VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI -----***-----
NGUYỄN BÌNH CÔNG
DI TÍCH THÀNH XƯƠNG GIANG (BẮC GIANG) QUA HAI LẦN
KHAI QUẬT
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHẢO CỔ HỌC
Hà Nội, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan tất cả nội dung của luận văn với đề tài: “Di tích thành
Xương Giang (Bắc Giang) qua hai lần khai quật”, được hình thành từ quan điểm
của bản thân dưới sự hướng dẫn của TS. Trịnh Hoàng Hiệp. Các số liệu và kết
quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ
một học vị nào.
Hà Nội, ngày 15/8/2019
Tác giả luận văn
Nguyễn Bình Công
I
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi luôn nhận được sự quan tâm giúp
đỡ quý báu về mọi mặt của những người thân trong gia đình. Tôi cũng nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình, đầy đủ và trách nhiệm của thầy hướng dẫn: TS. Trịnh
Hoàng Hiệp. Bên cạnh đó, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban
giám đốc Bảo tàng tỉnh Bình Dương, Phòng Sưu tầm - Kiểm kê bảo quản Bảo
tàng tỉnh Bình Dương nơi tôi đang công tác.
Tôi đã nhận được sự chỉ bảo ân cần và giúp đỡ to lớn từ thầy giáo, cô giáo
trong Khoa Khảo cổ học, trường Học Viện Khoa học xã hội; cán bộ công chức,
viên chức Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch, Bảo tàng tỉnh Bắc Giang, Ban quản
lý Di tích thành Xương Giang; Đảng ủy, Hội đồng Nhân dân, UBND thành phố
Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang; Đảng ủy, Hội đồng Nhân dân, UBND phường
Xương Giang, thành phố Bắc Giang cùng các bạn bè, đồng nghiệp. Điều đó đã
giúp tôi hoàn thành luận văn của mình và qua đây cho phép tôi gửi tới Quý vị,
Quý cơ quan niềm kính trọng và biết ơn sâu sắc!
II
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ DI TÍCH THÀNH XƯƠNG GIANG .......... 10
1.1. Diễn trình lịch sử thành Xương Giang ....................................................... 10
1.2. Kết quả điều tra khảo sát ............................................................................ 17
CHƯƠNG 2. NHỮNG TƯ LIỆU MỚI QUA HAI LẦN KHAI QUẬT .......... 21
2.1. Địa tầng ...................................................................................................... 21
2.2. Di tích ......................................................................................................... 23
2.3. Di vật .......................................................................................................... 33
CHƯƠNG 3. NHẬN THỨC VỀ THÀNH XƯƠNG GIANG .......................... 61
3.1. Quy mô, cấu trúc thành Xương Giang ....................................................... 61
3.2. Tính chất thành Xương Giang .................................................................... 64
3.3. Giá trị lịch sử, văn hóa di tích thành Xương Giang ................................... 68
3.4. Đề xuất về định hướng bảo tồn, phát huy giá trị lịch sử - văn hóa di tích
thành Xương Giang ........................................................................................... 72
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 80
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 88
III
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
h Hình
H Hố khai quật khảo cổ học
M Mộ
MH Mô hình
NPHMVKCH Những phát hiện mới về khảo cổ học
Nxb Nhà xuất bản
PL Phụ lục
tk Thế kỷ
tr Trang
UBND Ủy ban nhân dân
IV
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, BẢN VẼ, BẢN ẢNH
I. DANH MỤC BẢNG BIỂU SỬ DỤNG TRONG CHÍNH VĂN
Bảng 2.1. Địa tầng thành Xương Giang năm 2008 và năm 2011-2012
Bảng 2.2. Thống kê các hàng móng trụ kiến trúc hố H2 năm 2008
Bảng 2.3. Thống kê hiện vật di tích thành Xương Giang
Bảng 2.4. Thống kê gạch thế kỷ XV
Bảng 2.5. Thống kê ngói thế kỷ XV
Bảng 2.6. Thống kê gốm men Việt Nam
Bảng 2.7. Thống kê gốm men Trung Quốc
Bảng 2.8. Thống kê đồ sành
Bảng 2.9. Thống kê đồ đất nung
Bảng 2.10. Thống kê hiện vật kim loại
Biểu đồ 2.1. Các loại hình hiện vật di tích thành Xương Giang
Biểu đồ 2.2. Vật liệu kiến trúc thế kỷ XV
Biểu đồ 2.3. Loại hình gạch thế kỷ XV
Biểu đồ 2.4. Loại hình ngói thế kỷ XV
Biểu đồ 2.5. Các loại hình gốm men Việt Nam
Biểu đồ 2.6. Các loại hình gốm men Trung Quốc
Biểu đồ 2.7. Các loại hình đồ sành
Biểu đồ 2.8. Các loại hình hiện vật đất nung
Biểu đồ 2.10. Các loại hình hiện vật kim loại
Hình 1.1. Cánh đồng Ngói và Cánh đồng Gốm
Hình 1.2. Vết tích khảo cổ trên Đồi Ngô
Hình 1.3. Vết tích khảo cổ ở khu vực Giếng Phủ
V
MH1. Mô hình bước gian hệ thống móng trụ
MH2. Mô hình giả định mặt cắt ngang ngôi nhà
MH3. Mô hình kho lương
II. DANH MỤC BẢNG THỐNG KÊ, BẢN ĐỒ, SƠ ĐỒ, BẢN VẼ, BẢN
ẢNH TRONG PHỤ LỤC
1. BẢNG THỐNG KÊ
Phụ lục 1. Bảng tổng hợp phân loại và số lượng di cốt động vật, khai quật năm
2011-2012
Phụ lục 2. Bảng thống kê thành phần loài và vị trí giải phẫu di cốt động vật, khai
quật năm 2011 - 2012
Phụ lục 3. Bảng thống kê kích thước răng hàm trên bên trái Mộ 3, khai quật năm
2011 - 2012
Phụ lục 4. Kích thước răng hàm dưới bên trái Mộ 3, khai quật năm 2011-2012
Phụ lục 5. Bảng thống kê gốm men Việt Nam thế kỷ XIII-XIV
Phụ lục 6. Bảng thống kê gốm men Việt Nam thế kỷ XV
Phụ lục 7. Bảng thống kê gốm men Việt Nam thế kỷ XV-XVI
Phụ lục 8. Bảng thống kê gốm men Trung Quốc thế kỷ VII-IX
Phụ lục 9. Bảng thống kê gốm men Trung Quốc thế kỷ XIII-XIV
Phụ lục 10. Bảng thống kê gốm men Trung Quốc thế kỷ XV
Phụ lục 11. Bảng thống kê đồ sành thế kỷ XIII-XIV
Phụ lục 12. Bảng thống kê đồ sành thế kỷ XV-XVI
VI
2. BẢN VẼ HIỆN TRƯỜNG
Phụ lục 13. Mặt bằng hố H2 khai quật năm 2008
Phụ lục 14. Mặt bằng hố H3 khai quật năm 2008
Phụ lục 15. Mặt cắt vách bắc hố khai quật H3 năm 2008
Phụ lục 16. Mặt bằng hố H1L1 khai quật năm 2011-2012
Phụ lục 17. Vách nam hố H1 khai quật năm 2011-2-12
3. BẢN ĐỒ
Phụ lục 18. Bản đồ hành chính tỉnh Bắc Giang
Phụ lục 19. Sơ đồ toàn bộ diễn biến chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang
Phụ lục 20. Sơ đồ diễn biến trận Xương Giang
Phụ lục 21. Sơ đồ thành Xương Giang và vị trí các hố điều tra, khai quật năm
2008
Phụ lục 22. Vị trí các hố khai quật năm 2011-2012
Phụ lục 23. Sơ đồ vị trí các hố khai quật khảo cổ học di tích thành Xương Giang
(giai đoạn 1)
4. BẢN ẢNH HIỆN TRƯỜNG VÀ CÁC LOẠI HÌNH DI TÍCH
Phụ lục 24. Mặt bằng và vị trí các hố khai quật
Phụ lục 25. Mặt bằng và vị trí các hố khai quật
Phụ lục 26. Mặt bằng và vị trí các hố khai quật
Phụ lục 27. Địa tầng hố khai quật
Phụ lục 28. Địa tầng hố khai quật
Phụ lục 29. Di tích kiến trúc
Phụ lục 30. Di tích kiến trúc
VII
Phụ lục 31. Di tích kiến trúc
Phụ lục 32. Di tích ken dày gạch ngói và gạo cháy
Phụ lục 33. Di tích hố đất đen
Phụ lục 34: Di cốt động vật phát hiện tại di tích thành Xương Giang
Phụ lục 35. Di tích mộ táng
5. BẢN ẢNH - BẢN VẼ HIỆN VẬT
Phụ lục 36. Ảnh - Bản vẽ vật liệu xây dựng Giếng Phủ
Phụ lục 37. Ảnh - Bản vẽ vật liệu xây dựng Giếng Phủ
Phụ lục 38. Ảnh - Bản vẽ vật liệu xây dựng
Phụ lục 39. Ảnh - Bản vẽ hiện vật vật liệu xây dựng
Phụ lục 39. Ảnh - Bản vẽ hiện vật vật liệu xây dựng
Phụ lục 40. Ảnh - Bản vẽ hiện vật vật liệu xây dựng Giếng Phủ
Phụ lục 41. Ảnh - Bản vẽ hiện vật vật liệu xây dựng
Phụ lục 42. Ảnh - Bản vẽ hiện vật vật liệu xây dựng
Phụ lục 43. Ảnh - Bản vẽ gốm men Việt Nam
Phụ lục 44. Ảnh - Bản vẽ gốm men Việt Nam
Phụ lục 45. Ảnh - Bản vẽ gốm men Việt Nam
Phụ lục 46. Ảnh - Bản vẽ gốm men Việt Nam
Phụ lục 47. Ảnh - Bản vẽ gốm men Việt Nam
Phụ lục 48. Ảnh - Bản vẽ gốm men Việt Nam
Phụ lục 49. Ảnh - Bản vẽ gốm men Việt Nam
Phụ lục 50. Ảnh - Bản vẽ gốm men Trung Quốc
Phụ lục 51. Ảnh - Bản vẽ gốm men Trung Quốc
Phụ lục 52. Ảnh - Bản vẽ gốm men Trung Quốc
VIII
Phụ lục 53. Ảnh - Bản vẽ đồ sành
Phụ lục 54. Ảnh - Bản vẽ đồ sành
Phụ lục 55. Ảnh - Bản vẽ đồ sành
Phụ lục 56. Ảnh - Bản vẽ đồ sành
Phụ lục 57. Ảnh - Bản vẽ đồ sành
Phụ lục 58. Ảnh - Bản vẽ đồ sành
Phụ lục 59. Ảnh - Bản vẽ đồ sành
Phụ lục 60. Ảnh - Bản vẽ đồ sành
Phụ lục 61. Ảnh - Bản vẽ đồ sành
Phụ lục 62. Ảnh hiện vật đất nung
Phụ lục 63. Ảnh - Bản vẽ hiện vật đá
Phụ lục 64. Ảnh hiện vật kim loại
IX
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành Xương Giang là một tòa thành do quân Minh xây dựng từ năm
1407, với mục đích sử dụng thành này để trấn giữ con đường thiên lý bắc - nam,
không cho dân ta nổi dậy. Xưa kia, ngôi thành thuộc xã Thọ Xương, huyện Bảo
Lộc; nay thuộc thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Đây là thành lớn nhất của
phủ Lạng Giang, có diện tích khoảng 27ha, thành hình chữ nhật. Tường thành
dày và cao, được đắp bằng đất, bốn góc có 4 vọng gác. Phía ngoài có hào sâu
bao bọc xung quanh, cách 3km về phía nam thành là dòng sông Thương, phía
đông bắc là những đồi thấp. Thành Xương Giang là trị sở của chính quyền đô hộ
phủ Lạng Giang đồng thời còn là một vị trí trọng yếu của địch, vừa có thể ứng
cứu nhanh cho Đông Quan vừa có thể làm chỗ dựa cho viện binh tiến sang. Để
bảo vệ vị trí quan trọng này, chính quyền đô hộ nhà Minh đã cử chỉ huy Lý
Nhậm và những viên tướng như Kim Dận, Cố Phúc, Phùng Chí, Lưu Thuận chỉ
huy 2000 quân đóng giữ, cùng với số quân đông đảo đó là bộ máy hành chính
dưới sự điều hành của tri phủ Lưu Tử Phụ. Sở chỉ huy được đặt khu đất cao nằm
ở giữa thành.
Với quy mô to lớn, tường thành vững chắc, kiên cố, lại có hào sâu, binh
lực mạnh nên quân giặc ở Xương Giang kiên quyết cố thủ. Tháng 9 năm 1427,
bộ chỉ huy nghĩa quân thực sự lo lắng khi hai đạo quân tiếp viện nhà Minh đã áp
sát biên giới nước ta. Trước tình thế đó, chủ tướng Lam Sơn Lê Lợi quyết định
tăng cường lực lượng đánh chiếm bằng được thành Xương Giang.
Đêm ngày 9 tháng 8 năm Đinh Mùi (28/9/1427), cuộc tổng tiến công vào
thành Xương Giang bắt đầu. Ngày 15 tháng 10 năm Đinh Mùi (3/11/1427),
1
nghĩa quân Lam Sơn tổng công kích quân Minh ở Xương Giang. Toàn bộ tướng
lĩnh chủ huy (trừ chủ sự Phan Hậu trốn thoát) từ Thôi Tụ, Hoàng Phúc, Sử An,
Trần Dung... cùng hàng vạn quân lính bị giết và bị bắt. Được tin này Vương
Thông vô cùng hoảng hốt và phải chấp nhận “giảng hòa”, rút quân về nước.
Nếu như chiến thắng ở Chi Lăng là chiến thắng đầu tiên mở đầu thắng lợi
cho đường lối “vây thành, diệt viện” thì chiến công Xương Giang đã kết thúc
thắng lợi cho đường lối đúng đắn đó của nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi chỉ huy.
Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang đã đập tan hoàn toàn ý chí xâm lược của
nhà Minh, hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Đất nước được giải
phóng, nền độc lập dân tộc được giữ vững gần bốn thế kỷ.
Với ý nghĩa lịch sử đó, ngày 22/01/2009, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
đã có Quyết định số 293/QĐ-BVHTT-DL xếp hạng Di tích lịch sử địa điểm
Chiến thắng Xương Giang tại thành Xương Giang, phường Xương Giang, thành
phố Bắc Giang là Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Năm 2010, UBND tỉnh Bắc
Giang đã ban hành Quyết định 1593/QĐ-UBND phê duyệt Dự án đầu tư xây
dựng công trình “Bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích lịch sử chiến
thắng Xương Giang” nhằm bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị lịch sử Chiến
thắng Xương Giang và xây dựng khu di tích Chiến thắng Xương Giang thành
điểm đến của du lịch Bắc Giang.
Di tích thành Xương Giang đã được các nhà khảo cổ học, cán bộ Bảo tàng
Hà Bắc (cũ), Bảo tàng Bắc Giang ngày nay tiến hành điều tra khảo sát, nghiên
cứu nhiều lần. Đặc biệt, năm 2008 và năm 2011-2012, Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch tỉnh Bắc Giang, Bảo tàng tỉnh Bắc Giang, UBND thành phố Bắc Giang,
Ban quản lý dự án thành phố Bắc Giang, Phòng VHTT thành phố Bắc Giang
phối hợp với Viện Khảo cổ học tiến hành khai quật hai lần địa điểm khảo cổ học
2
này đã phát hiện được dấu vết kiến trúc và nhiều loại hình hiện vật như: vật liệu
xây dựng, vật liệu trang kiến trí kiến trúc, đồ gốm sứ, sành, di cốt người và động
vật…
Tôi là người con sinh ra, lớn lên ở vùng đất Kinh Bắc vào công tác tại Bảo
tàng tỉnh Bình Dương với mong muốn được nghiên cứu về khảo cổ học Việt
Nam. Đó là lý do tôi tham gia học cao học tại Học viện Khoa học Xã hội, thuộc
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, chuyên ngành Khảo cổ học. Tuy
nhiên, thời gian bảo vệ luận văn sắp đến mà tư liệu phục vụ viết luận văn gặp vô
vàn khó khăn do tỉnh Bình Dương tiến hành khai quật khảo cổ học rất ít, hoặc
nếu có thì đã có cán bộ sử dụng tư liệu viết luận án tiến sĩ hay luận văn thạc sĩ.
Cho dù di tích đã được điều tra khảo sát, khai quật khảo cổ học nhưng
chưa có một công trình tổng hợp nào về những kết quả nghiên cứu này. Được sự
động viên và giúp đỡ của TS. Trịnh Hoàng Hiệp, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Di
tích thành Xương Giang (Bắc Giang) qua hai lần khai quật” làm luận văn
thạc sĩ, chuyên ngành Khảo cổ học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong các bộ sử của Việt Nam như: Đại Việt sử ký toàn thư, Lam Sơn
thực lục, Đại Việt thông sử, Việt Sử tiêu án, Lịch triều hiến chương loại chí, Đại
Nam nhất thống chí, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Việt sử cương
mục tiết yếu, Việt Nam sử lược, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Đại
cương Lịch Sử Việt Nam, Lịch sử Việt Nam… đều ít nhiều đề cập đến địa danh
thành Xương Giang. Tuy nhiên, các nguồn sử liệu trên không mô tả, khảo cứu cụ
thể thành Xương Giang cũng như các công trình ở trong và ngoài thành ra sao
mà những tư liệu đó chủ yếu là ghi chép các sự kiện theo dòng lịch sử.
Qua các tư liệu này, có thể thấy rằng thành Xương Giang ở phủ Lạng
3
Giang được xây dựng trong thời gian nhà Minh xâm lược và đô hộ nước ta
(1407-1427). Đây là nơi ghi dấu ấn sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc ta ở
thế kỷ XV, bao hàm hai sự kiện lớn: Một là, chiến thắng vang dội của nghĩa
quân Lam Sơn trong chiến dịch tấn công giải phóng thành Xương Giang ngày
18/10/1427 (tức 28 tháng 9 năm Đinh Mùi). Hai là, chiến thắng Xương Giang là
đỉnh cao thắng lợi của trận quyết chiến chiến lược Chi Lăng - Xương Giang lịch
sử ngày 3/11/1427 (tức 15 tháng 10 năm Đinh Mùi).
Có thể nói, cho đến trước những năm 1970, hầu như chưa có công trình
nghiên cứu cụ thể, khoa học nào về di tích thành Xương Giang. Di tích thành
Xương Giang chỉ thực sự được quan tâm nghiên cứu vào những thập niên 70-80
của thế kỷ XX. Bảo tàng Hà Bắc đã kết hợp với các giáo sư và sinh viên Khoa
Sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn Hà Nội) nhiều lần điều tra khảo sát, khảo cổ học di tích thành Xương
Giang. Các nhà nghiên cứu đã tiến hành đo vẽ di tích tòa thành, tìm hiểu cấu trúc
và kỹ thuật xây dựng thành, tập hợp các tài liệu hiện vật ở khu vực thành do
nhân dân phát hiện và lưu giữ, các tài liệu địa danh, địa hình cảnh quan, các
truyền thuyết lưu truyền trong nhân gian… Tuy nhiên, những nghiên cứu này chỉ
dừng ở mức độ khảo sát, điều tra, chưa được khai quật khảo cổ học để nghiên
cứu một cách chi tiết về di tích cũng như di vật tại di tích thành Xương Giang.
Năm 2006, UBND tỉnh Bắc Giang xuất bản sách Địa chí Bắc Giang, địa
danh thành Xương Giang đã được đề cập đến, song cũng chỉ là những mô tả
mang tính sơ lược: “Thành có diện tích 270.000m2, thành có hình chữ nhật chu
vi 2.100m, 4 góc là 4 vọng lâu lớn có đặt các loại súng thần cơ lớn nhỏ”.
Để thực hiện chương trình nghiên khảo cổ học tại Bắc Giang cũng như đề
xuất phương án bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích thành Xương Giang.
4
Được sự cho phép của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch tỉnh Bắc Giang phối hợp với Viện Khảo cổ học đã tiến hành khai quật
thành cổ Xương Giang, phường Xương Giang, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc
Giang hai lần.
Năm 2008, các nhà nghiên cứu đã tiến hành điều tra, thám sát và khai quật
3 hố với tổng diện tích là 154,87m2. Hố khai quật H1 nằm cách tường bao
Trường Trung cấp Văn hoá Nghệ thuật về phía đông 30m. Hố khai quật H2 nằm
trên một thửa ruộng có địa thế cao hơn so với những thửa ruộng xung quanh, hố
nằm sát chân thành về gần hướng cửa đông bắc, vách tây hố H2 cách vách đông
hố khai quật H1 83m. Hố khai quật H3 nằm trên một thửa ruộng có địa thế cao
hơn so với thửa ruộng xung quanh, hố nằm về phía đông của vườn Trạm Khí
tượng Nông nghiệp tỉnh Bắc Giang, vách tây hố khai quật cách tường vườn Khí
tượng 10,5m.
Kết quả điều tra, thám sát đã khẳng định một cách chắc chắn về quy mô
của thành Xương Giang bao gồm: thành, dinh thự, kho lương cũng như sản xuất
nguyên vật liệu gạch, ngói… cho công trình này. Cùng với kết quả điều tra thì
kết quả của các hố khai quật đã đưa ra những nhận thức như sau:
Hố khai quật H1 nằm gần đỉnh Đồi Ngô về hướng đông nhưng trong hố
khai quật không phát hiện được những bằng chứng về khảo cổ học, điều này cho
thấy không phải tất cả khu vực xung quanh đỉnh Đồi Ngô đều có các công trình
kiến trúc hay những công trình phục vụ khác.
Cùng với kết quả điều tra ở khu vực Đồi Ngô và Giếng Phủ thì kết quả
khai quật hố H2 đã khẳng định xung quanh khu vực Giếng Phủ là những công
trình kiến trúc dinh thự của tầng lớp quan lại cao cấp của quân đội nhà Minh. Hố
khai quật H3 là nơi cất giữ lương thực của quân đội Minh.
5
Kết quả khai quật lần thứ nhất thành Xương Giang năm 2008 đã phác họa
bước đầu về các công trình kiến trúc của thành Xương Giang trong lịch sử và
đây sẽ là những bằng chứng quan trọng cho quá trình nghiên cứu tiếp theo về di
tích này.
Năm 2011-2012, khai quật 11 hố với tổng diện tích là 1.001m2. Các hố
khai quật được mở ở những vị trí sau: 4 hố (H1, H2, H3, H4) nằm gần cửa thành
phía bắc; 4 hố (H5, H6, H10, H11) nằm ở khu vực trước cửa Trung tâm Quan
trắc môi trường tỉnh Bắc Giang; 3 hố còn lại (H7; H8; H9) nằm ở khu vực trồng
cây bạch đàn, trước cửa Nhà hát Chèo, cách Giếng Phủ khoảng 70m về phía nam
và rìa tây nam khu vực Đồi Ngô. Kết quả khai quật năm 2011-2012 cho chúng ta
biết toàn bộ các hố khai quật gần cửa thành phía bắc cũng như khu vực rìa ngoài
Đồi Ngô về phía tây nam không có dấu tích về công trình kiến trúc, mà nơi đây
chỉ có dấu vết về sinh hoạt, dấu vết của chiến tranh để lại như những đống đổ nát
lẫn than tro và tàn tích thức ăn...
Vấn đề nghiên cứu về di tích thành Xương Giang từ sau hai cuộc khai quật
được đề cập trong một số bài viết trên tạp chí Khảo cổ học và NPHMVKCH
như:
- Năm 2008: Kết quả điều tra khảo cổ học tại thành Xương Giang (Bắc
Giang) [19].
- Năm 2009: Di cốt người cổ thành Xương Giang (Bắc Giang) [66].
- Năm 2013: Kết quả khai quật di tích thành Xương Giang (Bắc Giang)
[68].
- Năm 2013: Di cốt động vật ở di chỉ thành Xương Giang khai quật năm
2011 [74].
- Năm 2017: Di tích thành Xương Giang (Bắc Giang) qua tư liệu khai quật
6
khảo cổ học [10].
Căn cứ vào các tư liệu lịch sử cũng như đặc trưng di tích, di vật phát hiện
qua các cuộc điều tra khảo sát và hai cuộc khai quật khảo cổ học, có thể thấy
thành Xương Giang là một di tích có giá trị lịch sử - văn hóa lớn.
Tính đến thời điểm hiện tại, chưa có một công trình nghiên cứu nào tổng
hợp tư liệu một cách đầy đủ về hệ thống di tích và di vật đã được phát hiện tại di
tích thành Xương Giang qua hai cuộc khai quật. Do đó, đề tài “Di tích thành
Xương Giang (Bắc Giang) qua hai lần khai quật” hoàn thành sẽ giúp các nhà
nghiên cứu có cái nhìn tổng quan về di tích thành Xương Giang, góp phần đưa ra
những hướng nghiên cứu nhất định về di tích này cũng như việc mở rộng quy mô
nghiên cứu trong tương lai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa toàn bộ tư liệu và các kết quả điều tra khảo sát, khai quật
khảo cổ học từ trước đến nay về di tích thành Xương Giang. Trên cơ sở đó, chỉ
ra đặc trưng di tích, di vật, cấu trúc mặt bằng của di tích thành Xương Giang.
Đồng thời, đánh giá giá trị lịch sử - văn hóa di tích thành Xương Giang trong
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng chính của đề tài luận văn là di tích thành Xương Giang qua hai
lần khai quật khảo cổ học. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các nguồn sử liệu,
hiện vật điều tra khảo sát ở di tích thành Xương Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi của luận văn, tác giả chỉ tập trung chủ yếu vào các loại
hình di tích, di vật khảo cổ học đã phát hiện được ở di tích thành Xương Giang
7
qua hai lần khai quật.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khảo cổ học truyền thống
như: thống kê, phân loại hình học, mô tả, đo vẽ, chụp ảnh di tích, di vật điển
hình, phân tích so sánh di tích, di vật khảo cổ học, phương pháp phân tích địa
tầng... Đồng thời, áp dụng các phương pháp so sánh, đối chiếu, phân tích tổng
hợp những đặc trưng về kỹ thuật, nghệ thuật trang trí trên các loại hình di vật,
cấu trúc mặt bằng...
Bên cạnh các phương pháp khảo cổ học truyền thống, luận văn còn kết
hợp các phương pháp nghiên cứu đa ngành, liên ngành như: Sử học, dân tộc học,
địa lý học, nhân chủng học, động vật học…
Phương pháp luận duy vật lịch sử và duy vật biện chứng là nền tảng khoa
học của luận văn trong việc nhìn nhận đánh giá các hiện tượng. Ngoài ra, luận
văn còn áp dụng công cụ hỗ trợ như xử lý ảnh bằng chương trình Autocad,
Coreldraw, xử lý ảnh bằng chương trình Photoshop và một số chương trình khác
cũng được áp dụng trong quá trình nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn đóng góp những tư liệu quan trọng về mặt
khoa học, về hệ thống di tích, di vật ở di tích thành Xương Giang, từng bước
phục dựng lại quy mô cũng như cấu trúc thành Xương Giang trong lịch sử, góp
phần bổ sung tư liệu mới cho ngành Khảo cổ học, Văn hóa học và Lịch sử.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ cung cấp và góp
thêm tư liệu khẳng định thành Xương Giang là một di tích lịch sử quan trọng, là
nơi ghi dấu tích tiêu biểu và sống động nhất hiện còn về cuộc khởi nghĩa oanh
liệt 10 năm chiến thắng quân Minh của dân tộc. Giai đoạn 1407 - 1427 là thời kỳ
8
nhà Minh ra sức đồng hóa người Việt và ngược lại người Việt kiên cường chống
trả để bảo vệ nền văn hóa bản địa. Tuy nhiên, những chứng tích vật chất về thời
kỳ này còn khan hiếm và không rõ ràng. Trong khi đó, thành Xương Giang là
dấu tích rõ ràng của giai đoạn lịch sử này. Vì vậy, di tích thành Xương Giang là
khu di tích tiêu biểu lưu giữ các chứng tích văn hóa vật chất của một giai đoạn
lịch sử đặc biệt và đầy biến động trong lịch sử Việt Nam.
Ngoài ra, việc nghiên cứu một cách đầy đủ về di tích thành Xương Giang
góp phần định hướng cho người dân cũng như giáo dục các thế hệ trẻ về truyền
thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Từ những kết quả nghiên cứu
đó, luận văn đưa ra một số kiến nghị về bảo tồn, phát huy giá trị lịch sử - văn hóa
phục vụ cho nghiên cứu khoa học và phát triển du lịch trong tương lai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1. Tổng quan về di tích thành Xương Giang
Chương 2. Những tư liệu mới qua hai lần khai quật
Chương 3. Nhận thức về thành Xương Giang
9
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ DI TÍCH THÀNH XƯƠNG GIANG
1.1. Diễn trình lịch sử thành Xương Giang
Thành Xương Giang ngày nay thuộc phường Xương Giang, thành phố Bắc
Giang, tỉnh Bắc Giang. Phía bắc giáp làng Thành, phường Xương Giang, thành
phố Bắc Giang; phía nam giáp phường Dĩnh Kế, thành phố Bắc Giang; phía
đông giáp xã Tân Dĩnh, huyện Lạng Giang; phía tây giáp phường Ngô Quyền,
thành phố Bắc Giang. Thành Xương Giang nằm cách trung tâm thành phố Bắc
Giang khoảng 1km về phía đông bắc, cách Hà Nội 50km, cách tỉnh Lạng Sơn
100km, có đường quốc lộ 1 (cũ) chạy qua.
Theo các tài liệu và thư tịch cũ, đến đầu thế kỷ XV, đất nước ta trải qua
nhiều biến động sâu sắc. Nhà Trần sụp đổ, nhà Hồ mới thành lập đang đứng
trước nhiều thử thách nghiêm trọng. Lợi dụng cơ hội ấy, nhà Minh (Trung Quốc)
với danh nghĩa “phù Trần diệt Hồ” đã tiến hành xâm lược nước ta. “Tháng 9
năm 1406, nhà Minh sai Chinh Di hữu phó tướng quân đeo ấn Chinh di phó
tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ, Tham tướng Huỳnh Dương bá Trần
Húc , đem 40 vạn quân đánh vào cửa ải Pha Lũy cứ một một toán mai phục, một
toán hành quân, thay phiên nhau cứu ứng lẫn nhau. Chinh Di tả phó tướng quân
Tây Bình hầu Mộc Thạnh, Tham tướng hữu quân đô đốc đồng tri Phong Thành
hầu Lý Bân cũng đem 40 vạn quân đánh vào cửa ải Phú Lệnh, xẻ núi, chặt cây,
mở đường tiến quân. Hai đạo quân tổng cộng là 80 vạn” [37, tr 214].
Sau nhiều lần tấn công xâm lược, đến giữa năm 1407, quân Minh đã bắt
được cha con Hồ Quý Ly, quan lại triều Hồ cũng dần dần bị bắt hết. Sự nghiệp
kháng chiến của nhà Hồ đến đây hoàn toàn thất bại. Dưới ách thống trị của
10
phong kiến nhà Minh, dân tộc phải chịu những thảm hoạ nghiêm trọng kéo dài
trong suốt 20 năm. “Toàn bộ nền kinh tế bị đình trệ, điêu tàn; xã hội Việt Nam
đang trên bước đường phát triển bị ngăn chặn, kìm hãm” [31, tr 28].
Năm 1407, sau khi chiếm được nước ta, quân Minh nhanh chóng thiết lập
bộ máy đô hộ và đồng thời tiến hành những chính sách thống trị tàn ác. Nhà
Minh đã xóa bỏ tên nước Đại Việt, đổi nước ta làm quận Giao Chỉ, coi như địa
phương quận huyện của Trung Quốc. Chúng lập chính quyền theo mô hình
“chính quốc”. Đứng đầu Giao Chỉ là ba ty: đô chỉ huy sứ ty, hay gọi tắt là ty đô,
phụ trách về quân chính; thừa tuyên bố chính sứ ty hay ty bố chính, trông coi về
dân chính và tài chính; đề án sát sứ ty hay ty án sát, nắm quyền tư pháp và giám
sát. Quận Giao Chỉ được chia thành 15 phủ. Trên đất Hà Bắc xưa, nhà Minh giữ
lại hai phủ Bắc Giang và Lạng Giang. Phủ lỵ Bắc Giang đặt tại Thị Cầu, Phủ lỵ
Lạng Giang ở Xương Giang (thuộc thành phố Bắc Giang ngày nay).
Cùng với bộ máy chính quyền, nhà Minh còn xây dựng một hệ thống
thành luỹ và thiết lập một hệ thống vệ, sở dày đặc để trấn áp phong trào đấu
tranh của nhân dân ta. “Năm 1407, khi lập ra vệ Xương Giang trên đất Lạng
Giang, giặc Minh cho xây vệ thành kiên cố, giao cho Lý Nhậm, Kim Giận, Cố
Phúc, Phùng Chi và Lưu Tử Phụ cùng 2.000 quân để án ngữ trục đường sang
Lưỡng Quảng, xuống Đông Đô và làm nơi ỷ dốc cho các thành Thị Cầu, Cần
Trạm, Chí Linh” [82, tr. 43].
Xương Giang là thành lũy kiên cố nhất của quân Minh án ngữ trên con
đường dịch trạm nối Quảng Tây (Trung Quốc) với Đông Quan. “Thành Xương
Giang nằm trong một khu vực đồi núi thấp, có sông nhỏ và các thửa ruộng trũng
bao quang, cách Sông Thương khoảng 3km. Những người từ 16 đến 60 tuổi ở
khắp Lạng Giang đều phải đến đây lao dịch, khoét đồi lấy đất đắp thành và nung
11
gạch, ngói, đào hào và xây dinh thự. Thành tọa lạc trên diện tích 270.000m2,
thành có hình chữ nhật chu vi 210m, 4 góc là 4 vọng lầu đặt các loại súng thần
cơ lớn nhỏ. Nhiều kho đụn, tòa ngang, dãy dọc, dinh thự và doanh trại được bố
trí ở các nơi” [81, tr. 43-44].
Nước mất, nhà tan, nhưng người dân Bắc Giang - Lạng Giang cũng như cả
nước quyết tâm đứng lên đánh giặc. Tiêu biểu cho phong trào yêu nước của nhân
dân Hà Bắc khi đó là khởi nghĩa Phạm Tất Đại ở huyện Lục Na (Lục Ngạn).
Năm 1410, nhân dân Lạng Giang nổi lên khởi nghĩa dưới ngọn cờ của ông
Nguyên và Thiên Hữu. Năm 1420, nhân dân Thiện Tài (Gia Lương) lại nổi lên
dưới sự lãnh đạo của Đào Cường. Đáng chú ý nhất là cuộc khởi nghĩa của Lê
Ngã Cũng từ An Bang lan sang Lạng Giang vào giữa năm 1420. Nhân dân các
huyện Bảo Lộc, Phượng Sơn hưởng ứng nhiệt liệt. “Ngã tiếm xưng tôn hiệu,
dựng niên hiệu, đặt quan chức, đúc tiền, đốt thành Xương Giang, cướp trại Bình
Than” [37, tr 244]. Các cuộc khởi nghĩa của nhân dân hai phủ Bắc Giang, Lạng
Giang trước khởi nghĩa Lam Sơn mặc dù đều chịu thất bại và bị đàn áp, nhưng là
ngọn lửa yêu nước ngầm cháy liên tục, nuôi dưỡng ý chí bất khuất cho nhân dân
ta.
Khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo là phong trào yêu nước rộng lớn
nhất, được xây dựng từ năm 1418 ở thượng du Thanh Hóa. Đến cuối năm 1924
thì chuyển vào Nghệ An và mở rộng vùng giải phóng. Bước sang năm 1425, lực
lượng của nghĩa quân Lam Sơn đã trưởng thành về mọi mặt, địa bàn hoạt động
của nghĩa quân trải dài từ Thanh Hóa vào đến Tân Bình - Thuận Hóa. Trước tình
hình đấu tranh của nhân dân ta ngày càng rộng khắp và quyết liệt, nhà Minh
buộc phải tăng cường và đẩy mạnh các cuộc hành binh trấn áp.
Nhận thấy tình hình quân Minh ở Đông Quan đã suy yếu, nhiều khi phải
12
chia nhau đi tăng viện, giải vây cho thành Nghệ An, Diễn Châu và Thanh Hóa,
tháng 9 năm 1426, Lê Lợi quyết định tiến quân ra Bắc. Một bộ phận nghĩa quân
tiếp tục tổ chức bao vây các thành Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa, còn đại
quân chủ lực chia làm 3 đạo tiến ra Bắc. Từ cuối năm 1426, theo lệnh của chủ
tướng Lam Sơn, Lê Sát và Lê Thụ đã chỉ huy một đạo nghĩa quân lên Lạng
Giang bao vây thành Xương Giang.
Để tiêu diệt cho được thành Xương Giang trước khi viện binh địch kéo
vào nước ta, Lê Lợi phái tướng Trần Nguyên Hãn điều quân đến tăng viện cho
Lê Sát. Sau 9 tháng bị vây hãm, quân địch bị chết quá nửa, lương thực cạn, binh
lính mệt mỏi. Biết chúng không còn sức chiến đấu, ngày 28 tháng 9 năm 1427
(tức ngày 8 tháng 9 Đinh Mùi), quân và dân ta tổng công kích. “Tháng 9, ngày
mồng 8, bọn Thái úy Trần Hãn, Tư mã Lê Sát, thiếu úy Lê Triện, Lê Lý đánh lấy
được thành Xương Giang” [37, tr 274]. Chiến thắng thành Xương Giang đã tiêu
diệt một bộ phận lớn sinh lực địch, đánh dấu một bước trưởng thành về nghệ
thuật quân sự của nghĩa quân Lam Sơn. Chiến thắng này đã đập tan âm mưu cố
thủ của chờ phối hợp với viện binh của giặc. Với việc chiếm giữ được thành
Xương Giang, quân ta đã tạo ra bức tường thành vững chắc, chặn đứng đường
tiếp viện của giặc cho Đông Quan. Đến đây, hai phủ Lạng Giang - Bắc Giang
được hoàn toàn giải phóng.
Trước đó, vào tháng 1 năm 1427, triều đình nhà Minh quyết định điều
động viện binh sang cứu nguy cho Vương Thông. Lực lượng viễn chinh này lúc
đầu gồm 70.000 quân. Đến tháng 4 năm 1427, nhà Minh lại ra lệnh điều động bổ
sung thêm 45.200 quân. Như vậy, tổng số quân tiếp viện của nhà Minh là
115.200 quân tinh nhuệ, gồm bộ binh và kỵ binh. Ngoài ra, trong đội quân tiếp
viện này còn có nhiều dân phu vận chuyển lương thực và một số thổ binh ở
13
Quảng Đông, Quảng Tây. Lực lượng viễn chinh của nhà Minh đã chia làm hai
đạo tiến sang nước ta. “Đạo thứ nhất do thái tử thái phó An Viễn hầu Liễu Thăng
chỉ huy với chức tổng binh mang ấn Chinh lỗ phó tướng quân, tiến sang theo
đường Quảng Tây. Dưới trướng của Liễu Thăng có Bảo Định bá Lương Minh
làm tả phó tổng binh, đô đốc Thôi Tụ làm hữu tham tướng. Đạo quân thứ hai do
thái phó Kiềm Quốc công Mộc Thạnh chỉ huy với chức tổng binh, mang ấn
Chinh nam tướng quân, tiến sang theo đường Vân Nam. Dưới trướng của Mộc
Thạnh có Hưng An bá Từ Hanh làm tả phó tổng binh, Tân Ninh bá Đàm Trung
làm hữu phó tổng binh” [35, tr 410].
Đầu tháng 10 năm 1427, 10 vạn quân Liễu Thăng vượt qua biên giới nước
ta. Ngày 10 tháng 10 (tức ngày 20 tháng 9 năm Đinh Mùi), quân ta giả vờ thua
chạy, đội tiên phong của địch chủ quan tiếp tục đuổi theo tiến đến chân núi Mã
Yên đã lọt vào trận địa mai phục của ta. Tổng binh Liễu Thăng bị quân ta phóng
lao đâm chết, một vạn quân bị tiêu diệt. Ngày 15 tháng 10, các tướng Lê Văn
An, Nguyễn Lý chỉ huy 3 vạn quân kịp thời tiếp ứng cho hơn một vạn quân của
Lê Sát, Lưu Nhân Chú. Quân ta cùng phối hợp bố trí thêm một trận địa mai phục
để đánh địch ở Cần Trạm. Ngày 15 tháng 10, quân địch lọt vào trận địa của ta,
nghĩa quân từ các ngả vùng lên đánh tạt ngang vào đội hình hành quân của địch.
Trận đánh diễn ra trên một chiến địa dài gần 5km, suốt từ cánh đồng phía đông
bắc thành Cần Trạm đến tận phía nam thị trấn Kép ngày nay. Phó tổng binh
Lương Minh vừa lên thay Liễu Thăng làm chủ tướng đã lại bị những mũi lao của
quân ta đâm chết tại trận. Chiến thắng Cần Trạm trực tiếp mở đường cho chiến
thắng Phố Cát và Xương Giang. Ngày 18 tháng 10 (tức 28 tháng 9 năm Đinh
Mùi) quân địch tiến đến Phố Cát lại bị quân ta đón đánh. Sau thất bại Cần Trạm,
đô đốc Thôi Tụ lên nắm quyền chỉ huy, tuy tiếp tục bị thất bại nặng nề, nhưng
14
Thôi Tụ và Hoàng Phúc vẫn quyết tâm tiến về Xương Giang với hy vọng có thể
phối hợp với quân thành Xương Giang rồi Đông Quan, Chí Linh hòng lật ngược
tình thế nguy khốn. Thành Xương Giang đã bị quân ta chiếm từ trước trở thành
pháo đài chặn đường tiến quân của địch và chia tách hoàn toàn đạo viện binh này
với lực lượng ở Đông Quan.
“Quân giặc cho là thành Xương Giang chưa vỡ, tự lấy làm chắc. Kịp khi
tới Xương Giang, thấy thành đã bị hãm rồi, tưng hửng, thất vọng, càng hoảng hốt
cả sợ. Liền ngày đêm đắp lũy tự giữ lấy pháo hiệu làm tin, để thông tin với các
thành ở Đông Đô, nghe tiếng pháo thì đến tiếp ứng. Thế nhưng các thành ở Đông
Đô, tự cứu mình không nổi, biết đâu đến chuyện khác” [70, tr 45]. Mệt mỏi,
hoang mang, lại bị cô lập, trước mặt sau lưng đều bị đánh, hy vọng cuối cùng
của địch đã trở thành tuyệt vọng, chúng đành phải đắp lũy ngoài đồng để tự vệ.
Quân địch bị cô lập, bốn mặt đều bị bao, quân ta vừa vây hãm vừa kiên trì
dụ hàng nhưng chúng vẫn tỏ ngoan cố. “Đúng ngày 3 tháng 11 năm 1427 (tức 15
tháng 10 năm Đinh Mùi) quân dân ta quyết định tổng công kích như đã định
trước. Từ bốn mặt, hàng vạn quân ta nhất loạt mở những mũi tiến công quyết liệt
vào các khu vực phòng ngự của địch. Bộ binh, tượng binh, kỵ binh của ta cùng
phối hợp đột phá vào trung tâm doanh trại của địch. Quân ta vừa tiến công vừa
kêu gọi quân địch đầu hàng. Quân địch đại bại. Kết quả là bọn tướng chỉ huy lớn
nhỏ Thôi Tụ, Hoàng Phúc, Sử An, Trần Dung… hơn 300 tên bị bắt cùng với mấy
vạn quân giặc. Hơn 5 vạn quân địch bị giết chết. Một số chạy trốn, chỉ trong
khoảng dăm bảy ngày đều bị dân ta, những người chăn trâu, hái củi bắt được
đem nộp hết cho nghĩa quân” [35, tr 458-459].
Mô tả chiến công vang dội của hai lần đại thắng Xương Giang, trong Bình
Ngô đại cáo Nguyễn Trãi viết:
15
“Đánh một trận, sạch sanh kình ngạc,
Đánh hai trận, tan tác chim muông.
Nó như kiến tan đàn dưới bờ đê vỡ,
Ta tựa cơn gió mạnh quét sạch lá khô.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối xin đầu hàng,
Thượng thư Hoàng Phúc trói mình đành chịu bắt.
Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,
Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước” [37, tr 286-287].
Tin viện binh bị tiêu diệt truyền đến Đông Đô, Vương Thông thực sự kinh
hãi nhưng vẫn chưa tin đó là sự thật. Chỉ đến khi thấy Thôi Tụ - Hoàng Phúc
dưới chân thành cùng ấn tín, cờ biển của Liễu Thăng - Lý Khánh chất đống thì
hắn mới hết hoàn toàn hy vọng, chấp nhận đến Hội thề Đông Quan vào ngày 10
tháng 12 năm 1427, cam kết rút hết quân vào giữa tháng 12 năm Đinh Mùi. Để
tỏ rõ thiện chí, Lê Lợi ra lệnh nới lỏng vòng vây và sai các xứ Bắc Giang, Lạng
Giang sửa chữa cầu đường, chuẩn bị lương thực, thuyền bè chu đáo cho bên thua
trận. Ngày 17 tháng 12 năm 1427, Lê Lợi trả lại chiếc “Song hổ phù” của Liễu
Thăng, hai ấn bạc của Lý Khánh - Lương Minh và bản danh sách của binh lính
đã bị quân ta bắt được cho phía quân Minh.
Ngày 29 tháng 12 năm 1427, quân Minh được ta cấp cho đầy đủ lương
thực và phương tiện đi lại đã xin rút về nước. Ta giải vây và trao trả tù binh cho
các thành Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh. Quân địch thua trận đã kéo đến Bồ Đề
cảm tạ Lê Lợi. Đến ngày 3 tháng 1 năm 1428, toán bộ binh cuối cùng của giặc về
nước [53, tr. 316-318][82, tr. 49].
Đại thắng Xương Giang, cùng với hàng loạt trận đánh vang dội ở Chi
Lăng, Cần Trạm, Phố Cát là những chiến công oanh liệt, trong đó đại thắng
16
Xương Giang là chiến thắng có ý nghĩa quyết định. Chiến thắng Chi Lăng -
Xương Giang là thắng lợi của nghệ thuật quân sự tuyệt vời, biểu thị cho tinh thần
yêu nước và ý chí căm thù quân xâm của dân tộc ta. Chiến thắng Chi Lăng -
Xương Giang đã đập tan hoàn toàn ý chí xâm lược của nhà Minh, hoàn thành vẻ
vang nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Đất nước được thái bình, nền độc lập dân tộc
được giữ vững.
1.2. Kết quả điều tra khảo sát
Cánh đồng Ngói
Cánh đồng Gốm
1.2.1. Cánh đồng Ngói và cánh đồng Gốm
Hình 1.1. Cánh đồng Ngói và Cánh đồng Gốm
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
Cánh đồng Ngói nằm ở phía ngoài (bên phải) đường quốc lộ 1 (cũ) hướng
Lạng Sơn - Bắc Giang, từ góc đông bắc thành Xương Giang đến đây khoảng
500m. Cánh đồng là một khu vực nằm kẹp giữa một bên là đầm Mít rộng khoảng
vài ha, nước từ đầm Mít chạy xuống đầm Sỏi, chảy qua đồi Axít rồi đổ ra sông
Thương về phía bắc; phía nam có một đường nước khác chạy về bắc thành. Trên
bề mặt ruộng tại khu vục này xuất lộ rất nhiều mảnh gạch, ngói với đủ loại kích
cỡ. Ở những khu đất cao nơi đây, bên trên là đất màu, bên dưới là đất laterite lẫn
17
nhiều hạt màu đỏ nâu, nâu sẫm. Còn ở những thửa ruộng thấp hơn thì trên là đất
bùn bên dưới là đất sét. Chất liệu làm gạch, ngói phát hiện được trong thành
Xương Giang, cũng như ở các hố khai quật có cùng chất liệu là đất sét lẫn nhiều
sạn sỏi laterite màu đỏ nâu, nâu sẫm.
Như vậy, với cảnh quan địa lý và địa chất qua quan sát tại thực địa đã mở
ra những định hướng nghiên cứu tiếp theo ở khu vực trên về nơi sản xuất gạch,
ngói… phục vụ việc xây dựng thành và các công trình kiến trúc trong thành
Xương Giang [17].
1.2.2. Khu vực Đồi Ngô
Hình 1.2. Vết tích khảo cổ trên Đồi Ngô
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
Tại đây, đã phát hiện được lớp ngói của một công trình kiến trúc cổ ken
dày, xuất lộ ngay ở bề mặt vách tây hào, phía sau trường Trung cấp Văn hóa
Nghệ thuật. Di tích nằm dưới lớp móng của một công trình hiện đại đã bị phá.
Tuy nhiên, việc xác định điểm đào tiếp nối theo hệ thống ngói xuất lộ là rất khó
do di tích đã bị phá huỷ nhiều trong quá trình xây dựng những công trình hiện
đại, cũng như làm ruộng của cư dân sống trong vùng.
Hiện vật sưu tầm trong khu vực Đồi Ngô gồm 2 viên đạn đá, 1 mảnh kim
18
loại có thể là áo giáp và 1 bia đá [17].
1.2.3. Địa điểm Giếng Phủ
Giếng Phủ nằm ở khu ruộng trũng, dưới chân Đồi Ngô, giếng có đường
kính khoảng 10m. Hiện nay, giếng đã bị bỏ hoang và sạt lở do mưa gió và quá
trình canh tác của người dân khu vực này. Tại đây, đã phát hiện được một số loại
gạch, ngói của công trình kiến trúc cổ [17].
Hình 1.3. Vết tích khảo cổ ở khu vực Giếng Phủ
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
Tiểu kết chương 1
Xương Giang là vùng đất cổ có vai trò quan trọng trong lịch sử dân tộc,
đặc biệt là lịch sử chống xâm lược phương Bắc. Khu vực này vừa có đồng bằng,
xung quanh có các đồi núi thấp bao bọc, lại gần sông Thương - tuyến thủy quan
trọng, đặc biệt từ ngàn xưa con đường thiên lý nối Thăng Long với miền địa đầu
của Tổ quốc chạy qua đây. Trong suốt thời gian nhà Minh xâm lược nước ta
(1407-1427), Xương Giang là trị sở của phủ Lạng Giang. Tại đây, quân Minh đã
xây dựng một ngôi thành kiên cố án ngữ con đường dịch trạm nối Đông Quan
với Quảng Tây (Trung Quốc).
Nơi đây lưu giữ nhiều di tích, tài liệu cổ vật quan trọng cho phép tìm hiểu
19
vị trí, vai trò của Xương Giang trong lịch sử dân tộc, đặc biệt là trong cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh của dân tộc ta đầu thế kỷ XV. Các
cuộc điều tra khảo sát tại khu vực thành Xương Giang đã phát hiện được nơi sản
xuất gạch, ngói để phục vụ cho việc xây thành, dấu tích bờ thành cũng như dấu
vết của công trình kiến trúc cổ ở địa điểm Đồi Ngô và khu vực Giếng Phủ. Một
số hiện vật được ghi nhận trong quá trình khảo sát, đó là những viên đạn đá có
hình cầu, 1 bia đá, một mảnh kim loại có thể là mảnh áo giáp và những viên
gạch, ngói được trang trí tinh xảo đã được xác định là có niên đại từ thế kỷ XV.
20
Chương 2
NHỮNG TƯ LIỆU MỚI QUA HAI LẦN KHAI QUẬT
2.1. Địa tầng
Năm 2008, khai quật 3 hố với tổng diện tích là 154,87m2. Vị trí các hố
khai quật năm 2008 như sau: Hố khai quật H1 nằm cách tường bao Trường
Trung học Văn hoá Nghệ thuật về phía đông 30m. Hố khai quật H2 nằm trên
một thửa ruộng có địa thế cao hơn so với những thửa ruộng xung quanh, hố nằm
sát chân thành về gần hướng cửa đông bắc. Hố khai quật H3 nằm trên một thửa
ruộng có địa thế cao hơn so với thửa ruộng xung quanh, hố nằm về phía đông
của vườn Trạm Khí tượng Nông nghiệp tỉnh Bắc Giang.
Năm 2011-2012, khai quật 11 hố với tổng diện tích là 1.001m2. Các hố
khai quật năm 2011-2012 được mở ở những vị trí sau: 4 hố (H1, H2, H3, H4)
nằm gần cửa thành phía bắc; 4 hố (H5, H6, H10, H11) nằm ở khu vực trước cửa
Trung tâm Quan trắc môi trường tỉnh Bắc Giang; 3 hố còn lại (Hố H7: 100m2;
H8: 100m2; H9: 84m2) nằm ở khu vực trồng cây bạch đàn, trước cửa Nhà hát
Chèo, cách Giếng Phủ khoảng 70m về phía nam và rìa tây nam khu vực Đồi Ngô
[17] [18] [68].
“Có thể chia các hố khai quật thành 4 khu vực. Cấu tạo địa tầng chung ở 4
khu vực có hố khai quật như sau: (B2.1; Bv2, Bv4; Ba6).
Khu vực I: hố H2 (năm 2008), diện tích 99,57m2, nằm ở thửa ruộng có địa
hình cao hơn so với xung quanh, sát chân thành phía đông và gần cổng thành
phía đông bắc.
- Đất lớp mặt: dày 20cm - 30cm, đất tơi xốp màu nâu, lẫn nhiều gạch,
ngói, đá… nhiều thời đại.
21
- Tầng văn hóa: dày 20cm - 35cm, đất thịt màu nâu, cứng ken dày mảnh
gạch, ngói, sành, sứ, dấu tích kiến trúc và di cốt người.
- Sinh thổ: đất laterite màu đỏ, đỏ nâu, màu vàng sẫm lẫn sạn sỏi nhỏ.
Khu vực thứ hai: hố khai quật H3 (năm 2008) diện tích 25,3m2, nằm ở
thửa ruộng cao hơn so với xung quanh, hố khai quật nằm về phía đông Trạm khí
tượng Nông nghiệp và nằm ngoài trung tâm Đồi Ngô, gần tường thành phía tây
bắc và cổng thành phía đông bắc.
- Lớp đất mặt: dày 10cm - 15cm, đất tơi xốp màu nâu lẫn nhiều gạch,
ngói, đá… nhiều thời kỳ.
- Tầng văn hóa: dày 50cm - 80cm, tầng văn hóa không bằng phẳng mà dốc
từ phía tây sang phía đông.
- Sinh thổ: đất laterite màu đỏ, đỏ nâu, màu vàng sẫm lẫn sạn sỏi nhỏ.
Khu vực thứ ba: hố H1 (86,1m2), hố H2 (80m2), hố H3 (100m2), hố H4
(100m2) (năm 2011-2012), các hố khai quật nằm gần cổng thành phía bắc.
- Lớp mặt: dày 16cm - 70cm, đất màu xám đen, nâu sẫm. Dưới lớp đất mặt
toàn bộ khu vực này có một lớp đất laterite hóa yếu màu vàng, đỏ dày 5cm - 20cm.
- Tầng văn hóa: dày từ 25cm - 50cm, đất màu xám đen, màu đen, màu nâu có
sắc đỏ lẫn mảnh gốm tráng men, đồ sành, xương cốt động vật và mảnh gạch, ngói.
- Sinh thổ: đất laterite màu đỏ, đỏ nâu, màu vàng sẫm.
Khu vực thứ tư: 8 hố, hố H5 (100m2), hố H6 (100m2), hố H7 (100m2), hố
H8 (100m2), hố H9 (100m2), hố H10 (100m2), hố H11 (50m2) (năm 2011-2012).
Các hố khai quật nằm ở trước cửa Nhà hát Chèo và trước cửa Trung tâm Quan
trắc môi trường, nằm ở rìa Đồi Ngô về phía đông, phía tây, phía tây nam.
- Lớp mặt dày từ 10cm - 50cm, đất màu nâu sẫm, vàng sẫm, màu đen.
Ngăn cách giữa lớp mặt với tầng văn hóa là lớp đất sét màu nâu, màu vàng, màu
22
xanh và màu trắng.
- Tầng văn hóa dày từ 10cm - 20 cm, đất màu nâu sẫm, vàng, vàng sẫm,
nâu đỏ.
- Sinh thổ là đất laterite màu đỏ, đỏ nâu, vàng sẫm lẫn sạn sỏi đầu ruồi”
[10, tr. 47-48].
Riêng hố H1 (khai quật năm 2008) có diện tích 30m2 ở vị trí gần trung tâm
Đồi Ngô về phía đông không có tầng văn hóa.
Bảng 2.1. Địa tầng thành Xương Giang năm 2008 và năm 2011-2012
Hố khai quật
Khu vực I Khu vực II
Khu vực III
Khu vực IV
Địa tầng
H1, H2, H3, H4
H5, H6, H7, H8, H9,
H2 (2008)
H3 (2008)
(2011-2012)
H10, H11 (2011-2012)
Lớp mặt
10 -20cm
10 - 15cm
16 - 70cm
10 - 50cm
Tầng văn
20 - 35cm
50 - 80cm
25 - 50cm
10 - 20cm
hóa
Sinh thổ
-
-
-
-
[10, tr. 46]
2.2. Di tích
2.2.1. Di tích kiến trúc
Dấu tích kiến trúc được phát hiện trong hố H2 (năm 2008) (Bv1; Ba9).
* Vết tích gạch, ngói: (PL13, PL24, PL29)
Vết tích kiến trúc thứ nhất: Sau khi bóc hết lớp đất mặt và lớp 1 ở độ sâu
30cm - 40cm, xuất lộ lớp gạch, ngói ken dày theo hướng đông tây, vết tích kiến
trúc cách vách nam hố khai quật 30cm - 70cm, cách vách đông hố 30cm thì
không có hiện vật phân bố. Di tích dài 9,6m, rộng từ 0,6m - 2,1m, tiếp tục phát
23
triển về phía tây hố khai quật. Tuy nhiên, do góc tây nam hố khai quật có 1 ngôi
mộ hiện đại nên đã phá mất một phần di tích và di tích có thể tiếp tục phát triển
về phía tây qua ranh giới của ngôi mộ, nhưng cho đến thời điểm khai quật thì
thửa ruộng mà di tích có thể phát triển thấp hơn so với mặt bằng di tích. Như
vậy, cho thấy phần phía tây hố khai quật, nơi di tích có thể phát triển đã bị phá
do quá trình san mặt bằng làm những thửa ruộng hiện đại.
Vết tích kiến trúc thứ hai: cách vách đông hố khai quật 4,9m và vách nam
3,7m, cách vết tích kiến trúc thứ nhất 1,5m là một dải ngói dài 1,7m, rộng 45cm,
vết tích này phân bố khá thẳng theo chiều bắc nam.
Vết tích kiến trúc thứ 3: cách vách đông 2,7m - 6,5m, cách vách nam 2,1m
tính từ phạm vi biên của di tích, cách vách bắc 30cm thì kết thúc. Tuy nhiên, di
tích này phát triển nối tiếp với vết tích thứ nhất, vết tích có chiều dài 7,4m, rộng
15cm - 50cm, di tích phân bố theo hướng bắc nam, gần như thẳng ở phần hướng
nam và cong dần ở hướng bắc. Vết kiến trúc thứ ba cách vết tích kiến trúc thứ
hai 90cm về phía đông.
Vết tích kiến trúc thứ tư: nằm cách vách đông 2,3m, cách vách tây 22cm
và cách vách bắc 3,2m là một dải ngói dài 1m, rộng 44cm, dải ngói này nằm
cách vết tích kiến trúc thứ ba 6,3m về phía đông.
Tác giả đồng ý với nhận định của những người khai quật rằng: Thông
qua việc phát lộ các vết tích kiến trúc, có thể thấy rằng: Khu vực ken dày gạch,
ngói thứ nhất là phần hiên của ngôi nhà, vì sau hệ thống này là trụ móng kiến
trúc với hàng cột hiên của hàng trụ móng kiến trúc thứ nhất và thứ hai. Khu vực
ken dày ngói thứ ba có thể là nền dưới của bức tường ngăn cách gian của ngôi
nhà [17].
* Móng trụ kiến trúc: (PL13, PL24, PL30, PL31)
24
Cùng với sự xuất hiện những dải ngói là hệ thống móng trụ kiến trúc với
10 móng trụ hoàn thiện và 1 móng trụ chỉ còn lại lớp ngói gia cố ở phần đáy.
Tuy nhiên, móng trụ số 11 khác hoàn toàn với các móng trụ khác vì lớp ngói gia
cố còn lại là ngói có chất liệu và màu sắc giống như ngói xuất hiện trong hố khai
quật. Hệ thống móng trụ kiến trúc gồm 3 hàng ngang, trong đó 2 hàng có 4 móng
trụ và 1 hàng có 3 móng trụ. Theo những người khai quật, sở dĩ có 3 móng trụ vì
1 móng trụ đã bị ngôi mộ hiện đại ở góc tây nam hố khai quật đào phá mất.
Bảng 2.2. Thống kê các hàng móng trụ kiến trúc hố H2 năm 2008
Thứ nhất Thứ hai Thứ ba
Hàng móng trụ Số lượng 4 4 3
Cột số 11 1 2 9 3 4 5 6 7 8 10
Dài (cm) 65 70 95 70 65 65 75 65 65 75 75
Rộng (cm) 60 70 72 75 65 55 70 65 65 75 70
MH1. Mô hình bước gian hệ thống móng trụ
- Hàng móng trụ thứ nhất:
Hàng móng trụ thứ nhất có 4 trụ
móng cột. Cách vách đông hố khai
quật 3,20m - 3,40m, cách vách nam
2,10m và cách vách bắc 10cm.
Móng trụ số 11: Dài 65cm,
rộng 55cm, nằm cách vết tích kiến
trúc thứ nhất 10cm về phía nam.
Móng trụ được gia cố bằng mảnh ngói vỡ màu xám, chất liệu và màu sắc những
25
mảnh ngói này giống với mảnh ngói xuất hiện trong hố khai quật, điều tra nhưng
khác với những mảnh ngói được gia cố ở các móng trụ khác về màu sắc.
Móng trụ số 1: Dài 70cm, rộng 70cm. Móng trụ được gia cố từ mảnh ngói
mũi vát nhọn (ngói mũi lá) màu đỏ nâu và một vài mảnh sành. Khoảng cách từ
tâm trụ số 11 đến trụ số 1 là 1m.
Móng trụ số 2: Dài 95cm, rộng 72cm. Móng trụ được gia cố từ mảnh ngói
mũi vát nhọn (ngói mũi lá) màu đỏ nâu. Khoảng cách từ tâm trụ số 1 đến trụ số 2
là 2,9m.
Móng trụ số 3: Dài 70cm, rộng 55cm. Móng trụ được gia cố từ mảnh ngói
mũi vát nhọn (ngói mũi lá) màu đỏ nâu. Khoảng cách tính từ tâm trụ số 2 đến trụ
số 3 là 3,2m.
Nằm giữa trụ 2 và trụ 3 là một nền trụ có kích thước dài 45cm, rộng 35cm,
trụ này cách trụ 2 là 50cm và cách trụ 3 là 1,25m, cấu trúc gia cố trụ móng là
mảnh ngói mũi vát nhọn (ngói mũi lá) màu đỏ nâu. Theo những người khai quật,
có thể khi xây dựng công trình kiến trúc này vì một lý do gì đó thì người thợ xây
dựng đã làm móng trụ này, nhưng sau đó đã bỏ và làm hệ thống móng trụ như
chúng ta đã thấy. Nhìn trên bình diện chung,chỉ có duy nhất móng trụ này nằm
đơn độc trong không gian kiến trúc của công trình, cho dù về hướng của trụ gần
như thẳng hàng với hàng trụ móng kiến trúc thứ nhất.
- Hàng móng trụ thứ hai: Có 4 móng trụ, các trụ này đều được gia cố từ
mảnh ngói mũi vát nhọn (ngói mũi lá) màu đỏ nâu. Khoảng cách giữa các móng
trụ trong hàng móng trụ thứ hai bằng khoảng giữa các móng trụ ở hàng thứ nhất.
Khoảng cách bước gian từ hàng móng trụ thứ hai đến hàng móng trụ thứ nhất
theo chiều đông - tây là 4,7m.
Móng trụ số 4: Dài 65cm, rộng 60cm. Móng trụ cách lớp gạch, ngói thứ
26
nhất 10cm và lớp gạch ngói thứ ba 1,2m về phía đông.
Móng trụ số 5: Dài 65cm, rộng 55cm. Cấu trúc gia cố móng trụ ngoài
mảnh ngói mũi vát nhọn (ngói mũi lá) còn có 1 mảnh gốm sứ Trung Quốc thế kỷ
XV.
Móng trụ số 6: Dài 75cm, rộng 70cm, móng trụ cách lớp gạch, ngói thứ ba
1,7m về phía đông.
Móng trụ số 7: Dài 65cm, rộng 65cm, cũng như các trụ móng khác, gia cố
móng trụ là mảnh ngói mũi vát nhọn (ngói mũi lá), ngoài ra còn có 3 mảnh gốm
Trung Quốc thế kỷ XIV. Móng trụ cách lớp gạch, ngói thứ ba 1,4m về phía
đông.
- Hàng móng trụ thứ ba: Có 3 móng trụ, các móng trụ này đều được gia cố
từ mảnh ngói mũi vát nhọn (ngói mũi lá) màu đỏ nâu. Bước gian giữa các móng
trụ ở hàng móng trụ này bằng khoảng cách giữa các móng trụ hàng thứ hai. Bước
gian chiều đông - tây từ hàng móng trụ thứ ba với hàng móng trụ thứ hai là 4,1m.
Móng trụ số 8: Dài còn lại 65cm, rộng còn lại 65cm.
Móng trụ số 9: Dài 75cm, rộng 75cm.
Móng trụ số 10: Dài 75cm, rộng 70cm [17].
Tác giả luận văn hoàn toàn đồng ý với ý kiến của những người khai quật
rằng: Với kết cấu của hệ thống trụ móng kiến trúc như vậy, kết hợp với những
vết tích gạch, ngói ken dày thứ nhất trong hố H2 (năm 2018), có thể thấy rằng
ngôi nhà có hướng chính nam và đây là một công trình kiến trúc có quy mô lớn.
Điều này được chứng minh qua kết cấu của hệ thống móng trụ cũng như khoảng
cách bước gian từ 4,1m - 4,7m của ngôi nhà.
Hố khai quật H2 được tiến hành khai quật gần như hết toàn bộ diện tích
của ngôi nhà. Tuy nhiên, thông qua vết tích móng trụ đã xuất hiện cho chúng ta
27
thấy trụ móng kiến trúc sẽ phát triển tiếp như sau: Sẽ có một hàng móng trụ nữa
tính từ móng trụ thứ nhất về hướng đông. Như vậy, ngôi nhà sẽ có thể có 4 hàng
móng trụ.
MH2. Mô hình giả định mặt cắt ngang ngôi nhà
Tất cả các hàng móng
trụ xuất lộ trong hố khai quật
sẽ có thêm ít nhất ở mỗi hàng
móng trụ về phía bắc có thêm
từ 1 đến 2 móng trụ nữa và
như vậy tổng thể hệ thống trụ
cột của ngôi nhà theo mặt cắt
dọc (từ bắc đến nam) sẽ có từ
5 đến 6 cột và sau các cột này là bức tường hậu của ngôi nhà về phía bắc [17].
2.2.2. Di tích ken dày gạch, ngói và gạo cháy
Tại hố H3 (năm 2008), sau khi xử lý hết lớp đất mặt trên mặt bằng hố xuất
hiện một vài hiện vật là mảnh gạch, ngói, tiếp tục xử lý xuống lớp 2 thì xuất hiện
dấu vết mảnh gạch, ngói ken dày tạo thành một đường gần thẳng rộng 100cm từ
vách bắc và nhỏ dần xuống vách nam, cách vách nam 40cm thì dấu vết này bắt
góc về phía đông. Sát vách đông hố khai quật là mương nước nên dễ dàng nhìn
thấy gạch, ngói. Như vậy, di tích này sẽ phát triển về phía đông hố khai quật.
Tuy nhiên, ở vách bắc tầng văn hóa ken dày gạch, ngói lẫn than gạo cháy
sâu hơn khu vực giữa hố và không xuất hiện ở vách nam. Dấu vết gạo cháy xuất
hiện cùng với lớp gạch, ngói về phía bắc, diện tích dài vào trong hố khai quật
330cm và có thể phát triển về phía đông như vết tích gạch, ngói ở lớp 2 và lớp 3
(PL14, PL 32).
28
MH3. Mô hình kho lương
Thông qua địa tầng vách bắc và dấu
tích trong hố khai quật, tác giả luận văn hoàn
toàn đồng ý với giả thuyết về mô hình của
kho chứa lương thực mà những người khai
quật đưa ra. Mô hình kho lương này có mặt
bằng kiến trúc phẳng ở mặt tiền, còn lòng nhà
thì được xây dạng hình chữ U, có thể kiến
trúc lòng nhà như vậy sẽ chứa được nhiều
lương thực hơn. Và với kiến trúc như thế, khi
lực lượng đối lập vào thì vị trí này có thể trở thành một chiếc giao thông hào
thuận lợi cho tác chiến. Tuy nhiên, với diện tích khai quật hố H3 chỉ là 25,3m2
thì việc giải thích về cầu trúc của một công trình kiến trúc không phải đơn giản,
cần tiếp tục nghiên cứu, kiểm chứng trong tương lai [17].
2.2.3. Di tích hố đất đen
Có 14 hố đất đen được phát hiện ở lần khai quật thứ 2 năm 2011-2012. Hố
khai quật H1 có 1 hố, hố khai quật H2 có 7 hố và hố khai quật H4 có 6 hố. Các
di tích hố đất đen này không có hình dạng cố định, cũng như không có cấu trúc
nhất định. Đất trong các hố lẫn nhiều than tro, cùng với mảnh sành, sứ, gạch,
ngói. Ngoài ra, một số hố có chứa xương động vật và 1 mảnh kim loại. Các di
tích hố đất đen có thể là các hố rác và nơi đây chứa đựng những dấu tích minh
chứng cho quá trình sử dụng trong sinh hoạt của quân đội nhà Minh trong thành
Xương Giang. Có một số hố đất đen đáng chú ý sau (PL33):
- Hố khai quật H2:
Hố đất đen 1 dài 300cm, rộng 210cm, sâu 50cm so với bề mặt lớp đất canh
29
tác. Trong hố có nhiều mảnh sành, sứ và 1 mũi giáo bằng kim loại.
Hố đất đen 2 dài 164cm, rộng 160cm, sâu 80cm. Trong hố có nhiều xương
động vật và mảnh gốm tráng men (có niên đại thế kỷ XIII - XIV) ở độ sâu 72cm
so với bề mặt hố khai quật.
Hố đất đen 3 dài 200cm, rộng 174cm. Trong hố có 3 viên gạch vồ (có niên
đại thế kỷ XV) nằm ở độ sâu 53cm so với bề mặt hố khai quật. Ngoài ra, có
xương động vật và mảnh gốm tráng men ở độ sâu 75cm so với bề mặt.
- Hố khai quật H4:
Hố đất đen 1 có hình dáng không xác định. Trong hố có nhiều mảnh sành
và một chiếc bát úp lên trên lọ sành thế kỷ XIII - XIV.
Hố đất đen 5 có đất màu xám đen lẫn nhiều than tro, hố hình chữ nhật dài
82cm - 102cm, rộng 70cm, sâu 40cm. Trong hố có 1 chiếc lon sành niên đại thế
kỷ XIII - XIV.
Hố đất đen 6 có đường kính 130cm, sâu 50cm. Trong hố có 1 chiếc lon
sành niên đại thế kỷ XV - XVI [18].
Những di vật phát hiện được trong các hố đất đen tuy không nhiều nhưng
lại có niên đại trải dài từ thế kỷ XIII - XIV đến thế kỷ XV - XVI. Và đặc biệt,
trong hố đất đen 2, hố khai quật H2 (năm 2011-2012) còn phát hiện được hiện
vật gốm men có niên đại thế kỷ XIII - XIV. Điều này cho thấy, phải chăng
Xương Giang là khu vực cư trú trước khi quân Minh tiến sang và thực hiện việc
xây thành, và những người cư trú tại đây không phải chỉ có tầng lớp bình dân mà
còn có cả những tầng lớp quan lại hay quý tộc giàu có.
2.2.4. Di tích động vật
Số lượng di cốt động vật tìm thấy trong các hố khai quật không nhiều. Hầu
hết di cốt được tìm thấy thuộc cụm 2, lớp 3, hố 2 (năm 2011-2012), chỉ có hai
30
mảnh xương răng động vật tìm thấy ở lớp mặt. Với các di vật thuộc lớp mặt
thường khó có thể xác định được chúng là hiện vật hiện đại hay có niên đại lâu
đời vì rất nhiều khả năng lớp mặt bị xáo trộn do các hoạt động canh tác của cư
dân hiện đại hoặc do mưa úng, lụt. Di cốt ở lớp mặt gồm 1 mảnh răng hàm của
trâu/bò (Bovidae) đã bị vỡ, và một mảnh thân xương có nhiều khả năng là xương
chày lợn (Sus scrofa). Di cốt trong cụm di vật số 2, lớp 3, hố H2 (năm 2011-
2012) gồm nhiều loại xương nhưng đều bị vỡ khá vụn. Trong số di cốt này có
một mảnh móng chân của loài ngựa (Equus sp.) và hai mảnh xương chậu có thể
của loài chó (Canis familiaris?), các xương còn lại đều của trâu/bò. Trong nhóm
xương bò có thể xác định số lượng cá thể tối thiều là ba cá thể, trong đó ít nhất
có một cá thể còn non (PL1, PL2, PL34).
Trong số di cốt động vật được phát hiện, có một mảnh xương đốt sống
trâu/bò còn có vết chặt rất rõ trên xương có thể là dấu vết của quá trình xẻ thịt,
nên có thể cho rằng các con vật này đã được sử dụng làm thức ăn và phần xương
còn lại được chôn lấp. Trong di chỉ chỉ phát hiện được một mảnh móng chân
ngựa và hai mảnh nhỏ xương chậu của chó, liệu các loài đó cũng được sử dụng
làm thức ăn hay chỉ là sự xuất hiện ngẫu nhiên vì các xương đó là phần mang rất
ít thịt.
Tuy nhiên, nếu so sánh với các di cốt động vật phát hiện ở khu di tích
Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội cho thấy xương trâu/bò chiếm số lượng chủ
yếu, đó có thể là nguồn dinh dưỡng chính được sử dụng, nhưng xương ngựa với
các dấu vết chế biến cũng khá phổ biến. Như vậy, loài ngựa ngoài việc sử dụng
cho kỵ binh trong chiến tranh cũng bị xẻ thịt để cung cấp thực phẩm cho binh
lính. Hoặc cũng có thể những cụm di vật chứa các di cốt này là dấu tích của hố
rác thải [74, tr. 719-720]?
31
2.2.5. Di tích mộ táng
Trong 2 mùa khai quật địa điểm thành Xương Giang với diện tích trên
1.000m2, nhưng chỉ phát hiện được 3 di tích mộ táng trong hố khai quật H2 (năm
2008) (PL3, PL4, PL13, PL35).
Mộ 1 (ký hiệu 08.TXG.M1): Mộ hướng tây bắc 1700, biên mộ dài 120cm.
Di cốt chôn nằm thẳng, hai tay duỗi theo người. Xương mủn nát, xương sọ chỉ
còn lại một phần xương chẩm. Chiều dài xương đùi trái đo được khoảng 41cm,
chiều dài xương cánh tay khoảng 38cm. Đồ tùy táng là 3 chiếc lục lạc đồng đều
đã vỡ, nằm trên xương hông trái, đường kính của lục lạc từ 0,7cm - 0,85cm.
Mộ 2 (ký hiệu 08.TXG.M2): Biên mộ dài 200cm, rộng 70cm. Di cốt mủn
nát chỉ nhưng vẫn thấy được hình hài bộ xương theo tư thế giải phẫu. Di cốt nằm
thẳng, tay phải để trên ngực cùng tay trái hướng lên trên đầu. Chiều dài xương
cánh tay trái đo được khoảng 30cm.
Mộ 3 (ký hiệu 08.TXG.M3): Di cốt chôn nằm thẳng, mặt nghiêng về phía
tay trái (hướng bắc), hai tay duỗi thẳng theo người. Xương mủn nát nhưng vẫn
giữ được phần xương hàm trên và dưới bên trái cùng 5 chiếc răng và 2 chiếc
răng rời. Chiều dài xương cánh tay phải đo được khoảng 26,5cm. Trong mộ số 3
phát hiện một đồng tiền “皇 宋 通 寶 - Hoàng Tống thông bảo”, thời Tống, niên
hiệu Tống Nhân Tông (1039-1040), nằm cách di cốt 25cm. Những người khai
quật cho rằng, hiện vật này không phải là đồ tùy táng của mộ 3 mà hiện vật nằm
trong lớp đất lấp mộ [66, tr. 346-348].
Từ những tư liệu về di cốt, các chuyên gia đã xác định được chủ nhân của
những ngôi mộ này:
Mộ 1: cá thể nam, cao khoảng 1m60, là người trưởng thành.
Mộ 2: cá thể nam, cao khoảng 1m63, là người trưởng thành.
32
Mộ 3: cá thể nữ, cao khoảng 1m54, tuổi từ 17 - 25.
Dựa vào những dấu tích đất lấp di cốt của mộ 1 có lẫn những mảnh ngói
vỡ với chất liệu và màu sắc giống với chất liệu và màu sắc ngói trong di tích.
Những người khai quật cho rằng, niên đại của 3 ngôi mộ này nằm trong khung
niên đại thế kỷ XV và cả 3 ngôi mộ đều được chôn sau khi công trình kiến trúc
đã bị sập. Điều này được minh chứng rõ hơn ở lớp ngói lấp mộ số 2, có thể sau
khi ngôi nhà vì một lý do nào đó sập xuống thì thế hệ sau đã chôn di cốt vào đây
và lấy ngay lớp ngói của di tích để lấp mộ. Ngôi mộ số 3 đất lấp mộ không lẫn
hiện vật khảo cổ học, nhưng nhìn trên tổng thể địa tầng cũng cho thấy di tích mộ
táng này được chôn vào giai đoạn sau khi công trình kiến trúc sập xuống [17].
Tác giả luận văn hoàn toàn đồng ý với những nhận định này. Và cho rằng, đây
chỉ là những ngôi mộ được chôn lẻ tẻ chứ không phải là khu mộ táng tập trung.
Vì trên một khu vực khai quật khá rộng nhưng số lượng mộ táng phát hiện được
lại lại rất ít (chỉ có 3 mộ). Các ngôi mộ cũng không được chôn theo cùng một
hướng nhất định.
2.3. Di vật
Loại
Vật liệu
Gốm men
Gốm men
Sành
Đất
Các loại
Tổng
hình
kiến trúc
Việt Nam
Trung Quốc
nung
hv khác
số
Số
8356
611
124
2005
948
43
12087
lượng
Tỷ lệ
69,1%
5,1%
1%
16,6%
7,8%
0,4%
100%
Bảng 2.3. Thống kê hiện vật di tích thành Xương Giang
Hai cuộc khai quật tại di tích thành Xương Giang đã thu được tổng số
12.087 hiện vật, gồm các loại hình vật liệu kiến trúc, đồ gốm men Việt Nam và
33
Trung Quốc, đồ sành, đồ đất nung, đồ đá và đồ kim loại. Trong đó, vật liệu kiến
trúc chiếm số lượng nhiều nhất (69,1%).
Số lượng
9000 8000 7000 6000 5000 4000 3000 2000 1000 0
Sành
Vật liệu kiến trúc
Đất nung
Các loại hv khác
Gốm men Việt Nam
Gốm men Trung Quốc
Biểu đồ 2.1. Các loại hình hiện vật di tích thành Xương Giang
2.3.1. Vật liệu kiến trúc thế kỷ XV
3000
2500
2000
Gạch
1500
Ngói
1000
500
0
Biểu đồ 2.2. Vật liệu kiến trúc thế kỷ XV
34
2.3.1.1. Gạch
Có 77 viên/mảnh, trong đó có 51 bản còn dáng được chia thành 5 loại
hình: gạch bìa, gạch lát nền, gạch thỏi, gạch vồ, gạch ốp trang trí và 26 bản
không phân loại được. (PL36, PL37, PL38, PL39: h1-h3).
Loại hình Gạch
Gạch
Gạch
Gạch
Gạch ốp
Không xác
Tổng
lát nền
thỏi
trang trí
định
bìa
vồ
số
Số lượng
9
4
17
26
18
3
77
Tỷ lệ
23,4%
11,7%
5,2%
3,9%
22,1%
33,7%
100%
Bảng 2.4. Thống kê gạch thế kỷ XV
30
25
20
15
10
5
0
Gạch bìa Gạch lát
Gạch thỏi Gạch vồ
nền
Gạch ốp trang trí
Không xác định
Biểu đồ 2.3. Loại hình gạch thế kỷ XV
Gạch bìa: 18 viên/mảnh, có dáng hình chữ nhật, màu xám, màu đỏ sẫm,
xương khá mịn, độ nung cao, không trang trí hoa văn. Chất liệu làm loại gạch
này cũng tương tự như những loại gạch khác. Gạch dài còn lại 13cm - 17,4cm,
rộng 15,3cm, dày 4,5cm - 7,8cm.
Gạch lát nền: 9 viên/mảnh, trong đó có 1 viên phát hiện được tại địa điểm
35
Giếng Phủ. Gạch có thể là hình vuông, màu xám, xương gốm khá mịn, độ nung
cao, không trang trí hoa văn. Gạch dài 25cm, rộng còn lại 21cm, dày 2,2cm -
4,5cm.
Gạch thỏi: 4 viên/mảnh, màu xám, vàng xám, độ nung cao. Về chức năng
của loại hình gạch này có thể dùng để bó bậc lên xuống hay nền sân... Chất liệu
làm loại gạch này cũng tương tự như những loại gạch khác. Gạch dài còn lại
20cm, rộng 17cm, dày 15cm.
Gạch vồ: 3 viên/mảnh, màu đỏ sẫm, màu trắng xám, xương gốm khá mịn
pha lẫn nhiều sạn sỏi màu đỏ nâu, đỏ sẫm, độ nung cao. Gạch dài còn lại 21cm -
25cm, rộng 13cm, dày 15cm.
Gạch ốp trang trí: 17 viên/mảnh. Trong đó có 7 viên/mảnh phát hiện được tại địa điểm Giếng Phủ. Gạch ốp có màu xanh xám, nâu vàng, nâu xám, xương gốm mịn. Mặt ngoài được trang trí hoa văn hoa lá tinh xảo. Những viên gạch ốp phát hiện tại Giếng Phủ phía sau có mấu nổi cao nằm giữa viên gạch, giữa mấu có lỗ tròn. Hiện vật 08.TXG-GPST: 1 dài còn lại 19,4cm, gạch rộng 16,7 cm, gạch dày 2cm; mấu cao 5cm, dày 3cm - 3,3cm, đường kính lỗ 5cm, nấc nối dài 3cm, dày 0,75cm - 1,2cm. 2.3.1.2. Ngói
Gồm 8279 viên/mảnh, được chia thành 5 loại: ngói bò, ngói mũi vát nhọn
(ngói mũi lá), ngói âm, ngói dương và ngói ống. Trong đó, ngói bò có số lượng
nhiều nhất, chiếm 48,3% (PL39: h5-h5, PL40, PL41, PL42).
Loại hình
Ngói
Ngói mũi
Ngói âm Ngói
Ngói
Tổng
bò
vát nhọn
dương
ống
số
Số lượng
2864
530
1280
1250
5
5929
Tỷ lệ
48,3%
8,9%
21,6%
21,1%
0,1%
100%
Bảng 2.5. Thống kê ngói thế kỷ XV
36
3000
2500
2000
1500
1000
500
0
Ngói bò
Ngói âm Ngói dương Ngói ống
Ngói mũi vát nhọn
Biểu đồ 2.4. Loại hình ngói thế kỷ XV
Ngói bò có 2864 viên/mảnh. Ngói có hình dáng lòng máng gần giống như
ngói âm dương, nhưng rộng và ngắn hơn, xương ngói dày. Loại ngói này được
lợp trên bờ nóc hoặc dải của bộ mái. Loại này cũng như ngói âm dương là có
phần cổ thu hẹp để khớp nối với viên ngói khác hoặc không có. Chất liệu làm
loại ngói này cũng tương tự như những loại ngói khác, ngói màu vàng xám,
xương ngói màu đỏ nhạt, nhiệt độ nung cao. Ngói dài còn lại 15cm - 20cm, rộng
còn lại 8cm - 15cm, dày 1,6cm - 2,5cm.
Ngói mũi vát nhọn: 530 viên/mảnh. Ngói mũi vát nhọn còn được gọi là
mũi lá, có phần mũi được cắt vát hai bên, đầu mũi nhọn, xương ngói mịn, màu
xám, màu đỏ nâu, độ nung cao. Hiện vật dài 21cm - 28cm, rộng còn lại 12cm-
16cm, dày 0,9cm - 1,5cm.
Ngói âm: 1280 viên/mảnh, trong đó 152 bản có diềm trang trí hoa văn và
còn gần đủ dáng. Ngói hình lòng máng, nếu so sánh với ngói ống thì loại ngói
này nông và rộng hơn. Ngói có phần đuôi rộng và dày còn phần đầu hẹp và
mỏng hơn, phần đuôi có rãnh sâu để nối với những viên ngói khác. Ngói âm và
37
ngói dương có dáng gần như tương tự nhau. Để phân biệt đâu là phần âm và đâu
là phần dương ở một số trường hợp rất khó, điều này chỉ nhận biết được khi có
phần diềm đi cùng. Ngói được lợp ở diềm mái và thường được trang trí hoa văn.
Chất liệu làm loại ngói này cũng tương tự như những loại ngói khác, ngói màu
vàng xám, nhiệt độ nung không cao. Mặt yếm trang trí hoa văn đắp nổi uốn lượn
như hình sóng nước, ở mỗi nhịp đó lại có hai đường đắp nổi nối ra, ở mỗi đường
nối ra đó có hai nhánh. Phần nhô ra nằm bên trên đường uốn lượn hình sóng
nước là một đường đắp nổi nhỏ, cong sau đó chia ra hai nhánh cong về hai phía,
phần bên dưới cũng được đắp thành một đường đắp nổi nhỏ, cong sau đó được
chia ra hai nhành: một là cong cuộn lại, một hơi thẳng vươn ra sát phần uốn tạo
sóng. Đây có thể đây là hoa văn dây uốn lượn hoặc cũng có thể là hoa văn cách
điệu dạng “mây hoá”, “hoa hoá”, “lá hoá” rồng. Ngói dài còn lại 15cm - 20cm,
rộng còn lại 4cm - 15cm, dày 1cm - 1,8cm, diềm ngói dày 1cm - 1,5cm.
Ngói dương: 1250 viên/mảnh, trong đó 78 bản có diềm trang trí hoa văn.
Ngói hình lòng máng, màu xám, xương gốm mịn, độ nung không cao. Diềm
trang trí, xung quanh mặt yếm trang trí môtíp 1 đường đắp nổi uốn lợn hình sóng
nước, phần bên trên đường uốn lượn hình sóng nước ở phần cong xuống được
trang trí hai nửa vòng tròn đắp nổi đồng tâm cũng được uốn cong xuống, phía
dưới đường uốn lượn hình sóng nước chỗ cong lên cũng được trang trí hai nửa
vòng tròn đắp nổi. Giữa diềm trang trí hoa văn đắp nổi hình hoa sen hoặc hoa
cúc cách điệu. Ngói dài còn lại 8cm - 22cm, rộng còn lại 4cm - 15cm, dày 1cm -
1,8cm, diềm ngói dày 1cm - 1,5cm.
Ngoài ra, còn 2350 mảnh vỡ nhỏ, chúng tôi không thể phân loại được đó
là mảnh vỡ của ngói âm hay ngói dương.
Ngói ống: 5 viên/mảnh, màu xám, độ nung cao. Đầu ngói ống trang trí hoa
38
văn ở mặt ngoài. Mặt ngoài trang trí hoa văn in nổi hoa lá, bao gồm một băng
hoa dây chạy quanh rìa đầu ngói, trong lòng hoa dây trang trí họa tiết hoa cúc
cánh đôi rất tinh tế. Xương gốm mịn, màu nâu hoặc xám. Hiện vật dài còn lại
8cm - 15cm, rộng còn lại 6cm - 13cm, dày 1cm - 1,8cm, đầu ngói dày 2cm.
2.3.2. Đồ gốm
2.3.2.1. Đồ gốm men
Tổng số đồ gốm men phát hiện được qua hai cuộc khai quật là 735 hiện
vật. Trong đó, gốm men Việt Nam có 611 hiện vật, chiếm tỷ lệ 83%; gốm men
Trung Quốc có 124 hiện vật, chiếm tỷ lệ 17%. Tác giả phân chia hiện vật theo
loại hình như: bát, đĩa, bình... và từ các loại hình lại được phân chia theo niên đại
để có thể thấy được các giai đoạn tồn tại và phát triển của khu vực Xương Giang.
Gốm men Việt Nam
Loại hình
Bát
Đĩa
Bình
Lọ
Tước Chân đế
Cốc
Tổng
%
Thế kỷ
bát hương
số
XIII-XIV
105
2
1
133
21,8
25
XV
170
15
12
9
5
256
41,9
45
20
XV-XVI
120
140
22,9
XVII-XVIII
62
62
10,1
XVIII-XIX
20
20
3,3
Bảng 2.6. Thống kê gốm men Việt Nam
39
Biểu đồ 2.5. Các loại hình gốm men Việt Nam
Có 611 hiện vật, tuy số lượng không nhiều nhưng lại có nhiều sắc men và
có niên đại trải dài từ thế kỷ XIII - XIV đến thế kỷ XVIII - XIX, chiếm số lượng
nhiều nhất là đồ gốm men thế kỷ XV (41,9%).
* Thế kỷ XIII - XIV: có 133 chiếc, gồm các loại bát, đĩa và âu thuộc các
dòng men ngọc, men trắng, men nâu (PL43, PL44, PL45: h1).
- Bát: 105 hiện vật, được chia thành 14 loại.
Loại 1: 14 hiện vật. Miệng bát vuốt tràn ra ngoài, thành trong miệng vát
tròn. Mặt miệng bát, thân ngoài vát tròn, phủ men nâu. Trong lòng bát in hoa văn
hoa lá, trong lòng bát có dấu con kê. Đáy bát khum phẳng. Xương gốm mịn màu
trắng. Hiện vật 11XGH2L2: 180 cao 4,1cm, đường kính miệng 16,5cm, đường
kính chân đế 5,85cm.
Loại 3: 9 hiện vật. Bát có miệng loe, hai mặt phủ men màu trắng xám. Mặt
ngoài trang trí hoa văn cánh sen in nổi dưới men, trong lòng bát có dấu con kê.
40
Chân đế bát thẳng, bề mặt chân đế được cạo. Đáy bát tô men nâu đỏ. Xương
gốm màu trắng đục. Hiện vật 11.XG.H1.L2: 119 dày 0,6cm, cao 3,3cm.
Loại 11: 7 hiện vật. Miệng bát khum, mặt miệng vát nhọn. Thân bát vát
tròn, trang trí hoa văn cánh sen cách điệu bên ngoài. Trong lòng bát có dấu con
kê, đế vuốt khum. Thành ngoài chân đế phẳng, thành trong vát tròn, mặt đế
phẳng, phủ men nâu. Hiện vật 11XGH2L3: 202 cao 6,5cm, dày 0,4cm, đường
kính miệng 15cm; đường kính đáy 4,9cm.
- Đĩa: 25 hiện vật được chia thành 6 loại.
Loại 2: 3 hiện vật. Chân đế đĩa vuốt khum, thành trong chân đế thẳng, mặt
chân đế phẳng. Trong lòng đĩa trang trí hoa văn cúc dây và có dấu con kê. Mặt
ngoài phủ men nâu, lòng đĩa màu vàng xanh. Xương gốm mịn màu trắng.
Loại 4: 5 hiện vật. Miệng đĩa loe, hai mặt phủ men màu trắng, trong lòng
có dấu kê. Mặt chân đế bằng, thành ngoài đế thẳng, thành đế trong hơi vát, mặt
chân đế bằng. Xương gốm màu trắng xám. Hiện vật 11.XG.H4.L2: 351 có kích
thước: cao 0,4cm, dày 0,5cm, đường kính chân đế 5,3cm.
- Cốc: 1 hiện vật.
Miệng cốc khum vát nhọn, thân cốc thẳng, bề mặt phủ men trắng, không
trang trí hoa văn. Đế phẳng, xương gốm mịn màu trắng xám. Hiện vật ký hiệu
11.XG.H2.L2: 201 cao 6,2cm, đường kính 10,5cm, đường kính 5cm.
- Bình: 2 hiện vật
Loại 1: 1 hiện vật. Miệng bình có thành miệng ngoài hơi cong, mép miệng
bằng, thân phủ men nâu. Xương gốm màu trắng xám. Hiện vật ký hiệu
11.XG.H10.LM: 429 có kích thước dày 0,9cm.
Loại 2: 1 hiện vật. Mặt ngoài phủ men rạn màu trắng, không trang trí hoa
văn. Chân đế bằng, để mộc, tô men nâu. Xương gốm màu trắng. Hiện vật ký hiệu
41
11.XG.H3.L2: 293 có kích thước dày đế 0,9cm, đường kính 5,0cm.
* Thế kỷ XV: có 256 hiện vật, gồm các loại men xanh, men ngọc, men
nâu, men trắng và không phủ men (PL45: h2-h3, PL46, PL47).
- Bát: 170 hiện vật gồm 17 loại.
Loại 1: 5 hiện vật. Bát miệng loe, mép miệng tròn, phủ men trắng ngà.
Thành ngoài chân đế đứng, thành trong chân đế vát, mặt chân đế cắt tạo cạnh.
Giữa đáy bát hơi lồi. Xương gốm màu trắng đục. Hiện vật 11.XG.H1.L1: 48 có
kích thước cao 4,5cm.
Loại 2: 12 hiện vật. Thành ngoài chân đế bát thẳng, thành trong chân đế
bát hơi vát vào trong, bề mặt chân đế được cắt gọt. Lòng bát có dấu con kê, trôn
hơi lồi ở giữa. Bề mặt chân đế bát phủ màu trắng xanh. Xương gốm màu trắng
đục. Chân đế cao 0,5cm - 0,7cm, chân đế dày 0,7cm - 0,9cm, đường kính chân
đế 5,2cm - 6,2cm.
Loại 8: 3 hiện vật. Mặt ngoài bát trang trí hoa văn cánh sen in nổi dưới
men. Thành ngoài chân đế bát hơi khum, mặt chân đế cắt tạo cạnh sắc, thành
trong chân đế hơi vát. Trong lòng bát có dấu con kê. Chân đế cao 0,7cm - 0,9cm,
dày 0,6cm - 0,9cm, đường kính đáy 5cm - 6,2cm.
Loại 9: 6 hiện vật. Chân đế thấp, thành ngoài chân đế thẳng, thành trong
hơi vát ra ngoài, mặt chân đế bằng. Lòng bát có vết ve lòng, hai mặt phủ men
màu rêu, xương gốm màu trắng ngà. Chân đế dày 0,5cm - 0,6cm, đường kính
chân đế 5,3cm - 6cm.
- Đĩa: 45 hiện vật, gồm 8 loại.
Loại 1: 7 hiện vật. Đĩa miệng loe, thân hơi cong, mép miệng hình răng cưa,
lòng đĩa trang trí hoa sen nổi dưới men. Chân đế thẳng, hai mặt và xương gốm màu
trắng. Hiện vật 11XGH10L1: 456 cao 0,2cm, dày đáy 1,2cm, đường kính miệng
42
16cm, đường kính chân đế 7cm.
Loại 6: 9 hiện vật. Miệng vuốt khum, thành ngoài miệng khum tròn, thành
trong miệng vát tròn, mặt miệng đĩa vát nhọn. Trong lòng đĩa có dấu con kê.
Xương gốm mịn màu trắng xám. Hiện vật 11.XG.H2.L1: 146 có kích thước
đường kính miệng 14,4cm.
- Lọ: 12 hiện vật, được chia thành 4 loại.
Loại 1: 4 hiện vật. Thành ngoài chân đế lọ khum, thành trong chân đế hơi
vát, miệng chân đế cắt bằng. Bề mặt lọ màu xám trắng, không trang trí hoa văn.
Xương gốm mịn màu xám trắng. Hiện vật 11.XG.H1.L1: 67 có kích thước: chân
đế dày 1cm.
Loại 2: 3 hiện vật. Thành ngoài chân đế lọ hơi loe, bề mặt chân đế cắt
bằng, thành trong hơi vát vào trong. Đáy lọ phẳng, có khắc vòng tròn nhỏ ở giữa
trôn. Mặt ngoài đế lọ phủ men xanh trắng, mặt trong phủ men trắng ngà, trang trí
hoa lam dưới men. Xương gốm màu trắng đục. Hiện vật 11.XG.H1.L1: 66 có
kích thước: chân đế dày 1,2cm, đường kính chân đế 7,7cm.
- Bình: 15 hiện vật, gồm 6 loại.
Loại 1: 2 hiện vật. Miệng bình có thành ngoài hơi cong, mép miệng bằng,
thân phủ men nâu. Hiện vật 11.XG.H10.LM: 429 có kích thước miệng dày 0,9cm.
Loại 2: 5 hiện vật. Đế bình có chân đế bằng, để mộc, tô men nâu. Thân
ngoài phủ men rạn màu trắng, không trang trí hoa văn. Xương gốm màu trắng.
Hiện vật 11.XG.H3.L2: 293 có đế dày 0,9cm, đường kính đế 5cm.
- Tước: 9 hiện vật, gồm 4 loại.
Loại 1: 3 hiện vật: Chân đế tước tiện hai tầng, thành ngoài chân đế tước
thẳng, thành trong chân đế vát tròn, miệng chân đế cắt vát từ ngoài vào trong.
Xương gốm mịn màu xám trắng. Hiện vật 11.XG.H1.L1: 65 có kích thước:
43
đường kính đế: 3,5cm.
Loại 2: Mặt chân đế tước vát vào trong, đáy không tráng men, mặt ngoài
phủ men ngọc. Xương gốm mịn màu trắng xám. Hiện vật 11.XG.H7.L1: 398 có
kích thước: chân đế dày 0,45cm.
- Chân đế bát hương: 5 hiện vật, gồm 3 loại.
Loại 1: 1 hiện vật: Chân đế bát hương có dáng cong choãi, men màu xanh,
hoa văn in nổi. Xương gốm màu trắng. Hiện vật 11.XG.H3.L1: 255 có kích
thước: chân đế dày 5,7cm.
* Thế kỷ XV - XVI: có 140 chiếc (PL48).
- Bát: 120 hiện vật, được chia thành 14 loại.
Loại 1: 6 hiện vật. Bát có miệng loe, mép miệng tròn, thu dần về phía đáy.
Thành chân đế thẳng phía ngoài, vát phía trong, mặt chân đế bằng. Bát ve lòng,
hai mặt màu trắng xanh, xương gốm màu trắng ngà. Thân trang trí hoa văn màu
xanh dưới men. Hiện vật 11.XG.H10.L1: 530 cao 4,2cm, dày 0,2cm, đường kính
miệng 11,6cm, đường kính chân đế 5,2cm.
Loại 2: 12 hiện vật. Bát miệng loe, mép miệng lõm hình răng cưa. Thành
ngoài chân đế hơi vát, thành trong thẳng, bát ve lòng. Hai mặt và xương gốm
màu trắng ngà. Hiện vật 11.XG.H10.L1: 468 cao 6,4cm, miệng dày 0,2cm,
đường kính miệng 15cm, đường kính chân đế 4,7cm.
Loại 7: 5 hiện vật. Thân bát cong, chân đế có thành ngoài thẳng, thành
trong hơi vát, mặt chân đế bằng, bát ve lòng. Đáy bát tô men nâu, xương gốm
màu trắng ngà. Hiện vật 11.XG.H10.L1: 437 cao 0,7cm, đường kính đế 5cm.
- Đĩa: 20 hiện vật, gồm 6 loại.
Loại 1: 3 hiện vật. Đĩa có miệng loe, hai mặt gốm màu trắng, không trang
trí hoa văn. Chân đế thấp, lòng đế và một phần ngoài chân đế để mộc. Xương
44
gốm mịn màu trắng xám. Đĩa dày 0,4cm - 0,5cm, đường kính miệng 14,6cm -
16cm.
Loại 4: 3 hiện vật. Mép miệng tròn, thành miệng ngoài vát, lòng đĩa có
dấu con kê, chân đế mỏng, thấp, lòng chân đế để mộc, tô men nâu. Hai mặt phủ
men trắng, không trang trí hoa văn. Hiện vật cao 2,2cm - 2,3cm, miệng dày
0,4cm - 0,6cm, đường kính chân đế 4cm - 4,5cm.
* Thế kỷ XVII - XVIII: Có 62 mảnh/chiếc bát, được chia thành 8 loại
(PL49: h1-h3).
Loại 1: 6 hiện vật. Mảnh chân đế có thành đế vát, mặt chân đế cong, đáy
hơi lồi ở giữa. Bát ve lòng. Hai mặt gốm phủ men ngà, xương gốm màu nâu đỏ,
không trang trí hoa văn. Hiện vật 11.XG.H9.L1: 412 có chân đế dày 0,5cm,
đường kính chân đế 7cm.
Loại 2: 13 hiện vật. Bát men ngọc, đế bát thấp, mặt chân đế phẳng, đáy bát
để mộc, ve lòng. Xương gốm mịn màu trắng. Hiện vật 11.XG.H9.L1: 411 cao
1,1cm, dày 0,7cm, đường kính chân đế 7cm.
* Thế kỷ XVIII - XIX: Có 20 mảnh/chiếc bát men màu trắng vẽ lam
(PL49: h4).
Loại 1: 5 hiện vật. Đế bát có thành đế ngoài vát vào trong, mặt chân đế
bằng, thành đế trong thẳng, lòng phủ men trắng ngà. Xương gốm màu xám trắng.
Hiện vật 11.XG.H4.L1: 323 có kích thước: chân đế cao 1,5cm, dày 0,6cm,
đường kính 5,2cm.
Loại 2: 2 hiện vật. Chân đế bát thấp, thành ngoài khum, thành trong thẳng,
mặt chân đế cắt vát từ ngoài vào trong. Trong lòng bát có dấu ve lòng. Xương
gốm mịn màu trắng xám. Chân đế dày 0,7cm - 0,8cm.
45
Gốm men Trung Quốc
Đồ gốm Trung Quốc có 124 chiếc, chiếm tỷ lệ chiếm tỷ lệ 17% trong tổng
số đồ gốm men và chỉ chiếm 1% trong tổng số hiện vật phát hiện được qua hai
cuộc khai quật. Gồm các loại hình: bát, đĩa, vò, cốc thuộc các dòng men như
men vàng xám, xanh vàng, men ngọc, men trắng. Trong đó, hiện vật thuộc thế kỷ
XIII - XIV chiếm số lượng nhiều nhất (72,6%). Và trong số các loại hình thì bát
chiếm số lượng nhiều hơn cả.
Loại hình
Bát
Đĩa
Bình
Vò
Cốc
Tổng
%
Thế kỷ
số
VII-IX
12
2
3
17
13,3
XIII-XIV
78
15
93
72,6
XV
9
7
2
18
14,1
Bảng 2.7. Thống kê gốm men Trung Quốc
80
70
60
Bát
50
Đĩa
40
Bình
30
Vò
20
Cốc
10
0
VII-IX
XIII-XIV
XV
Niên đại
Biểu đồ 2.6. Các loại hình gốm men Trung Quốc
46
* Thế kỷ VII - IX: (PL50, PL51: h1-h2).
- Bát: 12 hiện vật, gồm 4 loại.
Loại 1: 3 hiện vật. Thân bát cong, phủ men trắng ngà. Thành ngoài chân đế
bát thẳng, mặt chân đế cắt bằng, lòng bát có dấu con kê. Xương gốm màu trắng
đục. Chân đế dày 0,8cm - 0,9cm, đường kính chân đế 4,8cm - 5,2cm.
Loại 2: 5 hiện vật. Đế bát có thành ngoài hơi khum, mặt chân đế bằng,
lòng bát màu trắng nhạt. Xương gốm màu xám. Chân đế dày 0,7cm - 1cm,
đường kính chân đế 5cm - 6cm.
- Bình: 2 hiện vật, xếp thành 2 loại:
Loại 1: 1 hiện vật: Miệng bình thu nhỏ lại, mép miệng vát nhọn, vuốt ra
ngoài, vai bình phình, bên ngoài có quai. Xương gốm mịn, màu xám. Hiện vật
11.XG.H1.L1: 78 có kích thước đường kính miệng 8,5cm.
- Vò: 3 hiện vật, được chia thành 2 loại.
Loại 2: 1 hiện vật: Miệng vò vuốt tràn ra ngoài, thành ngoài miệng vuốt
vát, trang trí đường chỉ chìm, thành trong miệng vát tròn. Mặt miệng vò vát
nhọn. Xương gốm mịn màu trắng xám. Vai có quai. Hiện vật 11.XG.H2.L2: 177
có kích thước miệng dày 1,1cm.
* Thế kỷ XIII - XIV: có 93 hiện vật, gồm các loại men ngọc, men trắng,
men nâu, men xanh (PL51: h3, PL52: h1-h3).
- Bát: 78 hiện vật, được chia thành 12 loại.
Loại 1: 4 hiện vật. Bát miệng loe, mép miệng tròn hơi bẻ ra ngoài. Hai mặt
phủ men ngọc, lớp men khá dày, lòng bát trang trí hình cánh sen in nổi, mặt
ngoài hình cánh sen cách điệu. Xương gốm màu trắng ngà. Bát dày 0,5 - 0,7cm,
đường kính miệng 15cm - 16cm.
Loại 4: 2 hiện vật. Miệng loe, mép miệng tròn hơi bẻ ra ngoài. Hai mặt
47
phủ men ngọc, lớp men khá dày, lòng bát trang trí hình cánh sen in nổi, mặt
ngoài hình cánh sen cách điệu. Xương gốm màu trắng ngà. Hiện vật
11.XG.H2.L3.cụm 1: 207 có đường kính miệng 11,5cm, dày 0,5cm - 0,7cm.
- Đĩa: 15 hiện vật, gồm 5 loại.
Loại 1: 4 hiện vật. Chân đế đĩa có thành đế ngoài vát, thành trong thẳng,
mặt chân đế cong vát, hai mặt phủ men xanh. Xương gốm màu trắng. Hiện vật
11.XG.H10.LM: 431 có chân đế dày 0,9cm, đường kính chân đế 14cm.
Loại 2: 2 hiện vật. Miệng đĩa vuốt tràn ra ngoài, mặt miệng phẳng, thành
ngoài miệng vát nhọn, thành trong miệng vát tròn. Chân đế khum, thành ngoài chân
đế đứng, thành trong chân đế hơi vát, mặt chân đế bằng. Đĩa phủ men ngọc, trong
lòng đĩa trang trí hình 2 con cá. Xương gốm mịn màu trắng. Hiện vật 11.XG.H1.L1:
101 cao 5cm, đường kính miệng 21cm, đường kính chân đế 8,6cm.
* Thế kỷ XV: có 18 hiện vật (PL52: h4,PL53).
- Bát: 5 hiện vật, gồm 4 loại.
Loại 2: 1 hiện vật. Miệng bát sứ men ngọc, miệng loe, mặt miệng tạo gờ,
thân thuôn, miệng bát được vuốt uốn lượn, xương gốm trắng, men phủ dày. Hiện
vật 08.TXG.H2.L1: 16 có đường kính miệng, 23cm, dày 0,8cm.
Loại 4: Thành ngoài chân đế hơi vát vào trong, mặt chân đế phẳng, thành
trong chân đế vát, hai mặt phủ men xanh trắng. Xương gốm màu trắng đục. Hiện
vật 11.XG.H1.L1: 75 có chân đế dày 0,8cm, chân đế cao 1cm, đường kính chân
đế 6cm.
- Đĩa: 7 hiện vật, gồm 4 loại.
Loại 1: 1 hiện vật. Đĩa men ngọc, men phủ dày. Chân đế vát, đáy đĩa ngoài
phủ men ngọc còn được bôi son hồng. Xương gốm màu trắng. Hiện vật
08.TXG.H2.L1: 14 có chân đế cao 0,9cm, đường kính chân đế 16cm.
48
Loại 3: 2 hiện vật. Miệng đĩa vê gần tròn, mặt ngoài phủ men da lươn,
trong phủ men trắng ngà. Chân đế vuốt vát vào trong, mặt chân đế và đáy không
phủ men. Trong lòng đĩa có 2 dấu con kê. Xương gốm màu trắng. Chân đế cao
0,3cm - 0,5cm, chân đế dày 0,4cm - 0,5cm, đường kính chân đế 4,5cm - 5cm.
- Cốc: 2 hiện vật.
Cốc loại 1: 1 hiện vật. Thân cốc chân cao, men ngọc phủ dày trên bề mặt.
Xương gốm màu trắng. Hiện vật 08.TXG.H2.L1: 19 cao còn lại 6,1cm, đường
kính thân 3,3cm.
Cốc loại 2: 1 hiện vật: Chân đế cốc được phủ men trắng ngà, thân thuôn,
mặt chân đế bằng, còn để lại dấu vết cắt, một phần thân và đáy không phủ men.
Trong lòng cốc có 3 dấu con kê. Xương gốm màu trắng. Hiện vật
08.TXG.H2.L1: 42 có kích thước chân đế cao 0,3cm, chân đế dày 0,3cm, đường
kính chân đế 3,1cm.
2.3.2.2. Đồ sành
Có 2005 hiện vật, có số lượng nhiều nhất trong tổng số đồ dùng sinh hoạt.
Gồm các loại: lon, bình, lọ, chậu, vò… niên đại từ thế kỷ XI - XIII đến thế kỷ
XV - XVI. Trong đó, hiện vật thuộc thế kỷ XIII - XIV chiếm số lượng nhiều
nhất . Và lon là loại hình có số lượng nhiều hơn cả.
Loại hình
Lon Nồi Vò
Lọ
Bát Chậu
Vại Liễn Nắp
Tổng
Thế kỷ
số
XI-XIII
5
3
8
XIII-XIV
954
250
56
12
27
1295
XV-XVI
351
136
134
20
16
11
30
698
Bảng 2.8. Thống kê đồ sành
49
1000
900
800
700
600
500
400
300
200
100
0
Lon
Vò
Bát
Nồi
Lọ
Chậu
Vại
Liễn
Nắp
XI-XIII
XIII-XIV
XV-XVI
Biểu đồ 2.7. Các loại hình đồ sành
* Thế kỷ XI - XIII: 8 hiện vật (PL54: h1-h2).
- Lon: 5 hiện vật, gồm 3 loại.
Loại 1: 2 hiện vật. Thành lon đứng, mép ngoài miệng vê tròn, mặt miệng
vuốt nhọn tạo gờ, mép trong miệng tạo rãnh. Thân trang trí hoa văn in nan chiếu
và đường chỉ nhỏ chạy song song. Mặt và xương gốm màu nâu đỏ nhạt. Hiện vật
11.XG.H1.L1: 7 có thân dày 1,6cm.
Loại 2: 2 hiện vật. Thành miệng vuốt tràn ra ngoài, mép miệng vát vào
trong, cổ lõm, thân thẳng. Mặt ngoài và trong màu xanh xám, không trang trí hoa
văn, xương gốm màu nâu. Thân dày 1,1cm - 1,3cm, đường kính miệng 30cm -
33cm.
- Nồi: 3 hiện vật, gồm 2 loại.
Loại 2: 2 hiện vật. Nồi có miệng loe, mép miệng hơi cong, có gờ nhỏ, cổ
lõm, thân cong. Nồi không trang trí hoa văn, xương màu nâu. Miệng dày 0,6cm -
1cm, đường kính miệng 35,4cm - 36cm.
50
* Thế kỷ XIII - XIV: có 1295 hiện vật, gồm các loại: lon, nồi, lọ, nắp
(PL54: h3, PL55, PL56, PL57).
- Lon: 954 hiện vật, được chia thành 27 loại.
Loại 1: 47 hiện vật. Lon sành có đường kính đáy lớn hơn đường kính
miệng, thành trong miệng thẳng, thành ngoài vuốt tràn ra ngoài, đáy bằng. Mặt
ngoài màu xanh xám, mặt trong màu nâu đỏ. Thân trang trí hoa văn in nan chiếu,
vai có đường chỉ chạy quanh thân. Hiện vật 11.XG.H4.L4: 359 cao 6,4cm, dày
1,7cm, đường kính miệng 20,2cm, đường kính đáy 21,1 cm.
Loại 2: 23 hiện vật. Thành miệng lon phía ngoài vuốt tràn ra ngoài, mặt
miệng vê hình con trạch tạo gờ phía trong thành miệng. Thân lon trang trí hoa văn
in nan chiếu. Mặt ngoài màu xám tro, bên trong màu xanh xám. Xương gốm màu
xanh xám. Hiện vật 11.XG.H1.L2: 111 cao 4cm, dày 1,3cm.
Loại 10: Mảnh lon sành có thành miệng vuốt tràn ra ngoài, thành miệng
trong hơi cong tạo gờ, mép miệng cong. Hai mặt màu nâu đỏ, không trang trí hoa
văn, xương gốm mịn màu xám xanh. Hiện vật 11XGH2L2: 169 có đường kính
miệng 10cm, dày miệng 0,9cm.
- Nồi: 250 hiện vật, gồm 16 loại.
Loại 1: 16 hiện vât. Miệng nồi vuốt tràn ra ngoài. Thành ngoài miệng vuốt
thẳng, thành trong miệng vát tròn. Mặt miệng phía ngoài choãi, phía trong vuốt
tạo rãnh. Xương gốm mịn màu xám đen. Hiện vật 11.XG.H2.L1: 134 dày 1,5cm.
Loại 5: 8 hiện vật. Vai nồi cong, mép ngoài miệng nồi vuốt tràn ra ngoài,
mặt miệng ngoài cắt bằng, mặt miệng trong vát cong. Hai mặt màu đỏ, xương
gốm màu xám xanh.
- Vò: 56 hiện vật gồm 7 loại.
Loại 2: 7 hiện vật. Miệng vuốt tràn ra ngoài, thành ngoài miệng vát thẳng,
51
thành trong miệng vát tròn, mặt miệng vát nhọn. Xương gốm mịn màu nâu. Hiện
vật 11XGH2LM: 133 dày miệng 0,9cm.
Loại 7: 8 hiện vật. Thành miệng ngoài thẳng, mép miệng ngoài vuốt ra
ngoài, mặt miệng hơi cong, thành miệng trong thẳng tạo gờ nổi, hai mặt màu
xám. Thân có trang trí các đường chỉ. Xương gốm mịn màu đỏ nâu. Hiện vật
11.XG.H2.L2: 152 dày miệng 1,3cm, đường kính miệng 14cm.
- Lọ: 12 hiện vật, được chia thành 4 loại.
Loại 1: 3 hiện vật. Thành miệng ngoài và trong hơi vát, có gờ nổi, hai mặt
màu nâu đỏ. Xương gốm mịn màu nâu xám. Hiện vật 11.XG.H10.L1: 505 có
kích thước: dày 0,5cm.
Loại 2: 4 hiện vật. Lọ sành có đường kính miệng nhỏ hơn đường kính đáy,
thân cong, đáy bằng. Miệng đứng, thành miệng vuốt tràn ra ngoài, mép miệng
bằng. Hai mặt và xương gốm màu nâu xám. Hiện vật 11.XG.H4.L2: 362 cao
10,2cm, dày 0,7cm, đường kính miệng 10cm, đường kính đáy 11,5cm.
- Bát: 27 hiện vật, gồm 5 loại.
Loại 1: 5 hiện vật. Bát có miệng loe vát ra ngoài, mép miệng vuốt tròn,
chân đế thẳng, mặt ngoài màu nâu, mặt trong và xương gốm màu trắng ngà. Bát
cao 5,5cm - 6,8cm, dày 0,4cm - 0,8, đường kính miệng 15,4cm - 17cm, đường
kính đáy 5,1cm - 6cm.
Loại 2: 8 hiện vật. Mảnh chân đế thấp, mép chân đế bằng, hai mặt màu
xám, xương gốm màu nâu. Bát không trang trí hoa văn. Hiện vật
11.XG.H2.L3.cụm 3: 235 có đường kính chân đế 5,6cm, dày chân đế 0,6cm.
* Thế kỷ XV - XVI: có 698 hiện vật, gồm các loại: lon, chậu, vò, nắp
(PL58, PL59, PL60, PL61).
- Lon: 351 hiện vật, gồm 23 loại.
52
Loại 2: 21 hiện vật. Lon sành có đường kính miệng và đáy bằng nhau,
thân thẳng, đáy bằng. Mặt trong thành miệng thẳng, mặt ngoài vuốt tràn ra ngoài
tạo gờ hình con trạch. Hai mặt và xương gốm màu xám, thân trang trí hoa văn in
nan chiếu và hai băng chỉ chìm chạy song song. Hiện vật có 11.XG.H4.L4: 360
cao 17,5cm, dày 1,2cm, đường kính miệng 19cm, đường kính đáy 19cm.
Loại 4: 37 hiện vật. Thân lon hơi cong, miệng ngoài lon vuốt tràn ra ngoài,
mặt trong miệng thẳng, vai có hai băng chỉ chạy song song. Mặt ngoài lon màu
nâu đỏ, mặt trong nâu xám, xương gốm nâu xám. Thân dày 1,1cm - 1,9cm.
- Chậu: 20 hiện vật, được chia thành 5 loại.
Loại 1: 6 hiện vật. Chậu có vai thẳng, mép miệng vuốt tràn ra ngoài, mặt
trên miệng chậu phẳng, mặt trong miệng hơi vát, thân trang trí hoa văn in nan
chiếu. Bề mặt chậu và xương gốm có màu nâu xám. Hiện vật 11.XG.H1.L1: 78
có kích thước: dày 1cm.
Loại 2: 3 hiện vật. Phần thân tiếp giáp với thành miệng chậu hơi khum,
thành miệng ngoài vuốt tràn ra ngoài và được cắt bằng, thành trong vê tròn tạo
gờ bên trong. Mặt ngoài màu xám đen, mặt trong màu nâu đỏ. Xương gốm màu
nâu đỏ. Kích thước: dày 1cm - 1,5cm.
- Vò: 136 hiện vật, gồm 14 loại.
Loại 1: 11 hiện vật. Miệng vò khum, thành miệng ngoài vuốt tràn ra ngoài,
thành miệng trong vuốt tròn. Mặt miệng vò phẳng. Xương gốm mịn màu nâu.
Hiện vât 11.XG.H2.L2: 147 dày miệng 1,1cm.
Loại 2: 4 hiện vật. Thân vò cong, thành miệng cao và đứng, mặt miệng
bằng, mép miệng ngoài được vê tròn dạng con trạch, mép miệng trong đứng tạo
gờ vuông với mặt miệng. Mặt trong màu nâu đỏ nhạt, mặt ngoài màu nâu đen.
Hiện vật 11.XG.H1.L1: 11 có kích thước dày 1cm.
53
- Bát: 134 hiện vật, gồm 15 loại.
Loại 1: 12 hiện vật: Miệng bát loe, mép trong cong, mép ngoài vuốt tràn ra
ngoài. Chân đế bát thấp, mặt cắt vát từ ngoài vào trong, thành ngoài chân đế bát
khum, thành trong chân đế thẳng, đáy bằng. Xương gốm mịn màu nâu sẫm. Hiện
vật 11.XG.H1.L1: 1 cao 5,5cm, đường kính miệng 14cm, đường kính đáy 5,5cm.
Loại 12: 2 hiện vật. Chân đế bát bằng, thân có khắc chìm một đường chỉ
nhỏ, lòng bát màu trắng xám. Xương gốm màu nâu đỏ. Đường kính chân đế
6,5cm - 7,8cm.
- Liễn: 11 hiện vật, gồm 4 loại.
Loại 1: 2 hiện vật. Liễn sành có miệng loe, mép miệng vuốt tràn ra ngoài,
thân cong, đáy bằng. Hai mặt và xương gốm màu xanh xám, thân có hai đường
chỉ song song chạy quanh thân. Hiện vật 11.XG.H4.L1: 348 có kích thước:
miệng dày 1,8cm, hiện vật cao 12,7cm, đường kính miệng 20cm, đường kính
chân đế 14cm.
- Vại: 16 hiện vật, được chia thành 5 loại.
Loại 1: 4 hiện vật. Miệng vê con trạch to tràn ra ngoài, mép miệng vuốt
bằng, lòng miệng bên trong thẳng, tạo gờ, trong lòng có những dấu vết lồi lõm,
đó là dấu vết của kỹ thuật dải cuộn để lại. Thân vại xuôi, vai trang trí 2 băng văn
chải những đường thẳng song song với nhau, dưới là văn in. Đường kính miệng:
25cm - 28cm.
Loại 2: 2 hiện vật. Miệng vê con trạch to tràn ra ngoài, mép miệng vuốt
nhọn, lòng miệng bên trong cong, tạo gờ. Thân vại thẳng, vai trang trí văn chải 2
đường thẳng song song, dưới là văn in. Đường kính miệng 16,2cm - 18cm.
- Nắp: 30 hiện vật, được chia thành 4 loại.
Loại 2: 10 hiện vật. Vai núm nắp phình, cổ thắt, miệng núm vuốt tràn ra
54
ngoài, thành miệng trong vát tròn, mặt miệng vắt nhọn. Xương gốm mịn màu
nâu đỏ. Hiện vật 11.XG.H1.LM: 79 có đường kính 3cm, dày 0,5cm.
2.3.3. Đồ đất nung
Đồ đất nung có 948 hiện vật, gồm các loại nồi, nắp, lon và 1 chiếc máng
thức ăn gia súc, trong đó loại hình nồi chiếm số lượng lớn nhất 450 (47,5%).
Hiện vật đất nung có niên đại từ thế kỷ XIII - XV (PL62).
Bảng 2.9. Thống kê đồ đất nung
Loại hình Nồi Nắp Lon Máng Tổng
thức ăn số
Số lượng 450 250 247 1 948
Tỷ lệ 47,5% 26,3% 26,1% 0,1% 100%
450
400
350
300
Số lượn g
250
200
150
100
50
0
Lon
Nồi
Nắp
Máng thức ăn
Biểu đồ 2.8. Các loại hình hiện vật đất nung
55
* Thế kỷ XIII - XIV:
- Lon:
Loại 2: 6 hiện vật. Thành miệng lon hơi loe ra ngoài, mép miệng ngoài vê
hình con trạch, mặt ngoài miệng cắt bằng, mặt trong cắt nhọn. Vai lon có hai
đường chỉ chìm chạy song song. Thân lon trang trí hoa văn in nan chiếu. Mặt
ngoài, mặt trong và xương gốm màu đỏ gạch.
Loại 4: 13 hiện vật. Thân hơi cong, thành miệng ngoài vuốt tràn ra ngoài
tạo hình con trạch, thành miệng trong thẳng tạo gờ. Hai mặt và xương gốm màu
đỏ gạch. Hiện vật 11.XG.H10.L1: 529 có đường kính miệng 14cm - 17cm, dày
0,7cm - 1,1cm.
- Nồi:
Loại 1: 5 hiện vật. Miệng nồi có thành ngoài thẳng, thành trong cong, mép
miệng vát. Hai mặt và xương gốm có màu trắng vàng, không trang trí hoa văn.
Hiện vật 11.XG.H10.L1: 528 có kích thước đường kính miệng 17cm, thân dày
0,5cm.
Loại 2: 9 hiện vật. Miệng nồi có thành miệng vuốt ra ngoài, mép miệng vê
tròn, thành miệng trong hơi cong tạo gờ nổi. Hai mặt và xương gốm màu nâu
vàng. Hiện vật 11.XG.H7.L1: 392 có đường kính miệng 35cm, dày 0,6cm.
* Thế kỷ XIV - XV:
Máng thức ăn gia súc: 1 hiện vật: Máng có hình bán trụ, mặt cắt dọc hình
thang, gờ máng cạo bằng, thành máng phẳng, vát vào trong. Bề mặt và xương
gốm màu trắng xám, xương gốm thô, lẫn nhiều cát sỏi nhỏ. Hiện vật
11.XG.H1.L2: 616 dài 38,6cm, rộng 25cm, cao 19,7cm, thành rộng 2,5cm.
Núm nắp loại 2: 16 hiện vật. Vai núm nắp phình, cổ thắt, miệng núm vuốt
tràn ra ngoài, thành miệng trong vát tròn, mặt miệng vắt nhọn. Xương gốm mịn
56
màu nâu đỏ. Hiện vật 11.XG.H1.LM: 79 có kích thước: đường kính 3cm, dày
0,5cm.
2.3.4. Các loại hiện vật khác
- Đồ đá: Gồm đạn đá và bia đá (PL63).
Đạn đá: có 4 hiện vật, trong đó có 2 hiện vật được phát hiện tại địa điểm
Đồi Ngô và 2 viên phát hiện trong hố khai quật. Đạn đá có hình cầu, đường kính
7cm - 8cm. Được chế tác bằng cách đẽo, gọt đơn giản. Chất liệu từ đá sa thạch
hạt thô.
Bia đá: 1 hiện vật được phát hiện tại địa điểm Đồi Ngô. Bia có dòng chữ
Hán, được làm từ đá cát kết màu nâu sẫm. Kích thước: dài còn lại: 50cm; rộng
còn lại: 23 - 33cm; dày: 15cm
- Hiện vật kim loại: (PL64).
25
20
Số lượng
15
10
5
0
Vòng Dao
Áo giáp
Đinh sắt
Mũi nhọn
Tiền đồng
Không xác định
Biểu đồ 2.9. Các loại hình hiện vật kim loại
57
Bảng 2.10. Thống kê hiện vật kim loại
Đinh Mũi Vòng Dao Áo Tiền Không Tổng Loại
nhọn giáp đồng xác định số hình sắt
3 1 1 1 1 5 35 Số 23
lượng
Tỷ lệ 65,7% 8,5% 2,9% 2.9% 2.9% 2,9% 14,2% 100%
Mảnh kim loại phát hiện tại địa điểm Đồi Ngô, có lớp patin màu xanh, nâu
bên ngoài, hiện vật được trang trí hoa văn cánh sen gồm 3 lớp cánh, cánh phụ có
hai lớp, các cánh rộng ở phần đầu và ngắn hơn ở phần trong, các cánh sen rõ
ràng. Đầu cánh sen thứ hai ở hai rìa cánh được uốn cong vào, còn trong lòng
cánh sen thứ 3 trang trí một hình tròn ở giữa, xung quanh là những đường cong
chạy ngược chiều kim đồng hồ. Đây có thể là một mảnh áo giáp? Kích thước: dài
còn lại: 6,5cm; rộng: 3,9cm; dày: 0,2cm (Ba3: A2).
Dao sắt: 1 hiện vật. Mảnh dao có hai phần: phần chuôi màu xanh gỉ đồng,
phần lưỡi bằng sắt bị han gỉ. Hiện vật 11.XG.H2.L3: 637 dài còn lại 2,5cm, rộng
4,5cm, dày 1,7cm.
Đinh sắt: Gồm 23 hiện vật, bao bọc bởi một lớp gỉ sét bên ngoài. Đinh có
mặt cắt ngang hình tròn, hình chữ nhật, hình vuông. Tuy số lượng đinh phát hiện
được không nhiều, nhưng những chiếc đinh sắt này là một trong những bằng
chứng cho việc gia cố cho chắc chắn bộ mái kiến trúc có quy mô lớn. Hiện vật
08.TXG.H2.L2: 75 dài còn lại 6cm, đường kính 0,7cm.
Mũi nhọn: 3 hiện vật. Mũi nhọn bằng sắt đã bị han gỉ, phần ngoài bị vỡ để
lộ bên trong màu đen, bên ngoài có lớp patin màu vàng. Hiện vật 11.XG.H1.LM:
565 dài còn lại 9,2cm, rộng 0,6cm.
58
Lục lạc đồng: 3 hiện vật. Đây là đồ tuỳ táng của Mộ 1, hiện vật nằm trên
xương hông trái, hiện vật gồm 3 mảnh lục lạc đều như đã vỡ, nhưng do gỉ đồng
nên cả ba hiện vật gắn chặt với nhua. Đây là bằng chứng cho chúng ta biết khi di
cốt được chôn cất, thì chủ nhân của ngôi mộ đã mặc trang phục với những đồ
trang sức thường ngày. Tuy nhiên do khí hậu, môi trường nên đã không giữ được
dấu vết về bộ trang phục giai đoạn này. Kích thước của 3 mảnh lục lạc này hoàn
toàn khác nhau. Đường kính lục lạc 0,7cm - 0,85cm.
Tiểu kết chương 2
Kết quả điều hai lần khai quật di tích thành Xương Giang năm 2008 và
2011-2012 đã phác thảo được hệ thống kiến trúc và chức năng của những công
trình trong thành Xương Giang, bao gồm: dinh thự, kho lương. Những công trình
kiến trúc này phân bố rộng và chủ yếu xung quanh khu vực Đồi Ngô gồm: Giếng
Phủ, khu vực Trường Trung cấp Văn hoá Nghệ thuật và khu vực sát thành và
trên mặt thành về phía đông.
Số lượng hiện vật phát hiện qua hai cuộc khai quật này khá lớn, đa dạng
về loại hình và chất liệu. Vật liệu xây dựng gồm các loại gạch, ngói, nhất là
những viên gạch ốp được trang trí hoa văn tinh xảo trên một mặt... có niên đại
thế kỷ XV. Các loại đồ dùng sinh hoạt có niên đại trải dài từ thế kỷ VII - IX đến
thế kỷ XVIII - XIX. Đồ gốm tráng men gồm các loại: bát, đĩa, bình... có xuất xứ
không chỉ ở Việt Nam mà còn có nguồn gốc từ Trung Quốc. Trong đó, đồ gốm
tráng men Việt Nam có số lượng gấp 5 lần đồ gốm men Trung Quốc. Đồ sành
gồm các loại: lon, vò, chậu, nồi... Bên cạnh đó còn một số ít hiện vật làm bằng
chất liệu đất nung, đá và kim loại. Thông qua bộ sưu tập hiện vật thu được, nhất
59
là những hiện vật thuộc nhóm vật liệu kiến trúc kết hợp với những tư liệu lịch sử,
có thể nhận định rằng đây là một công trình kiến trúc của nhà Minh (Trung
Quốc) có niên đại thế kỷ XV.
60
Chương 3
NHẬN THỨC VỀ THÀNH XƯƠNG GIANG
3.1. Quy mô, cấu trúc thành Xương Giang
Các nguồn sử liệu chỉ cho biết thành Xương Giang vốn là một tòa thành
do quân Minh xây dựng trong hệ thống thành lũy dày đặc của quân Minh thời
gian (1407-1427) nhằm đô hộ và đồng hóa Việt Nam thành một quận, huyện của
Trung Quốc. Thành Xương Giang khi đó là trị sở của chính quyền đô hộ phủ
Lạng Giang, đồng thời còn là một cứ điểm quân sự quan trọng của quân Minh
nằm ở giữa trục đường từ Quảng Tây sang Đông Quan. Nhưng các nguồn sử liệu
trên không mô tả, khảo cứu cụ thể thành Xương Giang cũng như các công trình
trong và ngoài thành ra sao.
Vào những năm 70 và 80 của thế kỷ XX, để phục vụ cho việc nghiên cứu
thành Xương Giang và đại thắng Xương Giang 3/11/1427, Trần Đình Luyện và
các cộng sự đã nhiều lần điều tra, khảo sát khảo cổ học di tích thành Xương
Giang. Theo Trần Đình Luyện, di tích thành Xương Giang vào thời điểm này
còn khá rõ. Các nhà nghiên cứu đã thực hiện việc đo vẽ di tích tòa thành, tìm
hiểu kiến trúc và kỹ thuật xây dựng thành, tập hợp các tài liệu hiện vật ở khu vực
thành do nhân dân phát hiện và lưu giữ, các tài liệu địa danh, địa hình cảnh quan,
các truyền thuyết lưu truyền trong dân gian... [41].
Kết quả cuộc nghiên cứu đã cho thấy rằng: “Thành nằm trên khu đất cao,
phía đông bắc và đông nam có những dãy núi thấp trấn giữ, phía tây nam là dòng
sông Thương bao bọc, cách chừng 3km, xung quanh thành có những vạt ruộng
trũng, làng Thành ở phía tây nam, làng Vẽ ở phía đông bắc, quốc lộ 1A cũ và
đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn chạy qua góc tây nam của thành. Thành có hình
61
chữ nhật, dài khoảng 600m, rộng 450m, diện tích khoảng 27ha, tường thành đắp
bằng đất lấy tại chỗ tạo thành hào rãnh xung quanh. Toàn bộ tường thành là một
lớp đất thống nhất, đó là lớp đất đắp màu đỏ, được nện rất kỹ nên rất chặt, đôi
chỗ có lẫn đất thịt màu xám với đất đồi. Nhiều chỗ lẫn trong đất đắp thành là
những mảnh gạch, ngói, gốm sứ thành lớp dày và chạy dài. Rất có thể người ta
đã kê những sành, gạch, ngói, gốm sứ lẫn với đất cho đắp tường thành hoặc có
thể hiểu là hiện tượng các công trình bị phá hủy và vùi lấp. Tường thành có chỗ
cao hơn mặt ruộng khoảng 4m, chân rộng khoảng 25m, mặt thành rộng khoảng
20m. Hào thành phía ngoài đã bị san lấp nhiều nhưng vẫn có chỗ rộng tới 15m,
sâu 1,50m. Bốn góc thành có 4 pháo đài cao hơn mặt thành khoảng 4m và nhô
hẳn ra ngoài. Trong lòng thành có nhiều gò đống cao phẳng có nhiều dấu tích
kiến trúc như: chân tảng bằng đá, gạch, ngói... Trong đó có một gò cao ở trong
thành phía đông bắc, nhân dân gọi là đồi quân Ngô. Dựa vào hình dáng cấu trúc
và kỹ thuật xây dựng, cũng như thư tịch cổ đã chứng minh thành Xương Giang
là sản phẩm do quân xâm lược Minh xây dựng từ năm 1407” [41, tr. 172].
Kết quả hai cuộc điều tra khảo sát và khai quật năm 2008 và 2011-2012,
đã một lần nữa khẳng định sự hiện diện của thành Xương Giang trong lịch sử.
Dấu tích bờ thành xưa đó là dấu vết đoạn tường thành phía đông và dấu mốc về
đường nước của thành Xương Giang xưa: đoạn sông Xương Giang chảy cắt
ngang thành theo hướng đông - tây tiếp tục được làm rõ. Cấu trúc của thành
Xương Giang, bao gồm: thành, dinh thự, kho lương cũng như nơi sản xuất
nguyên vật liệu gạch, ngói cho công trình này. Các công trình này phân bố rộng
và chủ yếu xung quanh khu vực Đồi Ngô bao gồm: Giếng Phủ, Trường Trung
cấp Văn hóa Nghệ thuật và những khu vực sát thành và trên mặt thành.
Những bằng chứng khảo cổ học đã phát hiện hiện ở khu vực Giếng Phủ
62
như những viên gạch ốp trang trí có kích thước khá lớn, dài còn lại từ 14cm -
22cm, rộng 16cm - 17cm. Phía sau viên gạch có mấu nổi cao, giữa mấu có lỗ.
Mặt ngoài của những viên gạch này được trang trí hình hoa lá với đường nét hoa
văn tinh xảo. Bên cạnh đó, ở đây còn phát hiện những viên ngói âm, mà phần
diềm ngói cũng được trang trí hoa văn hình hoa lá cách điệu phong phú. Những
viên ngói này có kích thước lớn, dài 23,8cm - 26cm, rộng 21,5cm - 23cm. Điều
đó cho thấy đây là một công trình kiến trúc có quy mô lớn, vì chỉ có bộ mái to,
chắc khỏe mới có thể chịu lực nổi những viên ngói có kích thước lớn như thế.
Qua đó, có thể thấy rằng xung quanh khu vực Giếng Phủ là những công trình
kiến trúc dinh thự của tầng lớp quan lại cao cấp của quân đội nhà Minh.
Tuy nhiên, khu vực khai quật hố H1 năm 2008 nằm gần đỉnh Đồi Ngô về
hướng đông nhưng trong hố khai quật không phát hiện được những bằng chứng
về khảo cổ học. Thông qua địa tầng hố khai quật H1 năm 2008, có thể thấy rằng,
không phải tất cả các khu vực xung quanh đỉnh Đồi Ngô đều có các công trình
kiến trúc hay những công trình phục vụ khác.
Cùng với kết quả điều tra ở khu vực Đồi Ngô và Giếng Phủ thì kết quả
khai quật hố H2 năm 2008 càng cho thấy khu vực này là một tổng thể các công
trình kiến trúc liên hoàn. Điều này được minh chứng qua kết cấu của hàng trụ
móng kiến trúc với khoảng cách bước gian rộng từ 4,1m - 4,9m. Cũng như khu
vực Giếng Phủ, công trình kiến trúc này cũng là nơi ở của các quan lại cao cấp
trong quân đội nhà Minh. Tại khu vực này cũng đã phát hiện được những loại đồ
gia dụng cao cấp như bát, đĩa men ngọc và vật liệu xây dựng như diềm trang trí
trên ngói âm, ngói dương và đầu ngói ống trang trí cũng như kết cấu của các
hàng móng trụ kiến trúc.
Nếu như ở khu vực Giếng Phủ và khu vực hố khai quật H2 năm 2008 là
63
nơi ở của hàng ngũ quan lại cao cấp trong quân đội nhà Minh thì hố khai quật H3
năm 2008 là nơi cất giữ lương thực của quân đội Minh. Và kho lương này có
kiến trúc lòng nhà hình chữ U.
Kết quả khai quật năm 2011-2012 cho chúng ta biết, toàn bộ các hố khai
quật gần cửa thành phía bắc cũng như khu vực rìa ngoài Đồi Ngô về phía tây
nam không có dấu tích về công trình kiến trúc, mà nơi đây chỉ có dấu vết về sinh
hoạt, dấu vết của chiến tranh để lại như những đống đổ nát than tro và tàn tích
thức ăn.
Hiện nay, thành Xương Giang xưa chỉ còn là phế tích, tình trạng xâm hại
do người dân cư trú và canh tác, cũng như một số cơ quan Nhà nước vẫn đặt trụ
sở làm việc trong khu vực thành. Tường thành gần như đã bị san ủi hết, trên mặt
thành hiện nay là những ngôi nhà hiện đại, hào thành giờ đây được sử dụng như
ao nuôi cá của các hộ dân. Tuy nhiên, vị trí các cửa thành: Cửa Đông Bắc, Cửa
Đông, Cửa Bắc, Cửa Tây Nam, Cửa Nam đã được các nhà khoa học xác định và
tiến hành đánh dấu mốc.
3.2. Tính chất thành Xương Giang
Kết quả các cuộc khai quật và nghiên cứu khảo cổ học đã xác nhận:
Xương Giang không chỉ là môt tòa thành với những công trình kiến trúc dinh
thự, kho lương như đã trình bày ở trên, mà còn là khu di tích cư trú lâu đời với số
lượng di vật phong phú, gồm nhiều loại chất liệu: đồ gốm men, đồ sành, đồ đất
nung, đồ đá, đồ kim loại.
Theo nhiều tài liệu lịch sử và địa chí, Xương Giang rất có thể là vị trí quan
trọng của người Việt từ nhiều thế kỷ trước công nguyên. Vì vậy, địa điểm này đã
được chính quyền cai trị phong kiến phương Bắc chiếm giữ trong suốt thời Bắc
thuộc của thiên niên kỷ thứ nhất sau công nguyên. Tại Bắc Giang, những di tích
64
thời Bắc thuộc đã phát hiện ở hầu hết các huyện và thành phố. Riêng ở thành phố
Bắc Giang, di tích mộ táng thời Bắc thuộc đã phát hiện ở thôn Hậu, Làng Vẽ,
khu làng Thành, khu Nhà máy Đạm - Hóa chất Hà Bắc, khu Đa Mai… Tại đây
cũng đã phát hiện một số đồ gốm, đồ bán sứ như vò có tai, lọ, bát… do nhân dân
phát hiện và thu lượm. Trong các lớp đất đắp thành và ở trong lòng thành đã phát
hiện được những mảnh gốm có hoa văn xương cá, ô trám và nhiều viên gạch
“múi bưởi” có hoa văn ô trám. Những hiện vật này có niên đại thời Hán -
Đường. Điều này là minh chứng rõ ràng cho dấu tích của khu vực cư trú hoặc
mộ táng của tầng lớp quý tộc quan lại cai trị dưới thời Bắc thuộc [41, tr. 171].
Sang thời Lý - Trần, Xương Giang là địa điểm giữ vị trí quan trọng. Lịch
sử từng ghi Bắc Giang thời Lý là trung tâm của đất Châu Lạng - mảnh đất có vai
trò quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ kinh thành Thăng Long và quốc gia Đại
Việt, nên được nhà Lý đặc biệt coi trọng. Đây là vùng đất cai quản của dòng họ
Giáp (sau đổi là họ Thân) - một họ tộc có thế lực lớn và nhiều đời làm phò mã
nhà Lý. Các vua nhà Lý không chỉ gả công chúa cho tự trưởng họ Giáp, mà còn
đặc biệt quan tâm tới vùng đất này, thường xuyên tới thăm và thi hành nhiều
chính sách nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, củng cố tiềm lực để bảo vệ đất
nước.
Những dấu vết còn lại cho thấy, thời Lý - Trần khu vực Xương Giang là
một khu vực cư trú lớn, có thể là dinh thất của tầng lớp có thế lực, vì các đồ gốm
sứ hầu hết là đồ dùng cao cấp, vốn đã tìm được ở những di tích nổi tiếng thời Lý
- Trần như: Di tích Hoàng Thành Thăng Long, chùa Phật Tích, chùa Dạm… Ở
Bắc Giang, các di tích thời Lý - Trần cũng đã phát hiện ở nhiều địa phương như:
Phượng Sơn (Lục Nam), chùa Cao (Khám Lạng - Lục Ngạn), Vĩnh Nghiêm (Yên
Dũng), Tòng Lệnh (Lục Nam)… “Thậm chí trong các lớp đất đắp thành, cũng đã
65
tìm được những đồ gốm sứ thuộc thời đại Lý - Trần. Chính là do lớp đất văn hóa
thời Lý - Trần bị người đời sau đào xới đắp tường thành” [41, tr. 171].
Thuộc thời Minh, Xương Giang là trị sở của phủ Lạng Giang - một phủ
lớn có Châu Lạng, Châu Nam Sách và Thượng Hồng (nay thuộc tỉnh Hải
Dương). Dưới thời Lê, Xương Giang tiếp tục giữ vững vai trò trụ sở của phủ
Lạng Giang thuộc trấn Kinh Bắc.
Đến thời Mạc, Xương Giang giữ vai trò quan trọng. Vì vậy nơi đây còn có
tên là thành nhà Mạc. Cạnh Xương Giang là quê hương của Giáp Hải - vị trạng
nguyên thời Mạc, nay còn di tích Nghè Kế (hay còn gọi là Nghè Cả), nhà thờ
Quan Trạng, các địa danh núi Trạng, nay thuộc xã Dĩnh Kế, sát ngay phía đông
của thành Xương Giang. Nơi đây dưới thời Mạc là một trung tâm kinh tế, thương
mại khá sầm uất, nhộn nhịp với trung tâm là chợ Kế ngày nay.
Vào thế kỷ 18, dưới triều Lê - Trịnh, Xương Giang là nơi diễn ra các trận
đánh ác liệt giữa nghĩa quân của Nguyễn Hữu Cầu (tức quận He) với quân của
triều đình dưới sự lãnh đạo của tướng quân Hoàng Ngũ Phúc. Sang đầu thời
Nguyễn, Xương Giang tiếp tục giữ vai trò thành phủ của Lạng Giang trấn Kinh
Bắc (1805-1817) [41].
Dấu vết cư trú tại đây được thấy rõ thông qua bộ sưu tập hiện vật phát
hiện được qua hai cuộc khai quật. Đó là số lượng lớn các loại đồ dùng trong sinh
hoạt như: bát, đĩa, bình… gốm men ngọc, men nâu, men trắng vẽ lam không chỉ
được sản xuất tại Việt Nam mà còn có xuất xứ từ Trung Quốc; các loại lon, vò,
chậu, nồi… sành hoặc đất nung. Trong đó, đồ sành chiếm số lượng nhiều nhất.
Những hiện vật thu được từ hai cuộc khai quật này có niên đại trải dài từ thế kỷ
VII - IX đến thế kỷ XVIII - XIX.
Trong tổng số hiện vật dùng trong sinh hoạt phát hiện được tại đây thì
66
những hiện vật thuộc thế kỷ XIII - XIV chiếm số lượng lớn nhất (chiếm 58,4%
tổng số đồ sinh hoạt) và có đầy đủ các loại chất liệu như: gốm men Việt Nam và
Trung Quốc, đồ sành, đồ đất nung. Điều này chứng tỏ rằng từ trước khi nhà
Minh tiến sang xâm lược và xây thành Xương Giang thì nơi đây đã là khu trú lâu
đời và có dân cư đông đúc nhất vào thế kỷ XIII - XIV. Và tại đây cũng xuất hiện
những loại đồ dùng cao cấp như các loại đồ gốm men có nguồn gốc từ Việt Nam
và Trung Quốc.
Sang thế kỷ XV - XVI, số lượng hiện vật dùng trong sinh hoạt bắt đầu
giảm dần (giảm còn 38,7% tổng số đồ sinh hoạt). Nhưng đồ gốm men Việt Nam
lại tăng lên và chiếm số lượng nhiều nhất trong loại hình đồ gốm có men. Tổng
số đồ gốm men phát hiện được có niên đại thế kỷ XV - XVI là 414 hiện vật,
trong đó loại hình gốm men Việt Nam chiếm chủ yếu 396 hiện vật. Đồ gốm men
Trung Quốc thế kỷ XV chỉ có 18 hiện vật, sang đến thế kỷ XVI thì không thấy
xuất hiện. Đồ sành và đất nung thế kỷ XV - XVI giảm đi gần một nửa.
Từ sau thế kỷ XVI, chỉ còn xuất hiện số lượng rất ít loại hình gốm men
Việt Nam và các loại hình chất liệu khác đã không còn xuất hiện. Thế kỷ XVII -
XVIII có 62 hiện vật, đến thế kỷ XVIII - XIX chỉ còn 20 hiện vật.
Qua sưu tập hiện vật dùng trong sinh hoạt có thể thấy Xương Giang là khu
cư trú từ rất sớm và là khu quần cư đông đúc vào khoảng thế kỷ XIII - XVI (nhất
là giai đoạn thế kỷ XIII - XIV) và giảm dần về giai đoạn sau. Những đồ gốm
men có xuất xứ từ Việt Nam và Trung Quốc phát hiện tại đây đã cho thấy, trong
suốt quá trình hình thành và phát triển, ở khu vực Xương Giang không chỉ có
tầng lớp bình dân cư trú mà còn có cả những tầng lớp quan lại, quý tộc định cư
trên vùng đất này, nhất là giai đoạn phát triển nhất.
Trong tổng số gốm men thu được tại di tích thành Xương Giang, gốm men
67
Việt Nam chiếm số lượng lớn gấp 5 lần gốm men Trung Quốc. Riêng thế kỷ XV,
số lượng gốm men Việt Nam gấp hơn 13 lần gốm men Trung Quốc. Điều này
chứng tỏ rằng, vào thế kỷ XV, những chủ nhân của thành Xương Giang đã sử
dụng chủ yếu những đồ gia dụng có xuất xứ tại chỗ để dùng trong sinh hoạt hàng
ngày. Điều này có thể được lý giải theo cách đó là do khoảng cách về địa lý, mà
những loại đồ dùng trong sinh hoạt này lại dễ vỡ trong khi vận chuyển, nên
những người chủ của thành Xương Giang đã sử dụng những vật dụng sinh hoạt
tại chỗ của người Việt.
Ngoài ra, Xương Giang còn là khu di tích mộ táng. Trong 2 mùa khai quật
địa điểm thành Xương Giang với diện tích trên 1000m2, nhưng chỉ phát hiện
được 3 ngôi mộ cùng với hệ thống kiến trúc trong hố khai quật H2 (năm 2008).
Di cốt trong các ngôi mộ đều bị mủn nát nhưng vẫn có thể thấy được hình hài bộ
xương theo tư thế giải phẫu cũng như có thể xác định được tuổi, chiều cao, giới
tính của chủ nhân ngôi mộ. Các nhà khoa học cho rằng: 3 ngôi mộ này nằm
trong khung niên đại thế kỷ XV và cả 3 ngôi mộ đều được chôn sau khi công
trình kiến trúc đã bị sập. Tuy nhiên, đây khó có thể là mộ táng tập trung.
Nghiên cứu di cốt người cổ thành Xương Giang rất quan trọng, nhằm góp
phần tìm hiểu chủ nhân thành cổ Xương Giang nói riêng và góp phần tìm hiểu
quá trình hình thành các loại hình nhân chủng ở Việt Nam nói chung.
3.3. Giá trị lịch sử, văn hóa di tích thành Xương Giang
Xương Giang là khu di tích lưu giữ những chứng tích văn hóa vật chất
suốt chiều dài lịch sử của vùng đất này. Kết quả các cuộc điều tra khai quật đã
tìm thấy dưới lòng đất thành Xương Giang có dấu tích kiến trúc cổ và nhiều loại
hình di vật như đạn đá, gạch, ngói, gốm, sứ… Trong đó, loại hình vật liệu xây
dựng thế kỷ XV chiếm số lượng nhiều nhất. Các loại đồ dùng trong sinh hoạt: đồ
68
gốm men, đồ sành, đất nung có niên đại trải dài từ thế kỷ VII - IX đến thế kỷ
XVIII - XIX, mà nhiều nhất là những hiện vật có niên đại từ thế kỷ XIII - XVI.
Trong số các loại đồ gốm gốm men, ngoài những hiện vật có nguồn gôc từ Việt
Nam thì còn có cả những hiện vật có xuất xứ từ Trung Quốc. Tuy nhiên vào mỗi
giai đoạn nhất định, số lượng hiện vật này lại tăng giảm khác nhau. Sưu tập hiện
vật qua hai lần khai quật tại di tích thành Xương Giang sẽ là những tư liệu quý
giá khi nghiên cứu lịch sử vùng đất này và những khu vực xung quanh.
Di tích là nơi ghi dấu tiêu biểu và sống động nhất hiện còn về cuộc khởi
nghĩa kéo dài suốt 10 năm của dân tộc ta trước quân xâm lược nhà Minh. Quân
Minh xâm lược nước ta từ năm 1407 với chính lệnh được ban ra từ Minh Thành
Tổ quyết đánh cho Đại Việt “một chữ chớ để còn”. Hàng loạt các cuộc khởi
nghĩa oanh liệt của Đại Việt trước khởi nghĩa Lam Sơn đều bị quân Minh dìm
trong biển máu. Trong bối cảnh đó, khởi nghĩa Lam Sơn được nhen nhóm ở khu
vực Thanh Hóa với tài lãnh đạo của Lê Thái Tổ đã dần dần lớn mạnh và đẩy
quân Minh vào thế ngày càng suy yếu. Tuy nhiên, quân địch đã dựa vào hệ thống
thành cao hào sâu như thành Xương Giang cố thủ hòng cầu viện từ trong nước
sang để lật ngược tình thế.
Trước tình hình đó, Lê Lợi, Nguyễn Trãi cùng các tướng lĩnh của mình đã
đề ra kế hoạch “vây thành, diệt viện” nhằm đảm bảo chắc chắn cho thắng lợi
cuối cùng và thành Xương Giang trở thành trọng điểm tiến công của nghĩa quân
Lam Sơn. Diệt được thành Xương Giang là ta diệt được một cứ điểm trọng yếu
của quân Minh lúc đó ở phía bắc thành Đông Quan, quân ta có thể biến nó trở
thành một cứ điểm trọng yếu chặn đánh đám quân của địch do Thái tử Thái Bảo
An viễn hầu Liễu Thăng cầm đầu đang tiến sang. Hai lần chiến thắng Xương
Giang đã hoàn toàn chứng minh tài thao lược tuyệt vời của Lê Lợi lúc đó.
69
Hiện nay, các di tích thuộc kháng chiến chống quân Minh hầu hết đã bị
mai một hoặc không còn dấu tích. Trong khi đó, di tích thành Xương Giang dù
đã có nhiều công trình dân sự mới đan xen nhưng nếu quy hoạch tốt thì vẫn còn
được bảo tồn khá tốt nếu không nói là tốt nhất. Chính vì vậy, di tích thành
Xương Giang có giá trị to lớn trong việc ghi dấu ấn cuộc kháng chiến 10 năm
chống quân Minh thắng lợi.
Di tích Xương Giang là khu di tích tiêu biểu lưu giữ những chứng tích văn
hóa vật của một giai đoạn lịch sử đặc biệt và đầy biến động trong lịch sử Việt
Nam. Giai đoạn 1407-1427, nhà Minh ra sức đồng hóa người Việt và ngược lại,
người Việt kiên cường chống trả để bảo vệ nền văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên,
các chứng tích vật chất về thời kỳ này rất khan hiếm và không rõ ràng. Trong khi
đó, thành Xương Giang là dấu tích rõ ràng nhất của giai đoạn lịch sử này. Vì
vậy, toàn bộ các di tích và di vật thuộc thành Xương Giang là chứng tích vật chất
chắc chắn để tìm hiểu lịch sử, văn hóa thời kỳ này. Việc nghiên cứu kỹ và toàn
diện thành Xương Giang góp phần lý giải vì sao trước âm mưu đồng hóa toàn
diện và ác liệt của nhà Minh mà cuối cùng chiến thắng hoàn toàn thuộc về Đại
Việt [67].
Thành Xương Giang hiện nay là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng,
nơi diễn ra nhiều sự kiện văn hóa gắn với đời sống văn hóa tinh thần của nhân
dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang và nhiều địa phương khác. Đồng thời, đây cũng
là nơi để thế hệ hôm nay và mai sau thể hiện sự tôn kính, ghi nhớ công ơn của
các bậc tiền nhân.
Để tưởng nhớ công lao của các anh hùng dân tộc và giáo dục truyền thống
yêu nước của quê hương, năm 2012, UBND tỉnh Bắc Giang đã phê duyệt quyết
định xây dựng ngôi Đền Xương Giang mới trên nền thành cổ Xương Giang.
70
Trung tâm quần thể di tích là công trình Đền Xương Giang có diện tích 1,3ha.
Đến đầu năm 2017, công trình được hoàn thành và đưa vào sử dụng đúng dịp kỷ
niệm 590 năm chiến thắng Xương Giang. Sự hiện hữu của khu di tích hôm nay
chính là biểu tượng sức mạnh, tinh thần và ý chí quyết thắng của dân tộc Việt
Nam, đồng thời, nhắc nhở con cháu đời sau khắc ghi công ơn của Thái tổ Cao
Hoàng đế Lê Lợi cùng các bậc hiền tài, nghĩa sĩ đã chiến đấu anh dũng, hy sinh
trên mảnh đất lịch sử hào hùng.
Để tưởng nhớ công ơn của tiền nhân và kỷ niệm chiến thắng của nghĩa
quân Lam Sơn, hằng năm, tỉnh Bắc Giang tổ chức “Lễ hội Xương Giang” vào
ngày mùng 6-7 tháng Giêng, thu hút đông đảo khách thập phương dự hội. Với
những giá trị đã được thừa nhận trong lịch sử, sự đồng thuận của các cấp, các
ngành và nhân dân, di tích lịch sử địa điểm chiến thắng Xương Giang mãi là
niềm tự hào của nhân dân Bắc Giang nói riêng, dân tộc Việt Nam nói chung
trong lịch sử hào hùng chống giặc ngoại xâm của đất nước. Với ý nghĩa đó, ngày
nay, Đền Xương Giang không những là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân
dân Bắc Giang mà còn là nơi để du khách thập phương, học sinh, sinh viên tham
quan, tìm hiểu về lịch sử thành Xương Giang cũng như giáo dục truyền thống
cho thế hệ trẻ về tinh thần giữ nước của dân tộc.
Tóm lại, thành Xương Giang là một di tích lịch sử - tài nguyên văn hóa
quý hiếm. Càng quý hiếm hơn trong điều kiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa,
tài nguyên văn hóa khảo cổ ngày càng bị cạn kiệt dần. Với ý nghĩa đó, năm
2009, Địa điểm chiến thắng Xương Giang đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Quốc gia. Hiện nay, UBND tỉnh Bắc
Giang đang kết hợp với các nhà khoa học hoàn thiện hồ sơ khoa học để đề nghị
Thủ tướng Chính phủ xem xét, xếp hạng di tích Địa điểm chiến thắng Xương
71
Giang tại thành Xương Giang (thành phố Bắc Giang) là Di tích Quốc gia đặc
biệt.
3.4. Đề xuất về định hướng bảo tồn, phát huy giá trị lịch sử - văn hóa
di tích thành Xương Giang
Thành Xương Giang đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định
xếp hạng Di tích cấp Quốc gia (QĐ Số 293/QĐ-BVHTTDL ngày 22-1-2009) với
14 địa điểm được bảo vệ: Cửa đông bắc (diện tích 739m2), cửa đông (diện tích
116,8m2), cửa bắc (diện tích 831m2), cửa tây nam (diện tích 65,7m2), khu trung
tâm (diện tích 397,8m2), dấu vết thành (diện tích 187,7m2), đoạn sông Xương
Giang chảy qua thành (diện tích 4.031m2), hố khai quật H2 năm 2008 (diện tích
1758,9m2), hố khai quật H3 năm 2008 (diện tích 338m2), Giếng Phủ (diện tích
532m2), Đền Thành (diện tích 60,9m2). Ngoài ra còn 2 điểm ngoài khu vực bảo
vệ: cửa đông nam (diện tích 79,5m2) và cửa tây nam (diện tích 422,4m2). Các
điểm di tích được bảo vệ hiện nằm rải rác ở các vị trí xen kẽ trong khu dân cư
các thôn Đông Giang, Nam Giang, Trại Bắc… ngoài ra còn có một phần diện
tích trường Trung cấp Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Chi cục Bảo vệ thực vật
tỉnh Bắc Giang.
Tuy nhiên, di tích thành Xương Giang vẫn trong tình trạng bị xâm hại do
sự cư trú và canh tác của dân và một số cơ quan Nhà nước vẫn đặt trụ sở làm
việc trong khu vực thành. Các tường thành, các di tích cư trú cổ tiếp tục bị xâm
hại, nhiều nguồn tài liệu, cổ vật quý ở khu vực di tích tiếp tục bị khai thác trái
phép và thất lạc.
Để bảo tồn, phát huy giá trị lịch sử - văn hóa di tích thành Xương Giang,
tác giả luận văn xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị sau:
Trước hết, cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền phổ biến Luật
72
Di sản Văn hóa để mọi người dân đều có trách nhiệm, ý thức tự giác trong việc
bảo vệ giữ gìn di tích.
Tăng cường quản lý Nhà nước trong công tác bảo tồn di tích, kiên quyết
xử lý nghiêm và kịp thời các hành vi xâm hại, vi phạm đến an toàn của di tích và
di tích. Xây dựng Quy chế quản lý bảo vệ, tôn tạo và phát huy giá trị di tích địa
điểm chiến thắng Xương Giang; khẩn trương hoàn chỉnh các hồ sơ liên quan đến
việc quản lý, sử dụng đất của các điểm di tích; tổ chức bàn giao mốc giới tại thực
địa để khoanh vùng bảo vệ các di tích này theo quy định của Luật Di sản văn
hóa. Không cấp phép xây dựng nhà ở, những công trình làm ảnh hưởng tới cảnh
quan di tích.
Việc thu hút khách tham quan là một trong các hình thức quan trọng của
việc quảng bá, giới thiệu và phát huy giá trị của thành Xương Giang và chiến
thắng Xương Giang. Vì vậy, đưa di tích thành Xương Giang vào địa chỉ đỏ du
lịch Bắc Giang là việc làm cần thiết. Thực hiện xây dựng tuyến tham quan Cần
Trạm - Phố Cát - Xương Giang.
Cơ quan quản lý các cấp cần khai thác thế mạnh của các phương tiện
thông tin đại chúng (truyền hình, báo, đài, internet...) để tuyên truyền về vai trò,
giá trị của khu di tích. Kết quả khảo cổ học năm 2008 và 2011-2012 cùng kết
quả khảo cổ học ở di tích thành Xương Giang trước đây và kết quả nghiên cứu ở
các giai đoạn tiếp theo cần được tập hợp lại để xuất bản thành những ấn phẩm về
khu di tích này. Đồng thời, xuất bản những ấn phẩm mang tính chất quảng cáo
về hình ảnh hoặc thông tin đại chúng trong nước và quốc tế về di tích thành
Xương Giang nói riêng, các di tích lịch sử, văn hóa khác nhau của tỉnh Bắc
Giang nói chung.
Xây dựng quy hoạch khảo cổ học dài hạn tiến hành trong một số năm khai
73
quật thăm dò và từng bước khai quật mở rộng để làm rõ mặt bằng chi tiết của
thành Xương Giang, tìm hiểu bố cục của các kiến trúc, đặc điểm kiến trúc, thu
thập tất cả các loại di vật phát lộ trong lòng đất.
Tăng cường điều tra khu vực trong và ngoài thành Xương Giang. Trước
mắt tập trung vào khu vực trung tâm của thành nhằm tìm hiểu các loại hình di
tích khu vực trung tâm, tình trạng bảo tồn của các di tích đó như thế nào? Đánh
giá chức năng và vị trí của các di tích đó trong tổng thể các di tích kiến trúc của
thành Xương Giang.
Trên cơ sở các di tích phát lộ, đánh giá hiện trạng và các giá trị, xây dựng
kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền về kế hoạch trùng tu, tôn tạo và thậm
chí đề xuất phương hướng xây dựng những điểm bảo tồn, bảo tàng di tích tại chỗ
nhằm tăng cường tiềm năng tham quan, du lịch cũng như giáo dục truyền thống.
Trong khi chú ý tìm hiểu lòng đất của nội thành, cũng cần tìm hiểu vị trí
thích hợp đào cắt một đoạn nhỏ của lũy thành để tìm hiểu đặc điểm của lũy thành
Xương Giang và cũng là để trong trường hợp cần thiết có thể góp phần tôn tạo
lũy thành Xương Giang.
Đối với khu vực ngoài thành, cần điều tra kỹ hơn về quy mô, kết cấu của
ngoại hào. Điều tra thêm về địa hình, truyền thuyết và di tích nơi đóng quân của
địch và ta trong chiến dịch tháng 11/1427 nhằm làm rõ thêm diễn biến của trận
đánh.
Thực hiện việc bảo tồn tại chỗ các di tích dã phát lộ để trưng bày theo mô
hình ngoài trời. Tuy nhiên, việc xây dựng mái che bảo quản cũng như làm sao để
trách sự ẩm mốc, mưa gió hủy hoại di tích đang là vấn đề được đặt ra với các di
tích đã thực hiện theo mô hình này ở nước ta. Điều này cần sự nghiên cứu kỹ
lưỡng từ các nhà khoa học để thực hiện một cách hiệu quả.
74
Tiểu kết chương 3
Xương Giang không chỉ là một tòa thành mà là khu di tích khảo cổ vừa đa
dạng về loại hình di tích, vừa phong phú về số lượng di vật, tài liệu, trong đó tiêu
biểu nhất là thành Xương Giang. Đồng thời, kết quả nghiên cứu khảo cổ học đã
cung cấp những tư liệu quan trọng về việc phác thảo hệ thống kiến trúc và chức
năng của những công trình này trong lịch sử.
Di tích là nơi ghi dấu tiêu biểu và sống động nhất hiện còn về cuộc khởi
nghĩa oanh liệt 10 năm chiến thắng quân Minh của dân tộc. Di tích Xương Giang
cũng là khu di tích tiêu biểu lưu giữ những chứng tích văn hóa vật chất của một
giai đoạn lịch sử đầy biến động trong lịch sử Việt Nam. Trong điều kiện công
nghiệp hóa và hiện đại hóa ngày nay, các di tích ngày càng bị mai một hoặc
không còn dấu tích, nhất là các di tích thuộc thời kỳ kháng chiến chống quân
Minh. Di tích thành Xương Giang mặc dù đã bị xâm lấn nhưng nếu quy hoạch
tốt thì vẫn có thể bảo tồn được.
Di tích lịch sử địa điểm chiến thắng Xương Giang tại thành Xương Giang,
xã Xương Giang, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang cần được tu bổ, tôn tạo
một cách hoàn chỉnh về quy mô, không gian cảnh quan - với tư cách là một di
sản lịch sử - văn hoá, sản phẩm du lịch có giá trị phục vụ chiến lược phát triển về
văn hoá, chính trị, du lịch, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của xã
Xương Giang nói riêng và thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang nói chung trong
thời gian tới.
75
KẾT LUẬN
Xương Giang giữ vị trí quan trọng trong lịch sử dân tộc, khu vực này vừa
có đồng bằng, xung quanh có các đồi núi thấp bao bọc, lại gần sông Thương -
tuyến đường thủy quan trọng, đặc biệt từ ngàn xưa con đường thiên lý nối Thăng
Long với miền địa đầu của Tổ quốc chạy qua đây. Vì vậy đây là vùng đất cổ
đồng thời có vai trò quan trọng trong lịch sử dân tộc, đặc biệt là lịch sử chống
xâm lược phương Bắc. Xương Giang là nơi diễn ra những chiến thắng oanh liệt
nhất, có ý nghĩa quyết định nhất đến thắng lợi cuối cùng của cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn đầu thế kỷ XV.
Thành Xương Giang được xây dựng vào năm 1407 khi nhà Minh sang
xâm lược nước ta với âm mưu biến nước ta thành một quận huyện của Trung
Quốc. Đây là ngôi thành kiên cố nhất của giặc án ngữ trên con đường dịch trạm
nối Đông Quan với Quảng Tây (Trung Quốc) và là trị sở của chính quyền đô hộ
tại phủ Lạng Giang lúc bấy giờ. Thành có diện tích khoảng 27 ha, tường thành
được đắp bằng đất, phía ngoài có hào bao bọc. Trong thành gồm nhiều kho đụn,
tòa ngang, dãy dọc, dinh thự, doanh trại, kho lương.
Thành Xương Giang là nơi ghi dấu hai chiến công oanh liệt của quân và
dân ta đầu thế kỷ XV. Đó là trận công thành tháng 9 năm 1427 và trận tiêu diệt
viện binh nhà Minh tháng 11 năm 1427. Chiến thắng Xương Giang là chiến
thắng lớn nhất, có ý nghĩa quyết định, kết thúc 20 năm đô hộ của triều đại phong
kiến nhà Minh trên đất nước ta, mang lại nền độc lập tự do cho dân tộc.
Di tích thành Xương Giang đã được các nhà khảo cổ học tiến hành điều tra
khảo sát nhiều lần, đặc biệt là hai lần khai quật vào năm 2008 và 2011-2012 với
tổng diện tích là 1.154,87m2. Những kết quả khảo cổ học tại di tích thành Xương
76
Giang đã xác nhận sự hiện diện của thành Xương Giang trong lịch sử. Đồng thời
đã phác thảo được quy mô, cấu trúc của thành Xương Giang, bao gồm: thành,
dinh thự, kho lương... Các công trình kiến trúc ở đây phân bố rộng và chủ yếu
xung quanh khu vực Đồi Ngô bao gồm: Giếng Phủ, Trường Trung cấp Văn hoá
Nghệ thuật và những khu vực sát thành và trên mặt thành về phía đông.
Những bằng chứng khảo cổ học đã khẳng định xung quanh khu vực Giếng
Phủ là những công trình kiến trúc dinh thự của tầng lớp quan lại cao cấp của
quân đội nhà Minh. Tuy nhiên, không phải tất cả khu vực xung quanh đỉnh Đồi
Ngô đều có các công trình kiến trúc hay những công trình phục vụ khác mà việc
xây dựng các công trình kiến trúc trong thành ngoài việc thuận tiện cho sinh
hoạt, còn phù hợp với việc tác chiến. Nếu như khu vực Giếng Phủ là nơi ở của
hàng ngũ quan lại cao cấp trong quân đội nhà Minh thì khu vực hố khai quật H3
(năm 2008) ở Trung tâm Khí tượng là nơi cất giữ lương thực của quân đội Minh.
Khu vực gần cửa thành phía bắc cũng như khu vực rìa ngoài Đồi Ngô về phía tây
nam không có dấu tích về công trình kiến trúc. Nơi đây chỉ có dấu vết về sinh
hoạt, dấu vết của chiến tranh để lại như những đống đổ nát lẫn than tro và tàn
tích thức ăn...
Số lượng di vật phát hiện được qua hai cuộc khai quật khá lớn, mà nhiều
nhất trong số đó là các hiện vật thuộc nhóm vật liệu kiến trúc có niên đại thế kỷ
XV. Trong đó có những viên gạch ốp được trang trí tinh xảo, có kích thước lớn,
bên cạnh đó là những viên ngói âm, ngói dương, ngói ống mà phần diềm ngói
cũng như đầu ngói cũng được trang trí hoa văn cách điệu phong phú. Cùng với
đó, các nhà khảo cổ học cũng đã làm xuất lộ hệ thống trụ móng kiến trúc có
bước gian rộng từ 4,1m - 4,9m.
Cùng với tư liệu lịch sử, kết quả điều tra khảo sát và hai lần khai quật đã
77
phác họa được quy mô, cấu trúc của thành Xương Giang. Thông qua sưu tập
hiện vật xây dựng phát hiện được: gạch, ngói, đồ gốm tráng men trong di tích lẫn
đồ gốm tráng men trong trụ móng kiến trúc và đồ sành đã chỉ ra đây là một công
trình kiến trúc của nhà Minh (Trung Quốc) có niên đại thế kỷ XV.
Số lượng đồ gia dụng như: đồ gốm men, đồ sành, đồ đất nung, gồm các
loại hình bát, đĩa, bình, lon, vò, chậu, nồi... phát hiện tại đây có niên đại từ thế kỷ
VII - IX đến thế kỷ XVIII - XIX, trong đó chủ yếu là những mảnh đồ gốm sứ
sành có niên đại vào giai đoạn thế kỷ XIII - XVI. Ngoài ra, còn có một số hiện
vật bằng kim loại, là những chiếc đinh sắt có một đầu nhọn đã được sử dụng
trong các công trình kiến trúc ở đây. Qua sưu tập hiện vật gia dụng phát hiện
được, có thể thấy Xương Giang là khu cư trú từ trước khi quân Minh tiến sang và
xây thành tại đây. Giai đoạn thế kỷ XIII - XVI là giai đoạn mà vùng đất Xương
Giang tập chung dân cư đông đúc nhất.
Mặc dù được xác định là ngôi thành do quân Minh xây vào đầu thế kỷ
XV, nhưng qua các loại hình hiện vật như đồ gốm men Việt Nam và đồ sành có
mặt trong di tích và chiếm số lượng lớn đã góp phần giải thích thêm về cuộc
sống của những chủ nhân công trình kiến trúc này, họ vẫn sử dụng những đồ
dùng gia dụng của người Việt trong cuộc sống hàng ngày của mình.
Di tích lịch sử địa điểm chiến thắng Xương Giang tại thành Xương Giang,
phường Xương Giang, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang đã được xếp hạng
Di tích cấp Quốc gia, nhưng hiện nay thành Xương Giang chỉ còn là phế tích và
vẫn tiếp tục bị xâm hại. Hy vọng với Luật Di sản văn hóa cùng đường lối, chính
sách đúng đắn của các ban, ngành, đoàn thể từ trung ương tới địa phương, di tích
thành Xương Giang sẽ là một điểm sáng trong việc bảo tồn bài bản, khoa học.
78
Đồng thời, phát huy tối đa các giá trị lịch sử và văn hóa tương xứng với tầm vóc
của chiến thắng Xương Giang 1427.
Do những khó khăn trong quá trình thu thập tài liệu, thông tin; trình độ
chuyên môn chưa sâu, chắc chắn luận văn còn nhiều hạn chế và khiếm khuyết.
Rất mong sự thông cảm và sự đóng góp ý kiến của các nhà nghiên cứu, thầy cô
và các bạn đồng nghiệp.
79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan An, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, Huỳnh Lứa, Nguyễn Khắc Thuần,
Tôn Nữ Quỳnh Trân (2006), Lịch sử Việt Nam tập 3 (từ năm 938 đến năm
1427), Nxb Trẻ, Tp. HCM
2. Đào Duy Anh (1964), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Khoa học, Hà
Nội
3. Đào Duy Anh (2002), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội
4. Phương Anh, Thanh Hưng (1976), Hà Bắc ngàn năm văn hiến, tập 2, Ty
văn hóa Hà Bắc xuất bản
5. Ban quản lý di tích tỉnh Bắc Giang (2016), Di tích Bắc Giang, tập 3, Nxb
Hà Nội
6. Đặng Xuân Bảng (2000), Việt sử cương mục tiết yếu, (Hoàng Văn Lâu
dịch và chú giải), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
7. Nguyễn Lương Bích (1973), Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội
8. Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Sử học, Hà
Nội
9. Phan Huy Chú (1960), “Nhân vật chí” trong Lịch triều hiến chương loại
chí, Nxb Sử học, Hà Nội, tr. 218-524
10. Đáp Nguyễn Văn Đáp (2017), “Di tích thành Xương Giang (Bắc Giang)
qua tư liệu khai quật khảo cổ học”, Tạp chí KCH số 4/2017, tr. 43-59
11. Phan Đại Doãn (1974), “Chiến thắng Cần Trạm - Phố Cát - Xương Giang
năm 1427”, Hà Bắc ngàn năm văn hiến, tập III, Ty Văn hóa Hà Bắc xuất
80
bản, tr. 144-153
12. Phan Đại Doãn (1986), “Nhân dân Bắc Giang - Lạng Giang kháng chiến
chống Minh - Chiến thắng Xương Giang (3-11-1427)”, Lịch sử Hà Bắc,
tập I, Hội đồng Lịch sử Hà Bắc xuất bản, tr. 161-214
13. Lê Quý Đôn (1968), Vân đài loại ngữ, Nxb Sử học, Hà Nội
14. Lê Quý Đôn (1978), Đại Việt thông sử, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
15. Trần Hồng Đức (2009), Lược sử Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà
Nội
16. Mai Hanh, Nguyễn Đổng Chi, Lê Trọng Khánh (1957), Nguyễn Trãi, nhà
văn học và chính trị thiên tài, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội
17. Trịnh Hoàng Hiệp (2008), Báo cáo kết quả điều tra, thám sát, khai quật
thành cổ Xương Giang, xã Xương Giang, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc
Giang (tháng 6 năm 2008), Thư viện Viện Khảo cổ học
18. Trịnh Hoàng Hiệp (2012), Báo cáo kết quả điều tra, thám sát, khai quật
thành cổ Xương Giang, xã Xương Giang, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc
Giang (tháng 9 năm 2012), Thư viện Viện Khảo cổ học
19. Trịnh Hoàng Hiệp, Hà Văn Phùng, Trần Văn Lạng, Nguyễn Huy Hạnh,
Khúc Mạnh Hà, Lại Đình Mai (2008), “Kết quả điều tra khảo cổ học tại
thành Xương Giang (Bắc Giang)”, NPHMVKCH năm 2008, tr. 344-346
20. Hiệp Trịnh Hoàng Hiệp (2009), Thành Xương Giang (Bắc Giang) qua kết
quả điều tra, thám sát và khai quật năm 2008, Hội thảo khoa học: Bảo tồn
và Phát huy các giá trị di sản văn hóa Chiến thắng Xương Giang năm
1427, Nxb Thế giới, tr. 131-160
21. Hoàng Thị Hoa (2009), “Dẫn luận: Cho hội thảo khoa học Bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hoá về chiến thắng Xương Giang”, Hội thảo
81
khoa học: Bảo tồn và Phát huy các giá trị di sản văn hóa Chiến thắng
Xương Giang năm 1427, Nxb Thế giới, tr. 3-8
22. Hội đồng Lịch sử Hà Bắc (1986), Lịch sử Hà Bắc, tập I, Hội đồng Lịch sử
Hà Bắc xuất bản
23. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (2011),
Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 4, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội
24. Lại Văn Hùng, Đoàn Ánh Dương (2018), Nguyễn Trãi cuộc đời và tác
phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội
25. Nguyễn Đức Hùng, Trần Thị Vinh (2001), Việt Nam những sự kiện lịch
sử (từ thời thủy đến 1858), Nxb Giáo dục, Hà Nội
26. Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vỹ (2003), Nhìn lại Lịch sử, Nxb
Văn hóa Thông tin, Hà Nội
27. Nguyễn Thế Khải (2009), “Bảo tồn tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích
lịch sử thành cổ Xương Giang”, Hội thảo khoa học: Bảo tồn và Phát huy
các giá trị di sản văn hóa Chiến thắng Xương Giang năm 1427, Nxb Thế
giới, tr. 205-216
28. Trúc Khê, Lê Văn Triện (1945), Nguyễn Trãi anh hùng dân tộc, Nhà in
Lê Cường, Hà Nội
29. Lê Thành Khôi (2018), Lịch Sử Việt Nam Từ Nguồn Gốc Đến Giữa Thế
Kỷ XX, Nxb Thế giới, Tp. HCM
30. Trần Trọng Kim (1954), Việt Nam Sử lược, Nxb Tân Việt, Hà Nội
31. Phan Huy Lê (1959), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập II, Nxb
Giáo dục, Hà Nội
32. Phan Huy Lê (2018), Lịch sử và Văn hóa Việt Nam, Tiếp cận bộ phận,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
82
33. Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá
Chi (2019), Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc, Nxb
Hồng Đức
34. Phan Huy Lê, Phạm Đại Doãn (1965), Khởi nghĩa Lam Sơn và phong
trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XV, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
35. Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn (1977), Khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427),
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
36. Phan Huy Lê (chủ biên) (2009), Bách khoa thư Hà Nội, tập 1, Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội
37. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2
(Hoàng Văn Lâu dịch, Hà Văn Tấn hiệu đính), Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội
38. Ngô Sỹ Liên, Nguyễn Huy Oánh (2004), Quốc sử toản yếu, Nxb Thuận
Hóa, Huế
39. Trần Huy Liệu (1962), Nguyễn Trãi, một nhân vật vĩ đại trong lịch sử dân
tộc Việt Nam, Nxb Sử học, Hà Nội
40. Trần Huy Liệu (1966), Nguyễn Trãi: Cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Khoa
học, Hà Nội
41. Trần Đình Luyện (2009), “Khảo cổ học di tích Xương Giang”, Hội thảo
khoa học: Bảo tồn và Phát huy các giá trị di sản văn hóa Chiến thắng
Xương Giang năm 1427, Nxb Thế giới, tr. 169-178
42. Nhật Nam (1945), “Nhà Minh đặt cuộc đô hộ và đắp thành Xương Giang
làm thế ỷ dốc”, Tri Tân số 65, tháng 9-1954, tr. 10-11
43. Lê Viết Nga (2009), “Bảo tồn và phát huy giá trị một số tư liệu và bản đồ
cổ liên quan đến chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang”, Hội thảo khoa
83
học: Bảo tồn và Phát huy các giá trị di sản văn hóa Chiến thắng Xương
Giang năm 1427”, Nxb Thế giới, tr. 217-232
44. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên) (2003), Tiến trình Lịch sử Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Huế
45. Đỗ Văn Ninh (1983), Thành cổ Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
46. Lương Ninh (1991), Lịch sử Việt Nam, Nxb Đại học và Trung học chuyên
nghiệp
47. Lương Ninh (2000), Lịch sử Việt Nam giản yếu, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội
48. Hà Văn Phùng (2008), Di sản văn hóa Bắc Giang, Khảo cổ học Bắc
Giang từ tiền sử đến lịch sử, Nxb Bảo tàng tỉnh Bắc Giang
49. Phạm Ngọc Phụng (1975), Tổ tiên ta đánh giặc, Mặt trận giải phóng Tây
Ninh xuất bản
50. Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn (1993), Lịch sử Việt Nam từ nguồn
gốc đến 1858, tập 1, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh xuất bản
51. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, Bản dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội
52. Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam nhất thống chí, tập 4 (Phạm
Trọng Điềm dịch), Nxb Thuận Hóa
53. Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh (1999), Đại
cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội
54. Trần Xuân Sinh (2004), Việt Sử kỷ yếu, Nxb Hải Phòng
55. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch - Viện Sử học; UBND thị xã Bắc Giang
(1997), Báo cáo Hội thảo khoa học kỷ niệm 570 năm Chiến thắng Xương
Giang, Tư liệu tại Bảo tàng tỉnh Bắc Giang
84
56. Phạm Văn Sơn (1983), Việt sử toàn thư (từ thượng cổ đến hiện đại), Nxb
N/A
57. Ngô Thời Sỹ (1960), Việt sử tiêu án (Hội Việt Nam Liên Lạc Văn Hóa Á
Châu dịch), Nxb Văn hóa Á châu
58. Lý Tử Tấn (2002), “Phú Xương Giang” (Trịnh Đình Dư dịch), Phú Việt
Nam cổ và kim (Phong Châu - Nguyễn Văn Phú giới thiệu), Nxb Văn hóa
- Thông tin, Hà Nội, tr. 105-108
59. Nguyễn Văn Tân (1998), Từ điển địa danh Lịch sử - Văn hóa Việt Nam,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
60. Hoàng Minh Thảo (1972), Tìm hiểu về Tổ tiên ta đánh giặc, Nxb Quân
đội nhân dân
61. Đinh Khắc Thuân (2009), “Trận Xương Giang qua bộ sử thời Minh Trung
Quốc (Minh Thực Lục)”, Hội thảo khoa học: Bảo tồn và Phát huy các giá
trị di sản văn hóa Chiến thắng Xương Giang năm 1427, Nxb Thế giới, tr.
59-62
62. Nguyễn Khắc Thuần (1997), Danh tướng Việt Nam, tập 2: Danh tướng
Lam Sơn, Nxb Giáo dục
63. Nguyễn Khắc Thuần (2000), Việt sử giai thoại, tập 5: 62 giai thoại thời
Lê Sơ, Nxb Giáo dục
64. Trần Mạnh Thường (2005), Việt Nam Văn hóa và Du lịch, Nxb Thông
tấn.
65. Đặng Việt Thủy (2018), 10 trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam,
Nxb Hồng Đức
66. Nguyễn Kim Thủy (2009), “Di cốt người cổ thành Xương Giang (Bắc
Giang)”, NPHMVKCH năm 2008, tr. 346-348
85
67. Tống Trung Tín (2009), “Vài nét về giá trị của di tích thành Xương
Giang”, Hội thảo khoa học Bảo tồn và Phát huy các giá trị di sản văn hóa
Chiến thắng Xương Giang năm 1427, Nxb Thế giới, tr. 125-129
68. Tống Trung Tín, Trịnh Hoàng Hiệp, Nguyễn Thị Hảo, Nguyễn Văn
Luyện, Khúc Mạnh Hà, Lưu Xuân Thuyết, Nguyễn Văn Nghiên, Nguyễn
Quyết Chiến (2013), “Kết quả khai quật di tích thành Xương Giang (Bắc
Giang)”, NPHMVKCH năm 2012, tr. 344-346
69. Nguyễn Hữu Toàn (2010), “Mấy lưu ý về di tích Chiến thắng Xương
Giang”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 4 năm 2010, tr. 50-53
70. Nguyễn Trãi (1956), Lam sơn thực lục - Cuốn thứ hai (Mạc Bảo Thần
dịch), Nxb Tân Việt, Hà Nội
71. Nguyễn Trãi (1976), Quân trung từ mệnh tập, Nxb Sử học, Hà Nội
72. Ngô Văn Trụ (2011), Lễ Hội Bắc Giang, Nxb Văn hóa dân tộc
73. Ngô Văn Trụ, Đinh Xuân Lâm (2008), Di sản văn hóa Bắc Giang, Biên
niên sự kiện và tư liệu lịch sử, tập 5, Nxb Bảo tàng tỉnh Bắc Giang
74. Nguyễn Anh Tuấn (2013), “Di cốt động vật ở di chỉ thành Xương Giang
khai quật năm 2011”, NPHMVKCH năm 2012, tr. 719-720
75. Nguyễn Hữu Tự (1990), “Một số tư liệu có liên quan tới Pham Văn Liêu
và cuộc kháng chiến chống quân Minh đầu thế kỷ XV”, NPHMVKCH
năm 1990, tr. 151-154
76. Nguyễn Minh Tường (2017), Nguyễn Trãi anh hùng giải phóng dân tộc
danh nhân văn hóa thế giới, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Tp. HCM
77. Ty Văn hoá - Thông tin - Thư viện Hà Bắc (1982), Địa chí Hà Bắc, Ty
Văn hóa Hà Bắc xuất bản
78. Ty Văn hóa - Thông tin Hà Bắc (1976), Kỷ yếu Hội nghị truyền thống Hà
86
Bắc ngàn năm văn hiến, tập 3 - Đất nước con người, Ty Văn hóa Hà Bắc
xuất bản
79. Ty văn hóa - Thông tin Hà Bắc (1974), Hà Bắc ngàn năm văn hiến, tập 3,
Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản
80. UBND thành phố Bắc Giang (2016), Đền Xương Giang, Nhà in Báo Bắc
Giang
81. UBND thành phố Bắc Giang (2009), Hội thảo khoa học: Bảo tồn và Phát
huy các giá trị di sản văn hóa Chiến thắng Xương Giang năm 1427, Nxb
Thế giới
82. UBND tỉnh Bắc Giang (2006): Địa chí Bắc Giang, tập 2, Lịch sử và Văn
hóa, Nxb Sở Văn hóa Thông tin Bắc Giang
83. Đinh Công Vĩ (2003), “Vụ thảm án Trần Nguyên Hãn”, Nhìn lại lịch sử,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr 991-1063
84. Viện sử học (2017), Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội
85. Viện sử học (1969), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
86. Lê Trung Vũ, Lê Hồng Lý (2005), Lễ hội Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông
tin, tr. 556-561
87
PHỤ LỤC
BẢNG THỐNG KÊ CÁC LOẠI HÌNH HIỆN VẬT
DI TÍCH THÀNH XƯƠNG GIANG
88
Phụ lục 1. Bảng tổng hợp phân loại và số lượng di cốt động vật,
Hố khai quật
Vị trí
11.XG.H2.LM
11.XG.H2.L3.cụm 2
11.XG.H3.LM
Loài
Bộ
guốc
chẵn
-
Artiodactyla
Họ trâu bò - Bovidae
1
Bò - Bos sp.
102
Họ lợn - Suidae
Lợn - Sus scrofa
1
Bộ
guốc
lẻ
-
Perissodactyla
Họ ngựa - Equudae
Ngựa - Equus sp.
1
Bộ ăn thịt - Carnivora
Chó? - Canis familiaris
1
khai quật năm 2011-2012
[73, tr 720]
Phụ lục 2. Bảng thống kê thành phần loài và vị trí giải phẫu di cốt
Ký hiệu
Loài
Vị trí giải phẫu Hiện trạng
Số lượng
11.XG.H2.LM.X35
Trâu/bò
Răng hàm trên
Mảnh
1
11.XG.H2.L3.cụm2.X1
Bò
Đùi
Đầu gần
1
11.XG.H2.L3.cụm2.X2
Bò
Đùi
Đầu gần
1
11.XG.H2.L3.cụm2.X3
Bò
Đùi
Đầu gần
1
11.XG.H2.L3.cụm2.X4
Bò
Đùi
Đầu gần
1
động vật, khai quật năm 2011 - 2012
89
11.XG.H2.L3.cụm2.X5
Đầu xa
Đùi
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X6
Đầu xa
Đùi
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X7
Đầu gần
Đùi
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X8
Đầu xa
Đùi
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X9
Đầu xa
Đùi
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X10
Đầu xa
Cánh tay
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X11
Đầu xa
Cánh tay
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X12
Đầu gần
Cánh tay
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X13
Đầu gần
Cánh tay
7
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X14
Đầu xa
Cánh tay
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X15
Đầu xa
Cánh tay
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X16
Đầu xa
Cánh tay
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X17
Đầu xa
Cánh tay
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X18
Mảnh
Bả vai
10
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X19
Bánh chè
Nguyên
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X20
Mảnh
Gót
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X21
Mảnh
Sên
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X22
Đầu gần
Bàn tay
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X23
Nguyên
Móng
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X24
Mảnh
Sừng
15
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X25
Nguyên
Sừng
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X26
Đốt sống
Mảnh
4
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X27
Đầu gần
Chày
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X28
Mảnh
Sọ
9
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X29
Mảnh thân
Đùi
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X30
Cánh tay
Mảnh thân
1
Bò
11.XG.H2.L3.cụm2.X31
Mảnh
Móng
1
Ngựa
11.XG.H2.L3.cụm2.X32
Mảnh
chậu
2
Chó?
90
11.XG.H2.L3.cụm2.X33
Bò
Đùi
Mảnh
2
11.XG.H2.L3.cụm2.X34
Bò
sườn
Mảnh
30
11.XG.H3.LM.X36
Lợn
Chày
Thân xương
1
[73, tr. 720]
Phụ lục 3. Bảng thống kê kích thước răng hàm trên bên trái Mộ 3,
Kích thước
M2
M3
Đường kính ngoài - trong (BL)
10.2
10.1
Đường kính gần - xa (MD)
9.9
9.0
CS hình dáng (RI)
100.98
90.9
CS thân răng (CI)
103.0
112
Hệ số thân răng (CM)
10.0
9.55
khai quật năm 2011 - 2012
[66, tr. 348]
Phụ lục 4. Kích thước răng hàm dưới bên trái Mộ 3,
Kích thước
P2
M1
M2
M3
P1
Đường kính ngoài - trong
7.6
8.7
10.1
9.7
9.8
(BL)
Đường kính gần - xa
6.0
6.9
10.2
9.5
10.3
(MD)
CS hình dáng (RI)
45.6
6.0
103.0
92.15
100.94
CS thân răng (CI)
126
126
99.0
102
95.1
Hệ số thân răng (CM)
6.8
7.8
10.1
9.6
10.0
khai quật năm 2011-2012
[66, tr. 348]
91
Loại hình
Bát
Đĩa
Cốc
Bình
Loại
1
1
1
7
14
2
1
4
6
3
2
9
4
5
10
5
5
7
6
2
4
7
5
8
7
9
8
10
6
11
7
12
5
13
11
14
6
105
Tổng
25
1
2
Phụ lục 5. Bảng thống kê gốm men Việt Nam thế kỷ XIII-XIV
Loại hình
Bát
Đĩa
Lọ
Bình
Tước
Chân đế bát
Loại
hương
1
5
9
2
3
1
4
2
12
7
5
1
3
3
3
4
2
3
2
1
2
4
7
5
1
3
3
Phụ lục 6. Bảng thống kê gốm men Việt Nam thế kỷ XV
92
5
12
4
2
6
15
9
2
7
10
3
8
3
6
9
6
10
11
11
8
12
5
13
4
14
17
15
6
16
9
17
12
18
5
19
8
20
4
21
7
12
Tổng
170
45
15
9
5
Loại hình
Bát
Đĩa
Loại
1
3
6
2
6
12
3
2
9
4
3
7
5
5
14
Phụ lục 7. Bảng thống kê gốm men Việt Nam thế kỷ XV-XVI
93
6
10
1
7
5
9
8
10
12
11
7
12
13
13
6
14
11
Tổng
120
20
Loại hình
Bát
Bình
Vò
Loại
1
3
1
2
2
5
1
1
3
3
4
1
2
Tổng
12
3
Phụ lục 8. Bảng thống kê gốm men Trung Quốc thế kỷ VII-IX
Loại hình
Bát
Đĩa
Loại
1
4
4
2
11
2
3
7
2
Phụ lục 9. Bảng thống kê gốm men Trung Quốc thế kỷ XIII-XIV
94
3
4
2
4
5
7
6
9
7
6
8
10
9
8
10
3
11
2
12
9
Tổng
78
15
Loại hình
Bát
Đĩa
Cốc
Loại
1
1
1
1
1
2
1
3
3
1
2
4
2
1
2
Tổng
9
7
Phụ lục 10. Bảng thống kê gốm men Trung Quốc thế kỷ XV
Loại hình
Lon
Nồi
Vò
Lọ
Bát
Loại
1
47
16
11
3
5
2
23
9
7
4
8
Phụ lục 11. Bảng thống kê đồ sành thế kỷ XIII-XIV
95
2
7
3
19
5
25
3
4
4
56
9
33
3
5
41
4
8
6
63
12
20
7
18
8
7
8
49
11
9
51
19
10
14
6
11
58
25
12
9
8
13
29
4
14
34
32
15
63
18
16
42
9
17
37
18
55
19
12
20
27
21
9
22
50
23
31
24
49
25
16
26
37
27
15
Tổng
950
250
56
12
27
96
Loại hình
Lon
Chậu
Vò
Vại
Liễn
Bát
Nắp
Loại
12
2
7
1
22
6
11
4
9
5
10
2
21
3
4
2
5
1
5
3
7
5
8
5
2
3
8
4
37
2
15
1
7
5
14
4
9
4
10
6
29
5
2
7
9
16
25
8
15
13
11
9
12
6
5
10
9
14
20
11
5
5
2
12
16
12
6
13
11
8
11
14
24
10
7
15
27
16
17
17
8
18
14
19
9
20
4
21
15
22
7
23
19
Tổng
351
20
136
16
11
134
30
Phụ lục 12. Bảng thống kê đồ sành thế kỷ XV-XVI
97
PHỤ LỤC
BẢN VẼ HIỆN TRƯỜNG
98
Phụ lục 13. Mặt bằng hố H2 khai quật năm 2008 (nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp) 99
Phụ lục 14. Mặt bằng hố H3 khai quật năm 2008 (nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
100
Phụ lục 15. Mặt cắt vách bắc hố khai quật H3 năm 2008
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
101
Phụ lục 16. Mặt bằng hố H1L1 khai quật năm 2011-2012 (nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
102
Phụ lục 17. Vách nam hố H1 khai quật năm 2011-2-12 (nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
103
PHỤ LỤC
BẢN ĐỒ
104
Phụ lục 18. Bản đồ hành chính tỉnh Bắc Giang
(nguồn: http://bandohanhchinh.com/nhung-luu-y-khi-xem-ban-do-bac-giang/ )
105
Phụ lục 19. Sơ đồ toàn bộ diễn biến chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang
(nguồn: 35)
106
Phụ lục 20. Sơ đồ diễn biến trận Xương Giang
(nguồn: 35)
107
Phụ lục 21. Sơ đồ thành Xương Giang và vị trí các hố điều tra,
khai quật năm 2008
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
108
Phụ lục 22. Vị trí các hố khai quật năm 2011-2012
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
109
Phụ lục 23. Sơ đồ vị trí các hố khai quật khảo cổ học
di tích thành Xương Giang (giai đoạn 1)
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
110
PHỤ LỤC
BẢN ẢNH HIỆN TRƯỜNG
VÀ CÁC LOẠI HÌNH DI TÍCH
111
11: Hố khai quật H1 (2008)
h2. Mặt bằng hố H2 và các loại hình di tích hố H2 (2008)
Phụ lục 24. Mặt bằng và vị trí các hố khai quật
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
112
h1. Mặt bằng hố khai quật H3 (2008)
h2. Mặt bằng hố H1 (2011-2012)
Phụ lục 25. Mặt bằng và vị trí các hố khai quật
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
113
h1. Vị trí hố H5, H6 (2011-2012)
h2. Vị trí hố H7, H8, H9 (2011-2012)
Phụ lục 26. Mặt bằng và vị trí các hố khai quật
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
114
h1. Địa tầng vách tây hố H2 (2008)
h2. Địa tầng vách đông hố H3 (2008)
Phụ lục 27. Địa tầng hố khai quật
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
115
h1. Địa tầng vách nam hố H2 (2011-2012)
h2. Địa tầng vách tây hố H8 (2011-2012)
Phụ lục 28. Địa tầng hố khai quật
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
116
h1. Mặt bằng lớp 2 và các loại hình di tíchhố H2 (2008)
h2. Vết tích kiến trúc thứ nhất h3. Vết tích kiến trúc thứ 2 và thứ 3
hố H2 (2008) hố H2 (2008)
Phụ lục 29. Di tích kiến trúc
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
117
h2. Hàng trụ móng kiến trúc thứ hai h1. Hàng trụ móng kiến trúc thứ nhất
hố H2 (2008) hố H2 (2008)
h4. Mô hình giả định về trụ móng kiến
trúc hố H2 (2008) h3. Hàng trụ móng kiến trúc thứ ba
hố H2 (2008)
Phụ lục 30. Di tích kiến trúc
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
118
h1. Mặt bằng, khoảng cách trụ móng
h2. Trụ móng kiến trúc theo tài liệu kiến trúc Trung Quốc (thời Minh, Thanh)
Phụ lục 31. Di tích kiến trúc
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
119
h1. Mặt bằng hố khai quật H3 (2008)
h3. Vết tích gạo cháy hố H3 (2008) h2. Vết tích ken dày gạch, ngói và gạo
cháy
Phụ lục 32. Di tích ken dày gạch ngói và gạo cháy
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
120
h2. Hố đất đen 2, hố H2 (2011-2012) h1. Hố đất đen 1, hố H2 (2011-2012)
h4. Hố đất đen 5, hố H4 (2011-2012) h3. Hố đất đen 3, hố H2 (2011-2012)
h6. Di vật trong hố H2 (2011-2012) h5. Hố đất đen 6, hố H4 (2011-2012)
Phụ lục 33. Di tích hố đất đen
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
121
h1. Di cốt động vật trong hố H2 (2011-2012)
h3. Mảnh móng chân ngựa h2. Mảnh sừng bò
Phụ lục 34: Di cốt động vật phát hiện tại di tích thành Xương Giang
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
122
h1. Mộ 1 hố H2 (2008) h2. Mộ 2 hố H2 (2008)
h3. Mộ 3 hố H2 (2008)
Phụ lục 35. Di tích mộ táng
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
123
PHỤ LỤC
BẢN ẢNH - BẢN VẼ HIỆN VẬT
124
h1. Gạch ốp loại 1 Giếng Phủ
h2. Gạch ốp loại 2 Giếng Phủ
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
Phụ lục 36. Ảnh - Bản vẽ vật liệu xây dựng Giếng Phủ
125
h1. Gạch ốp loại 3 Giếng Phủ
h2. Gạch lát nền Giếng Phủ
Phụ lục 37. Ảnh - Bản vẽ vật liệu xây dựng Giếng Phủ
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
126
h1. Gạch bìa
h2. Gạch lát nền
Phụ lục 38. Ảnh - Bản vẽ hiện vật vật liệu xây dựng
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
127
h7. Gạch thỏi h2. Gạch vồ
h3. Gạch ốp trang trí h4. Đầu ngói ống trang trí
h5. Ngói bò
Phụ lục 39. Ảnh - Bản vẽ hiện vật vật liệu xây dựng
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
128
h1. Ngói âm dương Giếng Phủ
h2. Diềm ngói âm Giếng Phủ
Phụ lục 40. Ảnh - Bản vẽ vật liệu xây dựng Giếng Phủ
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
129
A11. Ngói âm dương
h1. Ngói âm dương
h2. Ngói mũi vát nhọn
Phụ lục 41. Ảnh - Bản vẽ hiện vật vật liệu xây dựng
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
130
h1. Ngói âm và diềm trang trí ngói âm
h2. Diềm trang trí ngói dương
Phụ lục 42. Ảnh - Bản vẽ hiện vật vật liệu xây dựng
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
131
h1. Bát loại 1 thế kỷ XIII-XIV
h2. Bát loại 2 thế kỷ XIII-XIV
Phụ lục 43. Ảnh - Bản vẽ gốm men Việt Nam
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
132
h2. Đĩa loại 2 thế kỷ XIII-XIV
h1. Bát loại 11 thế kỷ XIII-XIV
h3. Cốc thế kỷ XIII-XIV
Phụ lục 44. Ảnh - Bản vẽ gốm men Việt Nam
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
133
h1. Đế bình thế kỷ XIII-XIV
h2. Bát loại 1 thế kỷ XV
h3. Bát loại 2 thế kỷ XV
Phụ lục 45. Ảnh - Bản vẽ gốm men Việt Nam
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
134
h1. Bát loại 9 thế kỷ XV
h2. Đĩa loại 1 thế kỷ XV
h3. Đế lọ loại 1 thế kỷ XV
Phụ lục 46. Ảnh - Bản vẽ gốm men Việt Nam
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
135
h1. Đế lọ loại 2 thế kỷ XV
h2. Chân đế tước thế kỷ XV
h3. Chân đế bát hương thế kỷ XV
Phụ lục 47. Ảnh - Bản vẽ gốm men Việt Nam
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
136
h1. Bát loại 1 tk XV-XVI h2. Bát loại 2 tk XV-XVI
h3. Đế bát loại 7 tk XV-XVI h4. Đế bát loại 9 tk XV-XVI
A22. Đĩa loại 4 tk XV-XVI h4. Miệng đĩa loại 1 tk XV-XVI
Phụ lục 48. Ảnh gốm men Việt Nam
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
137
h1. Đế bát loại 1 tk XVII-XVIII h2. Đế bát loại 2 tk XVII-XVIII
h3. Đế bát loại 5 tk XVII-XVIII h4. Đế bát tk XVIII-XIX
Phụ lục 49. Ảnh gốm men Việt Nam
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
138
h1. Đế bát loại 1 thế kỷ VII-IX
h2. Đế bát Trung Quốc loại 2 thế kỷ VII-IX
Phụ lục 50. Ảnh - Bản vẽ gốm men Trung Quốc
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
139
h1. Miệng bình thế kỷ VII-IX
h2. Miệng vò loại 2 thế kỷ VII-IX
h4. Đế bát loại 3 tk XIII-XIV h5. Đế bát loại 4 tk XIII-XIV
Phụ lục 51. Ảnh - Bản vẽ gốm men Trung Quốc
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
140
h1. Đế bát loại 4 tk XIII-XIV
h3. Đĩa loại 2 tk XIII-XIV h2. Đế đĩa loại 1 tk XIII-XIV
h4. Miệng bát loại 2 tk XV
Phụ lục 52. Ảnh - Bản vẽ gốm men Trung Quốc
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
141
h1. Đế bát loại 4 tk XV h2. Bát loại 15 tk XV
h3 .Đĩa loại 3 thế kỷ XV
08.TXGH2L1: 19
h4 .Thân cốc chân cao Trung Quốc tthế kỷ XV
Phụ lục 53. Ảnh - Bản vẽ gốm men Trung Quốc
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
142
h1 .Miệng lon sành loại 1 thế kỷ XI-XIII
h2 .Nồi sành thế kỷ XI-XIII
h3. Lon loại 1 thế kỷ XIII-XIV
Phụ lục 54. Ảnh - Bản vẽ đồ sành
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
143
h1. Miệng lon loại 2 thế kỷ XIII-XIV
h2. Lon loại 10 thế kỷ XIII-XIV
h3. Lon loại 14 thế kỷ XIII-XIV
Phụ lục 55. Ảnh - Bản vẽ đồ sành
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
144
h1. Miệng nồi loại 1 thế kỷ XIII-XIV
h3. Miệng nồi loại 5 tk XIII-XIV
h2. Miệng nồi sành loại 2 tk XIII-XIV
h4. Miệng vò loại 2 thế kỷ XIII-XIV
Phụ lục 56. Ảnh - Bản vẽ đồ sành
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
145
h1. Lọ loại 1 tk XIII-XIV h2. Lọ sành loại 2 tk XIII-XIV
h3. Bát sành loại 1 tk XIII-XIV
h4. Đế bát sành loại 2 thế kỷ XIII-XIV
Phụ lục 57. Ảnh - Bản vẽ đồ sành
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
146
h1. Lon sành loại 2 thế kỷ XV-XVI
h2. Miệng lon sành loại 4 thế kỷ XV-XVI
h3. Miệng lon sành loại 5 thế kỷ XV-XVI
Phụ lục 58. Ảnh - Bản vẽ đồ sành
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
147
h1. Miệng vò loại 1 thế kỷ XV-XVI
h2. Miệng vò loại 2 thế kỷ XV-XVI
h3. Miệng vò loại 4 thế kỷ XV-XVI
Phụ lục 59. Ảnh - Bản vẽ đồ sành
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
148
h1. Bát loại 1 thế kỷ XV-XVI
h2. Đế bát loại 5 thế kỷ XV-XVI h3. Đế bát loại 12 tk XV-XVI
h4. Liễn sành tk XV-XVI h5. Miệng vại tk XV-XVI
Phụ lục 60. Ảnh - Bản vẽ đồ sành
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
149
h1. Núm nắp sành loại 1 thế kỷ XV-XVI
h2. Núm nắp sành loại 1 thế kỷ XV-XVI
Phụ lục 61. Ảnh - Bản vẽ đồ sành
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
150
h2. Miệng lon loại 4 tk XIII-XIV
h1. Miệng lon loại 2 tk XIII-XIV
h3. Miệng nồi loại 1 tk XIII-XIV h4. Miệng nồi loại 2 tk XIII-XIV
h5. Máng đất nung thế kỷ XV
Phụ lục 62. Ảnh hiện vật đất nung
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
151
h2. Bia đá sưu tầm địa điểm Đồi Ngô
Phụ lục 63. Ảnh - Bản vẽ hiện vật đá
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)
152
h1. Tiền Hoàng Tống Thông Bảo h2. Lục lạc
(1039-1040)
h4. Mũi nhọn sắt tk XV h3. Đinh sắt tk XV
h5. Dao sắt tk XV h6. Mảnh áo giáp sưu tầm địa điểm Đồi
Ngô
Phụ lục 64. Ảnh hiện vật kim loại
(nguồn: Trịnh Hoàng Hiệp)