ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ DIỆU THÚY
DẠY HỌC TRUYỆN CỔ TÍCH CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ THEO HƢỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN
HÀ NỘI - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ DIỆU THÚY
DẠY HỌC TRUYỆN CỔ TÍCH CHƢƠNG TRÌNH NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ THEO HƢỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC
Mã số: 8140111
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN KHÁNH THÀNH
HÀ NỘI - 2017
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, ngoài sự nỗ lực học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu
của bản thân là sự tận tình giảng dạy, hƣớng dẫn của các thầy cô giáo trƣờng
Đại học Giáo dục - Đại Học Quốc gia Hà Nội. Tác giả xin trân trọng cảm ơn
các thầy cô giáo và cán bộ viên chức của trƣờng Đại học Giáo dục - Đại Học
Quốc gia Hà Nội, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho bản thân đƣợc học tập,
nghiên cứu và hoàn thành khóa học.
Đặc biệt tác giả xin đƣợc bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến
thầy giáo PGS.TS.Trần Khánh Thành, ngƣời đã đã tận tình hƣớng dẫn khoa
học, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các bạn đồng nghiệp trƣờng Trung học
cơ sở Cầu Giấy, Cầu Giấy đã động viên, cộng tác và nhiệt tình giúp đỡ tác giả
trong quá trình điều tra, nghiên cứu, kiểm chứng kết quả nghiên cứu để hoàn
thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 10 năm 2017
Tác giả luận văn
i
Nguyễn Thị Diệu Thúy
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Viết tắt Chữ viết đầy đủ
Đối chứng ĐC 1
Giáo viên GV 2
Học sinh HS 3
4 KGNT Không gian nghệ thuật
6 PPDH Phƣơng pháp dạy học
Powerpoint PP 7
Thực nghiệm TN 8
9 THCS Trung học cơ sở
Trang Tr 11
ii
12 VHDH Văn học dân gian
MỤC LỤC
Lời cảm ơn ..................................................................................................... i
Danh mục ký hiệu, các chữ viết tắt .............................................................. ii
Danh mục các bảng, biểu đồ ........................................................................ v
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI .......... 12
1.1. Cơ sở lí luận ......................................................................................... 12
1.1.1. Một số vấn đề về thi pháp và thi pháp học .................................. 12
1.1.2. Phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận thi pháp ................... 17
1.1.3. Một số quan niệm về khái niệm thi pháp truyện cổ tích ............... 20
1.1.4. Phân loại truyện cổ tích .............................................................. 23
1.1.5. Đặc điểm thi pháp truyện cổ tích ................................................ 24
1.2. Cơ sở thực tiễn ..................................................................................... 38
1.2.1. Vai trò của Truyện cổ tích trong chương trình Ngữ Văn THCS ....... 38
1.2.2. Thực trạng dạy và học VHDG và truyện cổ tích trong chương
trình Ngữ Văn THCS ............................................................................ 40
Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................... 45
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC TRUYỆN CỔ TÍCH
BẬC TRUNG HỌC CƠ SỞ THEO HƢỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP ...........46
2.1. Dạy - học truyện cổ tích qua biện pháp so sánh ................................. 47
2.2. Dạy - học truyện cổ tích qua biện pháp đọc sáng tạo ........................ 52
2.2.1. Đọc diễn cảm .............................................................................. 54
2.2.2. Đọc phân vai hoặc nhập vai ....................................................... 57
2.3. Dạy - học truyện cổ tích qua biện pháp học trải nghiệm ................... 59
2.3.1. Xây dựng các câu hỏi gợi cảm xúc, khơi gợi trí tưởng tượng
của HS .................................................................................................. 62
2.3.2. Sắm vai ....................................................................................... 63
iii
2.3.3. Trò chơi ...................................................................................... 64
2.3.4. Các hoạt động ngoại khóa .......................................................... 71
2.4. Dạy - học truyện cổ tích qua các hệ thống bài tập ............................. 73
2.4.1. Kể sáng tạo ................................................................................. 74
2.4.2. Viết tiếp câu chuyện hoặc viết lại truyện ..................................... 74
2.4.3. Vẽ tranh minh họa truyện ........................................................... 75
Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................... 75
CHƢƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM .............................................. 76
3.1. Những vấn đề chung ............................................................................ 76
3.1.1. Mục đích thực nghiệm................................................................. 76
3.1.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm .............................. 77
3.1.3. Nội dung thực nghiệm ................................................................. 77
3.2. Tiến trình và kết quả thực nghiệm ..................................................... 78
3.2.1. Tiến trình thực nghiệm ................................................................ 78
3.2.2. Kết quả thực nghiệm ................................................................... 91
Tiểu kết chƣơng 3 ....................................................................................... 97
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................. 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 100
iv
PHỤ LỤC ................................................................................................. 104
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 1.1. Thống kê đơn vị bài học truyện cổ tích trong chƣơng trình
tiểu học ................................................................................... 38
Bảng 1.2. Thống kê đơn vị bài học truyện cổ tích trong chƣơng trình
Ngữ Văn THCS ...................................................................... 39
Bảng 3.1. Tổng hợp kết quả (tính ra %) của lớp thực nghiệm và lớp
đối chứng ................................................................................ 94
Biểu đồ 3.1. Biểu đồ so sánh kết quả kiểm tra 15 phút ................................ 95
v
Biểu đồ 3.2. Biểu đồ so sánh kết quả kiểm tra 45 phút ................................ 95
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự
phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Nelson Mandela, vị anh hùng giải phóng
dân tộc Nam Phi từng nói "Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà bạn có thể dùng
để thay đổi thế giới". Giáo dục đào tạo đang trở thành yếu tố quyết định và là
lĩnh vực ƣu tiên hàng đầu trong chính sách phát triển của mỗi quốc gia. Việt
Nam cũng không năm ngoài xu hƣớng đó đặc biệt trong giai đoạn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, trƣớc xu thế hội nhập toàn cầu, Đảng và
nhà nƣớc ta càng hiểu rõ vai trò của giáo dục và luôn chú trọng đến giáo dục,
xem “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, là mối quan tâm của toàn xã hội nhằm
“ Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dƣỡng nhân tài”.
1.2. Cùng với các bộ môn khác, Ngữ Văn là một môn học quan trọng và
luôn đƣợc đề cao. Văn học không chỉ cung cấp kiến thức cho học sinh mà nó
còn là nguồn năng lƣợng tinh thần lớn lao, có ý nghĩa cổ vũ và tiếp sức cho con
ngƣời trong cuộc sống. Văn học gần gũi nhƣ hơi thở cuộc đời. Nó không chỉ
đem lại cho con ngƣời sự hiểu biết, sự thoả mãn nhu cầu thẩm mĩ, mà còn góp
phần hƣớng con ngƣời đến sự hoàn thiện nhân cách. Tuy nhiên trong những
năm gần đây có một thực trạng đáng buồn là nhiều học sinh không thích học
văn và kết quả thi của môn văn không cao. Có rất nhiều nguyên nhân đƣợc đƣa
ra tìm hiểu và xem xét trong đó có vấn đề đổi mới phƣơng pháp dạy học từ
phía ngƣời dạy. Dạy học không mang tính một chiều, ngƣời dạy không chỉ là
ngƣời truyền thụ kiến thức mà bằng việc sử dụng các các hình thức dạy học
phù hợp, đa dạng để chỉ dẫn, khơi gợi hứng thú giúp HS chủ động, tích cực
trong mỗi giờ học, từ đó giúp HS biết tiếp nhận văn chƣơng một cách sáng tạo,
bồi dƣỡng năng lực tƣ duy văn học, tƣ duy thẩm mĩ.
1.3. Truyện cổ tích là một thể loại văn học dân gian có vai trò rất lớn
1
trong việc hình thành nhân cách trẻ bởi mỗi câu chuyện cổ tích nhƣ một lát
cắt cuộc đời, ẩn chứa bài học nhân sinh ý nghĩa với cái thiện, cái ác rạch ròi.
Vì thế, thông qua các câu chuyện cổ tích, HS có thể học đƣợc những điều hay
lẽ phải, phát triển cảm xúc thẩm mĩ và phát huy trí tƣởng tƣợng, đồng thời
giúp trẻ tìm tòi lẽ sống, làm phong phú tình cảm, đem đến những niềm vui, từ
đó giáo dục thế hệ trẻ biết sống tốt hơn, nhân ái hơn, sống đẹp, biết hƣớng
thiện, tránh làm điều ác, hình thành quan niệm sống đúng đắn, tích cực… -
một trong những mục đích chính của giáo dục học sinh ở bậc THCS. Truyện
cổ tích có những đặc điểm chung của VHDG nhƣng cũng có những đặc trƣng
thi pháp riêng.Tuy nhiên, trƣớc đây, để phù hợp với yêu cầu giảng dạy tác
phẩm tự sự nói chung, tác phẩm tự sự dân gian nói riêng theo thể loại, hầu hết
câu hỏi hƣớng dẫn học bài trong sách giáo khoa đều chủ yếu yêu cầu học sinh
tìm hiểu các chi tiết và phân tích. Trong giờ dạy học văn, ngƣời giáo viên chủ
yếu định hƣớng cho học sinh tìm hiểu các yếu tố của tác phẩm là nhân vật,
một số yếu tố (biện pháp) nghệ thuật mà chƣa xuất hiện các kiến thức về thi
pháp. Chính vì vậy, kiến thức về thi pháp đƣợc áp dụng vào giảng dạy tác
phẩm tự sự nói chung, truyện cổ tích nói riêng trong nhà trƣờng THCS vẫn
còn ở trong chừng mực nên chƣa khơi gợi đƣợc sự hứng thú, niềm đam mê
với truyện cổ tích ở HS. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi rất mong
muốn cái tiến phƣơng pháp dạy học và khơi gợi đƣợc niềm say mê truyện cổ
tích trong mỗi HS.
1.4. Trong số các truyện cổ tích HS đƣợc học ở bậc THCS, Thạch Sanh
là một trong những truyện cổ tích dũng sĩ nổi bật nhất, gần gũi với HS nhất.
Nghiên cứu truyện Thạch Sanh không chỉ giúp tôi hiểu rõ đƣợc những giá trị
nội dung, giá trị thẩm mĩ của tác phẩm mà còn thông tỏ nhiều vấn đề quan
trọng có tính chất đặc trƣng của thể loại cổ tích vì đây là một trong những tác
phẩm có đầy đủ đặc trƣng thi pháp thể loại cũng nhƣ có ý nghĩa giáo dục sâu
sắc. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu khác chủ yếu đi sâu vào khai thác
nội dung, các tính chất đặc trƣng của truyện mà chƣa đi sâu vào việc vận dụng
2
các phƣơng pháp giảng dạy tác phẩm này theo hƣớng tiếp cận thi pháp đặc
biệt là thi pháp thể loại. Đó chính là điều thôi thúc tôi trong số những tiết dạy
cổ tích, lựa chọn truyện Thạch Sanh làm tiết dạy mẫu để khảo nghiệm những
ứng dụng từ phƣơng pháp nghiên cứu mà đề tài đƣa ra cũng nhƣ thực hiện đề
tài nghiên cứu này.
Xuất phát từ những yêu cầu của xã hội, từ việc đổi mới phƣơng pháp
dạy học cũng nhƣ qua thực tiễn giảng dạy, tôi chọn đề tài Dạy học truyện cổ
tích chương trình Ngữ Văn Trung học cơ sở theo hướng tiếp cận thi pháp.
Với đề tài này, tôi hy vọng góp một phần nhỏ vào đổi mới phƣơng pháp dạy
học Ngữ văn cũng nhƣ cung cấp một số ứng dụng mang tính chất định hƣớng
giúp giáo viên và học sinh có cái nhìn khái quát hơn, sâu sắc hơn khi dạy và
học truyện cổ tích để góp phần tạo nên sự yêu thích, hứng thú, phát huy trí
tƣởng tƣợng của học sinh thông qua học truyện cổ tích ở chƣơng trình Ngữ
Văn THCS trong đó chú trọng là truyện cổ tích Ngữ Văn lớp 6.
2. Lịch sử nghiên cứu
Với đề tài Dạy học truyện cổ tích chương trình Ngữ Văn Trung học cơ
sở theo hướng tiếp cận thi pháp, qua tìm hiểu, chúng tôi thấy rằng có rất
nhiều các công trình nghiên cứu, các giáo trình, chuyên luận, sách chuyên
khảo, tài liệu hƣớng dẫn giảng dạy, bồi dƣỡng giáo viên thƣờng xuyên và
nhiều bài báo đƣợc đăng trên các tạp chí… lần lƣợt công bố từ trƣớc tới nay.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ một bài luận văn và với thời gian tìm hiểu nhất
định, chúng tôi chỉ điểm qua một số công trình nghiên cứu lịch sử vấn đề theo
hai hƣớng chính sau
Thứ nhất: tìm hiểu những phƣơng pháp giảng dạy VHDG và TCT trong
nhà trƣờng
Thứ hai: tìm hiểu những tài liệu nghiên cứu TCT và những tài liệu
nghiên cứu truyện Thạch Sanh ở Việt Nam.
2.1. Một số công trình nghiên cứu về phương pháp giảng dạyVHDG
và TCT trong nhà trường
3
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về PPDH nói chung, VHDG là một
bộ phận văn học phong phú cả nội dung lẫn thể loại vì thế, các công trình sƣu
tầm, biên soạn và nghiên cứu về nó nói chung khá đồ sộ. Trong đề tài này,
ngƣời viết chỉ chú ý đến các công trình nghiên cứu về giảng dạy VHDG và
TCT trong nhà trƣờng.
Quyển Mấy vấn đề phương pháp giảng dạy nghiên cứu VHDG (1983),
Hoàng Tiến Tựu đã cung cấp nhiều cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu và giảng
dạy bộ phận văn học này. Tác giả đề cập đến đối tƣợng nghiên cứu và vấn đề
giảng văn tác phẩm VHDG. Ngoài ra còn đề cập các vấn đề liên quan đến
phƣơng pháp nghiên cứu và giảng dạy nhƣ: các thuộc tính; vấn đề phân kì,
phân loại và phân vùng VHDG.
Nguyễn Xuân Lạc, tác giả bài viết Đổi mới cách dạy và học VHDG ở
trường phổ thông (1990), tạp chí Văn hóa dân gian số 3, đã nhấn mạnh đến
tinh thần phôn-clo trong giảng dạy VHDG, tức là không chỉ lƣu ý mặt ngôn từ
trên văn bản mà còn cần lƣu ý đến đời sống của tác phẩm trong nhân dân ta
qua không gian và thời gian, qua các phƣơng thức diễn xƣớng.
Tăng Kim Ngân đóng góp cho phƣơng pháp dạy VHDG bằng sự phân
biệt nét khác nhau giữa VHDG và văn học viết qua bài Khái niệm cốt truyện
và sự phân biệt giữa cốt truyện của tác phẩm văn học thành văn với cốt
truyện trong truyện kể dân gian (1991), tạp chí Văn hóa dân gian số 3.
Trong Phân tích tác phẩm VHDG (1995), Đỗ Bình Trị đã đi sâu vào
bản chất và đặc trƣng của VHDG, từ đó đƣa ra những vấn đề về phân tích tác
phẩm theo quan điểm khoa học. Ngoài ra tác giả còn đề cập đến thể loại và
đặc trƣng thể loại và phân tích tác phẩm VHDG theo thể loại.
Tác giả Nguyễn Xuân Lạc với VHDG trong nhà trường (1998), đã miêu
tả chi tiết về chƣơng trình VHDG trong trƣờng THCS và THPT, thống kê từng
văn bản cụ thể trong chƣơng trình sau đó đặt vấn đề đổi mới giảng dạy.
Hoàng Tiến Tựu trong quyển Mấy vấn đề phương pháp giảng dạy –
nghiên cứu văn học dân gian, NXBGD, năm 1997, đã tập trung đƣa ra những
4
vấn đề có liên quan đến việc giảng dạy VHDG. Công trình này gồm bảy
chƣơng, trong đó ba chƣơng đầu bàn về những lí luận chung, chƣơng tiếp
theo dành riêng cho việc nghiên cứu và giảng dạy ca dao, một chƣơng bàn về
tục ngữ, một chƣơng viết về truyện dân gian. Đây là một tài liệu rất hữu ích
trong việc phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu VHDG của GV và sinh
viên ngành Ngữ Văn.
Tác giả Bùi Mạnh Nhị với quyển Phân tích tác phẩm văn học dân gian
cũng đã bàn đến thể loại và tác phẩm của VHDG để giúp GV và HS khai thác
đúng giá trị mà VHDG mang lại. Đây là những định hƣớng cơ bản giúp nguời
dạy định hƣớng và lựa chọn đƣợc phƣơng pháp giảng dạy thích hợp với thể
loại qua những bài dạy cụ thể.
Nguyễn Viết Chữ với quyển Giảng dạy tác phẩm theo đặc trưng thể
loại cũng đã trình bày cách phân biệt “chất” trong “thể” và đƣa ra các biện
pháp dạy học theo đặc trung từng thể loại. Mặt khác quyển sách còn hệ thống
các phƣơng pháp, biện pháp, câu hỏi, các cách thức, chiến thuật…, nhằm góp
them tiếng nói về việc vận dụng các phuơng pháp dạy học tác phẩm vào các
thể loại cụ thể trong nhà truờng.
Cuốn sách Mấy vấn đề về phương pháp giảng dạy, nghiên cứu VHDG
(Hoàng Tiến Tựu) tập trung vào những vấn đề về phƣơng pháp giảng dạy
VHDG đang đƣợc đặt ra trong nhà trƣờng. Những vấn đề này chỉ đƣợc chú ý
đề cập đến trong chừng mực cần thiết và có lợi cho việc trình bày và giải
quyết những vấn đề phƣơng pháp giảng dạy VHDG.
Nguyễn Xuân Lạc qua quyển Văn học dân gian Việt Nam trong nhà
trường – NXBGD, năm 1988 cũng có một đóng góp không nhỏ trong việc
giúp GV và HS trong việc tìm hiểu về VHDG. Đây là một công trình nghiên
cứu rất cần thiết cho GV dạy văn tại các trƣờng hiện nay bởi nó mang tính
thiết thực rất cao. Trong đó, tác giả đề cập đến phƣơng pháp dạy học VHDG
theo thi pháp thể loại. Quyển sách bao gồm ba phần chính và phần phụ lục. Ở
phần I (tiểu luận), tác giả nhìn nhận VHDG trong tổng thể văn hóa dân gian
5
Việt Nam, trong nền văn học dân tộc và trong chƣơng trình văn học ở trƣờng
phổ thông. Dựa trên cơ sỏ đó, tác giả cũng đề xuất cách tiếp cận và phƣơng
pháp dạy học theo quan điểm thi pháp học về những thể loại chủ yếu đƣợc
dùng trong nhà trƣờng.
2.2. Một số nghiên cứu về TCT và Thạch Sanh ở Việt Nam
2.2.1. Một số nghiên cứu về TCT ở Việt Nam
Từ đầu thế kỉ XX đến nay, VHDG trong đó có thể loại truyện cổ tích là
đối tƣợng nghiên cứu tích cực của nhiều nhà khoa học trong nƣớc. Nhắc đến
nhà cổ tích học có tên tuổi ở nƣớc ta không thể không kể tới Nguyễn Đổng
Chi, Đinh Gia Khánh, Cao Huy Đỉnh, Chu Xuân Diên, Hoàng Tiến Tựu, Lê
Chí Quế, Nguyễn Xuân Đức…với rất nhiều các công trình nghiên cứu.
Một trong những công trình nghiên cứu có rất nhiều kiến thức văn hóa
dân gian và ý nghĩa rất lớn đối với công việc nghiên cứu VHDG của GV và
sinh viên ngành Ngữ Văn là cuốn Văn học dân gian Việt Nam do Đinh Gia
Khánh (chủ biên), Chu Xuân Diên, Vũ Quang Nhơn (biên soạn) – NXBGD,
năm 1996. Bằng phƣơng pháp so sánh, các tác giả của cuốn sách đó đã làm
nổi bật những đặc điểm cơ bản của truyện cổ tích trên phƣơng diện cấu trúc
và phân biệt nó với một số thể loại khác nhƣ thần thoại, truyện cƣời và truyện
ngụ ngôn (trong cuốn giáo trình này, các soạn giả không thừa nhận truyền
thuyết là một thể loại của loại hình tự sự dân gian). So sánh truyện cổ tích với
thể loại ra đời trƣớc nó, các tác giả cho rằng: “Thần thoại hấp dẫn chúng ta
bằng những hình tƣợng mĩ lệ và táo bạo vì nội dung chất phác nhƣng kỳ vĩ
của sự tích. Truyện cổ tích lôi cuốn chúng ta vào những nỗi niềm vui khổ, vào
không khí đấu tranh chống cƣờng quyền của những con ngƣời bị áp bức. Hai
thể loại, hai tính chất, hai cách tác động đến ý thức thẩm mĩ…” [22, tr. 296].
Hoàng Tiến Tựu trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam, tập 2, cũng đã
“phân biệt truyện cổ tích với các loại truyện dân gian khác” và làm sáng tỏ
đặc điểm của ba tiểu loại trong thể loại này. Theo tác giả: “Ở truyện cổ tích
thần kì, cái thần kì phải giữ vai trò chủ yếu trong việc tham gia giải quyết các
6
xung đột, mâu thuẫn trong truyện, còn cổ tích sinh hoạt thì ngƣợc lại, các yếu
tố thần kỳ chỉ giữ vai trò thứ yếu và nhiều khi chỉ là “cái đƣờng viền” của
truyện” [48, tr.49].
Trong chuyên luận Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, tác
giả Cao Huy Đỉnh đã tái hiện quá trình phát triển của lịch sử dân tộc ta qua
việc đối chiếu so sánh một số truyện cổ tích nhƣ: Trầu cau, Nàng Tô Thị, Tấm
Cám, Cây khế, Sọ Dừa, Vọ chàng Trương. Sự đối chiếu đó đƣợc trình bày
trong chƣơng ba của cuốn sách với tiêu đề: “Tinh thần phê phán xã hội và lý
tƣởng dân chủ - nhân đạo trong truyện cổ và các thể tài khác nhau ở giai đoạn
đầu của chế độ phong kiến” [10, tr.183].
Tác giả Đỗ Bình Trị trong Những đặc điểm thi pháp của thể loại
VHDG đã đi sâu vào nghiên cứu các đặc điểm về thi pháp thể loại. Trong
công trình nghiên cứu này tác giả đã nghiên cứu kỹ vấn đề thể loại, đặc biệt đi
sâu vào thể loại VHDG. Song, tác giả chƣa đƣa ra phƣơng pháp giảng dạy các
thể loại ấy một cách cụ thể, rõ ràng.
Đáng kể nhất là cuốn sách với tiêu đề Văn hóa dân gian mấy vấn đề
phương pháp luận và nghiên cứu thể loại của Chu Xuân Diên. Cuốn sách này
là sự tập hợp có hệ thống các bài nghiên cứu của tác giả đã công bố trong các
tạp chí chuyên ngành trong các kỷ yếu hội thảo khoa học… Trong đó có ba
bài liên quan trực tiếp tới phƣơng pháp phân tích truyện cổ tích nói chung và
một số truyện trong chƣơng trình môn văn ở nhà trƣờng nói riêng. Đó là các
bài: Về phương pháp so sánh trong khoa học nghiên cứu văn học dân gian,
Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học. Trong bài Truyện cổ tích dưới mắt
các nhà khoa học, Chu Xuân Diên đã xem xét, đánh giá công phu cách tiếp
cận truyện cổ tích của các nhà cổ tích học nổi tiếng trên thế giới và Việt Nam
nhƣ V. Tavrov (Nga), S.Thompson (Ấn Độ), Hirokoo Ikeda (Nhật Bản) và
Nguyễn Đổng Chi, Đinh Gia Khánh, Cao Huy Đỉnh… (Việt Nam). Ở bài viết
này, tác giả đánh giá một cách thỏa đáng cách phân tích truyện cổ tích của
Đinh Gia Khánh và Nguyễn Đổng Chi với thái độ khen chê đúng mức: “Đứng
7
về mặt phƣơng pháp, công trình nghiên cứu của Đinh Gia Khánh có khuynh
hƣớng sử dụng nhiều những nguyên tắc của khoa học nghiên cứu, khoa học
thành văn. Còn trong công trình của Nguyễn Đổng Chi, phƣơng pháp sử học
đã nhiều khi làm tác giả xa rời bản chất của truyện cổ tích, nhất là về mối
quan hệ của truyện cổ tích với thực tại” [7, tr.374]. Các bài viết trong công
trình của Chu Xuân Diên không dừng lại ở phƣơng pháp phân tích truyện cổ
tích mà còn nêu lên đƣợc những vấn đề có ý nghĩa phƣơng pháp luận, đúng
nhƣ tiêu đề của cuốn sách. Đây là công trình quan trọng và bổ ích cho những
ai quan tâm tới việc nhiệm vụ, giảng dạy truyện cổ tích.
Trƣớc chuyên luận của Chu Xuân Diên, nhà nghiên cứu Nguyễn Tấn
Đắc cho xuất bản cuốn Truyện kể dân gian đọc bằng TYPE và MOTIF. Nội
dung cuốn sách này tập trung trình bày hƣớng phân tích truyện kể dân gian
mà chủ yếu là truyện cổ tích bằng phƣơng pháp đối sánh TYPE và MOTIF.
Nhắc đến các nghiên cứu về truyện cổ tích mà không nhắc đến bộ sách
này thì quả thực là một điều sơ suất. Đây là một bộ sách đã trở nên quen
thuộc với thế hệ bạn đọc Việt Nam -một tài liệu tham khảo cho những bạn
yêu truyền thống văn học của dân tộc - bộ sách Kho tàng truyện cổ tích Việt
Nam của Nguyễn Đổng Chi. Đây là tác phẩm gồm 5 tập, tập hợp đƣợc nhiều
truyện cổ tích Việt Nam đƣợc ông sƣu tập và viết từ 1958 - 1982, chƣa kể
khoảng 20 năm trƣớc đó tích lũy tƣ liệu và nghiền ngẫm cũng nhƣ sau này tái
bản bổ sung. Giới học thuật đánh giá bộ truyện này với đóng góp của học giả
- nhà văn Nguyễn Đổng Chi sánh ngang với công lao của anh em nhà Grimn
(Đức), A.N.Afanassiev (Nga), H.C.Andersen (Đan Mạch) và của Pourrat
(Pháp). Bộ sách gồm có ba phần: Phần đầu, tìm hiểu một ít nét về bản chất, lai
lịch và lịch sử phát triển của truyện cổ nói chung và cổ tích nói riêng. Phần
thứ hai, chiếm một khoảng rất lớn trong bộ sách là những truyện cổ tích Việt-
nam đã chọn lọc và sắp đặt theo một hệ thống riêng. Phần cuối là những nhận
xét sơ bộ về đặc điểm tƣ tƣởng, nghệ thuật, qua đây tạm đánh giá tổng quát
truyện cổ tích Việt Nam.
8
Ngoài các công trình nghiên cứu nêu trên, có rất nhiều bài viết về
truyện dân gian và truyện cổ tích cũng rất đáng lƣu tâm nhƣ: bài viết một số
vấn đề lý thuyết chung về mối quan hệ văn học dân gian - văn học viết của tác
giả Lê Kinh Khiên, Mấy ý kiến về vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa văn
học với văn học dân gian của Đỗ Bình Trị, Một số vấn đề lý luận về nghiên
cứu cấu trúc truyện cổ tích thần kỳ của Phạm Tuấn Anh. Bài báo Những cố
gắng tìm tòi trong việc đổi mới phương pháp nghiên cứu truyện cổ tích và 50
năm ngành cổ tích học Việt Nam của Nguyễn Thị Huế…
Nhƣ vậy, trong việc tiếp cận truyện cổ tích nói chung ở nƣớc ta từ
trƣớc tới nay đã hình thành và phát triển khá nhiều xu hƣớng. Trong đó nổi
bật vẫn là cách tiếp cận bằng phƣơng pháp so sánh loại hình; từ góc độ
phƣơng pháp học, Folkore học và theo đặc trƣng thể loại. Các cách tiếp cận
đó đều có những ƣu điểm và nhƣợc điểm, những ƣu thế và hạn chế nhƣ
Chu Xuân Diên đã chỉ ra.
2.2.2. Một số nghiên cứu về truyện Thạch Sanh
Đã có nhiều nghiên cứu ít nhiều có chạm đến vấn đề tiếp cận thi pháp
đặc biệt là thi pháp thể loại truyện Thạch Sanh nhƣ các công trình nghiên cứu
trong nƣớc tiêu biểu nhƣ cuốn Khảo luận về truyện Thạch Sanh của Hoa Bằng
(1957). Tập khảo luận gồm ba phần: Phần 1: Giới thiệu mấy bản khác nhau và
tóm tắt cốt truyện Thạch Sanh. Phần II: Trình bày nguyên căn truyện Thạch
Sanh. Phần ba là phụ lục. Đây là một nguồn tƣ liệu quý báu giúp cho ngƣời
dạy tìm hiểu rõ hơn về nguồn gốc truyện Thạch Sanh cũng nhƣ so sánh, đối
chiếu các dị bản.
Một cuốn sách nữa cũng chủ yếu đi tìm hiểu các dị bản và một số đặc
điểm cơ bản của truyện Thạch Sanh là cuốn Truyện Thạch Sanh của Hoàng
Tuấn Phổ giới thiệu với ba phần: 1. Giới thiệu truyện Thạch Sanh; 2. Truyện
Thạch Sanh; 3. Phụ lục. Nhƣng nêu lên gần nhƣ đầy đủ nhất là luận án Thạch
Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á của
Nguyễn Thị Bích Hà. Trên cơ sở khảo sát nguồn gốc và diễn hoá của một số
9
mô tuýp nổi bật của truyện Thạch Sanh, tác giả tiến hành khảo sát nguồn gốc
và diễn biến của một số mô tuýp nổi bật của truyện Thạch Sanh; xác định các
tiểu loại truyện Thạch Sanh ở Việt Nam và so sánh truyện Thạch Sanh với
những truyện cùng kiểu ở Việt Nam và Đông Nam Á. Công trình này đóng
vai trò nhƣ một tài liệu hƣớng dẫn trực tiếp cho cách thức thực hiện đề tài
luận văn của tôi.
Tiểu kết: Điểm qua các công trình nghiên cứu về TCT và Thạch Sanh,
tôi thấy trên đây đều là những nghiên cứu chuyên sâu nhƣng chƣa chú ý đến
ứng dụng trong giảng dạy nhƣ một phƣơng pháp. Vì thế, đó là khoảng trống
để tôi tiếp tục tìm hiểu và nghiên cứu. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu
về TCT và Thạch Sanh cũng nhƣ các công trình nghiên cứu về PPDH Văn, từ
dạy học văn theo loại thể cho đến vấn đề vai trò chủ thể đối với tiếp nhận,
cảm thụ văn học trong nhà trƣờng và ngoài nhà trƣờng sẽ là những tƣ liệu quý
giúp tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn giảng dạy truyện cổ tích
trong chƣơng trình Ngữ Văn Trung học cơ sở theo hƣớng tiếp cận thi pháp để
từ đó đƣa ra các phƣơng pháp dạy học có tính khả thi, hiệu quả trong việc dạy
học truyện cổ tích theo hƣớng tiếp cận thi pháp ở chƣơng trinh Ngữ Văn
Trung học cơ sở nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học truyện cổ tích ở bậc học
này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn hƣớng đến và làm rõ những vấn đề sau:
+ Tìm hiểu và khái quát những vấn đề lí luận cơ bản về thi pháp.
+ Nghiên cứu chuyên sâu những ƣu thế và tính khả thi của việc vận
dụng lí thuyết thi pháp trong dạy học truyện cổ tích ở bậc THCS để từ đó đề
xuất một quy trình, cách thức tổ chức hoạt động dạy học và thử nghiệm vận
dụng thực tế giảng dạy.
10
+ Thực nghiệm sƣ phạm để kiểm chứng tính phù hợp, hiệu quả của
những đề xuất và quy trình dạy học truyện cổ tích theo hƣớng tiếp cận thi
pháp ở bậc THCS qua dạy học văn bản Thạch Sanh.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
- Vấn đề dạy học truyện cổ tích theo hƣớng tiếp cận thi pháp ở bậc THCS.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: văn bản Thạch Sanh
- Phạm vi khảo sát: học sinh lớp 6 trƣờng THCS Cầu Giấy.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu: tham khảo tài liệu, sách, bài báo đề
cập tới vấn đề nghiên cứu.
- Phƣơng pháp điều tra phỏng vấn: phỏng vấn giáo viên và học sinh để
thu thập ý kiến về việc sử dụng phƣơng pháp dạy học Ngữ văn hiện tại đang
đƣợc sử dụng.
- Phƣơng pháp thống kê: thống kê kết quả khảo sát nhằm đƣa ra kết
luận xác thực nhất về thực trạng dạy học truyện cổ tích ở trƣờng THCS, làm
cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng đề tài.
- Phƣơng pháp liên ngành: vận dụng kiến thức của các ngành khoa học
kế cận: lí luận văn học, tâm lí học… có liên quan đến quá trình đổi mới
phƣơng pháp dạy học văn, góp phần tạo tiền đề lí luận vững chắc cho đề tài.
- Phƣơng pháp thực nghiệm: xây dựng quy trình tổ chức vận dụng lí
thuyết thi pháp truyện cổ tích dạy học văn bản Thạch Sanh và vận dụng soạn
giáo án, thực nghiệm giảng dạy để kiểm tra tính khả thi của phƣơng pháp dạy
học cho phần kiến thức này.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn có kết cấu gồm có 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Đề xuất một số biện pháp dạy học truyện cổ tích theo hƣớng
tiếp cận thi pháp trong chƣơng trình Ngữ văn Trung học cơ sở
11
Chương 3: Thực nghiệm sƣ phạm.
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số vấn đề về thi pháp và thi pháp học
* Vài nét về thi pháp và thi pháp học
Trong số các ngành nghiên cứu văn học, thi pháp học là bộ môn cổ
xƣa nhất và có ảnh hƣởng rất lớn. Thuật ngữ thi pháp và thi pháp học xuất
hiện từ hàng ngàn năm trƣớc nhƣng theo tiến trình lịch sử, thuật ngữ này
đã được cải tạo triệt để, mang nội dung mới, rất đa dạng về quan niệm,
phương pháp, đồng thời tự nó cũng biến đổi nhanh chóng chưa từng thấy
trong lịch sử [42, tr.357]. Ở Việt Nam, thuật ngữ này mới đƣợc giới nghiên
cứu văn học Việt Nam sử dụng rộng rãi trong vài chục năm gần đây.
Khái niệm thi pháp học xuất hiện đầu tiên bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp
“Poietike” xuất hiện công trình Poetica (Nghệ thuật thi ca) của Aristotle cách
đây hơn hai nghìn năm. Đây đƣợc coi là công trình tổng kết kinh nghiệm về
nghệ thuật kịch thời Hi Lạp cổ đại, nó làm nên một học thuyết về nguyên tắc
mô phỏng, miêu tả các loại và thể, các hình thức thơ ca mà ngƣời Hi Lạp tiếp
nhận. Aristotle đã kết hợp tƣ tƣởng mua vui và nhận thức khi nhìn nhận bản
chất nghệ thuật, từ đó ông lần lƣợt xem xét các thể loại bi kịch, sử thi, cấu
trúc cho đến ngôn từ. Ông kết hợp lý thuyết với thực hành phân tích nghệ
thuật cụ thể. Nghệ thuật thi ca của Aristotle là bộ sách đầu tiên trong lịch sử
văn học và mĩ học thế giới nghiên cứu sâu chức năng của văn học nghệ thuật.
Với Aristotle thi pháp học là chỉ lí luận văn học và Nghệ thuật thi ca là công
trình khoa học có ảnh hƣởng sâu, rộng đến lí luận văn học hàng nghìn năm
sau với Thi pháp học của nhà thơ Ý Trissin, Thi pháp học của Scaliger, ngƣời
Pháp, Thi Pháp học của Boileau, Lessing, Herder, Humbold, Hugo, Muller,
Freielffel, Potebnia, Veselovski…
12
Đến trung thế kỷ, thuật ngữ này chỉ kỹ nghệ, kỹ xảo sáng tác thơ ca. Ở
phƣơng Đông, Văn tâm điêu long của Lƣu Hiệp là công trình thi pháp học
sớm nhất bởi nó dạy cho ngƣời ta những tinh túy của phép làm văn. Sau Lƣu
Hiệp, có nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu phê bình, nhà lí luận của
Trung Hoa cổ, trung đại đã cho ra đời những tác phẩm lí giải sâu sắc về mĩ
học, về nghệ thuật văn chƣơng, tiêu biểu là: Thi phẩm của Chung Vinh (thế
kỷ VII), Văn tuyển của Tiêu Thống (thế kỷ VII), Thư gửi Nguyên Chuẩn của
Bạch Cƣ Dị (722 - 486), Tùy viên thi thoại của Viên Mai (1716 -1797).
Từ thế kỷ XVIII trở đi có sự chuyển hƣớng từ siêu hình học cổ đại sang
nhận thức hiện đại, diễn ra sự phân loại các khoa học, sự hình thành dần dần
khoa nghiên cứu văn học thì thi pháp học chuyển hƣớng sang nhận thức luận,
nghiên cứu các vấn đề nội dung nhƣ cái đẹp, xã hội, chính trị, đạo đức, chức
năng phản ánh hiện thực, giáo dục, hầu nhƣ bị hòa lẫn vào các hoạt động xã
hội khác và khuynh hƣớng nghiên cứu văn học khác nhƣ triết học, chính trị
học, xã hội học, ngữ văn học, tâm lí học, đặc biệt là lịch sử học…Đó là cái
logic khiến cho thi pháp học bị bỏ qua ở những nơi xã hội văn học ngự trị.
Đến nửa cuối thế kỉ XIX, do sự nỗ lực của các nhà hình thức chủ nghĩa,
thuật ngữ này đƣợc dùng nhƣ lí luận văn học với nghĩa rộng, nó bao gồm sự
tổng kết lí luận và nghiên cứu tất cả các thể tài văn học.
Đầu thế kỉ XX, thi pháp học hiện đại chính thức đƣợc dấy lên,Từ
đó, hàng loạt các trƣờng phái thi pháp học hiện đại theo sau xuất hiện ở
nhiều quốc gia trên thế giới đã tạo ra rất nhiều ý kiến, quan niệm khác
nhau về thi pháp học.
Ở Pháp, thi pháp học bắt đầu đƣợc nhà thơ P. Valery nói đến trong
chuyên đề giảng dạy ở Viện Hàn lâm Pháp năm 1935, nhƣng nó thực sự thu
hút với sự bùng phát của chủ nghĩa cấu trúc những năm 60 do ảnh hƣởng của
việc giới thiệu thi pháp học Nga đầu thế kỉ.
Ở Nga, Theo Todorov trong công trình Thi pháp học (1975) định nghĩa
thi pháp là những quy tắc chung mà ngƣời ta sử dụng để sáng tác ra tác phẩm
13
văn học cụ thể.. Trong công trình Những vấn đề thi pháp Dostoievski tác giả
M. Bakhtin không nêu ra định nghĩa trực tiếp về thi pháp học nhƣng nội dung
nghiên cứu của ông về Dostoievski nhƣ “Cái nhìn nghệ thuật độc đáo” hay
“ngôn ngữ đa giọng” cũng đã xác nhận nội dung của thi pháp học. Nghiên
cứu các phạm trù về không gian, thời gian nghệ thuật, các đối lập cơ bản cũng
nhƣ cả hệ thống các thủ pháp và phạm trù vốn có của những thời đại văn học,
Mikhail Gasparov “Thi pháp học - khoa học về hệ thống các phương tiện biểu
hiện trong tác phẩm văn học” [42]. Trong nghĩa rộng, thi pháp học trùng với
lí luận văn học, trong nghĩa hẹp trùng với một trong các lĩnh vực của thi pháp
lí thuyết. Còn theo Từ điển Bách khoa văn học giản yếu Nga ghi lại thì “Thi
pháp học là khoa học về cấu tạo của các tác phẩm văn học và hệ thống các
phương tiện thẩm mỹ mà chúng sử dụng” [42]. Nhƣ vậy, mỗi nhà nghiên cứu
có đƣa ra các khái niệm văn học khác nhau nhƣng tựu chung đều xem văn học
nhƣ một nghệ thuật. Nhà phê bình văn học Nga V.Girmunxki đã định nghĩa
một cách tổng quát: “Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi ca (văn học)
với tư cách là nghệ thuật” [42, tr.361]. Nhƣ vậy, tác giả đã định nghĩa về thi
pháp học trong sự lồng ghép giữa tính khoa học và tính nghệ thuật của văn
học. Từ định nghĩa này nhà nghiên cứu văn học Viện sĩ V. Vinogradov đã cụ
thể hóa vấn đề thi pháp nhƣ sau “Thi pháp học là khoa học về hình thức, các
dạng thức, các phương tiện, phương thức tổ chức tác phẩm của sáng tác ngôn
từ, về các kiểu cấu trúc và các thể loại tác phẩm văn học. Nó muốn bao quát
không chỉ là các hiện tượng của ngôn từ thơ, mà còn là cả các khía cạnh khác
nhau nhất của tác phẩm văn học và sáng tác dân gian” [42, tr. 362]. Ở đây
tác giả chủ yếu nhấn mạnh vào đối tƣợng đặc thù của thi pháp học là hình
thức tổ chức tác phẩm văn học. Khi xem thi pháp học là khoa học nghiên cứu
văn học nhƣ một nghệ thuật đã bao hàm đƣợc một phạm vi rất rộng, từ tác
phẩm cụ thể, thể loại đến các khái quát phổ quát. Điểm làm cho thi pháp học
có vị trí độc lập phân biệt với các bộ môn khác trong khoa văn học là thi pháp
không chỉ nghiên cứu cấu trúc và thuộc tính nghệ thuật của văn học từ góc độ
14
nghệ thuật. Thi pháp học còn bao gồm sự miêu tả, khám phá hệ thống các
phƣơng tiện cấu trúc nghệ thuật cụ thể mang sắc thái dân tộc và cá nhân.
Boris Tomashevski “Nhiệm vụ của thi pháp học là nghiên cứu cấu tạo của
tác phẩm văn học. Đối tượng của thi pháp là tiến hành miêu tả, phân loại,
giải thích các hiện tượng được nghiên cứu” [42. tr.363 ]. Từ các định nghĩa
trên, ta thấy thi pháp học chủ yếu là một lĩnh vực nghiên cứu về đặc trƣng, tổ
chức, các phƣơng thức, phƣơng tiện, nguyên tắc làm nên giá trị thẩm mĩ của
văn học trong tính chỉnh thể của văn bản.
Ở Việt Nam, từ những năm 30 cho đến trƣớc Cách mạng tháng Tám,
1945 có xuất hiện một số công trình văn học lẻ tẻ về thi pháp mà chƣa phải
phƣơng pháp luận của một trào lƣu, một xu hƣớng thẩm mỹ.
Từ năm 1945 đến năm 1975, nói chung các nhà lí luận và sáng tác văn
học cách mạng ít chú ý đến phƣơng diện thi pháp, mặc dù đôi lúc có quan tâm
đến phong cách, bút pháp sáng tác mà dƣờng nhƣ chỉ quan tâm nội dung phản
ánh hiện thực. Ở miền Nam trong vùng kiểm soát của chính quyền cũ, tuy có
điều kiện giới thiệu về lí thuyết cấu trúc song chƣa nêu vấn đề nghiên cứu thi
pháp văn học. Đã có một số công trình lí luận, nghiên cứu của các nhà nghiên
cứu, các giáo sƣ bậc đại học nhƣng còn tản mạn, phân tán và về cơ bản, thi
pháp học vẫn chỉ đƣợc quan niệm nhƣ là phép tắc làm thơ, kiến thức về thi ca.
Việc nghiên cứu, phê bình văn học về cơ bản vẫn theo truyền thống cũ.
Từ sau năm 1975, do ảnh hƣởng của Liên Xô cũ nên tại Việt Nam, tất
cả lí thuyết về khoa học nhân văn phƣơng Tây vẫn bị coi là “quan điểm của
chủ nghĩa tƣ bản”, đều bị phê phán và không cho “nhập cảnh”.
Đầu những năm 1980, qua việc giới thiệu thi pháp học Liên Xô vào
Việt Nam cùng với việc dịch một số công trình của Bakhtin, Khrapchenco của
một số nhà nghiên cứu văn học nhƣ Phạm Vĩnh Cƣ, Duy Lập, Vƣơng Trí
Nhàn, Lại Nguyên Ân, Trần Đình Sử… đã thực sự đƣa thi pháp học vào đời
sống phê bình văn học dù còn có nhiều ngƣời ngỡ ngàng thậm chí hoài nghi.
Từ năm 1986, phong trào “đổi mới” cùng với việc “cởi trói”, “mở cửa”,
15
giới thiệu các lí thuyết, trƣờng phái nghiên cứu của phƣơng Tây đã tác động
lớn đến việc nghiên cứu thi pháp đồng thời dấy lên trong giới nghiên cứu và
giảng dạy văn học nhu cầu tìm hiểu thi pháp học, nhiều ngƣời xem đó là cách
đổi mới trong nghiên cứu, phê bình văn học. Một trong những ngƣời tiên
phong về thi pháp là Trần Đình Sử với một loại công trình nghiên cứu nhƣ
Thi pháp thơ Tố Hữu, Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Thi pháp Truyện
Kiều… Ngoài ra, đáng chú ý là các tác giả chuyên ngành ngôn ngữ học nhƣ
Phan Ngọc (với các công trình nghiên cứu về Truyện Kiều (1985) và về thơ
Đƣờng (1990), thơ song thất lục bát, cách đọc văn học theo ngôn ngữ học);
Nguyễn Phan Cảnh, với cuốn Ngôn ngữ thơ, vừa có tính lí thuyết vừa có tính
phổ cập, đề cập vấn đề của thơ. Đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam viết
về đặc trƣng thi pháp của ngôn ngữ thơ theo quan điểm của chủ nghĩa cấu
trúc thuộc trƣờng phái R.Jakobson; Nguyễn Tài Cẩn với hai công trình là
Tìm hiểu kĩ xảo hồi văn liên hoàn trong bài vũ trung sơn thủy của Thiệu Trị,
Và Ảnh hưởng Hán văn Lý Trần qua thơ và ngôn ngữ thơ Nguyễn Trung
Ngạn. Đó là các nhà ngôn ngữ học, còn các nhà nghiên cứu, phê bình văn
học đi vào thi pháp khá đông đảo và cũng đạt kết quả bƣớc đầu rất đáng chú
ý nhƣ: Hoàng Trinh, Bùi Công Hùng, Nguyễn Kim Đính, Đỗ Đức Hiểu…
Khuynh hƣớng nghiên cứu, phê bình văn học theo tinh thần thi pháp học thu
hút đông đảo giới nghiên cứu, phê bình tham gia là một “hiện tƣợng” của đời
sống văn học Việt Nam.
Trong những năm gần đây, các công trình đi theo hƣớng thi pháp học
có thể kể đến: Thi pháp ca dao của Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp
thơ Huy Cận của Trần Khánh Thành (2002), Những vấn đề thi pháp văn
học dân gian của Nguyễn Xuân Đức (2003), Thi pháp thơ Tản Đà của
Nguyễn Ái Học (2007).
Nhƣ vậy, Thi pháp học đã đem lại những phạm trù mới, những đề tài
mới và trên hết là cách nhìn mới cho nghiên cứu, phê bình văn học, mở rộng
các cánh cửa tiếp cận văn bản- tác phẩm văn học từ đó đƣa ra những nhận
16
định, khái niệm khác nhau về thi pháp. Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá
Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi) định nghĩa “Thi pháp học là khoa học
nghiên cứu thi pháp, tức là hệ thống các phương thức, phương tiện, thủ pháp
biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. Mục
đích của thi pháp học là chia tách và hệ thống hóa các yếu tố của văn bản
nghệ thuật tham gia vào sự cấu thành thế giới nghệ thuật, ấn tượng thẩm mĩ
và chiều sâu phản ánh của sáng tác nghệ thuật” [15, tr. 304]. Tác giả Đỗ Đức
Hiểu trong Thi pháp hiện đại lại đƣa ra quan niệm: “Thi pháp là phương pháp
tiếp cận, tức là nghiên cứu, phê bình tác phẩm văn học từ các hình thức thể
hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật, để tìm hiểu các ý nghĩa biểu hiện hoặc chìm
ẩn của tác phẩm. Cấp độ nghiên cứu thi pháp học các hình thức yêu cầu tác
phẩm như một chỉnh thể, ở đó các yếu tố ngôn từ liên kết chặt chẽ với nhau,
hợp thành một hệ thống, để biểu đạt ý tưởng, tình cảm, tư duy, nhân sinh
quan… tức là cái đẹp của thế giới, con người. Điểm xuất phát của thi pháp
học là coi tác phẩm văn học là văn bản ngôn từ. Nếu mĩ học là lí luận của các
nghệ thuật thì thi pháp là mĩ học của văn học, là lí luận văn học, vậy thi pháp
học gắn chặt với ngôn ngữ học và mĩ học” [17, tr.43].
Từ các vấn đề nêu trên, có thể thấy, thi pháp học đã khẳng định đƣợc
những ƣu điểm và ý nghĩa to lớn của mình đối với nền văn học thế giới đặc
biệt trong việc hiện đại hóa nền lí luận văn học nƣớc nhà mặc dù mới xuất
hiện ở Việt Nam chƣa lâu.
1.1.2. Một số vấn đề tìm hiểu về phương pháp dạy học theo hướng
tiếp cận thi pháp
Khi tìm hiểu một tác phẩm văn học chủ thể tiếp nhận phải nắm
vững mối quan hệ biện chứng giữa hình thức và nội dung bởi trong tác
phẩm nghệ thuật tƣ tƣởng và hình thức phải hòa hợp với nhau một cách
hữu cơ nhƣ tâm hồn và thể xác, nếu hủy diệt hình thức thì cũng là hủy
diệt tƣ tƣởng và ngƣợc lại cũng vậy và khi hình thức là biểu hiện của nội
dung thì nó gắn chặt với nội dung tới mức là nếu tách nó khỏi nội dung có
17
nghĩa là hủy diệt bản thân nội dung và ngƣợc lại tách nội dung ra khỏi
hình thức, có nghĩa là tiêu diệt hình thức. Nhƣ vậy để giải mã đƣợc nội
dung và tƣ tƣởng của tác phẩm cần thiết phải tiếp cận hình thức nghệ
thuật của nó. Hình thức là sự biểu hiện của nội dung, là cách thể hiện nội
dung, hình thức mang tính nội dung. Vì vậy, phƣơng pháp giảng dạy văn
dựa vào thi pháp học là phƣơng pháp hình thức có thể hiểu Phƣơng pháp
hình thức là phƣơng pháp phân tích các khía cạnh hình thức của tác phẩm
văn học nghệ thuật để rút ra ý nghĩa thẩm mỹ của nó.
Ngoài ra, trên thế giới, PPDH văn là một ngành khoa học đã ra đời từ
hơn hai trăm năm trƣớc. Bộ môn này có vai trò quan trọng đối với việc bồi
dƣỡng nhận thức, định hƣớng cách thức dạy học theo đặc thù bộ môn và rèn
luyện kỹ năng nghề nghiệp cho các GV môn Văn. Những công trình nghiên
cứu, những chuyên luận về PPDH văn từ các nƣớc trên thế giới đã có ảnh
hƣởng sâu sắc đến việc dạy học văn ở nƣớc ta.
Trong cuốn giáo trình Phương pháp dạy học văn ở trường phổ thông
của V.A.Nhikônxki (Nga), đƣợc dịch và giới thiệu rộng rãi ở các trƣờng đại
học từ năm 1978, tác giả đã đề cập rất chi tiết về vấn đề dạy học bộ môn Văn
ở trƣờng phổ thông. Quyển sách còn đƣa ra những biện pháp cụ thể nhƣ: đọc
diễn cảm, gợi mở, nêu vấn đề...là cơ sở quan trọng cho việc hình thành các
phƣơng pháp dạy học văn ở nƣớc ta sau này.
Công trình nghiên cứu của giáo sƣ Z.Ia. Rez, Phương pháp luận dạy
văn học cũng có đóng góp đáng kể cho ngành phƣơng pháp dạy học văn, nhất
là sự định hƣớng dạy học khơi gợi vấn đề nhằm phát triển năng lực văn học
của HS. Công trình này đƣợc giới thiệu ở nƣớc ta từ năm 1983.
Ngành phƣơng pháp giảng dạy văn học ở nƣớc ta tuy đƣợc xem là một
ngành khoa học non trẻ nhƣng cũng đã kế thừa đƣợc thành tựu của thế giới và
bƣớc đầu đã đạt đƣợc một số thành tựu nhất định.
Với Mấy vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo lọai thể (1969), Trần
Thanh Đạm đã giới thiệu những vấn đề phân tích văn học theo đặc trƣng loại
18
thể: tự sự dân gian, trữ tình dân gian, văn xuôi tự sự, thơ trữ tình... Công trình
định hƣớng cho ngƣời làm công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học khi
phân tích từng tác phẩm cụ thể không chỉ quan tâm đến nội dung mà còn chú
ý đến những nét riêng đƣợc quy định bởi thể văn đó [11].
Phan Trọng Luận với nhiều công trình nghiên cứu về PPDH văn rất có giá
trị: Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường (1977) bàn về một số phƣơng
pháp, biện pháp đƣợc vận dụng trong dạy học văn. Trong đó tác giả nhấn mạnh
đến việc duy trì mối liên hệ giữa HS với tác phẩm văn học trong quá trình phân
tích. Quyển sách còn khẳng định “mọi sự khám phá và phân tích của GV về một
tác phẩm chỉ thật sự có giá trị khi HS tích cực, hứng thú tiếp thụ”.
Con đường nâng cao hiệu quả dạy văn (1978) đề cập những phƣơng
thức có thể ứng dụng nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy văn chƣơng, trong
đó tác giả cũng đề xuất một số vấn đề nhƣ: giảng dạy văn học với định hƣớng
phát triển năng lực cảm thụ của HS, tạo một tiền đề khoa học cho nghệ thuật
giảng văn; giảng dạy văn học gắn với đời sống; hình thành khái niệm lí luận
văn học với yêu cầu phát triển năng lực tƣ duy cho HS...
Phương pháp dạy học văn (1999): định hƣớng quá trình tổ chức dạy
học từng phân môn qua các phƣơng pháp dạy học văn cụ thể.
Xã hội - văn học - nhà trường (2002): đặt ra vấn đề về mối quan hệ của
văn học trong nhà trƣờng và ngoài xã hội, gợi ý cách dạy văn chống lại lối
kinh viện, giáo điều.
Văn học giáo dục thế kỷ XXI (2002): Đặt ra yêu cầu đổi mới phƣơng
pháp dạy học văn trong bối cảnh bùng nổ công nghệ thông tin.
Văn chương - bạn đọc sáng tạo” (2003): nhấn mạnh khâu cảm thụ văn
học, trong đó nhấn mạnh vai trò “đồng sáng tạo” của chủ thể ngƣời đọc (HS)
trong cảm thụ văn chƣơng. Công trình đề cập đến một vấn đề không mới
nhƣng rất có ý nghĩa bởi trƣớc nay nghiên cứu văn học chỉ quan tâm đến khâu
sáng tác tác phẩm chứ chƣa thật sự quan tâm đến vai trò của công chúng trong
tiếp nhận văn học.
19
Ngoài ra có thể kể đến các đóng góp nổi bật khác nhƣ: “Phương pháp
giảng dạy văn học” (1985) của Trịnh Xuân Vũ; “Tình huống có vấn đề và các
loại tình huống có vấn đề trong dạy học tác phẩm văn chương” (1999) của Lê
Trung Thành; hay “Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương” (2006) của
Nguyễn Viết Chữ... cũng tích cực định hƣớng sự thay đổi phƣơng pháp dạy
học văn, phát huy vai trò của chủ thể HS.
Điểm qua các công trình nghiên cứu về PPDH văn ta thấy rằng các tác
giả đã đề cập đƣợc khá toàn diện về PPDH Văn, từ dạy học văn theo loại thể
cho đến vấn đề vai trò chủ thể đối với tiếp nhận, cảm thụ văn học trong nhà
trƣờng và ngoài nhà trƣờng. Có thể nói, chuyên ngành phƣơng pháp giảng
dạy môn Văn nƣớc ta đã và đang tiếp tục phát triển, tiếp cận đƣợc xu thế đổi
mới chung của giáo dục toàn cầu. Đặc biệt, trong giai đoạn hội nhập giáo dục
toàn cầu, dạy học cần phát huy tính chủ động, sang tạo của HS, giới nghiên
cứu đã đóng góp đƣợc những phƣơng pháp, biện pháp cụ thể cho việc dạy học
bộ môn Văn. Đó chính là tiền đề vững chắc để các nhà giáo dục vận dụng
sáng tạo vào chƣơng trình dạy học môn Ngữ văn ở nhà trƣờng.
1.1.3.Một số quan điểm về khái niệm truyện cổ tích
Một trong những khó khăn đáng chú ý đầu tiên khi tìm hiểu TCT là vấn
đề định nghĩa, vấn đề xác định nội dung cơ bản của khái niệm TCT, nhận ra
những đặc điểm chủ yếu nhất của thể loại này để phân biệt nó với các thể loại
VHDG khác, nhất là với các loại truyện dân gian gần gũi nhƣ truyền thuyết,
thần thoại… Định nghĩa về TCT hết sức đa dạng, phức tạp. Ranh giới giữa nó
với một số thể loại dân gian khác nhiều khi rất khó xác định. Cho đến nay ở
Việt Nam, các nhà khao học vẫn chƣa đi đến thống nhất một quan niệm chung
về truyện cổ tích. Một số nhà nghiên cứu xác định nội hàm khái niệm TCT
trong sự phân biệt giữa TCT với thần thoại, ngụ ngôn và truyện cƣời. Tác giả
Đinh Gia Khánh trong bộ giáo trình Văn học dân gian Việt Nam không đƣa
một định nghĩa cụ thể về TCT mà phân biệt và so sánh với thần thoại. Tác giả
Chu Xuân Diên trong sách Truyện cổ tích dưới con mắt các nhà khoa học đã
20
khái quát các vấn đề truyện cổ tích và nêu một số đặc trƣng cơ bản của thể
loại này. Nhƣ vậy, thƣờng thì khái niệm “TCT” đƣợc hiểu theo nghĩa rộng,
chỉ các loại truyện dân gian nói chung, do đó không có sự phân biệt với các
khái niệm “truyện đời xƣa”, “truyện cổ”, “truyện cổ dân gian”.
Ở Việt Nam, nhà nghiên cứu TCT Việt Nam Nguyễn Đổng Chi đã có
nhận xét là khi nói đến mấy tiếng “TCT” hay “truyện đời xƣa”, chúng ta đều
sẵn có quan niệm rằng đấy là một danh từ chung bao gồm hết thảy các loại
truyện do quần chúng vô danh sáng tác và lƣu truyền qua các thời đại. Sau đó,
ông lại nêu lên ba đặc điểm đáng chú ý hơn cả để nhìn nhận loại hình cổ tích:
Một là tính chất cổ của sự việc.TCT đƣợc xác định trƣớc tiên ở phong cách cổ
của nó… Hai là trong sự việc đƣợc kể đừng có yếu tố gì quá xa lạ với bản sắc
dân tộc… Ba là TCT ít nhiều phải thể hiện tính tƣ tƣởng và tính nghệ thuật.
Song những năm gần đây, trong khoa học ngày càng có xu hƣớng cố
gắng phân biệt “TCT” với truyện cổ dân gian nói chung và với các loại truyện
cổ dân gian khác nói riêng, nhƣ thần thoại, truyền thuyết. Trong các giáo trình
đại học cũng nhƣ trong một số công trình biên khảo về VHDG, TCT về
nguyên tắc đƣợc xếp thành một thể loại riêng.
Theo cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, truyện cổ tích là “một thể loại
truyện dân gian nảy sinh từ xã hội nguyên thủy nhưng chủ yếu phát triển
trong xã hội có giai cấp với chức năng chủ yếu là phản ánh và lý giải
những vấn đề xã hội, những số phận khác nhau của con người trong cuộc
sống muôn màu muôn vẻ khi đã có chế độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng
(chủ yếu là gia đình phụ quyền), có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh xã hội
quyết liệt” [15, tr.311].
Theo cuốn Từ điển văn học, “Truyện cổ tích nảy sinh từ xã hội nguyên
thủy, song phát triển chủ yếu trong xã hội có giai cấp, chủ đề chủ yếu của nó
là chủ đề xã hội. Nó biểu hiện cách nhìn hiện thực của nhân dân đối với thực
tại đồng thời nói lên những quan điểm đạo đức, những quan niệm về công lí
xã hội và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn cuộc sống hiện tại. Truyện cổ
21
tích là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú của nhân dân, yếu tố tưởng
tượng kì ảo tạo nên một đặc trưng nổi bật trong phương thức phản ánh hiện
thực và mơ ước” [32, tr.452].
SGK Ngữ văn 10, tập 1 đƣa ra định nghĩa: TCT là “tác phẩm tự sự dân
gian mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định, kể về số phận con
người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của
nhân dân lao động” [34, tr. 19].
SGK Ngữ văn 6, tập 1 đƣa ra định nghĩa: “TCT là loại truyện dân gian
kể về cuộc đời của một số kiểu nhân vật quen thuộc: nhân vật bất hạnh, nhân
vật dũng sĩ và nhân vật có tài năng kì lạ, nhân vật thông minh và nhân vật
ngốc nghếch, nhân vật là động vật. Truyện cổ tích thường có yếu tố hoang
đường, thể hiện ước mơ, niềm tin của nhân dân về chiến thắng cuối cùng của
cái thiện đối với các ác, cái tốt đối với cái xấu, sự công bằng đối với sự bất
công” [35, tr. 53].
V.Ia. Propp cho rằng: truyện cổ tích là một loại truyện kể, phân biệt với
các truyện kể khác do những nét đặc trưng về thi pháp của nó” [5, tr.316].
Trong cuốn Giáo trình văn học dân gian của Phạm Thu Yến, Lê
Trƣờng Phát, Nguyễn Thị Bích Hà có định nghĩa: “truyện cổ tích là những
truyện kể có yếu tố hoang đường, kì ảo. Nó ra đời từ sớm đặc biệt nở rộ trong
xã hội có sự phân hóa giàu = nghèo, xấu = tốt. Qua những số phận khác
nhau của nhân vật, truyện trình bày kinh nghiệm sống, quan niệm đạo đức, lí
tưởng và mơ ước của nhân dân lao động” [51, tr.64].
Tóm lại: Khái niệm TCT có nội dung rất rộng, bao gồm nhiều loại
truyện khác nhau về đề tài, đặc điểm nghệ thuật,… Theo tôi, nói một cách vắn
tắt thì TCT là một loại truyện dân gian ra đời từ thời cổ đại, gắn liền với quá
trình tan giã của chế độ xã hội nguyên thuỷ, hình thành của gia đình phụ quyền
và phân hoá giai cấp trong xã hội; nó hƣớng vào những vấn đề cơ bản, những
hiện tƣợng có tính phổ biến trong đời sống nhân dân, đặc biệt là những xung
22
đột có tính chất riêng tƣ giữa ngƣời với ngƣời trong phạm vi gia đình và xã hội.
1.1.4. Phân loại truyện cổ tích
Về tiêu chí phân loại truyện cổ tích, có nhiều ý kiến và cũng chƣa thật
nhất quán và chƣa có một cách phân loại tối ƣu. Nhƣng qua tìm hiểu các tài
liệu, tôi thấy nhìn chung cách phân loại phổ biến hiện nay dựa trên những
khác biệt của đối tƣợng phản ánh thế giới đặc trƣng của mỗi thể loại, truyện
cổ tích có thể chia làm ba tiểu loại: truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích loài
vật, truyện cổ tích sinh hoạt (hay thế sự).
1.1.4.1. Truyện cổ tích thần kì
“Truyện cổ tích thần kì là nhóm tiêu biểu nhất của truyện cổ tích. Nó ra
đời sớm và những đặc trƣng nổi bật của truyện cổ tích đều có tìm thấy trong
nhóm truyện này. Khuynh hƣớng nổi bật của truyện cổ tích thần kì không
phải là nhấn mạnh hiện thực mà là trình bày mơ ƣớc, nguyện vọng và lí tƣởng
xã hội của nhân dân thông qua chiến thắng tất yếu của cái đẹp và cái thiện
hoàn hảo. Yếu tố kì ảo rất đậm và tham gia nhƣ một phần không thể thiếu
trong sự phát triển cốt truyện, nó đề cao trí tƣởng tƣợng phong phú và lãng
mạn của các tác giả dân gian. Kết thúc truyện cổ tích thần kì thƣờng có hậu,
mang lại sự vui vẻ, lạc quan, thỏa mãn mơ ƣớc của nhân dân” [51, tr. 70].
Truyện cổ tích thần kì là bộ phận quan trọng và tiêu biểu nhất của thể
loại cổ tích. Ở loại truyện này, nhân vật chính vẫn là con ngƣời trong thực tại,
nhƣng các lực lƣợng thần kì, siêu nhiên có một vai trò rất quan trọng. Hầu
nhƣ mọi xung đột trong thực tại giữa ngƣời với ngƣời đều bế tắc, không thể
giải quyết nổi nếu thiếu yếu tố thần kì (nhƣ truyện: Tấm Cám, Thạch Sanh, Sọ
Dừa, Chử Đồng Tử…).
Trong truyện cổ tích thần kì, các nhân vật thƣờng bao gồm ba loại
chính: nhân vật chính diện hay phe thiện (nhƣ Thạch Sanh, Công chúa,
hoàng tử, Chử Đồng Tử, Sọ Dừa, vợ Sọ Dừa…), nhân vật phản diện hay
phe ác (nhƣ Lí Thông, Cám, mẹ Cám…) và các nhân vật thần kỳ hoặc vật
báu có tác dụng kỳ diệu (nhƣ Tiên, Bụt, rắn thần, chim thần, đàn thần, niêu
23
cơm thần, chiếc gậy thần…).
Kết thúc truyện cổ tích thần kì thƣờng có hậu, mang sự vui vẻ, lạc
quan, thỏa mãn mơ ƣớc của nhân dân.
1.1.4.2. Truyện cổ tích loài vật
Truyện cổ tích loài vật là nhóm truyện mà nhân vật là các con vật trong
thế giới loài vật (phần lớn là động vật làm đối tƣợng phản ánh, tƣờng thuật và
lý giải chủ yếu). Thông qua mối quan hệ của các con vật đó, tác giả dân gian
gián tiếp phản ánh mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời. Thoạt đầu,
nhiều ngƣời hay nhầm truyện cổ tích loài vật với truyện ngụ ngôn, tuy nhiên,
về bản chất hai thể loại có nhiều nét khác nhau khá đặc trƣng.
Truyện cổ tích thƣờng thiên về nội dung giải thích nguồn gốc, đặc điểm
động vật. Loại truyện này ở thời kì cổ xƣa hầu hết các dân tộc đều có. Ở đây
các loài vật đƣợc nhân cách hóa một cách hồn nhiên trong trí tƣởng tƣợng của
nhân dân thời cổ. Ở Việt Nam, do những truyện cổ tích loài vật không đƣợc
sƣu tầm và ghi chép sớm nên tính chất cổ xƣa, hồn nhiên, chất phác.
1.1.4.3. Truyện cổ tích sinh hoạt (hay truyện cổ tích thế sự)
“Truyện cổ tích sinh hoạt là nhóm truyện ra đời muộn, khi mâu thuẫn
và đấu tranh xã hội trở nên gay gắt, nhân dân không còn ảo tƣởng giải quyết
những vấn đề xã hội bằng yếu tố kì ảo” [51, tr. 71].
Nhƣ vậy, có thể thấy tinh thần thực tế đã chi phối những sáng tạo nghệ
thuật của nhóm truyện này. Những truyện cổ tích không có hoặc rất ít yếu tố
thần kỳ, ở đây các mâu thuẫn, xung đột xã hội giữa ngƣời với ngƣời đƣợc giải
quyết một cách hiện thực, không cần đến những yếu tố siêu nhiên. Những yếu
tố thần kỳ nếu có cũng không giữ vai trò quan trọng và nhiều khi chỉ là đƣờng
viền cho câu chuyện thêm vẻ ly kỳ, hấp dẫn mà thôi (nhƣ truyện: Sự tích con
muỗi, Cây tre trăm đốt Vợ chàng Trương, Sự tích chim đa đa…).
1.1.5. Đặc điểm thi pháp truyện cổ tích
Trong di sản văn hoá nhân loại, TCT chiếm một vị trí độc đáo và có lẽ
là loại nghệ thuật ngôn từ đƣợc nhiều ngƣời biết đến nhất. TCT quen thuộc
24
đối với mỗi ngƣời ngay từ thuở còn nhỏ. TCT hấp dẫn đối với tuổi thơ và
thƣờng để lại dấu vết không phai mờ trong tƣ tƣởng và tình cảm của các
em. Thế giới cổ tích là một sáng tạo độc đáo của trí tƣởng tƣợng dân gian.
“TCT là một loại truyện kể, phân biệt với các loại truyện kể khác do những
nét đặc trưng về thi pháp thể loại của nó” [5, tr.316]. Trong đề tài này, chúng
tôi trình bày những nét đặc trƣng cơ bản về thi pháp thể loại TCT:
1.1.5.1. Đặc điểm bao trùm và nổi bật của thi pháp thể loại TCT là
“thế giới cổ tích” - một sáng tạo độc đáo của trí tưởng tượng dân gian
Thế giới ấy có mối quan hệ nhƣ thế nào với thực tại? Mặc dù “trong
mỗi TCT đều có yếu tố thực tế”, nhƣng “những yếu tố của thực tế” ấy đã
đƣợc trí tƣởng tƣợng dân gian nhào nặn, hƣ cấu để xây dựng nên một thế giới
khác với thế giới thực tại mà ta gọi là “thế giới cổ tích”. Đây là một thế giới
không có thực, không thể xảy ra trong thực tế mà chỉ có trong… cổ tích. Điều
này đƣợc biểu hiện ở tâm lý sáng tác và tâm lý tiếp nhận TCT. Ngƣời kể và
ngƣời nghe TCT đều mơ ƣớc về những điều “nên có và có thể có” diễn ra
trong “thế giới cổ tích”, nhƣng không ai coi câu chuyện kể là có thực. Đây
chính là sự khác biệt cơ bản của thể loại TCT với thể loại truyền thuyết, giữa
“thế giới cổ tích” và lịch sử. Ngƣời xƣa đã sáng tác ra “thế giới cổ tích”
không có thực ấy trong câu chuyện kể của mình vì họ muốn qua văn học để
giải quyết cái mâu thuẫn giữa ƣớc muốn của con ngƣời với hiện thực xã hội
lúc bấy giờ. Chúng ta đều biết nhân vật trung tâm của TCT thần kì là những
con ngƣời bất hạnh, họ là nạn nhân của chế độ tƣ hữu tài sản, của chế độ gia
đình phụ quyền, và của xã hội Nhƣng TCT thần kì đã miêu tả những nhân vật
bất hạnh ấy theo khuynh hƣớng lý tƣởng hoá, muốn thế, phải tạo ra cho họ
một thế giới khác với thế giới thực tại: đó là một thế giới của ƣớc mơ. TCT đã
miêu tả họ, tuy ở vào những địa vị bị rẻ rúng trong gia đình và xã hội, nhƣng
lại có phẩm chất tốt đẹp, có tài năng, đôi khi có những tài năng phi thƣờng; và
mặc dầu phải trải qua nhiều đau khổ, gian truân, nhƣng bao giờ cũng đi đến
một kết thúc tốt đẹp: từ những ngƣời nghèo khổ, bị coi thƣờng trở thành
25
những ngƣời giàu sang, phú quý hoặc đƣợc giữ quyền cao chức trọng trong xã
hội. Một kết cục nhƣ thế là không tƣởng trong thực tế xã hội. Cho nên TCT
phải nhờ đến các yếu tố thần kì nhƣ nhân vật thần kì (Tiên, Bụt), vật thần kì
(chim thần, gậy thần, cây đàn thần…) hoặc sự biến hoá thần kì (chết đi sống
lại, vật biến thành ngƣời) can thiệp vào cốt truyện để có thể từ việc miêu tả
hiện thực cuộc sống (số phận đau khổ của nhân vật) dẫn đến đƣợc một kết cục
mang tính chất ƣớc mơ (sự đổi đời của nhân vật). Vì vậy cái không có thực
của cổ tích thƣờng mang tính chất hoang đƣờng, và tƣởng tƣợng trong cổ tích
không giống tƣởng tƣợng trong thơ ca mà là để tạo nên tính chất kì lạ, khác
thƣờng của câu chuyện kể. Điều này đã làm nên “thế giới cổ tích” với chất
thơ bay bổng, với sức cuốn hút kì diệu của nó - không chỉ với trẻ thơ mà cả
với ngƣời lớn, đem lại cho con ngƣời hứng thú, niềm tin và ƣớc mơ. Trẻ em
cảm thấy đƣợc đến với một thế giới khác với cuộc đời hàng ngày ở đó các em
thƣờng bị gò bó theo ý ngƣời lớn, ở đó trẻ em vận động, chống chọi, đem cái
thiện chí của mình ra đối kháng với kẻ ác; còn với ngƣời lớn thì “thế giới cổ
tích” là một thế giới khác hẳn mà theo M.Gorki là “cuộc đời hàng ngày tẻ
nhạt, khô cằn, đầy tiếng thở than của những kẻ tham lam khôn cùng và ghen
ghét đến thành bản năng ”. “Thế giới cổ tích” là thế giới huyền ảo của những
giấc mơ, thể hiện mọi ƣớc vọng sâu xa và cao đẹp nhất của nhân dân. Các nhà
khoa học cần và có thể dựa vào các ngành khoa học hữu quan để giải mã “thế
giới cổ tích” ấy, nhƣng điều hấp dẫn ngƣời nghe TCT, điều có ý nghĩa đối với
họ chủ yếu là ở chính cái “thế giới cổ tích”ấy, chứ không phải ở chỗ thế giới
phản ánh thực tế nào. Bởi vì “thế giới cổ tích” mang vẻ đẹp của một thế giới
con ngƣời lý tƣởng, một thế giới đầy hoa thơm cỏ lạ, ý nghĩa chiến thắng gian
tà, con ngƣời đƣợc lực lƣợng siêu nhiên giúp đỡ để có cuộc sống hạnh phúc
trong tình yêu thƣơng. Thế giới ấy đầy ắp điều kì diệu khác thƣờng do con
ngƣời tƣởng tƣợng ra để thoả mãn ƣớc mơ, đem lại niềm tin và sự thích thú
cho chính họ. Đó là thế giới của tình ngƣời, của cái đẹp - thế giới của thiện,
mỹ trong cổ tích, hƣớng con ngƣời niềm tin yêu cuộc sống: “Truyện cổ tích
26
dường như cho chúng ta thấy rằng, trong cuộc đấu tranh cho một cuộc đời tốt
đẹp, có đau khổ mà không buông xuôi, có thất bại mà không đầu hang, có bi
thảm mà không tuyệt vọng, thực trang có đen tối nhưng ánh sáng của niềm tin
vẫn muốn xua tan màu sắc ảm đạm của một cái gì tận thế và trong ánh sáng
đó, con người vẫn cố gắng vươn lên” [31, tr.45]. TCT còn có những đặc điểm
thi pháp về nhân vật, về xung đột, về kết cấu, về không gian và thời gian, về
những “công thức” nhất định… Về những đặc điểm thi pháp này, ba biến thể
của TCT có sự khác nhau đáng kể.
1.1.5.2. Cốt truyện cổ tích
Theo nghĩa thông thƣờng, có thể hiểu cốt truyện chính là cái phần
khung lõi của truyện. Tuy nhiên, để hiểu cốt truyện với tƣ cách là một phạm
trù của thi pháp học lại là một vấn đề khá phức tạp. Trong cuốn Dẫn luận thi
pháp học, Trần Đình Sử đã dành hẳn một chƣơng để bàn về “cốt truyện tự
nhiên” và “cốt truyện nghệ thuật” của tác phẩm văn học. Theo ông, “cốt
truyện nghệ thuật là hệ thống các biến cố trong trật tự nghệ thuật đã đƣợc
chọn lọc, sắp xếp” [41, tr.113].
Trong cuốn Những vấn đề thi pháp của truyện, Nguyễn Thái Hòa cũng
bàn khá kỹ về cốt truyện. Theo ông, “cốt truyện đƣợc xây dựng bằng những
tình tiết. Những tình tiết này có tính bền vững, nếu thay đổi tình tiết hoặc lƣợc
bỏ đi thì không còn truyện đó nữa”. Thông qua việc phân tích truyện Cây khế,
ông còn chỉ ra “cốt truyện dân gian rất chú trọng đến tình tiết phát triển thành
sự kiện” và “những truyện đơn giản nhƣ truyện kể dân gian thì cốt truyện và
tình tiết giao nhau một cách đơn giản”. Cốt truyện là khái niệm vừa có tính
hình thức, vừa có tính nội dung.
Là một thể loại thuộc loại hình tự sự dân gian, cốt truyện trong cổ tích
có những đặc điểm nổi bật, dễ nhận thấy.
Xét về hình thức bên ngoài của cốt truyện mà ta thƣờng gọi là bố cục
thì mỗi truyện cổ tích đều có ba phần rõ ràng: mở đầu, thân truyện và kết
thúc. Trong phần mở đầu, tác giả dân gian giới thiệu ngắn gọn về thời gian,
27
không gian của câu chuyện cùng với sự xuất hiện của nhân vật chính. Trong
phần thân truyện, tác giả kể về những biến cố, sự kiện gắn với những nhân vật
chính. Phần kết thúc kể về kết cục của nhân vật chính. Truyện cổ tích thƣờng
kết thúc theo hai xu hƣớng: có hậu và không có hậu. Trong đó kết thúc có hậu
là xu hƣớng chính trong truyện cổ tích thần kỳ.
Xét về cấu trúc bên trong thì các chi tiết, sự kiện, hành động của nhân
vật diễn ra trong truyện bao giờ cũng theo trình tự tuyến tính (đƣờng thẳng),
theo trật tự thời gian xuôi chiều, việc gì xảy ra trƣớc kể trƣớc, việc gì xảy ra
sau kể sau, không có trình tự ngƣợc lại nhƣ trong truyện ngắn của văn học
viết hiện đại. Đặc biệt, sự xuất hiện của chi tiết trƣớc thƣờng có tác dụng báo
hiệu cho sự xuất hiện của chi tiết sau tạo thành sự “cộng hƣởng”, “hô ứng”
vừa chặt chẽ, vừa thú vị và thể hiện ý đồ nghệ thuật của ngƣời sáng tạo
Ví dụ: Trong truyện Thạch Sanh, sự xuất hiện của bộ cung tên bằng
vàng nhằm trang bị cho Thạch Sanh thứ vũ khí mới đề chàng bắn đại bàng
cứu công chúa. Khi Thạch Sanh bắn đại bàng, chàng không bắn nó chết hẳn
mà chỉ bắn bị thƣơng ở cánh để cho sự xuất hiện của chi tiết tiếp theo là
Thạch Sanh lần theo vết máu của chim đại bàng mới tìm đƣợc hang nhốt công
chúa và Thạch Sanh bị Lý Thông lừa để cứu công chúa rồi lại lấp hang cƣớp
công một lần nữa nên. Còn việc Thạch Sanh chỉ nhận chiếc đàn thần của vua
Thủy tề trao tặng mà không lấy thêm một vật dụng phẩm chất nghệ sĩ của
chàng trang bị thêm một thứ “vũ khí” mới rất lợi hại để khi trở về cõi trần
chính tiếng đàn đã giúp chàng giải oan, lấy đƣợc công chúa và thu phục quân
sĩ 18 nƣớc chƣ hầu. Rõ ràng, các chi tiết xuất hiện trong truyện Thạch Sanh,
nhất là các yếu tố kỳ diệu gắn với hành động và những thử thách của nhân vật
chính đã theo một trình tự tuân theo ý đồ của cốt truyện tạo thành cái hay, sức
cuốn hút, hấp dẫn ngƣời nghe bằng chiều sâu bên trong của chúng.
Trong thể loại truyện cổ tích, cốt truyện đóng vai trò rất quan trọng và
tạo nên tính đặc trƣng về hình thức cho thể loại này. Trong quan hệ với các
nhân vật trong truyện, cốt truyện ở cổ tích đóng vai trò chi phối, bắt các nhân
28
vật phải hoạt động trong cái khung định sẵn, hay nói nhƣ Nguyễn Xuân Đức:
“cốt truyện đè lên nhân vật”. Điều này làm cho cốt truyện cổ tích khác với cốt
truyện của truyện ngắn trong phần văn học viết hiện đại. Chẳng hạn, trong
truyện Tấm Cám, khi cô Tấm chết thì truyện này vẫn chƣa hết mà chỉ mới
đƣợc một nửa bởi vì ý đồ nghệ thuật của tác giả dân gian chƣa thực hiện xong
(cô Tấm phải chiến thắng mẹ con Cám theo quan niệm thiện thắng ác). Do đó,
để thực hiện ý đồ cốt truyện, tác giả đã để cho cô Tấm biến hóa thành chim
vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị rồi cuối cùng trở lại làm ngƣời
xinh đẹp hơn xƣa. Còn trong truyện ngắn hiện đại của văn học việc, thông
thƣờng nhân vật chính chết là hết. Truyện Chí Phèo của Nam Cao là một
bằng chứng. Sự giống nhau giữa các truyện cổ tích trên thế giới mà các nhà
nghiên cứu thƣờng gọi là kiểu truyện trƣớc hết đƣợc thể hiện ở phƣơng diện
cốt truyện. Kiểu truyện Tấm Cám của nƣớc ta so với kiểu truyện của nhiều
nƣớc trên thế giới đã góp phần làm sáng tỏ vai trò của cốt truyện trong thể
loại truyện cổ tích, tạo ra tính đại đồng về hình thức cho thể loại đó.
Do cốt truyện trong thể loại truyện cổ tích có những đặc điểm chung và
đóng vai trò quan trọng nhƣ vậy, cho nên một trong những yêu cầu bắt buộc
về phƣơng pháp phân tích thể loại này là cách nắm bắt, khai thác cốt truyện
trong từng truyện.
1.1.5.3. Nhân vật cổ tích
Đối tƣợng của văn học là con ngƣời và cuộc sống con ngƣời. Vì thế
TPVH không thể thiếu nhân vật. Nhân vật là một trong những đặc trƣng nổi
bật của tác phẩm tự sự và tự sự dân gian. VHDG xuất hiện khá sớm trong nền
văn học của mỗi dân tộc, trên cơ sở một trình độ tƣ duy nghệ thuật hồn nhiên,
chất phác tuy còn nhiều hạn chế, nhƣng có vẻ đẹp riêng. Chính trình độ tƣ
duy nghệ thuật này quy định phƣơng thức xây dựng hình tƣợng nhân vật, tạo
cho nhân vật trong tác phẩm tự sự dân gian có những đặc điểm riêng. Theo
Nguyễn Thái Hòa: “Nhân vật là yếu tố phức tạp và cơ bản của tác phẩm văn
học, là hình tượng nghệ thuật về con người, qua đó nhà văn bộc lộ quan niệm
29
về xã hội, về thế giới, về góc nhìn thẩm mĩ để tư duy nghệ thuật” [19, tr.213].
Thế giới nhân vật trong thể loại truyện cổ tích cũng hết sức đa dạng,
phức tạp: có các nhân vật là những con ngƣời với mọi giai cấp, mọi tầng lớp,
mọi lứa tuổi nhƣ: Lí Thông, Chử Đồng Tử, Tấm, Cám, anh Khoai, Phú
ông…, có các nhân vật là những lực lƣợng thần kỳ nhƣ ông bụt, ông tiên, phù
thủy, ma quái… Còn có cả các nhân vật là các con vật nhƣ: con hổ, con trâu,
con công, con quạ… Chúng kết tinh qua quan niệm nghệ thuật về con ngƣời
của tác giả dân gian. Nếu chỉ với riêng về các nhân vật là con ngƣời và lực
lƣợng thần kỳ trong truyện cổ tích thần kỳ và truyện cổ tích sinh hoạt thì nhân
vật trong hai tiểu loại này có các đặc điểm chủ yếu sau đây:
Nhân vật trong truyện cổ tích giống nhƣ các nhân vật trong loại hình tự
sự dân gian (gồm cả thần thoại, truyền thuyết, truyện cƣời, truyện ngụ
ngôn…) thuộc kiểu nhân vật chức năng với đặc điểm: “Phẩm chất cố định
không thay đổi từ đầu đến cuối, không có đời sống nội tâm, sự tồn tại và hoạt
động của nó chỉ nhằm thực hiện một số chức năng trong truyện và trong việc
phản ánh đời sống nội tâm, sự tồn tại và hoạt động của nó chỉ nhằm thực hiện
một số chức năng trong truyện và trong việc phản ánh đời sống nhân vật
đồng nhất với vai trò mà nó đóng trong tác phẩm” [15, tr.196]. Vì là nhân vật
chức năng nên các nhân vật này không đƣợc miêu tả tâm lí, nhân vật chƣa
đƣợc cá thể hoá, càng chƣa đƣợc tâm lý hoá, tính cách của nó chƣa đƣợc bộc
lộ qua hành động. Cho nên nhân vật trong cổ tích chỉ mới là những nhân cách
đại diện cho các hạng ngƣời, loại ngƣời trong xã hội, chỉ mới có tính chung
mà chƣa có tính riêng đúng nhƣ ý kiến của Đinh Gia Khánh: “Nhân vật nặng
về khái quát hóa mà nhẹ về cá thể hóa” [22, tr.168]. Đặc điểm này sẽ góp
phần quy định việc dùng khái niệm khi phân tích, nhìn nhận các nhân vật
trong truyện cổ tích. Cái nét riêng của nhân vật cổ tích là ở các kiểu dạng
hành động, chẳng hạn nhƣ “làm theo vợ dặn” một cách máy móc là một kiểu
dạng hành động của nhân vật khờ khạo; dùng “mẹo lừa” là một kiểu dạng
hành động của nhân vật trí xảo; sự nhận đƣợc “phƣơng tiện thần kì” là một
30
kiểu dạng hành động của nhân vật bất hạnh trong TCT thần kì… Qua hành
động của nhân vật trong suốt câu chuyện kể, ta có thể dễ dàng đọc ra tình
cách của họ. Nét riêng của nhân vật cổ tích ở chỗ: ngƣời ta có thể quy các
hành động của nó về một số lƣợng nhất định các kiểu dạng hành động. Nhân
vật trong TCT chỉ gồm một số kiểu dạng nhất định, đó là những “kiểu nhân
vật”: trong TCT thần kì có kiểu nhân vật bất hạnh (ngƣời mồ côi, ngƣời con
riêng, ngƣời xấu xí, ngƣời em út, ngƣời đi ở…) và kiểu nhân vật kì tài (ngƣời
có sức khỏe phi thƣờng, ngƣời có tài nghệ kì tài); trong TCT sinh hoạt có kiểu
nhân vật trí xảo (nhƣ em bé thông minh) và kiểu nhân vật khờ khạo (nhƣ các
chú ngốc);… Ngoài ra còn có kiểu nhân vật xấu xí, kiểu nhân vật đức hạnh,
kiểu nhân vật là loài vật,…
Trong TCT, Các nhân vật có sự phân tuyến rất rạch ròi. Đó là tuyến
thiện và tuyến ác. Trong thể loại này, không có con ngƣời hai mặt nhƣ trong
văn học viết hiện đại. Các nhân vật trong TCT thƣờng có tính chất đơn thuần,
hoặc tốt (nhƣ cô Út trong Sọ Dừa, Thạch Sanh trong Thạch Sanh, Mã Lƣơng
trong Cây bút thần, Ông lão trong Ông lão đánh cá và con cá vàng…hoặc xấu
(nhƣ Vua, địa chủ trong Cây bút thần, mụ vợ ở Ông lão đánh cá và con cá
vàng, mẹ con Lý Thông trong Thạch Sanh,…) hoặc tích cực, hoặc tiêu cực
một cách rõ rệt; ít có nhân vật mang tính đa diện, phức tạp, mâu thuẫn, không
có thế giới nội tâm phong phú hay tính chất điển hình nhƣ nhân vật trong thể
loại tự sự có tác giả. Ngay cả những nhân vật là lực lƣợng thần kỳ cũng có sự
phân tuyến: có tuyến thiện, tuyến ác và tuyến trung gian. Ông bụt trong Tấm
Cám thuộc tuyến thiện, trăn tinh, chim đại bàng trong Thạch Sanh thuộc
tuyến ác; chim đại bàng trong Cây khế thuộc tuyến trung gian… Nhân vật này
giúp cả ngƣời em và ngƣời anh một cách vô tƣ để rồi dẫn tới kết cục có hậu:
ngƣời em giàu có bởi thật thà, còn ngƣời anh rơi xuống biển chết bởi tham
lam. Nhìn chung, nhân vật trong tác phẩm tự sự dân gian đƣợc xây dựng nên
bằng trí tƣởng tƣợng phong phú của dân gian và các nhân vật này thƣờng
đƣợc gắn liền với cốt truyện, với biến cố. Nhân vật trong TCT còn là nhân vật
31
có một tính cách bất biến. Nhân vật đã tốt, hoặc đã xấu thì vẫn tốt hay xấu từ
đầu cho đến cuối tác phẩm, không có sự chuyển hoá thay đổi tuyến hay lẫn
tuyến. Nhân vật nhƣ là một ý niệm mang tính chất minh hoạ cho một dạng,
một kiểu, một quan niệm. Do đó, điển hình trong TCT mang tính loại hình.
Và cũng chính vì nhân vật đƣợc xây dựng nhƣ một quan niệm cho nên đã tạo
ra một hệ thống mô tuýp giống nhau trong nhiều truyện.
Các nhân vật trong truyện cổ tích đều có tính phiếm chỉ - phiếm chỉ về
lai lịch, về họ tên. Tính chất này thể hiện ở cách miêu tả ngoại hình, giới thiệu
quê quán, và thƣờng không có họ tên. Còn một số nhân vật cũng có tên nhƣ
Tấm, Cám, Thạch Sanh, Sọ Dừa, Chử Đồng Tử, Từ Thức… thì có phải là
nhân vật phiếm chỉ hay không.
Bên cạnh đó, nhân vật trong truyện cổ dân gian nói chung, TCT nói
riêng còn là nhân vật có tính cách không phụ thuộc vào hoàn cảnh (khác với
truyện hiện đại, tính cách là con đẻ của hoàn cảnh), con ngƣời có thể vƣợt qua
một không gian rộng lớn một cách dễ dàn ví dụ truyện Từ thức gặp tiên.
Trên đây là một vài đặc điểm riêng, những nét cơ bản của nhân vật
trong truyện cổ dân gian nói chung, TCT nói riêng. Nó đánh dấu một giai
đoạn nhất định của tƣ duy nghệ thuật - tƣ duy nhân loại.
1.1.5.4. Xung đột trong cổ tích
Theo Từ điển Tiếng Việt: Xung đột (nói một cách khái quát) là “đánh
nhau giữa những lực lƣợng đối địch” TCT đề cập đến những vấn đề có ý
nghĩa vừa rộng lớn, vừa sâu xa về nhân sinh và xã hội. Xung đột trong ba biến
thể của TCT có sự khác nhau đáng kể.
TCT thần kì nổi lên hai loại xung đột: xung đột xã hội và xung đột giữa
con ngƣời với những lực lƣợng của thiên nhiên. Nếu vấn đề quan hệ của con
ngƣời (thời cổ) với thiên nhiên là đề tài chính của thần thoại và sử thi cổ đại
thì xung đột xã hội là đề tài chính của TCT. Xung đột xã hội trong TCT
thƣờng diễn ra trong phạm vi những quan hệ gia đình. Ta hiểu vì sao nhân vật
bất hạnh luôn là những nhân vật thành viên lép vế nhất trong gia đình gia
32
trƣởng ngày xƣa: ngƣời em út, ngƣời con riêng…(ví dụ: Tấm Cám, hai anh
em với cây khế,..). Bên cạnh đó là xung đột giữa con ngƣời với những trở lực
của thiên nhiên. Nhân vật trung tâm của TCT về đề tài này mang dáng dấp
của những anh hùng văn hoá, đó là những nhân vật kì tài - dũng sĩ, những
ngƣời có sức mạnh, tài nghệ siêu nhiên. TCT sinh hoạt chủ yếu tập trung vào
xung đột xã hội, cụ thể là hai đề tài đạo đức (với nhân vật trung tâm là nhân
vật đức hạnh, nhân vật xấu xa) và đề tài trí khôn (với nhân vật trung tâm là
nhân vật mƣu trí và nhân vật khờ khạo).
So với TCT thần kì, TCT sinh hoạt nhìn chung đã vƣợt ra ngoài khuôn
khổ của những quan hệ gia đình. Còn trong TCT về loài vật không đề cập đến
xung đột trực tiếp giữa con ngƣời với loài vật, nó thể hiện những mô tuýp
nghệ thuật. Nhìn chung, xung đột nổi bật trong TCT về loài vật là xung đột
giữa kẻ yếu và kẻ mạnh. Nói tóm lại, xung đột là một yếu tố quan trọng trong
thi pháp TCT. Nó góp phần quyết định tạo nên giá trị và sức sống cho tác
phẩm; chi phối tất cả những biến cố, sự kiện, tình tiết của tác phẩm.
1.1.5.5. Kết cấu truyện cổ tích
Kết cấu trong VHDG nói chung, TCT nói riêng thƣờng theo đƣờng
thẳng, theo sự việc, hành động, theo thứ tự thời gian, cái gì xảy ra trƣớc kể
trƣớc, cái gì xảy ra sau kể sau. Tuy nhiên, kết cấu ở ba biến thể của TCT cũng
có sự khác nhau. TCT thần kì đƣợc xây dựng theo một số sơ đồ chung nhất
định. Cơ sở để xác lập sơ đồ kết cấu TCT là những hành động của nhân vật
chính. Vì trên thực tế, số lƣợng các nhân vật trong TCT và những hành động
của chúng là có giới hạn cho nên ngƣời ta đặt tên chung cho những nhân vật
và những hành động ấy đề từ đó lập ra sơ đồ chung của kết cấu TCT. Trong
công trình nổi tiếng Hình thái học của TCT, V.Ia.Prop - nhà phônclo (nghệ
thuật ngữ văn dân gian, nghệ thuật biểu diễn dân gian, nghệ thuật tạo hình dân
gian) học Xô Viết lỗi lạc, dựa trên tƣ liệu TCT Nga, đã nêu lên một sơ đồ
chung của kết cấu TCT. Các nhà nghiên cứu đã nêu ra một phác thảo của kiểu
sơ đồ kết cấu phổ biến hơn của TCT thần kì dân tộc Việt. Truyện cổ tích
33
thƣờng đƣợc xây dựng theo một số sơ đồ chung nhất định. Cơ sở để xác lập
sơ đồ kết cấu truyện cổ tích là những hành động của nhân vật chính. Có thể
phác thảo sơ đồ kết cấu của truyện cổ tích thần kì dân tộc Việt nhƣ sau:
Phần đầu: nhân vật chính xuất hiện.
- Mô tuýp a: sự xuất thân thấp hèn (loại nhân vật bất hạnh)
- Mô tuýp b: sự ra đời thần kì (loại nhân vật kì tài)
Phần giữa: cuộc phiêu lƣu của nhân vật chính trong “thế giới cổ tích”.
1. Ra đi
- Mô tuýp a: rời nhà đi nơi xa.
- Mô tuýp b: bƣớc vào tình huống, hoàn cảnh khác thƣờng.
2. Gặp thử thách, lực lƣợng thù địch.
- Mô tuýp a: gặp nhiều (thƣờng là ba) thử thách, địch thủ.
- Mô tuýp b: gặp một thử thách, địch thủ.
3. Chiến thắng thử thách, lực lƣợng thù địch.
- Mô tuýp a: nhờ trợ thủ thần kì.
- Mô tuýp b: bằng tài trí, lòng tốt.
Phần kết: Đổi đời hay là sự thay đổi số phận trong “thế giới cổ tích”.
- Mô tuýp a: thƣởng (cho nhân vật chính) và phạt (đối với kẻ ác, lực
lƣợng thù địch).
- Mô tuýp b: nhân vật chính đƣợc đền bù, đƣợc giải thoát khỏi sự bất
hạnh nhờ sự biến hóa siêu nhiên.
Qua phác đồ trên, có thể thấy một vài nét riêng của kết cấu truyện cổ
tích thần kì của ngƣời Việt, so với kết cấu của truyện cổ tích thần kì của các
dân tộc khác. Đồng thời cũng nhận rõ hơn những nét chung của kết cấu truyện
cổ tích thần kì của các dân tộc nhƣ: tính chất trọn vẹn của câu chuyện kể về số
phận, cuộc đời nhân vật chính; tính chất phiêu lƣu của cuộc đời nhân vật
chính, vai trò không thể thiếu của yếu tố thần kì.
Khác với TCT thần kì, TCT sinh hoạt không đƣợc xây dựng theo một
hay một vài sơ đồ kết cấu chung nào. Câu chuyện kể của TCT sinh hoạt
34
thƣờng linh động, vì những mô tuýp xã hội và sinh hoạt đƣợc dùng làm cơ sở
của nó có tính không bền vững. Tuy vậy, về đại thể, ngƣời ta vẫn có thể phân
biệt hai kiểu kết cấu khác nhau của thể loại TCT này - đó là kiểu kết cấu “kể
sự việc” và kết cấu “xâu chuỗi”. Còn TCT về loài vật, do có đề tài đơn giản,
câu chuyện thƣờng ít sự kiện. Mô tuýp đƣợc khai thác là sự gặp gỡ: con voi
gặp con trâu, con cóc gặp con voi, con le gặp con vịt … Do đó, hình thức kết
cấu phổ biến hơn cả của TCT về loài vật là hình thức “truyện kể ngắn - đối
thoại”. Nói tóm lại, kết cấu trong TCT mang đậm màu sắc dân gian, nó làm
cho tác phẩm mang vẻ đẹp mộc mạc, trong sáng dễ hiểu, dễ kể, dễ nhớ.
1.1.5.6. Thời gian, không gian nghệ thuật cổ tích
Thời gian và không gian nghệ thuật trong VHDG nói chung, TCT nói
riêng mang tính phiếm chỉ không xác định cụ thể và biểu trƣng, không xác
định cụ thể nhƣ trong văn học viết. Và trong nhiều trƣờng hợp nó còn mang
tính chất công thức, ƣớc lệ, mang ý nghĩa tƣợng trƣng.
a. Không gian nghệ thuật cổ tích
Trong cuốn Giáo trình văn học dân gian, Nguyễn Thị Bích Hà cho rằng:
Không gian cổ tích có hai loại là không gian hiện thực và không gian kì ảo.
Không gian hiện thực là không gian làng quê thanh bình, yên ả, với
những hình ảnh quen thuộc, đậm phong vị nông thôn Việt Nam nhƣ: cây đa,
giếng nƣớc, ngày hội làng, cảnh đồng quê…Không gian bình dị, yên tĩnh,
mang đậm dấu ấn dân tộc. Không gian hiện thực thƣờng phiếm chỉ ngƣợc với
tính chất định danh của truyền thuyết.
Không gian kì ảo là không gian rộng: bầu trời, mặt đất, dƣới lòng nƣớc…
Theo tác giả Nguyễn Việt Hùng “Không gian nghệ thuật (KGNT) là
khái niệm của thi pháp học chỉ “hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là sự
mô hình hoá thế giới của tác giả. KGNT trong tác phẩm mang tính biểu trƣng
và quan niệm”. Do đó, thông qua việc tìm hiểu KGNT, chúng ta có thể hiểu
đƣợc quan niệm thẩm mĩ, trình độ tƣ duy cũng nhƣ tâm lí sáng tạo của con
ngƣời ở những thời điểm và địa điểm mà tác phẩm ra đời.
35
Khái niệm KGNT đã đƣợc ứng dụng để tìm hiểu nhiều loại hình văn
học khác nhau, trong đó có truyện cổ tích (TCT). Việc áp dụng một phƣơng
diện tiêu biểu của thi pháp học vào một đối tƣợng lớn và quen thuộc nhƣ
truyện cổ tích đã đem lại nhiều thành tựu. Những nhà nghiên cứu, nhà thi
pháp học đã đƣa ra nhiều nhận định về đặc điểm của KGNT truyện cổ tích và
quan đó phần nào tìm hiểu đƣợc tƣ tƣởng, quan niệm của nhân dân về thế
giới, về cuộc sống và về chính bản thân con ngƣời.
Chẳng hạn, nhà nghiên cứu ngƣời Nga - Likhachev đã dành nhiều công
sức cho việc khảo sát tƣ liệu văn học Nga cổ, trong đó có phần lớn TCT. Ông
đã đƣa ra nhận xét “KGNT của TCT Nga mang tính không chống đối (cản
trở) của môi trƣờng vật chất, tức là tính siêu dẫn của KG. Trong KGNT đó
“nhân vật di chuyển, giao tiếp không bị trở ngại”, kể cả “những trở ngại về
mặt tâm lí”. Các nhà nhiên cứu văn học dân gian (VHDG) Việt Nam, bằng
con đƣờng thi pháp học (qua các công trình cụ thể của Đỗ Bình Trị, Lê
Trƣờng Phát đều thống nhất ở quan niệm: TCT xây dựng hai loại không gian
chủ yếu là “không gian trần thế và không gian kì ảo”. Đây là hai khái niệm cơ
bản và đƣợc ứng dụng nhiều nhất khi nghiên cứu về KGNT truyện cổ tích
(các luận văn, luận án tìm hiểu về KGNT truyện cổ tích thƣờng khai thác theo
hƣớng “Không gian kì ảo…”) Có thể nói rằng, những nhà nghiên cứu quan
tâm đến truyện cổ tích đã đƣa ra những khái niệm của riêng mình, hoặc dựa
vào khái niệm của ngƣời đi trƣớc để chứng minh những đặc điểm của KGNT
truyện cổ tích. Sự mở rộng các khái niệm KGNT của TCT là cần thiết nhƣng
thiết nghĩ chúng ta cũng nên nhìn lại để có sự đánh giá khái quát hơn, xây
dựng một quan niệm chung trong một chừng mực nhất định có thể bao trùm
lên phạm vi nghiên cứu (KGNT TCT).
Chính vì vậy, chúng tôi muốn đặt vấn đề khái quát đặc điểm của KGNT
truyện cổ tích dựa trên thành quả nghiên cứu của những tác giả đi trƣớc, đặc
biệt là từ gợi ý trong công trình của V.Ia. Prôp Bằng cái nhìn biện chứng xem
xét đối tƣợng, chúng tôi đƣa ra nhận định nhƣ sau: KGNT của truyện cổ tích
mang tính chất hai mặt. Các đặc điểm của KHNT truyện cổ tích là những
36
đặc điểm vừa thống nhất vừa đối lập với nhau, ví dụ nhƣ:
- Không gian kì ảo và không gian hiện thực
- Không gian cản trở và không gian phi cản trở
- Không gian điểm và không gian tuyến tính
Trong mỗi cặp không gian trên đều có sự đối lập với nhau nhƣng đồng
thời chúng lại thống nhất với nhau. Bởi vì đó là các phƣơng diện của không
gian nghệ thuật, làm nên chỉnh thể không gian truyện cổ tích mà thiếu đi một
trong hai vế thì đối tƣợng không toàn vẹn và không còn là “mô hình về thế
giới” của thể loại, đồng thời, chúng ta cũng không có cái nhìn đầy đủ về
KGNT của truyện cổ tích. Chúng tôi xem xét vấn đề dựa trên tƣ liệu TCT
thần kì ngƣời Việt”.
b. Thời gian nghệ thuật cổ tích
“Thời gian nghệ thuật trong truyện cổ tích bao giờ cũng là thời gian
trong quá khứ, thường bắt đầu bằng cụm từ “ngày xửa ngày xưa”, “ngày xưa
đã lâu lắm rồi”. Thời gian cổ tích có hai loại thời gian hiện thực và thời gian
kì ảo. Thời gian hiện thực quá khứ là thời gian đời thực mà nhân vật sống, hoạt
động trong cộng đồng với nhịp độ bình thường, mang hơi thở của cuộc sống.
Còn thời gian kì ảo là thời gian biến đổi không theo quy luật thông thường mà
biến đổi rất kì lạ, nhờ sự tham gia của các yếu tố kì ảo” [51, tr.87].
Quá khứ trong truyện cổ tích là quá khứ “phiếm chỉ”. Điều này cũng
làm cho truyện cổ tích có tính chất “Phiếm chỉ” khác với truyền thuyết là thời
gian đƣợc xác định cụ thể. Đó là thời gian của lịch sử. Không chỉ có quá khứ
“phiếm chỉ” mà thời gian trong truyện cổ tích còn là thời “mặc định”. Khi cắt
bỏ thời gian ở phần giới thiệu thì các biến cố của nội dung câu chuyện xảy ra
là thời gian hiện tại hay còn gọi là thời gian khách quan. Vì vậy, nhân vật
trong truyện cổ tích bao giờ cũng hành động trong hiện tại mặc dù mọi hành
động của nhân vật, mọi diễn biến của sự kiện, tình tiết vận động, gói gọn
trong thời gian quá khứ. Thời gian cổ tích là quá khứ song hành động của
nhân vật lại luôn đƣợc kể ở hiện tại - một thứ hiện tại trong quá khứ.
37
Thời gian trong truyện cổ tích có thể nhanh hay chậm là do nhịp điệu
trần thuật về những biến cố đã đƣợc lựa chọn, sắp xếp của ngƣời kể chuyện.
Do vậy, không có sự quy đảo về thời gian mà mọi diễn biến, hành động của
nhân vật cứ trôi theo các dòng sự kiện, không quay lại để hồi tƣởng, băn
khoăn hay suy tƣ, ƣu nghĩ…tức là không có biểu hiện của tâm trạng.
Chính yếu tố thời gian trong truyện cổ tích có đặc điểm nhƣ vậy nên nó
lí giải có những điều tƣởng là phi lí mà lại là có lí khi thời gian lúc trôi chậm
lúc trôi nhanh, có nhân vật trẻ mãi không già nhƣ Từ Thức sau ba trăm năm
trở về, không ai nhận ra nữa...
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Vai trò của Truyện cổ tích trong chương trình Ngữ Văn THCS
Truyện cổ tích có vai trò rất lớn trong việc phát triển nhân cách của con
ngƣời đặc biệt là trẻ em bởi nó là môi trƣờng nuôi dƣỡng tâm hồn trẻ, là ngọn
gió tƣơi mát thổi bùng lên ngọn lửa tƣ duy và ngôn ngữ của trẻ. Với vai trò
quan trọng nhƣ vậy nên trong chƣơng trình Ngữ Văn, truyện cổ tích đã đƣợc
giới thiệu trong chƣơng trình nhà trƣờng từ bậc tiểu học đến phổ thông với
thời lƣợng tiết khá lớn. Số tiết và nội dung bài học cụ thể nhƣ sau:
Bảng 1.1. Thống kê đơn vị bài học truyện cổ tích trong chương trình tiểu học
TT Tên bài Lớp Tác giả Nguồn gốc
Cây khế Dân gian Việt Nam 1. 1
Con Rồng, Cháu Tiên Dân gian Việt Nam 2. 1
3. Cô bé trùm khăn đỏ 1 Grim Đức
4. Bông hoa cúc trắng 1 Dân gian Việt Nam
5. Sự tích dƣa hấu 1 Dân gian Việt Nam
6. Sự tích cây vú sữa 2 Dân gian Việt Nam
7. Câu chuyện bó đũa 2 Dân gian Việt Nam
38
8. Sự tích hồ Ba Bể 4 Dân gian Việt Nam
Bảng 1.2. Thống kê đơn vị bài học truyện cổ tích trong chương trình Ngữ Văn THCS
TT Tên bài Số tiết Lớp Tác giả Nguồn gốc
2 1. Thạch Sanh 6 Dân gian Việt Nam
2 2. Em bé thông minh 6 Dân gian Việt Nam
0 3. Sọ Dừa 6 Dân gian Việt Nam
1 4. Cây bút thần 6 Dân gian Trung Quốc
1 5. Ông lão đánh cá và con cá vàng 6 Puskin Nga
Bảng 1.3. Thống kê đơn vị bài học truyện cổ tích trong SGK Ngữ văn 10
TT Tên bài Số tiết Lớp Tác giả Nguồn gốc
2 1. Tấm Cám 10 Dân gian Việt Nam
1 2. Chử Đồng Tử 10 Dân gian Việt Nam
Từ bảng thống kê, có thể thấy, mảng truyện cổ tích cũng có số lƣợng
tiết nhất định trong chƣơng trình Ngữ Văn chủ yếu tập trung vào lớp 6 vì đây
là lứa tuổi chuyển giao giữa bậc Tiểu Học và THCS nên các em vẫn nhìn đời
bằng đôi mắt trong veo tin cậy, “suy nghĩ bằng hình ảnh”, sống với thế giới
của cái đẹp, của viễn tƣởng và sáng tạo. Trẻ cũng rất ƣa thích sự phiêu lƣu để
khám phá và ngạc nhiên trƣớc những bí mật của cuộc sống...Tất cả những
điều đó đã đƣa các em đến gần với cổ tích, thả mình bay bổng cùng với các
nhân vật của truyện để cho trí tƣởng tƣợng trẻ thơ có cơ hội du ngoạn đến
những xứ sở lạ kì. Quả thực rất khó tìm thấy một thế giới tràn đầy cái đẹp,
lung linh những biểu tƣợng đƣợm màu sắc huyền ảo nhƣ trong truyện cổ tích.
Đến với cổ tích chính là cơ hội cho trẻ nuôi dƣỡng, phát triển cảm xúc thẩm
mĩ và phát huy trí tƣởng tƣợng, đồng thời giúp chúng tìm tòi lẽ sống, làm
phong phú tình cảm, đem đến cho ta niềm vui, giúp con ngƣời sống tốt hơn,
nhân ái hơn. Nhƣ thế chính là trẻ đã đƣợc phát triển về mặt tâm hồn-một trong
hai mục đích chính của giáo dục THCS.
Đây cũng là lứa tuổi đang trong quá trình hình thành và phát triển nhân
39
cách, cần đƣợc thụ hƣởng những giá trị văn học, xây dựng những hình tƣợng
đẹp, tốt, tích cực (vì trẻ em hay có sự bắt chƣớc). Do vậy mà không phải ngẫu
nhiên trong chƣơng trình THCS, các nhà làm sách giáo khoa đã ƣu tiên khai
thác tƣơng đối sâu thể loại truyện cổ tích. một thể loại gắn bó mật thiết với
các em, là “món ăn tình thần” bổ ích cho các em. Truyện cổ tích vang lên
trong giờ tập đọc, giờ kể chuyện thổi vào tâm hồn trẻ thơ những cảm xúc, ƣớc
mơ, trí tƣởng tƣợng và niềm vui thích.
2.1.2. Thực trạng dạy và học VHDG và truyện cổ tích trong chương
trình Ngữ Văn THCS
2.1.2.1. Thực trạng dạy
Nói đến thực trạng của việc giảng dạy là nói đến những khuynh hƣớng
và cách PPDH truyện cổ tích phổ biến hiện nay.
Một là: Tách dời nội dung và hình thức. Trong thực tế giảng dạy văn
học hiện nay, không ít GV vi phạm điều này. Ngƣời dạy thƣờng tách nội dung
ra khỏi hình thức. Học tác phẩm văn học, hiểu ý nghĩa tƣ tƣởng của tác phẩm
nằm ngoài văn bản. Trong Trƣờng THCS việc giảng dạy mới chỉ qua loa chủ
yếu là tìm ý, nếu có giảng dạy dựa trên thi pháp thì cũng chỉ mang tính chiếu
lệ. Khi dạy VHDG nói chung và truyện cổ tích nói riêng trong trƣờng THCS
giáo viên và học sinh gặp rất nhiều khó khăn. Vì để tiếp nhận truyện cổ tích,
chúng ta phải có những kiến thức nhất định, sự hiểu biết sâu sắc những kiến
thức về thi pháp thể loại. Vì thế, GV thƣờng đồng nhất giữa văn học dân gian
và văn học viết, dạy văn học dân gian nhƣ dạy văn học viết, nên đã hiện đại
hóa tác phẩm văn học dân gian, tƣớc bỏ đi những sắc thái vẻ đẹp độc đáo, ý vị
vốn có của nó.
- Biểu hiện nhƣ sau:
+ Tiếp cận cận văn học dân gian bằng thi pháp của văn học viết, phân
tích các yếu tố nghệ thuật của văn học dân gian nhƣ phân tích các yếu tố đó
của văn học viết.
+ Chỉ phân tích một cách cô lập trên văn bản ngôn từ mà không đặt tác
40
phẩm văn học dân gian vào trong môi trƣờng dân gian, thời điểm phát sinh và
sự lƣu truyền trong đời sống nhân gian để khai thác tức là chỉ chú ý đến yếu
tố văn chƣơng mà chƣa quan tâm đến những yếu tố phi văn chƣơng của nó.
Đây là cách dạy văn học dân gian khá phổ biến ở trong nhà trƣờng THCS.
- Hai là: Ngƣợc lại với khuynh hƣớng trên là khuynh hƣớng xóa nhòa
ranh giới giữa khoa nghiên cứu văn học dân gian với các khoa học liên quan
nhƣ dân tộc học, lịch sử, xã hội học, văn hóa học, phong tục học… làm cho bài
dạy mất đi những thông tin thẩm mĩ mà chỉ còn lại bức tranh xã hội khô cứng.
- Ba là: dạy học đơn giản hóa truyện cổ tích - đây là cách dạy đang khá
phổ biến hiện nay mà biểu hiện thƣờng thấy là diễn xuôi một các khô khan
hoặc chia các nhân vật cổ tích thành hai tuyến chính nghĩa và gian tà rồi phân
tích một các sơ lƣợc theo lối kể tóm lại sự việc.
Bốn là: Một cực khác đó là dạy theo lối tầm chƣơng trích cú, làm cho
học sinh “thấy cây mà không thấy rừng”; hoặc viện dẫn quá xa, lan man ra
ngoài tác phẩm.
Một thực trạng nữa cũng cần phải nhắc đến đó là việc không đổi mới
PPDH của GV. GV lên lớp theo phƣơng pháp cũ, không sáng tạo. Chúng tôi
nhận thấy giáo viên thƣờng chỉ dựa vào những điều có sẵn trong sách giáo
khoa để trình bày vì thế giờ học rơi vào tình trạng hình thức. Nhiều khi, do
thời lƣợng trên lớp đƣợc quy định trong phân phối chƣơng trình nên GV chỉ
cố gắng làm thế nào để truyền đạt nội dung đủ mà không có nhiều thời gian
cho HS luyện tập, củng cố thông qua các trò chơi, các hình thức hoạt động
trải nghiệm sáng tạo… nên chƣa tạo đƣợc hứng thú học tập ở HS, khiến các
em không chủ động, sang tạo trong học tập mà học một cách thụ động.
2.1.2.2. Thực trạng học
Tâm lí học lứa tuổi xác định lứa tuổi HS THCS là tuổi đang bƣớc vào
giai đoạn dậy thì, cần đƣợc nghiên cứu một cách phức hợp, phải kết hợp quan
điểm tâm lí học xã hội với việc tính đến những quy luật bên trong của sự phát
triển. Hoạt động của HS trong độ tuổi này ngày càng phong phú và phức tạp
41
nên vai trò xã hội và hứng thú xã hội của HS không chỉ mở rộng về số lƣợng và
phạm vi mà còn biến đổi cả về chất lƣợng. Hoạt động học tập đòi hỏi tính năng
động và tính độc lập ở mức độ cao hơn nhiều, đồng thời cũng đòi hỏi, muốn
nắm đƣợc chƣơng trình một cách sâu sắc thì cần phát triển tƣ duy lí luận.
Tâm lí HS ngày nay có sự thay đổi đáng kể, chủ động, mạnh mẽ và
quyết liệt hơn thế hệ trƣớc. Do điều kiện sống thay đổi, do đƣợc tiếp xúc với
rất nhiều kênh thông tin, các em linh hoạt hơn, thực tế hơn, có vốn hiểu biết
khá phong phú. Các em có sự phát triển tâm lí khá mạnh nên dạy học phải coi
trọng vấn đề phát triển tiền năng trí tuệ thuộc về chức năng bán cầu não, nơi
giữ vai trò tạo cảm xúc, trực giác, sáng tạo của con ngƣời. Các em bắt đầu xác
định đƣợc động cơ học tập, xác định đƣợc cho mình hứng thú tƣơng đối ổn
định đối với mỗi môn học, vì thế các em có thái độ học tập tích cực hơn. Đây
là cơ sở quan trọng thúc đẩy hoạt động sáng tạo của HS ở các môn nói chung
và môn Ngữ văn nói riêng.
Tuy nhiên, trên thực tế, HS ngày càng xa rời với môn văn, đặc biệt là
với văn học dân gian trong đó có truyện cổ tích. Có thể lí giải điều đó là do
khoảng cách khá xa về thời gian lịch sử khiến các em chƣa hiểu đƣợc đặc
trƣng, vai trò của truyện cổ tích vì thế các em học truyện cổ tích với tâm thế
của việc học văn học viết. Dẫn đến việc các em có nhiều suy diễn không hợp
lí về tác phẩm. Nhiều em có thái độ xem nhẹ bộ phận văn học dân gian, học
theo kiểu cƣỡi ngựa xem hoa.
HS THCS so với lứa tuổi Tiểu học đã có bƣớc nhận thức cao hơn
không chỉ nhìn mọi việc bằng đôi mắt trong veo và ngây thơ mà ngày càng
trƣởng thành, kinh nghiệm cuộc sống phong phú hơn, nhận thức cũng cao
hơn. các em ý thức đƣợc việc mình làm và có sự lựa chọn của bản thân. Do
đó, thái độ có ý thức của các em đối với học tập khá rõ nét, mức độ tập trung
đối với các môn học trở nên có sự lựa chọn hơn. Ở các em đã hình thành
những hứng thú học tập gắn liền với xu hƣớng nghề nghiệp. Thực tế này ảnh
hƣởng nhiều đến tâm lí tiếp nhận văn chƣơng. Trong thời đại khoa học công
42
nghệ phát triển nhƣ ngày nay, mọi ngành nghề đều đòi hỏi con ngƣời có kỹ
năng, sáng tạo, nhạy bén trong tƣ duy. Điều đó dẫn tới thực trạng những bộ
môn Khoa học tự nhiên đƣợc ƣa chuộng và đƣợc “coi trọng” hơn những bộ
môn Khoa học xã hội trong đó có môn Ngữ văn. Tâm lí coi nhẹ đó tạo ra lối
học “cử tử”, chống đối, học một cách vô cảm trong khi Ngữ văn là bộ môn có
nhiệm vụ bồi dƣỡng tình cảm.
HS THCS thuộc lứa tuổi trí tuệ phát triển mạnh. Hoạt động trí tuệ ở lứa
tuổi này tăng lên rõ rệt. Các em có khả năng ghi nhớ kiến thức và phân hóa
kiến thức đã ghi nhớ rất nhanh. Đặc biệt là khả năng khái quát hóa, tổng hợp
hóa vấn đề và có khả năng tƣ duy trừu tƣợng. Bởi vậy, không phải khi nào HS
THCS cũng công nhận ngay những kiến thức mà thầy cô truyền giảng. Các em
thƣờng xuất phát từ tƣ duy đối lập, có sự độc lập trong suy nghĩ, tạo tiền đề cho
những ý tƣởng sáng tạo của mình. HS ngày nay cũng có thái độ thẳng thắn hơn,
dám biểu hiện trực tiếp thái độ của mình trƣớc một vấn đề nào đó. Chúng ta
không thể buộc HS nghe một chiều những lời ca ngợi, những điều lí tƣởng hóa
về những vấn đề xã hội, chính trị, văn hóa nghệ thuật quá ƣ cũ kỹ và xa lạ. HS
cảm nhận thực tế xã hội từ kinh nghiệm sống thực từ ngƣời thân, gia đình, phố
xóm và của chính bản thân mình với thái độ quan tâm đến thế giới xung quanh
mình, với niềm đam mê khám phá kiến thức. Các em có khả năng hình thành
thế giới quan cho bản thân mình để cảm nhận vấn đề trong cuộc sống cũng nhƣ
trong văn học không phải bằng linh cảm, cảm giác mà bằng quan điểm, chính
kiến có hệ thống rõ ràng. Chính vì vậy, chúng ta không thể áp dụng lối dạy cũ
theo kiểu một chiều “thầy đọc - trò chép”. Cách dạy này dễ khiến HS rơi vào
tâm lí chán nản, nặng nề đối với bộ môn Ngữ văn.
Khác với các em nhỏ tuổi hoàn toàn bị cuốn vào thế giới bên ngoài, HS
các em lớp lớn trong nhà trƣờng lại cố gắng tìm hiểu cái thế giới bên ngoài ấy
nhằm tìm cho mình chỗ đứng trong đó và tìm cho mình chỗ dựa để xác lập
quan điểm và niềm tin của mình. Ở mỗi con ngƣời luôn tiềm ẩn những khả
năng sáng tạo vô tận, mỗi ngƣời nhƣ một máy tính khổng lồ và khả năng ấy
43
tiềm ẩn ở lứa tuổi thiếu niên lại càng lớn. HS THCS bƣớc vào giai đoạn đầu
của lứa tuổi thanh niên nên hệ thần kinh có sự thay đổi quan trọng. Tất cả
những thay đổi ấy tạo điều kiện cho sự phát triển của trí thông minh, sáng tạo,
cho khả năng phát triển hoạt động phân tích tổng hợp trong quá trình học tập
cũng nhƣ trong nhận thức về cuộc sống xã hội.
Cũng từ sự phát triển đó, vai trò xã hội của HS THCS bắt đầu đƣợc
quan tâm. Mọi ngƣời bắt đầu có thái độ tôn trọng ý kiến của các em và ngƣợc
lại, các em cũng bắt đầu quan tâm đến các vấn đề xung quanh mình. Các em
có nhu cầu tự khẳng định và đòi hỏi sự tôn trọng của mọi ngƣời đối với mình.
Song, lứa tuổi này còn bồng bột, khó tránh những sai lầm trong đánh giá. Dù
sao đó cũng là dấu hiệu cho thấy một trình độ, một nhân cách đang trƣởng
thành, vì vậy, dù ý kiến của các em có sai hay đi quá xa ý đồ nghệ thuật của
tác giả trong tác phẩm thì ngƣời GV vẫn phải có thái độ nghiêm túc, tôn
trọng, lắng nghe ý kiến đó. Phƣơng pháp tốt nhất là ngƣời thầy vừa kết hợp
giữa việc lắng nghe ý kiến của học trò vừa có phƣơng pháp, biện pháp định
hƣớng cho các em đạt tới đƣợc chân lí của khoa học, hình thành trong các em
một cách suy nghĩ và đánh giá đúng.
Để có một phƣơng pháp dạy học thích hợp không thể nào không nắm
vững tâm lí tiếp nhận văn chƣơng của HS, những phản ứng chung và riêng của
HS với tác phẩm nghệ thuật ở các mức độ của sự phát triển tâm lí lứa tuổi.
Ở độ tuổi này, HS có khả năng tiếp thu nhanh, dễ đồng cảm, dễ điều
chỉnh tầm đón nhận nhƣng cũng thiếu hụt một độ sâu, độ ghi nhớ cần thiết và
nhất là thiếu kinh nghiệm thẩm mĩ, một dữ liệu cho khả năng sáng tạo.
Nguyên nhân có thể do sự khác nhau của HS về mặt xã hội nhƣ: nguồn gốc
xuất thân, học vấn, trình độ thẩm mĩ, hiểu biết chung về văn học nghệ thuật,
nguồn tài liệu… Nó còn do tính cá thể, cụ thể của từng HS nhƣ: cá tính, thiên
hƣớng, đời sống tâm lí và đặc biệt là thị hiếu thẩm mĩ, nhu cầu thẩm mĩ, lí
tƣởng thẩm mĩ. GV cần chấp nhận khoảng cách đó trong dạy văn với lƣu ý
rằng: Những khoảng cách cá nhân tƣơng đối đồng bộ với tầm đón nhận làm
44
cơ sở cho tƣởng tƣợng sáng tạo cần đƣợc khuyến khích, đi đôi với ngăn ngừa,
hạn chế những liên tƣởng tản mạn, lệch lạc ngoài tác phẩm. Vì thế, GV phải
tìm ra phƣơng pháp dạy học thích hợp để hoạt động học của HS đạt hiệu quả
cao, vừa đảm bảo tính khoa học khách quan, vừa phát huy đƣợc tính chủ quan
sáng tạo của học trò.
Tiểu kết chƣơng 1
Từ những cơ sở lí luận và xuất phát từ thực tiễn nêu trên, chúng tôi
nhận thấy muốn giảng dạy tốt truyện cổ tích ở bậc THCS, giáo viên phải có
những biện pháp thích hợp gắn với việc vận dụng thi pháp của văn học
trung đại để hƣớng dẫn học sinh tìm hiểu kỹ hơn, sâu hơn về truyện cổ tích.
Hiểu đƣợc thi pháp thì mới có cơ sở để hiểu cách xây dựng nhân vật, sử
dụng ngôn ngữ, kết cấu, các biện pháp nghệ thuật và quan niệm nhân sinh
của tác giả dân gian biểu hiện trong từng tác phẩm cụ thể. Vì vậy chúng tôi
đề xuất một một số biện pháp dạy học truyện cổ tích theo hƣớng vận dụng
45
thi pháp thể loại ở chƣơng 2.
CHƢƠNG 2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC TRUYỆN CỔ TÍCH BẬC
TRUNG HỌC CƠ SỞ THEO HƢỚNG TIẾP CẬN THI PHÁP
Có rất nhiều các biện pháp dạy học truyện cổ tích song đề phù hợp với
đề tài đã lựa chọn, tôi đƣa ra một số phƣơng pháp dạy học với đặc trƣng thi
pháp thể loại dựa trên bốn nguyên tắc dạy học thể loại trong đó chú trọng các
biện pháp dạy học phát huy đƣợc năng lực tƣởng tƣợng của HS bởi trí tƣởng
tƣợng có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống và trong sự phát triển tâm lí của HS
lứa tuổi THCS. Một mặt, sự làm việc không mệt mỏi của trí tƣởng tƣợng là
con đƣờng giúp các em nhận thức và tìm hiểu thế giới xung quanh vƣợt ra
khỏi giới hạn kinh nghiệm cá nhân chật hẹp. Mặt khác, sự tự do và tính phi
khuôn mẫu trong sáng tạo tƣởng tƣợng tạo ra sự ngây thơ, hồn nhiên trong
nhận thức nói riêng và tâm hồn nói chung của HS.
Trong quá trình phát triển trí tƣởng tƣợng của HS, truyện cổ tích là một
trong những tác nhân quan trọng bởi truyện cổ tích vốn là “một sáng tạo độc đáo
của trí tưởng tượng dân gian” [27, tr. 347]. Mặc dầu trong mỗi truyện cổ tích
đều có những yếu tố thực tế nhƣng những yếu tố ấy đã đƣợc trí tƣởng tƣợng dân
gian nhào nặn, hƣ cấu để xây dựng một thế giới khác với thế giới thực tại – thế
giới cổ tích. Cái không có thực của cổ tích mang tính chất hoang đƣờng, và
tƣởng tƣợng trong cổ tích không giống tƣởng tƣợng trong thơ ca mà tạo nên tính
chất kì lạ, khác thƣờng của câu chuyện kể. Điều này làm nên “thế giới cổ tích”
với chất thơ bay bổng, có sức cuốn hút kì diệu - một thế giới trong đó “sự giản dị
đẹp đẽ, sự dốt nát kì diệu của người thời cổ…được bảo quản tươi nguyên như
hoa với cả hương thơm” Chính nó đã đƣa các em đến với thế giới thần tiên, thế
giới huyền ảo của những giấc mơ, kích thích sự say mê, hòa mình vào cuộc sống
trong truyện, cùng vui cùng buồn, tự đồng nhất mình với nhân vật mà các em
yêu thích. Nhờ vậy mà sức tƣởng tƣợng càng đƣợc phát huy, giúp các em thể
hiện ƣớc mơ của mình.
46
Ngoài ra, trong quá trình các em đƣợc lắng nghe kể chuyện, đƣợc học
và phân tích truyện sẽ kích thích và phát triển trí tuệ ngôn ngữ của trẻ, làm
giàu hơn vốn từ vựng cũng nhƣ khả năng phân tích thông tin của các em trong
quá trình giao tiếp. Vì thế, một trong những năng lực cần hƣớng đến khi dạy
học truyện cổ tích chính là năng lực tƣởng tƣợng, sáng tạo. Với đề tài này, tôi
xin đƣợc đề xuất một số số PPDH và các dạng bài tập tạo cảm hứng, hứng thú
cho HS, đi sâu vào việc bồi dƣỡng năng lực tƣởng tƣợng cho HS mà bản thân
đã thực hiện thấy khả thi mà vẫn tuân thủ các nguyên tắc dạy học theo đặc
trƣng thi pháp thể loại.
Nguyên tắc thứ nhất: Dạy học tác phẩm theo hƣớng tiếp cận thi pháp
học phải đi từ văn bản.
Nguyên tắc thứ hai: dạy học tác phẩm theo hƣớng tiếp cận thi pháp học
phải tuân theo các đặc trƣng thi pháp thể loại.
Nguyên tắc thứ ba: Dạy học tác phẩm theo hƣớng tiếp cận thi pháp học
phải đặt HS vào trung tâm của quá trình dạy học
Nguyên tắc thứ tƣ: dạy học tác phẩm theo hƣớng tiếp cận thi pháp học
phải tích hợp các cách tiếp cận, các phƣơng pháp, biện pháp và công cụ dạy
học một cách thích hợp.
2.1. Dạy - học truyện cổ tích qua biện pháp so sánh
Trong nhận thức thế giới quan, kĩ năng so sánh bao giờ cũng giúp
chúng ta phát hiện ra đặc điểm chung, cái mới cũng nhƣ cái khác biệt.
Trong dạy học tác phẩm văn chƣơng nói chung và truyện cổ tích nói riêng,
so sánh làm HS dễ dàng hình dung, nắm bắt đối tƣợng cần phân tích đồng
thời mở ra cho các em một trƣờng liên tƣởng phong phú, ghi nhớ các chi
tiết nghệ thuật trong tác phẩm có tính hệ thống, làm giàu có, phong phú
kiến thức văn học cho các em.
Theo tác giả Chu Xuân Diên So sánh (hoặc so sánh đôi chiếu) là một
thao tác nghiên cứu được dung trong nhiều ngành khoa học khác nhau. Vai
trò quan trọng ít hay nhiều của thao tác nghiên cứu này là tùy thuộc vào đặc
điểm bản chất của đối tượng nghiên cứu, và do đó vào nhiệm vụ của ngành
47
khoa học nghiên cứu đối tượng ấy. Có những ngành khoa học nếu không vận
dụng phương pháp nghiên cứu so sánh thì không thể giải quyết nổi những vấn
đề cơ bản phát sinh trong quá trình nghiên cứu đối tượng” [5].
Nhƣ vậy, có thể hiểu so sánh trong phân tích văn học là phƣơng pháp
đối chiếu giữa các hiện tƣợng thơ văn có ý tƣơng đồng hoặc tƣơng phản ở
trong văn học, thuộc một tác phẩm hoặc những tác phẩm của cùng tác giả
hay khác tác giả; giữa tác phẩm với thời đại, với cuộc sống lớn nhỏ; giữa
tác phẩm văn học với các loại hình nghệ thuật khác, mục đích làm sáng tỏ
bài văn, bài thơ.
Việc vận dụng phƣơng pháp so sánh giúp cho việc phân tích tác phẩm
đƣợc sâu sắc hơn; quá trình tìm hiểu, khám phá tác phẩm diễn ra phong phú
và sinh động hơn, từ đó giúp cho sự cảm nhận về tác phẩm đƣợc sâu sắc.
Sử dụng tốt phƣơng pháp so sánh sẽ tạo đƣợc hiệu quả thẩm mĩ cho
tiến trình dạy học văn. Giờ dạy sẽ trở nên sinh động, phát huy đƣợc tính tích
cực của học sinh nếu phƣơng pháp so sánh đƣợc vận dụng một cách hiệu quả.
Nguyên tắc: Giới hạn so sánh trong phân tích tác phẩm văn học dựa
vào cơ cấu nội tại của tác phẩm và mối quan hệ vốn có của tác phẩm. Việc so
sánh luôn đƣợc xác định trên cơ sở nguyên tắc chặt chẽ.
- Một nguyên tắc hàng đầu so sánh văn học là không đƣợc lấy nội dung
so sánh thay thế cho việc khám phá, phân tích tác phẩm.
- Khi sử dụng phƣơng pháp so sánh trong giảng dạy tác phẩm văn học,
ngƣời giáo viên phải thận trọng trong việc lựa chọn nội dung (đối tƣợng) so
sánh. Bởi không phải tác phẩm văn học nào khi giảng dạy cũng cần phải sử
dụng phƣơng pháp so sánh.
Đặc biệt, việc lựa chọn đối tƣợng so sánh phải đảm bảo tôn trọng tính
chỉnh thể của bài văn, bài thơ, không đƣợc tách chọn một từ ngữ, một hình
ảnh, một chi tiết ra khỏi chỉnh thể để so sánh. Điều này đòi hỏi ngƣời giáo
viên khi sử dụng phƣơng pháp so sánh cần phải biết: so sánh cái gì trong tác
phẩm mình giảng dạy. Tránh đƣợc tình trạng so sánh một cách tùy tiện, vớ
vẩn làm mất thời gian mà hiệu quả lại kém, thậm chí làm cản trở quá trình
48
phân tích, khám phá, chiếm lĩnh tác phẩm của học sinh.
Nội dung so sánh phải là những hiện tƣợng thơ văn hàm chứa những vẻ
đẹp độc đáo, là vấn đề mang tính đặc sắc biểu hiện cho nội dung quan trọng
hoặc giá trị nghệ thuật tiêu biểu của tác phẩm.
- Nội dung so sánh phải có mối quan hệ tƣơng đồng hoặc tƣơng phản ở
một số phƣơng diện với những những hiện tƣợng thơ văn khác trong tác phẩm
hoặc ngoài tác phẩm mà học sinh đã đƣợc tiếp cận.
Để xác định phạm vi so sánh giáo viên cần căn cứ vào những phạm vi
(nhóm so sánh) sau:
Nhóm So sánh thứ nhất: So sánh thể loại này với thể loại khác, tác
phẩm này với tác phẩm khác.
Ví dụ 1: Khi dạy phần truyện Thạch Sanh, khi giới thiệu về đặc điểm
truyện cổ tích, tôi đặt ra câu hỏi để HS thảo luận nhóm nhằm so sánh về thể loại:
? Các em đã được học truyện truyền thuyết ở những tiết học trước và
hôm nay, được tìm hiểu thêm thể loại truyện cổ tích, em thấy hai thể loại
truyện này có đặc điểm gì giống và khác nhau?
Khác nhau
Thể loại Giống nhau
Mục đích sang tác
Kiểu nhân vật chính
Đặc điểm nghệ thuật
Nội dung phản ánh
Truyện truyền thuyết
Nhân vật lịch đƣợc sử truyền thuyết hóa
tố
Bày tỏ thái độ và cách đánh giá của nhân dân về các nhân vật và sự kiện lịch sử
Kể về các sự kiện và nhân vật lịch sử có thật nhƣng đã đƣợc khúc xạ qua một cốt truyện hƣ cấu
lõi Từ cái của sự thật lịch sử đƣợc hƣ cấu tạo ra các yếu tố hoang đƣờng, kì ảo
Là thể loại tự sự của VHDG. Có yếu hoang đƣờng, kì ảo.
Truyện cổ tích
thúc có
Truyện hoàn toàn do hƣ câú Kết thƣờng hậu
Kể về các xung đột xã hội, sự đấu tranh giữa thiện = ác, chính nghĩa = gian tà.
Thể hiện nguyện vọng, ƣớc mơ của nhân dân trong xã hội có giai cấp, chính nghĩa thắng gian tà.
kể về cuộc đời số của một kiểu nhân vật thuộc quen tài (dũng sĩ, năng kì lạ, thông minh…),
49
Ví dụ 2: Khi dạy phần truyện Em bé thông minh, sau khi HS tìm hiểu
xong phân các thử thách mà em bé đã trải qua. Tôi đƣa ra câu hỏi để giúp các
em củng cố về đặc điểm mô tuýp thƣờng thể hiện trong truyện cổ tích.
? Cả Thạch Sanh và em bé thông minh đều phải trải qua bốn lần thử
thách. Đây là một mô tuýp quen thuộc trong truyện cổ tích. Em hãy chỉ ra sự
giống và khác nhau trong các lần thử thách đó ở hai truyện Thạch Sanh và
Em bé thông minh?
Ngƣời ra
Thử thách
Nội dung câu đố
Cách giải
Thú vị
câu đố
Lần 1
Viên quan Trâu cày ngày
mấy đƣờng
Đố vặn lại viên quan
Đẩy thế bị động sang ngƣời đố
Lần 2
Vua
trâu đực đẻ Ba thành chin trâu con
Chỉ ra sự vô lí ở câu đố
Đƣa vào bẫy tự nói ra điều phi lí
Lần 3
Vua
Một con chim sẻ làm ba mâm cỗ
Đố vặn lại nhà vua
Lấy “gậy ông đập lƣng ông”
Lần 4
Sứ thần Xâu chỉ qua ruột
Hát bài đồng dao Kinh nghiệm đời
con ốc vặn
sống dân gian
- Giống nhau:
+ Đều trải qua 4 lần thử thách, các thử thách ngày càng tăng dần về
50
mức độ khó và các nhân vật chính đều vượt qua được.
+ Thông qua các thử thách góp phần bộc lộ đặc điểm tính cách nhân vật
- Khác nhau:
+ Em bé thông mình thì sử dụng trí thông minh của mình cũng như vận
dụng kinh nghiệm dân gian để giải quyết, không có sự trợ giúp của các yếu tố
thần kì.
+ Thạch Sanh có sự hỗ trợ của các vật dụng thần kì.
Nhóm So sánh thứ hai: So sánh những yếu tố trong bản thân tác phẩm.
Ví dụ 3: Khi dạy phần truyện Thạch Sanh, để HS hiểu rõ hơn về các
tuyến nhân vật trong truyện cổ tích, tôi có yêu cầu HS thảo luận nhóm nhằm
so sánh về nhân vật.
? Em hãy liệt kê các sự việc, hành động của hai nhân vật Thạch Sanh
và Lí Thông, từ đó, em hãy nêu sự khác nhau về đặc điểm tính cách của hai
nhân vật này.
Hành động
Đặc điểm tính cách Kiểu nhân vật
+ Thật thà, chất phác
Thạch Sanh + Diệt chằn tinh
+ Nhân vật tốt, làm điều thiện
+ Giết đại bàng
+ Dũng cảm, tài năng
+ Cứu công chúa
+ Nhân vật chính diện
+ Anh hùng, cao thƣợng
+ Cứu thái tử con vua thủy tề
+ Nhân đạo, yêu hòa bình
+ Thu phục quân 18 nƣớc chƣ hầu
+ Lừa dối, xảo tráo.
Lí Thông + Kết nghĩa, mời Thạch Sanh về ở cùng
+ Ích kỉ
+ Nhân vật xấu, làm điều ác
+ Tiểu nhân
+ Nhân vật
+ Lừa Thạch Sanh nộp mạng cho chằn tinh
+ Thấp hèn
phản diện.
+ Lừa Thạch Sanh đi diệt đại bàng cứu công chúa, tàn nhẫn lấp cửa hang sát hại
Các bƣớc tiến hành:
51
Để việc so sánh không trở nên sai lệch, lan man, bƣớc tiếp theo giáo
viên cần đặt ra và trả lời đƣợc vấn đề: so sánh trong trƣờng hợp này là nhằm
để làm gì ? Có nghĩa là giáo viên phải xác định rõ mục đích của việc so sánh
trƣớc khi tiến hành so sánh.
Công việc này giúp cho việc so sánh đƣợc chủ động hơn, đồng thời
tránh đƣợc tình trạng so sánh lan mang trong việc phân tích tác phẩm và sự
nhầm lẫn khi lấy nội dung so sánh thay cho nội dung kiến thức cần rút ra khi
phân tích, khám phá tác phẩm.
Việc xác định mục đích so sánh là công việc cần thiết mang tính định
hƣớng cho quá trình so sánh, nếu giáo viên không thực hiện đƣợc bƣớc này sẽ
khó mang lại hiệu quả nhƣ mong muốn.
Khi đã tiến hành xong các bƣớc trên nghĩa là ngƣời giáo viên đã có đƣợc
những điều kiện cần thiết để tiến hành so sánh, điều còn lại quyết định mức độ
thành bại của công việc này chính là cách thức tiến hành so sánh của giáo viên.
Khi tiến hành so sánh giáo viên cần thực hiện đảm bảo những yêu cầu sau:
- Thiết kế các câu hỏi so sánh: câu hỏi so sánh phải dứt khoát, rõ ràng,
thể hiện rõ yêu cầu so sánh
Làm chủ hoạt động so sánh: phải biết dừng lại đúng lúc, không đƣợc
tùy tiện mà liên hệ hoặc lạm dụng phân tích sa đà vào đối tƣợng để so sánh
khiến việc so sánh không phát huy đƣợc tác dụng ngƣợc lại còn làm phá hỏng
tính hệ thống của tiến trình bài giảng.
2.2. Dạy - học truyện cổ tích qua biện pháp đọc sáng tạo
Theo Phan Trọng Luận, trong cuốn Phương pháp dạy học văn, việc dạy
học các tác phẩm văn học trong nhà trƣờng có khá nhiều biến đổi, chịu ảnh
hƣởng từ các khuynh hƣớng và phƣơng pháp phê bình văn học với ba nhóm
tiếp cận nhƣ sau: Quan điểm tiếp cận lịch sử phát sinh, quan điểm tiếp cận
văn bản, quan điểm tiếp cận hƣớng vào đáp ứng của HS.
Từ vai trò của ngƣời đọc và tính chất đồng sáng tạo trong sáng tác
nghiên cứu văn học chúng ta nghĩ về việc phát huy vai trò “ngƣời đọc sáng
tạo” của HS trong tiết học đọc hiểu văn bản, môn Ngữ Văn. Có thể nói nó
52
chính là cách thức cụ thể hóa quan điểm tiếp cận hƣớng vào đáp ứng của HS.
Trong giờ dạy đọc hiểu văn bản nói chung và truyện cổ tích nói riêng là
giờ học mang tính nghệ thuật, ngƣời giáo viên dạy văn là một nhà khoa học,
một nhà sƣ phạm nhƣng cũng là một nghệ sĩ. Quá trình dạy học, ở một
phƣơng diện nào đó, nhƣ một hình thức diễn xƣớng và cảm thụ tác phẩm.
Trƣớc đây, sự thành công của giờ đọc hiểu văn bản truyện cổ tích đƣợc đánh
giá phần lớn dựa trên năng lực cảm thụ, phân tích, phẩm bình và truyền tải
của ngƣời thầy. Nhƣng hiện nay, dƣới tƣ duy đổi mới dạy học, chúng ta hiểu
rằng: để giờ văn thực sự đi sâu vào tâm trí của ngƣời học, ngƣời thầy không
chỉ thấu hiểu và truyền tải tƣ tƣởng, tình cảm của nhà văn đến với HS, mà có
phải đủ tài - tâm để đánh thức những năng khiếu cảm thụ, những xúc cảm
tiềm ẩn, những tri nhận và phát huy năng lực tƣởng tƣợng của HS. Muốn làm
đƣợc điều đó rất quan trọng là đánh giá đúng vai trò của “ngƣời đọc sáng tạo”
của học sinh. Tính tích cực, sáng tạo của HS chỉ có thể đƣợc phát huy triệt để
khi chúng ta cho các em đƣợc đọc, cảm và phát biểu những tình cảm tự nhiên,
dƣới sự dẫn dắt, định hƣớng của thầy cô. Đây cũng là hình thức dân chủ, thể
hiện tính chất của môi trƣờng giáo dục thân thiện, Thầy và trò đƣợc kết nối
trong sự sẻ chia để cùng đi đến đích là khám phá giá trị tác phẩm. Do đó,
trong các phƣơng pháp dạy học truyện cổ tích theo hƣớng tiếp cận thi pháp,
tôi lựa chọn phƣơng pháp đọc sáng tạo, một PPDH tích cực. Atmuxơ cho
rằng: “Đọc cũng là một lao động và sáng tạo”. Vì bản chất đó, đọc sáng tạo đƣợc
coi là một phƣơng pháp quan trọng trong dạy học văn. Theo Nguyễn Viết Chữ,
khoa Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội thì đây là một trong bốn phƣơng pháp lớn của dạy
học văn học với các phƣơng pháp đặc trƣng: phƣơng pháp đọc sáng tạo, phƣơng
pháp gợi tìm, phƣơng pháp nghiên cứu, phƣơng pháp tái tạo [3, tr.19 - 27]. Điểm
trung tâm, hạt nhân cần chú ý của phƣơng pháp vẫn là việc đọc và các hoạt
động hỗ trợ cho đọc, gồm nhiều biện pháp khác nhau. Mục đích của nó là trực
tiếp phát huy những cảm nhận của độc giả với tác phẩm văn chƣơng, nâng
cao năng lực bộc lộ cảm xúc cá nhân trƣớc cái hay cái đẹp và óc phê bình, trí
sáng tạo. Trong công trình nghiên cứu Phương pháp dạy học tác phẩm văn
53
chương theo loại thể, Nguyễn Viết Chữ khẳng định hoạt động này “đòi hỏi ngƣời
đọc, ngƣời nghe đều phải chú ý đến từ, câu, nhịp điệu gây cảm xúc và kích thích
hoạt đông hình dung tƣởng tƣợng, biết phân tích, đánh giá tác phẩm. Ngƣời đọc,
ngƣời nghe, bên cạnh những rung động sâu sắc trong tâm hồn còn biết chịu ảnh
hƣởng cách nói, cách viết gợi cảm”. Đó cũng là mục tiêu của phƣơng pháp này.
Các mức độ đọc trong phƣơng pháp “Đọc sáng tạo” bao gồm: đọc đúng, đọc
diễn cảm, cao nhất là đọc nghệ thuật với những biện pháp thực hiện khác
nhau. Việc đọc cần thực hiện đƣợc tám yêu cầu cơ bản sau:
1. Giản dị và tự nhiên
2. Thâm nhập vào nội dung tƣ tƣởng nghệ thuật của tác phẩm ở mức dễ
hiểu với mọi lứa tuổi.
3. Truyền đạt rõ ràng tƣ tƣởng tác giả
4. Thể hiện trình độ của mình với tác phẩm đƣợc đọc
5. Thái độ tiếp xúc nhiệt tình với ngƣời nghe
6. Phát âm rõ ràng, chính xác
7. Truyền đạt đƣợc đặc điểm loại thể và phong cách tác phẩm
8. Kỹ năng sử dụng đúng giọng của mình
Trong giới hạn đề tài của mình, tôi thấy có ba phƣơng pháp áp dụng
đƣợc khả thi trong dạy học truyện cổ tích theo hƣớng tiếp cận thi pháp là: đọc
diễn cảm, đọc phân vai hoặc nhập vai.
2.2.1. Đọc diễn cảm
Đọc diễn cảm là một phƣơng pháp đã đƣợc tiến hành trong nhà trƣờng
từ lâu đồng thời cũng là phƣơng tiện giáo dục đạo đức và thẩm mĩ, phát huy
năng lực sáng tạo cho cả ngƣời dạy và ngƣời học trong quá trình học văn.
Đọc diễn cảm (còn gọi là đọc hay) là một hình thức bộc lộ cảm thụ văn
bản. Qua đọc diễn cảm, ngƣời giáo viên sẽ đo đƣợc mức độ cảm thụ của học
sinh. Vì thế có thể nói: “Đọc diễn cảm là một kỹ xảo của quá trình đọc.”
Cơ sở của việc đọc diễn cảm là ngữ điệu trong câu. Ngữ điệu bao gồm
tất cả các dấu hiệu âm thanh phức tạp: Sự thay đổi của giọng nói cơ bản, độ
vang to, âm sắc, độ dài, chỉ nghĩ hơi (những chỉ ngắt câu).
54
Nhiệm vụ của việc đọc diễn cảm là tái hiện lại hình tƣợng nghệ thuật,
hiểu đƣợc giá trị nội dung nghệ thuật và chủ đề tác phẩm một cách chân thực.
Qua đọc có thể giúp cho học sinh rèn luyện kỹ năng tổng hợp, phê phán vận
dụng những kỹ năng đã học để cảm nhận những giá trị thẩm mĩ của văn bản.
Ngay từ lần tiếp xúc đầu tiên đã quyết định vấn đề học sinh có yêu thích tác
phẩm hay không. Những ấn tƣợng ban đầu là những ấn tƣợng mới mẻ, là “nền
móng” cho sự sáng tạo trong quá trình phân tích văn bản. kỹ năng đọc diễn
cảm của học sinh sẽ đƣợc hình thành trong quá trình phân tích tác phẩm văn
học và trong quá trình biểu diễn những tác phẩm đó. Có nghĩa là việc rèn
luyện đọc diễn cảm sẽ có tác dụng góp phần làm hoàn thiện ngôn ngữ. Đó là
một trong những hình thức phát triển ngôn ngữ nói của học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài Thạch Sanh, giáo viên có thể hướng dẫn HS đọc truyện:
+ Khi giới thiệu về nguồn gốc, lai lịch của Thạch Sanh: giọng chậm
rãi, sâu lắng ở đoạn đầu gợi không khí cổ tích xa xưa.
+ Đoạn miêu tả các trận đánh với Chằn Tinh, Đại bàng: Giọng say sưa.
+ Đoạn Thạch Sanh thu phục quân sĩ mười tám nước chư hầu và kết
truyện: Giọng hân hoan, thán phục.
Nghệ thuật đọc diễn cảm là quá trình rèn luyện lâu dài, không ngừng
tích lũy kiến thức và rèn luyện kỹ năng dần dần từng bƣớc bởi: Đọc diễn cảm
đòi hỏi ngƣời nghe, ngƣời đọc - HS phải tích cực, sáng tạo, phát huy cao độ
vai trò chủ thể cảm thụ
Đọc diễn cảm chứa đựng khả năng phát triển tính tích cực, sáng tạo ở
ngƣời đọc - HS
Đọc diễn cảm làm cho sự cảm thụ của ngƣời đọc, ngƣời nghe trở nên
sâu sắc và thấm thía hơn, đồng thời gia tăng hiệu quả tiếp nhận
Đọc diễn cảm là hoạt động tri giác, kích thích liên tƣởng, tƣởng tƣợng,
hồi ức giúp ngƣời đọc nhập thân vào tác phẩm.
Trong bất kì trƣờng hợp nào không thể tách rời hoạt động đọc với tìm
hiểu văn bản. Giáo viên có thể hổ trợ HS bằng những câu hỏi hay những gợi ý
55
trong giờ học.
Không thể tuyệt đối hóa vai trò của đọc diễn cảm trong việc quyết định
chất lƣợng cảm thụ nghệ thuật, rằng chỉ có đọc diễn cảm mới làm cho nhận
thức thẩm mĩ trở nên sâu sắc hơn, nhƣng cũng không nên phủ nhận hiệu lực
gia tăng cƣờng độ cảm xúc, tạo nên những chấn động mạnh mẽ trong tâm cảm
ngƣời tiếp thụ văn học của phƣơng pháp này ở những chặng sau của quá trình
tiếp nhận văn chƣơng:
• Truyền đạt đƣợc đặc điểm về thể loại và phong cách của tác phẩm.
• Giúp ngƣời giáo viên đo đƣợc mức độ cảm thụ của HS, Thể hiện rõ
thái độ của hs đói với tác phẩm.
• Góp phần tạo hứng thú và cảm hứng cho HS trong giờ học Văn học ở
nhà trƣờng, thoát khỏi sự đơn điệu, nhàm chán, để mỗi giờ học văn trở thành
một niềm vui, thực sự hấp dẫn, kích thích sự sáng tạo của học sinh.
• Hình thành cho học sinh các kỹ năng phân tích, bình giá, cảm thụ và
nghe tốt, nói tốt, viết tốt Tiếng Việt.
• Biết khai thác những ƣu điểm và hạn chế nhƣợc điểm của cá nhân
trong khi đọc. Có giọng đọc chân thực, bảo tồn đƣợc mối quan hệ truyền cảm
giao lƣu với ngƣời nghe.
Đọc diễn cảm chỉ thực sự thành công khi học sinh thực hiểu và rung
động với những gì văn bản đề cập đến. Việc xác lập cách đọc diễn cảm
phải dựa trên việc xác định giọng đọc (âm lƣợng to hay nhỏ, vui hay buồn,
sôi nổi hay nhẹ nhàng…), nhịp điệu đọc (tốc độ đọc nhanh hay chậm, dồn
dập hay chậm rãi…),và cách ngắt nhịp (theo dấu câu hoặc theo mạch cảm
xúc…) phù hợp với văn bản bởi văn chƣơng là câu chuyện “xuất tâm” và
“nhập tâm”. Thông qua tác phẩm văn học, nhà văn “xuất tâm” tƣ tƣởng,
tình cảm thái độ, tìm đến những tâm hồn đồng điệu. Ngƣời đọc lại từ văn
bản văn chƣơng “nhập tâm” vào thế giới nghệ thuật của nhà văn để đối
thoại, sẻ chia, thanh lọc. Và trong một số trƣờng hợp, ngƣời ta đã chứng
minh đƣợc rằng mĩ cảm của sự tiếp thu, lĩnh hội văn học nhiều khi đƣợc
56
quyết định bởi một giọng đọc truyền cảm.
2.2.2. Đọc phân vai hoặc nhập vai
Giống nhƣ đọc diễn cảm, đọc phân vai cũng sử dụng giọng đọc và sự
cảm nhận tác phẩm của ngƣời đọc nhƣng có điểm khác là trong đọc phân vai,
1 HS không đọc hết một văn bản truyện mà có sự xen kẽ giữa nhiều giọng
đọc, từ đó tạo không khí truyện và giúp các em hứng thú hơn khi đƣợc nhập
vai vào một nhân vật trong truyện để đọc.
Ví dụ: khi dạy truyện cổ tích “Ông lão đánh cá và con cá vàng”. Tôi đã
cho học sinh đọc và cảm nhận tác phẩm bằng cách phân vai. Tuy nhiên là tôi
phải chọn những học sinh có chất giọng đọc phù hợp với từng nhân vật như:
- Mụ vợ ông lão là người có lòng tham độ, chua ngoa, bội bạc. Vì thế,
tôi chọn một em nữ có giọng the thé và quát mắng cay độc.
- Ông lão đánh cá: với tính cách hiền lành, nhu nhược dẫn đến việc sợ
vợ. Nên khi đọc tôi có thể chọn một em nam có giọng đọc nhẹ nhàng, nhút
nhát, pha ít sợ sệt để thể hiện tính cách nhân vật. Vì ông lão là người nhu
nhược đều nghe theo sự chỉ dẫn của mụ vợ.
- Nhân vật cá vàng: là nhân vật thần tiên tượng trưng cho người có
tâm lòng bao dung, độ lượng đại diện cho cái thiện, lòng tốt. Nhưng cũng rất
cương quyết thẳng tay với người tham lam, bội bạc. Vì vậy tôi sẽ chọn một em
học sinh nam có giọng đọc to dịu dàng, để làm nổi bật tính cách nhân vật. Tất
nhiên là những em được tôi chọn đọc phải là những em biết nhập vai nhân
vật và có khả năng thể hiện nhân vật. Khi những tính cách nhân vật mà các
em đã nghe và đã cảm nhận được thì việc đưa các em vào phân tích truyện
cũng không khó khăn.
Bên cạnh đọc phân vai, kể chuyện nhập vai cũng là một biện pháp giáo dục
giúp HS thực hành cách ứng xử, bày tỏ thái độ trong những tình huống giả định
hoặc trên cơ sở óc tƣởng tƣợng và ý nghĩ sáng tạo của các em. Nhập vai thƣờng
không có kịch bản cho trƣớc mà HS tự xây dựng trong quá trình hoạt động dựa
trên văn bản vốn có. Đây là biện pháp giúp HS suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề
bằng cách tập trung vào cách ứng xử cụ thể mà các em quan sát đƣợc.
57
Tâm lí của học sinh nói chung đều rất thích nghe kể chuyện trong đó có
học sinh lớp 6, vì vậy để giờ học truyện cổ tích không trở nên nhàm chán mà
ngƣợc lại hấp dẫn, thu hút các em cũng nhƣ đạt hiệu quả, tôi thƣờng tổ chức
cho HS nhập vai kể chuyện. Khi HS nhập vai kể chuyện cổ tích, các em sẽ có
cơ hội gần gũi, hòa đồng với các bạn, các em đƣợc sống cùng những nhân vật
trong truyện giúp các em tự tin mạnh dạn hơn. Ngoài ra hình thức nhập vai kể
chuyện còn hình thành cho HS tính mạnh dạn, khả năng diễn đạt câu chuyện
theo lời văn của mình, Các em biết nhập vai nhân vật một cách tự nhiên giúp
các tự tin vào khả năng diễn đạt của mình. Trong khi kể chuyện các em có thể
hòa mình vào những nân vật mình yêu thích.
Ví dụ 1: GV cho HS quan sát các bức tranh trong truyện em bé thông
minh và yêu cầu HS nhập vai em bé kể chuyện.
Ví dụ 2: Sắp xếp các bức tranh theo trình tự truyện ông lão đánh cá và
con cá vàng, em hãy nhập vai cá vàng để kể lại câu chuyện.
58
Ví dụ 3: Em hãy nhập vai Mã Lương để kể chuyện cây bút thần.
2.3.Dạy - Học truyện cổ tích qua trải nghiệm
Hơn 2000 năm trƣớc, Khổng Tử (551-479 TCN) đã nói: “Những gì tôi
nghe, tôi sẽ quên; Những gì tôi thấy, tôi sẽ nhớ; Những gì tôi làm, tôi sẽ
hiểu”, tƣ tƣởng này thể hiện tinh thần chú trọng học tập từ trải nghiệm và việc
làm. Cùng thời gian đó, ở phƣơng Tây, nhà triết học Hy Lạp, Sokrates (470-
399 TCN) cũng nêu lên quan điểm: “Ngƣời ta phải học bằng cách làm một
việc gì đó; Với những điều bạn nghĩ là mình biết, bạn sẽ thấy không chắc
chắn cho đến khi làm nó”. Đây đƣợc coi là những nguồn gốc tƣ tƣởng đầu
tiên của “Giáo dục trải nghiệm”.
“Giáo dục trải nghiệm” đƣợc thực sự đƣa vào giáo dục hiện đại từ
những năm đầu của thế kỷ 20. Cho đến năm 1977, với sự thành lập của “Hiệp
hội Giáo dục trải nghiệm” (Association for Experiential Education – AEE),
“Giáo dục trải nghiệm” đã chính thức đƣợc thừa nhận bằng văn bản và đƣợc
tuyên bố rộng rãi. “Giáo dục trải nghiệm” bƣớc thêm một bƣớc tiến mạnh mẽ
hơn khi vào năm 2002, tại Hội nghị thƣợng đỉnh Liên hiệp quốc về Phát triển
bền vững, chƣơng trình “Dạy và học vì một tƣơng lai bền vững” đã đƣợc
UNESSCO thông qua, trong đó có học phần quan trọng về “Giáo dục trải
nghiệm” đƣợc giới thiệu, phổ biến và phát triển sâu rộng.
Ngày nay, “Giáo dục trải nghiệm” đang tiếp tục phát triển và hình thành
mạng lƣới rộng lớn những cá nhân, tổ chức giáo dục, trƣờng học trên toàn thế
giới ứng dụng. UNESSCO cũng nhìn nhận Giáo dục trải nghiệm nhƣ là một
triển vọng tƣơng lai tƣơi sáng cho giáo dục toàn cầu trong các thập kỷ tới.
“Giáo dục trải nghiệm” cũng có cơ sở lý thuyết dựa trên một nghiên
cứu (Edgar Dale 1946) chỉ ra rằng:
Chúng ta nhớ..
20% những gì chúng ta đọc
20% những gì chúng ta nghe
30% những gì chúng ta nhìn
90% những gì chúng ta làm
59
Các đặc điểm nổi bật của “Giáo dục trải nghiệm”:
- Quá trình học qua trải nghiệm diễn ra khi trải nghiệm đƣợc lựa chọn
kỹ càng và sau khi thực hiện đƣợc tổng kết bởi quá trình chia sẻ, phân tích,
tổng quát hoá và áp dụng.
- Ngƣời học đƣợc sử dụng toàn diện: trí tuệ, cảm xúc, thể chất, kỹ năng
và các quan hệ xã hội trong quá trình tham gia.
- Trải nghiệm đƣợc thiết kế để yêu cầu ngƣời học phải sáng tạo, tự chủ,
tự ra quyết định và thỏa mãn với kết quả đạt đƣợc.
- Qua “Giáo dục trải nghiệm”, ngƣời học đƣợc tham gia tích cực vào
việc: đặt câu hỏi, tìm tòi, trải nghiệm, giải quyết vấn đề, tự chịu trách nhiệm
- Kết quả của trải nghiệm không quan trọng bằng quá trình thực hiện và
những điều học đƣợc từ trải nghiệm đó.
- Kết quả đạt đƣợc là của cá nhân, tạo cơ sở nền tảng cho việc học và
trải nghiệm của cá nhân đó trong tƣơng lai.
- Các mối quan hệ đƣợc hình thành và hoàn thiện: ngƣời học với bản thân
mình, ngƣời học với những ngƣời khác, và ngƣời học với thế giới xung quanh.
Phƣơng pháp “Học tập qua trải nghiệm” đƣợc thừa nhận là phƣơng
pháp cốt lõi của “Giáo dục trải nghiệm”. “Học tập qua trải nghiệm” xảy ra khi
một ngƣời sau khi tham gia trải nghiệm nhìn lại và đánh giá, xác định cái gì là
hữu ích hoặc quan trọng cần nhớ, và sử dụng những điều này để thực hiện các
hoạt động khác trong tƣơng lai. (John Dewey – 1938)
60
Học tập qua trải nghiệm gồm quy trình 5 bƣớc khép kín:
Sự khác biệt của phƣơng pháp “Học tập qua trải nghiệm” với việc đơn
giản chỉ học từ việc làm hàng ngày đó là các bƣớc đúc kết sau quá trình trải
nghiệm. Mỗi bƣớc bao gồm các câu hỏi mở đƣợc đƣa ra để học sinh trả lời,
khiến học sinh phải thực sự động não, từ đó tự rút ra bài học cho bản thân. Đây
cũng là lúc để đánh giá lại quá trình trải nghiệm của ngƣời học. Các câu hỏi rất
đa dạng tùy theo từng hoạt động cụ thể. Phƣơng pháp và các bƣớc có thể áp
Phƣơng pháp giáo dục
Phƣơng pháp học tập
Đặc tính
mô phạm
qua trải nghiệm
Đối tƣợng trung tâm
Giáo viên
Học sinh
Trọng tâm
Nội dung bài học
Nội dung và quá trình
Sắp xếp, tổ chức để quá
Nhiệm vụ ngƣời dạy
Truyền thụ kiến thức
trình học đƣợc diễn ra
Tâm thế ngƣời học
Bị động
Chủ động
Quan điểm, ý kiến của ngƣời
Không biết
Biết và đƣợc sử dụng
học
Liên hệ với thế giới bên ngoài Cách biệt
Diễn ra trong cuộc sống
Không
thƣờng xuyên
Luôn có và từ bên trong
Kết luận
và từ bên ngoài vào
Sự tiến bộ của ngƣời học
Không biết
Luôn luôn biết
Lựa chọn của ngƣời học
Rất ít lựa chọn
Rất nhiều lựa chọn
Yêu cầu chính với ngƣời dạy
Thuyết phục ngƣời học Nhạy cảm với ngƣời học
dụng với tất cả các chủ đề, lĩnh vực, tùy theo định hƣớng của ngƣời dạy.
Với đề tại đã chọn, tôi thấy học tập qua biện pháp trải nghiệm thực sự
đem lại nhiều hiệu quả cho HS với các hình thức học tập rất đa dạng, phong
phú, trong đó, tôi lựa chọn các biện pháp: Xây dựng các câu hỏi gợi cảm xúc,
khơi ngợi trí tƣởng tƣợng của HS, biện pháp sắm vai, trò chơi và hoạt động
61
ngoại khóa.
2.3.1. Xây dựng các câu hỏi gợi cảm xúc, khơi gợi trí tưởng tượng
của HS
Trong quá trình dạy học văn, việc xây dựng hệ thống các câu hỏi để đọc
hiểu văn bản là việc làm cần thiết và đã đƣợc đề cập rất nhiều với rất nhiều các
phƣơng pháp và kiểu loại nhƣ câu hỏi phát hiện, câu hỏi gợi mở, câu hỏi tái hiện,
câu hỏi khái quát, câu hỏi nêu vấn đề.... Trong phạm vi đề tài này, tôi không chú
trọng việc phân loại câu hỏi hay chỉ sử dụng một kiểu câu hỏi trong dạy học
truyện cổ tích theo hƣớng tiếp cận thi pháp mà nhấn mạnh đến mục đích sử dụng
câu hỏi là khơi gợi đƣợc cảm xúc hoặc khơi gợi trí tƣởng tƣợng cho HS.
Ví dụ 1: Để HS khắc sâu kiến thức về cách xây dựng nhân vật trong
truyện cổ tích, tôi đưa ra các câu hỏi có vấn đề yêu cầu HS suy nghĩ và đưa
ra quan điểm cá nhân
? Trong quan hệ với Lí Thông, Thạch Sanh luôn dại khờ, trung hậu quá
đỗi, phải chăng Thạch Sanh không biết căm thù?
Câu hỏi này nhằm giúp HS hiểu được nhân vật chức năng trong truyện
cổ tích.
Ví dụ 2:
? Tại sao Mã Lương không vẽ cho người dân nghèo vàng bạc, châu
báu, của cải… mà lại vẽ cho họ nhũng vật dụng mà họ thiếu như cày, cuốc,
đèn, thùng nước?
Ví dụ 3:
? Trong truyện Thạch Sanh, tại sao nhà vua không trực tiếp xử tội mẹ
con Lí Thông mà lại giao cho Thạch Sanh? Em hãy nêu cách xử lí của Thạch
Sanh và cho biết qua cách xử lí ấy, tác giả dân gian muốn thể hiện điều gì?
Ví dụ 4:
?Theo mô tuýpcủa truyện cổ tích kết thúc thường có hậu, trong truyện:
" Ông lão đánh cá và con cá vàng" đã kết thúc bằng hình ảnh mụ vợ ngồi bên
cái máng lợn sứt mẻ xưa. Theo em đó có phải là một kết thúc có hậu không?
62
Vì sao?
Ví dụ 5:
? Nêu cảm nhận của em về chi tiết cây đàn thần và niêu cơm thần trong
truyện Thạch Sanh!
Ví dụ 6:? Tại sao cây bút thần chỉ phát huy tác dụng trong tay Mã Lương?
2.3.2. Sắm vai
Sắm vai trong hình thức sân khấu hóa có ý nghĩa rất lớn trong việc hình
thành và phát triển các KN giao tiếp cho HS. Thông qua sắm vai, HS đƣợc
rèn luyện, thực hành những KN ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trƣờng an
toàn trƣớc khi thực hành trong thực tiễn, tạo điều kiện phát triển óc sáng tạo
của các em, khích lệ thay đổi thái độ và hành vi theo hƣớng tích cực trƣớc
một vấn đề hay đối tƣợng nào đó.
Về mặt tâm lý học, thông qua các hành vi, cá nhân nhận thức và giải
quyết tốt hơn vấn đề của bản thân, vai trò lĩnh hội đƣợc trong quá trình sắm
vai cho phép HS thích ứng với cuộc sống tốt hơn. Trong trò chơi cũng nhƣ
trong cuộc sống, các em mong muốn có đƣợc một vai yêu thích, khi sắm vai
một nhân vật, HS bƣớc ra từ chính bản thân mình. Điều này trở thành phƣơng
tiện để thể hiện niềm vui, nỗi buồn, mối quan tâm, băn khoăn, mong muốn
đƣợc chia sẻ, sự do dự, ngập ngừng,.. của chính các em. Thông qua các vai
đƣợc sắm trong trò chơi, HS thể hiện các khía cạnh khác nhau trong tính cách
nhƣ: sự ƣa thích, tình cảm, sự hiểu biết về nhân vật mà các em sắm vai đó và
những ngƣời bạn đang chơi cùng với hành động của chúng là điều đặc biệt
quan trọng, có ý nghĩa nhiều mặt đối với HS.
Phương pháp sắm vai được tiến hành theo các bước nhất định bao gồm:
- Nêu tình huống sắm vai (phù hợp với chủ đề hoạt động; phải là tình
huống mở; phù hợp với trình độ HS).
- Cử nhóm chuẩn bị vai diễn (có thể chuẩn bị trƣớc khi tiến hành
hoạt động): yêu cầu nhóm sắm vai xây dựng kịch bản thể hiện tình huống
63
sao cho sinh động, hấp dẫn, mang tính sân khấu nhƣng không đƣa ra lời
giải hay cách giải quyết tình huống. Kết thúc sắm vai là một kết cục mở để
mọi ngƣời thảo luận.
- Thảo luận sau khi sắm vai: khi sắm vai kết thúc, ngƣời dẫn chƣơng
trình đƣa ra các câu hỏi có liên quan để HS thảo luận.
- Thống nhất và chốt lại các ý kiến sau khi thảo luận.
Ví dụ: Khi dạy các truyện cổ tích lớp 6, với các văn bản học 2 tiết như:
Thạch Sanh, Ông lão đánh cá và con cá vàng, em bé thông minh tôi thường
cho HS làm theo nhóm và chuẩn bị ở nhà để Xây dựng thành vở kịch, nhập
vai nhân vật diễn lại cốt truyện của văn bản đã học hoặc diễn lại một tác
phẩm sáng tạo dựa trên cốt truyện có sẵn.
Từ việc hóa thân thành các nhân vật, HS không chỉ đƣợc sống trong
cảm xúc của nhân vật để truyền tải nội dung truyện mà quan trọng còn giúp
các em cảm nhận đƣợc nội dung tác phẩm sâu sắc cũng nhƣ rèn KN hoạt động
nhóm, hợp tác nhóm đặc biệt là khơi dậy sự hứng thú và trí tƣởng tƣợng, sáng
tạo trong giờ học.
2.3.3. Trò chơi
Trò chơi là tổ chức cho HS tìm hiểu một vấn đề hay thực hiện những
hành động, việc làm hoặc hình thành thái độ thông qua một trò chơi nào đó.
Đặc thù của trò chơi:
Trò chơi không phải là thật mà là giả vờ nhƣ làm một cái gì đó nhƣng
mang tính chân thật (nhập các vai chơi một cách chân thật, thể hiện động tác,
hành vi phù hợp…). Hơn nữa, đây là một hoạt động tự do, tự nguyện không
thể gò ép hoặc bắt buộc chơi khi các em không thích, không đáp ứng nhu cầu,
nguyện vọng của chúng.
Trò chơi đƣợc giới hạn bởi không gian và thời gian, có qui tắc tổ chức (luật
chơi do nội dung chơi quy định). Đặc thù này sẽ quy định quy mô, số lƣợng ngƣời
chơi, điều kiện, vật chất, cũng nhƣ xác định tính chất, phƣơng pháp hành động, tổ
chức và điều khiển hành vi cũng nhƣ những mối quan hệ lẫn nhau của ngƣời chơi.
64
Trò chơi là một hoạt động mang tính sáng tạo cao, thể hiện ở việc lựa
chọn chủ đề chơi, phân vai tạo ra tình huống, hoàn cảnh chơi, sử dụng
phƣơng tiện thay thế trong các trò chơi sáng tạo, lựa chọn các phƣơng thức
hành động và phân chia tình huống chơi để giải quyết nhiệm vụ chơi trong
những trò chơi có luật.
Trò chơi là phƣơng tiện giáo dục và phát triển toàn diện HS, giúp các
em nâng cao hiểu biết về thế giới hiện thực xung quanh, kích thích trí thông
minh, lòng ham hiểu biết, học cách giải quyết nhiệm vụ. Ngoài ra, trò chơi là
phƣơng tiện giáo dục phẩm chất nhân cách cho HS. Các phẩm chất nhân cách
đƣợc hình thành thông qua chơi nhƣ tính hợp tác, tính đồng đội, tính tập thể,
tính kỷ luật, tự chủ, tích cực, độc lập, sáng tạo, sự quan tâm lo lắng đến ngƣời
khác, thật thà, dũng cảm, kiên nhẫn… Trò chơi còn là phƣơng tiện giáo dục
thể lực cho HS, giáo dục thẩm mỹ, hình thành các KN giao tiếp, KN xã hội,...
Trò chơi là một phƣơng thức giải trí tích cực, hiệu quả, mang lại niềm
vui, sự hứng khởi, hồn nhiên, yêu đời cho HS,.. để các em tiếp tục học tập và
rèn luyện tốt hơn.
Về mặt tâm lý học, trong quá trình diễn ra trò chơi tất cả các thành viên
của nhóm đều tham gia hết mình và từ đó các em sẽ đƣợc trải nghiệm, bởi vì
mỗi cá nhân cũng nhƣ cả nhóm đang sống trong một tình huống khác với
những gì các em đã sống trong cuộc sống thực.
Việc tổ chức trò chơi đƣợc GV tiến hành theo các bƣớc sau:
Bước 1: Chuẩn bị trò chơi
- Xác định đối tƣợng và mục đích của trò chơi: thông thƣờng, trò chơi nào
cũng có tính giáo dục, phụ thuộc vào các góc độ tiếp cận khác nhau đối với loại,
dạng trò chơi và ngƣời sử dụng, tổ chức trò chơi. Vì thế xác định đối tƣợng và
mục đích trò chơi phù hợp là công việc cần thiết khi tổ chức trò chơi.
Bước 2: Tiến hành trò chơi
- GV giới thiệu trò chơi ngắn gọn, hấp dẫn, dễ hiểu, dễ tiếp thu, dễ thực
hiện, bao gồm các nội dung sau: Thông báo tên trò chơi, chủ đề chơi; Nêu
65
mục đích và các yêu cầu của trò chơi; Nói rõ cách chơi và luật chơi.
Bước 3: Kết thúc trò chơi
- Đánh giá kết quả trò chơi: GV công bố kết quả cuộc chơi khách quan,
công bằng, chính xác giúp HS nhận thức đƣợc ƣu điểm và tồn tại để cố gắng
ở những trò chơi tiếp theo.
- Động viên, khích lệ ý thức, tinh thần cố gắng của các em, tuyên
dƣơng, khen ngợi hay khen thƣởng bằng vật chất, tạo không khí vui vẻ, phấn
khởi và để lại những ấn tƣợng tốt đẹp trong tập thể HS về cuộc chơi.
Ví dụ 1: Trước khi đi tìm hiểu truyện Thạch Sanh truyện mở đầu về tìm
hiểu truyện cổ tích trong chương trình Ngữ Văn 6, tôi cho HS khởi động bằng
trò chơi “Nhìn tranh đoán truyện”.
Luật chơi: HS sẽ quan sát trên màn hình các bức tranh và đoán thật
nhanh tên truyện đƣợc thể hiện trong bức tranh ấy để từ đó giới thiệu về
66
truyện Thạch Sanh và thể loại truyện cổ tích.
Ví dụ 2: Mở đầu tiết dạy về truyện Em bé thông minh, tôi cho HS khởi
động bằng trò chơi “ Đọc thơ đoán truyện”
Luật chơi: Hs sẽ quan sát trên màn hình đoạn thơ và đoán thật nhanh
tên truyện đƣợc thể hiện trong bức tranh ấy để từ đó giới thiệu về truyện cổ
Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật
Rất công bằng, rất thông minh
Biết bao nhiêu hạnh phúc có trên đời
Vừa độ lƣợng lại đa tình, đa mang.
Dẫu phải khi cay đắng dập vùi
Thị thơm thì giấu ngƣời thơm
Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu
Chăm làm thì đƣợc áo cơm cửa nhà
Cây khế chua có đại bàng đến đậu
Đẽo cày theo ý ngƣời ta
Chim ăn rồi trả ngon ngọt cho ta
Sẽ thành khúc gỗ chẳng ra việc gì
Đất đai cỗi cằn thì ngƣời sẽ nở hoa
Tôi nghe chuyện cổ thầm thì
Hoa của đất, ngƣời trồng cây dựng cửa
Lời cha ông dạy cũng vì đời sau
Khi ta đến gõ lên từng cánh cửa
Đậm đà cái tích trầu cau
Thì tin yêu ngay thẳng đón ta vào
Miếng trầu đỏ thắm nặng sâu tình ngƣời
Ta nghẹn ngào, Đất Nƣớc Việt Nam ơi!…
Sẽ đi qua cuộc đời tôi
Bấy nhiêu thời nữa chuyển dời xa xôi
Trích đoạn: Đất nước của tác giả Nguyễn
Nhƣng bao chuyện cổ trên đời
Khoa Điềm
Vẫn luôn mới mẻ rạng ngời lƣơng tâm.
Trích đoạn: Chuyện cổ nước mình của
tác giả Lâm Thị Mĩ Dạ
67
tích và truyện em bé thông minh.
Ví dụ 3: Sau các tiết học văn bản truyện cổ tích tôi thường cho Hs tham
gia trò chơi giải ô chữ vừa nhằm mục đích củng cố kiến thức vừa góp phần rèn
trí thông minh phản xạ nhanh cũng như giúp HS cảm thấy yêu thích môn học.
I V
E
1
C O T A
2
L A O Đ Ô N G
Đ Ô
I Đ Ơ
3
1. Ô chữ bài Cây bút thần (TÀI NĂNG KÌ LẠ)
I
4 Đ
I
Ê U
T H
I
Ê N
5
K H A N Ă N G
T H Ƣ Ơ N G
6
B A N
E
T
7
C Ă M G H
N G H
8
E O K H Ô
9
T H Ô N G M
I N H
I X A H Ô
I
10
C Ô N G L
T
11
B A U V Â
HÀNG NGANG
Câu số 1. Gồm 7 chữ cái. Mã Lương trong truyện “Cây bút thần” là
một cậu bé như thế nào?
Câu số 2. Gồm 7 chữ cái. Chi tiết Mã Lương chỉ vẽ những công cụ hữu
ích cho mọi nhà mà không vẽ của cải vật chất có sẵn thể hiện quan điểm của
nhân dân: muốn hưởng thụ của cải, vật chất thì phải tự tay …… để làm ra”.
Câu số 3. Gồm 6 chữ cái. Điền vào chỗ trống trong câu sau: “Niềm tin
của nhân dân lao động thể hiện trong tác phẩm “Cây bút thần” là những con
68
người nhỏ bé, bị chà đạp sẽ được …., sẽ chiến thắng”.
Câu số 4. Gồm 9 chữ cái. Mã Lương dùng bút thần vào làm những việc gì?
Câu số 5. Gồm 7 chữ cái. Điền vào chỗ trống trong câu sau:
“Truyện “Cây bút thần” thể hiện quan niệm của nhân dân về công lí
xã hội, về mục đích của tài năng nghệ thuật, đồng thời thể hiện ước mơ về
những….. kì diệu của con người”.
Câu số 6. Gồm 9 chữ cái. Điền vào chỗ trống trong câu sau:
“Chi tiết Mã Lương được thần cho cây bút thần để vẽ được vật có khả
năng như thật đã thần kì hóa tài vẽ của Mã Lương, đồng thời đây cũng là sự
…. xứng đáng cho người say mê, có tâm, có tài, có chí, khổ công luyện tập”.
Câu số 7. Gồm 7 chữ cái. Thái độ của Mã Lương đối với tên địa chủ
giàu có trong làng và tên vua tham lam độc ác ra sao?
Câu số 8. Gồm 8 chữ cái. Mã Lương xuất thân từ tầng lớp nào?
Câu số 9. Gồm 9 chữ cái. Để tiêu diệt kẻ ác, Mã Lương không chỉ dựa
vào cây bút thần, lòng dũng cảm mà cậu bé còn rất…..
Câu số 10. Gồm 11 chữ cái. Truyện “Cây bút thần” thể hiện ước mơ gì
trong cuộc sống của nhân dân?
Câu số 11. Gồm 6 chữ cái. Điền vào chỗ trống trong câu sau:
“Hình ảnh “cây bút thần” được xây dựng theo trí tưởng tượng rất độc
đáo của nhân dân. Cây bút thần là….., là phương tiện thần kì để Mã Lương
giúp đỡ người nghèo khó, trừng trị kẻ tham lam độc ác.”
Hàng dọc: Gồm 7 chữ cái. Một kiểu nhân vật tiêu biểu trong truyện
69
cổ tích?
1
T H A M L A M
T A O T
2
I N H H U O N G
3
2. Ô chữ bài Ông lão đánh cá và con cá vàng (LÒNG NHÂN HẬU)
N Ă M
4
L O N G T H A M
5
C A V A N G Ô N G L A O
C A
I
I
Ê N
6
T H
P
7
T Ă N G C Â
8
N
I
K
I N H
9
C H T
10
B A N Đ Â U
S K
I N
11
P U
Hàng ngang
Câu số 1. Gồm 7 chữ cái. Điền vào chỗ trống trong câu văn sau:
“Truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng” ca ngợi lòng biết ơn đối với
những người nhân hậu, nêu bài học đích đáng cho những kẻ ……, bội bạc”.
Câu số 2. Gồm 12 chữ cái. Việc kể lại những lần ông lão ra biển gọi cá
vàng có dụng y gì?
Câu số 3. Gồm 3 chữ cái. Trong truyện “Ông lão đánh cá và con cá
vàng” mấy lần ông lão đi ra biển gọi cá vàng?
Câu số 4. Gồm 8 chữ cái. Truyện đã lên án tính xấu nào của mụ vợ ông
lão đánh cá?
Câu số 5. Gồm 12 chữ cái. Nhân vật chính trong truyện là ai ?
Câu số 6. Gồm 8 chữ cái. Theo quan niệm dân gian, Cá vàng đại diện
70
cho cái gì ?
Câu số 7. Gồm 7 chữ cái. Điền vào chỗ trống trong câu văn sau:
“Truyện sử dụng những biện pháp nghệ thuật rất tiêu biểu của truyện
cổ tích, như sự trùng lặp và …… của những tình huống trong truyện, sự
tương phản, đối lập giữa các nhân vật và sự xuất hiện các yếu tố tưởng
tượng, hoang đường”.
Câu số 8. Gồm 10 chữ cái. Điền vào chỗ trống trong câu văn sau:
“ Đỉnh điểm của kịch tính trong Truyện “Ông lão đánh cá và con cá
vàng” là mụ vợ ông lão đòi làm ……. Để cá vàng hầu hạ”.
Câu số 9. Gồm 8 chữ cái. Yếu tố cơ bản nào đã tạo ra sự hấp dẫn của
Truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng”?
Câu số 10. Gồm 6 chữ cái. Điền vào chỗ trống trong câu văn sau:
“Kết thúc truyện: Cá vàng không đáp ứng đòi hỏi của mụ vợ, đưa mụ
quay trở về với cuộc sống. ”
Câu số 11. Gồm 6 chữ cái. Truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng”
chúng ta được học do ai kể lại?
Từ chìa khóa. Gồm 11 chữ cái. Chủ đề chính của truyện “Ông lão
đánh cá và con cá vàng” là gì?
2.3.4. Các hoạt động ngoại khóa
Khi sƣu tầm, ghi chép và chỉnh lý truyện cổ tích để công bố thành năm
tập Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi đã phân truyện cổ
tích thành hai loại: một loại là tác phẩm văn học dân gian tồn tại trong môi
trƣờng diễn xƣớng đƣợc gọi là “folklore sống động” còn một loại là những tác
phẩm văn học dân gian đã đƣợc ghi chép, cố định hóa thành văn bản trong sách
vở và đƣợc gọi là “folklore tĩnh tại”. Các truyện cổ tích đƣợc tuyển chọn trong
sách giáo khoa môn Ngữ văn 6 thuộc loại thứ hai. Và thực tế đã cho thấy việc
dạy và học truyện cổ tích hiện nay chủ yếu là dựa trên văn bản đã đƣợc ghi
chép trong khi các tác phẩm văn học dân gian tồn tại trên thực tế đều gắn với
môi trƣờng diễn xƣớng bao hàm cả thời gian và không gian diễn xƣớng mà nhƣ
71
Hoàng Tiến Tựu khẳng định: “Văn học dân gian chỉ tồn tại một cách sinh động
và thực sự đầy đủ trong sự biểu diễn của quần chúng”. Vì vậy, khi dạy học
TCT nếu có điều kiện để giảng dạy gắn liền với quá trình diễn xƣớng thì sẽ
giúp HS hiểu đƣợc vai trò của thể loại này với đời sống văn học, đời sống tinh
thần của ngƣời dân. Tuy nhiên, do sự hạn chế về thời gian trong một tiết học
khá khó để triển khai nên theo ý kiến bản thân, tôi nghĩ có thể dạy học truyện
cổ tích gắn với môi trƣờng diễn xƣớng theo hình thức các câu lạc bộ hoặc
hoạt động ngoại khóa.
Một nhà văn đã viết: “Mùa xuân đã đến hãy hát bài ca. Mùa đông đã về
hãy kể chuyện cổ tích”. Lời đề từ đó đã nói lên một thực tế: ca dao - dân ca
thƣờng đƣợc cất lên vào mùa xuân, mùa của lễ hội. Còn truyện cổ tích lại
thƣờng đƣợc kể vào mùa đông, bên lò sƣởi, trong cảnh tranh tối, tranh sáng
của gia đình. Các truyện cổ tích thƣờng đƣợc kể vào ban đêm vì thời gian đó
mới phù hợp tính chất hƣ ảo của truyện cổ tích. Chính Vũ Ngọc Phan trong
một bài viết về truyện cổ tích đã từng tâm sự: lúc còn nhỏ, một số truyện cổ
tích tuy đã đƣợc học, đƣợc đọc ở trƣờng nhƣng tối đến lại bắt là kể lại khi mà
bà cháu đã nằm khoanh trong chăn ấm, bên ngọn đèn dầu lạc đã khêu nhỏ thì
giọng kể của bà với “ngày xửa, ngày xƣa” bắt đầu vang lên. Nghe bà kể về
không khí đó, tôi thấy truyện hay hơn, hấp dẫn hơn khi đƣợc đọc trong lớp
học và ban ngày. Mấy đứa trong nhà mê bà kể chuyện cổ tích tới mức đêm
nào cũng bắt bà phải kể, có truyện nhƣ Tấm Cám, Sọ Dừa… nghe đi nghe lại
mà không chán. Câu chuyện đƣợc bà kể trong bối cảnh ấy tạo cho chúng tôi
hình dung một thế giới kỳ lạ có cả ma quỷ hiện hình đến nỗi buồn tiểu mà
không dám đi, đành phải “tè cả ra quần”. Thực tế đó có lẽ thuở nhỏ nhiều
ngƣời trong chúng ta cũng đã từng lớn lên bằng những cảm xúc nhƣ thế. Vì
vậy, thay vì HS kể truyện trực tiếp ở trên lớp thì có thể kể cho học sinh nghe
và thi kể truyện cổ tích vào dịp cắm trại có thể nếu có điều kiện xây dựng các
góc cổ tích, vƣờn cổ tích với các mô hình nhƣ lâu đài, cây cổ thụ, lò sƣởi với
ánh sáng nhiều sắc màu… Nơi đó có những cụ già với vai trò là những nghệ
72
nhân có nhiệm vụ kể cho các em nghe các truyện cổ tích đã đƣợc học trong
trƣờng hoặc chính các em hóa thân thành ngƣời kể chuyện. Điều này sẽ giúp
các em tiếp cận với thế giới “folklore sống động”.
Một hoạt động bổ trợ khác là tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ văn học dân gian.
Hình thức này đã và đang đƣợc nhiều trƣờng quan tâm thực hiện. Các trƣờng có
thể tổ chức một buổi để các em thi diễn sân khấu hóa các tác phẩm truyện cổ tích
đã học theo quy mô khối lớp hoặc toàn trƣờng. Nhiệm vụ của thầy, cô giáo là phải
hƣớng dẫn các em cách bài trí sân khấu sao cho phù hợp với đặc trƣng hƣ ảo của
thể loại này: ánh sáng phải mờ ảo, có vài cảnh đặc trƣng của không gian cổ tích
nhƣ cây cổ thụ, giếng nƣớc, miếu thờ… nghĩa là gần nhƣ dựng cảnh trong diễn
kịch. HS đảm nhiệm việc kể truyện cổ tích cũng phải đƣợc chuẩn bị công phu,
phải có giọng kể tốt, có diễn xuất tốt. Nếu làm đƣợc nhƣ vậy thì việc học truyện
cổ tích trong nhà trƣờng chắc chắn sẽ có hiệu quả hơn nhiều.
Ngoài ra, nếu có điều kiện thì nên cho học sinh xem phim ảnh để mở
rộng sự hiểu biết đối với truyện cổ tích mà trƣớc hết là các truyện đã và đang
đƣợc học trong chƣơng trình Ngữ văn. Chẳng hạn, khi học truyện Thạch
Sanh, các em nên xem bộ phim của Nga với tiêu đề Sáu cô đi tìm hạnh phúc
vì trong phim này cũng có thế giới thủy cung, có vua thủy tề, có nhiều chi tiết
giống với truyện Thạch Sanh hoặc xem phim Thạch Sanh đƣợc chuyển thể từ
văn bản của Việt Nam để các em có sự so sánh, đối chiếu giữa văn bản với
điện ảnh. Đƣợc xem phim cổ tích, chắc chắn sẽ là thú vui theo tinh thần “vừa
chơi vừa học” đối với học sinh khi đến với từng truyện cụ thể.
Ngoài ra, ở một số trƣờng nếu có điều kiện, có thể cho HS sƣu tầm,
ghi chép truyện cổ tích đƣợc lƣu hành ở địa phƣơng nơi các em sinh sống
để các em có thể nhìn nhận truyện cổ tích từ phƣơng diện tồn tại trong môi
trƣờng diễn xƣớng.
2.4. Dạy - học truyện cổ tích qua các hệ thống bài tập.
Trong quá trình dạy học truyện cổ tích theo hƣớng tiếp cận thi pháp,
thông thƣờng, do thời gian quy định của 1 tiết học nên GV hay chú trọng đến
việc đọc hiểu văn bản, xây dựng các câu hỏi và hoạt động trên lớp để truyền
73
tải nội dung và nghệ thuật của truyện mà ít chú trọng đến phần luyện tập.
Song thực tế, đây lại là phần rất quan trọng góp phần đánh giá khả năng tiếp
thu kiến thức, tiếp nhận văn học của các em. Vì thế, với đề tài dạy học truyện
cổ tích theo hƣớng tiếp cận thi pháp, tôi thiết nghĩ chúng ta cũng cần xây
dựng hệ thống các dạng bài tập để củng cố kiến thức cũng nhƣ phát huy đƣợc
trí tƣởng tƣợng, năng lực sáng tạo cho HS.
2.4.1. Kể sáng tạo
Kể sáng tạo truyện cổ tích là sử dụng ngôn ngữ của bản thân mỗi HS để
kể lại truyện. Và nhƣ vậy cơ chế sáng tạo bao hàm việc tích lũy tài liệu, xử lí
tài liệu, sắp xếp lại những mối liên hệ giữa các yếu tố đã thu nhận đƣợc, thiết
lập những mối liên hệ mới.
Kể sáng tạo đƣợc giải quyết ở hai góc độ:
- Vẫn giữ nguyên nội dung cốt truyện, làm phong phú, sâu sắc truyện,
không làm biến dạng truyện. Dựa vào thi pháp truyện để kể, căn cứ vào các
yếu tố động, biến đổi của truyện để sáng tạo trong hoạt động kể.
- Kể sáng tạo cổ tích, làm thay đổi nội dung cốt truyện, sản sinh cốt
truyện mới.
Ví dụ 1: Kể lại truyện Thạch Sanh bằng lời văn của em
Ví dụ 2: Đóng vai Lí Thông để kể lại truyện Thạch Sanh.
Ví dụ 3: Em hãy đóng vai công chúa tƣởng tƣợng kể lại cuộc chiến đấu
giữa Thạch Sanh và đại bàng để cứu mình.
Ví dụ 4: Tƣởng tƣợng một cuộc gặp gỡ tình cờ giữa em và Mã Lƣơng
để kể truyện cây bút thần.
Ví dụ 5: Đóng vai mụ vợ kể lại câu chuyện Ông lão đánh cá và con cá vàng.
2.4.2. Viết tiếp câu chuyện hoặc viết lại truyện
Dạng bài tập này nhằm mục đích phát huy sự sáng tạo, tƣởng tƣợng
trong mỗi HS nhằm tạo ra những tình tiết mới hoặc kết thúc mới so với văn
bản gốc.
Ví dụ 1: Em hãy viết tiếp hành trình của Mã Lƣơng sau khi Mã Lƣơng
74
trừng trị đƣợc tên vua tham lam độc ác.
Ví dụ 2: Em hãy viết một kết thúc khác cho mẹ con Lí Thông sau khi
đƣợc Thạch Sanh tha tội.
Ví dụ 3: Tƣởng tƣợng một kết thúc mới cho truyện Ông lão đánh cá và
con cá vàng.
2.4.3. Vẽ tranh minh họa truyện
Hoạt động vẽ là một trong những nội dung giáo dục thẩm mĩ nhằm phát
triển toàn diện cho HS, thông qua đó phát triển cảm giác, tri giác, phát triển
khả năng cảm thụ và khả năng sáng tạo, đồng thời vẽ còn là sự biểu lộ thái độ,
tình cảm yêu ghét của HS đối với nhân vật, câu chuyện. Có những khi cảm
xúc của các em chƣa biểu đạt đƣợc hết qua ngôn ngữ thì hội họa là phƣơng
tiện để biểu đạt hiệu quả nhất, lý thú nhất.
Ví dụ 1: Vẽ tranh về một nhân vật em ấn tƣợng nhất trong truyện
Thạch Sanh.
Ví dụ 2: Trong truyện Em bé thông minh, tình tiết nào em thấy thú vị
nhất. Hãy vẽ lại tình tiết đó.
Ví dụ 3: Để chọn một hình ảnh tiêu biểu làm biểu tƣợng cho nhân vật
Thạch Sanh, em sẽ chọn hình ảnh vào và hãy tái hiện lại bằng tranh vẽ.
Tiểu kết chƣơng 2
Chƣơng 2 của luận văn đã xác định 4 nguyên tắc khi dạy học truyện cổ
tích theo hƣớng tiếp cận thi pháp. Đây là những nguyên tắc có tính chất định
hƣớng để GV lựa chọn các biện pháp dạy học phù hợp đem lại hiệu quả cao
đúng với đặc trƣng thi pháp của truyện cổ tích cũng nhƣ phát huy sự chủ động,
tích cực nhằm phát triển cá tính sáng tạo và năng lực tƣởng tƣợng cho HS.
Tuy nhiên, cũng cần lƣu ý thêm rằng sự vận dụng các biện pháp trên
không phải là tuyệt đối vì trong dạy học, không có phƣơng pháp nào là vạn
năng. Mỗi GV cần tự mình lựa chọn những biện pháp phù hợp với chính bản
thân, năng lực nhận thức của HS cũng nhƣ điều kiện của nhà trƣờng để mỗi
tiết học trôi qua nhẹ nhàng nhƣng để lại những ấn tƣợng sâu sắc trong trái tim
75
mỗi HS. Đó mới chính là thành công của GV.
CHƢƠNG 3
THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
3.1. Những vấn đề chung
Trong chƣơng này, dựa trên nền tảng lí luận và thực tiễn đã đƣợc xây
dựng ở chƣơng 1 và chƣơng 2 làm căn cứ cho việc thiết kế giáo án tổ chức
dạy truyện Thạch Sanh theo đặc trƣng thi pháp thể loại, chúng tôi tiến hành
dạy thực nghiệm trên đối tƣợng HS lớp 6 tại trƣờng THCS Cầu Giấy.
3.1.1. Mục đích thực nghiệm
Việc dạy thực nghiệm truyện cổ tích ở bậc THCS theo hƣớng tiếp cận
thi pháp tập trung vào truyện đƣợc dạy ở chƣơng trình học chính khóa là
Thạch Sanh trong chƣơng trình Ngữ văn 6 theo đặc trƣng thi pháp thể loại
hƣớng đến những mục đích sau:
- Kiểm chứng, xác nhận tính đúng đắn và tính khả thi của việc dạy HS
lớp 6 tiếp nhận truyện cổ tích theo đặc trƣng thi pháp thể loại. Kết quả thực
nghiệm sẽ xác nhận giá trị khoa học và thực tiễn của những đề xuất đổi mới
cách khai thác tác phẩm và phƣơng pháp dạy học truyện cổ tích Thạch Sanh
trong chƣơng trình Ngữ văn 6 theo đặc trƣng thi pháp thể loại.
- Kiếm chứng, xác nhận tính đúng đắn của giả thuyết khoa học đã đề
xuất: việc tổ chức hoạt động học tập truyện cổ tích nhƣ Thạch Sanh cho HS
lớp 6 trên cơ sở vận dụng những hiểu biết về đặc trƣng thi pháp thể loại sẽ
hình thành và phát triển ở HS phƣơng pháp tiếp nhận truyện cổ tích nói
chung và Thạch Sanh nói riêng; giúp các em trở thành những chủ thể tích
cực, sáng tạo trong học tập, góp phần nâng cao năng lực tƣởng tƣợng cho
HS và chất lƣợng giảng dạy truyện cổ tích nói riêng và VHDG nói chung
trong nhà trƣờng.
- Tiếp thu ý kiến phản hồi từ phía GV và HS trong quá trình thực
nghiệm để điều chỉnh, sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện những đề xuất đổi mới
76
về cách khai thác truyện, cách tổ chức hoạt động dạy học cho HS.
- Đi đến những kết luận có căn cứ về kết quả nghiên cứu, là gợi ý để
ngƣời nghiên cứu có thể tiếp tục suy nghĩ về phƣơng pháp dạy học các tác
phẩm thuộc những thể loại khác theo đặc trƣng thi pháp thể loại.
3.1.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm
* Đối tƣợng, địa bàn thực nghiệm:
- Đối tƣợng tham gia thực nghiệm là HS lớp 6A3 và 6A4, GV dạy Ngữ
văn 6 ở trƣờng THCS Cầu Giấy, Quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
- Số HS tham gia thực nghiệm là 80 em ở 2 lớp 6A3 và 6A4
Chọn địa bàn thực nghiệm này, chúng tôi muốn tìm hiểu khả năng tiếp
nhận truyện cổ tích nói chung và truyện Thạch Sanh nói riêng theo định
hƣớng đổi mới của HS nơi chúng tôi công tác và có điều kiện làm việc với
GV. Các lớp đƣợc chọn cũng đáp ứng đƣợc yêu cầu: đảm bảo cơ sở vật chất
cho việc dạy học, GV đƣợc mời dạy thực nghiệm là những ngƣời có năng lực,
trình độ chuyên môn, yêu nghề, có ý thức trách nhiệm, nhiệt tình với việc đổi
mới phƣơng pháp dạy học. Đó là hai cô giáo: Trịnh Ngọc Ánh (tổ phó tổ Văn
– Sử – GDCD, nhóm trƣởng nhóm Văn 6) và cô Hoàng Phƣơng Ngọc (GVG
thành phố môn Ngữ văn).
* Thời gian thực nghiệm
- 1/6/2017- 25/8/2017: Biên soạn tài liệu
- 10/9/2017- 20/9/2017: Tổ chức dạy thực nghiệm
- 25/9/2017 -10/10/2012: Đánh giá kết quả thực nghiệm.
3.1.3. Nội dung thực nghiệm
Nội dung thực nghiệm là hoạt động dạy và học truyện Thạch Sanh,
chƣơng trình Ngữ văn 6.
Việc thực hiện các giáo án đi đến những mục tiêu chung nhƣ sau:
Giúp HS:
* Về kiến thức:
- Hiểu đƣợc đặc điểm của truyện cổ tích.
- Hiểu đƣợc những đặc trƣng thi pháp thể loại của truyện cổ tích thể
77
hiện qua truyệnThạch Sanh.
- Hiểu đƣợc nội dung, ý nghĩa cũng nhƣ những nét đặc sắc về nghệ
thuật của truyện Thạch Sanh và một số đặc điểm tiêu biểu của kiểu nhân
vật dũng sĩ.
* Về kỹ năng:
- Rèn kỹ năng đọc, kể, phân tích, vận dụng, liên tƣởng sáng tạo.
* Về tƣ tƣởng, thái độ:
- Bồi dƣỡng tâm hồn, hƣớng tới các giá trị chân - thiện - mĩ, sự hoàn
thiện nhân cách của bản thân.
- Có thái độ trân trọng đối với truyện cổ tích nói riêng và VHDG Việt
Nam nói chung.
3.2. Tiến trình và kết quả thực nghiệm
3.2.1. Tiến trình thực nghiệm
3.2.1.1. Lên kế hoạch thực nghiệm
- Liên hệ với nhà trƣờng để chọn GV thực nghiệm, các lớp thực nghiệm
và đối chứng.
- Chọn hai lớp 6 tiến hành thực nghiệm.
Đối tƣợng thực nghiệm
Địa bàn thực nghiệm Lớp thực nghiệm Lớp đối chứng
Lớp Sĩ số Lớp Sĩ Số
Trƣờng THCS Cầu Giấy 6A3 40 6A4 40
3.2.1.2. Làm việc với GV dạy thực nghiệm
GV của các lớp dạy thực nghiệm đƣợc nhận trƣớc giáo án để nghiên
cứu và hình dung cách tổ chức giờ học. Sau đó, tác giả bài soạn làm việc trực
tiếp với GV để giới thiệu ý tƣởng và những điểm mới của giáo án (cách khai
thác tác phẩm, cách tổ chức hoạt động, những biện pháp và thủ thuật dạy học
cụ thể), sự khác biệt giữa giáo án dạy truyện Thạch Sanh theo đặc trƣng thi
pháp thể loại và giáo án dạy văn bản không chú trọng đến đặc trƣng thi pháp
78
thể loại. Hai bên trao đổi, đi đến thống nhất về những vấn đề cơ bản.
Để đảm bảo cho giờ học thành công và thể hiện đƣợc tinh thần tổ chức
hoạt động dạy học tác phẩm theo đặc trƣng thi pháp thể loại, GV cần lƣu ý
khâu giao nhiệm vụ chuẩn bị bài ở nhà và giúp HS chuẩn bị tốt bài ở nhà
trƣớc khi đến lớp.
GV dạy cũng cần đƣợc hƣớng dẫn để hiểu đúng và thể hiện tốt vai trò
ngƣời tổ chức hoạt động theo phƣơng pháp dạy học mới và những công việc
cụ thể: Giao việc cho HS, làm mẫu cho hoạt động của HS, theo dỗi HS hoạt
động, tổ chức cho HS làm việc, tổ chức cho HS báo cáo kết quả, đánh giá kết
quả làm việc, thuyết trình và tổng kết khi cần.
3.2.1.3. Tổ chức thực nghiệm
- Dự giờ dạy thực nghiệm. Theo dõi việc tổ chức dạy học trên lớp của
GV. Quan sát và cảm nhận về không khí lớp học, về khả năng tiếp nhận, lĩnh
hội của HS.
- Tổ chức trao đổi, rút kinh nghiệm với GV
- Điều chỉnh, sửa chữa, bổ sung giáo án thực nghiệm.
TIẾT 31, 32: THẠCH SANH
(Ngữ văn 6, tập một)
A. MỤC TI U BÀI HỌC
1. Kiến thức
- Biết đƣợc đặc điểm thi pháp truyện cổ tích.
- Biết đƣợc đặc điểm của kiểu truyện cổ tích thần kì.
- Hiểu đƣợc nội dung ý nghĩa, nghệ thuật của truyện và một số đặc
điểm tiêu biểu của nhân vật dũng sĩ trong truyện.
- Hiểu đƣợc sự đối lập giữa thiện và ác, tốt và xấu.
2. Kỹ năng
- Đọc diễn cảm.
- Kể chuyện
- Phân tích, bình giảng, cảm thụ.
79
- Hoạt động nhóm.
- Hoạt động so sánh
- Hoạt động nghiên cứu.
- Đóng kịch.
3. Thái độ
- Trân trọng cái Thiện, cái đẹp mà con ngƣời hƣớng tới trong cuộc sống.
4. Năng lực hƣớng tới
4.1. Năng lực chung
- Năng lực làm chủ và phát triển bản thân: Năng lực tự học, năng lực
giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực tự quản lí.
- Năng lực quan hệ xã hội: Năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác; đọc
diễn cảm, phân tích...
- Năng lực công cụ: sử dụng ngôn ngữ, năng lực hợp tác nhóm.
4.2. Năng lực chuyên biệt
- Đọc sáng tạo, phân tích, bình giảng, thuyết trình, cảm thụ, đóng kịch
- Viết đoạn.
B. PHƢƠNG PHÁP VÀ PHƢƠNG TIỆN
1. Phƣơng pháp
Kết hợp các phƣơng pháp: Nêu và giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm,
đàm thoại, trực quan, vấn đáp, quan sát, động não, trao đổi, đóng vai, giao
nhiệm vụ
2. Phƣơng tiện
- Giáo viên:
+ Tranh ảnh
+ Máy chiếu.
+ Bài tập, trò chơi, phiếu học tập
C. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định tổ chức
2. Kiểm tra bài c xen k vào quá trình giảng bài mới)
3. Bài mới
Hoạt động 1: Giới thiệu bài. 2 ’)
80
GV cho HS khởi động bằng trò chơi “ Nhìn tranh đoán truyện”
Luật chơi: HS sẽ quan sát trên màn hình các bức tranh và đoán thật
nhanh tên truyện đƣợc thể hiện trong bức tranh ấy.
Từ trò chơi, GV dẫn vào bài giới thiệu về truyện cổ tích và truyện
81
Thạch Sanh.
HOẠT ĐỘNG
HOẠT ĐỘNG CỦA HS
NỘI DUNG KIẾN THỨC CẦN ĐẠT
CỦA GV
Hoạt động 1: Hƣớng dẫn đọc – tìm hiểu chung 13 ’)
I. Đọc – tìm hiểu chung
Hs lên trình bày kiến thức đã tìm hiểu ở nhà
1. Giới thiệu về thể loại truyện cổ tích
Cô đã giao nhiệm vụ cho các em về nhà tìm hiểu về những đặc trƣng cơ bản của truyện cổ tích
- Truyện cổ tích là truyện dân gian có yếu tố thần kì thể hiện ƣớc mơ, niềm tin của nhân dân về cái Thiện luôn chiến thắng cái Ác, sự công bằng trong xã hội.
Thảo luận nhóm 4 trong 3 phút hoàn thành nội dung câu hỏi.
Vậy sau đây, cô xin mời 1 bạn sẽ lên trình bày cho cô và các bạn những thông tin mà các em đã tìm hiểu về truyện cổ tích
- Kiểu nhân vật: dũng sĩ, mồ côi, ngƣời xấu xí…
- Gv gọi nhận xét và chốt ý, ghi tóm tắt trên bảng.
- Các loại truyện cổ tích: cổ tích thần kì, cổ tích loài vật, cổ tích sinh hoạt.
? Các em đã được học truyện truyền thuyết ở những tiết học trước và tìm hôm nay, được loại thể thêm hiểu truyện cổ tích, em thấy hai thể loại truyện này có đặc điểm gì giống và khau nhau?
Khác nhau
Thể loại
Nội dung
Giống nhau
Đặc điểm nghệ thuật
Mục đích sáng tác
Kiểu nhân vật chính
phản ánh
Là thể loại tự sự của VHDG.
Truyện truyền thuyết
Nhân vật lịch sử đƣợc truyền thuyết hóa
Có yếu tố hoang đƣờng, kì
thái tỏ Bày độ và cách đánh giá của nhân dân về các nhân vật và sự kiện lịch sử
Kể về các sự kiện và nhân vật lịch sử có thật nhƣng đã đƣợc khúc xạ qua một cốt truyện hƣ cấu
Từ cái lõi của sự thật lịch sử đƣợc hƣ cấu tạo ra các yếu tố hoang
82
ảo.
đƣờng, kì ảo
Truyện
toàn
cổ tích
Truyện hoàn do hƣ câú
Kết thúc thƣờng có hậu
Kể về các xung đột xã hội, sự đấu tranh giữa thiện = ác, chính nghĩa = gian tà.
Thể hiện nguyện vọng, ƣớc mơ của nhân dân trong xã hội có giai cấp, chính nghĩa thắng gian tà.
kể về cuộc đời của một kiểu số nhân vật quen thuộc (dũng sĩ, tài năng kì lạ, thông minh…),
2. Tìm hiểu chung về truyện Thạch Sanh
? Vì sao lại xếp truyện Thạch Sanh vào thể loại truyện cổ tích?
HS phát biểu dựa trên phần tìm hiểu về truyện cổ tích ở nhà.
a. Thể loại: Truyện cổ tích.
Gv gọi HS trả lời, nhận xét và giải thích.
- Đây là truyện dân gian
- Kể về cuộc đời của nhân vật Thạch Sanh, thuộc kiểu nhân vật quen thuộc trong các truyện cổ tích: nhân vật bất hạnh, nhân vật dũng sĩ.
- Truyện có các yếu tố thần kì: tiếng đàn thần, niêu cơm thần, cung tên vàng, chằn tinh, đại bàng,…
- Ý nghĩa: truyện thể hiện ƣớc mơ, niềm tin về đạo đức, công lí xã hội, lí tƣởng nhân đạo, yêu hòa bình dân tộc.
Lắng nghe
b. Đọc, chú thích.
Gv hƣớng dẫn Hs đọc: Yêu cầu giọng
83
Đọc
đọc gợi không khí cổ tích, chậm rãi, sâu lắng, phân biệt các giọng kể và giọng nhân vật
Ví dụ: Thạch Sanh: Hiền lành, Lí Thông: Nhan hiểm, xảo trá…
Gv gọi HS đọc diễn cảm, phân vai.-> nhận xét.
- Cho học sinh hiểu đƣợc các từ khó đã đƣợc chú thích.
- Gv gọi HS đọc -> nhận xét.
Kể
c. Kể
Gv chiếu các bức tranh lên màn hình, yêu cầu Hs dựa vào tranh minh học hãy kể tóm tắt truyện.
84
d. Bố cục:
a) Mở truyện
Qua phần đọc và kể chuyện, em có nhận xét gì về bố cục và kết cấu của truyện?
Phát biểu: Kết cấu và bố cục của truyện rất chặt chẽ, phong phú nhƣng về cơ bản vẫn tuân theo trình tự thời gian và sự việc.
Giới thiệu lai lịch, nguồn gốc của nhân vật chính: Thạch Sanh.
- Gv gọi HS phát biểu.-> nhận xét.
b) Thân truyện: có thể chia thành một số chặng sau:
- Thạch Sanh kết nghĩa anh em với Lý Thông
- Gv chuyển ý để dẫn dắt HS vào tìm hiểu theo hƣớng truyện tiếp cận thi pháp thể loại.
- Thạch Sanh diệt chằn tinh, bị Lý Thông cƣớp công.
- Thạch Sanh diệt hồ tinh, cứu thái tử, bị vu oan, vào tù.
- Thạch Sanh đƣợc giải oan.
- Thạch Sanh chiến thắng quân 18 nƣớc chƣ hầu.
c) Kết truyện
Thạch Sanh cƣới công chúa, lên nối ngôi vua
Hoạt động 2: Hƣớng dẫn đọc – hiểu văn bản 57 ’)
II. Đọc – hiểu văn bản
? Nhân vật Thạch Sanh đƣợc xây dựng dựa theo môtíp nào?
1. Nhân vật
a. Thạch Sanh
Hs trả lời: kiểu nhân vật dũng sĩ.
Thạch Sanh- kiểu nhân vật dũng sĩ.
? Nguồn gốc xuất thân của nhân vật Thạch Sanh đƣợc tác giả dân gian giới thiệu nhƣ thế nào? So sánh với các nhân vật khác nhƣ Thánh Gióng, Sọ Dừa?
- Sự ra đời khác thƣờng:
trao Hs đổi cặp, phát biểu
+ Ngọc Hoàng sai Thái tử xuống đầu thai làm con
- Nếu nhƣ Sọ Dừa đƣợc sinh ra từ việc ngƣời mẹ vào rừng hái củi cho chủ, khát nƣớc quá mà không tìm thấy suối, thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng nƣớc mƣa, bà bƣng lên uống -> có mang -> sinh ra đứa bé không chân, không tay, tròn nhƣ quả dừa.
+ Bà mẹ mang thai mấy năm
- Thánh Gióng do mẹ ra đồng trông thấy một vết bàn chân rất to, liền đặt chân mình lên ƣớm thử -> về nhà
85
mới sinh
thụ thai -> mƣời hai tháng sinh một cậu bé khôi ngô tuấn tú nhƣng lên ba tuổi vẫn không biết nói, biết cƣời.
=> Nguồn gốc xuất thân khác thƣờng.
+ Đƣợc thiên thần dạy võ nghệ và mọi phép thần thông
cảnh
- Hoàn bình thƣờng:
+ Con gia đình nông dân
- Nguồn gốc xuất thân của Thạch Sanh vừa bình thƣờng, lại vừa khác thƣờng. Vốn là thái tử, con trai Ngọc hoàng thƣợng đế đầu thai vào gia đình ông bà Thạch Nghĩa -> nhân vật có nguồn gốc thần tiên, phi thƣờng, là “ngƣời trời”. Nhƣng sau khi đầu thai, Thạch Sanh đã sinh ra và lớn lên thành một con ngƣời ở cõi trần, có cha mẹ, họ tên, quê hƣơng, nghề nghiệp rõ ràng cụ thể.
+ Sống nghèo khổ bằng nghề kiếm củi
=> Nhân vật vừa có cái khác thƣờng nhƣ các nhân vật trong truyền thuyết vừa có nét bình thƣờng của nhân vật cổ tích, làm cho nhân vật vừa có tính khái quát hóa, vừa giàu tính cụ thể, gần gũi với cuộc sống đời thƣờng.
Phát biểu
? Qua việc giới thiệu nhân vật nhƣ vậy, tác giả dân gian muốn thể hiện điều gì về ngƣời anh hùng dũng sĩ?
Tô đậm tính chất kì lạ, đẹp đẽ về sự ra đời và của lên lớn Thạch Sanh
GV cho HS thảo luận nhóm và hoàn thành phiếu học tập trong 5 phút.
Thảo luận nhóm 4
GV gọi đại diện nhóm phát biểu, nhận xét.
Gv chốt kiến thức trên máy PP
Đại diện phát biểu.
Tăng sức hấp dẫn nhƣng vẫn gần gũi ngƣời dân, dự báo đây là ngƣời sẽ lập nhiều chiến công
Những thử thách Thạch Sanh trải qua
Chiến công Thạch Sanh tiêu diệt chằn tinh
Hoàn cảnh, thử thách Bị mẹ con Lí Thông lừa đi canh miếu để nộp mạng cho chằn tình Lí Thông nhờ xuống hang cứu công chúa, gặp đại bàng Thạch Sanh xuống thủy cung
Phẩm chất thể hiện Hiền lành, thật thà Dũng cảm, tài nghệ phi thƣờng Nhân đạo, yêu thòa bình Nhân vật chính diện, chàng dũng sĩ của nhân dân.
Chƣ hầu 18 nƣớc đem quân đến đánh
Thạch Sanh tiêu diệt đại bàn, công chúa Thạch Sanh cứu con vua thủy tề Thạch Sanh gảy đàn, đuổi đƣợc quân 18 nƣớc chƣ hầu
lão
? Hãy kể tên các truyện có sử dụng mô tuýp dùng các Ông
86
thử thách để thể hiện phẩm chất nhân vât?
đánh các và con cá vàng, Cây thần, bút Sọ Dừa, Em bé thông minh…
Gv: Qua các lần thử thách, Thạch Sanh là biểu tƣợng của ngƣời anh hùng - nghệ sĩ dân gian thật thà, trung hậu, nhân ái, sức khỏe, tài năng vô địch đã lập nhiều chiến công. “ Có thể nói, trong những nhân vật chính diện mà truyện cổ tích Việt Nam đã xây dựng nên, Thạch Sanh là con ngƣời đẹp nhất, tiêu biểu và hoàn hảo nhất ».
b.
Lý Thông
Trả lời
? Để tôn vinh người dũng sĩ Thạch Sanh, nhân dân đã tạo thêm nhân vật có chức năng đối lập với chàng, đó là ai?
Trả lời
? Qua những lần hãm hại Thạch Sanh, em có nhận xét nhƣ thế nào về Lí Thông?
Lý Thông 2 lần lừa Thạch Sanh, cƣớp công của chàng.
Tổ 1 + 2: Trong truyện, hai nhân vật Thạch Sanh và Lí Thông luôn đối lập nhau về tính cách và hành động. Em thử chỉ ra sự đối lập này?
Tính cách: xảo trá, lừa dối, nham hiểm, độc ác
Thảo luận nhóm, phát biểu
-GV nhận xét
Tổ 3 + 4: Trong phần kết thúc truyện, mẹ con Lí Thông phải chết, còn Thạch Sanh thì đƣợc lấy công chúa và lên ngôi vua.
Thảo luận nhóm, phát biểu
Tƣợng trƣng cho cái ác, cái xấu
ý
Tại sao Lý Thông và mẹ y không bị Thạch Sanh trừng trị nhƣng lại bị Thiên lôi đánh chết và biến thành bọ hung bẩn thỉu? Với cách kết thúc này, nhân dân ta muốn thể hiện điều gì về công lí xã hội?
Nêu kiến
-Hậu quả: Bị sét đánh chết, rồi bị thành hóa kiếp bọ hung
? Tìm các truyện cổ tích cũng có cách kết thúc nhƣ vậy?
-GV nhận xét và chốt ý:
Tấm Cám, Cây Khế, Sọ Dừa…
Truyện kết thúc bằng việc mẹ con Lý Thông bị sét đánh chết thể hiện tƣ tƣởng nhân đạo của nhân dân cũng nhƣ quan niệm xây dựng nhân vật lí tƣởng ngƣời tốt thì luôn sống vị tha, nhân ái dù là với kẻ thù của mình, Nhƣng kẻ ác thì vẫn sẽ bị trừng trị thích đáng. Điều đó cũng thể hiện quan niệm và ƣớc mơ về một xã hội công bằng với triết lí ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác. Đó là triết lý sống cao đẹp của nhân dân ta: chính nghĩa thắng gian tà, ngƣời chính nghĩa phải đƣợc
87
hƣởng hạnh phúc, còn kẻ gian tà bị trừng trị thích đáng. Và đó cũng là triết lý xuyên suốt các truyện cổ tích nhƣ Tấm Cám, Cây Khế, Sọ Dừa…
Gv cho Hs chơi trò chơi củng cố kiến thức về tuyến nhân vật trong truyện Thạch Sanh.
Luật chơi: Gv có sẵn các từ về tên nhân vật xuất hiện trong truyện cũng nhƣ bảng phân loại các kiểu nhân vật.
GV chia lớp là 4 đội, các đội sẽ lên ghép bảng tên nhân vật vào bảng phân loại nhân vật và ghi nhanh vai trò, tác dụng của nhân vật trong truyện.
Đội nào ghép tên đúng nhất và nhanh nhất là đội giành chiến thắng.
Gv chiếu đáp án trên bảng.
Tên gọi
Tuyến Vai trò, tác dụng trong truyện
1. Thạch Sanh
Thiện
Nhân vật trung tâm của truyện
2. Lí Thông
Nhân vật chính cảu phe ác
Ác
3. Công chúa Quỳnh Nga
Nhân vât thứ hai của phe thiện
Thiện
Thiện
Nhân vật phụ
4. Bố Thạch Sanh
Thiện
Nhân vật phụ
5. Mẹ Thạch Sanh
Ác
Nhân vật phụ
6. Mẹ Lí Thông
Thiện
Nhân vật phụ
7. Vua
5. Quái vật * vừa có thực vừa mang tính chất thần kì
STT
Tên gọi
Tuyễn
Chằn Tinh
Ác
1
Đại Bàng
Ác
2
Vai trò, tác dụng trong truyện Kẻ thù trong tự nhiên của Thạch Sanh Bắt công chúa, đƣa đến cuộc gặp gỡ Thạch Sanh công chúa.
6.Nhân vật thần kì
STT Tên gọi
Tuyến
1.
Ngọc Hoàng
Thiện
2.
Thiên thần
Thiện
Vai trò, tác dụng trong truyện Cho Thạch Sanh đầu thai vào nhà họ Thạch Dạy phép thần thông cho Thạch Sanh
88
Vua Thủy Tề
Thiện
3.
Thái tử con vua Thủy Tề
Thiện
4.
Cho Thạch Sanh cây đàn thần Đƣợc Thạch Sanh cứu và đƣa đến việc tặng đàn thần cho Thạch Sanh.
c. Các yếu tố tƣởng tƣợng kì ảo.
? Hãy tìm ra các chi tiết tƣởng tƣợng kì ảo trong truyện? Nêu ý nghĩa và tác dụng của các chi tiết này?
GV gọi HS trả lời và nêu ý nghĩa
Tiếng đàn thần kì
Trả lời: Phát hiện chi tiết: Tiếng đàn thần, niêu cơm thần, nêu ý nghĩa.
GV bình:(Âm nhạc thần kì là chi tiết rất phổ biến trong truyện cổ tích dân gian: tiếng hát (truyện Trƣơng Chi); tiếng sáo (truyện Sọ Dừa)… Tuỳ từng truyện, âm nhạc thần kì có những ý nghĩa khác nhau)..
- Giúp nhân vật đƣợc giải oan, thoát; cứu giải bị công chúa câm; nhận ra ngƣời cứu mình, giải thoát cho Thạch Sanh. Nhờ đó mà Lí Thông bị vạch mặt. Đây là tiếng đàn của công lý. Thể hiện ƣớc mơ công lý của nhân dân.
- Tiếng đàn làm quân của 18 nƣớc chƣ hầu phải cuốn giáp xin hàng. Tiếng đàn lúc này lại đại diện cho cái thiện và tinh thần yêu chuộng hòa bình. Vũ khí để cảm hóa kẻ thù.
cơm
b. Niêu thần kì
89
- Cho quân chƣ sức thấy hầu mạnh của chàng
- Sự tài giỏi và trƣợng nghĩa của Thạch Sanh
thần nhân -Tinh đạo, tƣ tƣởng yêu hòa bình và ƣớc mở về cuộc sống ấm no, đủ đầy của nhân dân.
→ Ca ngợi tài năng và phẩm chất cao đẹp của Thạch Sanh, làm câu chuyện thêm hấp dẫn.
Nếu ý kiến cá nhân
? Tại sao khi cứu đƣợc con vua thủy tề, Thạch Sanh không chọn các vật dụng khác mà lại chọn cây đàn thần, niêu cơm thần?
GV nhấn mạnh ý nghĩa của sự xuất hiện các công cụ, vũ khí thông thƣờng và thần kì xuất hiện trong truyện cổ tích đều nhằ mục đích chuẩn bị cho các sự kiện, tình tiết xuất hiện trong truyện cũng nhƣ nhấn mạnh vai trò của các chi tiết tƣởng tƣợng kì ảo trong truyện.
Hoạt động 3: Hƣớng dẫn tổng kết 3 ’)
GV gợi dẫn để HS hệ thống đƣợc những kiến thức cơ bản của bài học
Trả lời và phát biểu
III. Tổng kết (sgk)
+ Ý nghĩa truyện
+ Nghệ thuật
Hoạt động 4: Hƣớng dẫn luyện tập 15 ’)
Gv cho HS thực hiện các nhiệm vụ đã giao ở nhà
IV. Luyện tập
1. Đóng kịch
90
2. Em hãy viết một kết thúc khác cho mẹ con Lí Thông sau khi đƣợc Thạch Sanh tha tội.
4. Dặn dò
Hoàn thành bài tập
1. Em hãy viết một kết thúc khác cho mẹ con Lí Thông sau khi đƣợc
Thạch Sanh tha tội.
2. Để chọn một hình ảnh tiêu biểu làm biểu tƣợng cho nhân vật Thạch
Sanh, em sẽ chọn hình ảnh vào và hãy tái hiện lại bằng tranh vẽ.
3. Chuẩn bị bài mời “Em bé thông minh”
3.2.1.4 . Đánh giá quá trình thực nghiệm
Kết quả thực nghiệm sƣ phạm sẽ đƣợc nhận xét, kiểm tra, đánh giá qua:
- Hoạt động dự giờ dạy trên lớp của GV, trao đổi, làm việc với GV.
- Hoạt động dự giờ, quan sát HS, nghe HS phát biểu ý kiến, trò chuyện
với HS.
- Sử dụng công cụ đánh giá là các câu hỏi, bài tập trắc nghiệm khách
quan và trắc nghiệm tự luận để kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS sau
bài học.
- Mô tả và phân tích kết quả giờ dạy trên lớp, dùng phƣơng pháp thống
kê toán học, các phƣơng pháp so sánh, đối chiếu để xử lí số liệu thu thập đƣợc
qua thực nghiệm, đi tới những kết luận đánh giá kết quả học tập của HS, xác
nhận tính khả thi và hiệu quả của giờ dạy.
3.2.2. Kết quả thực nghiệm
3.2.2.1. Tiến hành kiểm tra
Sau khi GV và HS hoàn thành việc dạy học truyện Thạch Sanh, chúng
tôi tiến hành hai giờ kiểm tra (kiểm tra 15 phút theo hình thức trắc nghiệm
khách quan và kiểm tra 45 phút theo hình thức tự luận) ở cả hai lớp đối chứng
và lớp thực nghiệm với cùng một đề bài
91
Đề kiểm tra 15 phút:
Đề bài: Khoanh tròn trƣớc đáp án em cho là đúng trong các câu hỏi sau đây:
1. Truyện Thạch Sanh chứa đựng nhiều nội dung, phản ánh nhiều
mặt cuộc sống, nhưng chung quy lại đều cùng một nội dung phản ánh. Đó
là nội dung gì?
A. Đấu tranh chinh phục thiên nhiên.
B. Đấu tranh xã hội.
C. Đấu tranh chống xâm lƣợc.
D. Đấu tranh giữa thiện và ác.
2. Nhận xét nào nêu chính xác về nguồn gốc xuất thân của Thạch Sanh?
A. Từ thế giới thần linh.
B. Từ những ngƣời chịu nhiều đau khổ.
C. Từ chú bé mồ côi.
D. Từ những ngƣời đấu tranh quật khởi.
3. Tác giả dân gian kể về sự ra đời và lớn lên của Thạch Sanh trong mối
quan hệ giữa đời sống trần thế với thế giới thần thánh nhằm mục đích gì?
A. Thể hiện ƣớc mơ về sức mạnh thần kì để chiến thắng thiên nhiên.
B. Thỏa mãn ƣớc mơ có sức mạnh thần kì để chiến thắng giặc ngoại xâm.
C. Thỏa mãn trí tƣởng tƣợng lãng mạn, bay bổng nhƣng cũng hết sức
thực tế của nhân dân ta trong cuộc sống.
D. Ca ngợi phẩm chất, tài năng nhân vật cũng nhƣ của chính nhân dân
lao động.
4. Trong truyện Thạch Sanh, thái độ và tình cảm nào của nhân dân
lao động không được thể hiện qua hình tượng Thạch Sanh?
A. Lí tƣởng hóa nhân vật theo tiêu chuẩn, nguyện vọng của mình.
B. Yêu mến, tự hào về con ngƣời có phẩm chất nhƣ Thạch Sanh.
C. Ca ngợi sức mạnh thể lực và trí tuệ của ngƣời nông dân.
D. Ƣớc mơ hạnh phúc, ƣớc mơ có những điều kì diệu làm thay đổi
cuộc đời.
92
5. Trong truyện Thạch Sanh, ước mơ của nhân dân lao động về cái
thiện chiến thắng cái ác, về công bằng xã hội được thể hiện tập trung ở chi
tiết nào?
A. Thạch Sanh giúp vua dẹp đƣợc họa xâm lăng.
B. Thạch Sanh đƣợc vua gả công chúa cho.
C. Thạch Sanh lấy đƣợc công chúa và đƣợc làm vua.
D. Mẹ con Lí Thông bị trừng phạt.
6. Hình ảnh niêu cơm ăn hết lại đầy trong truyện Thạch Sanh
không thể hiện ý nghĩa nào?
A. Khát vọng chung sống hòa bình và tình bác ái, khoan dung của dân
tộc ta.
B. Thể hiện mơ ƣớc về một quốc gia giàu mạnh, quân đội hùng cƣờng
để có thể tự bảo vệ đất nƣớc trƣớc lũ giặc ngoại xâm hung bạo.
C. Thể hiện tài năng phi thƣờng của Thạch Sanh, không chỉ khiến quân
giặc quy hàng mà còn "tâm phục, khẩu phục".
D. Ƣớc mơ về cuộc sống đầy đủ, no ấm, sung túc của nhân dân
7. Trong truyện Thạch Sanh, việc Thạch Sanh dùng tiếng đàn để
cảm hóa quân mười tám nước và thết đãi họ bằng niêu cơm thần có ý
nghĩa gì?
A. Thể hiện tinh thần yêu nƣớc, yêu hòa bình và tấm lòng nhân đạo của
nhân dân ta.
B. Thể hiện ƣớc mơ công lí: những ngƣời đi xâm lƣợc nhất định sẽ thất
bại, những ngƣời yêu chuộng hòa bình sẽ thắng lợi.
C. Cho quân các nƣớc chƣ hầu thấy đƣợc sức mạnh và sự giàu có, no
đủ của nhân dân ta.
D. Thể hiện sự dũng cảm và tài mƣu lƣợc của Thạch Sanh.
8. Hãy khoanh tròn chữ Đ nếu nhận định đúng, chữ S nếu nhận
định sai hoặc không phù hợp với nội dung âu chuyện khi trả lời câu hỏi:
93
A. Thạch Sanh là hình ảnh của những con ngƣời lao động cần cù, thật
thà và tốt bụng. Lí Thông là hình ảnh loại ngƣời gian xảo, hèn nhát, tàn nhẫn,
ích kỉ và sẵn sang làm bất cứ việc gì có lợi cho mình.
S Đ
B. Điều khác biệt của truyện Thạch Sanh so với truyện Em bé thông
minh là có các yếu tố thần kì, kì ảo.
S Đ
C. Lí Thông và hình ảnh con bọ hung là biểu hiện cụ thể cho thái độ
căm ghét của nhân dân lao động đối với những kẻ tráo trở, bất nhân.
S Đ
Đề kiểm tra 45 phút:
Đề bài:
Câu 1 2đ): Theo em, vì sao truyện Thạch Sanh đƣợc xếp vào thể loại
truyện cổ tích?
Câu 2 4đ): Hãy viết đoạn văn khoảng 8-10 câu nêu cảm nhận của em
về vẻ đẹp của chi tiết cây đàn thần trong truyện Thạch Sanh
Câu 3 4đ): Viết một cái kết mới cho số phận của hai mẹ con Lí Thông
sau khi đƣợc Thạch Sanh tha cho về quê.
3.2.2.2. Kết quả kiểm tra
Bảng 3.1: Tổng hợp kết quả (tính ra %) của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
Số
Đề
Lớp
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm TB
Điểm yếu
HS
kiểm tra
ĐC
40
15 phút
8 (20 %)
23 (57,5 %)
7 (17,5%)
2 (5 %)
TN
40
15 phút
13 (32,5%)
22 (55%)
5 (12,5%)
0 (0%)
ĐC
40
60 phút
7 (17.5%)
20 (50 %)
10 (25 %)
3 (7.5 %)
TN
40
60 phút
10 (25 %)
25 (62.5 %)
3 (7.5 %)
2 (5 %)
3.2.2.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm
Căn cứ vào bảng tổng hợp kết quả (tính ra %) của lớp thực nghiệm và
94
lớp đối chứng, chúng tôi lập biểu đồ cột so sánh kết quả kiểm tra ở hai bài
kiểm tra 15 phút và 60 phút nhƣ sau:
Biểu đồ 3.1: Biểu đồ so sánh kết quả kiểm tra 15 phút
Biểu đồ 3.2: Biểu đồ so sánh kết quả kiểm tra 45 phút
Các bảng thống kê cho thấy: kết quả kiểm tra ở các lớp thực nghiệm
khả quan hơn các lớp đối chứng. Có nguyên nhân là HS ở các lớp thực
95
nghiệm đƣợc tìm hiểu, phân tích truyện Thạch Sanh theo đặc trƣng thi pháp
thể loại, ngoài ra HS còn đƣợc làm các bài tập mở rộng, các hoạt động ngoại
khóa, tham gia sân khấu hóa tác phẩm, các trò chơi trong giờ học để khắc sâu
kiến thức về thể loại, bƣớc đầu biết đọc – hiểu tác phẩm theo đặc trƣng thi
pháp thể loại. Vì vậy, HS lớp thực nghiệm có khả năng trả lời chính xác, rõ
ràng hơn, phân tích sắc sảo hơn so với HS lớp đối chứng về những đặc điểm
thể loại của Thạch Sanh: về nhân vật, về cốt truyện, về nội dung, nghệ thuật…
Trong khi đó, hầu hết các lỗi mà HS lớp đối chứng mắc phải đều có
nguyên nhân các em chƣa nắm vững đặc trƣng thi pháp của thể loại truyện cổ
tích trong đó có truyện Thạch sanh
Đề kiểm tra trên về nội dung đƣợc biên soạn theo hƣớng kiểm tra khả
năng hiểu kiến thức về đặc trƣng thi pháp thể loại của truyện cổ tích Thạch
Sanh. Các câu hỏi tập trung khai thác hiểu biết của HS về nhân vật, cốt
truyện, không gian, thời gian, đặc điểm nghệ thuật…
Điểm kiểm tra cho thấy kết quả nắm kiến thức về thể loại truyện cổ tích
Thạch Sanh của HS lớp thực nghiệm và lớp đối chứng chênh lệch rõ theo
hƣớng điểm số của HS lớp thực nghiệm tốt hơn, khả quan hơn.
Với câu hỏi kiểm tra 15 phút theo dạng đề trắc nghiệm khách quan chủ
yếu kiểm tra kiến thức về các yếu tố liên quan đến thi pháp thể loại truyện cổ
tích đƣợc thể hiện qua truyện Thạch Sanh. Chúng tôi nhận thấy ở lớp thực
nghiệm do có sự chuẩn bị chu đáo về đặc trƣng thi pháp thể loại truyện cổ tích
nên có tới % HS trả lời đạt điểm giỏi. Ở lớp đối chứng, GV chƣa chú ý đến
điều này nên trong bài làm, HS chƣa hiểu đƣợc đặc trƣng cơ bản của thi pháp
thể loại dẫn tới chọn đáp án sai.
Câu hỏi 45 phút là dạng đề mở, HS cả hai lớp 6A3 và 6A4 đều thể hiện
đƣợc cảm nhận đƣợc về nhân vật, nhƣng ở lớp đối chứng (lớp 6A3) do GV
vẫn sử dụng cách phân tích văn bản theo hƣớng tự sự mà chƣa đi vào đặc
trƣng thi pháp thể loại. Còn ở lớp thực nghiệm, GV xuất phát từ các đặc điểm
theo thi pháp thể loại để HS chủ động, tích cực trong giờ học, tự khám phá
96
truyện Thạch Sanh dựa trên các đặc điểm thi pháp thể loại nên bài làm đã thể
hiện đƣợc năng lực tƣởng tƣợng cao hơn.
Sau khi dạy thực nghiệm và kiểm tra kết quả học tập của HS, chúng tôi
có những đánh giá nhƣ sau:
- HS qua các giờ học thực nghiệm đã nắm đƣợc kiến thức thể loại của
truyện Thạch Sanh, rèn luyện kỹ năng đọc - hiểu truyện cổ tích theo đặc trƣng
thi pháp thể loại.
- Việc tổ chức dạy học theo tinh thần tích cực hóa hoạt động của ngƣời
học, sự đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học, các kiểu bài học đã tạo cơ
hội cho HS trở thành những chủ thể tích cực, sáng tạo. Các em tỏ ra hứng thú,
chủ động hơn trong học tập, mạnh dạn hơn khi phát biểu ý kiến, trình bày những
phát hiện, suy nghĩ, cảm nhận của bản thân, khi trao đổi, đổi thoại, thảo luận
giữa các nhóm, tạo không khí học tập tích cực, sôi nổi trong lớp học.
- Dạy truyện Thạch Sanh theo đặc trƣng thi pháp thể loại có tác dụng
rất lớn trong việc giáo dục về nhận thức, tƣ tƣởng, thái độ cho HS.
- Kết quả dạy thực nghiệm cho thấy, dạy truyện cổ tích nói chung, dạy
truyện Thạch Sanh nói riêng theo đặc trƣng thi pháp thể loại là một hƣớng dạy học
tiến bộ, hiệu quả, đáp ứng đƣợc yêu cầu đổi mới phƣơng pháp dạy học hiện nay.
Tiểu kết chƣơng 3
Qua hoạt động thiết kế giáo án thể nghiệm, tiến hành dạy thực nghiệm
và đánh giá kết quả thực nghiệm, chúng tôi thấy rằng hƣớng dạy học truyện
cổ tích bám sát thi pháp thể loại là hoàn toàn có cơ sở khoa học và cơ sở thực
tiễn. Áp dụng hƣớng dạy học này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn
văn, hình thành ở ngƣời học năng lực giải mã các truyện cổ tích một cách
khoa học và giàu tính nghệ thuật. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả khả quan
ban đầu, hƣớng dạy học này vẫn còn tồn tại một số hạn chế, vƣớng mắc, hi
vọng trong thời gian tới, với việc điều chỉnh và hoàn thiện đề tài tính khả
quan của luận văn sẽ đƣợc nâng cao hơn.
97
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Truyện cổ tích là kho báu của dân tộc, lựa chọn dạy các truyện cổ tích
trong chƣơng trình THCS mà đặc biệt lớp 6, lớp đầu cấp là việc làm đúng đắn
song do khoảng cách thời gian thể loại cổ tích xa thế hệ tiếp nhận hàng trăm,
hàng nghìn năm nên khoảng cách về nhận thức, về tƣ tƣởng, tình cảm cũng
khá lớn trong khi đó kiến thức văn hóa xã hội của HS còn hạn hẹp… khiến
cho việc tiếp thu văn bản càng trở nên khó khăn.
Thực tế, việc giảng dạy Văn học hiện nay vẫn chƣa chú trọng vận dụng
những lý thuyết thi pháp vào giảng dạy. Giáo viên thƣờng chỉ giảng văn theo
cách nêu ý của văn bản dựa vào cách hiểu chủ quan của bản thân. Điều này
làm cho học sinh cảm thấy việc học văn vô cùng khó khăn.
Muốn giúp các em có thể dễ dàng tiếp nhận truyện cổ tích thì ngƣời
giáo viên phải hƣớng dẫn các em chiếm lĩnh tác phẩm thông qua biện pháp
gắn tác phẩm với thi pháp thể loại.
Trên cơ sở lý luận và kết quả thực nghiệm đã chứng minh bƣớc đầu
tính khả thi của luận văn.
2. Khuyến nghị
2.1. Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo
- Thƣờng xuyên tổ chức các lớp tập huấn cho giáo viên về đổi mới
phƣơng pháp dạy học truyện cổ tích theo hƣớng tiếp cận thi pháp.
- Xây dựng những tiêu chí đánh giá một giờ dạy văn bản nghệ thuật
hiệu quả.
2.2. Đối với nhà trường
- Khuyến khích giáo viên nghiên cứu, tìm tòi, vận dụng những kiến
thức thể loại vào dạy học truyện cổ tích.
- Tổ chức các cuộc hội thảo, chuyên đề để giáo viên có thể học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau từ đó rút ra những ƣu điểm và hạn chế trong quá trình giảng dạy.
2.3. Đối với giáo viên
98
Giáo viên cần học hỏi và nắm chắc đặc trƣng thi pháp thể loại của
truyện cổ tích và các phƣơng pháp dạy học theo đặc trƣng thể loại thì mới có
thể nâng cao đƣợc hiệu quả dạy học Ngữ Văn.
Các tổ, nhóm chuyên môn cần thƣờng xuyên tổ chức những chuyên đề
bồi dƣỡng kiến thức về thể loại, hƣớng dẫn giáo viên phƣơng pháp giảng dạy
theo thể loại để giáo viên có cái nhìn cụ thể hơn với một giờ dạy học tác phẩm
văn chƣơng đúng đặc trƣng thể loại dần thay đổi cách dạy mà lâu nay giáo
viên vẫn áp dụng.
Trong quá trình giảng dạy, có rất nhiều phƣơng pháp đƣợc áp dụng mỗi
phƣơng pháp lại có những ƣu điểm và hạn chế riêng. Vì vậy, giáo viên phải
sử dụng linh hoạt, phù hợp các phƣơng pháp dạy học để tận dụng những ƣu
điểm của các phƣơng pháp. Đồng thời nếu thấy học sinh yếu ở điểm nào, giáo
viên cần bổ sung kiến thức, kỹ năng cho các em ở điểm đó. Ngoài ra, hiện nay
sự hỗ trợ của CNTT và các phƣơng tiện dạy học cũng góp phần đắc lực vào
việc dạy học văn, GV cũng cần chú trọng sử dụng có hiệu quả. Những việc
làm này đòi hỏi sự tận tâm, đầu tƣ chuyên môn, đổi mới phƣơng pháp dạy học
99
của ngƣời giáo viên để học sinh ngày càng hứng thú với môn Ngữ Văn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoa Bằng 1957), Khảo luận về truyện Thạch Sanh, Nxb Văn Sử Địa,
Hà Nội.
2. Nguyễn Đổng Chi 1972), Nghiên cứu truyện cổ tích nói chung, trong
cuốn Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 1. Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
3. Nguyễn Viết Chữ (2009), Phương pháp dạy học tác phẩm văn
chương. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Phan Huy D ng 2009), Tác phẩm văn học trong nhà trường phổ
thông, một góc nhìn, một cách đọc. Nxb Giáo dục Việt Nam.
5. Chu Xuân Diên (2006), Văn hóa dân gian, mấy vấn đề phương pháp
luận và nghiên cứu thể loại. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
6. Chu Xuân Diên, Phan Lan Hƣơng, Nguyễn Kim Loan dịch)
(2004), Tuyển tập V. Ia Propp. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
7. Chu Xuân Diên, Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học.
8. Nguyễn Tấn Đắc 1990), Về các bản mục luc tra cứu type và motif của
truyển kể dân gian trong cuốn văn hóa dân gian, những phương pháp
nghiên cứu. Nxb Khoa học xã hội Hà Nội.
9. Nguyễn Tấn Đắc 2001), Truyện kể dân gian đọc bằng TYPE và
MOTIF. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
10. Cao Huy Đỉnh 1976), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam.
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
11. Nguyễn Xuân Đức 2003), Những vấn đề thi pháp văn học dân gian.
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
12. Nguyễn Xuân Đức 2011), Thi pháp truyện cổ tích thần kỳ người Việt.
Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
13. Nguyễn Văn Đƣờng, Hoàng Dân 2003), Thiết kế bài giảng Ngữ văn
100
6 THCS. Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
14. Nguyễn Bích Hà 2010), Giáo trình văn học dân gian Việt Nam. Nxb
Đại học sƣ Phạm.
15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên)
(2000), Từ điển thuật ngữ văn học. Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
16. Hoàng Ngọc Hiến 1994), “Giảng dạy truyện cổ tích ở trƣờng phổ
thông”, Tạp chí Hồng Lĩnh, (3). tr.11 - 15.
17. Đỗ Đức Hiểu 2000), Thi pháp hiện đại. Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
18. Nguyễn Thái Hòa 2000), Những vấn đề thi pháp của truyện. Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
19. Nguyễn Thái Hòa 2002), Từ điển tu từ phong cách, thi pháp học. Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
20. Jazun - Gamgiatốp 1985), Đaghétxtan của tôi. Nxb Văn học, Hà Nội.
21. Đinh Gia Khánh 1968), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ
tích qua truyện Tấm Cám. Nxb Văn học, Hà Nội.
22. Đinh Gia Khánh chủ biên), Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn
(1996), Văn học dân gian Việt Nam, tái bản lần thứ tư. Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
23. Nguyễn Xuân Kính 2012), “Một số nhận thức về Văn học dân gian
Việt Nam”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
24. Nguyễn Xuân Kính 1992), “ Thi pháp ca dao ”, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
25. Nguyễn Xuân Lạc 1995), “Phần văn học dân gian trong sách giáo
khoa chỉnh lý, THCS”, Tạp chí Văn hóa dân gian, (4), tr.3- 8.
26. Nguyễn Xuân Lạc 1997), Giảng văn văn học dân gian. Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
27. Phan Trọng Luận 2013), Phương pháp dạy học văn, tập 1, tập 2.
Nxb Đại học sƣ Phạm.
28. Phan Trọng Luận chủ biên), Trƣơng Dĩnh 2004), Phương pháp
101
dạy học văn. Nxb Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
29. Đỗ Quang Lƣu 2003), Tập nghiên cứu và bình luận, tập 1. Nxb Hà Nội.
30. Tăng Kim Ngân 1994), “Cổ tích thần kì ngƣời Việt, đặc điểm cấu tạo
cốt truyện”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
31. Nhiều tác giả 1975), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 1. Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
32. Nhiều tác giả 1990), Văn hóa dân gian, những phương pháp nghiên
cứu. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
33. Nhóm tác giả 2000), Ngữ văn 6, tập 1, tái bản lần thứ tám. Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
34. Nhóm tác giả 2010), Ngữ văn 10, tập 1, sách giáo viên, tái bản lần
thứ tám. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
35. Nhóm tác giả 2010), Ngữ văn 6, tập 1, sách giáo viên, tái bản lần thứ
tám. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
36. Nguyễn Quang Ninh, Nguyễn Viết Chữ, Dƣơng Tuấn Anh, Nguyễn
Thuý Hồng 2005), Viện nghiên cứu Sư phạm-H.2005, Tài liệu bồi
dưỡng nâng cao năng lực cho giáo viên phổ thông về đổi mới phương
pháp dạy học.
37. V Ngọc Phan 1964), “Tìm hiểu quá trình hoàn chỉnh một số truyện
cổ dân gian Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa dân gian, (5), tr.15- 20.
38. Lê Trƣờng Phát 2000), Thi pháp văn học dân gian. Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
39. Hoàng Tuấn Phổ, Phùng Uông 1962), Truyện Thạch Sanh. Nxb Văn
Hóa, Viện Văn Học.
40. Lê Chí Quế chủ biên), Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vỹ 2004),
Văn học dân gian Việt Nam. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
41. Trần Đình Sử 1998), Dẫn luận thi pháp học. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. Trần Đình Sử 2016), Trên đường biên của lí luận văn học. Nxb Phụ nữ.
43. Trần Khánh Thành chủ biên) 2012), 125 bài văn lớp 10. Nxb Đại
102
học quốc gia Hà Nội.
44. Đỗ Bình Trị 1991), Phân tích tác phẩm văn học dân gian. Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
45. Đỗ Bình Trị 1991), Văn học dân gian Việt Nam, tập 1. Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
46. Đỗ Bình Trị 2006), Truyện cổ tích thần kỳ người Việt đọc theo hình
thái học của truyện cổ tích của V. Ja. Propp. Nxb Đại học Quốc gia
TP. Hồ Chí Minh.
47. Phan Hải Triều 1996), “Thử phân tích vài biểu hiện nhân ái trong
truyện cổ tích Việt Nam, Văn hóa dân gian, (3), tr.10- 15.
48. Hoàng Tiến Tựu 1990), Văn học dân gian Việt Nam, tập 2. Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
49. Hoàng Tiến Tựu 1992), Bình giảng truyện dân gian. Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
50. V.Ia.Prốp 1969), Hình thái học truyện cổ tích, Matxcơva. Nxb khoa học.
51. Phạm Thu Yến chủ biên), Lê Trƣờng Phát, Nguyễn Thị Bích Hà
đồng biên soạn) 2005), Giáo trình văn học dân gian. Nxb Đại học Sƣ
103
phạm, Hà Nội.
PHỤ LỤC
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116