nguyên tắc chỉ đạo đấu thầu thi công các công trình
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước có thể chia thành ba nhóm: các nguyên
tắc về đấu thầu nói chung, các nguyên tắc của lĩnh vực xây dựng và lĩnh vực
đầu tư công.
1.4.1.1 Các nguyên tắc về đấu thầu
Các nguyên tắc về đấu thầu là tư tưởng chỉ đạo được rút ra từ các quy
định pháp luật về đấu thầu do tổ chức có thẩm quyền ban hành, trên bình diện
nào đó buộc các bên tham gia đấu thầu phải tuân theo. Các hoạt động đấu
thầu nói chung trong đó có hoạt động đấu thầu thi công các công trình bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước phải được thực hiện dựa trên các nguyên tắc
sau đây:
- Nguyên tắc hiệu quả: Các gói thầu liên quan đến thi công các công
trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước được thực hiện trên cơ sở
tính toán kỹ lưỡng về hiệu quả kinh tế của việc đấu thầu mang lại. Nguyên tắc
này đòi hỏi, bên chủ đầu tư chỉ tổ chức việc đấu thầu khi họ chứng minh được
ưu thế hiệu quả kinh tế của việc đấu thầu so với không thực hiện đấu thầu. Để
làm việc này, chủ đầu tư phải tính toán chi phí trong lựa chọn nhà thầu bao
gồm: Chi phí liên quan đến việc chuẩn bị hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển,
hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất và tham dự thầu thuộc trách nhiệm của nhà thầu;
chi phí liên quan đến quá trình lựa chọn nhà thầu được xác định trong tổng
mức đầu tư hoặc dự toán thi công và các chi phí khác. Hơn nữa, mục đích của
đấu thầu chính là chọn được nhà thầu tốt nhất có đủ năng lực cung cấp hàng
hóa, dịch vụ tốt nhất với giá cả hợp lý. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi không
được lợi dụng việc đấu thầu để thu lợi bất chính cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan gây tốn kém, lãng phí cho các bên tham gia đấu thầu. việc phân chia
các gói thầu, lựa chọn các hình thức đấu thầu…cần tính toán hiệu quả kinh tế
mà đấu thầu đem lại.
24
- Nguyên tắc bảo đảm cạnh tranh công bằng, lành mạnh trong đấu
thầu: Ở góc độ thương mại, cạnh tranh là ghanh đua giữa các doanh nghiệp
nhằm chiếm được sự chấp nhận của khách hàng. Đấu thầu xuất phát từ ưu thế
của cạnh tranh trong kinh tế thị trường, từ việc cạnh tranh dẫn đấu thầu và
thông qua cạnh tranh bản chất và mục đích của đấu thầu là lựa chọn được
người bán tốt nhất mới thể hiện. Chính vì vậy, đảm bảo cạnh tranh là nguyên
tắc quan trọng trong đấu thầu nói chung và đấu thầu thi công các công trình
xây dựng nói riêng. Tuy nhiên, cạnh tranh ở đây phải dựa trên yêu cầu công
bằng và lành mạnh. Để đảm bảo cạnh tranh công bằng và lành mạnh, nguyên
tắc này đòi hỏi mỗi gói thầu phải có sự tham dự của số lượng nhà thầu nhất
định có đủ năng lực và điều kiện theo luật định phù hợp với từng lĩnh vực đủ
để đảm bảo cạnh tranh. Để đảm bảo cạn tranh nhà thầu nộp hồ sơ quan tâm,
hồ sơ dự sơ tuyển phải độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính với các nhà
thầu tư vấn lập hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển; đánh giá hồ sơ quan
tâm, hồ sơ dự sơ tuyển; thẩm định kết quả mời quan tâm, kết quả sơ tuyển.
Nhà thầu tham dự thầu phải độc lập về pháp lý và độc lập về tài chính với các
bên sau đây: Chủ đầu tư, bên mời thầu; các nhà thầu tư vấn lập, thẩm tra,
thẩm định hồ sơ thiết kế, dự toán; lập, thẩm định hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu
cầu; đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất; thẩm định kết quả lựa chọn nhà
thầu gói thầu đó; các nhà thầu khác cùng tham dự thầu trong một gói thầu đối
với đấu thầu hạn chế. Chỉ khi đảm bảo sự tham gia đông đảo của các nhà thầu
và đảm bảo sự độc lập của họ thì việc đấu thầu mới đảm bảo tính cạnh tranh.
Cạnh tranh công bằng và lành mạnh cũng đòi hỏi quá trình đấu thầu các nhà
thầu bình đẳng với nhau trong tiếp cận thông tin về gói thầu. Nguyên tắc này
cũng nghiêm các hành vi hạn chế thông tin hay các hành vi khác nhằm ngăn
cản sự tham gia đấu thầu của các nhà thầu, nghiêm cấm việc phân biệt đối xử
giữa những người tham gia đấu thầu hợp lệ trong việc đánh giá hồ sơ dự thầu.
Mục đích của nguyên tắc này là đảm bảo cho các nhà thầu các nhà thầu đều
25
phải được hưởng những cơ hội, điều kiện ngang nhau trong suốt quá trình đấu
thầu. Bên mời thầu có nghĩa vụ đảm bảo sự bình đẳng này mà không có sự ưu
ái hay phân biệt đối xử với bất kỳ nhà thầu nào.
- Nguyên tắc đầy đủ thông tin và công khai: Một trong những ưu thế
của đấu thầu đó là nhằm minh bạch hóa quy trình đấu thầu của bên mời thầu
nhằm tránh tình trạng tham nhũng trong đấu thầu và các hành vi vi phạm các
quy định về đấu thầu khác. Công khai và minh bạch có tác dụng thực hiện
mục đích này. Nguyên tắc đầy đủ công khai đòi hỏi, bên mời thầu phải có
nghĩa vụ cung cấp thông tin đầy đủ kế hoạch lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư;
Thông báo mời quan tâm, thông báo mời sơ tuyển; Thông báo mời chào hàng,
thông báo mời thầu; Kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư… Các thông tin
này được khuyến khích đăng tải trên trang thông tin điện tử của bộ, ngành, địa
phương hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng khác.
- Nguyên tắc đánh giá công bằng: Theo nguyên tắc này, các hồ sơ dự
thầu hợp lệ đều phải được xem xét, đánh giá khách quan và công bằng thông
qua một hội đồng xét thầu củ đủ năng lực, kinh nghiệm và uy tín. Năng lực
của những người dự thầu và trúng thầu phải được đánh giá dựa trên các tiêu
chí về năng lực, giải pháp kỹ thuật, giá dự thầu. Kết quả của cuộc đấu thầu
cũng phải được công khai và giải thích lý do các nhà thầu vì sao hồ sơ của họ
được lựa chọn hoặc bị loại. Khi đảm bảo công bằng, khách quan thì các tranh
chấp trong quá trình đấu thầu sẽ được hạn chế.
- Nguyên tắc bảo đảm dự thầu: Bảo đảm dự thầu là biện pháp đảm bảo
cho những người tham gia dự thầu về tư cách, điều kiện, năng lực, khả năng
tham gia đấu thầu…của bên dự thầu vì lợi ích của bên mời thầu trong một số
trường hợp nhất định. Theo đó, Nhà thầu, nhà đầu tư phải thực hiện biện
pháp bảo đảm dự thầu trước thời điểm đóng thầu đối với hồ sơ dự thầu, hồ sơ
đề xuất; trường hợp áp dụng phương thức đấu thầu hai giai đoạn, nhà thầu
thực hiện biện pháp bảo đảm dự thầu trong giai đoạn hai. Với tư cách là biện
26
pháp đảm bảo nên bên mời thầu có trách nhiệm hoàn trả hoặc giải tỏa bảo
đảm dự thầu cho nhà thầu. bên cạnh đó, bên mời thầu cũng có quyền không
hoàn trả bảo đảm dự thầu trong một số trường hợp như: nhà đầu tư không
được lựa chọn theo thời hạn quy định trong hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu
đồng thời bảo đảm dự thầu không được hoàn trả trong các trường hợp sau
đây, nhà đầu tư rút hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất sau thời điểm đóng thầu và
trong thời gian có hiệu lực của hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất….
1.4.1.2 Các nguyên tắc về đầu tư công và thi công công trình xây dựng.
Ngoài những nguyên tắc của đấu thầu nói chung, đấu thầu thi công các
công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước còn phải tuân thủ
các nguyên tắc của đầu tư công và xây dựng. Bởi vì sử dụng nguồn ngân sách
nhà nước, nên việc đấu thầu thi công các công trình từ nguồn vốn ngân sách
nhà nước đảm bảo nguyên tắc của đầu tư công như:
Nguyên tắc công khai, minh bạch trong đầu tư công . Sự công khai
minh bạch trong đầu tư công thể hiện trong công khai chính sách, pháp luật và
việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật trong quản lý và sử dụng vốn đầu
tư công; công khai nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công;
Nguyên tắc, tiêu chí, căn cứ xác định danh mục dự án trong kế hoạch
đầu tư công trung hạn và hằng năm; công khai quy hoạch, kế hoạch, chương
trình đầu tư công trên địa bàn; vốn bố trí cho từng chương trình theo từng
năm, tiến độ thực hiện và giải ngân vốn chương trình đầu tư công;danh mục
dự án trên địa bàn, bao gồm quy mô, tổng mức đầu tư, thời gian, địa điểm;
báo cáo đánh giá tác động tổng thể của dự án tới địa bàn đầu tư; kế hoạch
phân bổ vốn đầu tư công trung hạn và hằng năm theo từng nguồn vốn, bao
gồm danh mục dự án và mức vốn đầu tư công bố trí cho từng dự án;
Nguyên tắc nhân dân là chủ thể được hướng tới cao nhất. Con người là
trung tâm của mọi đường lối chính sách và pháp luật, nó không chỉ là phương
tiện đảm bảo tính mạng, sức khoẻ của con người mà còn tạo ra mọi điều kiện
27
để nâng cao chất lượng sống của con người. Pháp luật về đấu thầu thi công
công trình là một bộ phận trong hệ thống pháp luật nói chung nên các quy
định được thiết lập không chỉ đáp ứng tối đa hiệu quả về mặt kinh tế và giá trị
sử dụng mà còn phải đảm bảo các mục tiêu chính trị - xã hội của Nhà nước.
Nguyên tắc trong lĩnh vực xây dựng: Bảo đảm đầu tư xây dựng công
trình theo quy hoạch, thiết kế, bảo vệ cảnh quan, môi trường; phù hợp với
điều kiện tự nhiên, xã hội, đặc điểm văn hóa của từng địa phương; bảo đảm
ổn định cuộc sống của nhân dân; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc
phòng, an ninh và ứng phó với biến đổi khí hậu. Sử dụng hợp lý nguồn lực,
tài nguyên tại khu vực có dự án, bảo đảm đúng mục đích, đối tượng và trình
tự đầu tư xây dựng. Tuân thủ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy định của
pháp luật về sử dụng vật liệu xây dựng; bảo đảm nhu cầu tiếp cận sử dụng
công trình thuận lợi, an toàn cho người khuyết tật, người cao tuổi, trẻ em ở
các công trình công cộng, nhà cao tầng; ứng dụng khoa học và công nghệ, áp
dụng hệ thống thông tin công trình trong hoạt động đầu tư xây dựng . Bảo
đảm chất lượng, tiến độ, an toàn công trình, tính mạng, sức khỏe con người và
tài sản; phòng, chống cháy, nổ; bảo vệ môi trường. Bảo đảm xây dựng đồng
bộ trong từng công trình và đồng bộ với các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ
tầng xã hội. Tổ chức, cá nhân khi tham gia hoạt động xây dựng phải có đủ các
điều kiện năng lực phù hợp với loại dự án; loại, cấp công trình xây dựng và
công việc theo quy định pháp luật xây dựng. Bảo đảm công khai, minh bạch,
tiết kiệm, hiệu quả; phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thất thoát và tiêu cực
khác trong hoạt động đầu tư xây dựng.
1.4.2 Cấu trúc của pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây
dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước
Trên cơ sở các nhóm quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện
đấu thầu thi công các công trình có nguồn vấn ngân sách nhà nước, các
nguyên tắc của quá trình thực hiện các hoạt động này, nhà nước sẽ xây dựng
28
hệ thống pháp luật để điều chỉnh nó với yêu cầu toàn diện, đầy đủ, chặt chẽ,
minh bạch, khả thi…Việt Nam hiện nay, không có một đạo luật điều chỉnh
vấn đề đấu thầu trong xây dựng, đấu thầu thi công các công trình bằng nguồn
vốn ngân sách nhà nước riêng. Do đó, yêu cầu đặt ra tuy tản mạn nhưng, các
quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực này đảm bảo tính thống nhất,
tương thích với nhau. Đồng thời, các nội dung của pháp luật phải đảm bảo
quy định toàn diện và đầy đủ các vấn đề quan trọng của đấu thầu thi công các
công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước như trình tự đấu
thầu thi công, cơ chế quản lý, giám sát, xử lý vi phạm trong đấu thầu thi công
và giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình đấu thầu.
Mặc dù có sự khác biệt như vậy về cách thức thiết kế, xây dựng các
điều khoản của pháp luật nhưng ở bất kỳ quốc gia nào thì pháp luật đấu thầu
xây lắp cũng phải có những nhóm quy định cơ bản sau:
- Các quy định chung về đấu thầu
Nhóm quy phạm này điều chỉnh các vấn đề chung của đấu thầu bao
gồm các nhóm quy phạm sau đây: Phạm vi điều chỉnh của luật đấu thầu bao
gồm quản lý nhà nước về đấu thầu; trách nhiệm của các bên có liên quan và
các hoạt động đấu thầu; thứ hai. Quy phạm chung cũng xác định đối tượng áp
dụng của pháp luật đấu thầu đó là tổ chức, cá nhân tham gia hoặc có liên quan
đến hoạt động đấu thầu và các tổ chức cá nhân khác có áp dụng luật đấu thầu;
quy định nguyên tắc của đấu thầu, các điều kiện tham gia đấu thầu, các hành
vi bị cấm trong hoạt động đấu thầu
- Các quy định về hình thức lựa chọn nhà thầu thi công các công trình
xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Là cách thức mà bên mời thầu lựa chọn bên thi công công trình xây
dựng cho mình. Theo pháp luật Việt nam hiện hành, đấu thầu trong đó có đấu
thầu thi công công trình xây dựng có nhiều hình thức: đấu thầu rộng rãi, đấu
thầu hạn chế, chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh, tự thực hiện và lựa chọn
29
nhà thầu trong trường hợp đặc biệt. Trong thực tiễn đấu thầu thi công các
công trình xây dựng, việc lựa chọn nhà thầu phụ thuộc vào tính phức tạp và
quy mô của công trình xây dựng. Đối với các công trình dân dụng đòi hỏi kỹ
thuật không quá phức tạp thì áp dụng hình thức đấu thầu một gói hồ sơ hay
đấu thầu một giai đoạn. Đối với các công trình xây dựng mà việc thi công đòi
hỏi kỹ thuật cao, công nghệ mới….thì áp dụng hình thức đấu thầu hai túi hồ
sơ và hai giai đoạn. Mục đích của giai đoạn một là thu thập thêm thông tin, dữ
liệu qua trao đổi với các nhà thầu để các định cụ thể các nội dung về kỹ thuật
và tài chính của hồ sơ mời thầu làm cơ sở mời thầu cho giai đoạn sau.
- Các quy định về quy trình thực hiện đấu thầu.
Quy trình đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn
ngân sách là các bước để tiến hành đấu thầu. Quy trình bắt đầu từ việc lập kế
hoạch đầu tư công trình xây dựng của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã
hội cho đến khi lựa chọn được nhà thầu. Sau khi cơ quan, tổ chức này có nhu
cầu xây dựng lập kế hoạch đấu thầu thi công và được cơ quan có thẩm quyền
phê duyệt thì quá trình đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn
vốn ngân sách chính thức được thực hiện. Thông thường, đấu thầu phải thông
qua các thủ tục sau: mời thầu, sơ tuyển, nộp hồ sơ dự thầu, mở thầu và xét
thầu (kiểm tra, đánh giá và so sánh các hồ sơ dự thầu), công bố trúng thầu và
tiến hành ký hợp đồng thi công. Trong mỗi thủ tục này, pháp luật các nước
đều quy định một cách chi tiết trình tự tiến hành, khoảng thời gian để thực
hiện từng giai đoạn, quyền và nghĩa vụ các bên tham gia.
Các quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động đấu thầu thi công
các công trình có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước:
Đấu thầu là hoạt động quan trọng, phức tạp trong nền kinh tế thị
trường, chính vì vậy không thể thiếu sự quản lý nhà nước đối với hoạt quan
trọng này bằng các phương thức khác nhau một mặt đảm bảo cho đấu thầu
vận hành đúng quy luật của thị trường, một mặt đảm bảo đấu thầu khách
30
quan, công bằng, lành mạnh bảo vệ các nhà đầu tư chân chính một mặt xử lý
các hành vi vi phạm trọng hoạt động đấu thầu xây dựng. Để thực hiện quản
lý nhà nước trong hoạt động đấu thầu thi công các công các công trình xây
dựng có nguồn vốn ngân sách nhà nước là việc nhà nước tiến hành quản lý về
nguồn vốn, quản lí thông tin, quản lí về trình tự tiến hành hoạt động đấu thầu.
Để việc quản lí các hoạt động đấu thầu thi công, nhà nước tiến hành các hoạt
động như : phân cấp quản lý cho các cơ quan từ trung ương đến địa phương
và đặt ra các quy định về khiếu nại, tố cáo, kiểm tra, giám sát nhằm bảo đảm
cho hoạt động đấu thầu được những mục tiêu đề ra. Để hoạt động đấu thầu thi
công các công trình có nguồn vốn ngân sách được thực hiện trên thực tế, nhà
nước cần ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để chỉ rõ các thức
xử sự của các chủ thể khi tham gia đấu thầu.
- Nhóm các quy định của pháp luật về đầu tư công, pháp luật xây dựng
liên quan đến hoạt động đấu thầu thi công các công trình xây dựng có nguồn
vốn ngân sách nhà nước.
Như trên đã nói, đấu thầu thi công các công trình xây dựng có nguồn
vốn ngân sách nhà nước là lĩnh vực đặc thù. Tính đặc thù ở đây thể hiện ở nhà
đầu tư, bên mời thầu, tính chất của công trình xây dựng đặc biệt là nguồn vốn.
Các đặc thù này quy định pháp luật về đấu thầu trong lĩnh vực này. Đó là có
sự giao thoa của pháp luật đấu thầu, xây dựng và đầu tư công. Pháp luật về
đấu thầu ở phương diện nào đó là hình thức thực hiện đầu tư công, thực hiện
pháp luật xây dựng đối với các công trình công cộng. Đấu thầu thi công các
công tình bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước phải tuân thủ pháp luật đầu tư
công ở phương diện chủ thể đầu tư (bên mời thầu) như chủ trương đầu tư, lập
kế hoạch đầu tư, phê duyệt kế hoạch đầu tư’ tuân thủ pháp luật đầu tư công ở
việc tuân thủ các nguyên tắc của đầu tư công, trình tự, thủ tục thực hiện đầu
tư công; theo dõi, đánh giá qúa trình thực hiện đầu tư công bao gồm cả theo
31
dõi, giám sát việc thực hiện pháp luật trong đấu thầu các thi công các công
trình xây dựng có nguồn vốn ngân sách.
Đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách
còn được điều chỉnh bằng pháp luật về Xây dựng ở khía cạnh như các tiêu
chuẩn đánh giá về năng lực và kinh nghiệm; tiêu chuẩn đánh giá về kỹ thuật
của nhà thầu; các tiêu chuẩn kỹ thuật của công trình xây dựng, tuân thủ các
quy định về quản lý nhà nước về xây dựng…
Tiểu kết chương 1
Đấu thầu thi công các công trình xây dựng có nguồn vốn ngân sách nhà
nước là lĩnh vực đặc thù được điều chỉnh bới các lĩnh vực pháp luật khác
nhau. Đây là việc cơ cơ quan, tổ chức được quyền sử dụng vốn nhà nước
thực hiện để lựa chọn nhà thầu phù hợp với tiêu chuẩn đề ra để thi công các
công trình mang tính chất công cộng. Để kiểm soát và đảm bảo hoạt động đấu
thầu này đạt được tối đa tính hiệu quả kinh tế, đảm bảo những mục tiêu về
chính trị, xã hội, nhà nước đặt ra hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh
quan hệ phát sinh, phát triển trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, đấu thầu cũng là
một hoạt động của nền kinh tế thị trường, nó tuân theo các quy luật khách
quan của thị trường như quy luật cung – cầu, quy luật giá cả, giá trị. Vì vậy,
quy phạm pháp luật về đấu thầu thi công các công trình xây dựng có nguồn
vốn ngân sách nhà nước cần được xây dựng trên nguyên tắc đảm bảo tính
cạnh tranh, công bằng và minh bạch.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận nêu trên, trong các chương tiếp theo,
luận văn tập trung nghiên cứu nội dung quy định hiện hành về đấu thầu thi
công các công trình xây dựng có nguồn vốn ngân sách của Việt Nam, từ đó
đưa ra một vài kiến nghị tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật và thực tiễn
thực hiện trong lĩnh vực này trên địa bàn thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh
32
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU THI CÔNG
CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG BẰNG NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ
QUẢNG YÊN, TỈNH QUẢNG NINH
2.1. Thực trạng pháp luật về đấu thầu thi công công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước
2.1.1. Khái quát Pháp luật về đấu thầu thi công xây dựng các công
trình bằng nguồn vốn ngân sách ở Việt Nam
Năm 1985, Văn bản pháp lý đầu tiên về giao nhận thầu trong xây dựng
cơ bản được ban hành. Đó là Quy chế về giao thầu và nhận thầu trong xây
dựng cơ bản ban hành kèm theo Quyết định 217/HĐBT của Hội đồng Bộ
trưởng. Quy chế này quy định Quy chế này quy định cụ thể chế độ giao thầu
và nhận thầu trong xây dựng cơ, quan hệ trách nhiệm vật chất, nghĩa vụ và
quyền hạn của các bên giao thầu, nhận thầu theo những nguyên tắc quản lý
xây dựng cơ bản và chế độ hợp đồng kinh tế của Nhà nước, nhằm tăng cường
trách nhiệm và đề cao quyền chủ động của các tổ chức cơ sở trong sản xuất -
kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư và xây dựng. Tại Điều 5 của
Quy chế này quy định phương thức đấu thầu xây dựng trong đó đề cập đến
điều kiện tổ chức đấu thầu là Bên giao thầu phải có đủ vốn đầu tư và điều
kiện vật chất bảo đảm việc thực hiện phương án giao thầu dự kiến; bên dự
thầu phải là tổ chức có tư cách pháp nhân, có chuyên môn, có kinh nghiệm tổ
chức sản xuất và có đủ cơ sở vật chất - kỹ thuật bảo đảm thực hiện phương án
dự thầu. Bên dự thầu có thể là các tổ chức: khảo sát, thiết kế, xây lắp quốc
doanh hoặc công ty hợp doanh, hợp tác xã xây dựng, nhà máy chế tạo thiết bị,
cung ứng thiết bị, vật tư, cấu kiện cho xây dựng... Hồ sơ kinh tế - kỹ thuật
của công trình, hạng mục công trình hoặc của từng công việc xây dựng đưa ra
đấu thầu được công bố trước, để các bên dự thầu có căn cứ và thời gian tính
33
toán phương án nhận thầu. Bên cạnh đó, chỉ tiêu đặt thầu đối với nhà thầu
trong xây dựng về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm, năng lực thực hiện công trình
cũng được đề cập
Cùng với quá trình chuyển biến của nền kinh tế chuyển sang vận hành
theo cơ chế thị trường và đặc biệt là hội nhập quốc tế cùng với việc chúng ta
tiếp nhận các nguồn vốn từ các định chế tài chính quốc tế như ADB, WB và
các nguồn vốn ODA khác thì chúng ta buộc phải thực hiện đấu thầu theo yêu
cầu của các chủ nợ, thì pháp luật về đấu trong đó có đấu thầu trong xây dựng
được quan tâm xây dựng. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường cho phép hình thành
và hoạt động của nhiều tổ chức tư vấn, thi công, cung cấp vật tư, thiết bị trong
lĩnh vực xây dựng cho phép chủ đầu tư có cơ hội để lựa chọn nhà thầu thi
công tốt nhất để thi công công trình. Điều đó cho thấy nhu cầu cấp thiết cần
phải có khuôn khổ pháp lý cụ thể, chi tiết phù hợp với thực tế cho hoạt động
đấu thầu trong lĩnh vực xây dựng. Trên cơ sở đó, Quyết định số 24/BXD-
VKT ngày 12 tháng 2 năm 1990 của Bộ xây dựng áp dụng trong lĩnh vực xây
dựng được ban hành. Tiếp theo là Quy chế đấu thầu xây lắp số 60/BXS-VKT
ra đời trên cơ sở khắc phục những bất cập của các văn bản cũ đồng thời bổ
sung nhiều quy định mới trong lĩnh vực đấu thầu xây dựng cho phù hợp với
tình hình mới. Đáng chú ý là sự ra đời của Hội đồng quốc gia xét chọn đơn vị
trúng thầu các dự án đầu tư lớn trên cơ sở Quyết định 183/QĐ-Ttg ngày
16/4/1994 của Chính phủ. Hội đồng này có chức năng, nhiệm vụ làm tư vấn
cho Thủ tướng Chính phủ thẩm định kết quả đấu thầu các dự án dùng vốn của
Nhà nước có vốn đầu tư từ 100 tỷ đồng Việt Nam trở lên (tương đương 10
triệu đô la Mỹ) hoặc các dự án có giá trị thấp hơn khi có quyết định riêng của
Thủ tướng Chính phủ. Các dự án dùng vốn của Nhà nước bao gồm dự án
dùng vốn ngân sách, vốn vay, vốn viện trợ nước ngoài và vốn của Nhà nước ở
các doanh nghiệp. Uỷ ban kế hoạch Nhà nước quy định những dự án, kể cả dự
34
án của các doanh nghiệp có vốn Nhà nước phải qua đấu thầu và trình lên Hội
đồng xét thầu quốc gia.
Nhằm hoàn thiện các quy định về đấu thầu, đồng thời thể hiện xu thế
hội nhập kinh tế thế giới của nước ta, năm 1996, lần đầu tiên Quy chế Đấu
thầu được ban hành kèm theo Nghị định 43/CP ngày 16/7/1996 và Nghị định
93/ngày 23/8/1997 của Chính phủ. Quy chế này được ban hành nhằm thống
nhất quản lý các hoạt động đấu thầu tuyển chọn tư vấn, mua sắm hàng hóa,
xây lắp mà không quy định riêng về đấu thầu xây lắp như Quy chế đấu thầu
số 60/BXD trước đó.
Trên cơ sở Quy chế đấu thầu được Chính phủ ban hành, các Bộ có liên
quan đến lĩnh vực xây dựng các công trình có nguồn vốn từ ngân sách nhà
nước tiếp tục cụ thể hóa Quy chế này vào trong lĩnh vực quản lý của mình.
Trước hết, là Bộ Kế hoạch đầu tư có Thông tư 04/2000/TT-BKHĐT ngày
26/5/2000 Hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu áp dụng chung cho đấu
thầu trong tất cả các lĩnh vực. tiếp theo là Bộ xây dựng với tư cách là cơ quan
quản lý nhà nước về xây dựng có Thông tư số 01/2002/TT-BXD ngày
2/2/2004 về Hướng dẫn thực hiện dự án theo hình thức hợp đồng thiết kế-
cung ứng vật tư, thiết bị- xây dựng (EPC). Bộ Tài chính ban hành Thông tư
số 121/2000/TT-BTC ngày 29/12/2000 hướng dẫn thực hiện đấu thầu mua
sắm đồ dùng, vật tư, trang thiết bị, phương tiện làm việc đối với các cơ quan
nhà nước, đoàn thể và doanh nghiệp nhà nước. Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn ban hành thông tư só 50/2001/TT/BNN-XDCB ngày 3/5/2001
Hướng dẫn thực hiện quy chế đấu thầu đối với các dự án đầu tư thuộc Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn…
Ngày 29/11/ 2005, quốc hội đã thông qua Luật Đấu thầu trên cơ sở
Pháp lệnh đấu thầu 1999. Trên cơ sở đó Chính phủ ban hành Nghị định
111/2006/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu theo quy
định của Luật xây dựng.
35
Luật Đấu thầu 2005, cũng như nghị định 111/2006/NĐ-CP và các văn
bản khác hướng dẫn Luật này được xây dựng trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm quốc tế về đấu thầu cũng như các quy chế của các định chế tài
chính lớn trên thế giới như WB, ADB, JIBIC, Luật mẫu UNCITRAL về đấu
thầu. Chính vì vậy Luật đấu thầu 2005 đã tiếp cận được với yêu cầu của kinh
tế thị trường và thông lệ quốc tế và cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt đấu
thầu nói chung và đấu thầu trong xây dựng nói riêng. Có thể nói, Pháp luật về
đấu thầu ở Việt Nam có bước đi cùng với quá trình xây dựng và hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường ở nước ta.
Liên quan đến lĩnh vực xây dựng có nhiều quy định về đấu thầu xây
dựng các công trình từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước . Cụ thể, Luật Xây
dựng năm 2003 có nhiều quy định về hoạt động xây dựng, quyền nghĩa vụ
của tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng các loại công trình xây dựng khác nhau,
quản lý nhà nước về xây dựng. Đặc biệt tại Mục 1, Chương VI của luật xây
dựng có quy định riêng về áp dụng lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây
dựng và nhà thầu thi công nói riêng.
Thêm nữa, Luật đấu thầu xây lắp hiện nay cũng được điều chỉnh bởi
luật cạnh tranh: Cạnh tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội.
Nhưng để có sự cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt đối xử… lại phải giải
quyết nhiều vấn đề cả ở lĩnh vực xây dựng quy phạm pháp luật, thực thi pháp
luật, hành xử của doanh nghiệp... Dưới góc độ của lý luận về cạnh tranh, đấu
thầu được nhìn nhận là hình thức lựa chọn người cung cấp hàng hóa hoặc
cung ứng dịch vụ, hoặc sản phẩm xây lắp theo đó người tổ chức mời thầu sử
dụng cơ chế cạnh tranh bằng cách đưa ra gói thầu để các bên dự thầu cạnh
tranh về giá cả, chất lượng… Với mong muốn có thể lựa chọn được người
cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ hoặc sản phẩm xây lắp có chất lượng tốt
nhất và mức giá rẻ nhất. Cơ chế cạnh tranh được vận hành theo cách những
người dự thầu (là người có nhu cầu cung cấp hàng hóa, dịch vụ, xây lắp đang
36
mong muốn có được gói thầu) ganh đua nhau về các điều kiện thương mại
hoặc kỹ thuật, đặc biệt là giá cả. Người nào có mức giá thấp nhất (là mức mức
giá tối ưu đối với người mua) sẽ được lựa chọn. Tùy theo giá trị của gói thầu
và điều kiện của người mời thầu, mức độ cạnh tranh trong đấu thầu sẽ được
thiết lập khác nhau. Pháp luật về đấu thầu và pháp luật thương mại quy định
các hình thức đấu thầu tương ứng với mức độ cạnh tranh giữa những người
dự thầu. Cơ chế cạnh tranh được đánh giá là hiệu quả khi nó lựa chọn được
người trúng thầu là người đưa ra và có năng lực thực hiện các điều kiện
thương mại tốt nhất cho người mời thầu.
Quy định hiện tại luôn phải đảm bảo cả hai nhiệm vụ: tạo môi trường cho
cơ chế cạnh tranh vận hành trong hoạt động đấu thầu và duy trì, bảo đảm sự
lành mạnh của cơ chế cạnh tranh. Luật đấu thầu và Luật thương mại đảm
nhiệm toàn bộ nhiệm vụ đầu tiên và một phần của nhiệm vụ thứ hai bằng các
quy định về nguyên tắc đảm bảo cạnh tranh trong đấu thầu, nghĩa vụ của các
bên tham gia và xử lý vi phạm pháp luật về đấu thầu. Một phần của nhiệm vụ
duy trì và bảo đảm sự lành mạnh của cơ chế cạnh tranh được quy định trong
luật cạnh tranh với các quy định cấm sự thông đồng trong đấu thầu. Mục tiêu
của hoạt động đấu thầu nhằm đảm bảo tính cạnh tranh, công bằng và minh
bạch trong quá trình đấu thầu để có thể lựa chọn nhà thầu phù hợp, đảm bảo
hiệu quả kinh tế. Hoạt động đấu thầu chỉ có thể vận hành hiệu quả trong một
môi trường cạnh tranh thực sự. Luật đấu thầu là công cụ quan trọng nhất để
Nhà nước quản lý và kiểm soát hoạt động đấu thầu.
Tại khoản 6, 7 và 8, Điều 8 Luật cạnh tranh 2004. Theo đó, các thỏa thuận
nhằm hạn chế cạnh tranh để thông đồng trong đấu thầu được hiểu là việc các
bên dự thầu giàn xếp, thỏa thuận cùng hành động để một hoặc các bên trong
số họ thắng thầu. Việc này đã làm vô hiệu cơ chế cạnh tranh mà người mời
thầu đã nỗ lực tạo ra, các hành động này bị cấm hoàn toàn tại điều 9 Luật
cạnh tranh 2004.
37
Cơ chế cạnh tranh trong đấu thầu chỉ đạt được hiệu quả khi thông qua đó để
một bên lựa chọn được đối tác tốt nhất. Về lý thuyết, cạnh tranh trong đấu
thầu chỉ được đảm bảo khi có nhiều bên dự thầu, các bên dự thầu độc lập với
nhau và với bên mời thầu, không có bất cứ thỏa thuận nào giữa người mời
thầu với một, hoặc một số người dự thầu, hoặc giữa những người dự thầu với
nhau. Trong cuộc đấu thầu, trên cơ sở các nội dung mời thầu, các bên dự thầu
phải tự mình đưa ra các gói thầu có tính cạnh tranh với cam kết về chất lượng,
giá cả và đáp ứng các điều kiện khác của bên mời thầu.
2.1.2 Thực trạng các quy định của pháp luật về đấu thầu thi công
các công trình xây dựng bằng vốn nhà nước hiện nay
Các quy định của pháp luật đấu thầu thi công các công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước tập trung vào hai nhóm chính: thứ nhất,
các quy định về đấu thầu nói chung; thứ hai, các quy định riêng về đấu thầu
thi công các công trình có nguồn vốn ngân sách nhà nước.
2.1.2.1 Các quy định về đấu thầu
- Quy định về hình thức đấu thầu. Để đa dạng hóa hoạt động đấu thầu
trên cơ sở đó để người mua có nhiều cơ hội và cách thức lựa chọn người bán,
pháp luật về đấu thầu quy định 7 hình thức lựa chọn nhà thầu trong đó có hai
hình thức đấu thầu. Đó là:
- Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu rộng rãi là hình thức lựa chọn nhà thầu,
nhà đầu tư trong đó không hạn chế số lượng nhà thầu, nhà đầu tư tham dự.
Đây là hình thức đấu thầu thể hiện rõ nhất tính chất của đấu thầu và cũng là
hình thức đấu thầu mang tính cạnh tranh cao nhất và do đó cũng là hình thức
đấu thầu mà người mua hàng hóa có nhiều cơ hội lựa chọn người bán hàng tốt
nhất cho mình. Để thực hiện đấu thầu rộng rãi, bên mời thầu có trách nhiệm
cung cấp thông tin công khai về gói thầu như điều kiện dự thầu, thơi gian dự
thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đấu thầu rộng rãi có thể thực
hiện theo hai bước sơ tuyển và đấu thầu hoặc kết hợp cả hai bước trên tùy
38
thuộc vào tính phức tạp yêu cầu cao của gói thầu hay điều kiện tổ chức đấu
thầu. Bước sơ tuyển ban đầu nhằm chọn được các nhà thầu có đủ năng lực,
điều kiện, kinh nghiệm thi công xây dựng, đáp ứng yêu cầu và tính chất của
gói thầu để tham gia đấu thầu. Ngoài ưu điểm nói trên, đấu thầu rộng rãi có
nhược điểm là thời gian lựa chọn nhà thầu kéo dài và đối với các dự án nhỏ
thường lãng phí, không đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả kinh tế của
đấu thầu.
- Đấu thầu hạn chế, là hình thức lựa chọn nhà thầu trong đó bên mời
thầu chỉ mời một số nhà thầu nhất định dự thầu. Đây là hình thức đấu thầu mà
chỉ có những nhà thầu có đủ kinh nghiệm và năng lực và đáp ứng các điều
kiện nhất định mới được tham gia dự thầu. Tuy là hạn chế số lượng người dự
thầu nhưng số lượng nhà thầu tham dự phải đủ rộng để đảm bảo tính cạnh
tranh và khả năng lựa chọn của bên mời thầu. Theo quy định hiện hành số
lượng nhà thầu tham gia đấu thầu hạn chế có từ 5 người trở lên. Trong hình
thức đấu thầu hạn chế, thông tin về đấu thầu không phải công khai rộng rãi
mà chỉ gửi cho từng nhà thầu hạn chế mà bên mời thầu quyết định. Đấu thầu
hạn chế được áp dụng với các gói thầu theo yêu cầu của nhà tài trợ nước
ngoài đối với nguồn vốn sử dụng cho gói thầu; gói thầu yêu cầu cao về mặt kỹ
thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù; gói thầu có tính chất nghiên cứu, thử
nghiệm mà chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng yêu cầu của gói thầu.
Đấu thầu hạn chế có ưu điểm là tính khả thi của việc lựa chọn nhà thầu
tương đối cao do các nhà thầu được lựa chọn theo danh sách mời thầu đều xác
định là có khả năng đáp ứng yêu cầu gói thầu. Ngoài ra, đấu thầu hạn chế có
thể rút ngắn được thời gian lựa chọn nhà thầu, tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên,
nhược điểm của đấu thầu hạn chế là thiếu tính cạnh tranh, tính công khai,
minh bạch không cao ảnh hưởng đến việc lựa chọn nhà thầu đáp ứng đủ tiêu
chuẩn thi công gói thầu.
39
- Các quy định về quy trình đấu thầu
Quy trình về đấu thầu là trình tự các bước và các hoạt động mà các chủ
thể tiến hành hoạt động đấu thầu bao gồm: chuẩn bị đấu thầu, tổ chức đấu
thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu, thẩm định và phê duyệt kết quả đấu thầu, thông
báo kết quả đấu thầu, thương thảo và ký kết hợp đồng đấu thầu.
Chuẩn bị kế hoạch đấu thầu:
Theo pháp luật hiện hành, trước khi bước vào đấu thầu trên thực tế, cơ
quan nhà nước phải tiến hành một số hoạt động trước đấu thầu, công việc này
gọi chung là khâu chuẩn bị đấu thầu. Chuẩn bị đấu thầu bao gồm chuẩn bị kế
hoạch đấu thầu và chuẩn bị hồ sơ mời thầu.
Kế hoạch đấu thầu: là sự thể hiện cụ thể của kế hoạch đầu tư công thể
hiện mong muốn của chủ thể có nhu cầu xây dựng các công trình bằng nguồn
vốn ngân sách nhà nước: xây dựng công trình gì?, xây như thế nào vào thời
điểm nào? Theo quy định tại Điều 6- Luật đấu thầu năm 2005: “Kế hoạch
đấu thầu phải được người có thẩm quyền phê duyệt bằng văn bản sau khi phê
duyệt quyết định đầu tư hoặc phê duyệt đồng thời với quyết định đầu tư trong
trường hợp đủ điều kiện để làm cơ sở pháp lý cho chủ đầu tư tổ chức lựa
chọn nhà thầu, trừ gói thầu cần thực hiện trước khi có quyết định đầu tư.
Người phê duyệt kế hoạch đấu thầu phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
quyết định của mình”. Đối với các dự án đầu tư có quy mô lớn, yêu cầu kỹ
thuật cao thì trước khi phê duyệt kế hoạch đấu thầu cần phải có thủ tục phê
duyệt kế hoạch đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư công và pháp
luật về xây dựng. Trong kế hoạch đấu thầu phải nêu rõ số lượng gói thầu và
nội dung của từng gói thầu. Nội dung của từng gói thầu bao gồm: Tên gói
thầu; Giá gói thầu Nguồn vốn; Hình thức lựa chọn nhà thầu; phương thức
đấu thầu; Thời gian lựa chọn nhà thầu;Hình thức hợp đồng; Thời gian thực
hiện hợp đồng. Kế hoạch đấu thầu phải được người có thẩm quyền phê duyệt
bằng văn bản sau khi phê duyệt quyết định đầu tư hoặc phê duyệt đồng thời
40
với quyết định đầu tư trong trường hợp đủ điều kiện để làm cơ sở pháp lý cho
chủ đầu tư tổ chức lựa chọn nhà thầu, trừ gói thầu cần thực hiện trước khi có
quyết định đầu tư. Người phê duyệt kế hoạch đấu thầu phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về quyết định của mình.
Chủ đầu tư có trách nhiệm trình kế hoạch đấu thầu lên người có thẩm
quyền hoặc người được ủy quyền quyết định đầu tư xem xét, phê duyệt; đồng
thời gửi cho cơ quan, tổ chức thẩm định; trường hợp trình kế hoạch đấu thầu
lên Thủ tướng Chính phủ, chủ đầu tư còn phải gửi cho bộ quản lý ngành để có
ý kiến bằng văn bản trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt.
Chuẩn bị hồ sơ mời thầu: Chuẩn bị hồ sơ mời thầu là các yêu cầu do
chủ đầu tư (bên mời thầu) lập dựa trên các yêu cầu của gói thầu. Đối với các
gói thầu thi công thì phần quan trọng nhất của hồ sơ mời thầu là các tài liệu
bản vẽ thiết kế và bảng khối lượng công việc. Hồ sơ mời thầu bao gồm các
nội dung như: yêu cầu kỹ thuật đối với gói thầu thi công bao gồm yêu cầu
theo hồ sơ thiết kế kỹ thuật kèm theo bảng tiên lượng, chỉ dẫn kỹ thuật và các
yêu cầu cần thiết khác; yêu cầu về tài chính bao gồm các chi phí để thực hiện
gói thầu, giá chào thầu và biểu giá chi tiết, phương thức và điều kiện cụ thể
của hợp đồng. Hồ sơ mời thầu sẽ là căn cứ cho nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự
thầu và bên mời thầu đánh giá hồ sơ dự thầu. Hồ sơ mời thầu không được
điều chỉnh, thay đổi sau khi các hồ sơ dự thầu đã được nộp. theo quy định
hiện nay, đối với các gói thầu thi công xây dựng, hồ sơ mời thầu phải được
thẩm định và phê duyệt trước khi phát hành.
Tổ chức đấu thầu: Quá trình tổ chức đấu thầu bao gồm các công đoạn
sau đây: Mời thầu, sơ tuyển, nộp hồ sơ dự thầu, mở thầu, xét thầu, công bố
trúng thầu, trao hợp đồng thầu, khiếu nại và xử lý vi phạm trong đấu thầu.
Mời thầu và sơ tuyển nhà thầu:
Để đảm bảo nguyên tắc khách quan, minh bạch và bình đẳng trong đấu
thầu, pháp luật yêu cầu các thông tin về đấu thầu phải được công khai, trong
41
đó có các thông tin phải công bố trong giai đoạn mời thầu. Các thông tin phải
được đăng tải trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia. Các thông tin được
khuyến khích đăng tải trên trang thông tin điện tử của bộ, ngành, địa phương
hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng khác. Thông báo mời thầu phải
có các nội dung sau đây:
- Tên, địa chỉ bên mời thầu;
- Đặc điểm và khối lượng, địa điểm của công trình hoặc đặc trưng của
dịch vụ và địa điểm nó được cung cấp; thời hạn mong muốn, yêu cầu thời hạn
hoàn tất công trình xây dựng hoặc thời hạn thực hiện điều khoản dịch vụ;
- Bản thông báo không được điều chỉnh sau đó về điều kiện tham gia
của nhà thầu xem xét theo quốc tịch hoặc khẳng định rằng chỉ giới hạn xem
xét trên cơ sở quốc tịch; các cách thức, địa điểm có được hồ sơ mời thầu, giá
hồ sơ mời thầu, đồng tiền và phương thức thanh toán với hồ sơ mời thầu, địa
điểm và thời hạn nộp hồ sơ dự thầu.
Phát hành, sửa đổi, làm rõ hồ sơ mời thầu: Hồ sơ mời thầu được phát
hành cho các nhà thầu tham gia đấu thầu rộng rãi hoặc cho các nhà thầu có
tên trong danh sách ngắn. Đối với nhà thầu liên danh, chỉ cần một thành viên
trong liên danh mua hoặc nhận hồ sơ mời thầu, kể cả trường hợp chưa hình
thành liên danh khi mua hoặc nhận hồ sơ mời thầu.
Nộp hồ sơ dự thầu:
Nộp hồ sơ dự thầu xác nhận thời điểm có hiệu lực của hồ sơ dự thầu và
việc điều chỉnh và rút lại hồ sơ dự thầu. Pháp luật Việt Nam quy định, hiệu
lực hồ sơ dự thầu bắt đầu khi nhà thầu nộp hồ sơ cho bên mời thầu đúng hạn
và theo đúng thủ tục thu nhận hồ sơ đã thông báo, việc điều chỉnh và rút lại hồ
sơ dự thầu thường được gắn với trách nhiệm bảo lãnh. Bên mời thầu có thể
yêu cầu các nhà thầu để kéo dài thêm thời hạn. Nhà thầu có thể từ chối và
được nhận lại bảo lãnh dự thầu và hiệu lực của hồ sơ dự thầu của họ sẽ chấm
42
dứt tại thời điểm hết hạn. Nếu nhà thầu đồng ý gia hạn đồng thời phải gia hạn
bảo lãnh dự thầu.
Mở thầu:
Thủ tục mở thầu tuy chỉ mang tính hình thức nhưng lại được quy định
chặt chẽ vì đây là thủ tục thể hiện tính công bằng và minh bạch của quá trình
đấu thầu. Hồ sơ dự thầu sẽ được mở tại thời điểm quy định trong hồ sơ mời
thầu, đó chính là thời hạn cuối cùng để nộp thầu hoặc thời hạn cuối cùng quy
định kéo dài thời hạn cuối cùng nộp thầu, tại địa điểm và phù hợp với các thủ
tục đã quy định trong hồ sơ mời thầu. Tất cả các nhà thầu đã nộp hồ sơ dự
thầu hoặc các đại diện của họ cần được bên mời thầu cho phép tới dự lễ mở
thầu. Tên và địa chỉ của mỗi nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu được mở và giá dự
thầu phải được công bố cho những người có mặt tại lễ mở thầu, phải thông
báo tới các nhà thầu không có đại diện và vắng mặt tại lễ mở thầu về các yêu
cầu đối với các nhà thầu đã nộp hồ sơ dự thầu và phải được ghi âm lại và lưu
giữ thông tin về quá trình đấu thầu.
Xét thầu:
Thủ tục xét thầu gồm kiểm tra, đánh giá và so sánh các hồ sơ dự thầu.
Khi xét thầu, bên mời thầu có thể yêu cầu các nhà thầu làm rõ về các hồ sơ dự
thầu để giúp cho việc đánh giá, xem xét và so sánh giữa các hồ sơ dự thầu.
Không chấp nhận các thay đổi để biến những hồ sơ không đáp ứng thành hồ
sơ đáp ứng được. Khi phát hiện các lỗi về số học, bên mời thầu phải hiệu
chỉnh và gửi thông báo về việc hiệu chỉnh với nhà thầu đã nộp hồ sơ dự thầu.
Bên mời thầu chỉ có thể coi là đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu khi hồ
sơ đó tuân thủ tất cả điều kiện đặt ra và thuận lợi lợi nhất về mặt kinh tế cũng
như kỹ thuật.
Công bố trúng thầu:
Hồ sơ dự thầu xác nhận là trúng thầu sẽ được công nhận và thông báo
trúng thầu công khai, thông báo trúng thầu sẽ được gửi văn bản cho nhà thầu.
43
Ký kết Hợp đồng thi công:
Sau khi có quyết định công nhận trúng thầu, nhà thầu và cơ quan có
thẩm quyền sẽ tổ chức thương thảo, đàm phán, soạn thảo hợp đồng và ký kết
hợp đồng thi công.
Trong Luật đấu thầu năm 2005 quy định 4 loại hợp đồng:
- Hợp đồng trọn gói
- Hợp đồng hợp đồng theo đơn giá
- Hợp đồng theo thời gian
- Hợp đồng theo tỷ lệ phần trăm
Tuy nhiên, hoạt động xây lắp trong từng trường hợp cụ thể rất phức tạp,
vì vậy pháp luật quy định cho các bên có thể ký nhiều loại hợp đồng trong
cùng một dự án đảm bảo hiệu quả của quá trình xây lắp công trình.
2.1.2.2 Các quy định về xây dựng và đầu tư công liên quan đến đấu
thầu thi công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Khác với đấu thầu hàng hóa, dịch vụ thông thường chủ thể trong đấu
thầu xây dựng cơ bản phải đáp ứng những điều kiện khắt khe hơn. Điều này
có thể dễ dàng lý giải trong thực tế khi công trình xây dựng cơ bản là những
công trình có đặc điểm phức tạp, liên quan đến nhiều hạng mục khác nhau,
nhiều gói thầu với số lượng vốn lớn, thời gian thi công kéo dài... do đó, chủ
thể trong đấu thầu xây dựng cơ bản cần phải đáp ứng được những yêu cầu đó
để đảm bảo an toàn cho công trình cũng như hiệu quả mà nó mang lại. Chính
vì vậy. ngoài các quy định chung của Luật Đấu thầu, đấu thầu thi công các
công trình xây dựng có vốn nhà nước còn được điều chỉnh bởi luật xây dựng
với tư cách luật chuyên ngành ở các phương diện chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, Tiêu chuẩn nhà thầu thi công xây dựng: Theo quy định tại
Điểm b, Khoản 1, Điều 43 Luật Đấu thầu, nhà thầu cung cấp dịch vụ phi tư
vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp được xem xét, đề nghị trúng thầu
khi có năng lực và kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu. Khoản 2 các Điều 68, 86,
44
112 và Điều 121 Luật Xây dựng quy định nhà thầu tư vấn, thi công xây dựng
công trình có đủ điều kiện năng lực phù hợp với loại, cấp công trình và công
việc do mình thực hiện. Với các quy định nêu trên, việc yêu cầu nhà thầu
tham dự gói thầu là đáp ứng yêu cầu về năng lực để thực hiện gói thầu. Công
trình xây dựng là sản phẩm được xây dựng theo thiết kế; tạo thành bởi hao phí
lao động của con người, vật liệu xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình,
được liên kết định vị với đất, có thể bao gồm cả phần dưới mặt đất, phần trên
mặt đất, phần dưới mặt nước và phần trên mặt nước. Công trình xây dựng rất
đa dạng, bao gồm công trình công cộng, nhà ở, công trình công nghiệp, giao
thông, thuỷ lợi, năng lượng và các công trình khác. Việc thực hiện các gói
thầu xây dựng đồng nghĩa với việc tạo lập các công trình xây dựng.
Các đặc điểm trên cho thấy, để đánh giá đúng đắn các hồ sơ dự thầu
xây lắp thì việc làm rõ, chứng minh được sự phù hợp giữa các giải pháp thực
hiện gói thầu với các đề xuất của nhà thầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Yêu
cầu đặt ra là tổ chuyên gia phải đánh giá được “cách thức nhà thầu sẽ làm ra
sản phẩm xây dựng theo yêu cầu của chủ đầu tư”. Tính cá biệt hoá của từng
nhà thầu đồng nghĩa với việc không có tiêu chuẩn kỹ thuật chung cho mọi hồ
sơ dự thầu. Do đó, các nội dung của giải pháp kỹ thuật được đánh giá tách rời
các đề xuất về giá và tiến độ của nhà thầu là không hợp lý. Nói cách khác,
việc đánh giá hồ sơ dự thầu về mặt kỹ thuật bằng phương pháp chấm điểm
hoặc “đạt/không đạt” riêng rẽ với đề xuất về giá và tiến độ không phản ánh
được đặc điểm hình thành sản phẩm xây dựng. Điều này khác hẳn với việc
lựa chọn nhà thầu cung cấp hàng hoá, do hàng hoá đã có sẵn nên việc xem xét
các thông số, tính năng kỹ thuật của hàng hoá bằng phương pháp chấm điểm
hoặc các tiêu chí “đạt/không đạt” là cần thiết.
Thứ hai, về thủ tục đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng vốn
ngân sách có đặc thù về hồ sơ mời thầu. Bên cạnh những tài liệu có trong hồ
sơ mời thầu thông thường, hồ sơ đấu thầu thi công còn có Kinh nghiệm thực
45
hiện các gói thầu tương tự về quy mô, tính chất kỹ thuật, điều kiện địa lý, địa
chất, hiện trường (nếu có); kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực sản xuất,
kinh doanh chính có liên quan đến việc thực hiện gói thầu;năng lực kỹ thuật:
Số lượng, trình độ cán bộ chuyên môn chủ chốt, công nhân kỹ thuật trực tiếp
thực hiện gói thầu và số lượng thiết bị thi công sẵn có, khả năng huy động
thiết bị thi công để thực hiện gói thầu.
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu thi công công trình
xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Thị xã Quảng Yên,
tỉnh Quảng Ninh
2.2.1 Về thẩm định, quyết định chương trình dự án đầu tư công
Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13; Nghị định số 136/2015/NĐ-CP
ngày 31/12/2015; Văn bản số 1101/BKHĐT-TH ngày 02/3/2015 của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư về hướng dẫn một số nội dung về lập, thẩm định, phê duyệt
chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư chương trình, dự án đầu tư công theo
Luật Đầu tư công; Quyết định số 4119/2015/QĐ-UBND ngày 22/12/2015 của
UBND tỉnh ban hành Quy định về trình tự, thủ tục đầu tư các chương trình,
dự án đầu tư công trên địa bàn tỉnh. Ủy ban nhân dân thị xã Quảng Yên đã chỉ
đạo các phòng ban chức năng thực hiện các bước theo đúng quy định. Lập
Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư, trình Sở Kế hoạch đầu tư, phòng Tài
chính-Kế hoạch thẩm định để trình HĐND, UBND tỉnh, thị xã phê duyệt chủ
trương đầu tư theo từng dự án.
Việc lập, thẩm định, quyết định đầu tư: Tuân thủ Luật Xây dựng năm
2014, Nghị định 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015 của Chính phủ về quản lý
dự án đầu tư xây dựng công trình; Nghị định số 32/2015/NĐ-CP ngày
25/3/2015 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình.
- Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng tổ chức lựa chọn các đơn vị tư vấn
có đủ năng lực để thực hiện lập dự án đầu tư; trình các ban ngành, cấp thẩm
quyền thẩm định và phê duyệt dự án các bước theo đúng quy định trong xây
46
dựng cơ bản, đảm bảo chặt chẽ, thuận lợi cho giai đoạn lập Thiết kế kỹ thuật -
Dự toán; không có trường hợp khi thẩm định phải lập lại.
- Việc quản lý thực hiện chương trình: Quản lý thống nhất theo từng
nguồn vốn và kế hoạch giao vốn đầu năm, phân cấp quản lý được giao kế
hoạch trong năm.
- Việc lập, thẩm định, quyết định đầu tư dự án thành phần thuộc
chương trình: Thực hiện theo hướng dẫn của cấp trên.
- Tình hình thực hiện kế hoạch vốn đầu tư: Nguồn vốn đầu tư chủ yếu
ngân sách thị xã và vốn hỗ trợ của tỉnh, vốn Trung ương theo chương trình
mục tiêu quốc gia, vốn xã, phường còn thấp. Công tác giải ngân đảm bảo theo
kế hoạch
Việc lập, thẩm định phê duyệt thiết kế kỹ thuật, dự toán: Nhìn chung
các dự án thực hiện đúng trình tự, đảm bảo tiến độ đề ra; khi có Quyết định
phê duyệt dự án, lựa chọn đơn vị tư vấn tiến hành lập thiết kế - dự toán để
trình các Sở ngành, bộn phận chuyên môn thẩm định và trình phê duyệt.
2.2.2 Tình hình triển khai thực hiện các dự án đầu tư theo quy định:
Việc quản lý thực hiện dự án:
Công tác quản lý thực hiện dự án hiện nay thực hiện theo Luật Xây dựng số
50/2014/QH13, đối với các dự án do thị xã làm chủ đầu tư thì giao cho Ban
Quản lý dự án đầu tư xây dựng trực tiếp quản lý thực hiện, bám sát kế hoạch chi
tiết của từng dự án để thực hiện, đảm bảo tính đồng bộ khi thực hiện các dự án từ
khâu chuẩn bị đầu tư, lập dự án, lựa chọn nhà thầu và triển khai thi công.
Đối với các dự án có nhiều gói thầu, trên cơ sở tiến độ chung của dự án
và tiến độ của từng gói thầu được duyệt để xây dựng kế hoạch thi công từng
hạng mục phù hợp với tiến độ thi công của gói thầu; Tổ chức nghiệm thu
hàng tháng các hạng mục hoàn thành để giải ngân vốn.
- Ban giám sát cộng đồng của các dự án triển khai tại địa bàn các xã do
UBMT Tổ Quốc xã thành lập giám sát thực hiện theo Quyết định số
47
80/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ. Kết quả xử lý
sau giám sát đầu tư của cộng đồng: Chủ đầu tư đã bắt buộc các nhà thầu thi công
xử lý các sai phạm, bảo đảm chất lượng công trình.
-. Nhìn chung các dự án triển khai đảm bảo tiến độ đề ra; công tác đảm
bảo chất lượng luôn đặt lên hàng đầu, thực hiện theo đúng quy định về quản
lý chất lượng công trình, thi công đúng hồ sơ thiết kế bản vẽ và có sự giám sát
chặt chẽ về mặt kỹ thuật, chất lượng thi công từng hạng mục công trình. Hợp
đồng với các đơn vị chuyên môn để kiểm định chất lượng các hạng mục công
trình. Thành lập tổ giám sát của chủ đầu tư, tổ nghiệm thu phân công nhiệm vụ
cụ thể cho từng thành viên phụ trách phần hành công việc phù hợp để phát huy
hiệu quả công tác quản lý dự án. Tổ chức nghiệm thu khối lượng chặt chẽ thực
tế tại công trình hoàn thành theo từng hạng mục mới giải ngân; có khối lượng
nghiệm thu mới giải ngân, không có trường hợp nghiệm thu khống.
Qua xem xét báo cáo công tác giám sát đầu tư của cộng đồng chưa thấy có
những sai phạm lớn trong triển khai các dự án
2.2.3 Việc thực hiện kế hoạch vốn đầu tư, phân bổ vốn
Đến 31/12/2018 đã chuyển phiếu giá và giải ngân được 300.739 triệu
đồng/340.440 triệu đồng bằng 88,34% kế hoạch vốn:
+ Nguồn vốn Trung ương: Đã giải ngân 10.798 triệu đồng/10.798 triệu
đồng bằng 100% kế hoạch vốn.
+ Nguồn ngân sách tỉnh tập trung: Đã giải ngân 195.393 triệu
đồng/195.393 triệu đồng bằng 100% kế hoạch vốn.
+ Ngân sách thị xã: Đã giải ngân 94.549 triệu đồng/133.853 triệu đồng
bằng 70,64% kế hoạch vốn.
2.2.4 Công tác lựa chọn nhà thầu:
Công tác đấu thầu được thực hiện theo Luật đấu thầu số 43/2013/QH13
ngày 26/11/2013 và Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đấu thầu về lựa chọn nhà thầu.
48
Nhìn chung công tác đấu thầu được Ủy ban nhân dân thị xã thực hiện
đảm bảo theo quy định tại tất cả các giai đoạn như phê duyệt kế hoạch đấu
thầu, hồ sơ mời thầu, đăng báo đấu thầu, thông báo kết quả trúng thầu.
Năm 2018: Ban quản lý dự án công trình (nay là Ban quản lý dự án đầu
tư xây dựng) đã tổ chức 43 gói thầu quy mô nhỏ đấu thầu rộng rãi (tư vấn và
xây lắp) được đăng tải trực tiếp thông báo mời thầu trên hệ thống đấu thầu
quốc gia kể từ ngày 01/3/2018 và đăng tải trực tiếp kết quả lựa chọn nhà thầu
đảm bảo theo qui định, tổng giá trị các gói thầu: 934. 564,1triệu đồng.
Cụ thể: Tổng số gói thầu: 43 gói thầu. Trong đó:
+ Đấu thầu rộng rãi: 33 gói thầu.
+ Đấu thầu hạn chế: 01 gói thầu.
+ Chỉ định thầu: 8 gói thầu.
- Tổng giá gói thầu: 934,564,1 triệu đồng.
- Tổng giá trúng thầu: 934,564,1 triệu đồng.
- Hình thức lựa chọn nhà thầu
+ Đấu thầu rộng rãi, một giai đoạn hai túi hồ sơ: 4 gói thầu
+ Đấu thầu rộng rãi, một giai đoạn 1 túi hồ sơ: 31 gói thầu
+ Hình thức hợp đồng: Trọn gói
- Hình thức lựa chọn nhà thầu qua mạng hiện nay trên địa bàn thị xã
chưa áp dụng hình thức này.
Với các dự án hoàn thành, các ban ngành có liên quan tổ chức nghiệm
thu bàn giao đưa vào sử dụng. Đơn vị được nhận bàn giao công trình trực tiếp
khai thác, vận hành và sử dụng công trình. Các công trình đưa vào sử dụng
phát huy được hiệu quả đầu tư.
49
2.2.5 . Tình hình thực hiện việc đăng tải thông tin trong đấu thầu và
lựa chọn nhà thầu qua mạng.
Từ năm 2017, Ban Quản lý Dự án thị xã Quảng Yên đã thực hiện đăng
ký thông tin của đơn vị trên mạng đấu thầu Quốc gia với tư cách là bên mời
thầu và đã thực hiện đăng tải thông báo mời thầu trên mạng đấu thầu Quốc
gia. Các đơn vị còn lại vẫn thực hiện đăng tải thông tin trên báo đấu thầu;
Thực hiện Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-BKH-BTC Bộ Kế hoạch và
Đầu tư và Bộ Tài chính quy định chi tiết việc cung cấp thông tin về đấu thầu
và lựa chọn nhà thầu qua mạng có hiệu lực thi hành; Ủy ban nhân dân thị xã
Quảng Yên đã quán triệt Ban quản lý dự án và Trung tâm Phát triển quỹ đất là
bên mời thầu nghiêm túc thực hiện các quy định tại Thông tư này trên quan
điểm đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch trong đấu thầu, tạo cơ sở
pháp lý trong việc cung cấp, đăng tải thông tin về đấu thầu, khuyến khích
thực hiện đấu thầu qua mạng, áp dụng triệt để công nghệ thông tin, tạo sự
thuận lợi cho các bên khi cung cấp, đăng tải thông tin về đấu thầu;
2.2.6 Năng lực của đội ngũ cán bộ tham gia hoạt động đấu thầu.
Đến thời điểm hiện nay tất cả cán bộ tham gia công tác đấu thầu của thị xã
đều có chứng chỉ tham gia khóa học về đấu thầu, trong đó riêng Ban quản lý dự án
có 5/10 cán bộ công chức đã có chứng chỉ tham gia khóa học về đấu thầu và được
phổ biến quán triệt nội dung Luật Đấu thầu 2013 và Nghị định số 63/2015/NĐ-CP
đồng thời luôn cập nhật các quy định mới để vận dụng. Về kinh nghiệm và nghiệp
vụ, trong năm qua đội ngũ cán bộ tham gia công tác đấu thầu được nâng lên một
bước, từng bước đáp ứng được yêu cầu. Tỉnh đã tổ chức các lớp tập huấn và cấp
chứng chỉ đấu thầu theo quy định, đến nay hầu hết các cán bộ làm công tác đấu
thầu đều được cấp chứng chỉ đấu thầu. Năng lực quản lý của các chủ đầu tư trong
công tác đấu thầu cơ bản đáp ứng yêu cầu. Hầu hết cán bộ của các ban quản lý dự
án trên địa bàn tình đều có chứng chỉ về đấu thầu
50
2.3 Đánh giá pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu
thi công công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước qua
thực tiễn Thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh
2.3.1 Đánh giá pháp luật đấu thầu thi công các công trình xây dựng
bằng nguồn vốn ngân sách qua thực tiễn thị xã Quảng Yên, Tỉnh Quảng Ninh
2.3.1.1 Ưu điểm:
Sau 4 năm thi hành, Luật đấu thầu đã góp phần nâng cao tính hiệu quả
công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát công tác đấu thầu của các cơ quan nhà
nước, các chủ đầu tư, bên mời thầu và nhà thầu, từng bước chuyên nghiệp hóa
trong hoạt động đấu thầu. Thực hiện lựa chọn nhà thầu theo luật đấu thầu
trong những năm gần đây đã giảm được vốn đầu tư khoảng 7 – 8% là một kết
quả đáng ghi nhận. Phải ghi nhận Luật đấu thầu đã có rất nhiều tiến bộ so với
Luật đấu thầu số 61/2005 về nhiều mặt, đấu thầu giá thấp hay đấu thầu là
cuộc đấu giá mà cả xã hội bức xúc tuy chưa được chấm dứt nhưng đã có
nhiều thay đổi, Luật đã có “khắc chế” để các chủ đầu tư lựa chọn áp dụng.
Một điểm đáng ghi nhận Luật đấu thầu đã thể chế hóa về pháp luật
được cho gần hết các hoạt động đầu tư, mua sắm, cung cấp các hàng hóa, dịch
vụ trong các hoạt động sử dụng vốn nhà nước, trong đó phải kể đến như đấu
thầu mua thuốc trong ngành y tế, đấu thầu quyền sử dụng đất, các dịch vụ tư
vấn phi tư vấn…
Đấu thầu trong hoạt động xây dựng là để phát huy mặt mạnh của cơ chế
cạnh tranh nhằm đạt được các mục tiêu là công trình có chất lượng tốt, giá cả
hợp lý và thời gian xây dựng ngắn. Muốn vậy thì công tác đấu thầu phải tuân
thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc công khai, công bằng, minh bạch. Theo đó
pháp luật trong đấu thầu phải hướng dẫn, quy định để các chủ thể hoạt động
đấu thầu như chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn lựa chọn nhà thầu… đạt được các
nguyên tắc đó, công khai đối với toàn bộ quá trình đấu thầu từ lập kế hoạch
đấu thầu đến khi giao thầu ký kết hợp đồng với nhà thầu; công bằng là thực
51
hiện các thủ tục, triển khai trong suốt quá trình mở thầu, xét chọn thầu; còn
bình đẳng là điều kiện mà bên giao thầu phải tạo ra cho các bên dự thầu, đồng
thời cũng là mối quan hệ giữa các bên giao thầu với bên nhận thầu. Nguyên
tắc chỉ có vậy nhưng thiết chế pháp luật và thực thi trong thực tiễn lại vô cùng
khó khăn. Để thực hiện các nguyên tắc này vì vậy mà Luật đấu thầu luôn phải
có các chế tài để chống được các hiện tượng thông đồng, móc ngoặc thỏa
thuận ngầm giữa bên giao thầu với bên nhận thầu hay giữa các bên dự thầu
với nhau để giành được gói thầu, để nâng giá… Theo đánh giá của tôi, Luật
đấu thầu đã tập trung các chế tài để đạt được các mục tiêu đó.
Luật đấu thầu còn tiệm cận ngày một gần với các quy định của thông lệ
quốc tế (về phương pháp đánh giá, kỹ thuật xét tuyển, hợp đồng…) và tiến tới
các dự án sử dụng các nguồn vốn ODA, các nguồn vốn khác sẽ có cùng hay
dùng chung một chế tài là Luật đấu thầu Việt nam.
Luật Xây dựng và các văn bản hướng dẫn đã tạo hành lang pháp lý để
thực hiện quản lý chất lượng công trình xây dựng, từ khâu khảo sát, thiết kế, thi
công xây dựng cho đến nghiệm thu, bàn giao, bảo hành, bảo trì công trình xây
dựng; quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, nội dung, thẩm quyền lập, thẩm
định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, công tác giám sát
thi công xây dựng, là những yếu tố có tác động rất lớn đến chất lượng công
trình; đồng thời xác định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư, tư vấn và nhà thầu thi
công xây dựng, cũng như đã có quy định về trách nhiệm của các cơ quan quản lý
nhà nước chuyên ngành trong công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng.
Nhìn chung, công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng của các
chủ thể tham gia hoạt động xây dựng đã có những chuyển biến theo hướng
tích cực và từng bước đi vào nề nếp, phần lớn các chủ thể tham gia hoạt động
xây dựng đã có ý thức tuân thủ đúng các quy định về quản lý chất lượng công
trình xây dựng, nhờ đó chất lượng công trình xây dựng đã được nâng lên. Mô
hình Hội đồng nghiệm thu nhà nước các công trình xây dựng được thành lập
52
theo quy định của Luật để giúp Thủ tướng Chính phủ kiểm tra công tác
nghiệm thu các công trình quan trọng quốc gia, công trình có quy mô lớn,
phức tạp đã phát huy hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng đối với các
công trình loại này.
Hệ thống các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn xây dựng đã được hình
thành trong nhiều năm qua và liên tục được bổ sung, hoàn thiện, đến nay cơ
bản đã phủ kín các lĩnh vực hoạt động đầu tư xây dựng, là một trong những
công cụ quan trọng để quản lý và nâng cao chất lượng công trình. Bộ Xây
dựng đã ban hành 18 quy chuẩn kỹ thuật, hơn 1250 tiêu chuẩn quốc gia về kỹ
thuật xây dựng (chiếm 1/5 tổng số các tiêu chuẩn kỹ thuật của cả nước), bao
gồm các lĩnh vực tiêu chuẩn hóa của ngành xây dựng; công tác quy hoạch xây
dựng đô thị và nông thôn; công tác khảo sát, thiết kế, thi công và nghiệm thu
các công trình xây dựng; đảm bảo an toàn phòng chống cháy nổ; quản lý chất
lượng sản phẩm hàng hóa vật liệu xây dựng... Bộ cũng đã ban hành Thông tư
số 18/2010/TT-BXD ngày 15/10/2010 “Quy định việc áp dụng quy chuẩn,
tiêu chuẩn trong hoạt động xây dựng”, trong đó có việc áp dụng các tiêu
chuẩn xây dựng nước ngoài tại Việt Nam để đáp ứng tốt hơn yêu cầu quản lý
chất lượng công trình.
Việc quy định điều kiện năng lực của tổ chức, cá nhân khi tham gia
hoạt động xây dựng (bao gồm cả nhà thầu xây dựng và tổ chức, cá nhân tư
vấn nước ngoài hoạt động xây dựng tại Việt Nam) là một trong các yếu tố để
đảm bảo chất lượng tư vấn và thi công xây dựng; đồng thời cũng tạo sự cạnh
tranh để các doanh nghiệp hoạt động xây dựng, các cá nhân hành nghề xây
dựng tự nâng cao năng lực của mình đáp ứng yêu cầu của thị trường xây
dựng.
Số lượng người đăng ký và đủ điều kiện được cấp chứng chỉ hành nghề
để đảm nhận các chức danh: chủ nhiệm đồ án quy hoạch; lập, thẩm tra dự án;
chủ nhiệm, chủ trì thiết kế xây dựng, thẩm tra thiết kế; tư vấn giám sát thi
53
công xây dựng, kỹ sư định giá xây dựng tăng lên hàng năm, qua đó góp phần
nâng cao chất lượng đồ án quy hoạch, chất lượng dự án, chất lượng thiết kế và
chất lượng xây dựng công trình.
Với các quy định về điều kiện năng lực hoạt động xây dựng, các doanh
nghiệp tư vấn xây dựng, doanh nghiệp thi công xây dựng, các ban quản lý dự
án đã từng bước kiện toàn và nâng cao năng lực của tổ chức, nhờ đó chất
lượng các dự án, công trình xây dựng đã được nâng lên đáng kể. Các doanh
nghiệp hoạt động xây dựng trong nước đã có bước trưởng thành vượt bậc, đủ
năng lực tổng thầu thiết kế, thi công nhiều công trình có quy mô lớn, áp dụng
công nghệ mới, kỹ thuật tiên tiến ngang tầm khu vực và quốc tế như: nhà cao
tầng, công trình cầu, đường cao tốc, nhà máy xi măng, nhà máy nhiệt điện,
thủy điện...
2.3.1.2 Những bất cập của pháp luật:
Thứ nhất, vẫn còn sự chồng chéo giữa pháp luật về đấu thầu với pháp
luật xây dựng trong việc điều chỉnh vấn đề đấu thầu thi công các công trình
xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Khi thảo luận về Luật đấu
thầu 2013, có rất nhiều ý kiến cho rằng cần có những đạo luật riêng về đấu
thầu trong các lĩnh vực cụ thể trong đó có lĩnh vực đấu thầu trong xây dựng
cơ bản. Tuy nhiên, Luật đấu thầu 2013 đã được xây dựng theo hướng thống
nhất các nội dung trong các văn bản quy phạm pháp luật khác quy định về
hoạt động đấu thầu, góp phần xử lý được mối quan hệ giữa luật đấu thầu này
với các luật khác có liên quan đến việc lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư đối với
các gói thầu, dự án sử dụng nguồn vốn nhà nước, kịp thời khắc phục những
hạn chế, khó khăn, vướng mắc, đáp ứng yêu cầu quản lý công tác đấu thầu.
Quá trình thực hiện, luật đấu thầu này cho thấy vẫn còn sự thiếu thống nhất
giữa pháp luật đấu thầu với pháp luật chuyên ngành như, xây dựng, mua sắm
công, cạnh tranh, đầu tư công.... Ví dụ, liên quan đến hợp đồng xây dựng cả
Luật đấu thầu 2013 và Luật xây dựng đều quy định cùng nội dung về Hợp
54
đồng. Trong đó lại có những nội dung hướng dẫn lại khác nhau, tình hình đó
đang gây nhiều vướng mắc khi thực hiện. Kiến nghị: chỉ nên quy định ở một
luật mà nên quy định ở Luật xây dựng. Riêng công tác đấu thầu quốc tế thì
thực hiện theo hướng dẫn của FIDIC. Luật phải quy định bắt buộc chủ đầu tư
phải tuân thủ các quy định về hợp đồng, tình trạng lựa chọn bỏ các quy định
bất lợi cho chủ đầu tư (ví dụ: sử phạt, đền bù, tiến độ giao mặt bằng, kéo dài
thời gian…) đang diễn ra khá phổ biến.
Có sự không thống nhất giữa pháp luật Đấu thầu và pháp luật cạnh
trạnh. Cụ thể: Theo quy định tại khoản 1, Điều 9, Luật cạnh tranh, hành
vi thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung
cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ, sản phẩm xây lắp bị cấm một cách tuyệt đối.
Điều đó là bởi hành vi này có bản chất hạn chế cạnh tranh rõ nét, có khả năng
làm vô hiệu cơ chế cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu. Vì vậy, hành vi này
cũng không có cơ hội được hưởng miễn trừ theo quy định tại Điều 10, Luật
cạnh tranh. Các hành vi vi phạm sẽ bị điều tra và xử lý theo các quy trình và
thủ tục của tố tụng cạnh tranh, bao gồm quá trình điều tra sơ bộ, điều tra chính
thức và xử lý. Các hoạt động điều tra sơ bộ, điều tra chính thức phải trên cơ
sở các điều kiện luật định và phải trong những khoảng thời gian xác định. Cơ
quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều tra là Cục Quản lý cạnh
tranh. Hội đồng cạnh tranh là cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử lý.
Theo quy định tại Điều 117 và 118, Luật cạnh tranh, hình thức xử lý đối với
bên vi phạm có thể là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền, và mức phạt tiền tối đa có
thể lên tới 10% tổng doanh thu của bên vi phạm trong năm tài chính trước
năm thực hiện hành vi vi phạm. Ngoài ra, bên vi phạm có thể bị áp dụng các
hình phạt bổ xung và các biện pháp khắc phục hậu quả.
Theo quy định tại Điều 90, Luật đấu thầu 2013, tổ chức, cá nhân vi
phạm pháp luật về đấu thầu và quy định khác của pháp luật có liên quan thì
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành
chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp hành vi vi phạm
55
pháp luật về đấu thầu gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của
pháp luật. Ngoài ra, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi
phạm pháp luật về đấu thầu còn bị cấm tham gia hoạt động đấu thầu và đưa
vào danh sách các nhà thầu vi phạm trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia.
Thứ hai, Vấn đề năng lực nhà thầu đã được bàn, trao đổi rất nhiều qua
hội thảo, qua những hội nghị chuyên môn khi dự thảo Luật nhưng vẫn còn
nhiều ý kiến khác nhau. Năng lực nhà thầu và năng lực hoạt động của doanh
nghiệp là hai hay là một. Do chưa hiểu thống nhất nên Luật đấu thầu yêu cầu
nhà thầu phải có năng lực đáp ứng yêu cầu gói thầu và yêu cầu nhà thầu phải
đăng tải trên mạng đấu thầu quốc gia; Còn Luật xây dựng lại quy định doanh
nghiệp hoạt động xây dựng phải có đủ năng lực hoạt động theo quy định của
pháp luật và phải “có trách nhiệm đăng ký thông tin về năng lực hoạt động
xây dựng của mình với Bộ Xây dựng, Sở Xây dựng”. Xét cho cùng thì năng
lực để phù hợp với gói thầu mới là quan trọng đối với một doanh nghiệp. Vì
vậy cần giảm bớt thủ tục để doanh nghiệp giảm khó khăn, giảm bớt chi phí.
Bên cạnh đó, Luật Xây dựng tại điểm b mục 1, Điều 96 qui định “chọn được
nhà thầu có đủ điều kiện năng lực hoạt động xây dựng, năng lực hành nghề
xây dựng phù hợp, có giá dự thầu hợp lý Luật Đấu thầu: Tại mục 4 Điều 38
qui định chọn nhà thầu “có chi phí thấp nhất trên cùng một mặt bằng”. Việc
thống nhất giữa “giá dự thầu hợp lý” và “có chi phí thấp nhất trên cùng một
mặt bằng” là cần thiết đặc biệt phải có Tiêu chí cụ thể đánh giá thế nào là “giá
dự thầu hợp lý” hay “chi phí thấp nhất trên cùng một mặt bằng”. Các tiêu chí
này qui định trong Nghị định 16 chưa rõ, thiếu cụ thể, còn Nghị định hướng
dẫn về Luật Đấu thầu thì chưa có vì vậy cần có sự thống nhất về từ dùng
trong qui định của 2 Luật và thống nhất các tiêu chí đánh giá, một số ý kiến
còn cho rằng cần tính thêm điểm kỹ thuật vào giá chọn thầu này.
Luật doanh nghiệp quy định Xây dựng là một loại nghề được thực hiện
với các điều kiện hay nói cách khác, đây là hành nghề có điều kiện. Luật xây
56
dựng quy định Cơ quan chuyên môn thuộc Bộ Xây dựng có thẩm quyền, Sở
Xây dựng sát hạch, cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là việc làm
mang tính hành chính chưa phản ánh bản chất của vấn đề năng lực nhà thầu
xây dựng. Hiệp hội kiến nghị cần thay đổi hình thức tiền kiểm này bằng hình
thức hậu kiểm. Theo đó, Nhà thầu có trách nhiệm đăng ký và chịu trách nhiệm
tính trung thực thông tin, cơ quan có thẩm quyền của Bộ Xây dựng hay các Sở
xây dựng có trách nhiệm tiếp nhận thông tin và cấp cho họ giấy chứng nhận đã
đăng ký năng lực (Thực hiện trên hệ thống mạng). Trên cơ sở đó cơ quan quản
lý nhà nước xem xét, kiểm tra và đăng tải để công bố năng lực. Cách làm này
sẽ đảm bảo rằng tất cả các doanh nghiệp. Chủ đầu tư sẽ kiểm tra tất cả các điều
kiện năng lực của các nhà thầu phù hợp với gói thầu, của các tổ chức đã đăng
ký. Việc này tạo điều kiện để tất cả nhà thầu khi tham gia đấu thầu sẽ không vi
phạm Luật xây dựng.
Thứ ba, Về đánh giá hồ sơ dự thầu, Trong quy định đánh giá hồ sơ dự
thầu thi công chưa đưa ra được các tiêu chuẩn và phương pháp phù hợp để
đánh giá năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu dự thầu nên việc đánh giá còn
mang tính chủ quan. Việc quy định bước đánh giá về mặt kỹ thuật của gói
thầu xây lắp chưa đáp ứng được yêu cầu của việc lựa chọn nhà thầu xây dựng.
Phương án kỹ thuật được chọn trong hồ sơ dự thầu chưa chặt chẽ, còn quá sơ
sài nên việc áp dụng nó sau khi thắng thầu còn hạn chế do thiếu tính chính
xác, tính thực tiễn. Còn thiếu các hướng dẫn cụ thể trong việc xác định giá
đánh giá của hồ sơ dự thầu xây lắp. Quy trình tổ chức đánh giá hồ sơ dự thầu
xây lắp mất nhiều thời gian, làm tăng thời gian tổ chức đấu thầu và thực hiện
gói thầu xây lắp.
Thứ tư, về bảo lãnh hợp đồng thi công xây dựng, trong quan hệ hợp
đồng, phía nhà thầu phải thực hiện bảo lãnh hợp đồng, bảo lãnh thanh toán
nhưng chủ đầu tư lại không chịu trách nhiệm gì. Tình hình đó là không bình
đẳng và đây là nguyên nhân dẫn đến nợ đọng đã kéo dài nhiều năm nay. Vì
vậy để hạn chế tình trạng nợ đọng XDCB cần có chế tài đối với chủ đầu tư
57
theo nguyên tắc: chủ đầu tư phải thực hiện bảo lãnh để đảm bảo vốn cho nhà
thầu thực hiện gói thầu. Khi thanh toán còn 30% giá trị hợp đồng thì chủ đầu
tư phải thực hiện bảo lãnh giá trị thanh toán cho nhà thầu, Nghị định số:
37/2015/NĐ-CP cũng có đề cập vấn đề này nhưng chưa có cơ sở và chưa cụ
thể, đề nghị chế tài này cần được đưa vào Luật xây dựng. Nhà thầu được
quyền dừng thi công nếu chủ đầu tư không cam kết có vốn thanh toán khi nhà
thầu đã hoàn thành khối lượng và thực hiện đủ thủ tục thanh toán theo quy
định và gây nợ đọng XDCB.
Thứ năm, có sự không phù hợp giữa pháp luật Việt nam và pháp luật
quốc tế đặc biệt trong bối cảnh chúng ta đã gia nhập Hiệp định TPP và sắp tới
là Hiệp định thương mại Việt Nam- EU (EVFTA). Ví dụ như vấn đề chỉ định
thầu được coi là không minh bạch và không đảm bảo tính cạnh tranh, bình
đẳng trong đấu thầu. Theo tổng kết của Bộ kế hoạch đầu tư, hiện nay hình
thức chỉ định thầu vẫn chiếm 70% và 45% tổng vốn đầu tư công.
2.3.2 Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về đấu thầu thi công các
công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách qua thực tiễn thị xã Quảng
Yên, Tỉnh Quảng Ninh.
Thị xã Quảng Yên được thành lập theo nghị quyết 100/NQ – CP của
Chính Phủ ngày 25 tháng 11 năm 2011, đến nay thị xã đã có bước chuyển
biến rõ nét về mọi mặt và nơi đây cũng là mảnh đất giàu truyền thống lịch sử
và văn hóa. là đơn vị hành chính ven biển nằm ở phía Tây Nam của tỉnh
Quảng Ninh. Thị xã Quảng Yên có 19 đơn vị hành chính gồm 11 phường và 8
xã, với ngành nghề chủ yếu là thuần nông và nuôi trồng thủy hải sản, trung
tâm thị xã là phường Quảng Yên. Do có lợi thế về vị trí địa lý, vì vậy mà
trong những năm gần đây thị xã có sự vươn lên phát triển toàn diện về kinh tế,
xã hội, an ninh, quốc phòng.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng bộ, chính quyền thị xã
Quảng Yên xác định sau khi tái lập thị xã là tập trung làm tốt công tác quy
hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị. Nhờ vậy, mà diện mạo của đô thị
58
Quảng Yên thời gian qua đã thay đổi nhanh chóng. Quảng Yên đang từng
bước phấn đấu trở thành đô thị văn minh, hiện đại theo hướng phát triển đô
thị xanh, hài hòa với thiên nhiên. Cả thị xã hiện tại như một đại công trường
vì có nhiều dự án đồng loạt triển khai, đặc biệt là dự án cao tốc 5B chạy qua
thị xã với chiều dài hơn 27km nối Quảng Ninh với Hải Phòng. Khi dự án
hoàn thành sẽ tạo nhiều cơ hội để Thị xã phát triển kinh tế, thu hút nhiều dự
án đầu tư của nước ngoài. Với lợi thế đường biển tiếp giáp với khu công
nghiệp Đình Vũ, thành phố Hải Phòng, cùng sự góp sức của tuyến đường cao
tốc 5B sẽ là điều kiện vô cùng thuận lợi để thị xã Quảng Yên thu hút đầu tư,
mở cửa giao lưu thương mại với các địa phương trong nước cũng như quốc tế,
đặc biệt là phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ, du lịch, công nghiệp
đóng, sửa chữa tàu biển, dịch vụ cảng và vận tải biển, phát triển khu du lịch di
tích lịch sử Bạch Đằng gắn với khu du lịch Tuần Châu (Hạ Long) và khu du
lịch sinh thái nghỉ dưỡng Cát Bà (Hải Phòng)… bằng đường biển và liên kết
không gian kinh tế với các thành phố Hạ Long, Hải Phòng để tạo thành trục
kinh tế động lực ven biển Hải Phòng – Thị xã Quảng Yên – Hạ Long của
vùng kinh tế trọng điểm Đông Bắc Bộ. Quảng Yên cũng đang phát huy thế
mạnh ngành công nghiệp và xây dựng để phát triển kinh tế biển, kinh tế công
nghiệp. Đến nay, một số cụm công nghiệp trên địa bàn đã và đang được đầu
tư, đi vào hoạt động như: Cụm công nghiệp sửa chữa và đóng mới tàu thuyền
Hà An, Cụm công nghiệp Tiền Phong… Đồng thời, thị xã quan tâm đầu tư
lớn cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là các công trình trọng điểm, các
tuyến giao thông chính, hạ tầng đô thị và nông thôn. Hiện nay trên địa bàn thị
xã Quảng Yên đã và đang hội tụ nhiều công trình trọng điểm không chỉ của
tỉnh Quảng Ninh mà xét về mặt tầm vóc, quy mô lợi ích thì những công trình
đó còn là những công trình mang lại sức bật về phát triển kinh tế cho cả vùng
tam giác Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, tiêu biểu như những công trình
đầu tư trong lĩnh vực giao thông vận tải, tuyến đường Cầu Chanh – Uông Bí,
Cầu Chanh – Liên Vị được xây mới, tuyến đường Biểu Nghi – Phà Rừng
59
được lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng, giờ đây như những mạch máu lưu
thông chính không chỉ tạo diện mạo mới cho thị xã Quảng Yên mà còn nâng
tầm về phát triển giao thương thuận lợi cho con người nơi đây. Một cuộc sống
mới đang mở ra với rất nhiều kỳ vọng. Trong thời gian không xa, thị xã
Quảng Yên sẽ có bước chuyển mình mạnh mẽ và phát triển toàn diện về mọi
mặt xứng đáng là địa phương anh hùng nơi miền tây nam của tỉnh Quảng
Ninh.
Do đặc điểm kinh tế - xã hội của thị xã Quảng Yên hiện nay với nhiều cơ
hội phát triển như vậy, Đảng bộ, Chính quyền địa phương rất quan tâm đến
việc đào tạo chuyên môn cho đội ngũ cán bộ. Đặc biệt các cán bộ kỹ thuật
nghành xây dựng, đến thời điểm hiện nay tất cả cán bộ tham gia công tác đấu
thầu của thị xã đều có chứng chỉ tham gia khóa học về đấu thầu. Trong đó
riêng Ban quản lý dự án Đầu tư xây dựng có 2/3 cán bộ công chức đã có
chứng chỉ tham gia khóa học về đấu thầu và được phổ biến quán triệt nội
dung Luật Đấu thầu 2013 và Nghị định số 63/2015/NĐ-CP đồng thời luôn
cập nhật các quy định mới để vận dụng. Về kinh nghiệm và nghiệp vụ, trong
năm qua của đội ngũ cán bộ tham gia công tác đấu thầu được nâng lên một
bước, từng bước đáp ứng được yêu cầu. Tỉnh Quảng Ninh đã tổ chức các lớp
tập huấn và cấp chứng chỉ đấu thầu theo quy định, đến nay hầu hết các cán bộ
làm công tác đấu thầu đều được cấp chứng chỉ đấu thầu. Năng lực quản lý của
các chủ đầu tư trong công tác đấu thầu cơ bản đáp ứng yêu cầu. Hầu hết cán
bộ của các ban quản lý dự án trên địa bàn tỉnh đều có chứng chỉ về đấu thầu.
Công tác đấu thầu trong năm đã đi vào nề nếp, các chủ đầu tư quan tâm hơn
đến công tác đấu thầu theo trình tự thủ tục của quy chế hiện hành, tích lũy về
kinh nghiệm và nghiệp vụ thuộc lĩnh vực đấu thầu được nâng lên, chất lượng
công tác đấu thầu ngày càng được nâng cao, hiệu quả. Ngoài ra, UBND tỉnh
chỉ đạo tăng cường cải cách hành chính, ban hành quy chế “một cửa” trong cải
cách hồ sơ thủ tục đấu thầu, góp phần quan trọng trong việc giải quyết hồ sơ
thủ tục trong công tác đấu thầu
60
Trong quá trình kiểm tra cho thấy thời gian qua các chủ đầu tư trên địa
bàn thị xã Quảng Yên thực hiện trình tự, thủ tục trong đầu tư xây dựng cơ bản
đáp ứng theo quy định của Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu và các văn bản
hướng dẫn của Bộ, Ngành. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được còn một
số hạn chế, cụ thể như sau:
Chất lượng của một số công việc chuẩn bị cho đấu thầu vẫn còn bất cập:
Xuất phát từ năng lực của chủ đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu phân
cấp cũng như đội ngũ tư vấn đấu thầu, chuyên gia đấu thầu còn hạn chế về số
lượng và chất lượng nên công tác lập, trình và phê duyệt kế hoạch đấu thầu -
công cụ định hướng, kim chỉ nam cho toàn bộ quá trình đấu thầu chưa được
thực hiện theo quy định. Qua kiểm tra công tác đấu thầu, nhiều địa phương
không phê duyệt kế hoạch đấu thầu tổng thể mà chỉ phê duyệt cho từng gói
thầu hoặc nếu có thì chưa đầy đủ như không bao gồm các gói thầu tư vấn, gói
thầu xây lắp áp dụng hình thức chỉ định thầu, kế hoạch đấu thầu không chia
thành 4 phần công việc rõ ràng nên khi kiểm tra có nhiều dự án vượt tổng
mức đầu tư đã duyệt nhưng không được phê duyệt điều chỉnh, từ đó dẫn đến
sự chậm trễ hoàn thành công trình do không bố trí đủ vốn và gây nợ đọng trong
xây dựng cơ bản. Ngoài ra, phần thuyết minh về các nội dung của từng gói thầu
hoặc cả kế hoạch đấu thầu còn sơ sài, đơn giản; thời gian tổ chức đấu thầu trong
kế hoạch đấu thầu còn chưa phù hợp với khả năng bảo đảm vốn thanh toán, hồ
sơ trình duyệt kèm theo còn thiếu. Việc phân chia gói thầu chưa căn cứ vào
tính đồng bộ về mặt kỹ thuật và quy mô triển khai. Giá gói thầu hầu hết còn tạm
tính, công tác thẩm định giá gói thầu còn bất cập, thiếu cơ sở pháp lý. Quyết
định phê duyệt kế hoạch đấu thầu còn phê duyệt cả phần công việc đã thực hiện,
công việc không tổ chức đấu thầu, thời gian thực hiện hợp đồng bao gồm cả
thời gian bảo hành công trình.
Chất lượng của hồ sơ mời thầu vẫn còn nhiều bất cập. Trong một số
trường hợp chỉ vì một vài chi tiết trong hồ sơ mời thầu do tư vấn lập không
chuẩn xác mà có thể dẫn đến phức tạp trong đánh giá hồ sơ dự thầu, phải xử
61
lý tình huống gây chậm trễ. Trong một số trường hợp khác còn phải hủy đấu
thầu làm ảnh hưởng đến tiến độ dự án và lãng phí tiền của nhà nước. Vẫn còn
không ít các đơn vị tổ chức thực hiện đấu thầu không đúng quy trình; hồ sơ
mời thầu ( HSMT), hồ sơ yêu cầu ( HSYC) của một số gói thầu không đúng
theo Quyết định đầu tư, thiết kế kỹ thuật được duyệt cũng như không có tiêu
chuẩn đánh giá năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu dẫn đến sai lệch kết quả
đấu thầu hoặc quá trình thực hiện gói thầu kéo dài. Tiêu chuẩn đánh giá của
một số gói thầu còn mang tính chủ quan, chưa rõ ràng và chưa phù hợp với
tính chất kỹ thuật của trang thiết bị, phương pháp xác định “giá đánh giá”
trong đánh giá về mặt tài chính còn sơ sài, thiếu tính khoa học. Việc lập
HSMT và hợp đồng còn sơ sài, nhất là các điều kiện cụ thể của hợp đồng,
điều chỉnh hợp đồng nên quá trình thực hiện không có chế tài để quản lý hợp
đồng dẫn đến chậm tiến độ thực hiện của gói thầu.
Bên cạnh đó năng lực chuyên môn của nhiều chủ đầu tư, bên mời thầu
đặc biệt là ở cấp huyện, xã, khu vực vùng sâu, vùng xa, các bệnh viện, trường
học.. còn hạn chế do các chủ đầu tư, bên mời thầu chưa có kinh nghiệm, tính
chuyên môn chưa cao dẫn đến chất lượng của hoạt động đấu thầu chưa được
đảm bảo. Ở rất nhiều địa phương, một số chủ đầu tư là Giám đốc bệnh viện,
Hiệu trưởng trường học.. rất ngại xem xét, phê duyệt kết quả đấu thầu vì thiếu
chuyên môn về lĩnh vực quản lý nhà nước về đấu thầu nhưng lại cũng e ngại
về chất lượng của các tổ chức tư vấn đấu thầu. Do đó, các chủ đầu tư nêu trên
vẫn trông mong vào sự hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước có chức năng quản
lý nhà nước về đấu thầu.
Chất lượng của một số đơn vị tư vấn ở địa phương còn hạn chế, đặc
biệt là tư vấn đấu thầu. Nhiều hồ sơ do các đơn vị tư vấn lập để chủ đầu tư
phê duyệt không đạt yêu cầu, có nhiều sai sót dẫn đến hồ sơ không đạt chất
lượng và yêu cầu theo quy định, kéo dài thời gian thẩm định, ảnh hưởng đến
tiến độ thực hiện dự án.
62
Sản phẩm của quá trình đấu thầu cuối cùng là hợp đồng ký kết giữa chủ
đầu tư và nhà thầu trúng thầu. Hiệu quả đạt được từ công tác đấu thầu phụ
thuộc rất nhiều vào việc thực hiện nghĩa vụ và ràng buộc giữa chủ đầu tư và
nhà thầu như đã nêu trong hợp đồng. Tuy nhiên, theo báo cáo của các địa
phương thì trong một số trường hợp việc quản lý thực hiện hợp đồng còn
chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt là trong bối cảnh giá cả leo thang.
Bên cạnh đó, công tác quản lý nhà thầu trong quá trình thi công chưa chặt
chẽ, một số nhà thầu sau khi trúng thầu không bố trí đủ nhân lực, thiết bị, tài
chính đảm bảo tiến độ thi công như hồ sơ dự thầu và hợp đồng đã ký kết
nhưng chủ đầu tư chưa có biện pháp tích cực xử lý chế tài đối với nhà thầu.
Nhìn chung công tác đấu thầu chịu nhiều ảnh hưởng của tình trạng lạm
phát kinh tế trong nước cũng như thế giới. Do đó các nhà thầu có tâm lý e
ngại tham gia đấu thầu, trong một số trường hợp ở các gói thầu xây lắp, nhà
thầu có tâm lý thực hiện hợp đồng cầm chừng để được điều chỉnh giá trị hợp
đồng khi có các thay đổi về chính sách của nhà nước về tiền lương, giá ca máy...
Trong một số trường hợp khác, nhà thầu khi thực hiện hợp đồng đã không đảm
bảo được năng lực tài chính dẫn đến chậm trễ trong triển khai dự án.
Ngoài ra, một số chủ đầu tư chưa quan tâm thực hiện công tác giám sát
thi công, đôn đốc các nhà thầu xây lắp đảm bảo tiến độ đúng quy định và việc
bảo đảm thực hiện hợp đồng theo quy định còn ít được các chủ đầu tư thực
hiện theo quy định của pháp luật, một số nơi khi nhà thầu thực hiện nghĩa vụ
bảo đảm thực hiện hợp đồng không đúng với thời hạn của hợp đồng nhưng
vẫn được chủ đầu tư bỏ qua.
Bên cạnh đó, nhiều công trình đã lựa chọn được nhà thầu nhưng chưa
hoàn thành bồi thường giải phóng mặt bằng, sau khi ký hợp đồng vẫn chưa có
mặt bằng thi công hoặc quá trình thi công phải tạm dừng vì một số vị trí
không giải phóng được mặt bằng theo tiến độ, gây khó khăn rất lớn cho nhà
thầu, tiến độ thi công phải kéo dài, rất nhiều thủ tục kéo theo do phải bổ sung
điều chỉnh dự án
63
Thuyết minh báo cáo kinh tế, kỹ thuật công trình còn thiếu một số nội
dung như: căn cứ cơ sở pháp lý, phương án bồi hoàn… lập hồ sơ yêu cầu
không thể hiện tính ràng buộc đối với các quy định về năng lực và kinh
nghiệm của nhà thầu.
- Không dự thảo hợp đồng và biên bản thương thảo hợp đồng để làm cơ
sở cho việc chỉ định thầu đối với các đơn vị tư vấn, tỷ lệ giảm giá dự thầu so
với giá gói thầu được duyệt còn thấp.
- Một số gói thầu với hình thức là đấu thầu rộng rãi nhưng số lượng các
nhà thầu tham gia dự thầu còn ít, số lượng nhà thầu đáp ứng về năng lực và
kinh nghiệm chưa nhiều, làm cho tính cạnh tranh trong đấu thầu chưa cao.
- Công tác báo cáo tình hình thực hiện đấu thầu chưa được các chủ đầu
tư tuân thủ, điều này gây khó khăn cho cơ quan tổng hợp báo cáo.
- Việc điều chỉnh, bổ sung giá, khối lượng sau khi đấu thầu do sai sót
của các đơn vị tư vấn (tư vấn thiết kế, tư vấn thẩm tra, tư vấn đấu thầu) còn
xảy ra nhiều. Điều này gây khó khăn trong công tác quản lý, làm chậm trễ tiến
độ thi công và làm giảm tính cạnh tranh trong đấu thầu.
- Còn nhiều trường hợp các nhà thầu sau khi trúng thầu, triển khai thi
công không đạt tiến độ theo yêu cầu; các biện pháp thi công, thiết bị, nhân
công không tuân thủ như hồ sơ dự thầu… chất lượng công trình chưa được
nhà thầu quan tâm đúng mức, còn nhiều nhà thầu vi phạm thời gian thi công,
vi phạm hợp đồng chưa được xử lý.
Tiểu kết chương 2
Qua phân tích pháp luật đấu thầu của Việt Nam, ta có thể thấy pháp
luật đấu thầu Việt Nam đã có nhiều điểm tiến bộ so với quy chế đấu thầu
trước đây. Tựu chung lại có 5 điểm cơ bản, tập trung giải quyết để khắc phục
những tồn tại của quy chế đấu thầu trước.
Như vậy, chủ đầu tư sẽ được tăng thêm quyền và kèm theo trách nhiệm.
Đây là một chủ trương hết sức đúng đắn. Tuy nhiên, pháp luật đấu thầu Việt
64
Nam hiện nay, so với tương quan hệ thống pháp luật kinh tế và tình hình phát
triển xã hội còn nhiều bất cập:
- Về tính đồng bộ: Các văn bản pháp luật về đấu thầu xây lắp còn
chồng chéo, không đồng bộ với các văn bản pháp luật khác có liên quan, thậm
chí còn có những nội dung chưa được pháp luật điều chỉnh. Chẳng hạn như
cùng một ủy ban kinh tế ngân sách của Quốc hội thẩm ra Luật Đầu tư, Luật
Xây dựng và Luật Đấu thầu nhưng trong ba bộ luật này có nhiều khái niệm
không đồng nhất.
- Về tính thực tiễn: Thực trạng hệ thống pháp luật về đấu thầu xây lắp
hiện nay chỉ phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của thời kỳ trước khi nền kinh
tế nước ta mới chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Quy định chưa đáp
ứng các yêu cầu về đấu thầu đó là quy định về minh bạch, đảm bảo cạnh
tranh, quyền nhiều nhưng lại không phân định trách nhiệm cụ thể. Quy định
đấu thầu còn lỏng lẻo nên đấu thầu còn mang tính hình thức, quy trình đấu
thầu còn nhiều phức tạp, thời gian tổ chức dài. Trách nhiệm trong đấu thầu
còn chưa rõ ràng, chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm. Đặc biệt là cơ chế giám
sát hoạt động đấu thầu, thông tin trong đấu thầu theo hướng công khai hóa
vừa yếu, tản mạn, thiếu tập trung. Phân cấp rà soát, kiểm tra trong quá trình
thực hiện còn yếu kém. Tiêu cực ở đấu thầu xây lắp trong thời gian qua bùng
phát ảnh hưởng đến hoạt động và phát triển của một số ngành kinh tế quan
trọng như điện lực, giao thông, y tế…
Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa, pháp luật về đấu thầu xây
lắp cần được hoàn thiện theo thông lệ quốc tế để tranh thủ tinh hoa trí tuệ
nhân loại trong lĩnh vực đấu thầu xây lắp của thế giới, do đó tránh được sự
chồng chéo, rườm rà.
65
Chương 3
NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU
THẦU THI CÔNG CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG BẰNG NGUỒN
VỐN NGÂN SÁCH TẠI THỊ XÃ QUẢN YÊN TÍNH QUẢNG NINH
3.1. Những định hướng cơ bản
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về đấu thầu thi công các công trình xây
dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, thực trạng quy định của pháp luật
điều chỉnh thực tiễn thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này ở thị xã, Quảng
Yên, tỉnh Quảng Ninh, chúng tôi cho rằng cần có giải pháp tiếp tục hoàn thiện
pháp luật và có giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu thầu thi công các
công trinh xây dựng bằng vốn ngân sách nhà nước. Để xuất các giải pháp này
dựa trên quan điểm chỉ đạo về xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung,
pháp luật đấu thầu, xây dựng, đầu tư công nói riêng. Quan điểm chỉ đạo bao
trùm đó là gắn việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật về đấu thầu thi công các công trình bằng nguồn vốn ngân sách
nhà nước phải gắn với chủ trương hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở nước ta trong thời gian tới. Các quan điểm chỉ
đạo này được thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Ðảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
Xã Hội Chủ Nghĩa và trong Nghị quyết 48/NQ-TW về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm
2020. Trong đó, các Nghị quyết này đã chỉ ra các nguyên tắc cơ bản như:
Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo nguyên tắc
công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm. Tạo cơ sở pháp luật
để công dân tích cực huy động mọi tiềm năng, nguồn lực và phát triển sản
xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân, gia đình và
66
góp phần làm giàu cho đất nước. Tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh
lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của WTO và các cam kết quốc
tế khác. Xây dựng một khung pháp luật chung cho các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế, xoá bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh, cải thiện
môi trường đầu tư; từng bước thống nhất pháp luật áp dụng đối với đầu tư
trong nước và đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng theo
hướng tôn trọng thoả thuận của các bên giao kết hợp đồng, không trái với đạo
đức xã hội, không xâm phạm trật tự công cộng, phù hợp với tập quán, thông
lệ thương mại quốc tế. Hoàn thiện pháp luật về tài chính công, xác định rõ
nguồn thu và cơ cấu chi của ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương,
thống nhất chế độ chi tiêu; xác định cơ chế đầu tư và sử dụng có hiệu quả các
nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước
Xây dựng, đấu thầu và đầu tư công là các lĩnh vực có vai trò quan trọng
đối với nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay, trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản nói trên, việc hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật liên quan đến
lĩnh vực này cần được tiến hành theo phương hướng cụ thể sau đây:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về đấu thầu thì phải khắc phục được tình
trạng các quy định về đấu thầu còn tản mạn, không tập trung, không thống
nhất. Tuy Luật đấu thầu 2013 đã thống nhất pháp luật về đấu thầu trong đó
Luật Đấu thầu được coi như là luật chung. Tuy nhiên, nhìn chung hiện nay ở
Việt Nam, lĩnh vực đấu thầu đang được chia nhỏ và quản lý không tập trung,
các quy định về đấu thầu nằm rải rác trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật
gây nên tình trạng chồng chéo, thiếu thống nhất giữa các văn bản và gây khó
khăn cho các đơn vị thực hiện.
Thứ hai, đảm bảo thống nhất quản lý việc chi tiêu sử dụng vốn nhà nước
Để bảo đảm thống nhất quản lý việc chi tiêu, sử dụng vốn nhà nước thì
hoạt động đấu thầu cần bảo đảm có một hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật thống nhất, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn. Để làm được điều này cần có
67
sự chỉ đạo thống nhất từ các cấp cao nhất, tiếp đến là sự đồng thuận, thống nhất
của các Bộ, ngành, địa phương, tránh lợi ích cục bộ mà không vì lợi ích toàn cục,
lợi ích của người dân.
Thứ ba, Tăng cường cạnh tranh trong đấu thầu
Một trong những yếu tố đạt được hiệu quả của công tác đấu thầu là phải
bảo đảm được quy luật cạnh tranh theo cơ chế thị trường. Trong hoạt động đấu
thầu nói chung và công tác đấu thầu của Việt Nam nói riêng, mục tiêu cạnh
tranh đang ngày càng được tăng cường, đặc biệt dự thảo Luật đưa ra các
nguyên tắc để tạo thuận lợi cho các nhà thầu trong nước tăng cường năng lực
cạnh tranh để có thể vững vàng hội nhập, tham gia thị trường quốc tế.
Thứ tư, đảm bảo công khai, minh bạch, công bằng trong đấu thầu.
Công khai, minh bạch trong đấu thầu vừa là một trong những mục tiêu, vừa là
một trong những yêu cầu cần quán triệt. Công khai trong đấu thầu có thể hiểu
là sự không “che đậy, dấu giếm”, không bí mật vì lợi ích của một cá nhân
hoặc tổ chức nào đó mà cần thể hiện, bày tỏ các nội dung thông tin theo quy
định cho mọi người liên quan hoặc có quan tâm được biết. Đây là mục tiêu
rất quan trọng trong đấu thầu. Trong quá trình thực hiện công tác đấu thầu,
phải hết sức tôn trọng quyền lợi của các bên có liên quan. Tính công bằng
trong đấu thầu thể hiện rằng các chủ thể tham gia đều phải thực hiện theo quy
định của pháp luật về đấu thầu.
Thứ năm, bảo đảm hiệu quả kinh tế của công tác đấu thầu phòng,
chống tham nhũng trong đấu thầu
Hiệu quả của công tác đấu thầu chính là việc sử dụng một cách có hiệu
quả nguồn vốn của Nhà nước. Việc sử dụng các nguồn vốn của Nhà nước có
thể mang lại hiệu quả ngắn hạn cho gói thầu, dự án và hiệu quả dài hạn về
kinh tế - xã hội.
Luật Đấu thầu là loại trừ tham nhũng. Đây là mục tiêu vừa có tính lâu
dài, vừa có tính cấp bách vì Việt Nam đã ký vào công ước quốc tế về chống
68
tham nhũng. Có thể nói rằng, tham nhũng là một trong những căn bệnh dễ nảy
sinh trong quá trình đấu thầu vì công quỹ, tài sản là của Nhà nước, của chung,
thuộc sở hữu toàn dân, đặc biệt trong lĩnh vực xây lắp, xây dựng giao thông,
lĩnh vực đấu thầu có lượng vốn đầu tư thường rất lớn.
Thứ sáu, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, đặt
ra cho lĩnh vực đấu thầu yêu cầu điện tử hóa các hoạt động quản lý nhà nước
nói chung và đấu thầu nói riêng . Thực hiện chủ trương hướng tới Chính phủ
điện tử mà một trong những nội dung quan trọng là ứng dụng thương mại
điện tử trong đấu thầu, trong Luật Đấu thầu mới chỉ có một điều quy định về
đấu thầu điện tử. Theo đó, các quy định về đấu thầu hiện hành cần được sửa
đổi theo hướng tạo khung pháp lý cho hoạt động đấu thầu qua mạng nhằm
giảm thiểu thời gian, tiết kiệm chi phí, đồng thời tăng cường tính minh bạch,
cạnh tranh trong đấu thầu, góp phần phòng, chống tham nhũng, lãng phí và
nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của Nhà nước.
3.2. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật đấu thầu, xây dựng và
đầu tư công
Một là, Về các quy định đối với các quy định về tiêu chuẩn đánh giá hồ
sơ dự thầu xây lắp: Cần sửa đổi các quy định về tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự
thầu xây lắp theo hướng Chủ đầu tư xem xét mức độ đáp ứng về kinh nghiệm,
năng lực của nhà thầu so với yêu cầu công việc cần thực hiện Việc đề ra các
tiêu chuẩn đánh giá về mặt kỹ thuật cần được đánh giá về sự phù hợp giữa các
giải pháp kỹ thuật thi công, biện pháp tổ chức tổng mặt bằng thi công xây
dựng với tiến độ thi công và giá thầu được đề xuất. Nhà nước cần có văn bản
hướng dẫn cụ thể để xây dựng các tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá cụ thể
hồ sơ dự thầu, tránh việc đánh giá mang nặng tính chủ quan của bên mời thầu.
Đối với các quy định về phương pháp xét thầu xây lắp: Xem xét đánh giá
đồng thời các đề xuất về mặt kỹ thuật của gói thầu với việc đánh giá các đề
xuất khác về tiến độ thực hiện, mức độ đảm bảo về chất lượng, giá dự
69
thầu…khi xét thầu cho phép giảm bớt các bước trong quy trình xét thầu, qua
đó rút ngắn thời gian tổ chức đấu thầu và tiến độ thực hiện dự án. Phải có một
cơ chế quản lý, giám sát, xử phạt nghiêm minh các hành vi tiêu cực trong các
hoạt động đấu thầu. Có thể quy định cho phép nộp hồ sơ dự thầu thay thế để
có thể có được phương án tiết kiệm được thời gian và chi phí. Do chưa tính
các yếu tố rủi ro, lãi suất, khả năng cạnh tranh xảy ra có thể xảy ra nên hồ sơ
dự thầu vượt quá mức dự toán vẫn có thể được tiếp tục xem xét. Do tình hình
giá cả thị trường luôn biến động, thời gian thi công công trình xây dựng
thường kéo dài nên luật cần có quy định chặt chẽ hơn về việc xác định giá,
xác định phương án kỹ thuật …để tránh rủi ro cho nhà thầu và đảm bảo tính
minh bạch trong thanh quyết toán vốn xây dựng công trình. Khi tuyển chọn tư
vấn thực hiện công tác đấu thầu phải nên qua đấu thầu cạnh tranh để lựa chọn
được đơn vị tư vấn đủ năng lực, kinh nghiệm và đạo đức.
Hai là, sửa đổi các quy định về giá gói thầu: Cụ thể là theo quy định tại
Điều 37 của Luật Đấu thầu có quy định về việc xét duyệt trúng thầu đối với
đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn như sau: Nhà thầu tư vấn được xem xét đề
nghị trúng thầu khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây: Có hồ sơ dự thầu
hợp lệ, Có giá đề nghị trúng thầu không vượt giá gói thầu được duyệt. Chính
vì quy định này mà trong nhiều năm qua, không ít chủ đầu tư đã chọn nhà
thầu có giá bỏ thấp nhất, khiến nhiều dự án chất lượng không đảm bảo, kéo
dài trong nhiều năm, sau đó lại loay hoay xin thay đổi tổng mức đầu tư, xin
thêm kinh phí
Bên cạnh đó, các chủ đầu tư chọn những nhà thầu có giá thấp là vì
trong Luật Đấu thầu hiện hành và các văn bản quy phạm pháp luật khác chỉ
quy định giá trần mà không áp dụng quy định giá sàn. Vì thế, các nhà thầu
đua nhau bỏ thầu thấp để trúng thầu bằng mọi giá. Điều này hết sức nguy
hiểm, bởi nhà thầu thấp thì phải luôn đối mặt với nguy cơ thua lỗ. Tuy nhiên,
nếu không bỏ thấp thì doanh nghiệp không có việc làm cho người lao động.
70
Vậy là cuộc chạy đua bỏ thầu thấp dẫn đến một vòng xoáy luẩn quẩn không
thể tháo gỡ. Hệ quả là hàng chục năm qua, dù rất nỗ lực sản xuất - kinh doanh
nhưng gần như tất cả các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây lắp ngành giao
thông - vận tải luôn phải ngụp lặn với nợ đọng, hoặc vốn sở hữu thấp và
không tương xứng với quy mô, năng lực thi công.
Ba là, sửa đổi các quy định liên quan đến thiết lập hồ sơ mời thầu,
Thông tư số 07/2016/TT-BKH&ĐT quy định chi tiết lập hồ sơ mời thầu, hồ
sơ yêu cầu đối với đấu thầu qua mạng là bước tiến quan trọng trong việc cụ
thể hóa các văn bản pháp lý thực hiện đấu thầu qua mạng. Việc có mẫu hồ sơ
mời thầu, hồ sơ yêu cầu đã tạo thuận lợi cho các đơn vị thực hiện. Tuy nhiên,
thời gian tới, các văn bản chính sách cần hoàn thiện hơn trong việc áp dụng,
triển khai đấu thầu qua mạng theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ.
Khi đó, số lượng gói thầu được thực hiện đấu thầu qua mạng dự kiến sẽ tăng
lên. Bên cạnh đó, cần cụ thể quy trình đánh giá hồ sơ dự thầu, quá trình xét
thầu giúp giảm thiểu thời gian cho bên mời thầu trong quá trình lựa chọn nhà
thầu. Với những quy định hiện hành, bên mời thầu phải đánh giá chi tiết, có
công văn hỏi, đề nghị từng nhà thầu làm rõ hồ sơ dự thầu. Song, trong trường
hợp số lượng nhà thầu tham gia gói thầu đông thì việc này rất mất thời gian.
Do đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần nghiên cứu, sớm ban hành văn
bản pháp lý về quy trình đánh giá ngược để các bên mời thầu áp dụng lựa
Khi xây dựng yêu cầu về kỹ thuật không được đưa ra các điều kiện
chọn nhà thầu được nhanh, hiệu quả, minh bạch.
nhằm hạn chế sự tham gia của nhà thầu hoặc nhằm tạo lợi thế cho một hoặc
một số nhà thầu gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng, đồng thời cũng
không được đưa ra các yêu cầu quá cao dẫn đến làm tăng giá dự thầu hoặc
làm hạn chế sự tham gia của các nhà thầu; không được nêu yêu cầu về nhãn
hiệu, xuất xứ cụ thể của hàng hóa, kể cả việc nêu tên nước, nhóm nước, vùng
lãnh thổ gây ra sự phân biệt đối xử.
71
Không được đưa ra các điều kiện để hạn chế sự tham dự thầu của nhà
thầu như: Yêu cầu nhân sự thực hiện gói thầu phải được đóng bảo hiểm xã
hội, phải là nhân sự đăng ký hợp đồng với nhà thầu, thiết bị thi công phải
thuộc sở hữu của nhà thầu mà không được đi thuê, đã thực hiện hợp đồng
tương tự trên một địa bàn cụ thể... hoặc quy định năng lực, kinh nghiệm của
nhà thầu cao hơn mức yêu cầu của gói thầu...
Hồ sơ mời thầu phải được xây dựng đảm bảo khoa học, khách quan,
phù hợp yêu cầu cụ thể từng gói thầu, đảm bảo theo đúng quy định, không
mang tính định hướng, tạo lợi thế hoặc cản trở sự tham gia của một hoặc một
số nhà thầu.
Bốn là, Bổ sung thêm mô hình “Nhà thầu quản lý” vào Luật đấu thầu
Đây là hình thức đang khá phổ biến theo thông lệ quốc tế và hình thức này
cũng đang được áp dụng hiện nay ở Việt nam. Hình thức này đang khá phổ
biến ở các dự án nhà thầu nước ngoài ở Việt nam: nhà thầu nước ngoài chỉ có
bộ máy quản lý dự án, còn lại họ đi thuê các nhà thầu tại Việt Nam. Đây là mô
hình tiên tiến nhưng Luật đấu thầu và Luật xây dựng đều chưa có quy quy
định, đề nghị đưa mô hình này vào Luật xây dựng và Luật đấu thầu để nhà thầu
Việt Nam có thêm một hình thức nhằm phát huy hết năng lực nhà thầu Việt
Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Năm là, sửa đổi các quy định về năng lực và chứng chỉ hành nghề. Vấn
đề năng lực nhà thầu đã được bàn, trao đổi rất nhiều qua hội thảo, qua những
hội nghị chuyên môn khi dự thảo Luật nhưng vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau.
Năng lực nhà thầu và năng lực hoạt động của doanh nghiệp là hai hay là một.
Do chưa hiểu thống nhất nên Luật đấu thầu yêu cầu nhà thầu phải có năng lực
đáp ứng yêu cầu gói thầu và yêu cầu nhà thầu phải đăng tải trên mạng đấu
thầu quốc gia; Còn Luật xây dựng lại quy định doanh nghiệp hoạt động xây
dựng phải có đủ năng lực hoạt động theo quy định của pháp luật và phải “có
trách nhiệm đăng ký thông tin về năng lực hoạt động xây dựng của mình với
72
Bộ Xây dựng, Sở Xây dựng”. Xét cho cùng thì năng lực để phù hợp với gói
thầu mới là quan trọng đối với một doanh nghiệp. Vì vậy cần giảm bớt thủ tục
để doanh nghiệp khó khăn, giảm bớt chi phí.
Luật doanh nghiệp quy định Xây dựng là một loại nghề được thực hiện
với các điều kiện hay nói cách khác, đây là hành nghề có điều kiện. Luật xây
dựng quy định Cơ quan chuyên môn thuộc Bộ Xây dựng có thẩm quyền, Sở
Xây dựng sát hạch, cấp chứng chỉ hành nghề hoạt động xây dựng là việc làm
mang tính hành chính chưa phản ánh bản chất của vấn đề năng lực nhà thầu
xây dựng. Hiệp hội kiến nghị cần thay đổi hình thức tiền kiểm này bằng hình
thức hậu kiểm. Theo đó, Nhà thầu có trách nhiệm đăng ký và chịu trách nhiệm
tính trung thực thông tin, cơ quan có thẩm quyền của Bộ Xây dựng hay các Sở
xây dựng có trách nhiệm tiếp nhận thông tin và cấp cho họ giấy chứng nhận đã
đăng ký năng lực (Thực hiện trên hệ thống mạng). Trên cơ sở đó cơ quan quản
lý nhà nước xem xét, kiểm tra và đăng tải để công bố năng lực. Cách làm này
sẽ đảm bảo rằng tất cả các doanh nghiệp. Chủ đầu tư sẽ kiểm tra tất cả các điều
kiện năng lực của các nhà thầu phù hợp với gói thầu, của các tổ chức đã đăng
ký. Việc này tạo điều kiện để tất cả nhà thầu khi tham gia đấu thầu sẽ không vi
phạm Luật xây dựng.
Sáu là, hoàn thiện các quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực đấu
thầu. Cần cụ thể hóa các quy định về loại tội phạm mạng (tội phạm tấn công
trang web, các cơ sở dữ liệu và phát tán virus và tội phạm lợi dụng môi
trường mạng để ăn cắp, tống tiền và tổ chức hoạt động phạm tội, như đánh
bạc qua mạng, ăn cắp và làm giả thẻ tín dụng,…) trong Bộ luật Hình sự; hoàn
thiện pháp luật về tố tụng để đấu tranh với loại tội phạm này thông qua việc
xây dựng các văn bản dưới luật để kịp thời điều chỉnh các hành vi liên quan
đến tội phạm mạng. Luật An ninh mạng vừa ra đời cũng là một bước tiến
quan trọng nhằm khắc phục vấn đề này. Cần xây dựng các quy định về điều
kiện, về quyền và nghĩa vụ của chủ đầu tư và nhà thầu khi tham gia hệ thống
73
đấu thầu điện tử; xây dựng hệ thống dữ liệu thông tin về nhà thầu làm cơ sở
cho việc thực hiện các hoạt động đấu thầu trên mạng. Cần có quy định hướng
dẫn về quy trình thống nhất, ban hành các biểu mẫu nghiệp vụ để thực hiện
hoạt động đấu thầu qua mạng chi tiết và dễ hiểu hơn nữa. Thực hiện các hoạt
động tuyên truyền, phổ biến, xây dựng cơ chế đào tạo, phối hợp đào tạo nhằm
nâng cao nhận thức, trình độ cho cán bộ trực tiếp tham gia hoạt động đấu thầu
điện tử và khuyến khích nhiều nhà thầu hơn nữa tham gia đấu thầu qua mạng.
3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đấu thầu thi
công các công trình xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách từ thực tiến thị
xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh
3.3.1 Công tác đào tạo nhân lực để năng cao năng lực nhà thầu
Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến năng suất lao
động, tiến độ, giá thành, chất lượng của dự án góp phần quan trọng vào hiệu
quả đầu tư xây dựng. Các doanh nghiệp đều có chung nhận định lực lượng
nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường xây dựng, các
công trình phức tạp, công trình nhà cao trên 67- 70 tầng, công trình ngầm
phức tạp… doanh nghiệp trong nước khó cạnh tranh nổi với nhà thầu nước
ngoài do nguồn nhân lực bao gồm cả cán bộ kỹ thuật lẫn công nhân lành nghề
không đáp ứng khi cạnh tranh đấu thầu. Trong đấu thầu ngoài các tiêu chí như
vốn, kinh nghiệm, thiết bị thì nhân lực là tiêu chí quan trọng bậc nhất, cái yếu
của nhiều nhà thầu hiện nay ngoài kinh nghiệm thì thiếu nguồn nhân lực là
vấn đề đáng lo ngại nhất. Vì vậy ngành xây dựng cần có chiến lược về chính
sách đào tạo nguồn nhân lực theo hướng phù hợp với chế thị trường kết hợp
với cơ chế chính sách lương cho lực lượng cán bộ, kỹ sư, kỹ thuật, cán bộ
lãnh đạo chủ chốt như chỉ huy trưởng công trình, đốc công, kỹ sư trưởng v.v...
3.3.2 Đề nghị thành lập cơ quan quản lý đấu thầu cấp quốc gia
Ở Việt Nam hiện nay, cơ quan chuyên môn quản lý đấu thầu cao nhất
là Vụ Quản lý đấu thầu thuộc Bộ Kế hoạch, Đầu tư giúp Chính phủ quản lý
74
nhà nước về đấu thầu trong cả nước. Tuy nhiên, thực tế, việc quản lý đấu thầu
vẫn giao cho các Bộ, ngành khác thực hiện dẫn đến sự chồng chéo, mâu thuẫn
trong văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật đấu thầu, pháp luật xây dựng,
pháp luật đầu tư…. Trong quá trình thực hiện việc đấu thầu, xảy ra các tranh
chấp thì Cục Quản lý Đầu thầu không phải là cơ quan giải quyết các tranh chấp
này. Bên cạnh đó, Cục Quản lý đấu thầu vừa là cơ quan quản lý về đấu thầu vừa
là cơ quan xét thầu điều này cho thấy không có sự độc lập giữa cơ quan thi hành
pháp luật đấu thầu với cơ quan kiểm tra, giám sát thi hành pháp luật đấu thầu
được tổ chức độc lập với các Bộ, khách quan trong thực thi nhiệm vụ.
3.3.3 Mở rộng và nâng cao chất lượng của đấu thầu qua mạng
Dù đấu thầu qua mạng là hình thức lựa chọn nhà thầu văn minh, hiện
đại, hiệu quả, nhưng nhiều chủ đầu tư, bên mời thầu còn chưa thực sự tự
nguyện tham gia đấu thầu qua mạng, dẫn đến tình trạng cố tình viện dẫn nhiều
lý do để trì hoãn, chưa thực hiện dù lộ trình áp dụng đã được quy định. Với
những lợi ích nhiều mặt mà đấu thầu qua mạng đem lại, trong thời gian tới để
tăng cường, mở rộng, nâng cao hiệu qua của đấu thầu qua mạng cần có những
giải pháp sau đây:
Thứ nhất, mở rộng phạm vi đấu thầu qua mạng bao gồm cả các gói
thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp có giá trị
cao, áp dụng hình thức một giai đoạn hai túi hồ sơ, và tối ưu hóa quy trình lựa
chọn nhà thầu trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia. mẫu hóa trên hệ thống;
hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu của nhà thầu; xây dựng hệ thống cơ sở dữ
liệu liên quan đến các sản phẩm đấu thầu qua mạng…
Thứ hai, tiếp tục chú trọng công tác truyền thông nhằm từng bước thay
đổi thói quen và nhận thức của các bên liên quan về đấu thầu qua mạng gồm:
các cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu, chủ đầu tư, bên mời thầu, nhà
thầu… Đồng thời, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về đấu thầu qua mạng
75
Thứ ba, đảm bảo an ninh mạng và bảo mật đối với các thông tin trên
mạng là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu đối với các chủ đầu tư và
nhà thầu khi tham gia vào hệ thống đấu thầu điện tử. Việc xây dựng các quy
định pháp luật trong đó có các chế tài cụ thể nhằm ngăn chặn sự truy nhập bất
hợp pháp và bảo vệ thông tin trên mạng là một yêu cầu cần thiết và cấp bách
khi triển khai đấu thầu điện tử. Bản chất của đấu thầu điện tử là việc chuyển
từ quy trình thực hiện đấu thầu truyền thống sang thực hiện trên mạng
internet, trong đó các nội dung chủ yếu của quy trình đấu thầu không thay đổi,
chỉ có khác về phương pháp thực hiện. Vì vậy, cần có văn bản pháp luật
hướng dẫn về quy trình thống nhất để việc triển khai thực hiện đấu thầu điện
tử được thông suốt và rõ ràng từ Trung ương đến địa phương
Thứ tư, đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin với lộ trình thích hợp
để đáp ứng yêu cầu tham gia vào hệ thống đấu thầu điện tử. Nâng cao nhận
thức của các chủ đầu tư, ban quản lý dự án về bản chất, vai trò và hình thức
hoạt động của đấu thầu điện tử, đi đôi với việc nâng cao năng lực tài chính
của doanh nghiệp. Phải có chính sách đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực hợp
lý, nhất là nguồn nhân lực trực tiếp tham gia vào hoạt động đấu thầu điện tử.
3.3.4 Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về
đầu tư công, đấu thầu và xây dựng
Các cơ quan, đơn vị quản lý công tác đấu thầu bảo đảm thực hiện tốt
trách nhiệm kiểm tra, giám sát, bảo đảm yêu cầu chất lượng hoạt động đấu
thầu, kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý nghiêm những hành vi vi phạm,
bao gồm: Giám sát, theo dõi việc tuân thủ quy định của pháp luật về đấu thầu
trong quá trình lựa chọn nhà thầu và lựa chọn nhà đầu tư và; kiểm tra việc ban
hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện công tác đấu thầu, phân cấp
trong đấu thầu; kiểm tra đào tạo về đấu thầu; kiểm tra việc lập và phê duyệt
kế hoạch lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư; kiểm tra việc tổ chức lựa chọn nhà
thầu, nhà đầu tư (qua mạng và không qua mạng); ký kết hợp đồng; kiểm tra
76
tình hình thực hiện báo cáo về công tác đấu thầu; kiểm tra việc thực hiện hoạt
động kiểm tra, giám sát, theo dõi về công tác đấu thầu và các hoạt động khác
liên quan đến đấu thầu.
Chú trọng kiểm tra đối với những gói thầu quy mô lớn, phức tạp, các
gói thầu không nằm trong hạn mức nhưng áp dụng chỉ định thầu hoặc các gói
thầu có nhiều kiến nghị, khiếu nại, tố cáo. Trong quá trình kiểm tra, giám sát
cần đặc biệt lưu ý kiểm tra việc công khai thông tin trong đấu thầu theo đúng
quy định của pháp luật về đấu thầu.
Tổ chức các cuộc thanh tra, kiểm tra thường xuyên, chuyên sâu về công
tác đấu thầu. Các cuộc kiểm tra phải đảm bảo yêu cầu, chất lượng, giúp phát
hiện sớm và đầy đủ các vi phạm để đề xuất biện pháp xử lý kịp thời. Đồng
thời, tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát thực hiện các kết luận kiểm tra, đặc
biệt là xử lý các vi phạm.
Thường xuyên nắm bắt các thông tin, phản ánh, kiến nghị về các hành
vi tiêu cực, vi phạm trong đấu thầu để kịp thời xác minh, xử lý. Trường hợp
cần thiết hoặc phát hiện những vi phạm nghiêm trọng cần chủ động đề xuất
các cuộc thanh tra, kiểm tra đột xuất. Căn cứ mức độ vi phạm, đề nghị người
có thẩm quyền áp dụng biện pháp hủy, đình chỉ, không công nhận kết quả lựa
chọn nhà thầu, tuyên bố vô hiệu đối với các quyết định theo đúng quy định
của pháp luật.
Tiểu kết chương 3
Thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời gian tới đòi hỏi phải
hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ và hiệu quả nhằm thúc đẩy kinh tế xã
hội phát triển và hội nhập quốc tế. Việc hoàn thiện pháp luật về đấu thầu, xây
dựng, chi tiêu công trong đó có đấu thầu thi công các công trình xây dựng
bằng vốn ngân sách nhà nước góp phần thực hiện nhiệm vụ đó. Xây dựng và
hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này phải đảm bảo các nguyên tắc như sự
77
thống nhất của hệ thống pháp luật, tính minh bạch, công khai, bình đẳng,
cạnh tranh lành mạnh trong đấu thầu, khắc phục được tình trạng lãng phí,
tham nhũng, tiêu cực trong đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước, đảm bảo hiệu quả của đầu tư công…
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của pháp luật và thực hiện pháp luật
trong đấu thầu thi công các công trình xây dựng bằng vốn ngân sách cần có
những giải pháp đồng bộ khả thi. Đó là hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu
thầu, pháp luật xây dựng, pháp luật về đầu tư công đang còn nhiều bất cập
hiện nay. Bên cạnh đó, về thực tiễn cần có giải pháp mang tính chất tổ chức,
kỹ thuật đảm bảo cho việc đấu thầu phát huy giá trị, ý nghĩa của nó trong bối
cảnh kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
78
KẾT LUẬN
Xây dựng có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển mọi mặt của
đời sống xã hội. Đây cũng là lĩnh vực phức tạp phát sinh nhiều quan hệ khác
nhau đòi hỏi có sự điều chỉnh của pháp luật. Trong bối cảnh kinh tế thị
trường, xây dựng trở thành một lĩnh vực kinh doanh với nhiều chủ thể tham
gia. Để đảm bảo cho thị trường xây dựng phát triển, nhà đầu tư và xã hội có
sản phẩm xây dựng tốt nhất, chi phí thấp nhất, đấu thầu được coi là hình thức
quan trọng trong việc lựa chọn nhà cung cấp sản phẩm xây dựng. Tham gia
vào quan hệ xây dựng, nhà nước là chủ thể quan bởi nhu cầu của nhà nước
trong việc xây dựng các công trình xây dựng là rất lớn. Chính vì vậy, hàng
năm nhà nước ta phải đầu tư số tiền rất lớn cho việc xây dựng các công công
trình xây dựng mà nguồn vốn của nó lấy từ ngân sách nhà nước.
Để đảm bảo cho hoạt động xây dựng các công trình có nguồn vốn ngân sách
nhà nước được thực hiện trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, khách
quan trên cơ sở đó nhà nước với tư cách chủ đẩu tư lựa chọn được nhà thầu
tốt nhất cần có hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất và đòi thực tiễn thực
hiện nghiêm chỉnh pháp luật đó.
Ở Việt Nam, đấu thầu xây dựng là một lĩnh vực mới mẻ nhưng đã được
áp dụng phổ biến do sự ưu việt mà nó mang lại. Mặc dù phát triển nhanh
chóng, song trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những sai lầm, có
những vi phạm xuất hiện ngày càng đa dạng, tinh vi mà pháp luật về đấu thầu
xây dựng chưa đủ sức ngăn ngừa, khống chế, gây nên những thất thoát lớn về
ngân sách cho Nhà nước, làm cho đấu thầu xây dựng trở nên méo mó đi, làm
mất tính cạnh tranh giữa các nhà thầu, không đem lại được hiệu quả thực sự
như sự chờ đợi của các nhà lập pháp. Hệ thống pháp luật về đấu thầu xây
dựng được hoàn thiện chính là tiền đề để xây dựng và các hoạt động khác của
nền kinh tế đạt hiệu quả cao, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất các tiêu
cực có thể xảy ra. Với cái nhìn tổng quan về thực trạng hoạt động đấu thầu
79
xây dựng, và qua nghiên cứu tìm hiểu, nhà nước, các nhà lập pháp sẽ đưa ra
những chính sách và quy định phù hợp tiến tới hoàn thiện khung pháp luật về
đấu thầu xây dựng. Với những thành tựu đã đạt được trong thực tế cùng với
những nỗ lực hết mình hoạt động đấu thầu xây dựng sẽ có những bước tiến
trong tương lai, trong bối cảnh mở cửa và hội nhập Quốc tế.
80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Lương Xuân Cường, Cơ chế thị trường và vai trò của Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường Việt nam, NXB Thống kê, Hà nội 2004.
2. PGS. TS. Trần Đình Hảo (2000), Nhà nước pháp quyền và kinh tế
thị trường ở Việt nam, Báo cáo khoa học tại hội thảo khoa học Nhà
nước và pháp quyền trong bối cảnh Việt Nam do Viện Nhà nước và
pháp luật tổ chức 11/9/2000 tại Hà nội
3. Nguyễn Thị Thu Hằng: Đấu thầu xây lắp trong lĩnh vực xây dựng
theo pháp luật Việt Nam hiện nay, bảo vệ năm 2004 tại Viện Nhà
nước và Pháp luật.
4. PGS. TS. Nguyễn Như Phát: Tiến tới xây dựng pháp luật cạnh tranh
trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt nam, NXB
Công an nhân dân năm 2001.
5. Nguyễn Thị Xuân Thủy (2011), Báo cáo, Thực trạng đấu thầu ở
Việt Nam- Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, Hà Nội.
6. Luật Đấu thầu 2005.
7. Luật Xây dựng 2003.
8. Luật Đấu thầu 2013.
9. Luật Xây dựng 2014.
10. Nghị định 63/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật Đấu thầu về lựa chọn
nhà thầu
11. Thông tư 03/2015/TT-BKHĐT Quy định chi tiết lập hồ sơ mời
thầu xây lắp