ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐẶNG BÍCH THỦY KIẾN THỨC BẢN ĐỊA TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA DÂN TỘC MÔNG Ở HUYỆN MÈO VẠC TỈNH HÀ GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC
THÁI NGUYÊN - 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐẶNG BÍCH THỦY KIẾN THỨC BẢN ĐỊA TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA DÂN TỘC MÔNG Ở HUYỆN MÈO VẠC TỈNH HÀ GIANG Chuyên ngành: Địa lí học Mã số: 60.31.05.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Dương Quỳnh Phương
THÁI NGUYÊN - 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trong luận văn là trung thực chưa được công bố trong bất cứ công trình nghiên
cứu nào khác.
Thái nguyên, tháng 4 năm 2016
Tác giả luận văn
Đặng Bích Thủy
i
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Dương Quỳnh Phương đã
chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi rất tận tình trong suốt thời gian thực hiện và
hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Ban chủ nhiệm khoa
Địa lí, các Thầy, Cô giáo khoa Địa lí, trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái
Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn các cơ quan, Ban, ngành huyện Mèo Vạc và các cá nhân
đã tạo điều kiện và tận tình giúp đỡ tôi trong thời gian nghiên cứu, thu thập tài
liệu và thực địa tại địa phương.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, những người thân và bạn bè luôn động
viên, ủng hộ và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận
văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016
Tác giả luận văn
Đặng Bích Thủy
ii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................... iv
DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................. v
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ............................................................................ vi
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................... 5
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 6
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu .......................................................... 7
6. Những đóng góp của luận văn ......................................................................... 9
7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 10
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KIẾN THỨC BẢN
ĐỊA CỦA CÁC DÂN TỘC ............................................................................. 10
1.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................ 10
1.1.1. Tổng quan về dân tộc ............................................................................ 10
1.1.2. Tổng quan về kiến thức bản địa ............................................................. 15
1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................ 22
1.2.1. Khái quát về KTBĐ của các dân tộc ở Việt Nam ............................... 22
1.2.2. Đôi nét về dân tộc Mông ở Việt Nam .................................................... 24
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 29
Chương 2. CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC MÔNG Ở HUYỆN MÈO VẠC
TỈNH HÀ GIANG VÀ KIẾN THỨC BẢN ĐỊA TRONG SẢN XUẤT
NÔNG NGHIỆP............................................................................................... 30
2.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên.................................................................... 30
iii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
2.1.1. Vị trí địa lí ............................................................................................ 30
2.1.2. Điều kiện tự nhiên ............................................................................... 30
2.2. Dân cư và thành phần dân tộc .................................................................... 35
2.2.1. Dân cư .................................................................................................. 35
2.2.2. Thành phần dân tộc.............................................................................. 33
2.3. Đặc điểm cấu trúc cộng đồng và bản sắc văn hóa dân tộc Mông ở
huyện Mèo Vạc .................................................................................................. 38
2.3.1. Tên gọi và nguồn gốc của dân tộc Mông ............................................ 38
2.3.2. Địa bàn cư trú ...................................................................................... 40
2.3.3. Phong tục tập quán của dân tộc Mông ................................................ 40
2.4. Tri thức bản địa trong hoạt động sản xuất nông nghiệp ............................. 48
2.4.1. Trong hoạt động trồng trọt .................................................................. 48
2.4.2. Trong hoạt động chăn nuôi .................................................................. 69
2.5. Đánh giá chung về kiến thức bản địa của người Mông ở huyện Mèo Vạc .......... 76
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 77
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIỮ GÌN, PHÁT HUY
KIẾN THỨC BẢN ĐỊA TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA
DÂN TỘC MÔNG Ở HUYỆN MÈO VẠC TỈNH HÀ GIANG .................. 79
3.1. Cơ sở để đưa ra các giải pháp bảo tồn và phát huy kiến thức bản địa
của dân tộc Mông ở Mèo Vạc tỉnh Hà Giang .................................................... 79
3.1.1. Nhiệm vụ và định hướng phát triển của tỉnh Hà Giang đối với
đồng bào dân tộc Mông ................................................................................. 79
3.1.2. Vai trò của KTBĐ và sự cần thiết phải giữ gìn, phát huy kiến thức
bản địa của các dân tộc .................................................................................. 82
3.1.3. Một số thay đổi về KTBĐ của dân tộc Mông ở Mèo Vạc .................. 84
3.1.4. Các yếu tố tác động đến sự thay đổi của kiến thức bản địa ................ 90
3.2. Một số giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy kiến thức bản địa trong sản
xuất nông nghiệp của dân tộc Mông ở huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang ............ 97
3.2.1. Một số giải pháp chung nhằm giữ gìn và phát huy kiến thức bản địa ...... 97
iv
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
3.2.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm giữ gìn và phát huy kiến thức bản
địa trong sản xuất nông nghiệp của dân tộc Mông huyện Mèo Vạc ........... 103
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 106
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 108 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 111
v
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
CNH-HĐH Công nghiệp hóa -hiện đại hóa
ĐDSH Đa dạng sinh học
DTTS Dân tộc thiểu số
KTBĐ Kiến thức bản địa
KHKT Khoa học kĩ thuật
KT - XH Kinh tế - xã hội
PTBV Phát triển bền vững
TNTN Tài nguyên thiên nhiên
iv
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2015 phân theo xã của
huyện Mèo Vạc ............................................................................... 35
Bảng 2.2. Thành phần các dân tộc huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang năm 2015 ...... 36
Bảng 2.3. Lịch thời vụ (truyền thống) ............................................................. 52
Bảng 3.1. Lịch thời vụ (có sự thay đổi so với lịch thời vụ truyền thống) ....... 84
v
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 2.1. Bản đồ hành chính huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang ....................... 33
Hình 2.2. Biểu đồ thể hiện cơ cấu các dân tộc huyện Mèo Vạc năm 2015 .... 37
Hình 2.3. Bản đồ phân phân bố dân cư và cơ cấu dân tộc huyện Mèo Vạc .......... 38
Hình 3.1. Sơ đồ Kiến thức bản địa trong các dự án phát triển ..................... 103
vi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Kiến thức bản địa (KTBĐ) hiện đang là một trong những vấn đề được rất
nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm. KTBĐ có vai trò quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung, đặc biệt là các dân tộc thiểu số
(DTTS) nói riêng và đóng góp cho sự phong phú, đa dạng của nền văn dân tộc
của mỗi vùng miền, địa phương. KTBĐ đã được hình thành qua nhiều thế kỉ,
nhiều thế hệ. Sự sản sinh ấy vẫn còn được tiếp diễn trong các xã hội hiện nay ở
trong các cộng đồng nhất định và trong một bối cảnh mới.
Mèo Vạc là một huyện miền núi vùng cao của tỉnh Hà Giang - mảnh đất
địa đầu tổ quốc, là nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc Mông. Đây là
huyện có địa hình khá phức tạp, chủ yếu của là núi đá vôi, độ cao trung bình
1.150m so với mực nước biển, độ dốc trung bình là 250 - 350, điều kiện sinh hoạt
và sản xuất của người dân gặp rất nhiều khó khăn, đây cũng là một trong những
địa phương mà người Mông chọn làm nơi định cư đầu tiên khi di cư từ Trung
Quốc đến Việt Nam. Để duy trì cuộc sống lâu dài trên vùng núi cao, người Mông
đã sớm thích nghi và sáng tạo ra những phương thức sản xuất nông nghiệp hết
sức độc đáo, đồng thời cũng xác lập được một hệ thống nông nghiệp hoàn chỉnh
bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi, khai thác nguồn lợi tự nhiên, làm nghề phụ gia
đình và trao đổi hàng hóa.
Hiện nay, trước sự phát triển của đời sống và tiến bộ khoa học kĩ thuật những
kiến thức bản địa đang dần bị mất đi giá trị vốn có của nó trong hoạt động sản xuất
nông nghiệp của người dân. Do đó, trong bối cảnh đất nước đang hướng tới sự phát
triển bền vững cần có những giải pháp hữu hiệu nhằn giữ gìn và phát huy những giá
trị văn hóa truyền thống đó của đồng bào dân tộc Mông ở Mèo Vạc.
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nghiên cứu về kiến thức bản địa của các dân tộc thiểu số nói chung và của
dân tộc Mông ở huyện Mèo Vạc nói riêng đang là vấn đề cần thiết và đáng được
lưu tâm. Gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa đó vừa là yêu cầu cấp bách
vừa có ý nghĩa lâu dài. Với những lí do trên tôi quyết định chọn đề tài: “Kiến
thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp của dân tộc Mông ở huyện Mèo Vạc
tỉnh Hà Giang”. Nhằm tìm hiểu về những kiến thức bản địa của dân tộc Mông
đồng thời đưa ra những giải pháp giữ gìn và phát huy, góp phần làm phong phú
hơn cho nền văn hóa dân tộc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Trên thế giới
Kiến thức bản địa mang tính đặc thù cho mỗi khu vực, mỗi cộng đồng nhất
định. Nó dựa trên những kinh nghiệm được tích lũy, thừa kế từ người này qua người
khác, đời này qua đời khác. Kiến thức bản địa được phản ánh trong những bài dân
ca, câu chuyện, truyền thuyết, và những thực hành văn hóa của người bản địa. Đôi
khi nó được bảo tồn dưới dạng trí nhớ, nghi thức, lễ thức hay điệu múa. Đôi khi nó
được lưu giữ dưới dạng những vật dụng được lưu truyền từ đời cha sang đời con,
hay từ mẹ cho con gái. Do tri thức bản địa gắn bó với cuộc sống của người dân và
được trải nghiệm trong lịch sử nên đa số tri thức bản địa là những tri thức liên quan
đến môi trường, cách thức sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt.
Trên thế giới, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về KTBĐ trong quản
lí, sử dụng tài nguyên và khẳng định việc phát triển bền vững (PTBV) nguồn tài
nguyên phải dựa vào tri thức địa phương. Kết quả nghiên cứu của Ruguelito M.
Pastores và Romeo E. SanBuenaventura đã chỉ ra rằng những người dân bản xứ
đóng góp rất lớn và giữ vai trò đặt biệt quan trọng trong việc tìm hiểu và lựa chọn
những loài cây có đặc tính sinh thái và sinh học phù hợp với địa phương.
Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21) là một văn kiện đồ sộ gồm 40
chương đã đưa ra các giải pháp PTBV chung cho toàn thế giới trong thế kỷ XXI.
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Trong đó có giải pháp “Đẩy mạnh vai trò của nhân dân bản xứ” (chương 26)
cùng với nhận thức và áp dụng hệ thống tri thức dân gian của họ phục vụ cho
PTBV. Các quốc gia tham gia vào công ước Đa dạng sinh học (ĐDSH) cũng phải
cam kết rằng: “Các nước phải bảo vệ và duy trì những kiến thức bản xứ và đẩy
mạnh việc sử dụng ngày càng rộng rãi kiến thức này”.
Trong vài thập kỉ gần đây, KTBĐ của các dân tộc đã được các nhà khoa
học và các nhà quản lí quan tâm. Một mạng lưới quốc tế nghiên cứu và sử dụng
tri thức dân gian được thành lập năm 1987, thông qua trung tâm nghiên cứu tri
thức dân gian phục vụ phát triển Nông nghiệp ở Đại học Iowa State, Hoa Kì.
Hiện nay, có nhiều chuyên gia tại các nước trên thế giới đang hoạt động
trong lĩnh vực nghiên cứu KTBĐ. Đã có nhiều công trình khảo cứu về tri thức dân
gian ở hầu khắp thế giới. Nó được coi như bộ phận không thể thiếu trong chiến
lược PTBV, đồng thời khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của KTBĐ trong
các dự án phát triển kinh tế xã hội ở khu vực miền núi. Điều 22 trong nghiên tắc
Stockholm (Hội nghị “Môi trường và con người”) có nêu: “Nhân dân bản xứ và
các cộng đồng khác của địa phương có vai trò quan trọng trong phát triển và quản
lí môi trường nhờ KTBĐ và phong tục truyền thống của họ. Các quốc gia nên công
nhận và ủng hộ thích đáng bản sắc văn hóa và những mối quan tâm của họ, giúp
họ tham gia có hiệu quả vào phát triển bền vững”. Qua đó cho thấy, KTBĐ có ý
nghĩa rất quan trọng trong chiến lược PTBV toàn cầu.
2.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề nghiên cứu KTBĐ mới được chú trọng trong những
năm gần đây, với những công trình nghiên cứu về KTBĐ của các dân tộc thiểu
số ở khu vực miền núi. Những công trình này có đóng to lớn cho sự phát triển
khoa học nói riêng và sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung.
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Trong các công trình nghiên cứu tri thức bản địa vùng núi trước hết phải
kể đến cuốn sách: “Kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong nông nghiệp
và quản lý tài nguyên thiên nhiên” của Hoàng Xuân Tý, Lê Trọng Cúc. Cuốn
sách này đề cập tới 2 nội dung cơ bản: Giới thiệu tóm tắt về khái niệm KTBĐ,
các đặc thù và bài học kinh nghiệm ở Việt Nam; Giới thiệu một số kiến thức bản
địa của đồng bào miền núi trong các lĩnh vực: trồng trọt, sử dụng và quản lí tài
nguyên rừng, chăm sóc sức khỏe cộng đồng…
Phạm Quang Hoan và Hoàng Hữu Bình trong bài viết “Các dân tộc thiểu
số và việc quản lý tài nguyên thiên nhiên ở vùng cao Việt Nam” đề cập đến
nguyên tắc quản lý khai thác rừng hài hoà với phương pháp canh tác rẫy luân
canh bảo vệ rừng của đồng bào thiểu số Tây Nguyên (1996).
Trong bài viết “Luật tục với việc phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam”
GS. Ngô Đức Thịnh cho rằng: Một trong những giá trị nổi bật của các dân tộc
thiểu số là những tri thức bản địa của nhân dân về quản lý và khai thác tài nguyên
thiên nhiên, ở đó con người và tự nhiên gắn bó hữu cơ, con người là một bộ phận
không thể tác rời tự nhiên. Luật tục với những tri thức bản địa về môi trường và
cách thức quản lý, khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên vẫn giữ nguyên
giá trị tích cực của nó (Ngô Đức Thịnh, 1999). Hay cuốn “Sổ tay: thu thập và sử
dụng kiến thức bản địa” của Viện Quốc tế Tái thiết nông thôn (IIRR) do Everlyn
Mathial biên tập năm 1996. Công trình nghiên cứu: “Vai trò của cộng đồng các
dân tộc niềm núi phía Bắc trong sử dụng tài nguyên đất rừng” của TS Vương
Xuân Tình, nói tới vai trò của cộng đồng trong việc tự quản trên cơ sở vận hành
các luật tục. Mạng lưới quản lí và phát triển bền vững tài nguyên miền núi thuộc
trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường - Đại học quốc gia Hà Nội đã có
nhiều báo cáo, đề tài nghiên cứu về KTBĐ của đồng bào các dân tộc thuộc khu
vực Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên với nhiều cách tiếp cận khác nhau.
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
2.3. Ở Hà Giang
Ở Hà Giang đến nay vẫn chưa có nhiều nghiên cứu, đánh giá tổng thể về
KTBĐ và những biến đổi về KTBĐ của đồng bào các DTTS nói chung và dân
tộc Mông nói riêng. Hiện nay, đã có một số đề tài, luận văn, bài báo khoa học,
chương trình đi sâu tìm hiểu về các vấn đề có liên quan như: vấn đề dân tộc, dân
cư - xã hội, kinh tế…Trong đó, phải kể tới: “Giải pháp phát triển bền vững trong
điều kiện khó khăn của môi trường địa lí vùng cao biên giới qua thực tế Cao
nguyên đá Đồng Văn - Lũng Cú, Hà Giang”. Về sự tăng trưởng và giảm nghèo
trong thời kì đổi mới có báo cáo của TS. Vũ Như Vân tại Hội nghị khoa học Địa
lí toàn quốc 19/6/2010 với tiêu đề“Tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ở huyện
Vị Xuyên, Hà Giang”. Luận văn:“ Thực trạng đói nghèo và những giải pháp xóa
đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc Mông, huyện Yên Minh, tỉnh hà Giang, luận
văn: “Nghiên cứu du lịch sinh thái Cao nguyên đá Đồng Văn - Hà Giang phục vụ
phát triển bền vững”, luận văn: “Đời sống văn hóa dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang
hiện nay”, đề tài: “ Tập quán canh tác trên nương đá tai mèo của người H’mông
ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang”. Mèo Vạc là một huyện vùng cao của tỉnh Hà
Giang, nơi có địa hình rất hiểm trở, chủ yếu là núi đá với hơn 70% là dân tộc Mông
sinh sống. Họ có những nét đặc trưng văn hóa rất riêng trong sinh hoạt và sản xuất
nông nghiệp nhưng đến nay vẫn chưa có nhiều nghiên cứu, đánh giá tổng hợp về
KTBĐ trong sản xuất nông nghiệp và các tài liệu liên quan tới vấn đề này còn rất
hạn chế. Do vậy, việc nghiên cứu về KTBĐ trong sản xuất nông nghiệp của dân
tộc Mông ở huyện Mèo Vạc và đưa ra các giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy các
KTBĐ đó là cấp bách và cần thiết.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn về KTBĐ của dân tộc Mông
ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, đề xuất
một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy hiệu quả các KTBĐ, hướng tới mục
tiêu PTBV.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan cơ sở lí luận về dân tộc và kiến thức bản địa của các dân tộc.
- Nghiên cứu tổng quan về huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
- Khái quát về đặc điểm cấu trúc cộng đồng và bản sắc văn hóa của dân
tộc Mông huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
- Phân tích những kiến thức bản địa trong hoạt động sản xuất nông nghiệp
của dân tộc Mông ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
- Phân tích những biến đổi của các KTBĐ trong hoạt động sản xuất nông
nghiệp của người Mông hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm phát huy tính tích cực của KTBĐ trong sản
xuất nông nghiệp của dân tộc Mông, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và
đảm bảo sự phát triển bền vững cho khu vực miền núi.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
4.1. Về không gian lãnh thổ
Đề tài đánh giá khái quát chung về toàn huyện Mèo Vạc, nhưng tập trung
nghiên cứu tại 5 xã, đó là: xã Pả Vi, xã Lũng Pù, xã Cán Chu Phìn, xã Khâu Vai
và thị trấn Mèo Vạc, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. (Đây là những địa bàn có
tỉ lệ người dân tộc Mông sinh sống cao).
4.2. Về nội dung
Tập trung nghiên cứu về vấn đề KTBĐ trong các lĩnh vực: trồng trọt và
chăn nuôi của dân tộc Mông. Bên cạnh đó, phân tích sự biến đổi của một số
KTBĐ trong giai đoạn hiện nay.
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Quan điểm nghiên cứu
5.1.1. Quan điểm tổng hợp
Đây là quan điểm khoa học chung, phổ biến và là quan điểm cơ bản,
phương pháp tư duy tiếp cận mọi vấn đề. Các hoạt động kinh tế trong vùng lãnh
thổ được hình thành và phát triển trong mối tác động tổng hợp của các yếu điều
kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và phù hợp với hoàn cảnh của từng địa
phương, từng dân tộc. Trên cơ sở điều tra khảo sát chi tiết các yếu tố ngoài thực
địa cho phép đánh giá những những trình độ phát triển, tập quán sản xuất và văn
hóa của mỗi dân tộc, những tác động của chúng tới môi trường, kinh nghiệm
truyền thống riêng của mỗi dân tộc trong sản xuất. Trên cơ sở đó, cho phép xác
định những sự thay đổi về kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp của
người dân trong khu vực nghiên cứu.
5.1.2. Quan điểm lãnh thổ
Bất kỳ một đối tượng địa lý nào cũng đều gắn với một không gian lãnh thổ
nhất định, có sự phân hoá và phụ thuộc lẫn nhau trong lãnh thổ đó, nhưng đồng thời
cũng có mối quan hệ với các lãnh thổ xung quanh trên phương diện tự nhiên cũng
như kinh tế - xã hội. Nghiên cứu KTBĐ của dân tộc Mông huyện Mèo Vạc là nghiên
cứu mối quan hệ tương tác giữa dân tộc Mông với các yếu tố tự nhiên, thông qua hoạt
động sản xuất nông nghiệp trên lãnh thổ cấp huyện.
5.1.3. Quan điểm hệ thống
Cộng đồng các dân tộc huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang được coi là một hệ
thống được đặt trong một hệ thống lớn hơn đó là cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Dân tộc Mông ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang được coi là một thành phần, có tác
động qua lại và có mối quan hệ chặt chẽ với cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
5.1.3. Quan điểm lịch sử
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Sự phát triển của cộng đồng các dân tộc và mối quan hệ của cộng đồng
với tài nguyên thiên nhiên không chỉ thay đổi theo không gian mà còn biến động
theo thời gian. Vì vậy, khi nghiên cứu vấn đề trên quan điểm lịch sử sẽ thấy được
sự biến đổi một cách rõ rệt của chúng và tìm ra được nguyên nhân dẫn tới biến
đổi đó. Từ đó, làm cơ sở để đưa ra những dự báo về phát triển cộng đồng và các
phương hướng nhằm sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên địa
bàn huyện trong những năm tới.
5.1.4. Quan điểm phát triển bền vững
Việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên phải gắn kiền với phát
triển bền vững. Việc sử dụng sao cho đạt hiệu quả nhất, đồng thời phải đem lại
lợi ích cho cho đồng bào dân tộc và cả nước là điều cần phải nghiên cứu. Những
nguồn tài sản quí giá mà thiên nhiên mang tới phải sử dụng một cách hợp lí, đáp
ứng được nhu cầu cuộc sống hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến thế hệ tương
lai. Để phát triển bền vững tỉnh Hà Giang nói chung, huyện Mèo Vạc nói riêng
cần phải phát huy KTBĐ của các dân tộc và có sự kết hợp giữa KTBĐ và kiến
thức khoa học trong quá trình phát triển.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp thu thập, tổng hợp và phân tích tài liệu
Để có một lượng thông tin đầy đủ kiến thức bản địa dân tộc Mông ở huyện
Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang tác giả đã thu thập thông tin, tư liệu từ nhiều lĩnh vực,
nhiều nguồn tin khác nhau: báo cáo và tài liệu hội thảo, các tài liệu về vấn đề dân
tộc, số liệu thống kê của các cơ quan ban ngành, sách báo, internet… có liên
quan tới nội dung của đề tài. Sau đó chọn lọc, xử lí những thông tin cần thiết cho
đề tài.
5.2.2. Phương pháp điều tra xã hội học
Con người là chủ thể của mọi hoạt động xã hội đồng thời là đối tượng
nghiên cứu của xã hội học. Con người chính là đối tượng của việc nghiên cứu và
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
môi trường là nền tảng khách quan. Chính vì vậy, sử dụng phương pháp điều tra
xã hội học trong nghiên cứu đề tài nhằm thu thập những thông tin về văn hóa phi
vật thể của các dân tộc hiện đang tiềm ẩn trong trí nhớ, tập quán, hành vi ứng xử
của người dân.
5.2.3. Phương pháp khảo sát thực địa
Đây là phương pháp quan trọng để nghiên cứu KTBĐ. Phương pháp này
nhằm mục đích thu thập tài liệu bổ sung, so sánh giữa tài liệu trong phòng, bản
đồ với ngoài thực địa, trực tiếp nghiên cứu ngoài thực địa và đưa ra kết quả
nghiên cứu mang tính xác thực.
Tác giả đã lựa chọn các điểm chìa khóa trên bản đồ, sau đó vạch ra tuyến
khảo sát, quan sát, chụp ảnh, khai thác các nguồn tư liệu thống kê, lập phiếu điều
tra... giúp tác giả có những số liệu và thông tin chân thực nhất phục vụ cho đề tài.
5.2.4. Phương pháp bản đồ - GIS
Phương pháp bản đồ là một trong những phương pháp rất quan trọng trong
nghiên cứu địa lí, giúp các vấn đề nghiên cứu trở nên cụ thể, trực quan và toàn
diện hơn. Đây là phương phương pháp chủ yếu để xây dựng bản đồ cho luận văn.
Dựa trên cơ sở các nguồn tư liệu mà tác giả thu thập, xử lí và sử dụng phần mềm
Mapinfor để xây dựng bản đồ hành chính, bản đồ phân bố dân cư và dân tộc
huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
5.2.5. Phương pháp phỏng vấn sâu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tham khảo ý kiến chuyên gia, các nhà
khoa học trong lĩnh vực văn hóa dân gian, nghiên cứu quan trọng vấn đề về dân
tộc, vấn đề quản lí và bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc.
6. Những đóng góp của luận văn
- Tổng quan có chọn lọc về cơ sở lí luận và thực tiễn về KTBĐ của đồng
bào các dân tộc trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.
- Nghiên cứu tổng quan về huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, trên các mặt:
vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên... từ đó thấy được sự 9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ảnh hưởng của các nhân tố tự nhiên đó tới hoạt động kinh tế nông nghiệp của
người Mông.
- Phân tích được đặc điểm cấu trúc cộng đồng của dân tộc Mông ở huyện
Mèo Vạc.
- Làm nổi bật được những KTBĐ, đặc biệt là phương thức ứng xử văn hóa
với môi trường tự nhiên trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của người Mông
ở ở huyện Mèo Vạc.
- Làm rõ được những biến đổi của các KTBĐ trong hoạt động sản xuất
nông nghiệp của người Mông hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát
huy tính tích cực của KTBĐ trong sản xuất nông nghiệp của người Mông.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và tài liệu tham khảo nội
dung luận văn được xây dựng gồm 3 chương chính như sau:
Chương 1:Cơ sở lí luận và thực tiễn về kiến thức bản địa của các dân tộc
Chương 2: Cộng đồng dân tộc Mông ở huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang và
kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp.
Chương 3: Những biến đổi và một số giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy
kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp của người Mông ở huyện Mèo Vạc,
tỉnh Hà Giang.
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KIẾN THỨC BẢN ĐỊA
CỦA CÁC DÂN TỘC
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Tổng quan về dân tộc
1.1.1.1. Khái niệm
* Dân tộc: Thuật ngữ dân tộc được bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp cổ "ethnos"
dùng để chỉ những cộng đồng người hình thành và phát triển trong quá trình tự 10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nhiên - lịch sử. Mỗi cộng đồng tộc người được đặc trưng bởi những dấu hiệu
như: cùng chung tiếng nói, lãnh thổ, lối sống văn hoá và ý thức tự giác dân tộc.
Trong một số trường hợp, những dấu hiệu cùng chung lãnh thổ có thể đóng vai
trò kém quan trọng hơn [6].
Theo nghĩa hẹp, thuật ngữ “dân tộc” dùng để chỉ một cộng đồng tộc người.
Mỗi dân tộc có tính bền vững nội tại, được thống nhất bởi một số yếu tố đặc trưng
như địa vực cư trú, ngôn ngữ, những đặc điểm văn hóa, đời sống kinh tế, ý thức
dân tộc và nhờ đó người ta có thể phân biệt được dân tộc này với dân tộc khác, ví
dụ như: dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Thái...Ở nước ta, từ“dân tộc” còn được thay thế
bằng từ “người”, ví dụ: dân tộc Kinh còn được gọi là người Kinh.
Một dân tộc được xác định không phụ thuộc vào số lượng người nhiều hay
ít, vào trình độ phát triển, mà căn cứ vào tổng thể của một số nét đặc trưng (chung
một ngôn ngữ, chung một lịch sử - nguồn gốc, đời sống văn hóa, ý thức tự giác
dân tộc). Một dân tộc có thể gồm nhiều nhóm địa phương, ví dụ: người Dao gồm
Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt, Dao Lô Gang, Dao Tiền, Dao Quần Trắng, Dao Thanh
Y, Dao Làn Tẻn.
Theo nghĩa rộng, dân tộc được hiểu là cộng đồng dân tộc - chính trị tức là dân
tộc - quốc gia (Nation). Trong đó có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống. Ví dụ:
dân tộc Việt Nam có 54 dân tộc anh em, dân tộc Lào, dân tộc Campuchia... Dân tộc
hiểu theo nghĩa mọt quốc gia trong đó tổng hợp nhiều cộng đồng người (dân tộc - tộc
người), được hình thành do nhu cầu tồn tại lịch sử lâu dài.
Thành phần dân tộc của dân cư trên Trái Đất ngày nay là kết quả phát triển
của lịch sử hàng nghìn năm của loài người trên Trái Đất. Ở mỗi giai đoạn phát
triển của lịch sử tồn tại những cộng đồng tộc người khác nhau.
* Dân tộc đa số, dân tộc thiểu số
Trên thế giới hiện nay, người ta thường dùng các thuật ngữ: Dân tộc bản
địa (Thổ dân, Dân bản xứ), Dân tộc thiểu số bản địa, bộ lạc, bộ tộc, sắc tộc, tộc
người, dân tộc thiểu số, dân tộc ít người... Sự tồn tại nhiều thuật ngữ đó, do những
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nguyên nhân gắn liền với sự phát triển của các dân tộc trên thế giới và sự xáo
trộn của mỗi nước qua các thời kỳ biến thiên lịch sử. Những khái niệm trên không
đơn giản chỉ là học thuật mà là vấn đề có nội dung chính trị của nó.
Ở nước ta hiện nay đang dùng thuật ngữ dân tộc đa số và các dân tộc thiểu số.
Dân tộc Việt Nam hoặc cộng đồng các dân tộc Việt Nam được dùng để chỉ tất cả các
dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, có quốc tịch Việt Nam, không phân
biệt nguồn gốc. Khái niệm này đồng nghĩa với quốc gia đa dân tộc hay còn gọi là
quốc gia - dân tộc. Xét trong phạm vi Quốc gia - dân tộc Việt Nam, thuật ngữ dân tộc
đa số và dân tộc thiểu số, được hiểu thống nhất là:[6]
- Dân tộc đa số là dân tộc có số người đông nhất trong cộng đồng các dân
tộc Việt Nam, tức là dân tộc Kinh (Việt), dùng thuật ngữ này là nói trên phạm vi
cả nước chứ không là nói trên địa bàn vùng hoặc địa phương nào đó.
- Dân tộc thiểu số, thuật ngữ này không đồng nghĩa với dân tộc chậm phát
triển, càng không phải là dân tộc lạc hậu, khái niệm đó là chỉ những dân tộc có
số người ít hơn so với dân tộc đa số.
Trên thực tế, khái niệm “dân tộc thiểu số” chỉ có ý nghĩa biểu thị tương
quan về dân số trong một quốc gia đa dân tộc. Theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng dân
tộc, thì khái niệm “dân tộc thiểu số” không mang ý nghĩa phân biệt địa vị, trình
độ phát triển của các dân tộc. Địa vị, trình độ phát triển của các dân tộc không
phụ thuộc ở số dân nhiều hay ít, mà nó được chi phối bởi những điều kiện kinh
tế - chính trị - xã hội và lịch sử của mỗi dân tộc.
Như vậy, khái niệm “dân tộc thiểu số” dùng để chỉ những dân tộc có số
dân ít, chiếm tỷ trọng thấp trong tương quan so sánh về lượng dân số trong một
quốc gia đa dân tộc. Khái niệm “dân tộc thiểu số” cũng không có ý nghĩa biểu
thị tương quan so sánh về dân số giữa các quốc gia dân tộc trên phạm vi khu vực
và thế giới. Một dân tộc có thể được quan niệm là “đa số” ở quốc gia này, đồng
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thời có thể là “thiểu số” ở quốc gia khác. Chẳng hạn người Việt (Kinh) được coi
là “dân tộc đa số” ở Việt Nam, nhưng lại được coi là “dân tộc thiểu số” ở Trung
Quốc (vì chỉ chiếm tỉ lệ 1/55 dân tộc thiểu số của Trung Quốc); ngược lại người
Hoa (Hán), được coi là “dân tộc đa số” ở Trung Quốc, nhưng lại là dân tộc thiểu
số ở Việt Nam (người Hoa chiếm tỉ lệ 1/53 dân tộc thiểu số của Việt Nam). Rõ
ràng, quan niệm về “dân tộc thiểu số” và “dân tộc đa số” cũng như nội hàm của
chúng hiện nay còn có những vấn đề chưa thống nhất và nó cũng được vận dụng
xem xét rất linh hoạt trong từng điều kiện cụ thể, tuỳ theo quan niệm và mối quan
hệ so sánh về dân số trong mỗi quốc gia dân tộc.
* Cộng đồng các dân tộc
Khái niệm cộng đồng các dân tộc có thể được hiểu là một khái niệm phát
sinh do kết hợp hơn một đến nhiều dân tộc trên một không gian lãnh thổ nhất định.
Mỗi dân tộc được hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử nhất định
với những đặc trưng cơ bản: cùng chung ngôn ngữ, đặc điểm văn hóa, địa bàn cư
trú và ý thức tự giác dân tộc. Tất cả hợp thành một cộng đồng tộc người gắn bó với
nhau trong truyền thống, nghĩa vụ và quyền lợi [23].
1.1.1.2. Các tiêu chí xác định dân tộc
* Cùng chung lãnh thổ: (đây là điều kiện để hình thành cộng đồng kinh tế).
Lãnh thổ được coi như một điều kiện vật chất cơ bản để hình thành các cộng
đồng tộc người. Cùng cư trú trên một lãnh thổ nhất định là điều kiện quan trọng để
con người tiếp xúc, giao dịch với nhau. Những người cùng một xuất xứ thường
chung cư trú gần nhau trên một địa vực nhất định. Những nhóm người không cùng
một ngôn ngữ, không cùng xuất xứ nhưng sống cùng nhau trong một thời kỳ lịch
sử lâu dài, họ có thể tạo thành một dân tộc thống nhất.
* Cùng chung một ngôn ngữ: Ngôn ngữ không những là phương tiện giao tiếp,
truyền tải thông tin mà còn là phương tiện để phát triển đời sống văn hóa, tinh thần
của con người. Tiếng mẹ đẻ là đặc trưng quan trọng nhất để xác định dân tộc.
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
* Chung đặc điểm văn hóa: Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra được tích lũy qua nhiều thế hệ trong mối tương tác
giữa con người - tự nhiên - xã hội. Mỗi dân tộc tồn tại trong và phát triển trong
những hoàn cảnh tự nhiên và xã hội khác nhau vì vậy có những bản sắc văn hóa
dân tộc khác nhau (thờ cúng, tín ngưỡng, lễ hội, quan niệm,...). Văn hóa chính là
chất keo gắn kết dân tộc.
* Ý thức dân tộc: ý thức tự giác dân tộc là tiêu chí quan trọng khi xác định thành
phần dân tộc. Ý thức dân tộc chính là lòng tự hào dân tộc, là sự tự khẳng định nguồn
gốc xuất xứ của mình. Mỗi người, dù sống trong lãnh thổ bị ngăn cách, văn hóa bị pha
trộn, thậm chí tiếng mẹ đẻ đã mất thì ý thức dân tộc vẫn được duy trì [23].
Ngoài bốn tiêu chí chủ yếu trên, các nhà nghiên cứu còn đề cập tới một số
khía cạnh khác:
+ Coi cộng đồng kinh tế như một dấu hiệu quan trọng để hình thành cộng
đồng dân tộc. Cộng đồng kinh tế thường dựa trên cộng đồng lãnh thổ kết hợp với
cộng đồng quốc gia. Nó không phải được tạo ra từ nội bộ bên trong của tộc người
mà từ mối quan hệ nội tại của các quốc gia.
+ Dấu hiệu tâm lý. Mỗi cộng đồng người thường có những biểu hiện tâm
lý giống nhau trước các hiện tượng tự nhiên và xã hội cũng như cách ứng xử và
phản ứng khác nhau trước một tình huống.
1.1.1.3. Quan niệm về dân tộc bản địa
Dân tộc bản địa là nhóm người có một chiều dài lịch sử xuất thân từ một
xã hội đã có mặt trên một lãnh thổ trước thời kỳ xâm lược và đô hộ của dân tộc
khác. Họ tự nhận diện bản thân của họ có nguồn gốc khác biệt đối với nhóm dân
tộc đang nắm quyền hành trên toàn lãnh thổ hay một phần lãnh thổ của họ. Họ là
thành phần tộc người không có quyền lực trong một xã hội nhưng lúc nào cũng
cương quyết bảo vệ, phát triển và chuyển đạt cho thế hệ tương lai, lãnh thổ do
cha ông của họ để lại cũng như bản sắc dân tộc dựa trên mô hình văn hóa, hệ
thống xã hội và qui chế luật tục mà họ xem đó là yếu tố quyết định trong cuộc
sống của dân tộc. Liên Hợp Quốc quan niệm: “Dân tộc bản địa hay còn gọi là
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thổ dân là nhóm người đã từng có mặt trên một lĩnh vực đất đai, trước ngày di
dân của nhóm dân tộc khác vào lãnh thổ của họ” [37].
1.1.2. Tổng quan về kiến thức bản địa
1.1.2.1. Khái niệm KTBĐ
Tri thức bản địa là những kiến thức địa phương của riêng một nền văn hóa
hoặc cộng đồng nào đó. Nó có thể có những tên gọi khác như: “kiến thức địa
phương”, “ kiến thức dân gian”, “kiến thức truyền thống” hoặc “kiến thức khoa học
truyền thống”. Những kiến thức này được truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác,
thường là được truyền lại thông qua hình thức truyền miệng hoặc thông qua các
nghi lễ văn hóa, chúng là nền tảng duy trì các hoạt động xã hội thiết yếu của cộng
đồng như nông nghiệp, cách chế biến thức ăn, cách chăm sóc sức khỏe, giáo dục,
sự bảo tồn và rất nhiều các hoạt động khác ở rất nhiều vùng trên thế giới.
Mặc dù đã được nghiên cứu từ lâu, nhưng cho tới nay khái niệm kiến thức
bản địa vẫn chưa được thống nhất. Nói cách khác, kiến thức bản địa - kiến thức
truyền thống được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào các lĩnh
vực chuyên môn và theo các mục đích sử dụng thuật ngữ khác nhau.
GS.TS Hoàng Xuân Tý quan niệm: Kiến thức bản địa (Indigenouse
knowledge) còn được gọi là kiến thức truyền thống (Traditionnal knowledge)
hay kiến thức địa phương (Local knowledge) là hệ thống kiến thức của các dân
tộc bản địa, hoặc của một cộng đồng tại một khu vực cụ thể nào đó. Nó tồn tại
và phát triển trong những hoàn cảnh nhất định với sự đóng góp của mọi thành
viên trong cộng đồng ở một vùng địa lý xác định [37].
Tác giả Louise Grenier định nghĩa: Kiến thức bản địa là vốn kiến thức duy
nhất, truyền thống và của một địa phương, tồn tại và phát triển dưới các điều kiện
cụ thể của những người dân bản địa trong một khu vực địa lý nhất định. Sự phát
triển của hệ thống kiến thức bản địa trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống, kể
cả việc quản lý môi trường tự nhiên, từ lâu đã là vấn đề sống còn đối với những
15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
con người sáng tạo ra chúng. Các hệ thống kiến thức bản địa cũng có tính động,
kiến thức mới liên tục được bổ sung. Các hệ thống này luôn đổi mới trong lòng
nó và cũng sẽ tiếp nhận, sử dụng và thích nghi với kiến thức bên ngoài nhằm phù
hợp với điều kiện của địa phương.
Tác giả Phạm Quang Hoan cho rằng: Tri thức địa phương được hiểu ở các
cấp độ khác nhau. Một là, “tri thức địa phương” (hay “tri thức bản địa”, “tri thức
dân gian”, “tri thức tộc người”) là toàn bộ những hiểu biết, những kinh nghiệm
của một tộc người nhất định được tích luỹ, chọn lọc và trao truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Vốn tri thức đó được phản ánh trong các lĩnh vực khác nhau
của đời sống cộng đồng để mỗi tộc người sinh tồn, phát triển và thích nghi trước
những biến đổi đã và đang diễn ra.
Một cách khái quát có thể hiểu: kiến thức bản địa hay kiến thức truyền
thống là hệ thống kiến thức mà người dân ở một cộng đồng tích lũy và phát triển
dựa trên kinh nghiệm, đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn và thường xuyên thay
đổi để thích nghi với môi trường văn hóa, xã hội.
Có thể nói, trong một thời gian dài kiến thức bản địa đã từng coi là sự lạc
hậu và “thiếu chuyên nghiệp”, trong các dự án phát triển kinh tế địa phương nó
thường bị bỏ qua thậm chí còn bị coi là một trở ngại trong việc triển khai các
kiến thức khoa học. Kiến thức bản địa bắt đầu được nhìn nhận một cách nghiêm
túc trong sự so sánh với các kiến thức khoa học. Ngày nay kiến thức bản địa đang
được đề cao, tuy vậy không phải kiến thức bản địa nào cũng được sử dụng như
nhau và phát huy tính tích cực của nó trong bối cảnh mới. Bởi vì một số kiến
thức bản địa có thể không có hiệu quả thậm chí còn kìm hãm sự phát triển do
điều kiện hình thành nên tri thức bản địa trước kia khác với bối cảnh xã hội hiện
nay. Trong bối cảnh mới KTBĐ vẫn có thể nảy sinh trong một cộng đồng dân cư
nhất định. Những tri thức ấy cũng đáng quý như những tri thức mà ông cha ông
16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ta tích luỹ được vì vậy cần có sự kết hợp với khoa học hiện đại để những kiến
thức ấy ngày càng có giá trị hơn.
Khác với “kiến thức hàn lâm” (Academic Knowledge) được hình thành do
các nhà thông thái, được hình thành và truyền thụ lại qua sách vở, các KTBĐ
được hình thành trực tiếp từ lao động của mọi người dân trong cộng đồng, được
hoàn thiện dần và truyền thụ cho tất cả các thế hệ tiếp sau bằng hình thức truyền
khẩu trong gia đình, thôn bản, hoặc thể hiện trong ca hát, ngạn ngữ, trường ca,
tập tục,... [37].
KTBĐ không chỉ đơn thuần là kiến thức của một số bộ tộc hay nhóm người
bản xứ của một vùng, cũng không chỉ giới hạn trong khu vực dân cư nông thôn.
Chính xác hơn, KTBĐ thuộc sở hữu tất cả cộng đồng: nông thôn, thành thị, định
cư và du cư, người bản xứ và di cư đến. KTBĐ thường trái ngược với kiến thức
“khoa hoc”, “phương Tây”, “quốc tế” hay “hiện đại”- những kiến thức này do
các trường đại học, các viện nghiên cứu hay các hang tư nhân phát triển dựa trên
các phương pháp khoa học chính thống.
KTBĐ bao hàm rất nhiều lĩnh vực liên quan đến đời sống, sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp, quản lí tài nguyên và quản lí cộng đồng,…Trong cuốn sách:
“Kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong nông nghiệp và quản lí tài
nguyên”, GS.TS Hoàng Xuân Tý đã đưa ra các nội dung nghiên cứu của KTBĐ
trong các lĩnh vực sau:
- Kiến thức về trồng trọt: Các giống cây trồng bản địa, kinh nghiệm xác
định đất nào cây ấy, lịch thời vụ và dự đoán thời tiết, các kinh nghiệm tưới tiêu,
sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu từ cây cỏ, cách thu hoạch và bảo quản lương
thực, hạt giống, các kinh nghiệm sản xuất trên đất dốc, luân canh nương rẫy.
- Kiến thức về chăn nuôi: Kinh nghiệm chọn giống gia súc, quản lí bãi
chăn thả theo mùa, các cây thức ăn cho gia súc địa phương, phòng và chữa bệnh
cho gia súc truyền thống.
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
- Kiến thức về quản lí rừng và tài nguyên cộng đồng: Khai thác chế biến lâm
sản, quản lí nguồn nước sinh hoạt và tưới ruộng, kinh nghiệm thu hái, sử dụng các
sản phẩm trong thiên nhiên như nấm, rau rừng, hoa quả dại và nhiều lâm sản khác.
- Kiến thức về dinh dưỡng và sức khỏe con người: Bao gồm các kinh
nghiệm lựa chọn, chế biến và bảo quản thức ăn. Phòng chữa các bệnh cho cá
nhân và cộng đồng, thu hái và quản lí cây thuốc thiên nhiên.
- Kiến thức về tổ chức cộng đồng và truyền thụ kinh nghiệm cho con cháu: Đó là hình thức tổ chức cộng đồng, các tập tục, hương ước nhằm bảo đảm các hoạt động sản xuất và duy trì nền văn hóa truyền thống,…
Có thể nói rằng, KTBĐ bao gồm hầu hết các khía cạnh của sản xuất và tổ chức cộng đồng của người bản xứ và có khả năng thích ứng cao với điều kiện môi trường rất đa dạng của địa phương vùng cao. 1.1.2.2. Phân loại KTBĐ
Có nhiều cách phân loại kiến thức bản địa theo những tiêu chí khác nhau, tuỳ thuộc vào từng chuyên ngành khoa học. Trong cuốn “Cẩm nang về tri thức bản địa - 2000”, các tác giả đưa ra hệ thống phân loại và xác định các đặc điểm theo nhận thức và chức năng. Trên cơ sở đó, kiến thức bản địa có thể được chia thành các loại sau: (1) Thông tin, (2) Kỹ thuật và thực hành, (3)Tín ngưỡng, (4) Các công cụ, (5) Vật liệu, (6) Thực nghiệm, (7) Tri thức về các nguồn tài nguyên sinh học, (8) Sự hiểu biết về nguồn nhân lực, (9) Giáo dục, và (10) Giao tiếp. Ngô Đức Thịnh, sau khi đồng nhất khái niệm kiến thức bản địa với tri thức dân gian lại cho rằng: “Tri thức dân gian có thể được chia thành 4 loại: (1) Tri thức về tự nhiên và môi trường, (2) Tri thức về bản thân con người, (3) Tri thức về sản xuất, và (4) Tri thức về quản lý xã hội và cộng đồng” [39].
Với đặc điểm của ngành nghiên cứu về các quá trình tộc người, văn hoá tộc người trong bối cảnh liên tục phát triển, các nhà Dân tộc học thường phân loại tri thức bản địa như sau:
- Sự nhận biết các yếu tố tự nhiên (đặc điểm địa hình, địa mạo, thổ nhưỡng, các đặc tính sinh học của động - thực vật, khí hậu - thời tiết, nguồn nước…), các kinh nghiệm khai thác, sử dụng và quản lý các yếu tố đó.
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
- Các kiến thức liên quan đến quá trình mưu sinh (các phương thức sinh
kế cụ thể, các giống cây trồng - vật nuôi, mùa vụ, công cụ…).
- Các kiến thức liên quan đến đời sống vật chất (thôn làng, nhà cửa, trang
phục, đồ ăn - thức uống, phương tiện vận chuyển).
- Các kiến thức trong việc quản lý xã hội (thiết chế tự quản thôn làng với
vai trò của luật tục, người già và các thủ lĩnh, dòng họ và gia đình).
- Các tri thức trong đời sống tinh thần (tín ngưỡng, lịch pháp, y - dược thuật, các chuẩn mực trong ứng xử và giao tiếp xã hội, các loại hình văn học, nghệ thuật dân gian).
Sự phân loại theo phương pháp dân tộc học không mâu thuẫn với cách phân
loại của các ngành khoa học khác. Nó có một ưu điểm là mang tính bao quát toàn
diện hơn hẳn so với các ngành khoa học chuyên sâu. Tuy nhiên, trong bối cảnh của
một nền khoa học liên - đa ngành, sự kết hợp giữa công tác nghiên cứu cơ bản về
dân tộc học với các ngành khoa học chuyên sâu là hết sức cần thiết.
Kiến thức bản địa cũng có nhiều loại hình, thuộc nhiều cấp độ khác nhau,
mang đặc tính của lứa tuổi, giới tính và đặc điểm của nhóm xã hội. Những người
già có nhiều loại kiến thức khác so với thế hệ trẻ, phụ nữ và nam giới; nông dân
và thương nhân; người có học thức và người ít học... tất cả đều có các loại kiến
thức khác nhau. Có những kiến thức chung, được tất cả mọi người trong cộng
đồng hiểu biết; cũng có những kiến thức cùng chia sẻ, có nhiều người biết nhưng
không phải toàn bộ cộng đồng; lại có những kiến thức chuyên nghiệp - chuyên
biệt, chỉ có ở một số ít người (ví dụ chỉ có một số ít người dân là thầy thuốc, thầy
cúng, biểu diễn dân ca, dân vũ, bà đỡ, hoặc thợ thủ công.. )
1.1.2.3. Đặc điểm của KTBĐ
KTBĐ có nhiều đặc điểm nổi bật, trong đó chứa đựng nhiều ưu điểm,
nhưng cũng có những hạn chế nhất định [37].
Thứ nhất, KTBĐ được hình thành và biến đổi liên tục qua các thế hệ trong
một cộng đồng địa phương nhất định: KTBĐ là sản phẩm được tạo ra trong quá
trình lao động sản xuất của toàn cộng đồng, được tích lũy, hoàn thiện và truyền
19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
bá qua nhiều thế hệ của cộng đồng tại các địa phương. Theo thời gian môi trường
tự nhiên và xã hội có những thay đổi nhất định vì thế hệ thống kiến thức của cộng
đồng cũng phải có những thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh. Các kinh nghiệm
tích lũy từ các thế hệ trước được truyền lại cho thế hệ sau sẽ được cải thiện để
ngày càng hoàn thiện hơn.
Thứ hai, KTBĐ có khả năng thích ứng cao với môi trường riêng của từng
địa phương - nơi đã hình thành và phát triển kiến thức đó.Trong quá trình phát
triển nhiều kiến thức cũ không còn phù hợp nên dần bị đào thải và thay vào đó
là những kiến thức mới liên tục được hình thành. Những kiến thức này liên tục
được nảy sinh tại chính địa phương, cũng có thể được biến đổi từ những kiến
thức du nhập từ vùng khác vào trong quá trình giao lưu, điều này làm cho KTBĐ
ngày càng phong phú hơn, hoàn thiện hơn và phù hợp với điều kiện cụ thể của
địa phương.
Thứ ba, KTBĐ là do toàn thể cộng đồng sáng tạo ra qua lao động trực
tiếp: Mỗi một người trong cộng đồng sẽ nắm giữ những kiến thức nhất định tùy
thuộc vào độ tuổi, giới tính, sự phân công lao động… Những kiến thức này chính
là một phần bộ phận của KTBĐ. Trong quá trình lao động nhiều vấn đề mới này
nảy sinh đòi hỏi những cách giải quyết mới do đó KTBĐ được hình thành một
cách tự nhiên với sự tham gia đóng góp của toàn bộ các thành viên trong cộng
đồng bao gồm cả đàn ông, đàn bà, trẻ em, người già. Tuy nhiên, mỗi nhóm người
sẽ có những điểm mạnh riêng trong một vài lĩnh vực.
Thứ tư, KTBĐ được lưu giữ bằng trí nhớ và truyền bá từ thế hệ này qua
thế hệ khác bằng truyền miệng, thơ ca, tế lễ và nhiều tập tục khác nhau. Cũng
như văn hóa dân gian, KTBĐ là hệ thống kiến thức của người bình dân, không
có tác giả cụ thể và không được ghi chép lại thành văn bản để lưu giữ. Người ta
tìm KTBĐ không phải qua sách vở mà là qua các buổi trao đổi nói chuyện, qua
sát người khác làm việc hoặc tìm thấy nó trong các hoạt động văn hóa địa
phương. Do không được lưu giữ nó bằng văn bản đã khiến KTBĐ đôi khi bị mất
đi vì không có người nhớ đến nó nữa và cũng như việc nghiên cứu KTBĐ trở 20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nên khó khăn hơn. Tuy nhiên chính đặc điểm này đã giúp cho KTBĐ có chỗ
đứng vững chắc trong dân gian bởi nó thực sự là hệ thống kiến thức của người
lao động: lưu truyền bằng hình thức giản đơn nhưng hiệu quả.
KTBĐ là hệ quả của các gắn kết thực tế trong đời sống hàng ngày và liên
tục được củng cố bằng các kinh nghiệm, các lần thử, các lỗi và các thử nghiệm
cẩn trọng những trải nghiệm này là sản phẩm tiêu biểu của rất nhiều thế hệ.
Thứ năm, KTBĐ luôn gắn liền và hòa hợp với nền văn hóa, tập tục địa phương.
KTBĐ được cộng đồng sáng tạo dựa trên những điều kiện cụ thể nơi mà
cộng đồng đó sinh sống hoặc được du nhập từ bên ngoài vào thì cũng được
cải biến nhiều lần cho phù hợp rồi mới sử dụng, cho nên KTBĐ có khả năng
thích ứng rất cao với điều kiên tự nhiên, tập quán xã hội của nơi đang sử dụng
chúng.
Thứ sáu, KTBĐ có giá trị cao trong việc xây dựng các mô hình phát triển
nông thôn bền vững theo hướng có người dân tham gia và ít tốn kém.Một số nhà
nghiên cứu đã coi KTBĐ là cơ sở để đề xuất các quyết định tại địa phương trong
các lĩnh vực nông nghiệp, y tế, giáo dục, quản lí tài nguyên.
Ngoài ra hệ thống KTBĐ còn là một kho thông tin quý giá để các nhà khoa
học đưa ra các giải pháp kĩ thuật mới, các chuyên gia lập kế hoạch và cán bộ xây
dựng chính sách. Đã có không ít những thành tựu khoa học được khởi đầu bằng các
ý tưởng được đúc rút từ kinh nghiệm truyền thống của người nông dân.
Thứ bảy, KTBĐ có tính đa dạng cao bởi nó được hình thành biến đổi liên
tục qua các thế hệ trọng một cộng đồng địa phương nhất định, khiến cho các thế
hệ khác nhau có những kiến thức khác nhau do ở thế hệ sau này đã nảy sinh
những kiến thức mới hoặc kiến thức cũ đã bị biến đổi đi để phù hợp với xu thế
mới. KTBĐ do toàn thể công đồng sáng tạo ra cho nên mỗi thành viên trong cộng
đồng sẽ có đóng góp khác nhau khiến cho KTBĐ trở nên đa dạng.
Bên cạnh những ưu điểm, KTBĐ cũng có hạn chế nhất định: Tính địa
phương rất cao nên khó phổ biến rộng rãi cho vùng khác. Ví dụ: Tại một vùng
núi, một kĩ thuật canh tác có thể rất có giá trị tại một bản làng này, nhưng lại
21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
không thể áp dụng cho làng kề bên cạnh do sự khác biệt về địa hình, tập tục
ngăn cản.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khái quát về KTBĐ của các dân tộc ở Việt Nam
Các dân tộc ở nước ta sống xen kẽ với nhau và không có lãnh thổ riêng biệt
như một số nước trên thế giới. Người Kinh chủ yếu sinh sống ở đồng bằng, ven biển
và trung du; còn các dân tộc ít người cư trú chủ yếu ở các vùng miền núi và vùng
cao, một số dân tộc như Khơ me, Hoa, một số ít vùng Chăm sống ở đồng bằng. Các
DTTS nước ta có sự tập trung ở một số vùng, nhưng không cư trú thành những khu
vực riêng biệt mà xen kẽ với các dân tộc khác trong phạm vi của tỉnh, huyện, xã và
các bản mường. Do những nguyên nhân lịch sử, xã hội và hoàn cảnh tự nhiên nên
mỗi dân tộc đã đúc kết và tìm ra cho mình những phương thức ứng xử với môi
trường tự nhiên khác nhau, hình thành nên những bản sắc văn hóa dân tộc rất riêng,
đặc biệt là trong sản xuất, quản lý và bảo vệ TNTN.
Trải qua quá trình hàng trăm năm, các DTTS đều đúc kết cho mình những
kinh nghiệm dân gian rất quý báu trong sản xuất nông nghiệp. Họ rất giỏi trong
việc nhận biết tự nhiên, dự đoán thời tiết, lựa chọn đất canh tác, chọn giống vật
nuôi, cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên nơi họ cư trú. Đồng thời biết cách
lựa chọn phương thức canh tác sao cho đạt hiệu quả kinh tế cao.
Chẳng hạn, người Kinh là dân cư lâu đời trên địa bàn vùng trung du - miền
núi phía Bắc, có truyền thống canh tác lúa nước. Họ có kinh nghiệm tuyển chọn
giống cây trồng, vật nuôi, đào kênh, đắp đê, phòng chống thiên tai và dịch họa.
Trong quá trình mở rộng không gian cư trú họ khai khẩn các sườn địa hình đồi
bát úp với độ dốc không lớn, cánh đồng chân đồi, trước núi tương đối bằng
phẳng, nguồn nước dồi dào, đất màu mỡ. Men theo triền sông, suối họ xâm nhập
vào các vùng núi xa hơn, cao hơn [28].
Quá trình sinh tụ và cư trú lan tỏa, người Kinh áp dụng mô hình kinh tế lúa nước truyền thống bằng việc phát triển hệ thống canh tác trên các vùng đất thấp, bằng phẳng, tạo nên những cánh đồng lúa, ngô và hoa màu, hình thành vùng trọng điểm lương thực có hạt (lúa, ngô). Tại những địa bàn có diện tích
22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
hẹp, người Kinh cải tạo các ruộng rộc để trồng lúa nước, sườn và đỉnh đồi thì trồng rừng để tạo nguồn nước, khai thác lâm sản, gỗ củi. Họ đã hình thành nên mô hình ruộng lúa - vườn rừng.
Người Tày - Nùng địa bàn canh tác của họ là những thung lũng, khe suối, chân núi, cánh đồng giữa núi, trên những sườn đồi thấp, gần nguồn nước, đất đai thuận lợi. Trong quá trình phát triển, họ đã tích lũy được những kinh nghiệm trong canh tác nông nghiệp, cải tạo và bảo vệ tài nguyên đất, tổng hợp được lịch thời vụ rất chặt chẽ. Mùa xuân trồng ngô vụ chính và đất gieo mạ vụ lúa xuân hè. Ngoài ra, trồng một số cây ăn quả và cây công nghiệp ngắn ngày (thuốc lá, gừng, khoai sọ). Mùa hạ cấy lúa mùa sớm, sau khi thu hoạch lúa xuân hè, tiến hành trồng ngô chiêm, trồng xen đỗ vào gốc ngô. Mùa thu, từ lập thu đến hàn lộ làm cỏ lúa và chăm sóc các cây trồng khác, khi sương giáng là thời gian thu hoạch lúa mùa. Mùa đông, trồng rau vụ đông, từ đông chí cho đến lập xuân thời tiết lạnh khô nên không trồng được cây gì. Để phá vỡ thế độc canh đồng bào đã trồng các loại cây đỗ, lạc, cây ăn quả... cùng với chăn nuôi góp phần tăng vụ, tận dụng thời gian nông nhàn, sử dụng thế mạnh tự nhiên và tăng thêm thu nhập [23].
Đại bộ phận dân tộc Mông, Dao, Tày, Thái...đã có phương thức canh tác nông nghiệp phù hợp với điều kiện đất dốc, vừa phát triển nông nghiệp vừa bảo vệ đất đai, sử dụng hợp lí TNTN như làm ruộng bậc thang, thổ canh hốc đá, hay hệ thống thủy lợi mương, phai, lái, lìn...Đối với dân tộc Mông, Dao trong quá trình khai thác rừng, đồng bào đã rút kinh nghiệm là khi chặt cây bao giờ cũng để lại một đoạn gốc khoảng 50cm đến 1m, như vậy sau một thời gian cây sẽ lên chồi và tái sinh trở lại. Trong khi đi rừng nếu gặp cây nào ưng ý thì họ đánh dấu bằng cách khắc chữ thập hoặc buộc một chùm lá ám chỉ cây đã có chủ. Khi cây được hạ xuống, nếu là cây to và rậm lá thì phải một năm sau mới vào rừng để xẻ, nhằm mục đích để giảm lượng nước trong thân cây. Khi chặt cây to bao giờ họ cũng chọn hướng đổ làm sao cho ít ảnh hưởng tới cây con. Ngoài ra, họ còn có một số kinh nghiệm về cách khai thác và sử dụng một số loại cây rừng để phục vụ bữa ăn và chữa bệnh.
Qua đó ta thấy, cộng đồng các dân tộc Việt Nam sinh sống ở những vùng
sinh thái khác nhau rất đa dạng nên đã sáng tạo và tích lũy được hệ thống kiến thức 23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
dân gian rất đồ sộ và có giá trị to lớn. Đây cũng là một trong những nền tảng để các
nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu và đưa ra những giải pháp trong sản xuất, quản lý,
sử dụng và bảo vệ TNTN, góp phần đảm bảo cho sự phát triển ổn định và bền vững
cho cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đặc biệt là đối với các DTTS.
1.2.2. Đôi nét về dân tộc Mông ở Việt Nam
1.2.1.1. Tên gọi và nguồn gốc hình thành dân tộc Mông
Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc Mông được coi là một thành
viên quan trọng trong cộng đồng của dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Người Mông
ở Việt Nam hiện nay có nhiều tên gọi: Mèo, Muor, Miêu, Hmông, Mán. Họ tự
gọi là Mông. Căn cứ vào đặc điểm dân tộc học và ngôn ngữ học, dân tộc Mông
chia thành các ngành: Mông Trắng (Môngz Đơư), Mông Hoa (Môngz Lênhz),
Mông Đỏ (Môngz Si), Mông Đen (Môngz Njuôz), Na Miểu (Mèo nước) [14].
Cũng có ý kiến cho rằng Mông Hoa và Mông Đỏ là một. Hiện nay ở nước ta có
các nhóm Mông sau:
(1) Mông Đơ và Mông Đâu (Mông Trắng).
(2) Mông Đu (Mông Đe).
(3) Mông Si (Mông Đỏ).
(4) Mông Dua (Mông Xanh).
(5) Mông Lềnh (Mông Hoa).
(6) Mông Xúa (Mông Lai).
(7) Ná Mẻo (Mông Nước).
Dân tộc Mông sinh sống ở Việt Nam có khoảng trên 1 triệu người thuộc
nhóm ngôn ngữ: Mông - Dao (gồm ba dân tộc: Mông, Dao, Pà Thẻn). Tiếng
Mông là một nhóm ngôn ngữ không có chữ viết. Người Mông nhập cư vào Việt
Nam khoảng 300 năm về trước, họ có quan hệ thân tộc với người Mông ở các
nước láng giềng Việt Nam như Trung Quốc, Thái Lan, Lào và một bộ phận người
Mông hiện đang sinh sống ở Mỹ. Dân tộc Mông ở Việt Nam hiện nay đều có
nguồn gốc từ phương Bắc. Theo các nhà nghiên cứu, người Mông di cư sang
Việt Nam thì phần lớn là những người Mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc đều
24
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
di cư trực tiếp từ Quý Châu, Quảng Tây và Vân Nam (Trung Quốc) sang. Riêng
một số nhóm ở Thanh Hóa và Nghệ An di cư đến Việt Nam qua Lào. Người
Mông đến Việt Nam bằng các con đường khác nhau và chia thành nhiều đợt,
trong đó có 3 đợt:
Đợt di cư đầu tiên: Cách đây khoảng 18 đời (trên dưới 350 năm), có
khoảng 100 hộ thuộc họ Lù, Giàng từ Quý Châu (Trung Quốc) sang Đồng Văn,
Mèo Vạc (Hà Giang).
Đợt di cư thứ hai: Cách đây trên 200 năm, khoảng 12 đời. Với số lượng
khoảng trên 100 hộ. Người Mông từ Trung Quốc sang Việt Nam theo hai đường:
Một đường vào huyện Đồng Văn - Hà Giang, rồi phân tán dần đến Hoàng Su Phì,
chủ yếu là những hộ thuộc họ Vàng, họ Lý; một đường vào Si Ma Cai và huyện
Bắc Hà - Lào Cai với số lượng người ít hơn, thuộc các họ Vừ, Sùng, Vàng, Chấu.
Đợt di cư thứ ba: Đông hơn tất cả các cuộc di cư trước đây, (8 đời). Hơn một
vạn người Mông di cư vào Việt Nam qua các tỉnh: Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái,
Cao Bằng và một số địa phương khác. Phần lớn có nguồn gốc từ Quý Châu, một bộ
phận từ Vân Nam, Quảng Tây. Thời kì này diễn ra phong trào “Thái Bình Thiên
Quốc”chống nhà Mãn Thanh, kéo dài từ năm 1840 đến năm 1860 [14].
Về sau, người Mông di cư rải rác sang Việt Nam hàng năm. Các con đường
di chuyển của đồng bào là vào Đồng Văn rồi xuống Tuyên Quang.
Từ sau ngày đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới vào năm 1986, tình hình
di chuyển của người Mông luôn gia tăng, theo hai hướng Bắc - Nam và Đông - Tây.
Vì vậy, số địa phương có người Mông sinh sống ngày càng tăng lên đáng kể.
1.2.1.2. Đặc điểm về đời sống văn hóa - xã hội và kinh tế của dân tộc Mông
* Làng bản: Làng của người Mông có thể coi là điển hình cho cấu trúc cư
trú ở các tộc người vùng núi cao miền Bắc nước ta. Trên địa bàn của họ nơi nào
cũng thấy tái hiện một cơ cấu tổ chức thống nhất và tồn tại cho đến ngày nay.
Theo ngôn ngữ của người Mông (Mông Hoa, Mông Trắng, Mông Đen, Mông
Đỏ), làng được gọi bắng từ dò, còn nhóm Mông Xanh gọi bằng từ giào. Người
Mông giải thích dò và giào chỉ cái tổ, nói về khu vực có một nhóm người cùng
25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
làm ăn sinh sống,có những mối quan hệ họ hàng với nhau. Dò và giào là đơn vị
tổ chức xã hội cơ sở. Mỗi dò, giào có tên gọi riêng gắn bó với dân làng qua nhiều
thế hệ [34].
Người Mông có các hình thức cư trú:
Làng phân bố thành một khối dài theo địa thế của đồi núi hoặc triền sông,
mỗi nóc nhà cách nhau vài chục mét hoặc tách rời bởi những con đường mòn.
Hình thức cư trú đó chủ yếu ở Quản Bạ, Yên Minh (Hà Giang), Bắc Hà, Sa Pa
(Lào Cai), Mường Lống (Kỳ Sơn, Nghệ An).
Làng phân bố theo hình vành khăn từ lưng chừng núi lên dần phía đỉnh
núi. Nhà quay lưng vào núi. Kiểu cư trú này tương đối phổ biến ở Kỳ Sơn (Nghệ
An), Đồng Văn, Quản Bạ (Hà Giang), Sa Pa (Lào Cai).
Làng phân bố mật tập, mỗi làng vài chục nóc nhà, cùng quay về một hướng.
Làng phân bố thành từng cụm vài ba nhà ở một chỗ đất trên một khu vực
nhất định.
Làng phân bố lẻ tẻ, gồm vài ba nóc nhà rải rác ven rừng, sườn núi.
Bên cạnh nơi cư trú, làng nào cũng có đất đai để canh tác và khai thác
riêng (rừng núi, nguồn nước, nghĩa địa).
* Nhà: Nhà của người Mông về cơ bản có thể chia thành hai loại là nhà
định cư lâu năm và nhà du cư sống tạm. Người Mông dùng các vật liệu như gỗ,
song, mây, đá...để làm nhà. Họ thường đi khai thác vật liệu vào hạ tuần hàng
tháng âm lịch để chống mối mọt. Cấu trúc ngôi nhà gồm 3 gian. Ngoài ra, nhà
của người Mông thường có gác nhỏ để chứa lương thực, hoa màu hoặc thực phẩm
khô. Bàn thờ (xử ca) được đặt ở gian giữa. [34]
* Trang phục: Người Mông là cư dân trồng trọt, họ dệt vải từ cây có sợi thớ,
đó là cây lanh. Vải lanh rất bền và có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống của
người Mông. Theo phong tục, chàng trai Mông nào muốn đi hỏi vợ thì phải chuẩn
bị hai bộ quần áo cho bố và mẹ cô gái, khi chết, người Mông phải mặc quần áo bằng
vải lanh mới được về đoàn tụ với tổ tiên ở thế giới bên kia. Người Mông dù thuộc
nhóm địa phương nào đều phải mặc vải lanh nhuộm chàm, trừ váy của nhóm Mông
26
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Trắng là để nguyên vải mộc. Ngoài ra, người Mông còn sử dụng nhiều đồ trang sức
bằng bạc, hạt cườm và các tua vải màu. Người Mông dùng ô để che mưa nắng.
Người Mông xưa kia cả nam và nữ chủ yếu đội khăn. Bên cạnh đó, Tạp dề còn là
một bộ phận cấu thành trang phục của phụ nữ Mông. Họ thường đeo bên ngoài váy.
Dựa vào trang phục nữ để phân biệt giữa các nhóm.
Có thể nói, từ những nguyên liệu đơn giản lấy từ thiên nhiên, với óc thẩm
mỹ, sáng tạo và bàn tay khéo léo người Mông đã tạo ra những bộ trang phục độc
đáo, rực rỡ mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
* Gia đình người Mông (chí nình): Về kết cấu, gia đình thuộc loại gia đình
nhỏ: một vợ, một chồng; phổ biến là hai thế hệ gồm bố mẹ và con cái. Hình thái
gia đình mang tính phụ hệ rất rõ nét. Người chủ gia đình là ông hoặc bố, họ điều
khiển mọi công việc trong gia đình từ sản xuất, cưới xin, giao thiệp với bà con
làng xóm. Người phụ nữ thường được đối xử không công bằng so với nam giới.
Gia đình người Mông có tập tục thờ cúng tổ tiên, được hiểu là tập hợp những
quan niệm và các nghi lễ liên quan đến các cụ, ông, bà, bố, mẹ, những người
cùng dòng họ đã chết. Việc thờ cúng tổ tiên trong gia đình mang tính lưỡng
truyền. Bàn thờ tổ tiên (thà từ trung) của người Mông không có hình dạng cụ thể
mà chỉ được quy định là một tấm ván đối diện với cửa chính.
* Dòng họ người Mông (Sênh): Người Mông gọi dòng họ là Sênh với quan niệm cùng dòng họ là cùng tên như họ Hoàng, họ Thào, họ Sùng,... và có cùng một ông tổ, cùng một kiểu cúng tổ tiên. Một đặc trưng quan trọng là những quy định trong hôn nhân, tang ma và trong cuộc sống người Mông cấm kết hôn trong dòng họ. Trong sinh đẻ, người Mông cấm người khác họ, cho dù là con đẻ, được đẻ ở nhà mình. Trong tang ma, tuyệt đối kiêng người khác họ chết trong nhà mình [26].
Vai trò của trưởng họ của người Mông là tập thể những người già, am hiểu
phong tục, tập quán canh tác, sản xuất điều hành thông qua thảo luận bàn bạc.
* Lễ hội:Văn hóa của người Mông được bảo tồn, làm giàu và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hội Gầu Tào (chơi xuân ngoài trời) là một trong những
27
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
lễ hội tiêu biểu nhất của dân tộc Mông. Bên cạnh đó, người Mông còn có lễ Nào Sồng hay Nào Cống (lễ ăn ước hay ăn hội). Lễ Nào Sồng được tổ chức trong phạm vi từng bản.
* Tục lệ truyền thống trong vòng đời người Mông - Tín điều và nghi lễ trong sinh đẻ: Người Mông cho rằng nếu không có con gái thì tại vợ, không có con trai thì tại chồng. Người phụ nữ Mông có bầu không được đi đâu xa, không qua sông to, không động chạm mạnh, không được thay đổi giường ngủ. Khi nhà có người đẻ, người Mông lấy cành - lá xanh cài cửa vào nhà để làm dấu hiệu, kiêng cấm người lạ vào nhà thời gian này. Khi chuẩn bị đẻ, gia đình phải làm lễ “dề ca súa” để xua đuổi tà ma. Đỡ đẻ là mẹ chồng hoặc là mời bà mụ về đỡ. Nếu khó đẻ phải làm lễ vái mẹ chồng 3 vái hoặc cho sản phụ uống một bát canh do mẹ chồng nấu và đưa cho. Khó nữa thì làm lễ gọi hồn. Người đàn ông Mông thường có hai tên, một tên đặt sau khi sinh được 3 ngày, một tên đặt dùng khi cưới vợ và sinh con đầu lòng.
- Tín điều và nghi lễ trong cưới xin: Nguyên tắc hôn nhân của người Mông là “nội hôn tộc người, ngoại hôn dòng họ”. Nam nữ thanh niên tự do lựa chọn bạn đời, nhưng cưới xin phải theo phong tục truyền thống của gia đình và dòng họ. Nghiêm cấm kết hôn cùng họ nội. Trường hợp người anh chết, em trai có thể lấy chị dâu làm vợ, dù là vợ lẽ.
Lễ dạm hỏi: diễn ra vào tháng 7 - 8, nhà trai nhờ thầy cúng chọn ngày tốt để dạm hỏi. Theo phong tục, khi dạm hỏi, ông mối chính phải đeo một tấm yếm bụng (xé) đã được cuộn lại bởi dây vải quấn trên đầu phụ nữ. Nếu không có tấm yếm bụng nhà gái có thể không tiếp chuyện vì cho đây không phải là ông mối thực thụ.
Lễ báo cưới (tềnh nông shông): Nhà trai nhờ thầy cúng hoặc người già
biết xem ngày để tiến hành lễ cưới. Việc chọn ngày khá khắt khe, phải là ngày
chẵn trong tháng chẵn, vào ngày con dê, con rồng, con trâu (mùi, thìn, sửu).
- Tín điều và nghi lễ tang ma: Người Mông có quan niệm con người có 3
hồn (plì) trú ngụ trong cơ thể con người. Làm ma của người Mông có hai dạng:
làm ma tươi và làm ma khô [26].
* Sinh kế của người Mông
28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Để duy trì cuộc sống trên núi cao, người Mông đã sớm thích nghi với từng
vùng sinh thái và xác lập cho mình một hệ thống nông nghiệp hoàn chỉnh bao gồm
trồng trọt, chăn nuôi, khai thác nguồn lợi tự nhiên, làm nghề phụ gia và trao đổi hàng
hóa. Người Mông lấy nông nghiệp trồng trọt là chủ yếu và họ sớm biết đến những
trình độ canh tác ở trình độ khá cao. Ngoài ra, người Mông còn có truyền thống chăn
nuôi rất giỏi. Bên cạnh đó, nghề thủ công nghiệp của người Mông khá phát triển, sản
phẩm chủ yếu phục vụ cho nhu cầu sản xuất, sinh hoạt hàng ngày cả khi cần có thể
đem ra chợ bán. Với người Mông, rừng có ảnh hưởng rất sâu sắc đến mọi hoạt động
của họ. Đây chính là nơi cung cấp nhiều sản phẩm hái lượm phục vụ nhiều mục đích
khác nhau như chữa bệnh, nguồn thực phẩm, nguồn trao đổi.
Tiểu kết chương 1
Hệ thống KTBĐ có ý nghĩa rất to lớn đối với cộng đồng địa phương đã
sáng tạo ra nó, đặc biệt đối với đồng bào các DTTS. KTBĐ nảy sinh ngay trong
hoạt động sản xuất, thường xuyên được kiểm nghiệm qua quá trình sử dụng, luôn
có sự chọn lọc trong quá trình vận động của cuộc sống để ngày càng thích nghi
với môi trường của các cộng đồng người, KTBĐ luôn được kế thừa và phát triển,
truyền từ đời này qua đời khác, nó được hình thành để thích ứng với điều kiện
địa phương và cũng là cơ sở nền tảng để đưa ra các giải pháp phát triển kinh tế,
sử dụng hợp lý nguồn TNTN và bảo vệ môi trường.
Mỗi một dân tộc lại có những KTBĐ riêng trong sinh hoạt và sản xuất, điều
đó đã đóng góp cho sự tồn tại và phát triển bền vững của đất nước. Cộng đồng dân
tộc Mông là một trong những dân tộc thiểu số có hệ thống KTBĐ rất phong phú, đa
dạng mang đậm bản sắc dân tộc, đặc biệt là trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.
29
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Chương 2
CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC MÔNG Ở
HUYỆN MÈO VẠC TỈNH HÀ GIANG VÀ KIẾN THỨC
BẢN ĐỊA TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
2.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lí
Mèo Vạc là một huyện miền núi ở phía bắc tỉnh Hà Giang, trung tâm huyện
cách thành phố Hà Giang 164km và cách thủ đô Hà Nội hơn 480km. Huyện nằm
trong tọa độ từ 22022’- 33019’ vĩ độ Bắc, 105012’-105024’ kinh độ Đông. Phía
Đông giáp Trung Quốc và huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng; phía Nam giáp huyện
Yên Minh, Hà Giang và huyện Bảo Lâm, Cao Bằng; phía Tây giáp huyện Đồng
Văn; Phía Bắc giáp Đồng Văn, tỉnh Hà Giang và Trung Quốc. Mèo Vạc có tổng
diện tích tự nhiên là 574,18 km². Huyện gồm 1 thị trấn (Mèo Vạc, huyện lị) và
17 xã : Thượng Phùng, Pải Lủng, Xín Cái, Pả Vi, Giàng Chu Phìn, Sủng Trà,
Sủng Máng, Sơn Vĩ, Tả Lủng, Cán Chu Phìn, Lũng Pù, Lũng Chinh, Tát Ngà,
Nậm Ban, Khâu Vai, Niêm Tòng, Niêm Sơn.
2.1.2. Điều kiện tự nhiên
* Địa hình
Địa hình của huyện khá phức tạp, chủ yếu của là núi đá vôi, độ cao trung
bình 1150m so với mực nước biển, độ dốc trung bình là 25o-35o. Núi đá chiếm
hơn 34.000 ha, đất nông nghiệp chỉ chiếm gần 15.000 ha, lâm nghiệp hơn 10.000
ha, còn lại là đất chuyên dùng và đất ở. Về tổng thể, địa hình Mèo Vạc phân thành
ba tiểu vùng có địa hình, địa chất và thế mạnh kinh tế khác nhau.
30
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
- Tiểu vùng phía Nam gồm 4 xã: Niêm Sơn, Nậm Ban, Tát Ngà và Khâu
Vai. Tiểu vùng này được coi là tiểu vùng núi đất, nhưng đất cũng chỉ chiếm
khoảng 50%, độ dốc lớn.
31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Hình 2.1. Bản đồ hành chính huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang
- Tiểu vùng biên giới gồm 3 xã: Sơn Vĩ, Thượng Phùng và Xín Cái, đây
là ba xã biên giới huyện Mèo Vạc. Địa hình thấp dần từ biên giới Việt - Trung
xuống dòng sông Nho Quế.
- Mười một xã còn lại và thị trấn nằm trong tiểu vùng giữa của huyện. Khu
vực này nằm trên địa tầng đá vôi có nhiều khe, dốc, hố sụt địa chất và hầu như
không có suối hoặc khe nước, duy nhất có nguồn nước ở rừng đầu nguồn từ Dải
Chí Sán.
Như vậy ta thấy, với đặc điểm địa hình khá phức tạp có ảnh hưởng lớn tới
đời sống của cư dân nơi đây. Đặc biệt là giao thông đi lại khó khăn, do đó đã hạn
chế sự giao lưu kinh tế - văn hoá - xã hội giữa các vùng.
* Thổ nhưỡng
Mèo Vạc có những dải núi đá tai mèo sắc nhọn, những khe núi sâu và hẹp,
nhiều vách núi dựng đứng. Lớp thổ nhưỡng hình thành trên nền đá vôi bị phân
hoá mạnh, phần lớn lớp phủ thổ nhưỡng ở đây là loại đất đỏ xám hoặc vàng sẫm,
với thảm thực vật chủ yếu là các loại cây thấp, mật độ thưa. Tính đến năm 2015
tổng diện tích đất tự nhiên 57.418,21 ha, trong đó: Đất nông nghiệp là 47259,59
ha chiếm khoảng 82,32% diện tích đất tự nhiên; đất phi nông nghiệp là 1725,65
ha chiếm 3,0 %; đất chưa sử dụng (chủ yếu là núi đá không có rừng cây) là
8432,97 ha chiếm trên 14,68%. Trong tổng diện tích đất nông nghiệp thì đất sản
xuất nông nghiệp là 25620,15 ha; đất lâm nghiệp có rừng là 21638,40 ha. Trong
tổng diện tích đất phi nông nghiệp thì đất ở là 514,90 ha; đất chuyên dùng là
984,82 ha; còn lại là đất sử dụng vào mục đích khác. Trong tổng diện tích đất
chưa sử dụng thì đất bằng chưa sử dụng là 2,37 ha; đất đồi núi chưa sử dụng là
7417,95 ha; còn lại là núi đá không có cây rừng. Huyện có 17 loại đất chính,
trong đó đất xám feralit điển hình chiếm 12,28%; đất xám feralit đá sâu chiếm
14,11%, còn lại là các loại đất khác.
33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nhìn chung, tài nguyên đất của huyện rất đa dạng tạo nên một hệ thống thực
vật khá phong phú, hàm lượng chất dinh dưỡng trong đất tương đối khá nhưng thường
ở dạng cây trồng không hấp thụ được và địa hình chủ yếu là đất dốc.
* Khí hậu
Huyện Mèo Vạc nằm trong vành đai chí tuyến Bắc, mang khí hậu á nhiệt
đới - cận ôn đới. Khí hậu trong năm phân thành hai mùa tương đối rõ rệt. Mùa
khô (mùa đông) thường kéo dài từ tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau. Khí
hậu mùa này hết sức khắc nghiệt, khô, hanh, có nhiều ngày rét đậm, rét hại và
sương muối, nhiều năm có tuyết rơi. Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10
trong năm. Lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1.600 - 1700mm nhưng phân bố
không đều trong các tháng, các tiểu vùng.
Khí hậu nơi đây rất khắc nghiệt gây khó khăn cho sinh hoạt và sản xuất
của cư dân.
* Thủy văn
Do địa hình phân cắt mạnh nên huyện Mèo Vạc có rất nhiều khe suối. Các
khe suối này hầu như có nước quanh năm nhưng do địa hình phức tạp, độ dốc
lớn, lòng suối thấp nên khả năng phục vụ cho thâm canh cây trồng và sinh hoạt
còn gặp nhiều khó khăn.
Hệ thống sông của huyện Mèo Vạc ít, toàn huyện có hai con sông chảy qua
là sông Nho Quế và sông Nhiệm. Sông Nho Quế bắt nguồn từ Trung Quốc chảy
theo hướng Bắc - Nam qua địa phận huyện Đồng Văn, chảy qua 9 xã của huyện
Mèo Vạc với chiều dài là 20km. Sông Nhiệm bắt nguồn từ huyện Yên Minh chảy
qua ba xã phía nam của huyện Mèo Vạc là Nậm Ban, Niêm Sơn và Niêm Tòng với
chiều dài 8km. Sông Nho Quế và Sông Nhiệm hợp lưu tại nơi tiếp giáp với tỉnh Cao
Bằng. Với điều kiện tự nhiên không thuận lợi, hệ thống sông suối lại ít nên vào mùa
khô thường gây ra tình trạng thiếu nước sinh hoạt và sản xuất.
34
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
2.2. Dân cư và thành phần dân tộc
2.2.1. Dân cư
Tính đến hết năm 2015, dân số toàn huyện là 79819 người, trong đó có 3923
nữ và 40589 nam. Cư dân ở đây sống rải rác trên các sườn núi hoặc các thung lũng,
quần tụ theo dân tộc, dòng họ. Mật độ dân số trung bình là 139 người/km².
Bảng 2.1. Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2015
phân theo xã của huyện Mèo Vạc
Diện tích (Km²) Dân số trung bình (Người) Mật độ dân số (Người/ km²)
Tổng số
Nguồn: Phòng thống kê huyện Mèo Vạc
Thị trấn Mèo Vạc Xã Thượng Phùng Xã Pải Lủng Xã Xín Cái Xã Pả Vi Xã Giàng Chu Phìn Xã Sủng Trà Xã Sủng Máng Xã Sơn Vĩ Xã Tả Lủng Xã Cán Chu Phìn Xã Lũng Pù Xã Lũng Chinh Xã Tát Ngà Xã Nậm Ban Xã Khâu Vai Xã Niêm Tòng Xã Niêm Sơn 574,18 17 28,04 15,41 35,9 20,02 27,23 17,51 25,42 46,69 27,96 35,06 30,72 33,21 40,7 49,89 41,69 29,66 52,07 79819 5690 4413 2979 4833 2805 4730 4100 2694 6216 2688 5907 5163 3677 3398 3541 6880 5192 4913 139 334 157 193 134 140 173 234 105 133 96 168 168 110 83 71 165 175 94
Dân cư tập trung chủ yếu ở thị trấn Mèo Vạc (5690 người), xã Khâu Vai
(6880 người), xã Sơn Vĩ (6216 người), xã Cán Chu Phìn (5907 người), xã Niêm
Tòng,… tập trung ít nhất ở xã Sủng Máng (2694 người), xã Tả Lủng (2688
35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
người). Tỉ lệ sinh của toàn huyện đạt 25,33‰ (giảm 0,6‰ so với cùng kỳ năm
trước), tỉ lệ tử là 5,82 ‰ (giảm 0,24‰ so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ gia tăng
dân số tự nhiên là 19,50‰ (giảm 0,41‰ so với cùng kỳ năm trước).
2.2.2. Thành phần dân tộc
Theo số liệu điều tra, trên địa bàn huyện có gồm 17 dân tộc cùng sinh sống
như: Mông, Lô Lô, Dao, Giáy, Tày, Kinh, Nùng, Hoa, Sán Chay, Sán Dìu, Cờ
Lao, Pu Péo, Bố Y, Pà Thẻn….
Bảng 2.2.Thành phần các dân tộc huyện Mèo Vạc tỉnh hà Giang năm 2015
STT Dân tộc Dân số (người)
1 Mông 61723
2 Giáy 5342
3 Dao 4450
4 Kinh 2906
5 Tày 2445
6 Nùng 1690
8 Hoa 115
9 Lô Lô 971
177 10 Các dân tộc khác
Nguồn: Phòng thống kê huyện Mèo Vạc
79819 Tổng số
Trong đó, dân tộc có số dân đông nhất là dân tộc Mông 61723 người chiếm 77,33% dân số toàn huyện, thứ hai là dân tộc Giáy với 5342 người chiếm 6,69% dân số, dân tộc Dao 4450 người chiếm 5,58% dân số còn lại là các dân tộc khác. Đây cũng là một trong những địa phương mà người Mông chọn làm nơi định cư đầu tiên khi đến Việt Nam.
36
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
3,7%
Mông
3,1% 5,6% 3,6%
Giáy
Dao
6,7%
Kinh
77,3%
Tày
Các dân tộc khác
Hình 2.2. Biểu đồ thể hiện cơ cấu các dân tộc huyện Mèo Vạc năm 2015
Mỗi một dân tộc lại có nét văn hóa đặc trưng mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc riêng tạo nên một nền văn hóa vô cùng phong phú, đa dạng, đặc sắc với những nét đẹp văn hóa truyền thống và những phong tục tập quán trong hoạt động sản xuất, tạo nên những nét độc đáo và riêng biệt trên vùng cao nguyên đá hoang sơ, hùng vĩ.
37
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Hình 2.3. Bản đồ phân phân bố dân cư và cơ cấu dân tộc huyện Mèo Vạc
2.3. Đặc điểm cấu trúc cộng đồng và bản sắc văn hóa dân tộc Mông ở huyện
Mèo Vạc
2.3.1. Tên gọi và nguồn gốc của dân tộc Mông
Dân tộc Mông là một trong những DTTS có số dân đông nhất hiện nay ở
Hà Giang. Người Mông sinh sống chủ yếu ở các huyện vùng cao như Mèo Vạc,
Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ, Xí Mần, Hoàng Su Phì và rải rác ở một số huyện
khác trong tỉnh. Người Mông ở Mèo Vạc chủ yếu là Mông Trắng. Tộc danh đó
cũng dùng thống nhất cho người Mông ở các nước khác như Trung Quốc, Thái
Lan, Lào... nói chung và Việt Nam nói riêng. Từ xa xưa người Hán đã gọi người
Mông là người Mèo. Đó là từ để chỉ một bộ lạc biết trồng lúa rất sớm ở vùng hồ
Động Đình (Trung Quốc). Từ thế kỷ XIX trở về trước, các tầng lớp phong kiến
gọi người Mèo cũng như các dân tộc thiểu số khác là “Man” hay “Mán”, về sau
trong các tài liệu “Bắc cương kỳ giới”, “Đại Nam nhất thống chí” có chép là
“Miêu tộc” hay “Miêu dân”. Người Mèo lúc đó có 3 ngành theo màu sắc y phục:
38
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Mèo Trắng, Mèo Đen và Mèo Xanh. Ban đầu người Mông mới di cư sang Việt
Nam thì các dân tộc khác căn cứ vào chiếc áo của họ có thêu nhiều màu sặc sỡ
như cánh bướm, nên họ gọi người Mèo là người “Bươm bướm”. Tên gọi Mủo
hay Mèo hay Miêu là những tên gọi, còn Hmông hay Mông là tên tự gọi của
người Mông có nghĩa là “Người”.
Theo truyền thuyết Trung Quốc thì người Mông xuất hiện sớm nhất ở lưu
vực sông Hoàng Hà - Trung Quốc, cách đây 5000 năm đã có liên minh bộ lạc do tù
trưởng Suy - Vưu chỉ huy. (Suy Vưu tức là Vua của Cửu Lê). Sau đó bị bộ lạc du
mục người Hán, do tù trưởng Hiên - Viên chỉ huy di cư từ phương bắc xuống, đánh
bại bộ lạc nông nghiệp người Mèo và xưng vua, lấy hiệu là Hoàng đế (vào khoảng
2700 năm trước công nguyên). Lúc đầu người Mông cư trú ở phía bắc sông Hoàng
Hà, giai đoạn phát triển nhất của họ là Tam Miêu. Về sau, dưới ách thống trị của
Hoàng đế, người Mông luôn nổi dậy chống lại nhưng thường bị thất bại và bị đàn
áp dã man, nên họ di cư dần về khu vực hồ Động Đình và hồ Bành Lãi. Trải qua
quá trình lịch sử lâu dài, người Mông xây dựng nước Tam Miêu và đóng đô ở
Trường Sa. Địa vực Tam Miêu lúc đó gồm Giang Tô, Triết Giang, Hoãn Nam,
Giang Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc và Dự Nam. Về sau thế lực của người Hán ngày càng
phát triển về phía nam, người Miêu không chống lại được nên phải lùi dần về hạ
lưu sông Dương Tử, rồi vượt qua con sông này về phía Nam và Tây Nam, sống trên
dãy núi Nam Lĩnh, sau này gọi là Miêu Lĩnh. Dãy núi này nằm ở biên giới các tỉnh
Quảng Tây (Quế), Hồ Nam (Tương), Quý Châu (Kiềm), Tứ Xuyên (Xuyên), Hồ
Bắc (Ngạc), lấy Nguyên Giang làm trung tâm. Sau đó, người Miêu di cư dần vào
các tỉnh trên và sang cả đảo Hải Nam.
Người Mông di cư vào Mèo Vạc vào đợt thứ nhất, cách đây trên 300 năm,
thuộc các họ Lù, Giàng từ Quý Châu (Trung Quốc). Đợt di cư này tương ứng với
phong trào của người Mông chống lại chính sách “Cải tổ quy lưu” đó là chính sách
xóa bỏ chế độ tù trưởng của người Mông ở Quý Châu và triều đình trung ương đưa
bọn quan lại người Hán đến trực tiếp cai trị. Phong trào kéo dài từ cuối đời Minh cho
đến đầu đời nhà Thanh (TK XVII - XVIII), cuối cùng đều thất bại. Từ đây, họ bắt
đầu tiếp tục di cư vào sâu hơn đến các tỉnh thuộc Đông Bắc Việt Nam.
39
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Có thể nói, người Mông vào Việt Nam là do nguyên nhân: trong lịch sử
các triều đại phong kiến Trung Hoa đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh tàn bạo và
đẫm máu, đàn áp nhiều tộc người (trong đó có dân tộc Mông), để giành quyền
cai trị đất nước, làm người Mông phải thiên di đi khắp nơi. Điểm đầu tiên, họ đặt
chân đến là Mèo Vạc trên cao nguyên Đồng Văn (Hà Giang), nơi địa đầu Tổ
quốc Việt Nam. Vì thế, người Mông sinh sống ở Việt Nam đều coi cao nguyên
Đồng Văn là quê hương đất tổ của mình. Tuy có nhiều nhóm Mông khác nhau
nhưng về ngôn ngữ và văn hoá cơ bản giống nhau, sự khác nhau giữa các nhóm
chủ yếu là dựa trên trang phục phụ nữ.
2.3.2. Địa bàn cư trú
Người Mông cư chú chủ yếu ở những vùng núi cao có độ cao 800 - 1700m
so với mặt biển. Đó là những nơi có địa hình hiểm trở, vách núi đá dựng đứng
trong hẻm núi sâu tựa những ốc đảo. Đây là những nơi không thích hợp với điều
kiện sống của các dân tộc khác, do đó đặc điểm cư trú của người Mông là cư trú
biệt lập, ít có quan hệ với dân tộc khác. Trên địa bàn huyện, xã có người Mông
sống đan xem với các dân tộc khác như Lô Lô, Giáy, Dao...Tuy nhiên,họ vẫn sống
tập trung thành trong những vùng rõ rệt, họ quan niệm đó là dò, giào (làng) của
mình. Đặc điểm này phản ánh truyền thống khép kín, tính cố kết tộc người của họ.
Tên làng thường được đặt dựa vào đặc điểm tự nhiên nơi cư trú. Ví dụ: thôn Ha
Cá, thôn Cò Súng, thôn Lũng Làn... Làng của người Mông ở Mèo Vạc thường
phân bố thành một khối dài theo địa thế của đồi núi hoặc triền sông, mỗi nóc nhà
cách nhau vài chục mét, hoặc bởi những con đường mòn. Họ cư trú tập trung vài
chục nóc nhà, cũng có chỗ có vài ba nhà ở trên một địa vực nhất định, có nơi phân
bố lẻ tẻ ven rừng, sườn núi. Một đặc điểm nổi bật là trong từng khuôn viên của
mỗi gia đình đều được rào bằng tường đá hoặc hàng rào tre và gỗ, nhằm mục đích
phòng thủ, bảo vệ người, gia súc, của cải nếu có sự tấn công bằng vũ lực từ bên
ngoài, phòng ngừa thú dữ. Ngoài ra, mỗi làng còn có các khu vực công cộng như
bãi chơi, bãi thả trâu bò [14].
2.3.3. Phong tục tập quán của dân tộc Mông
2.3.3.1. Hình thức cư trú
40
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Trước kia, làng của người Mông chỉ có từ 10 đến 15 hộ, nhiều làng có từ
5 đến 7 hộ. Ngày nay, chủ yếu là làng có từ 30 đến 50 hộ. Nơi được chọn lập
làng là nơi có nguồn nước chung cho cả người và gia súc. Làng có ranh giới qua
sự thỏa thuận bằng miệng giữa các trưởng làng (chư dò) của các làng gần nhau
trước sự chứng kiến của các cấp chính quyền xã. Ranh giới đó luôn được mọi
người tôn trọng, duy trì, hiếm khi có ai vi phạm.
Làng của người Mông quần tụ theo dòng họ, một làng trung bình từ 2 đến
3 họ, làng lớn có 6 đến 7 họ. Tuy cùng sống trong một làng nhưng các dòng họ
cư trú thành từng cụm riêng gọi là Y Chua Sểnh. Điều này thể hiện sự gắn bó
giữa những người cùng dòng họ và được người Mông nói thành khẩu ngữ: “ Anh
em ghét nhau không bỏ được cái ma, vợ chồng ghét nhau không bỏ được cái
giường”. Chính điều đó thể hiện tình cảm khăng khít giữa những người mà họ
gọi là “ thùng sểnh, thùng đa” (cùng họ, cùng ma). Mọi thành viên trong làng
đều có quyền sở hữu chung rừng núi, sông suối, đồi cỏ, bãi chăn thả. Từng gia
đình thuộc các dòng họ khác nhau có quyền phát nương, gieo trồng ở khu rừng
do mình chọn (trừ khu rừng cấm và đất có chủ).
Nhà trình tường đất của người Mông thường dựng trên các triền núi. Đó
là những ngôi nhà trệt. Để chống thời tiết lạnh giá, gió rét, sương muối. Ngôi nhà
thường thấp, kín đáo và vững chắc. Nhà thường có ba gian, hai chái, cửa chính
ở giữa, cửa phụ ở hai bên đầu hồi, gian giữa có cửa chính nhìn về phía trước nhà.
Đây là gian tiếp khách. Vách sau của gian giữa là chỗ thiêng. Ở gian bên cạnh
có buồng ngủ và bếp. Ở đầu nhà có một cửa phụ đó chính là lối ra vào. Hàng
ngày người trong gia đình chủ yếu đi lại bằng cửa này. Xung quanh nhà thưng
ván, vách nứa hoặc xếp đá. Nhà những người Mông khá giả thường làm khá
rộng, cột gỗ kê đá, đeo hình đèn lồng hay quả bí. Gian giữa là nơi để thờ và để
dụng cụ sản xuất. Bàn thờ rất đơn giản đó là mảnh giấy được gắn mấy chiếc lông
gà, chấm tiết rồi dính vào vách sau của gian giữa. Đối với nhà có người làm nghề
thầy thuốc hoặc thầy cúng thì có thêm bàn thờ riêng. Hai gian hai bên một bên
là buồng ngủ, một bên là bếp lò. Tùy theo gia chủ họ gì sẽ có cách bố trí riêng.
41
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Ví dụ, họ Thào, họ Giàng đặt bếp lò và buồng ngủ bên phải, còn họ Lù, họ
Mùa...thì đặt bên trái. Cửa chính thường treo một miếng vải đỏ hình chữ nhật,
hoặc tờ giấy bản để cầu phúc. Người Mông thường dựng nhà theo hướng Tây
hoặc Đông. Trước khi làm nhà người ta chọn đất xem đất lành hay đất xấu, bằng
cách người ta đào ba cái hố, một nơi đặt bàn thờ, một nơi đặt bếp lò, một nơi làm
phòng khách. Sau đó đặt ba bát gạo hoặc hạt ngô xuống ba hố đó rồi lấy bát úp
lên. Sáng hôm sau mở ra, nếu hạt gạo không thay đổi vị trí là đất tốt, ngược lại
là đất xấu. Nếu bị kiến tha đi là đất rất xấu. Khi dựng nhà quan trọng nhất là dựng
“cột ma”. Chủ nhà phải mổ lợn, gà để cúng “cột ma”. Phải chọn ngày, giờ tốt để
dựng “cột ma”. Sau khi làm xong phải làm lễ “ma nhà”, “cột ma”. Chủ nhà là
người nhóm bếp lửa đầu tiên để khai mở cuộc sống cho ngôi nhà mới.
2.3.3.2. Văn hóa ẩm thực của người Mông
Người Mông thường ăn ngô đồ hay cơm và rau xào với mỡ làm canh.
Nhưng món ăn chủ đạo vẫn là ngô đồ hay còn gọi là mèn mén. Gạo tẻ thường đồ
như ngô, còn gạo nếp được dùng làm bánh trưng, bánh dày ăn trong những dịp
lễ tết. Người Mông thường ăn thìa bằng gỗ, đũa chỉ là phụ.
Thắng cố (canh chảo) đây là một món ăn đặc trưng của người Mông. Món
này được chế biến bằng cách tất cả các loại thịt, xương, tim, gan, lòng phổi của
con vật như dê, trâu, bò, ngựa...được thái thành miếng nhỏ nấu chung vào một
chảo canh. Người Mông thường nấu thắng cố vào các dịp như cưới xin, ma chay,
lễ...Khi đi chợ phiên người Mông thường hay mua món “thắng cố” ăn với cơm
mang sẵn từ nhà đi.
Người Mông rất thích ăn tiết lợn, dê. Riêng tiết gà chỉ dùng cho lễ kết nghĩa
anh em, nhận họ hàng, người thân. Mỗi họ của người Mông đều kiêng ăn một số
loại con vật hay hóa quả. Ví dụ, họ Giàng kiêng ăn tim lợn, họ Thào kiêng ăn dưa
chuột... Mâm cơm cúng cũng quy định số bát đũa khác nhau tuy theo dòng họ. Ví
dụ, họ Vàng bày 33 bát, họ Mùa bày 19 bát, họ Sùng bày 13 bát.
Đồ uống của người Mông khá đơn giản. Họ thích uống rượu, chủ yếu là
rượu ngô, sắn và một số cây rừng.
42
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
2.3.3.3. Trang phục của người Mông
Trang phục của người Mông rất sực sỡ và đa dạng với nhiều màu sắc, họa
tiết. Mỗi một nhóm Mông lại có bộ trang phục riêng. Chất liệu vải lanh và màu
sắc nhuộm chàm đã tạo nên nét riêng của y phục Mông. Ở huyện Mèo Vạc với
100% là người Mông Trắng. Trang phục của phụ nữ nhóm Mông Trắng để
nguyên vải mộc không nhuộm tràm. Một bộ trang phục cổ truyền gồm váy, áo
xẻ ngực có yếm lưng, tấm vải che váy trước, thắt lưng, vuông vải che đằng sau,
khăn cuốn đầu, đội xà cạp... Ngoài ra, còn có đồ trang sức như khuyên tai, vòng
cổ, vòng tay, bộ xà tích, nhẫn. Màu sắc trang trí trên trang phục của người Mông
rất sặc sỡ gồm các màu kết hợp đỏ, xanh, đen. Kỹ thuật tạo hoa văn trên trang
phục kết hợp giữa thêu, dệt, ghép màu và in sáp ong. Để tạo hoa văn trên trang
phục, người Mông chủ yếu là thêu, thêu khá độc đáo, không vẽ sẵn mà chỉ nhìn
vào mẫu hoặc theo các mẫu đã thuộc lòng; thêu mặt trái, hoa văn lại nổi lên ở
mặt phải.
Người Mông cũng rất khéo tay trong việc in hoa văn bằng sáp ong, ghép
vải trên y phục, tạo sự phong phú về hoa văn, đồng thời với các khổ ghép vải bên
cạnh các đường thêu thanh mảnh, tạo cảm giác hoa văn biến hóa. Trong y phục
của người Mông, còn có áo cúng bò, tức là áo mặc trong lần giết bò làm ma cho
bố mẹ. Đó là kiểu áo tứ thân làm bằng vải lanh trắng dài và rộng, xẻ ngực. Cũng
như áo cúng bò, áo mặc khi chết được khâu bằng vải đẹp và nhất định phải là vải
lanh. Kiểu áo này không cài cúc, cổ áo tương tự như kiểu áo của phụ nữ.
Váy của người Mông có hình nón cụt, thường xếp ly với khoảng 200 nếp
xếp ly, xòe rộng rất đẹp và đặc trưng, chiếc váy của người Mông Trắng có màu
trắng không thêu thùa hoa văn.
Phụ nữ Mông thường hay dùng xà cạp để quấn chân với mục đích chống rét, nam giới trước kia cũng dùng, nhưng nay phần lớn không dùng. Xà cạp được làm bằng vải đen hay xanh cắt chéo hình tam giác, với chiều rộng khoảng 20cm và chiều dài khoảng 100cm. Xà cạp dùng ban ngày nhưng mùa rét họ quấn cả ban đêm khi đi ngủ.
43
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Tạp dề của người Mông Trắng bằng vải phin hoa, phía trước có thêm
những dây vải màu nhỏ, phần gấu có thêu hoa văn hoặc ghép vải màu.
Trang phục của đàn ông Mông có một kiểu, áo cài vạt sang một bên, ngắn lửng để hở một khoang bụng, áo thường ngắn, phía trước chỉ đủ che một phần ngực, quần chân què, không dài lắm nhưng đũng và đùi rất rộng, rất ít trang trí hoa văn thêu thùa. 2.3.3.4. Văn hóa gia đình và dòng họ của người Mông
Gia đình người Mông thuộc loại nhỏ và chỉ có 6 đến 8 người. Nhiều gia đình gồm hai đến ba thế hệ. Trong gia đình quyền hành thuộc về người cha, người ông, người bố. Người đàn ông trong gia đình quyết định việc chi tiêu, mua sắm, buôn bán... Khi trong nhà có việc cưới hỏi, tang ma quyền quyết định thuộc về người chồng, người cha. Người đàn ông Mông gánh vác mọi công việc nặng nhọc như cày, bừa, đốn gỗ, rèn, làm mộc... đặc biệt phải biết cúng bái tổ tiên, thay mặt gia đình trong mọi công việc của làng xóm. Người phụ nữ Mông chăn gia súc, lo việc bếp núc, thêu thùa, lấy củi, dệt vải, hái rau.
Trước đây mỗi làng chỉ có một dòng họ nhưng ngày nay mỗi làng đã có từ hai đến ba dòng họ sống xen kẽ nhau. Các họ Mông có rất nhiều tên gọi riêng: Thào, Ràng, Vàng, Mùa,... Tên mỗi họ đều liên quan đến một số con vật, loài cây, đồ vật, màu sắc như Sùng là Gấu, Mã là ngựa, Giàng là dê, Thào là đào, Lù là xanh.
Hàng năm, họ thường làm lễ “ma bò” (nhuz dăngz) đây là lễ của con cháu trong dòng họ cúng báo hiếu ông bà, cha mẹ. Ngoài ra, người Mông còn tổ chức lễ đuổi tà ma (ngu tâu hay tuz su).
Nam nữ Mông thường lập gia đình sớm, nhiều trường hợp con trai 12 - 13 tuổi đã có vợ. Vợ thường hơn chồng 5 - 7 tuổi. Con gái Mông đến tuổi đôi mươi mà chưa có chồng được cho là “quá lứa”.
Gia đình của người Mông là một vợ một chồng, cư trú bên nhà chồng. Hôn nhân ngoài dòng họ là nguyên tắc cơ bản và bất biến. Người Mông có tục “cướp vợ” và tồn tại hình thức chị dâu - em chồng, con cô - con cậu. Người Mông thường dùng tiếng khèn, hát đối đáp, qua hội ném pao để gặp gỡ tâm sự. Khi yêu người con trai trao cho người con gái kỉ vật để làm tin, nếu ba ngày người con gái không
44
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
trả lại có nghĩa là đã ưng thuận. Đó là bằng chứng để chàng trai có thể “bắt” cô gái về làm vợ trước khi cưới và là cái cớ để cãi lý khi nhà gái phản ứng.
Lễ cưới: Thường tổ chức từ tháng 10 đến tháng 12 âm lịch, kiêng vào các ngày mưa có sấm sét. Lễ cưới tổ chức ở nhà gái trước, đoàn nhà gái bao gồm 2 ông mối, chú rể, phù rể, chú ruột, bà thím, một người con gái cầm ô che cô dâu, một người làm bếp, 1 - 2 người gánh đồ sính lễ. Đi lẻ về chẵn. Người Mông có tục lệ dừng giữa đường ăn cơm nắm. Khi đến nhà gái, nhà gái mở cửa chính đón đoàn nhà trai đến xin đón dâu.Sau khi ăn uống xong, nhà gái tiến hành các nghi lễ: Lễ tiễn ông mối (cha mè công sờ kề); Lễ cho của hồi môn; Dặn dò cô dâu. Theo tập tục của người Mông, bố mẹ cho con gái bộ váy, chiếc vòng bạc, một con lợn lái, một cái chăn, hai cái bát...Chiếc vòng bạc được đeo ở cổ được coi là kỷ vật thiêng liêng nhất, cô gái phải có nghĩa vụ gìn giữ suốt đời, không được bán và tặng người khác. Giá trị tượng trưng của vòng bạc bằng một con bò, nếu khi cô gái chết hoặc ly dị vợ thì nhà trai phải đền bằng một con bò. Khi ra đến cửa, cô dâu phải khóc thật to để thể hiện mình có hiếu. Đón dâu về đến nhà chồng, cô dâu phải đứng ngoài cửa để làm lễ đuổi ma ngoại (lử cai) và các tà ma bám theo cô dâu và đoàn người đón dâu. Trong hai ngày đầu nhà chồng, cô dâu không được ra ngoài nhà, chủ yếu ở trong buồng. Sau ba ngày, tổ chức lễ lại mặt (pổ pây thầy kì). Bố mẹ, đôi vợ chồng mới cưới về để nhận mặt thông gia, lễ vật mang về nhà gái gồm 1 chai rượu, 1 kg thịt lợn. Sau này nếu có bất hòa, vợ chủ động bỏ chồng phải trả tiền cưới, nhưng nếu chồng chủ động bỏ vợ mà có sự thông báo trước cho nhà gái thì không phải trả khoản đó. Người Mông có tục cưới rể nhất là gia đình hiếm con. Cưới rể thì nhà gái chịu mọi tổn phí như cưới dâu. Cưới rể thường đắt hơn mua dâu. Đối với tục bắt - kéo vợ, sau khi bắt được vợ ngay lúc về phải làm lễ nhập ma của họ nhà trai. Làm lễ nhập ma xong, cô dâu chú rể làm lễ trước bàn thờ tổ tiên nhận mặt và phù hộ. Em gái chồng hoặc mẹ chồng dẫn cô dâu vào buồng. Sáng hôm sau, nhà trai cử người sang thông báo cho nhà gái biết. Ông mối có lời xin lỗi nhà gái, lúc này nhà gái mới mở cửa để đón nhà trai vào. Sau khi báo tin cho nhà gái biết, thì tiến hành lễ cưới bên nhà trai trước gọi là lễ làm vía (húp plì) cho vợ chồng, sau đó mổ lợn làm cơm mời ông mối.
45
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
2.3.3.5. Tín ngưỡng của người Mông
Trong các hình thức tín ngưỡng - tôn giáo của người Mông thì thờ cúng tổ
tiên và đặc biệt là sa ma giáo khá phát triển. Người Mông tin rằng mỗi người đều
có ba hồn (pli). Hồn chính (thà plì) ở đỉnh đầu điều khiển mọi hoạt động của cơ thể;
hồn thứ hai nằm ở bụng điều khiển sự uống và phần nội tạng; hồn thứ ba nằm ở gần
ngực nơi tim với chức năng điều khiển sự sống của hai hồn trên. Nếu một trong ba
hồn bỏ đi con người sẽ bị ốm. Đồng bào thường đeo vòng vía, tượng trưng cho
chiếc chìa khía, được thấy cúng làm phép để ngăn hồn bỏ đi.
Thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng quan trọng của người Mông. Nơi thờ
tổ tiên chỉ có người đàn ông mới được đến gần. Tổ tiên được coi là ma lành luôn
phù hộ con cháu. Vốn theo hình thức phụ quyền nên tổ tiên trong nhà cũng đồng
nhất là tổ tiên nhà chồng; vai trò tổ tiên bên vợ hầu như không có ảnh hưởng và
tác động đến các nghi lễ. Người Mông thờ tổ tiên ba đời: đời bố, đờ ông, đời cụ.
Nếu như có thế hệ liền kề mất đi thì đời cụ được coi là đã đầu thai sang kiếp khác
và đẩy các thứ bậc cúng lên một bậc. Quan niệm này được thể hiện trong các bài
cúng vào dịp lễ, tết, mùng một, ngày rằm.
Người Mông còn thờ cúng một hệ thống các loại ma nhà (xưv căngz ) là vị
thần linh quan trọng nhất cai quản của cải, tiền bạc, giữ gìn các hồn ma trong nhà.
“ Ma cột chính” (cundêx dăngz) đây là cột linh thiêng thờ ma lợn, tượng
trưng cho sự hưng thịnh, liên quan tới sức khỏe và vận mệnh mỗi gia đình.
“Ma cửa” (khaortrôngx plangl) là vị thần linh chuyên canh giữ cửa, ngăn
các ma ác vào nhà, bỏ vệ gia súc, của cải, không cho các hồn bỏ đi.“ Ma buồng”
liên quan đến chăm sóc,bảo vệ trẻ em. “ Ma bếp lò” liên quan đến việc sinh nở.
“Ma bếp lửa” là vị thần tiêu diệt ma ác.
Sa man giáo là hình thức tôn giáo chuyên biệt, có người chuyên hành
nghề. Giống nhiều dân tộc khác, người Mông cũng có một số ma thuật. “ Ma
thuật làm hại” đây là cách chém bóng. Người ta tin rằng làm ma thuật này kẻ thù
sẽ bị tiêu diệt.
46
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
“Ma thuật phòng ngự” người Mông thường đeo những vật kỵ ma như răng
lanh lợn lòi, vuốt hổ... Những vật này tượng trưng cho sức mạnh và ngăn cản
được phép thuật của kẻ thù. “Ma tình yêu” người Mông cho rằng muốn yêu một
người nào đó chặt đứt đuôi của hai con rắn đang giao cấu, lấy máu rắc vào cành
cây, đặt vào lối người yêu mình đi. Người đó dẫm vào cành cây sẽ tự khắc phải
lòng mình. Khi tình yêu bị phản bội, lấy tóc hoặc khăn đội đầu của người bội bạc
trộn với lá ngón và chôn ở ngã ba đường. Làm như vậy người ta tin kẻ bội bạc
sẽ dần ốm đau mà chết.
2.3.3.6. Văn hóa nghệ thuật truyền thống của người Mông
Người Mông có một kho tàng văn học dân gian hết sức phong phú và đa
dạng với rất nhiều thể loại khác nhau phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan,
cuộc sống lao động vất vả, đấu tranh của dân tộc mình. Đặc biệt sử thi Mông
được lưu truyền từ đời này sang đời khác, thật sự là những tác phẩm văn học có
giá trị cao: Tiếng hát làm dâu, Tiếng hát mồ côi, Tiếng hát tình yêu...Nam nữ
Mông ai cũng biết hát dân ca người ca và sử dụng thành thạo nhiều nhạc cụ, gẩy
đàn môi, thổi khèn lá.
Trai gái Mông rất thích tụ họp để hát giao duyên (gầu plềnh) nhất là vào các
dịp lễ tết. Họ hát để thi tài hoặc trai gái tìm hiểu nhau. Bên cạnh đó, chàng trai Mông
thường thể hiện tài năng của mình bằng những điệu múa khèn rất đặc sắc.
Vào dịp Tết Nguyên đán là ngày hội lớn của người Mông. Hội Gầu Tào
được tổ chức vào những ngày đầu năm mới, là lễ hội quan trọng của người Mông
nhằm cầu phúc, cầu sức khỏe và mùa màng. Lễ hội này diễn ra vào mùa xuân,
trong khoảng thời gian từ ngày mùng một đến ngày mười lăm tháng giêng, diễn
ra trong năm ngày liền. Ngày đầu và ngày cuối là phần lễ, ba ngày giữa là phần
hội. Hội Gầu tào được tiến hành ở chỗ đất rộng, có địa hình tương đối bằng
phẳng, thuận tiện cho việc đi lại, vui chơi, nhảy múa. Mỗi khi mở hội, một gia
đình trong bản đứng ra làm chủ lễ. Khi định ngày tổ chức thông báo cho dân bản
và anh em họ hàng gần xa đến dự.
47
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Trước khi mở hội, người ta dựng một cây nêu (cây bương hoặc cây tre)
còn cả ngọn ở địa điểm đã lựa chọn. Trên ngọn cây treo một trai rượu hoặc tấm
vải đỏ với ý nghĩa báo hiệu cho thần trời và tổ tiên về vui xuân cùng gia đình,
con cháu. Vào ngày khai hội, người ta dựng đàn cúng ở ngay chân cột cây nêu
và mổ một con lợn to để cúng tạ ơn thần trời và tổ tiên đã phù hộ, đồng thời xin
phép thổ thần cùng các loại ma xung quanh địa điểm vui chơi.
Phần hội được tổ chức rất vui, thu hút mọi lứa tuổi tham gia. Các cô gái
mặc những bộ quần áo mới và mang theo ô, đàn môi. Các chàng trai mang theo
khèn, sáo, nhị. Các em thiếu niên mang con quay, có người mang theo chim,
ngựa, gà để so tài với nhau.
Trong ngày hội người Mông tổ chức nhiều trò chơi hấp dẫn như đấu vật,
đua ngựa, bắn súng, bắn nỏ, chọi chim, chọi gà, ném còn, đánh quay, múa khèn,
thổi sáo,... Đặc biệt, là hát đối đáp. Khi tham gia trò chơi này, các chàng trai, cô
gái Mông luôn trổ hết tài năng, tìm cách làm quen, bày tỏ tình cảm với người
mình yêu.
Có thể thấy rằng Hội Gầu tào của người Mông là một hoạt động văn hóa
đặc sắc, vừa mang ý nghĩa mừng công lao động, cầu chúc sức khỏe, cầu sinh sôi
nảy nở, vừa là hội thượng võ và sinh hoạt văn hóa nghệ thuật của các thành viên
thuộc các thế hệ khác nhau trong cộng đồng.
Đặc biệt hơn cả, nơi đây còn có chợ tình Khâu Vai. Chợ tình người ta đến
không chỉ để mua sắm mà còn để gặp lại bạn tình xưa. Cả nhà từ ông, bà, bố,mẹ,
con cái cùng đi mà không có sự ghen tuông hay đố kỵ. Những đôi lứa ngày xưa
yêu nhau gặp lại để tha thiết tâm tình. Tan chợ ai về nhà nấy nếu còn quyến luyến
vấn vương thì lại đợi ngày này phiên chợ năm sau. Đây là một hình thức sinh
hoạt văn hóa hết sức độc đáo mang tính nhân văn sâu sắc.
2.4. Kiến thức bản địa trong hoạt động sản xuất nông nghiệp
2.4.1. Trong hoạt động trồng trọt
2.4.1.1. Lựa chọn đất canh tác
48
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Kinh nghiệm canh tác nương rẫy đã trở thành tài sản của người Mông.
Quy trình canh tác nương rẫy được tuân thủ theo một trình tự: phát - dọn, đốt -
chọc lỗ - tra hạt, trồng tỉa - làm cỏ - chăm bón - thu hoạch - bảo quản. Dù là canh
tác trên loại nương nào thì công việc quan trọng đầu tiên vẫn là chọn đất.
* Lựa chọn đất làm nương
Người Mông chủ yếu cư trú ở rẻo cao, nơi có địa hình hiểm trở, núi non
trùng điệp. Mèo Vạc (Hà Giang) là vùng núi đá tai mèo, khí hậu quanh năm mát
mẻ, mùa đông giá rét. Người Mông sống ở đây lấy nông nghiệp trồng trọt là chủ
yếu, với phương thức canh tác là thổ canh hốc đá, nương cày cuốc và ruộng bậc
thang. Mặc dù thời tiết, chế độ thủy văn và địa hình hiểm trở nhưng người Mông
ở Mèo Vạc sớm biết đến những kĩ thuật canh nông ở trình độ khá cao. Trong
canh tác, người Mông cũng tuân thủ các quy trình chung như mọi cư dân nông
nghiệp khác, nghĩa là cũng bắt đầu từ việc chọn đất, gieo trồng, chăm sóc và thu
hoạch, bảo quản.
Người Mông gọi nương rẫy bằng một từ chung là tế, đó là những khoảnh
đất do đốt rừng, chặt cây theo lối “đao canh, hỏa chủng”. Căn cứ vào cây trồng
có các loại nương: nương lúa (tế blê), nương ngô (tế pó cừ), nương lanh (tế
măng)... Nhưng loại nương theo địa thế canh tác là phổ biến hơn cả như nương
bằng (tế Tìa) và nương dốc (tế xá). Tế Tìa là loại nương tương đối bằng phẳng ít
đá lộ, canh tác tương đối thuận lợi, năng suất mùa màng khá cao, chiếm diện tích
nhỏ, khoảng 5% diện tích toàn huyện. Tế xá là nương dốc hay nương thổ canh
hốc đá, chia làm hai loại: Xùa tế là loại nương có nhiều hốc đá nằm kề nhau,
trong các hốc đá, khe đá có sẵn một ít đất. Dầu tế là loại nương gồm những hốc
đá có khoảng rộng 3 - 4 mét vuông, ở những nơi tảng đá rộng, bề mặt tương đối
bằng phẳng, người Mông nơi đây phải gùi đất đổ lên bề mặt và tiến hành canh
tác như xùa tế. Người ta rất giỏi trong việc phân biệt nương đá với nương đất.
Theo kinh nghiệm, họ cho rằng nương đá chiếm tới 80% là đá, 20% là đất; ngược
lại, nương đất là đất chiếm 80%, đá chiếm 20%. Người Mông ở Mèo Vạc có kinh
nghiệm chọn nương khá độc đáo. Theo kinh nghiệm của họ: nơi chọn làm nương
phải dại nắng, không quá dốc; Đất làm nương thường có nhiều cây mọc tốt; Đất
49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đen và tơi xốp thích hợp cho việc trồng ngô. Nếu là đất màu vàng thì khai phá
làm ruộng. Theo kinh nghiệm của người Mông ở đây, đất thịt (a đu) là để trồng
cây lương thực; đất sỏi bãi (thềnh nhềnh) là để trồng lạc, đậu, ngô sẽ cho năng
suất cao.
Sau khi chọn được nơi làm nương vừa ý, người ta khoanh vùng và làm
dấu (uôm phua) cho vùng đất đó. Trên mảnh đất nương vừa chọn đó, họ đánh
dấu tại bốn góc nương bằng cách, họ phát khoảng 2m² chặt một cây nhỏ làm
cọc dài 1m đến 1,5m chẻ đầu để gài một mảnh gỗ, hoặc buộc thanh tre hình chữ
thập. Nếu ở đó có cây to, người ta chặt vát vào thân cây, giặt mảnh gỗ, que tre
hướng về phía phát nương. Khi nhìn thấy ám chỉ này tuyệt đối không ai được
xâm phạm.
Việc phát nương họ tiến hành vào mùa khô. Sau khi phát nương xong, người
ta phơi nắng khoảng 2 đến 3 tuần, khi các cây bị phát đã khô rồi mới đốt. Theo
kinh nghiệm của người dân, họ tạo ra khoảng trống khoảng 2m. Đốt nương ngược
chiều gió, đốt từ chân đồi lên, cho lửa cháy lan, để tránh cháy rừng.
Theo kinh nghiệm của người Mông ở Mèo Vạc, nếu đám nương phát làm
năm đầu tiên thì không cày mà đốt xong chỉ cần cuốc hố là gieo trồng. Với những
đám nương canh tác từ năm thứ hai trở đi, thì phải cày bừa để làm đất. Với nương
có độ dốc thoải cao, dùng trâu hoặc bò để cày vỡ đất, nhưng họ không cày thành
luống mà cày theo cách là hết đường cày này đến đường cày khác theo độ dốc từ
dưới chân nương lên. Đối với những nương đá khó cày họ dùng cuốc để xới đất.
Những đoạn nương dài và nhiều đất thì bờ đá được kè cao, chạy dọc theo sườn thấp
của nương, với diện tích rộng thì có thể làm thành nương bậc thang. Việc xếp bờ đá
đòi hỏi nhiều công sức và kỹ thuật để xếp sao cho những phiến đá chồng lên nhau
vừa khít, tạo sự chắc chắn và đất không bị xói mòn vào mùa mưa.
* Lựa chọn đất làm ruộng bậc thang
Ngoài nương rẫy, người Mông ở Mèo Vạc còn có nhiều kinh nghiệm làm
ruộng nước. Mảnh đất được chọn để làm ruộng nước thường là những mảnh nằm
dưới chân đồi, giữa hai sườn đồi. Vùng đất này phải có độ dốc không cao lắm (tối đa 50o), đặc biệt phải có nguồn nước tự nhiên do suối và mạch nước mang 50
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
lại. Ruộng của đồng bào làm theo chiều rộng hẹp khác nhau, có những ruộng nhỏ
chỉ vừa một đường bừa, chiều dài uốn lượn theo sườn núi, có những thửa ruộng
kéo dài vài chục mét. Việc khai phá ruộng bậc thang rất công phu, tốn nhiều công
sức. Họ thường tìm đến những nơi ẩn nguồn nước, có chất đất phù hợp với từng
loại cây trồng. Nguồn nước được coi là rất quan trọng và đặt lên hàng đầu. Người
ta quan niệm “nước là mẹ, đất là cha”. Hệ thống thủy lợi thường bắt nguồn từ
nguồn nước từ các khe nước giữa kè đá chảy trên cao xuống. Khi đã chọn được
chỗ làm ruộng, người ta tiến hành đào và san ruộng. Đây là hai khâu rất quan
trọng và đòi hỏi phải có kinh nghiệm và kĩ thuật cao, ruộng bậc thang bắt buộc
phải đảm bảo hai yếu tố đó là: mặt bằng và nguồn nước. Theo như người Mông
ở Mèo Vạc, họ thường làm ruộng từ trên xuống, bởi ruộng của họ có độ nghiêng
lớn từ 30 - 50 độ. Sau khi mảnh đất được dọn sạch, người ta sẽ tìm mặt phẳng
nhất để làm chuẩn (hoàn toàn bằng mắt thường), tiến hành đào và san lấp tạo
thành mặt bằng. Sau đó họ tiến hành làm bở ruộng, người ta lấy phần đất san gạt
ở mép cuối mặt bằng thửa ruộng, lấy cuốc bướm cào đất thành bờ, chỗ nào thiếu
thì cào từ chỗ cao sang, rồi dùng chân và gáy cuốc đạp mạnh để nén chặt bờ
ruộng. Ruộng của người Mông thường để cấy lúa, nhưng vì thiếu nước nên mỗi
năm chỉ cấy được một vụ mùa. Mỗi đám ruộng họ thường cày bừa đến 3 lần. Lần
thứ nhất: cày cho vỡ đất sau khi đã thu hoạch xong, cày lên để phơi ải, làm cho
cỏ và gốc dạ lật úp xuống nhanh chóng mục nát và tơi xốp hơn. Lần thứ hai: Khi
những cơn mưa đầu mùa đến, người ta cày lật đất lên để ngâm nước vài ngày sau
đó bừa kĩ lại cho thật tơi xốp. Lần thứ ba: bừa lại trước khi cấy. Trong lần thứ ba
người ta sẽ vãi phân chuồng đều khắp mặt ruộng rồi bừa nhằm giúp cho đất được
đều phân và có độ nhuyễn nhất định để cấy lúa.
* Canh tác hốc đá: Trước kia, người Mông có tập tục du canh, du cư. Họ
đốt rừng làm nương, sau vài vụ đất bạc màu lại bỏ đi nơi khác. Sau đó, rừng ngày
càng cạn kiệt nên đồng bào đã kè nương đá, gùi đất, đổ vào hốc đá, trồng cây
lương thực qua nhiều đời nay. Đó còn gọi là tri thức thổ canh hốc đá. Trước khi
gieo trồng người ta tiến hành khai phá nương. Khi muốn tạo mảnh nương mới
đồng bào thường chọn khu vực có nhiều ánh nắng, không quá dốc. Sau đó, người
51
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
dân phát cỏ và cây bụi theo từ dưới lên. Cây phát xong để phơi nắng khoảng 2
đến 3 tuần rồi đốt. Do thiếu đất canh tác, đồng bào không chỉ xếp đá ở những nơi
có diện tích rộng, tại những sườn phía trên cao của nương, những chỗ nhiều đá
không thể san bằng được, đồng bào thường kè thành những hốc đá kín, sau đó
gùi thêm đất đổ vào đó, mỗi hốc thường chỉ trồng được 1 - 2 cây ngô. Việc xếp
bờ đá đòi hỏi nhiều công sức và kỹ thuật để xếp sao cho những phiến đá chồng
lên nhau vừa khít, tạo sự chắc chắn và đất không bị xói mòn vào mùa. Tuy nhiều
mùn, độ phì cao nhưng không thể dùng cày bừa nên họ trồng ngô và các loại rau
đậu, hoa màu. Nhờ sáng tạo ra hình thức thổ canh hốc đá và kĩ thuật trồng ngô
trên nương đá, kĩ thuật xen canh các loại cây hoa màu, mà bà con nơi đây thích
nghi được với điều kiện tự nhiên đặc biệt để ổn định cuộc sống. Đến nay, thổ
canh hốc đá vẫn là phương thức chủ đạo trong hoạt động sản xuất của đồng bào
nơi đây.
2.4.1.2. Lịch thời vụ
Người Mông ở Mèo Vạc cũng dựa vào những hiểu biết và sự vận hành của
Mặt Trăng và mặt Trời từ đó định ra lịch thời vụ. Họ cũng dựa vào chu kì trăng
tròn gồm 30 ngày để định ra tháng. Tên mười hai tháng tương ứng với tên của
12 con vật: tháng một - tháng con thỏ (Lour hli), tháng 2 - tháng con Rồng (Jax
hli), tháng 3 -tháng con rắn (Naz hli), tháng 4 - tháng con ngựa (Nenh hli), tháng
5 -tháng con dê (Jangx hli), tháng 7 - tháng con gà (keiz hli), tháng 8 - tháng con
chó (Đêr hli), tháng 9 - . tháng con lợn (Buô hli), tháng 10 -tháng con chuột (Na
hli). Tháng 11 - tháng con bò (Nhux hli), tháng 12 - tháng con hổ (Tsor hli).
Trước đây, lịch nông vụ của người Mông:
Bảng 2.3: Lịch thời vụ (truyền thống)
Tháng
Tháng 1
Lịch thời vụ Nghỉ ăn tết, từ giữa tháng phát nương, dọn cỏ ở nương du canh, tiến hành cày ở nương định canh. Cuối tháng thu hoạch đậu răng ngựa.
52
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Tháng 2
Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5, 6
Tháng 7
Tháng 8
Tháng 9
Tháng 10
Nguồn: Tác giả thu thập trong quá trình điều tra thực tế
Tháng 11 Tháng 12 Làm nương ngô muộn trên nương du canh. Cày nốt nương định canh và tiến hành gieo ngô, trồng lanh, đỗ tương, đậu cô ve. Phát nương lúa. Nhổ cỏ, vun ngô, tra ngô muộn trên nương du canh. Vun ngô trên nương định canh đợt một. Tra lúa nương, vun ngô sớm trên nương du canh. Làm cỏ và vun ngô trên nương định canh đợt hai. Ở nương du canh tiến hành trồng đỗ tương, vun ngô muộn. Trên nương định canh, chăm sóc ngô, phòng ngừa thú rừng và chim chóc phá hoại mùa màng, thu hoạch lanh. Làm cỏ lúa nương đợt hai. Thu hoạch ngô muộn trên nương du canh. Tiếp tục chăm sóc ngô trên nương định canh. Thu hoạch ngô còn lại và làm cỏ cho đỗ tương trên nương du canh. Trên nương định canh, bắt đầu thu hoạch ngô. Thu hoạch đỗ tương. Trên nương định canh vun đậu răng ngựa. Thu hoạch lúa nương, gieo rau cải. Gieo đậu răng ngựa trên nương định canh. Vun đậu răng ngựa cho nương định canh. Làm cỏ cho đậu răng ngựa.
Ngày nay, một số cây trồng của người Mông đã không còn như cây thuốc
phiện. Lịch canh tác trên nương đá của dân tộc Mông ở Mèo Vạc cũng gần như
thống nhất giống một số dân tộc khác như người Lô Lô, người Pu Péo đó là:
tháng đầu tháng 1 là thời gian dọn cỏ, đốt nương, làm đất, đổ thêm đất, ủ phân
chuồng vào nương hay các hốc đá; tháng 2 đến đầu tháng 3 là thời gian gieo
trồng ngô, xen canh bí, đậu hoặc dưa chuột…; tháng 3, khi ngô được hai hoặc ba
lá, cây xen canh vươn ngọn thì vun gốc lần 1; tháng 4, khi cây ngô, cây xen canh
sắp trổ hoa thì vun tiếp lần 2, cũng là lần cuối; tháng 8 và 9 là thời gian thu hoạch;
thu hoạch xong, đồng bào trồng thêm một vụ tam giác mạch và một số loại rau
vụ đông, chủ yếu là rau cải và đậu răng ngựa. Hiện nay, quy trình sản xuất ở một
số nơi được rút ngắn lại, do đồng bào sử dụng các giống ngô lai ngắn ngày và
53
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nguồn phân bón hóa học, nhưng về cơ bản, những nương thổ canh vẫn áp dụng
theo lịch canh tác truyền thống. Tuy nhiên, việc tiến hành trồng cấy vẫn có sự sê
dịch khi có sự thay đổi của thời tiết.
Bên cạnh đó, người dân còn quan sát các hiện tượng sự vật xung quanh để
đưa ra kế hoạch cho việc canh tác. Theo như kinh nghiệm của người Mông ở
Mèo Vạc, đồng bào thường nhìn cây để giao hạt (gieo trồng ngô khi thấy hoa
đào nở), người ta thường quan sát cây đào, mận, lê nếu thấy nở hoa từ ngọn
xuống chỗ phân nhánh thì phải tiến hành việc gieo trồng từ 25 tháng 2 âm lịch
và kết thúc trong tháng. Vì người ta cho rằng, năm đó mưa xuân sẽ đến muộn và
ít. Do đó, phải tiến hành gieo trồng để tránh hạn hán và sâu bệnh. Nếu như hoa
nở từ giữa cành trở ra ngọn và chỗ phân cành thì tháng 2 không nên gieo trồng
nhiều mà phải đợi sang tháng 3. Vì năm đó mưa rào sẽ đến sớm hơn, bắt đầu
tháng 4 âm lịch đã có mưa, tránh được sự rụng phấn của bông hoa ngô. Nếu như
hoa nở từ chỗ phân nhánh trở lên ngọn thì trong tháng 3 phải gieo hạt xong, vì
mưa xuân bắt đầu từ tháng 2 và kết thúc vào tháng 4, lúc này cây mới ra hoa
tránh được sương lạnh. Bên cạnh đó, người ta cũng cho rằng vào mùa xuân, hoa
lê, mận, đào nở và đồng đều nhiều thì năm đó mùa màng sẽ bội thu và ngược lại
năm đó mùa màng sẽ thất thu.
2.4.1.3. Lựa chọn giống cây trồng
Do đặc điểm cư trú trên vùng núi cao, nên người Mông lựa chọn những
giống cây trồng phù hợp với điều kiện môi trường sinh thái. Dưới ruộng họ trồng
lúa, trên nương trồng ngô và lúa nương. Ngoài ra, còn trồng xen kẽ các loại bầu bí
và những cây họ đậu. Những cây trồng chủ yếu phải là những cây chịu hạn và có
khả năng xen canh gối vụ. Người Mông rất chú trọng việc lựa chọn giống cây
trồng như lúa, ngô hay các loại cây khác như đậu, bí, dưa chuột, tam giác mạch,
rau cải. Theo kinh nghiệm của người dân, nếu như mảnh nương nào có cây trồng
tươi tốt, cho hạt to, sai hạt sẽ được khoanh lại làm giống.
54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Đối với lúa (sú), gồm lúa nếp (sú blong) và lúa tẻ (sú chùa), người Mông
thường chọn giống vào vụ gặt, chọn giống có hạt chắc, mẩy, khi gặt bó thành
từng cum và phơi trên gấc bếp hoặc xà nhà.
Đối với giống ngô (pà cừ), là cây lương thực độc canh và có vai trò quan
trọng trong việc duy trì đời sống của đồng bào Mông nơi đây. Nó là nguồn lương
thực chính trong bữa ăn của đồng bào nơi đây. Ngô gồm có: ngô nếp (pa cừ
blọng) có đặc điểm cây cao, hạt dẻo; ngô tẻ (pa cừ chùa) có ngô tẻ vàng, ngô tẻ
màu trắng, ngô tẻ màu tím lẫn trắng có đặc điểm là bắp to, cây cao, hạt đều. Ngô
tẻ được trồng nhiều hơn ngô nếp, chiếm tới hơn 80% diện tích vì dễ chăm bón,
cho năng suất cao. Người ta chọn những loại ngô chịu hạn và chịu rét tốt, bắp to,
hạt đều phù hợp với khí hậu ở khu vực này, khi thu hoạch họ thu hoạch riêng, để
cả lớp vỏ bên ngoài, phơi khô và buộc túm lại với nhau rồi treo lên gác bếp để
tránh mọt. Việc bảo quản loại ngô này khá đơn giản, ít bị mọt và ngon hơn ngô
lai, tuy nhiên, năng suất không cao. Khi tới vụ gieo trồng, người ta tách hạt ra
khỏi bắp đem ngâm nước một hai ngày cho nở rồi mang gieo.
Ngoài ra, người Mông còn trồng xen canh gối vụ với các cây khác: bí (sau
blồng tau), đậu tương (tậu đàn), ớt (pụt cha), dưa chuột (đi mè), rau cải... Đối
với giống cây họ đậu thì chọn quả to, hạt chắc, phơi khô rồi tách lấy hạt hoặc để
cả quả rồi cho vào ống tre, phủ tro bếp lên, đậy kín miệng ống tre lại. Khi gieo
trồng, dùng chân bóc vỏ, làm sạch và loại nỏ hạt lép. Đây là giống cây trồng chịu
được lạnh điển hình là đậu Hà Lan và đậu răng ngựa. Những loại cây trồng này
có thể sinh trưởng trên đất nghèo chất đạm, không những vậy nó còn có khả năng
làm cho đất tốt. Đất trồng 2 đến 3 vụ ngô và lúa đem trồng 2 đến 3 vụ đậu lại có
thể trồng ngô lúa được.
Việc canh tác trên nương đá của người Mông không chỉ trồng những cây
lương thực, thực phẩm chính mà còn có cả những cây phụ gia và một số loại cây
lâu năm như: đào (chi đúa), mận (thép), su su (chi su su). Đặc biệt, đồng bào
55
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Mông ở Mèo Vạc còn trồng tam giác mạch ở những mảnh nương đã cằn cỗi và
cây lanh để dệt vải may trang phục.
2.4.1.4. Lựa chọn công cụ lao động
Kĩ thuật thổ canh hốc đá - Canh tác trên vùng đất xen lẫn đá, thường dùng
đá xếp quanh đất để che chắn, chống xói mòn, rửa trôi đất, nhiều hốc đá tự nhiên
được người dân gùi đất đổ vào và trở thành hốc canh tác. Nhờ sáng tạo ra hình
thức thổ canh hốc đá và kĩ thuật trồng ngô trên nương đá, kĩ thuật xen canh các
loại cây hoa màu, mà bà con nơi đây thích nghi được với điều kiện tự nhiên đặc
biệt để ổn định cuộc sống. Đến nay, thổ canh hốc đá vẫn là phương thức chủ đạo
* Công cụ làm đất
trong hoạt động sản xuất của đồng bào nơi đây.
Trong thổ canh hốc đá, người dân đã sử dụng các nông cụ thích hợp với
điều kiện canh tác, như: cày, bừa, cuốc bướm.
- Cày: Cày sử dụng trên nương đá là loại cày do người Mông chế tác, phù
hợp với địa hình đất dốc, nhiều đá. Thân cày chắc khỏe, lưỡi cày có hình tam
giác cân, nhỏ, dầy, mũi hơi tù và nặng, chịu được lực khi va đập vào đá.
- Bừa: có hai loại đó là bừa tay và bừa chân. Bừa tay là loại bừa có tay
ngang để người sử dụng cầm ấn xuống khi bừa. Bừa chân được dùng thông dụng
hơn, thường có dạng hình chữ nhật, cấu tạo chắc chắn, với hai hàng răng, không
có tay giữ, khi bừa, người điều khiển phải đứng lên bừa. Với nơi đất khô cứng,
người bừa phải xếp thêm đá lên thân bừa để tạo sức nặng, cho bừa sâu hơn, làm
cho tơi đất.
- Cuốc bướm: có lưỡi mỏng, to bản, hình tam giác, cong ở phần chuôi,
nhọn hai đầu, nên thuận lợi cho việc cào, vơ cỏ, vun gốc trên nương đá.
- Dao: có ba loại: dao chặt, dao phát và dao thái. Trong quá trình canh tác
người Mông sử dụng chủ yếu là dao chặt và dao dùng để chặt cây, phát nương làm
rẫy. Dao của người Mông trông to và dày, do có nhiều sắt nên rất sắc và ít bị mẻ.
56
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
- Thuổng: Thuổng của người Mông lưỡi khá phẳng, chỉ hơi cong một chút
họ cho rằng lưỡi thuổng như vậy khi đào các loại củ ở sâu không bị vỡ, củ không
bị gãy, có thể đào lỗ sâu hơn, phần cán sắt uốn cong để tra cán thuổng bằng gỗ
vào. Phần cán gỗ được làm bằng loại gỗ chắc, vừa vòng tay nắm của người dùng,
thuổng của người Mông cán rất dài, ít nhất là 1m dài nhất phải tới 3m, cán dài như
vậy để tạo lực khi đào được hố sâu hơn. Thuổng người ta dùng để khai phá ruộng
bậc thang, bẩy dọn những hòn đá, đào đất, đào các rễ cây to trên nương.
* Công cụ chăm sóc
- Cuốc bướm: nó không chỉ được dùng để làm đất mà còn được dùng để
chăm sóc cây trồng. Cuốc bướm rất thích hợp với việc canh tác trên địa hình núi
cao hiểm trở, dùng để cuốc hố tra hạt, để luồn lách vào những hốc đá làm cỏ cho
cây trồng.
- Cào cỏ: Người Mông dùng cào gỗ thiết kế theo kiểu bán nguyệt, dùng
để làm cỏ lúa nước, cào gỗ có thể dễ dàng luồn lách vào từng khóm lúa. Cào sắt
có cấu tạo hình dấu chấm hỏi, lưỡi cào được dát mỏng để luồn lách vào các hốc
đá làm cỏ và vun đất cho cây nơi mà cuốc bướm không thể dùng được. Loại cào
này thích hợp cho việc làm cỏ trên nương có lẫn nhiều đá.
* Công cụ thu hoạch
- Dao cắt lúa (Hái): là dụng cụ sản xuất của đồng bào Mông. Dao cắt lúa
có cán làm bằng gỗ có tiết diện rộng 10cm có hình con bướm ở giữa là 1 lưỡi
nhỏ. Giữa chuôi cán có buộc 1 sợi dây và 1 ống trúc để khi cắt lúa dùng ống trúc
đó cặp vào tay để giữ. Người Mông thường trồng lúa nương và gặt xong không
đập luôn mà bó thành từng bó nhỏ cho vào gùi đem về gác bếp, rồi tuốt để dùng
dần. Khi gặt họ dùng lòng bàn tay và các ngón tay để cầm cán dao, ống trục được
kẹp giữa ngón trỏ và ngón giữa để ra sau mu bàn tay để giữ chặt dao, ngón trỏ
để vào lưỡi dao để cặp từng bông lại cắt. Nói chung dùng lưỡi hái năng suất rất
thấp, ngày nay đồng bào đã dùng liềm để gặt.
- Liềm (Las): Liềm gặt lúa là 1 sản phẩm của nghề rèn được đồng bào tự
sản xuất để phục vụ cuộc sống hàng ngày do đàn ông tự làm. Liềm dùng để gặt
lúa, cắt cỏ gianh về lợp nhà, thu hoạch lanh. Do đồng bào Mông chủ yếu canh
57
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tác lúa nương năng xuất thấp, cây lúa khá cứng nên liềm làm rất nhỏ, có độ cong
vừa phải. Liềm có 2 phần: Phần lưỡi sắt dài 22cm, rộng lưỡi 3cm, phần lưỡi làm
cong để vơ lúa và giữ khi cắt nhưng do số lượng bông lúa của mỗi lần gặt ít lên
liềm chỉ có độ cong vừa phải, có gia đình thì làm loại lưỡi liềm có trấu (răng cưa)
có gia đình thì không làm trấu mà để trơn. Phần cán gỗ ngắn, nhỏ vừa gọn trong
nắm tay của người dùng.
- Gùi (lù cở): Gùi là 1 trong những sản phẩm của nghề đan mây tre truyền
thống của đồng bào dân tộc Mông. Với địa vực cư trú ở núi cao, địa hình dốc,
đời sống kinh tế chủ yếu là nương rẫy nên gùi là một vật dụng, một phương tiện
vận chuyển thiết yếu của đồng bào Mông. Tất cả mọi người trong gia đình mỗi
người đều có một chiếc gùi, người lớn đàn ông dùng gùi to, đàn bà dùng gùi nhỏ
hơn, các em nhỏ là những chiếc gùi nhỏ. Gùi được đan bằng tre, 1 loại tre nhỏ
bằng cổ tay, có vỏ bóng, người ta không cần chặt tre theo mùa mà khi cần gùi
người ta chặt và đan luôn gùi. Tre được vót thành nan có bản rộng 1cm, vót mỏng
để lại cật tre, chiều dài của nan tính bằng chiều cao của gùi. Đầu tiên đan đáy
trước, rồi đan lên đến phần thân gùi theo kiểu đan lóng mốt, lúc đan từ đáy lên
đan 1 lượt thưa. Sau đó gập nân xuống đan từ miệng xuống, gài nan tre hết lỗ
hổng cho gùi kín. Tất cả các phần thừa của nan gập vào đáy tạo cho cả 2 lớp, giữ
cho đáy gùi chắc chắn hơn. Gùi có 2 dây đeo, dây đeo làm bằng bẹ của cây móc
được tết chặt buộc vào thên gùi, dây móc vừa bền, vừa mềm làm cho người sử
dụng không bị đau vai. Khi lên nương gùi dùng đựng thức ăn, cuốc, dao, hoặc
vận chuyển giống, phân bón, khi về đưa cuốc dao về, đựng thêm rau, củ lấy từ
rừng. Vào mùa thu hoạch gùi đựng ngô, thóc, sắn, đậu… đưa về nhà. Ở nhà gùi
để đựng lương thực, thực phẩm, gùi đựng quần áo. Nói chung Gùi được sử dụng
đa dạng phong phú, đi lại dễ dàng.
2.4.1.5. Các loại cây trồng chủ yếu
58
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
a) Ngô: Ngô được canh tác theo kĩ thuật thổ canh hốc đá - Canh tác trên
vùng đất xen lẫn đá, thường dùng đá xếp quanh đất để che chắn, chống xói mòn,
rửa trôi đất, nhiều hốc đá tự nhiên được người dân gùi đất đổ vào và trở thành
hốc canh tác. Nhờ sáng tạo ra hình thức thổ canh hốc đá và kĩ thuật trồng ngô
trên nương đá, kĩ thuật xen canh các loại cây hoa màu, mà bà con nơi đây thích
nghi được với điều kiện tự nhiên đặc biệt để ổn định cuộc sống. Canh tác trên
nương rẫy hốc đá là kiểu canh tác bằng cuốc, hạt được gieo trong hốc đá cùng
với phân. Với công cụ canh tác chủ yếu đó là cuốc bướm. Người Mông ở Mèo
Vạc chủ yếu vẫn trồng những giống ngô địa phương. Loại ngô vàng thường được
trồng nhiều đặc biệt là ngô “đá”, giống địa phương với hạt tròn, có khả năng chịu
hạn và chịu rét tốt, và thời gian trồng là 6 đến 7 tháng. Sau khi làm đất, bà con
dùng phân chuồng đã được ủ kĩ bón cho đất. Ngô giống được ngâm nước khoảng
2 - 3 ngày, để khi trồng hạt giống nhanh nảy mầm, tránh được sự phá hoại của
sâu bọ, chuột khi bị vùi lâu dưới mặt đất. Khi tra hạt, người Mông kiêng tra vào
ngày con rắn và con rồng, vì với họ, đây là những ngày xấu, nếu tra hạt vào ngày
này thì năng xuất sẽ không cao.
Việc tra hạt được tiến hành từ nương thấp đến nương cao, hốc đá phải tra
hạt riêng lẻ sẽ làm sau cùng. Thông thường, công đoạn tra hạt được làm theo
nhóm 4 người: người đi đầu cuốc hốc, người tiếp theo tra hạt, người đi sau bỏ
phân và người cuối cùng lấp đất. Công việc cuốc hốc tốn nhiều công sức hơn nên
nam giới thường đảm nhiệm. Những công đoạn sau thường dành cho phụ nữ,
người già và trẻ con. Về cách trồng, mỗi hốc thường tra từ 4 - 5 hạt để phòng sâu
bọ làm hỏng, khoảng cách giữa các hốc ngô thường từ 50 - 60cm. Đối với những
chỗ nhiều đá không thể san bằng được, đồng bào thường kè thành những hốc đá
kín, sau đó gùi thêm đất đổ vào đó, mỗi hốc thường chỉ trồng được 1 - 2 cây ngô.
Sau khi tra hạt xong ở nương thấp, đồng bào mới bắt đầu tra hạt trên những hốc
đá. Việc tra hạt trên hốc đá thường do một người làm. Sau 20 - 25 ngày, cây ngô
mọc cao khoảng 20 cm, họ bắt đầu tỉa bớt cây, chỉ để 2 đến 3 cây, hốc nào không
59
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
mọc đủ thì lại nhổ ở những hốc mọc nhiều dặm vào. Cây ngô mọc được hai đến
ba lá thì tiến hành làm cỏ và vun gốc lần đầu. Cây ngô đã cao chừng 1m là lúc
ngô chuẩn bị trổ hoa thụ phấn thì tiến hành làm cỏ, bổ sung phân bón và vun gốc
lần hai. Đây cũng là lần vun gốc cuối cùng. Đối với cây ngô trồng trong những
hốc đá, nếu thấy cỏ mọc nhiều thì có thể thêm một lần phát cỏ nữa.
Ngoài ra, cây ngô thường được trồng xen với một số loại cây khác, như
rau dền, dưa chuột, bí, rau cải, bằng cách trộn lẫn hạt giống của những loại cây
này với phân ải để bón vào từng hốc ngô, khi ngô nảy mầm, các loại rau này
cũng mọc theo. Sau một hai tháng, ngô được vun gốc và làm cỏ cũng là lúc bắt
đầu thu hái nguồn rau về ăn.
Thời gian thu hoạch vào khoảng tháng 6 tháng 7 Âm lịch. Công việc đầu
tiên khi thu hoạch, người Mông chọn những bắp dài, có hạt to, mẩy đều để làm
giống cho vụ sau. Khi ngô chín, bắp ngô cụp xuống, lớp bẹ ngoài như một chiếc
áo che cho những chiếc áo che cho hạt ngô khỏi bị mưa ướt, sương gió, côn
trùng. Người Mông cứ để ngô trên nương phơi khi nào cày thì ra bẻ mang về.
Đây là một hình thức bảo quản tự nhiên. Khi bẻ để mang về đồng bào cho lên
ngựa hoặc gùi về nhà phơi 3 đến 4 nắng rồi xếp lên gác bếp. Sau khi thu hoạch,
thân cây ngô được dùng làm giá leo cho cây đậu, các cây này giúp khôi phục
lại độ phì của đất.
b) Đậu tương và tam giác mạch
Do việc canh tác thổ canh trên nương phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện
tự nhiên nên thường chỉ trồng được một vụ ngô chính. Sau khi thu hoạch ngô
xong, đồng bào tận dụng đất để trồng thêm một số loại cây lương thực, hoa màu
khác. Ngoài ngô thì sản phẩm từ nương thổ canh hốc đá còn có đậu tương. Đây
là loại cây trồng nguồn gốc nhiệt đới và á nhiệt đới, có khả năng trồng trên
nhiều loại đất khác nhau, ở nhiều vụ trong năm, là cây trồng tốt nhất trong việc
luân canh, xen canh, gối vụ với nhiều loại cây trồng khác nhau; cây đậu tương
60
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
còn mang lại rất nhiều lợi ích khác như làm tăng độ phì nhiêu cho đất, chống
xói mòn đất.
Thời gian sinh trưởng của cây đậu tương ngắn ngày tùy thuộc vào từng
giống cây. Đối với giống ngăn ngày là 67 - 70 ngày. Với giống dài ngày là khoảng
120 ngày. Cây đậu tương có ưu điểm là dễ trồng, tốn ít phân bón và công chăm
sóc. Theo kinh nghiệm của người Mông ở Mèo Vạc, đậu tương có thể trồng trên
nương, xen canh gối vụ nhưng không ảnh hưởng đến năng suất cây trồng khác.
Đậu tương được trồng luân canh theo phương thức: Đậu tương xuân - ngô xuân
hè - đậu tương hè thu đối với những xã núi đá, vùng trồng ngô; đậu tương xuân
- lúa hè thu - rau màu vụ đông ở những xã núi đá, vùng có diện tích lúa 1 vụ.
Nhưng chủ yếu là vào hai vụ đó là vụ xuân và hè thu. Người ta thường trồng lẫn
với ngô, mỗi hốc cách nhau 15cm đến 20cm, mỗi hốc có 3 đến 4 cây. Sau khi
thu hoạch ngô được khoảng gần một tháng thì người ta tiến hành thu hoạch đậu
tương. Hiện nay, Mèo Vạc đã chọn đậu tương là cây mũi nhọn, có thế mạnh để
chuyển đổi cơ cấu cây trồng và có chính sách mở rộng gieo trồng từ 1 lên 2
vụ/năm với các giống mới.
Ngoài ra, tam giác mạch cũng là một loại cây trồng rất phổ biến. Tam giác
mạch có chu kỳ sinh trưởng ngắn, không mất nhiều công chăm sóc. Đồng bào
thường trồng loại cây này sau khi thu hoạch ngô hoặc ở những khu vực đất quá
xấu mà ngô và các loại cây trồng khác kém phát triển. Trước kia, khi điều kiện
sống khó khăn, tam giác mạch thường là nguồn lương thực chính trong mùa giáp
hạt. Tam giác mạch nở hoa khoảng tháng 10, tháng 11. Không chỉ mang vẻ đẹp
huyền bí, hạt hoa Tam giác mạch còn cho giá trị kinh tế như làm bánh, nấu rượu.
Tam giác mạch được chế biến thành mèn mén như món mèn mén làm từ ngô.
Hiện nay, đa phần đồng bào trồng loại này để nuôi gia súc, gia cầm. Khi thu
hoạch, đồng bào dùng liềm cắt sát gốc, đập hạt vào thùng gỗ ngay tại nương.
Thân cây để khô và đốt làm phân bón tại chỗ.
c) Cây lanh
61
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Đến với Mèo Vạc, chúng ta vẫn dễ dàng bắt gặp những người phụ nữ
Mông lưng đeo quẩy tấu, chân đạp đá núi nhưng đôi tay chai sần vẫn miệt mài
với công việc nối, cuộn sợi lanh. Với người Mông ở Mèo Vạc, vải lanh không
chỉ đơn thuần chứa đựng tính thẩm mỹ mà nó còn chứa đựng về quan niệm tâm
linh riêng biệt. Bởi người Mông vẫn luôn nhớ rằng “chỉ có mặc vải lanh mới
không lạc tổ tiên”. Cây lanh chiếm một vị trí quan trọng trong cả đời sống thường
nhật cũng như đời sống tinh thần của đồng bào Mông nơi đây.
Cây lanh được trồng trên nương ven chân núi, hay các thung lũng nhỏ cạnh
nhà để tiện chăm sóc. Lanh được trồng vào tháng 3, khoảng75 - 80 ngày là thu
hoạch được, nếu để quá, sợi lanh sẽ khó se và dễ đứt. Theo như đồng bào cho biết,
trồng lanh phải phải làm cho đất tơi xốp. Trước khi gieo người ta cho hạt giống
vào cối giã nhẹ làm vỡ vỏ cứng, trộn lẫn với tro bếp và phân chuồng cho cây phát
triển tốt. Mật độ gieo lanh vừa phải, nếu quá dày cây nhỏ sẽ ít sợi, gieo thưa cây
có cành, vỏ dày khó tước. Sau khi hạt lanh được gieo trồng đến độ thu hoạch được
cắt thành từng bó rồi đem phơi. Bó lanh được phơi nắng khoảng 1 đến 2 tuần là
vừa đủ. Đặc biệt, để làm cho sợi lanh được dai, mềm, người phụ nữ Mông lại phải
mang bó lanh ra phơi sương nhiều ngày. Sau đó, vỏ cây lanh được tước ra thành
từng sợi nhỏ. Sợi lanh được dùng để dệt nên những tấm vải lớn để may thành trang
phục, hoặc làm các vật dụng khác trong gia đình.
d) Các loại cây dược liệu
Trên địa bàn huyện Mèo Vạc, người Mông từ lâu đã trồng và bán nhiều
loại cây dược liệu khác nhau như Thảo quả, Hương thảo, Đỗ trọng, Đương quy,
- Tam thất: Tam thất là một loại cây dược liệu quý khó trồng bởi nó đòi
Gừng, Nghệ,… Điển hình nhất đó là Tam thất và đỗ trọng.
hỏi các điều kiện sinh sống trong môi trường rất khắt khe, nơi có khí hậu mát
lạnh quanh năm như ở Mèo Vạc thì đây đúng là một nơi phát triển tốt nhất cho
sự sinh trưởng và phát triển của giống cây được mệnh danh “kim bất hoán” này.
Nhờ vào điều kiện khí hậu thuận lợi để phát triển mà cây Tam thất đã được người
62
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
dân đưa về đây từ rất sớm từ những năm 1970. Tam thất là cây thân nhỏ, sống
lâu năm. Cây cao khoảng 30 - 60 cm, thân mọc đứng, vỏ cây không có lông, có
rãnh dọc, lá mọc vòng 3 - 4 lá một. Lá kép kiểu bàn tay xòe. Cuống lá dài 3 - 6
cm, mỗi cuống lá mang từ 3 đến 7 lá chét hình mác dài. Các gân lá mọc nhiều
lông cứng, màu trắng, mặt lá màu xanh sẫm, mặt dưới màu nhạt hơn, mép lá có
răng cưa nhỏ. Cây mọc một năm chỉ ra một lá kép, cây 2 tuổi trở lên thì có 2 - 6
lá kép mọc vòng xung quanh ngọn cây. Cây có hoa khoảng tháng 6 tháng 7 dương
lịch. Hoa tự hình tán mọc đầu ngọn cây, gồm nhiều hoa đơn. Cuống hoa trơn
bóng không có lông. Quả chín vào khoảng tháng 10, tháng 11 dương lịch. Quả
mọng lúc chín màu đỏ. Mỗi quả có từ 1 - 3 hạt hình cầu, vỏ trắng. Cây có một rễ
chính phình thành củ và có những rễ phụ. Trên mặt củ có nhiều vết sẹo do thân
củ để lại sau mỗi mùa đông. Cây chỉ có một thân mang một chùm lá cố định,
sống qua suốt năm và từ tháng 12 đến tháng 1 tàn lụi, sau đó cây lại mọc ra thân
mới. Tam thất trồng từ 3 đến 7 năm mới thu hoạch rễ củ để làm thuốc. Khi thu
hoạch người ta tiến hành đào rễ củ về, rửa sạch đất cát, cắt tỉa rễ con, phơi hay
sấy đến gần khô, lăn xoa nhiều lần cho khô. Hiện nay cây tam thất đang được
trồng với số lượng lớn. Đây Không chỉ là một loại dược liệu quý mà còn có giá
trị kinh tế cao có tiềm năng khi chỉ từ năm thứ ba nuôi trồng mà cây đã cho thu
hoạch củ, hạt còn làm giống, hoa có thể bán nên lượng tiêu thụ trên thị trường
không nhỏ với mức giá trên thị trường hiện nay khoảng 2,5 triệu đồng đến 3,5
triệu đồng/kg trở thành một loại cây góp công lớn trong việc xóa đói giảm nghèo
cho đồng bào nơi đây. Đã từng có thời gian cây Tam thất tại đây dần bị mai một
do nhiều nguyên nhân khiến cho diện tích bị thu hẹp đến gần như không còn.
Tuy nhiên do nhận thấy giá trị kinh tế tiềm tăng và những công dụng không thể
thiếu trong Y học nên hiện nay loại cây trồng này đang được nâng cao về diện
tích và sản lượng.
- Đỗ trọng: là cây đa tác dụng, vừa là cây dược liệu vừa là cây lâm nghiệp
những năm trước đây đã được tỉnh khuyến khích trồng trên địa bàn huyện, nhưng
63
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
do thị trường hiện tại ít tiêu thụ nên người dân không mở rộng diện tích, không
những thế những diện tích còn lại cũng phân tán nhỏ lẻ tại các gia đình.
e) Các loại cây ăn quả
Với đặc điểm địa hình khí hậu mang sắc thái ôn đới và chia làm 2 mùa:
mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10) và mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 4). Đây
là một trong những điều kiện thích hợp cho việc trồng một số loại cây ăn quả
như đào, mận, lê… Lê là một trong những loại cây ăn quả được trồng nhiều ở
vùng này. Lê vùng cao có vị chua nhè nhẹ cùng vị chát thanh thanh tạo cho loại
quả này một hương vị đặc biệt. Lê ở vùng cao có 2 loại: Loại quả tròn hoặc tròn
dẹt có vỏ màu vàng xanh và loại quả có màu nâu mà đồng bào gọi là quả Mắc
coọc. Mắc coọc là loại quả có vị chát, vỏ màu nâu và thô ráp. Ngày nay cùng với
sự hiện đại và phát triển của khoa học, các nhà khoa học đã nghiên cứu và nhân
rộng mô hình trồng cây lê Đài Loan trên khu vực huyện vùng cao này. Đây là
loại quả hình tròn dẹt, vỏ màu vàng nhạt, mịn và mỏng. Lê vùng cao được trồng
nhiều và thích hợp với khí hậu và thổ nhưỡng của núi đá. Vào tháng 3 - 4 cây lê
ra hoa. Hoa của chúng thường màu trắng, có 5 cánh, khi nở cánh hoa bung nở
trắng muốt, nhụy hoa thường có màu phớt hồng. Đến tháng 9, 10 quả lê chín, khi
chín vỏ thường màu vàng nhạt hoặc nâu sậm. Vào mỗi phiên chợ đồng bào lại
mang ra xuống chợ để bán.
Ngoài ra, ở Mèo Vạc còn có cây Chè Shan tuyết. Đây là dòng chè xứ lạnh
chỉ có vùng núi cao. Ở vùng này, do có điều kiện tự nhiên và sinh thái phù hợp
nên giống chè Shan đã được người dân địa phương trồng từ hàng trăm năm nay
theo phương thức hoang dã và phân tán. Chè Shan tuyết thường là những cây chè
cổ thụ, rất to có tuổi đời vài chục năm hay đến hàng trăm năm, mọc ở sâu trong
rừng. Cây chè có đặc điểm lá to, búp và lá non có nhiều lông trắng như tuyết,
sinh trưởng khoẻ, chịu ẩm, chịu lạnh, năng suất và chất lượng tốt. Đồng bào
thường thu hái chè Shan tuyết cổ thụ vào đầu tháng 4 là lứa chè đầu vụ; tiếp tục
thu hái vụ chè thứ 2 vào tháng 5 và tháng 6; vụ thứ 3 vào tháng 8; vụ thứ 4 vào
64
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tháng 10, tháng 11. Trên địa bàn huyện Mèo Vạc cây chè tập trung chủ yếu ở xã
Tát Ngà và xã Sủng Trà.
2.4.1.6. Thu hoạch, bảo quản và trao đổi hàng hóa
* Thu hoạch ngô: Thu hoạch và cất trữ là khâu cuối cùng của chu kỳ
sản xuất. Việc thu hoạch của đồng bào thường diễn ra vào tháng 6, tháng 7,
có khi kéo dài đến tháng 8 và tháng 9 Âm lịch, tùy vào từng loại cây trồng.
Trước tiên, bà con thu hoạch các loại đậu, bí, rồi mới đến thu hoạch ngô. Ngô
trồng ở vùng cao đa phần là giống địa phương, có thời gian sinh trưởng kéo
dài 6 - 7 tháng. Theo đồng bào, loại ngô này chịu hạn và chịu rét tốt, phù hợp
với khí hậu nơi đây.
Mặt khác, việc bảo quản loại ngô này khá đơn giản, ít bị mọt và ăn ngon
hơn ngô lai, tuy nhiên, năng suất không cao. Sau khi thấy râu ngô đã héo, vỏ ngô
chuyển sang màu vàng, người ta bắt đầu tiến hành thu hoạch. Công việc đầu tiên
của vụ thu hoạch là chọn ngô để giống cho vụ sau. Đồng bào thường chọn ngô
giống ngay tại nương, thu hoạch riêng, đem về treo trên gác bếp. Người ta tránh
không thu hoạch vào các ngày 11 - 15 âm lịch, người Mông cho rằng vào ngày
có trăng tròn sâu ngô sẽ đẻ trứng sau 2 ngày 1 đêm trứng sẽ nở. Vì vậy, trứng nở
thành con trong quá trình thu hoạch sẽ bị rơi, rụng, chết trong quá trình bẻ và vận
chuyển về nhà. Sau khi đã thu hoạch ngô giống, các gia đình thường dàn hàng
ngang, đi từ chân nương ngô lên tới đỉnh, dùng tay bẻ bắp cho vào quẩy tấu, đem
về bóc bớt vỏ, phơi 3 - 4 nắng rồi phân loại và xếp trên gác. Loại tốt dùng để ăn
và nấu rượu ngô, loại xấu cho gia súc, gia cầm. Loại ngô nào không để được lâu
thì dùng trước.
* Thu hoạch lúa: Công việc đầu tiên là chọn được hạt giống chất lượng nhất
và bảo quản thật tốt. Người Mông sẽ đợi sau 2 ngày thời tiết nắng dịu để lúa khô
tại ruộng rồi mới thu hoạch cắt cả bông đem về. Nếu lúa còn ướt, sẽ tiếp tục phơi
nắng rồi mới cất bằng cách người ta bó các bông lúa thành từng bó nhỏ (gọi là
cum) rồi treo trên xà nhà, ở những nơi khô thoáng để tránh cho thóc giống bị ẩm
65
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
mốc hoặc ở nơi bếp lửa có hơi bếp lửa, tạo ấm để khô hạt thóc, không bị ẩm. Như
thế người ta kiểm soát được mọt, đảm bảo độ khô nhất định.
* Thu hoạch hoa màu:Do việc canh tác thổ canh trên nương phụ thuộc rất
nhiều vào điều kiện tự nhiên nên thường chỉ trồng được một vụ ngô chính. Sau
khi thu hoạch ngô xong, đồng bào tận dụng đất để trồng thêm một số loại cây
lương thực, hoa màu khác. Ngoài ngô thì sản phẩm từ nương thổ canh hốc đá
còn có tam giác mạch. Đây là một loại cây trồng rất phổ biến. Tam giác mạch có
chu kỳ sinh trưởng ngắn, không mất nhiều công chăm sóc. Đồng bào thường
trồng loại cây này sau khi thu hoạch ngô hoặc ở những khu vực đất quá xấu mà
ngô và các loại cây trồng khác kém phát triển. Trước kia, khi điều kiện sống khó
khăn, tam giác mạch thường là nguồn lương thực chính trong mùa giáp hạt. Tam
giác mạch cũng được chế biến thành mèn mén như món mèn mén làm từ ngô.
Hiện nay, đa phần đồng bào trồng loại này để nuôi gia súc, gia cầm. Khi thu
hoạch, đồng bào dùng liềm cắt sát gốc, đập hạt vào thùng gỗ ngay tại nương.
Thân cây để khô và đốt làm phân bón tại chỗ. Ngoài ra, người ta còn thu hoạch
đậu tương, đậu Hà Lan, đậu răng ngựa, bí, ớt, dưa chuột, rau cải. Các loại cây
này được trồng xen canh với các loại cây lương thực khác. Rau cải khi được 15
- 20 cm người ta có thể ngắt về để nấu canh, hoặc khi nó ra hoa người ta cắt
ngồng về luộc và ướp muối rồi phơi khô để dự trữ ăn dần. Cây bí là loại cây có
thể ăn được ngọn và quả, khi cây bắt đầu đua ngọn người ta cắt ngọn về ăn, quả
bí non được dùng nấu canh, quả bí già cho vào gùi mang về đặt ở góc nhà để ăn
dần. Với cây đậu tương, đậu Hà Lan, đậu răng ngựa khi còn non người ta có thể
ngắt về ăn, khi già họ nhổ về bộc từng bó nhỏ và treo trước ở hiên nhà hoặc bếp
để chế biến thức ăn lâu dài.
* Trao đổi hàng hóa
Trao đổi hàng hóa là nhu cầu tất yếu của cuộc sống. Người Mông ở Mèo
Vạc từ lâu đã hình thành các chợ phiên khá sầm uất. Chợ chỉ được mở vào một
ngày duy nhất là chủ nhật hàng tuần nên đã thu hút được rất đông người đến đây.
66
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Thế nên, cứ chủ nhật của tuần tới là người dân khắp nơi của huyện Mèo Vạc kéo
về đây mang theo những sản vật để trao đổi, để mang đi bán. Người Mông thường
bán ngô, thóc, lợn, gà, rau củ, các thực phẩm khác như dưa chuột, ớt, quả bí...và
các sản phẩm của nghề thủ công như cuốc, dao, rìu. Ngoài ra, còn có vải vóc,
quần áo. Những mảnh vải do chính tay người dân tộc tự dệt bằng nguyên liệu tự
nhiên, rồi may thành những bộ quần áo đẹp. Rất nhiều mặt hàng phục vụ nhu cầu
sống hằng ngày của người dân nơi đây. Người bán sẽ ngồi vào từng khu, tập
trung một mặt hàng để người mua dễ tìm đến và lựa chọn được sản phẩm muốn
mua. Họ mua những loại hóa thiết yếu như muối, dầu hỏa, chỉ thêu, nồi, bát, đồ
trang sức,... Người Mông đến chợ phiên không chỉ đê mua bán, trao đổi hàng hóa
mà cồn để gặp gỡ nhau, thăm hỏi họ hàng, bạn bè. Không ít những người đến
chợ chẳng để mua bán gì mà chỉ để gặp gỡ bạn bè, người thân cùng nhau ăn bát
“thắng cố”, uống bát rượu làm vui sau một tuần lao động vất vả. Nét độc đáo, cứ
phiên chợ Mèo Vạc tới là những gia đình người Mông tất cả thành viên đều
xuống chợ bán hàng, sau khi hàng hoá bán xong, họ cùng ngồi ăn uống no say
mới về. Với đặc thù của huyện miền núi, chợ nông thôn không chỉ là nơi diễn ra
các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá mà còn phản ánh nét văn hoá mang
đậm bản sắc dân tộc của người dân. Hiện nay huyện Mèo vạc có 9 chợ, trong đó
có 7 chợ duy trì hoạt động thường xuyên, hiệu quả. Như chợ Niêm Sơn, Sơn Vĩ,
Khâu vai…Tạo điều kiện thuận lợ cho người dân trao đổi, mua bán hàng hóa
thuận tiện và đẩy mạnh hoạt động trao đổi hàng hóa ở cư dân biên giới. Trong
phiên chợ của người Mông ở Mèo Vạc không thể thiếu mốn đặc sản đó là rượu
ngô. Đây là một loại rượu do đồng bào Mông tự cất bằng phương pháp thủ công,
có hẳn một khu dành riêng cho việc mua bán rượu ngô. Đàn ông hay đàn bà cũng
đi nếm thử món rượu này.
Bên cạnh đó, khu gian hàng ăn uống là nơi được xem như ấm cúng nhất ở
chợ. Nơi này, người ta bán những món ăn phổ biến từ miền xuôi như phở, mì,
67
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
miến với bò, gà… Đặc biệt, “ thắng cố” là món đặc trưng, không thể thiếu ở bất
kì phiên chợ vùng cao nào. Đàn ông, phụ nữ người Mông ngồi quây với nhau,
ăn thắng cố, uống rượu ngô cay nồng, rít điếu thuốc lào hay thuốc rê, trò chuyện
rộn rã. Đó là cái thú mà họ phải chờ đợi sau cả thuần lao động cực nhọc. Tiếng
cười, tiếng nói, lời hát của họ hòa vào tiếng đàn môi, khèn bè lảnh lót, toát lên
chất nghệ sĩ dân dã, tâm hồn sảng khoái, quên đi cái khó, cái nghèo vẫn còn quẩn
quanh đâu đó ở vùng cao nguyên đá thiếu thốn này. Sau mỗi phiên chợ vùng cao,
người Mông nơi đây lại tạm chia tay với những cuộc hẹn hò người thân, bạn bè
và công việc mua bán và trở về bản làng trên những triền núi cao. Khi đó, ngựa
vẫn là người bạn trung thành giúp họ vượt qua những chặng đường xa xôi, hiểm
trở.
2.4.1.7. Tín ngưỡng dân gian trong trồng trọt
Cuộc sống của đồng bào Mông gắn liền với hai cây lương thực hàng đầu
đó là cây ngô và cây lúa. Do đó, dân tộc Mông quan niệm: Mùng Một Tết
Nguyên Đán, làm khách vào nhà phải uống rượu, ngày hôm đó không được ăn
rau xanh, không quét nhà, không đỏ nước vào bếp, chảo nấu cám lợn và phải
đun cho chảo khô. Vì người ta cho rằng, đổ nước vào chảo sợ mưa nắng không
thuận lợi cho trồng trọt; nam nữ ai búi tóc phải tháo ra đội khăn, sợ năm đó sâu
cuốn lá; bữa ăn hôm đó không chan canh vì sợ năm đó mưa nhiều hại lúa, hại
ngô; không khâu vá vì sợ sâu hại lúa; không ngủ ngày vì sợ lúa đổ. Vốn tin vào
vạn vật hữu linh, người Mông cũng tin có hồn lúa (plỉ cống), hồn cây ngô (plỉ
hông) nên khi tra ngô, lúa đầu vụ cũng phải làm lễ gọi hồn cây lúa, cây ngô
thức dậy.
Các nghi lễ liên quan đến trồng trọt phổ biến nhất là nghi lễ cúng nương
vào dịp mùng Ba tháng Ba và cúng ngô mới vào tháng năm Âm lịch.
Lễ cúng nương là để cầu thần nương (Sì tề) gọi hồn lúa, hồn ngô cho vụ
gieo trồng may mắn. Lễ vật chuẩn bị gồm: một con gà đã luộc, rượu và cây tiền
giấy (cắt giấy thành hình đồng tiền và đính vào một cành cây). Toàn bộ lễ vật để 68
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
lên một mảnh lá cây rừng, rót rượu vào một ống tre nhỏ. Chủ nhà khấn: Cầu những
thung lũng, đồi cao, đồi thấp, tôi là... có rượu có gà cùng nhau đến ăn, xem xét để
không có sâu bệnh, không có hạn hán, luôn được mùa màng. Khấn xong ông hất
rượu vè phía trước, còn gà được mọi người cùng nhau ăn hết tại nương. Sau khi
cúng xong, chủ nhà cầm nhát cuốc đầu tiên bổ xuống đất. Từ lúc này, người nhà
có thể tiến hành làm đất chuẩn bị cho một mùa vụ mới. Khi tra ngô, tra lúa người
Mông còn có tục lệ đó là chủ nhà khấn: tao trồng mày xuống đất, mày mọc cho
nhanh để tranh kịp với con sóc, con chuột, con chim. Khi cấy hay trồng một loại
cây gì đó, phải kiêng tránh trùng với ngày mất của bố mẹ.
Lễ cúng ngô mới (lài đe pa củ xiêng): nghi lễ này khá đơn giản. Khi ngô
chuẩn bị ra chín, người già nhất trong nhà ra nương bẻ một ít ngô non luộc lên
cúng tổ tiên để tỏ lòng biết ơn đã phù hộ cho mùa màng và cầu mong một vụ
mùa tươi tốt hơn.
Ngoài ra, để bảo vệ cho cây trồng, người Mông còn có tập quán là làm bù
nhìn, cắm cờ giấy, hay là làm mõ tự động lợi dụng sức gió phát ra tiếng kêu để
đuổi thú và chim chóc.
2.4.2. Trong hoạt động chăn nuôi
2.4.2.1. Chọn giống vật nuôi
* Trâu, bò: Từ lâu, người dân tộc Mông đã có truyền thống chăn nuôi bò.
Họ quý trọng con bò, coi như một tài sản lớn của gia đình, bởi nó mang lại nhiều
giá trị kinh tế. Mỗi gia đình người Mông trung bình có 2 con bò. Giống bò của
người Mông nuôi dễ thuần thục, chịu được khắc nghiệt thời tiết đặc biệt là giá
rét, dịch bệnh, chịu kham khổ, rất phù hợp với điều kiện sống ở các vùng cao,
núi đá, khả năng sản xuất cao, thể trạng khỏe, giỏi cày kéo, chất lượng thịt ngon,
sản lượng thịt cao, tầm vóc khá lớn, thích nghi tốt, mắn đẻ.
Theo kinh nghiệm của đồng bào Mông trong việc chọn giống bò, người ta
chọn những con tai to, lưng hơi võng, mông dài, chân cao, thẳng, đỉnh trán có u
69
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
gồ hoặc phẳng, vai có u gồ lên, là giống bò có sức vóc sản xuất tốt, thịt ăn mềm
ngon. Giống bò đực có thế lên tới 400-600 kg, bò cái có bầu vú to, mắn đẻ.
Người Mông quan niệm, một con trâu khỏe là con trâu có đuôi to, chân
to vững chãi, các móng phải khít, mồn rộng, hai sừng cong đều. Với con trâu nái
thì ngoài các tiêu chí trên thì mông phải to. Một con trâu có đủ các tiêu chí trên
sẽ có sức cày kéo tốt. Người ta không phân biệt bò giống hay bò kéo, miễn là
con vật phải ngoan và dễ thuần phục để cày trên địa hình hiểm trở nhiều đá.
Người Mông ở Mèo Vạc chủ yếu là nuôi bò vì nó có khả năng thích nghi với
điều kiện khắc nghiệt, ăn ít hơn trâu nên dễ chăn thả.
* Lợn: Người Mông nuôi chủ yếu là lợn cắp nách. Đây là vật nuôi truyền
thống, bắt nguồn từ thói quen chăn nuôi lạc hậu của đồng bào vùng cao. Lợn cắp
nách là giống lợn được lai giữa lợn rừng và lợn Mường. Chúng có sức chịu đựng
rất giỏi, lợn con mới đẻ đã có thể chạy nhảy và tự kiếm ăn ngay được, chúng chỉ
theo bố mẹ vài ngày rồi tách ra. Điều đặc biệt là loài lợn này tuy tự kiếm sống ở
trong rừng, song chúng không bao giờ đi xa, chỉ quanh quẩn trong một khu vực
nhất định. Chúng thuộc giống lợn ri lợn nhỏ, chỉ chừng chục kg, được người dân
nuôi theo kiểu thả rông và thường được người dân tộc Mông vùng cao
cắp nách đem bán trong các phiên chợ vùng cao. Lợn cắp nách được đặc trưng
bởi ngoại hình còi cọc, kích cở nhỏ bé, có thể cắp vào nách. Kích cở của chúng
dao động từ 4 kg đến dưới 25 kg. Đặc điểm dễ nhận thấy, lợn của người Mông
có mõm nhọn, chân bé, cao, tai dài, thân hình thon và lông cứng. Đồng bào rất
coi trọng việc chọn lợn lái. Một con lợn để làm giống chân phải to và cao, mõm
ngắn, tai to, đuôi bé. Còn đối với lợn nuôi để thịt hoặc đen ra chợ bán thì phải là
những con mõm nhọn, chân bé, ăn nhanh thì nuôi sẽ nhanh lớn và cho thịt chắc.
* Ngựa: Ngựa có vai trò quan trọng đối với văn hóa và đời sống của đồng
bào các dân tộc miền núi phía Bắc nói chung và dân tộc Mông huyện Mèo Vạc
nói riêng. Ở nơi địa thế hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, nên từ lâu ngựa trở
70
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thành thân thiết với từng gia đình người Mông, là "đầu cơ nghiệp" của họ. Ngựa
của người Mông có đặc điểm là tầm vóc nhỏ, sinh sản kém, nhưng lại chịu đựng
kham khổ rất tốt, chúng ăn cả những loại cỏ khô ít chất dinh dưỡng, nên rất dễ
nuôi. Giống ngựa Mông rất "chịu thương chịu khó", thồ hàng tốt trên những đoạn
đường dốc, gập ghềnh, chịu đi qua suối, leo đèo, chịu đi bất kể thời tiết nào. Các
phiên chợ vùng cao và lễ hội văn hóa của đồng bào dân tộc Mông không thể thiếu
được bóng dáng của ngựa và món thắng cố đặc sản nấu từ thịt ngựa. Người Mông
không chỉ dùng ngựa làm phương tiện đi lại mà còn dùng để thồ hàng, chở phân,
tro, giống… lên nương. Đến mùa thu hoạch ngựa lại giúp đồng bào trở ngô, lúa
về nhà. Ngựa vùng Mèo Vạc có nhiều loại: ngựa thồ, ngựa đua, ngựa chiến. Người
có kinh nghiệm khi chọn ngựa phải xem kỹ tính nết, bởi ngựa cũng có con dữ, con
hiền, con biết nghe lời và có con bướng bỉnh.
Một chú ngựa chạy vài vòng quanh chân núi về mà không bị thở dốc mới
được xem là có sức khỏe tốt. Nếu là ngựa thồ tốt thì ngực phải nở, chân thẳng,
đứng vững, móng dày, mũi khô, mắt trong, bờm dựng. Một con ngựa như vậy có
thể thồ tới 300kg trên lưng, hoặc kéo cả tấn hàng lên dốc cũng vẫn không đổ mồ
hôi. Bên cạnh ngựa thồ, vùng núi đá tai mèo còn có loại ngựa đua rất quý: thân
dài, mông to, bụng thon, ức nở, đi nước kiệu rất nhanh trên đường bằng, leo núi
thiện nghệ, phi nhanh.
* Chó, dê, gà
Chó, dê, gà là những con vật được nuôi chủ yếu ở trong mỗi gia đình người
Mông. Trong đó, gà là con vật được nuôi nhiều hơn cả, mỗi gia đình có từ 30
đến 50 con. Người Mông chọn giống gà chân đen, xương đen để nuôi. Gà đen
hay còn gọi là gà thịt đen, xương đen, gà Mông, nó không chỉ là nguồn thực
phẩm mà còn là một loại thuốc quý của đồng bào dân tộc Mông nơi đây. Gà đen
của người Mông không phải là giống gà ác nhỏ con, thịt đen hay giống gà Tây
Hoa nhiều thịt của Trung Quốc. Đó là giống gà đen từ ngoài vào trong: lông đen,
71
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thịt đen, xương đen. Nó to khoảng tầm giống gà ri, khi trưởng thành chỉ nặng từ
1.2 - 1.6kg. Thân hình gà thon nhỏ, chân cao, bay nhảy rất tốt. Do sống thả rông,
hoang rã, loài gà này rất dữ, rất hay đánh nhau. Thịt gà Mông không tanh do
lượng sắt trong thịt rất thấp.
Người Mông thường nuôi chó để canh giữ nhà. Đó là giống chó “cộc”.
Theo quan niệm của đồng bào Hmông, bếp là nơi quan trọng nhất, nơi giữ lửa,
giữ ấm cho mọi người trong gia đình. Nó linh thiêng như gian bàn thờ của người
Kinh. Với người H'mông, các vật dụng lao động dựng trong bếp chính là những
“vị thần” đã giúp họ làm ra của cải, nuôi sống họ từ đời này qua đời khác. Chúng
được coi là thần giữ của của gia đình họ. Còn những con chạy loăng quăng ngoài
sân, hàng rào là những con chó loại. Một con chó thuần chủng trưởng thành có
nhiều điểm đặc biệt, gần như không có đuôi, nếu có thì cũng rất ngắn. Nanh của
loài chó này thường có từ 6 đến 8 cạnh khác nhau. Tai có hình tam giác luôn
dựng đứng, kiểu nằm hai chân sau luôn trong tư thế sẵn sàng tấn công. Tầm vóc
của loài chó này trung bình nhưng toàn thân đậm chắc, khung xương rộng, đầu
to, thể hình hơi góc cạnh, thiếu các nét thanh tú và mềm mại nhưng luôn bộc lộ
các đặc điểm về thể lực rất tốt cũng như khả năng chịu đựng các điều kiện thời
tiết khắc nghiệt. Người Mông có cách lựa chọn rất độc đáo: khi chó mẹ đẻ đàn
con ra, đợi ít ngày sau chó đã cứng cáp, gia chủ sẽ đốt một đống lửa to chặn lối
ra của đàn chó con và chó mẹ. Lúc này, chó mẹ sẽ rối lên, bắt buộc phải chọn
một con ưu tú nhất để thoát ra ngoài. Theo quan niệm của người Mông thì chú
chó được mẹ cứu ấy sẽ là chú chó trừ tà, sẽ đem lại nhiều may mắn, bảo vệ được
cả gia đình.
Hầu hết, gia đình người Mông nào cũng có một vài con dê để cải thiện bữa
ăn và bán đi mua vật dụng trong nhà. Người Mông nuôi loại dê chủ yếu là dê cỏ.
Dê có màu lông vàng nâu hay loang đen, loang trắng. Loại này chỉ nặng chừng
30-35 kg/con. Chúng chỉ cần 6-7 tháng tuổi là đã có thể phối giống, khoảng 2
năm đẻ 3 lứa, mỗi lứa 1-3 con. Dê cỏ rất dễ nuôi, ăn tạp, thịt của chúng lại ngon,
có thể chăn thả hoặc nuôi nhốt trong chuồng, chúng ít bệnh tật mà lại mắn đẻ nên
72
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đàn dê tăng rất nhanh. Theo như đồng bào cho biết, nuôi dê từ khi mới sinh cho
đến lúc bán thịt là 8 tháng, dê trọng lượng 30-35 kg/con, bán ra với giá 90.000-
100.000đồng/kg, mỗi năm thu nhập khoảng 30 triệu đồng/năm nhờ nuôi dê.
* Ong: Từ tháng 10 đến tháng 12 âm lịch là mùa "ăn ong" của người Mông
vùng cao. Đây cũng là mùa hoa bạc hà, mùa hoa tam giác mạch. Loài cây hiếm
hoi mọc trên triền đá, trong cái giá lạnh của mùa đông cao nguyên. Thu sang, trên
các triền núi của vùng cao Mèo Vạc (Hà Giang), cây bạc hà bắt đầu mọc, sang
tháng 10, tháng 11 âm lịch, cây bạc hà bắt đầu ra hoa. Hoa Bạc Hà trổ bông tím
ngắt trên khắp các sườn núi hương thơm quyến rũ dụ những đàn ong ở khắp nơi
tìm về lấy mật. Mật ong hoa Bạc Hà chỉ có riêng ở vùng Cao Nguyên đá mà không
nơi đâu có được, mật có mầu vàng ánh xanh, hương thơm nhè nhẹ, vị ngọt thanh,
sánh đặc. Mỗi gia đình người Mông, trải qua bao đời này đều để có một vài đàn
ong nhà nuôi lấy mật. Họ dùng để làm thuốc cho cuộc sống hàng ngày và làm
hương vị chế biến bánh vào các dịp lễ tết của bản làng.
Theo như đồng bào cho biết, một tổ ong thường cho họ thu hoạch từ 3- 5
lít mật. Nhưng nếu tổ ong thuộc loại to chúng có thể chứa tới 10 lít. Và để có
được 1kg mật quý giá ấy, trung bình những chú ong phải dày công đi hút mật
của hơn mười triệu bông hoa bạc hà giữa núi rừng lạnh giá. Có lẽ vì thế với người
dân Hà Giang những chú ong thợ giống như những người bạn tri ân của mình.
Hiện toàn huyện có gần 8.000 đàn ong, bình quân mỗi đàn cho 3 lít mật/năm, tập
trung nhiều ở các xã Giàng Chu Phìn, Thượng Phùng, Xín Cái, Pải Lủng, Sủng
Trà và thị trấn Mèo Vạc. Với giá bình quân từ 350.000 - 400.000 đồng/lít mật
nên nghề nuôi ong lấy mật đã mang lại thu nhập cao cho đồng bào nơi đây. Đặc
biệt, đồng bào Mông đã được trang bị kĩ thuật nuôi và lấy mật ong, biết cách
nhân đàn ong, biết quay mật ong bằng máy mà không phải cắt bánh tổ. Lượng
mật lấy được nhiều hơn, chất lượng mật tốt.
2.4.2.2. Nuôi dưỡng và bảo vệ
73
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Người Mông có truyền thống chăn nuôi rất giỏi. Chăn nuôi của người
Mông chủ yếu là từng hộ gia đình, mỗi nhà có vài ba con trâu, bò, ngựa, dê...
Chăn nuôi để phục vụ sản xuất nông nghiệp là chính, ngoài ra còn là nguồn thực
phẩm cung cấp cho các lễ hội, cúng bái. Trước đây, người ta thường thả trâu, bò
vào các thung lũng để tự kiếm ăn, đến chiều thì lùa về chuồng. Ngày nay, người
ta thường chăn thả trên những đám nương đã thu hoạch, nơi có cỏ mọc và thân
cây ngô. Ngoài ra, người ta còn trồng cỏ voi để cắt về cho trâu, bò ăn. Để có con
bò cày, kéo tốt, người Mông còn cho chúng ăn thêm bột ngô để lấy sức, đồng
thời kiên trì huấn luyện sao cho bò có thể cày, kéo được ở cả nương dốc có lẫn
đá. Người Mông làm chuồng bằng ván cao ráo, mái lợp cẩn thận để chống rét và
bệnh tật cho trâu, bò. Do làm nhà trên địa hình dốc nên người Mông thường làm
chuồng trâu, chuồng bò ở trước cửa nhà để trời mưa gió tránh phân chảy hoặc
bốc mùi vào nhà. Người Mông quan niệm làm chuồng trâu, chuồng bò trước cửa
thì con vật sẽ mau lớn.
Ngựa cũng là con vật rất được người Mông quí mến và chăm sóc cẩn thận.
Ngoài thả rông như trâu, bò người ta cũng cho ngựa ăn thêm tinh bột (ngô, đậu,
gạo...). Ngựa cũng được làm chuồng riêng.
Lợn là vật nuôi phổ biến trong gia đình người Mông. Gia đình nào trung
bình cũng có 5 đến 6 con, nhiều có tới vài chục con. Điều đặc biệt là nhà nào
cũng nuôi lợn nái để tự túc giống. Người ta cho lợn ăn chuối rừng, rau lang, rau
rừng nấu với bột ngô, hoặc trộn thêm bỗng rượu. Theo kinh nghiệm của người
Mông, bỗng rượu làm cho lợn mau lớn mà thịt vẫn thơm, tốt hơn so với cám tăng
trọng của người Kinh.
Khi thiếu lương thực, chó, gà, dê thường được thả rông tự tìm kiến thức
ăn gần nhà. Chiều tối những con vật đó tự tìm về nhà để ngủ. Chó có thể một
ngày được ăn một bữa. Gà thỉnh thoảng được quãi cho ít hạt ngô để ăn. Những
năm gần đây, đời sống của đồng bào khá hơn, người ta chăm sóc con vật bằng
ngô nên thịt của chúng rất chắc. Người Mông cũng làm chuồng cho dê, nhưng
74
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
không làm chuồng cho gà, mà tận dụng gác của chuông bò, đặt lên đó vài tấm
ván để cho chúng ngủ và trú mưa.
2.4.2.3. Sản phẩm và trao đổi hàng hóa
Trong lĩnh vực chăn nuôi của người Mông ở Mèo Vạc có quy mô nhỏ, vẫn
mang tính chất tự cung tự cấp, chưa trở thành hoạt động trao đổi hàng hóa có
tính quy mô. Người Mông ít khi mang trâu bò đi bán, chỉ ai có nhu cầu mua thì
đến nhà hỏi và trả giá hoặc khi nào gia đình có công việc lớn như làm nhà, dựng
vợ gả chồng cho con cháu thì đồng bào mới đem ra chợ bán. Trâu, bò chỉ được
mổ vào dịp lễ, tết, đám cưới, đám ma và chế biến thành món thắng cố ngon nổi
tiếng. Ngoài ra, người Mông còn làm thành món thịt trâu khô hun khói để ăn dần,
hoặc khi nào có khách mang ra đãi, cũng có khi đen ra bán vào dịp chợ phiên.
Người Mông ít khi mổ dê mang ra chợ bán, nhưng lại mổ lợn để bán vào ngày
chợ phiên với những con lợn to đã nuôi được một đến hai năm, còn lợn nhỏ người
ta cắp nách mang đi bán.
Trong các con vật nuôi của người Mông thì con gà được đem đi trao đổi
thường xuyên nhất. Bất cứ khi nào cần tiền người ta lại mang gà ra chợ bán. Gà của
người Mông rất được ưa chuộng. Gà được buộc chân và người chủ ôm trên tay
mang đi khắp chợ để bán. Người ta không bán nhiều mà chỉ bán một hai con để lấy
tiền mua những vật dụng cần thiết. Nhìn chung, hoạt động chăn nuôi gia súc, gia
cầm của người Mông ở Mèo Vạc còn chưa phát triển, hoạt động mua bán trao đổi
còn nhỏ lẻ chưa thoát khỏi vòng tự cung, tự cấp. Huyện có 3 chợ biên giới (Chợ
Xín Cái, Thượng Phùng và chợ Sơn Vĩ) và cặp cửa khẩu Săm Pun - Điền Bồng,
Lũng Làn- Pờ Tú thuận lợi cho giao lưu, trao đổi hàng hoá với nước bạn.
2.4.2.4. Tín ngưỡng dân gian trong chăn nuôi
Đối với người Mông, ma cửa có nhiệm vụ canh gác ngăn ma ác vào nhà,
bảo vệ gia súc, bảo vệ của cải, bảo vệ các hồn và không cho hồn các thành viên
gia đình bỏ đi. Người Mông quan niệm, khi nào súc vật chết vì bệnh tật, hoặc bị
hổ vồ là do ma cửa bị ngã. Cũng có khi người đàn bà có thai bước qua ngưỡng
cửa, ma cửa cũng bị ngã. Do đó, cần làm lễ nâng ma cửa dậy.
75
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Mục đích của nghi lễ này là cầu mong cho mọi người trong gia đình khỏe
mạnh, cầu mong cho đàn gia súc sinh sôi, nảy nở. Lễ cúng ma cửa được tiến hành
vào buổi tối và cửa nhà được đóng trong suốt quá trình đó. Lễ cúng gồm có một
con lợn. Con lợn được cúng phải được cắt một nhúm lông đuôi từ bé đặt lên phía
trên cửa ra vào. Sau khi giết lợn, thịt lợn được bày vào các bát đặt cạnh cửa chính
và chủ nhà bắt đầu thực hiện lễ cúng. Người phụ nữ không được tham gia nghi
lễ này. Ngoài thịt lợn còn bày thêm thịt gà hay thịt một số loại thú rừng khác như
sóc, nhím, hay thịt chó.
2.5. Đánh giá chung về kiến thức bản địa của người Mông ở huyện Mèo Vạc
Mèo Vạc một trong những huyện vùng cao, nơi có địa hình hiểm trở, khí hậu
khắc nghiệt, quanh năm bao phủ bởi sương mù và có nhiều dân tộc khác nhau cùng
sinh sống, trong đó đông nhất là dân tộc Mông. Từ xa xưa, người Mông có tập tục
du canh, du cư. Họ đốt rừng làm nương rẫy, sau vài năm đất bạc màu họ lại bỏ đến
nơi khác. Song hành cùng lịch sử hình thành vùng đất, trải qua bao nhiêu thăng trầm
dân tộc Mông vẫn kiên trì bám đất, gieo sự sống ngay trên những núi đá để tạo dựng
cuộc sống và làm nên một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Đất đai khan hiếm,
địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt dân tộc Mông sinh sống trên cao nguyên đá
dần hình thành và đúc kết nên những kinh nghiệm quý báu trong sinh hoạt và sản
xuất nông nghiệp. Nổi bật trong hệ thống KTBĐ của người Mông là sáng tạo nên
hình thức canh tác nông nghiệp mang tính đặc thù và biểu tượng này trở thành đặc
biểu trưng tộc người đó là tri thức kĩ thuật thổ canh hốc đá. Đây không chỉ là một
hình thức canh tác để sản xuất ra lương thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu
của cuộc sống mà tri thức canh tác hốc đá của đồng bào Mông nơi đây còn là sự kết
tinh những giá trị trong cuộc sống tại vùng cao nguyên núi đá, là bản sắc văn hóa
mà không phải dân tộc nào cũng có được.
Nó thể hiện sức sống mạnh mẽ, tinh thần giữ đất, giữ làng, dù khó khăn đến
đâu, các dân tộc vẫn tìm tòi sáng tạo, để duy trì cuộc sống, từng bước vươn lên xóa
đói, giảm nghèo. Bên cạnh đó, đồng bào còn đúc kết được những kinh nghiệm trong 76
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
việc lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi; cách chăm sóc và bảo quản; và sáng tạo ra
những công cụ lao động phù hợp với việc canh tác ở vùng núi đá này. Qua đó cho
thấy, sức mạnh, sự cần cù, sáng tạo của đồng bào trong chinh phục tự nhiên. Hệ
thống KTBĐ của dân tộc Mông là một trong nhưng nguồn tri thức dân gian vô cùng
quý giá, góp phần làm phong phú kho tàng văn hóa Việt Nam.
Cùng với thời gian và sự phát triển của đất nước hệ thống KTBĐ của dân
tộc Mông đang dần có sự biến đổi lớn. Do đó, cần phải có những giải pháp hiệu
quả để phát huy hiệu quả hệ thống KTBĐ kết hợp với hệ thống kiến thức khoa
học, giúp cho đời sống của đồng bào ngày càng nâng cao, thoát nghèo mà vẫn
giữ gìn được hệ thống kiến thức quý giá đó.
Tiểu kết chương 2
Cộng đồng dân tộc Mông ở huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang có rất nhiều
kinh nghiệm sáng tạo, đặc biệt là sự cần cù, chịu khó. Hệ thống KTBĐ đó được
hình thành trong hoạt động sản xuất và duy trì, phát triển được lưu truyền qua
nhiều thế hệ. Trong canh tác, người Mông biết xen canh, gối vụ, khai thác nương,
kết hợp phát triển chăn nuôi và làm thêm các nghề phụ đan lát, thêu dệt. Người
Mông chủ yếu sống ở vùng núi cao, hiểm trở, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt nên
trong quá trình canh tác, họ cũng có nhiều cách làm đặc trưng. Những thửa ruộng
bậc thang của người Mông tạo ra cũng đủ để thấy trình độ và sự khéo léo, tài giỏi
của họ trong việc làm nông nghiệp. Tri thức và kĩ thuật thổ canh hốc đá của người
Mông thể hiện tinh thần sáng tạo, vượt khó và thích nghi với môi trường sống
khắc nghiệt của đồng bào nơi đây. Phương thức sản xuất này còn góp phần bảo
vệ môi trường sinh thái trên vùng cao nguyên đá, giúp đồng bào ổn định cuộc
sống, giữ gìn mảnh đất biên cương nơi địa đầu của tổ quốc. Đất nước đổi mới,
mở cửa, hội nhập và phát triển đã tác động và làm mai một đôi nét về bản sắc
77
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
văn hóa và những tri thức dân gian trong sản xuất của dân tộc. Do vậy, việc
nghiên cứu hệ thống KTBĐ của rất tộc Mông có ý nghĩa rất thiết thực.
78
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIỮ GÌN, PHÁT HUY
KIẾN THỨC BẢN ĐỊA TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA
DÂN TỘC MÔNG Ở HUYỆN MÈO VẠC TỈNH HÀ GIANG
3.1. Cơ sở để đưa ra các giải pháp bảo tồn và phát huy kiến thức bản địa
của dân tộc Mông ở Mèo Vạc tỉnh Hà Giang
3.1.1. Nhiệm vụ và định hướng phát triển của tỉnh Hà Giang đối với đồng bào
dân tộc Mông
Trong những năm qua, công tác ở vùng đồng bào dân tộc nói chung và
đồng bào dân tộc Mông nói riêng luôn được các cấp, các ngành, các đoàn thể
quan tâm chỉ đạo, thực hiện; những vấn đề bức xúc trong đồng bào các dân tộc
từng bước được giải quyết; đời sống vật chất, tinh thần của người dân không
ngừng được cải thiện. Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, địa hình chia
cắt mạnh, thiếu đất sản xuất, thiếu nước sinh hoạt, dân cư phân tán. Nhận thức
của một số cấp ủy, chính quyền và cán bộ, đảng viên về công tác dân tộc chưa
thực sự đầy đủ, trình độ của đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ cơ sở còn hạn chế; sự
phối hợp của các ngành trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách về dân
tộc đôi khi chưa chặt chẽ, đồng bộ; một số vấn đề nảy sinh trong nhân dân chậm
được nắm bắt hoặc giải quyết chưa thỏa đáng, kịp thời. Cơ sở hạ tầng thiếu, bất
cập, trình độ sản xuất của nhân dân còn nhiều hạn chế, bên cạnh đó một bộ phận
nhân dân vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước, chưa phát
huy được nội lực, tiềm năng sẵn có của địa phương để vươn lên xóa đói giảm
nghèo và làm giàu chính đáng. Vì thế, Đời sống vật chất, tinh thần ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số cũng như đồng bào dân tộc Mông còn nhiều khó khăn (tỷ lệ
hộ nghèo của đồng bào Mông còn cao, chiếm 57% tổng số hộ nghèo toàn tỉnh).
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, tập quán canh tác sản xuất lạc hậu; thu nhập
79
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
bình quân đầu người còn thấp so với bình quân chung của cả tỉnh. Việc khai thác,
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Mông chưa được
quan tâm đúng mức; việc đào tạo nghề, tạo việc làm cho lao động là người dân
tộc Mông còn nhiều bất cập; một bộ phận thoát nghèo nhưng thiếu bền vững,
nguy cơ tái nghèo cao.
Trong chiến lược phát triển, tỉnh Hà Giang đã xác định nhiệm vụ và định
hướng phát triển kinh tế- xã hội ở vùng dân tộc Mông như sau:
Một là: Phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí
cho vùng đồng bào Mông
Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tiếp tục tạo
điều kiện thuận lợi, đầu tư giúp đỡ về vốn, vật tư, kỹ thuật… để đồng bào đẩy
mạnh thâm canh, tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, nâng cao giá trị
và hiệu quả trên một đơn vị diện tích, hỗ trợ lãi suất vốn vay phát triển chăn nuôi.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chính sách, chương trình dự án đầu tư trên địa
bàn, Chương trình xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững theo tinh thần Nghị
quyết 30a, chương trình 167 và các chương trình của TW, của tỉnh; lồng ghép các
chương trình dự án trên cùng một địa bàn đảm bảo tối ưu hóa việc sử dụng các
nguồn đầu tư. Quan tâm công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm.
Sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa truyền
thống của dân tộc Mông; khôi phục và phát triển ngành nghề thủ công truyền
thống. Đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học, nhất là ở vùng
sâu vùng xa. Thực hiện tốt các chính sách ưu tiên đối với đội ngũ giáo viên công
tác ở vùng sâu, vùng xa và học sinh con em các dân tộc thiểu số. Trên cơ sở phát
triển giáo dục, nâng cao dân trí, lựa chọn đào tạo bồi dưỡng cán bộ là con em
dân tộc Mông.
80
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Hai là: Đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền đường lối chính sách,
pháp luật Nhà nước, giải quyết tốt tình hình tôn giáo, chống di dịch cư tự do
trong vùng đồng bào Mông.
Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động đồng bào thực hiện tốt các
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là chính sách
về dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng để đồng bào hiểu rõ và tự giác thực hiện; động
viên, phát huy tốt vai trò của các già làng, trưởng bản, những người có uy tín
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói chung đồng bào dân tộc Mông nói
riêng; tăng cường chất lượng và thời lượng các chương trình phát thanh, truyền
hình bằng tiếng Mông; đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” gắn với xây dựng nông thôn mới, tiếp
tục chỉ đạo thành lập và duy trì hoạt động của “Hội Nghệ nhân dân gian” gắn với
khôi phục và phát triển nghề truyền thống, văn hóa dân gian của các dân tộc;
phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, đấu tranh với các hoạt
động tôn giáo trái pháp luật, buôn bán phụ nữ, bắt cóc trẻ em; phát huy hiệu quả
hoạt động của các tổ dân vận ở thôn, tổ dân phố.
Tiếp tục chỉ đạo các ngành, các cấp làm tốt công tác quản lý địa bàn, không
để những hộ di cư tự do bán tài sản, đất đai, đặc biệt là ngăn chặn những người
mua lại của hộ di cư tự do, tập trung quản lý chặt chẽ về công tác hộ tịch, hộ
khẩu ở cấp cơ sở, thường xuyên theo dõi tạm trú, tạm vắng từ cấp thôn bản để
kịp thời phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Ba là: làm tốt công tác đào tạo cán bộ và xây dựng hệ thống chính trị cơ
sở vững mạnh
Phát triển hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú để tạo nguồn cán
bộ cho vùng đồng bào dân tộc. Chú trọng việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng bố
trí sử dụng cán bộ người Mông vào những vị trí cần thiết, thích hợp ở địa phương,
81
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
cơ sở. Củng cố, kiện toàn, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vùng đồng bào
Mông đủ mạnh đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Tăng cường
khối đại đoàn kết các dân tộc, phát huy sức mạnh của cộng đồng trong phát triển
kinh tế - xã hội, thu hẹp khoảng cách về đời sống giữa các vùng dân tộc, nhất là
đồng bào Mông với các dân tộc khác. Tăng cường nâng cao nhận thức và trách
nhiệm của hệ thống chính trị, các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể xã hội về nhiệm
vụ của công tác dân tộc trong tình hình hiện nay.
3.1.2. Vai trò của KTBĐ và sự cần thiết phải giữ gìn, phát huy kiến thức bản
địa của các dân tộc
Trên quan điểm phát triển thì không phải tất cả các loại KTBĐ đều hữu
ích như nhau, cũng có nhiều KTBĐ mang lại hiệu quả cao trong quá trình phát
triển và có thể áp dụng mà không cần sửa đổi. KTBĐ đã hỗ trợ cho công tác
nghiên cứu khoa học và có một phần vai trò trong các sáng kiến phát triển. Việc
ứng dụng nó trong phát triển được xem là giải pháp cho những vấn đề công nghệ.
Người dân địa phương rất quen thuộc với những thói quen và công nghệ của địa
phương. Họ có thể hiểu, nắm bắt và nhớ được kiến thức đó dễ hơn các kinh
nghiệm và công nghệ hiện đại.
KTBĐ được sử dụng để đánh giá tác động của quá trình phát triển. Nó là
một phương án thay thế có hiệu quả công nghệ khoa học kỹ thuật hiện đại, cung
cấp cho người dân địa phương và cán bộ triển khai các dự án phát triển những
giải pháp bổ sung. Thay vì việc tìm kiếm những công nghệ hiện đại cho những
giải pháp khả thi. Ví dụ: ở nước ta việc săn bắn, du lịch và khai thác tài nguyên
đã ảnh hưởng lớn đến môi trường. Người dân bản địa là người có điều kiện quan
sát kỹ càng nhất những thay đổi về môi trường. Vì vậy, đó là công cụ tốt nhất để
đánh giá tác động của các dự án phát triển.
KTBĐ được sử dụng như một công cụ để lựa chọn, quyết định, là cơ sở
để nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh của địa phương. Tuy nhiên, tri thức
bản địa cũng cần phải giao thoa với tri thức khoa học, cái này dựa trên cái kia để
82
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
có sự thích ứng bền vững và hiệu quả với các môi trường tự nhiên và kinh tế - xã
hội khác nhau.
Hiện nay, KTBĐ đã và đang đóng góp một phần quan trọng vào việc giải
quyết các vấn đề của địa phương và tộc người. Những tri thức về nông nghiệp
(kỹ thuật xen canh, chăn nuôi, đa dạng cây trồng, chăm sóc sức khoẻ vật nuôi,
chọn giống cây trồng); chăm sóc sức khoẻ con người (bằng các phương thuốc
truyền thống); sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên (bảo vệ đất, thuỷ lợi và
các hình thức quản lý nước khác); giáo dục (kiến thức truyền miệng, các ngôn
ngữ địa phương)… đã có những tác dụng nhất định trong xóa đói giảm nghèo và
phát triển kinh tế - xã hội.
KTBĐ của các tộc người được coi là một trong những lợi thế so sánh của
một số nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Bởi vậy, việc bảo vệ các
KTBĐ ở quy mô quốc gia và quốc tế, đặc biệt là bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối
với KTBĐ, được coi là một yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, do bản chất của KTBĐ
là tồn tại dưới dạng thông tin được lưu truyền qua các thế hệ, hoặc được trao đổi
giữa các cộng đồng, nên nhiều tri thức quý giá có nguy cơ bị mai một dần theo
thời gian, hoặc bị chiếm đoạt khai thác trái phép ngoài phạm vi kiểm soát của
cộng đồng nắm giữ tri thức. Những hành vi đó không chỉ gây thiệt hại về kinh tế
cho cộng đồng mà nguy hại hơn là phá vỡ nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa cộng
đồng nắm giữ và chủ thể khai thác tri thức bản địa, hủy hoại nỗ lực bảo tồn và
phát triển tri thức, đi ngược lại truyền thống văn hóa, phong tục tập quán… của
cộng đồng.
KTBĐ có tầm quan trọng lớn trong việc thực hiện các dự án phát triển
mang tính bền vững cho nên không những chỉ các nước đang phát triển mà các
nước có nền khoa học phát triển cao cũng rất chú ý sưu tầm, phân tích và ứng
dụng KTBĐ, nhằm tìm kiếm những giải pháp quản lý bền vững cổ truyền cũng
như giá trị của các tài nguyên mà khoa học hiện đại chưa biết tới.
Việc phát huy và áp dụng KTBĐ trên thế giới đã mang lại nhiều thành
công lớn. Rất nhiều nghiên cứu cho rằng, đa dạng sinh học phải vận dụng KTBĐ
83
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nằm trong nền văn hóa của các tộc người địa phương. Giá trị thương mại của
KTBĐ trên thực tế còn rất lớn. Như vậy, KTBĐ không những chỉ có giá trị phục
vụ các giải pháp phát triển, mà nó còn là kho báu văn hóa cần được bảo vệ và sử
dụng thật hữu ích.
Trong quá trình tiếp biến văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và xã
hội ở miền núi phía Bắc, người Mông ở Mèo Vạc đã tích lũy được một kho tàng
tri thức dân gian rất phong phú, dưới dạng kinh nghiệm sản xuất, đặc biệt kinh
nghiệm trong việc lực chọn đất canh tác, bảo tồn các giống cây trồng và vật nuôi
bản địa cũng như cách khai thác các nguồn lợi từ tự nhiên.
Ngày nay, đời sống văn hóa của đồng bào đang vận động và biến đổi cùng
với bối cảnh đất nước hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự tác động sâu sắc của
thời đại bùng nổ thông tin và cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật hiện đại, đã làm
cho nhiều KTBĐ của người Mông đang dần bị thay đổi. Việc giữ gìn những ưu
điểm của kiến thức bản địa, có sự kết hợp giữa KTBĐ và những kiến thức khoa
học đối với cao nguyên đá Mèo Vạc, mang lại những thay đổi cho cuộc sống của
đồng bào dân tộc Mông là rất cần thiết.
3.1.3. Một số thay đổi về KTBĐ của dân tộc Mông ở Mèo Vạc
3.2.3.1. Lịch nông vụ, lựa chọn đất, giống cây trồng vật nuôi
* Lịch nông vụ: Đồng bào Mông ở Mèo Vạc đã nhận được sự quan tâm
của Đảng, nhà nước và chính quyền địa phương với các chủ trương, chính sách
đúng đắn đồng bào đã từng bước có những thay đổi tích cực trong hoạt động xuất
và đời sống. Đặc biệt là thông qua chương trình 135 giai đoạn III và chương trình
30a, các chính sách hỗ trợ trồng trọt, phát triển chăn nuôi gắn với trồng cỏ cùng
với hoạt động giới thiệu sản phẩm đặc sản của địa phương được thực hiện đa
dạng. Qua đó, đã chuyển dần tập quán lao động, sản xuất của bà con nông dân
sang hình thức hàng hóa. Do đó, lịch thời vụ trong sản xuất cũng có sự thay đổi.
Lịch nông vụ của người Mông có sự thay đổi như sau:
Bảng 3.1. Lịch thời vụ (có sự thay đổi so với lịch thời vụ truyền thống)
Cây trồng Thời gian gieo trồng Thời gian thu hoạch
84
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Ngô Tháng 2,3 Tháng 7,8
Lúa Tháng 4, 5 Tháng 8, 9
Tháng 2, 3 Tháng 5, 6 Đậu tương Tháng 7, 8 Tháng 10, 11
Bí Tháng 3, 4 Tháng 9
Tam giác mạch Tháng 9, 10 Tháng 12
Cây Lanh Tháng 3 Tháng 6
Nguồn: Tác giả thu thập trong quá trình điều tra thực tế
* Lựa chọn đất: Rẻo cao là nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc
Mông. Mèo Vạc là vùng núi đá tai mèo, núi non trùng điệp, khí hậu mát mẻ
quanh năm. Tuy nhiên, do là vùng núi cao nên đất đai dễ bị xói mòn, rửa trôi.
Trước đây, người Mông thường sống du canh du cư nên việc lựa chọn đất để ở
và sản xuất là rất quan trọng, bởi mảnh đất đó sẽ quyết định xem họ có thể sinh
sống và canh tác ở đó trong thời gian mấy năm. Những ngày nay, với chính sách
của Đảng và Nhà nước hầu hết người Mông đã sống định canh định cư và được
giao đất giao rừng để hoạt động sản xuất. Do đó, khâu chọn đất bằng kinh nghiệm
dân gian đã không còn quan trọng nữa. Trên các mảnh đất canh tác, đồng bào
thường trồng xen canh gối vụ tạo độ màu cho đất, đồng thời kết hợp với bón
phân chuồng độ phì cho đất. Đồng bào đã được áp dụng mô hình nông lâm kết
hợp theo hình thức cải tiến dưới sự hướng dẫn tận tình của cán bộ xã. Hiện nay,
với những suy nghĩ lạc hậu đang dần được xóa bỏ, nhất là tâm lí chọn nơi mảnh
đất không người đặt chân đến đã không còn nữa. Một số đồng bào đã dần chuyển
xuống sinh sống và canh tác ở những vùng thấp hơn, thuận lợi cho việc đi lại
cũng như hoạt động sản xuất và sinh hoạt.
* Lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi
- Đối với cây trồng: Người Mông ở Mèo Vạc thời gian trước đây vẫn
trồng chủ yếu là những cây có giống địa phương như ngô, lúa, đậu tương, dưa
chuột, ớt, rau cải, rau dền, lanh. Hiện nay, đồng bào vẫn trồng những loại cây 85
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
này vì nó phù hợp với điều kiện sinh thái và tập quán canh tác của đồng bào nơi
đây. Tuy nhiên, người Mông đã biết áp dụng và đưa vào trồng một số những
giống cây mới cho năng suất cao, nhưng lại không bảo quản và giữ được giống
như các loại hạt giống địa phương. Ở Mèo Vạc, lúa được trồng với diện tích
nhỏ, chủ yếu là ngô - cây lương thực độc canh ở vùng này. Ngoài giống ngô địa
phương, ngày nay người dân đã trồng một số giống ngô lai: SSC557, SSC586,
DK999, LVN10, F1SSC …Đây là những giống ngô ngắn ngày và cho năng suất
cao, có thể ăn,chăn nuôi gia súc và mang đi trao đổi, buôn bán. Ngày nay, người
dân đã chú trọng hơn tới việc trồng lúa phục vụ cho nhu cầu cuộc sống hàng
ngày, nhiều giống lúa mới đã được đồng bào đưa vào để trồng cấy như: Shan
ưu 63, Nghị hương 3 dòng, lúa DS1, HT1, ĐS1…những giống lúa này được
gieo trồng cho năng suất và chất lượng gạo thơm ngon, luôn được người tiêu
dùng ưa chuộng. Bên cạnh, đó là những giống đậu tương mới cũng được đưa
vào trồng trọt và cho năng suất cao như các giống mới như DT84, VX93,
DT2000.
Ngoài ra, bên cạnh trồng giống rau cải địa phương người Mông còn trồng
một số giống cải dầu cho năng suất cao như: Hyola 76 (Úc), Hyola 432 (Úc), Cải
Miên 16 (Trung Quốc), Aggamax (Đức),…để thay thế cho cây trồng vụ đông.
Đây là những giống có sức chống chịu với điều kiện bất thuận như đóng băng,
sương muối, chịu hạn, chịu rét, trồng được trên địa hình khắc nghiệt mà vẫn cho
năng suất cao. Hay là giống cỏ voi đã được đồng bào trồng rất nhiều để phục vụ
cho chăn nuôi gia súc. Bên cạnh những cây lương thực chính, cây bí cũng được
người dân đã trồng nhiều với những giống bí siêu quả và siêu ngọn không chỉ để
phục vụ cho nhu cần ăn uống mà còn mang ra bán tại các phiên chợ. Thêm nữa,
với mục đích thay dần màu xám ngắt của đá tai mèo bằng màu xanh của cây
rừng, địa phương đang đẩy mạnh công tác trồng rừng, quyết tâm mang đến một
“không gian xanh” trên vùng Cao nguyên đá, nhiều xã đã trồng giống cây trồng
mới gồm Thông, Sa Mộc, Mắc Rạc các loại cây phù hợp với điều kiện khí hậu 86
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
của từng địa phương nơi đây. Đặc biệt, trong những năm gần đây du lịch ở Mèo
vạc rất phát triển, lãnh đạo huyện đã có chủ trương trồng cây cảnh quan, đặc biệt
là cây Đào cổ thụ không chỉ đơn thuần là bảo tồn và phát triển các giống đào cổ
thụ quý hiếm, bảo vệ môi trường sinh thái, mà quan trọng hơn chính là tạo “điểm
nhấn” để thúc đẩy ngành du lịch phát triển, góp phần giải quyết việc làm, tăng
thu nhập cho nhân dân địa phương. Bên cạnh đó, người dân còn đưa cây lanh về
trồng ở những ruộng thấp và chú trọng đưa cây Tam giác mạch vào trồng nhằm
mục đích phục vụ du lịch.
- Vật nuôi: Cơ cấu và giống vật nuôi có sự thay đổi mạnh mẽ. Ngoài việc
việc duy trì phát triển giống bò, ngựa, dê địa phương, đồng bào đang nhân rộng
mô hình nuôi ngựa Bạch. Loài ngựa này có khả năng thích nghi với điều kiện khí
hậu ở Mèo Vạc, có sự phát triển cả về trọng lượng và khả năng sinh sản.Hiện
nay ở một số như xã Sủng Máng, Lũng Chinh, Tát Ngà, Pả Vi đã đang phát triển
giống vật nuôi này. Bên cạnh đó, là việc nuôi giống bò và dê cho giá trị kinh tế
cao. Đưa vào thử nghiệm mô hình nuôi bồ câu, thỏ, vịt theo hướng tập trung và
bước đầu đã mang lại hiệu quả rõ rệt.
Qua đó cho thấy, hoạt động sản xuất nông nghiệp đã và đang được đẩy
mạnh, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thâm canh tăng vụ, nâng
hệ số sử dụng đất lên hai lần, ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa sản xuất
để tăng giá trị trên đơn vị diện tích. Với phương châm “gắn lý thuyết với thực
hành”, “coi trọng hiệu quả sau làm điểm”, việc xây dựng và nhân rộng những mô
hình sản xuất đưa các giống cây trồng, vật nuôi mới vào trong sản xuất, thực hiện
đúng khung thời vụ và cơ cấu giống theo hình thức luân canh tăng vụ để tăng hiệu
quả kinh tế trên cùng một đơn vị diện tích sản xuất nông nghiệp. Do đó, sản lượng
lương thực, bình quân lương thực đầu người và giá trị sản xuất nông nghiệp của
huyện Mèo Vạc đều tăng lên liên tục qua các năm.
Theo thống kê, năm 2015, tổng sản lượng lương thực (có hạt) toàn huyện
ước đạt trên 34.516 tấn, tăng 8.516 tấn so với năm 2010; bình quân lương thực 87
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đầu người ước đạt 442 kg/người/năm, tăng 19,46% so với năm 2010; giá trị sản
xuất nông nghiệp hàng năm ước đạt 31,84 triệu đồng/ha/năm, tăng 10,73 triệu
đồng/ha/năm so với năm 2010. Tổng đàn gia súc của huyện đạt khoảng trên
82.500 con, trong đó đàn bò chiếm trên 25.600 con.
3.2.3.2. Lựa chọn phương thức canh tác và công cụ lao động
Xưa kia, nương rẫy của đồng bào Mông chủ yếu là nương du canh, nhưng
ngày nay đã được thay thế chủ yếu là nương định canh. Trên nương định canh
người ta liên tục xen canh gối vụ, đa đạng hóa các loại cây trồng. Trước đây, nương
rẫy của người Mông chủ yếu là độc canh cây ngô, nhưng ngày nay người ta đã
biết tận dụng đất để xen canh với những cây trồng khác như bí, đậu tương.
Với điều kiện tự nhiên, khí hậu của một huyện vùng cao núi đá khắc
nghiệt, khó khăn, diện tích đất canh tác thì ít, núi đá thì nhiều nên huyện xác định
tập trung chỉ đạo các ngành chức năng vận động nhân dân tập trung chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, vật nuôi bằng việc đưa các tiến bộ KHKT vào sản xuất, chăn
nuôi để tăng thu nhập, từng bước xóa đói giảm nghèo bền vững cho đồng bào
các dân tộc trong huyện. Người Mông đã biết ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản
xuất nông nghiệp đặc biệt là vấn đề chuyển đổi mô hình, giống vật nuôi cây
trồng, áp dụng những phương tiện máy móc vào trong sản xuất. Trước đây, nông
cụ sản xuất chủ yếu của đồng bào chủ yếu là con dao, cái cuốc, cái cày…ngày
nay nông cụ phục vụ cho sản xuất ngày càng đa dạng với nhiều loại hình khác
nhau. Một số khu vực đồng bào Mông đã sử dụng máy cày, máy tuốt đạp chân,
máy xay xát…vào trong quá trình sản xuất.Việc sử dụng máy móc vào trong
canh tác không những giúp đồng bào tăng năng suất và sản lượng để nâng cao
đời sống, mà còn giúp đồng bào giải phóng sức lao động, tiết kiệm được thời
gian. Còn một số khu vực đồng bào ở trên những vùng núi cao thì việc sử dụng
những phương tiện này còn gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, người Mông đã bắt đầu biết sử dụng một số loại phân bón,
thuốc trừ sâu, bệnh, thuốc diệt cỏ vào trong sản xuất. Việc sử dụng những vật tư
88
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
nông nghiệp này ngày càng tăng do sự gia tăng về dân số, dẫn tới nhu cầu về
lương thực ngày càng tăng, và việc sử dụng phân bón truyền thống như phân
xanh, phân chuồng không mang lại hiệu quả tối ưu, đồng bào đã sử dụng thêm
phân hóa học như NPK, phân lân, phân đạm, kali để bón lót và bón thúc…sẽ
giúp đất đai màu mỡ, cây trồng cho năng suất cao, ổn định, đảm bảo nhu cầu
lương thực của đồng bào. Thêm vào đó, do điều kiện thời tiết thay đổi nên có
nhiều loại sâu bệnh xuất hiện mà với những kinh nghiệm dân gian thì không diệt
trừ được nên người ta đã dùng thuốc trừ sâu, bệnh để khắc phục tình trạng này.
Đối với vật nuôi người ta cũng đã biết sử dụng một số loại cám tăng trọng cho
gà, lợn, bò, cỏ bò thay thế cho nguồn thức ăn tự nhiên ngày càng cạn kiệt và cho
hiệu quả kinh tế cao.
Mèo Vạc quanh năm trong tình trạng thiếu nước nhất là vào mùa khô, vấn
đề nước sinh hoạt luôn là nỗi lo lớn của những người dân nơi đây. Được sự quan
tâm của Đảng, nhà nước và các cấp chính quyền địa phương đã xây dựng được
15 hồ treo nhân tạo trên các triền núi đá giúp xoa dịu “cơn khát” và cung cấp
nước cho sinh hoạt cũng như sản xuất của người dân nơi đây. Đây cũng là một
bước tiến quan trọng trong hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp của người Mông
ở Mèo Vạc. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất vẫn chủ yếu dựa trên những kinh
nghiệm, lối tư duy và nhận thức của đồng bào còn hạn chế nên chưa phát huy
được hết những lợi thế, lợi nhuận đem lại chưa tưng xứng với tiềm năng.
3.2.3.3. Thu hoạch, bảo quản và trao đổi hàng hóa
Trong thu hoạch và bảo quản các sản phẩm nông nghiệp người Mông vẫn
giữ được những kinh nghiệm truyền thống như việc thu hoạch ngô người ta vẫn
phơi trên nương rồi chờ chín vàng mới bẻ và gùi về nhà để bảo quản trên gác
bếp. Tuy nhiên, ở nột số địa phương trước khi để lên gác bếp người ta phun một
lớp hóa chất chống mọt rồi mới xếp lên trên cao. Nhờ có loại thuốc này nên đồng
bào không còn đợi 10 đến 15 ngày mới thu hoạch nữa, sau khi ngô chín vàng thu
hoạch để kịp cho vụ sau. 89
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Nhìn chung, người Mông ở gần khu vực trung tâm huyện do sống gần với
các dân tộc khác nên chợ mua bán nhộn nhịp, phong phú và tan chợ sớm hơn. Ở
những xã này, đồng bào đã biết nuôi lợn, gà, trồng các loại rau củ mang ra chợ
bán cho lái buôn. Một số những loại sản phẩm như rau, đậu, bí còn được người
ta mang đến bán ở các phiên chợ khác xa hơn. Còn đối với các xã chỉ có người
Mông sinh sống thì chợ ở nơi đây hàng hóa không phong phú, ít có mua bán
nhộn nhịp mà chủ yếu vẫn là hình thức trao đổi, người ta chỉ đem bán các sản
phẩm nông nghiệp khi có nhu cầu mua sắm vật dụng, hay vào các dịp lễ, tết và
gia đình có việc cưới hỏi.
Trong chăn nuôi, đồng bào đã biết dùng thuốc chữa bệnh cho vật nuôi.
Đồng thời thường phòng chống dịch bệnh, đói rét cho vật nuôi bằng cách tiêm
phòng, tiêu độc, vệ sinh chuồng trại, che chắn và giữ ấm cho vật nuôi khi thời
tiết giá rét. Trước đây, người Mông thường ít khi mang vật nuôi ra chợ bán, mà
chỉ có người đến nhà hỏi mua nhưng ngày nay đồng bào đã biết đem đến chợ
phiên để bán và được giá cao hơn so với người ta đến nhà mua. Một số những
vật nuôi được đem đi trao đổi chủ yếu là lợn, gà, bò. Một số gia đình khá giả,
người ta đã biết áp dụng những khoa học kĩ thuật và phương pháp mới vào trong
chăn nuôi và bước đầu đã thu được những kết quả đáng khích lệ, góp phần nâng
cao chất lượng cuộc sống cho đồng bào.
3.1.4. Các yếu tố tác động đến sự thay đổi của kiến thức bản địa
* Chính sách phát triển kinh tế - xã hội của khu vực miền núi vùng cao
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Hà Giang hiện có đủ 13 chính sách của Đảng,
Nhà nước dành cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số gồm: (chính sách đầu tư và
sử dụng nhân lực; chính sách đầu tư phát triển bền vững; chính sách phát triển
giáo dục và đào tạo; chính sách cán bộ người dân tộc thiểu số; chính sách đối với
người có uy tín ở vùng dân tộc thiểu số; chính sách phát triển thể dục - thể thao
90
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
vùng dân tộc thiểu số; chính sách phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số; chính
sách bảo tồn và phát triển văn hóa…). Hầu hết các chính sách đều gắn với công
tác xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh nói chung, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số nói riêng, đều được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền và của cả
hệ thống chính trị. Trong từng giai đoạn 5 năm một lần, tỉnh đều xây dựng kế
hoạch giảm nghèo cho từng giai đoạn cụ thể gồm: 1995-2000, 2001-2005, 2005-
2010, 2011-2015. Hiện nay tỉnh Hà Giang đã và đang thực hiện nhiều chương
trình giảm nghèo nhanh và bền vững giai đoạn 2011-2015, trong đó có chính
sách dân tộc và miền núi, vùng dân tộc thiểu số khó khăn và đặc biệt khó khăn,
để giúp cho đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo.
Được sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Hà Giang, hiện
nay trình độ dân trí của đồng bào Mông ở Mèo Vạc đã được nâng cao rõ rệt cả
trong nhận thức lẫn lối tư duy. Người Mông đã nhanh chóng tiếp thu, học tập
những tri thức mới, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp từ địa phương
khác và qua thông tin đại chúng để rút ra những kinh nghiệm áp dụng vào phục
cho cuộc sống của mình. Thực tế cho thấy, phong tục tập quán lạc hậu dần được
xóa bỏ, những kĩ thuật mới được áp dụng vào sản xuất nâng cao hiệu quả kinh
tế, đặc biệt là việc sử dụng máy móc, phân bón, giống vật nuôi cây trồng mới
vào trong sản xuất. Từ việc sản xuất nông nghiệp mang tính tự cung tự cấp người
Mông ở Mèo Vạc đã nhận thấy được sự cần thiết phải thay đổi cơ cấu cây trồng,
vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa. Được sự hỗ trợ về kĩ thuật của cán bộ
huyện đồng bào tiếp tục mở rộng diện tích gieo trồng, tập trung thâm canh tăng
năng suất, sản lượng các loại cây trồng; tích cực chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, chú
trọng phát triển cây vụ Đông, tăng hệ số sử dụng đất; chuyển đổi các loại giống
mới có năng suất, chất lượng cao phù hợp với điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng,
thực hiện cải tạo và phát triển các loại cây ăn quả; tăng cường đầu tư thâm canh,
đa dạng hóa sản phẩm. Bên cạnh đó, tập trung cải tạo, nâng cao chất lượng đàn
gia súc, gia cầm có giá trị cao như trâu, bò, dê và đàn ong; tiếp tục đẩy mạnh
91
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thực hiện chương trình chuyển đổi đất sang trồng cỏ phát triển chăn nuôi bò hàng
hóa, tạo thương hiệu bò vàng Mèo Vạc; chú trọng phát triển đàn gia súc cái sinh
sản. Từ đó, hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa của người dân cũng đã diễn ra
mạnh mẽ hơn. Quan đó ta thấy, đồng bào đang dần có sự thay đổi dần về nhận
thức trong việc thấy được sự cần thiết phải đa dạng hóa các loại cây trồng, vật
nuôi, tận dụng tối đa thời gian và nguồn nhân lực vào sản xuất. Với tư duy làm
ăn mới cuộc sống của đồng bào nơi đây giờ đã và đang dần có sự thay đổi để
thoát khỏi sự đói nghèo.
Bên cạnh những biến đổi tích cực của KTBĐ để tiến kịp với sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nước, thì một số những kinh nghiệm dân gian trong sản
xuất và sinh hoạt của đồng bào Mông không còn phù hợp với hiện tại và nó đang
dần bị mai một. KTBĐ của người Mông thường được lưu giữ bằng trí nhớ và
truyền bá cho các thế hệ khác bằng miệng, thơ ca, tế lễ. Do vậy, những người
hiểu biết là những người già, thầy cúng, phụ nữ lớn tuổi. Khi những người này
qua đời do chiến tranh, bệnh tật, tuổi già thì hệ thống kiến thức quý báu đó rất dễ
bị thất truyền. Mặt khác, do truyền lại bằng miệng nên KTBĐ cũng có nhiều dị
bản. Cứ mỗi một thế hệ được truyền lại thì nội dung kiến thức lại bị biến dạng
thành nhiều nội dung khác nhau so với nội dung kiến thức ban đầu. Một số KTBĐ
mang tính bí truyền, người Mông chỉ truyền lại cho con trai cả, con dâu, hay một
vài người trong gia đình. Chúng không được phổ biến rộng rãi và có khả năng bị
mai một dần. Những kiến thức này thiên về cây thuốc, việc chữa bệnh hay là bí
quyết trong công nghệ sản xuất một loại sản phẩm nào đó. Đặc biệt, người Mông
luôn cư trú trên vùng núi cao, với bản làng xa xôi, hẻo lánh rất khó khăn cho
công tác vận động, tuyên truyền của cán bộ và giao lưu với các tộc người khác.
Tiếng nói và chữ viết của họ rất khó học. Do vậy, kiến thức của người Mông ít
được lưu giữ thông qua hình thức giao lưu giữa các tộc người, thông qua việc
tìm hiểu các văn tự do người Mông để lại. Với người Kinh những kinh nghiệm
92
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
trong hoạt động sản xuất thường được thể hiện qua những câu ca dao, tục ngữ,
lời hát ru…thì đối với đồng bào Mông, những bài dân ca thường là những lời hát
đối đáp của những chàng trai, cô gái chủ yếu là lời thề, hẹn ước, nhắn nhủ, là
tiếng hát than thân trách phận của nàng dâu, những đôi trai gái bị ép duyên, trẻ
mồ côi…Những KTBĐ trong sản xuất chỉ được truyền từ đời này sang đời khác
qua hoạt động sản xuất thực tiễn. Do đó, nó rất dễ bị lãng quên và mất dần đi.
Có thể nói, KTBĐ là một yếu tố “động” bản thân nó luôn vận động và biến
đổi không ngừng để tiến kịp với sự phát triển của thời đại. Khi kinh nghiệm mới
tiến bộ hơn ra đời sẽ dần thay thế cho những kinh nghiệm cũ lỗi thời, lạc hậu,
không còn phù hợp với thực tiễn. Hệ thống những kinh nghiệm cũ sẽ được thay
thế bởi những cái mới tiến bộ hơn.
* Yếu tố kinh tế
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
đường lối đổi mới đất nước với xu thế là: dân chủ hóa đời sống KT - XH;phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN; tăng cường
giao lưu và hợp tác với các nước trên thế giới. Với đường lối đổi mới này đã tác
động mạnh mẽ tới sự phát triển KT - XH của cả nước nói chung, và từng địa
phương nói riêng, đặc biệt nó có ý nghĩa rất lớn đối đồng bào vùng sâu, vùng xa.
Với những chính sách phát triển kinh tế, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp đã
tác động mạnh mẽ tới lối nhận thức và tư duy của người dân. Nền kinh tế hàng
hóa thị trường đã dẫn tới lối sản xuất độc canh, áp dụng những tiến bộ về KHKT
vào trong sản xuất, khiến cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Điều đó, đã giúp cho cơ
cấu kinh tế có sự chuyển dịch rõ rệt, tỷ lệ đói nghèo đã được giảm mạnh, đời
sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên,
bên cạnh những thành tựu đã đạt được là những hạn chế nhất định, đặc biệt là
đối với những dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa. Đó là những KTBĐ quý báu
đã và đang dần bị biến đổi và có thể sẽ mất đi, nhất là trong lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp. Chẳng hạn, trước đây đồng bào thường trồng các giống ngô, lúa,
93
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đỗ tương địa phương, do đồng bào tự để lại giống sau mỗi đợt thu hoạch, nhưng
hiện nay, đồng bào đã sử dụng các giống lúa, ngô lai vào trong trồng trọt. Hay là
việc chuyển đổi từ việc trồng ngô giống bản địa sang tập trung đầu tư thâm canh
những loại cây trồng có giá trị kinh tế cao đó là cây cải dầu. Theo như người dân
cho biết, nhiều hộ gia đình hiện nay đã không còn trồng giống ngô nếp địa
phương thơm ngon, ngọt và rất dẻo, năng suất thấp mà thay vào đó là trồng các
giống ngô lai cho năng suất cao, thời gian sinh trưởng ngắn, nhưng giống ngô
này đồng bào không để được giống cho vụ sau. Nếu có để thì hạt rất dễ bị mốc,
nảy mần, hoặc khi trồng không cho năng suất cao như giống ngô mua sẵn lúc
ban đầu.
Nền kinh tế hàng hóa đã làm mất đi sự đa dạng của các sản phẩm nông
nghiệp cũng như những KTBĐ trong sản xuất của đồng bào. Trong những năm
gần đây Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương đa tích cực chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, đưa những giống cây trồng, vật nuôi mới vào trong sản xuất nông
nghiệp điển hình đó là các giống lúa, ngô, gà, lợn, bò…nhằm nâng cao năng
suất và chất lượng sản phẩm, giúp đời sống của nhân dân ngày càng được cải
thiện, thoát khỏi cái nghèo. Tính riêng năm 2015, tổng sản lượng lương thực
(có hạt) toàn huyện ước đạt 34.516,8 tấn, tăng 8.516 tấn so với năm 2010; bình
quân lương thực đầu người ước đạt 442 kg/người/năm, tăng 19,46% so với năm
2010. Giá trị sản xuất/ha canh tác cây hàng năm ước đạt 31,84 triệu đồng/ha,
tăng 10,73 triệu đồng/ha so với năm 2010. Người Mông đã chú trọng tập trung
đầu tư vào các giống cây trồng vật nuôi bản địa bò, gà xương đen, ong, rau
cải…nhưng với mục đích kinh tế đáp ứng nhu cầu của thị trường tiêu thụ nên
đồng bào đã áp dụng những tiến bộ KHKT vào trong sản xuất làm suy giảm
chất lượng vốn có của các sản phẩm địa phương. Mặt khác, trước yêu cầu của
thị trường tiêu thụ khiến cho một số bộ phận đông bào từ bỏ tập quán canh tác,
sản xuất cũ, đi theo những mô hình sản xuất mới, từ đó những kinh nghiệm dân
gian trong sản xuất sẽ bị lãng quên và có nguy cơ mất đi. Qua đó cho thấy, đi
94
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
đôi với cái đạt được lại là sự mất đi hệ thống KTBĐ cũng như nguồn giống cây
trồng, vật nuôi bản địa mà người dân phải mất khoảng thời gian dài mới tạo ra
được.
* Yếu tố văn hóa - xã hội:
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, không chỉ tác động mạnh mẽ tới sự
phát triển kinh tế, mà còn tác động tới những hoạt động văn hóa - xã hội của đất
nước. Với sự phát triển kinh tế thị trường không chỉ thúc đẩy sự giao lưu giữa các
vùng miền địa phương mà còn làm cho đời sống văn hóa của người dân ngày càng
được nâng cao. Bên cạnh đó, nó còn tạo điều kiện cho các dân tộc có sự giao lưu
và học hỏi lẫn nhau. Quá trình này, làm cho nền văn hóa của nước ta thêm phong
phú và đa dạng, mặt khác việc hòa nhập văn hóa cũng khiến cho bản sắc văn hóa
riêng của từng tộc người đứng trước nguy cơ bị xói mòn và rất có thể sẽ bị mai
một. Chẳng hạn, khi nền kinh tế phát triển, thị trường mở rộng, giao thông liên xã
thuận lợi tạo điều cho việc giao lưu kinh tế. Vì vậy, hàng hóa từ miền xuôi, từ
Trung Quốc dễ dàng len lỏi vào từng bản làng của đồng bào. Hàng hóa được áp
dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất vừa đẹp, giá cả vừa phải nên được người
Mông ưa chuộng. Từ những dụng cụ như con dao, lưỡi cày, cái cuốc...mẫu mã
giống của người Mông nhưng chất lượng không bằng nhưng đồng bào vẫn mùa
về dùng. Những chiếc váy được may bằng nhiều loại vải với những màu sắc khác
nhau, lại được thiết kế tiện lợi trong sinh hoạt, gọn nhẹ nên người phụ nữ Mông
mua về mặc. Để bảo vệ thực vật người Mông ở Mèo Vạc đã biết mua những loại
thuốc của Trung Quốc về sử dụng rẻ mà lại dễ sử dụng... Người Mông rất thích lễ
hội và đi chợ phiên. Bởi đây là nơi để các chàng trai, cô gái gặp nhau giao duyên,
so tài bởi những điệu múa khèn, lời hát giao duyên, chơi ném pao... nhưng ngày
nay trong ngày chợ phiên của người Mông đã vắng bóng những nét văn hóa đặc
sắc này. Khi bản sắc văn hóa tộc người bị đe dọa thì KTBĐ cũng đứng trước nguy
cơ bị suy thoái và biến mất.
Ngày nay, khi phương tiện thông tin đã được sử dụng phổ biến và rộng
rãi, đồng bào đã biết dựa vào thông tin dự báo thời tiết để có kế hoạch sản xuất.
95
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Sự phụ thuộc vào các nguồn thông tin nên những kiến thức dân gian về dự đoán
thời tiết đã không được dùng đến và dần bị lãng quên.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách đào tạo và bồi
dưỡng tầng lớp tri thức là người DTTS ngày càng được đẩy mạnh. Qua trình học
tập, tiếp thu tri thức mới đã được mở rộng trong cộng đồng, dẫn đến thay đổi nếp
sống và tư duy của đồng bào, nhiều hình thức canh tác và sản xuất mới được áp
dụng tại các thôn, bản ngày càng nhiều. Điều này khiến cho việc truyền thụ và
áp dụng những KTBĐ trong đời sống và sản xuất của đồng bào bị ảnh hưởng
không ít. Sự thay đổi cơ cấu nghề nghiệp trong gia đình và xã hội làm gián đoạn
sự truyền thụ kiến thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hiện nay, với chính sách
đào tạo cán bộ là người DTTS ngày càng được đẩy mạnh, nhiều con em dân tộc
Mông đã đi học ở các trường nội trú, chuyên nghiệp. Do đó, thời gian sinh hoạt
cùng gia đình rất ít, không được truyền thụ những kinh nghiệm trong sản xuất từ
cha, mẹ, ông, bà. Qua đó ta thấy, hệ thống KTBĐ trong trồng trọt và chăn nuôi
của đồng bào đang ngày càng bị mai một và đến thế hệ con cháu có thể sẽ không
còn nữa.
* Yếu tố tự nhiên: Sự tác động mạnh mẽ của con người, đặc biệt là của
đồng bào nơi đây tới tự nhiên đã làm thiên nhiên bị tàn phá nghiêm trọng. Khi
thiên nhiên bị tàn phá nghiêm trọng có thể làm cho hệ thống KTBĐ bị mất đi
nhanh chóng. Bởi KTBĐ được lưu truyền cho mọi thế hệ qua quá trình hoạt động
sản xuất và thích ứng với điều kiện tự nhiên. Mỗi một địa phương có điều kiện
tự nhiên khác nhau sẽ hình thành những kinh nghiệm ứng xử với tự nhiên khác
nhau. Trong quá trình con người tác động vào tự nhiên thì bản thân tự nhiên ở
địa phương đó cũng đã có sự biến đổi, theo đó kinh nghiệm dân gian cũng dần
bị biến đổi. Bên cạnh đó, nạn phá rừng đã làm mất đi một số loài cây dược liệu
quý hay những loài cây chỉ thị trong việc lựa chọn đất trồng, điều này dẫn đến
96
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tình trạng kiến thức dân gian, những kinh nghiệm và những hiểu biết về cây thuốc
và cách chữa bệnh cũng sẽ bị biến mất. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến sự biến đổi trong phương thức sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu
số nói chung và dân tộc Mông ở Mèo Vạc nói riêng.
3.2. Một số giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy kiến thức bản địa trong sản
xuất nông nghiệp của dân tộc Mông ở huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang
3.2.1. Một số giải pháp chung nhằm giữ gìn và phát huy kiến thức bản địa
3.2.1.1. Giữ gìn và phát huy mặt tích cực của kiến thức bản địa trong tập quán
sản xuất và sinh hoạt của dân tộc
KTBĐ là sản phẩm lao động của nhân dân trong hàng thế kỉ. Hệ thống
những kiến thức đó được tích lũy, hoàn thiện và truyền qua nhiều thế hệ trong
cộng đồng địa phương. Hiện nay KTBĐ được coi như “Một nguồn tài nguyên”
rất quý giá cần được thu thập, giữ gìn và phát huy, đồng thời có thể cải tiến hoặc
phối hợp với kỹ thuật hiện đại để áp dụng trong quản lý và PTBV tài nguyên,
cũng như PTBV về mặt kinh tế, xã hội cho các dân tộc.
Theo thời gian các kinh nghiệm truyền thống được biến cải để ngày càng
hoàn thiện hơn, có hiệu quả và thích ứng cao hơn với những thay đổi của môi
trường tự nhiên và xã hội. Hệ thống KTBĐ có giá trị cao trong việc xây dựng
các mô hình phát triển nông thôn và quản lý bền vững tài nguyên miền núi theo
hướng có người dân tham gia. Một số nhà nghiên cứu đã coi KTBĐ là cơ sở để
đề xuất các quyết định tại địa phương trong các lĩnh vực nông nghiệp, y tế, giáo
dục và quản lý tài nguyên, môi trường.
Do đặc thù về phong tục tập quán và địa bàn cư trú trong những môi trường
tự nhiên cụ thể, mỗi dân tộc lại có những cách thức sản xuất, những kinh nghiệm
cũng như cách ứng xử với tự nhiên khác nhau. Như vậy, tập quán canh tác và tập
97
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
quán sinh hoạt của đồng bào các DTTS vốn đã ăn sâu vào nếp nghĩ và trở thành
thói quen của mọi người.
Để phát huy, giữ gìn những KTBĐ trong vấn đề bảo vệ tài nguyên và môi
trường cần phải có một số những giải pháp thiết thực. Trong đó, cần đặc biệt chú
ý tới những chính sách ưu tiên đầu tư, hỗ trợ các dân tộc thiểu số phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần. Có như vậy đồng
bào mới yên tâm định canh định cư lâu dài trên mảnh đất của mình và đó cũng
là cơ sở để phát huy những tri thức bản địa. Đồng thời tăng cường những biện
phápnhằm duy trì, nâng cao tính gắn bó trong cộng đồng, phát huy những quy
định luật tục của dòng họ, của làng bản trong việc khai thác và bào vệ TNTN.
Để giữ gìn và phát huy KTBĐ của dân tộc Mông, trong luận văn xin đề xuất một
số biện pháp sau:
Thứ nhất, việc áp dụng tri thức bản địa vào phát triển kinh tế - xã hội cần
phải biết chắt lọc các giá trị đích thực của tri thức bản địa nâng cao giá trị của nó
vào môi trường mới, thích ứng với cuộc sống hiện tại khi nền kinh tế đất nước
thực sự phát triển theo cơ chế thị trường. Cần nhận thức khách quan xu hướng
cơ bản là cộng đồng địa phương không thể bỏ tri thức bản địa vốn đã thích nghi.
Tuy nhiên vốn bản chất của tri thức bản địa là sự tự thay đổi để thích ứng với
hoàn cảnh nên nó luôn tiếp thu các giá trị tri thức du nhập từ bên ngoài để phát
triển. Dựa vào các KTBĐ sẽ giúp các nhà khoa học lập các dự án phát triển mà
không phải điều tra sàng lọc, mất nhiều thời gian và tốn kém.
Thứ hai, Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, góp phần nâng cao
nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của KTBĐ nhất là thế hệ trẻ là con em
đồng bào DTTS thiểu số nói chung và đồng bào Mông nói riêng nhằm nâng cao
lòng tự hào về những giá trị văn hóa đặc sắc của cha ông, từ đó tự giác tham gia
98
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
các hoạt động văn hóa truyền thống cộng đồng, đấu tranh với sự xâm nhập của
văn hóa ngoại lai, phản tiến bộ.
Thứ ba, Tiếp tục bảo lưu những giá trị văn hóa tinh thần bằng cách truyền
đạt lại quy trình và kỹ năng trong sinh hoạt và hoạt động sản xuất cho thế hệ trẻ
thông qua các lễ hội, từ việc khôi phục các lễ thức truyền thống, lựa chọn những
lễ hội đặc sắc, tiêu biểu duy trì thường xuyên vào thời gian cố định.
Thứ tư, Nhà nước cần quan tâm đầu tư nhiều cho văn hóa, có chính sách
động viên, khen thưởng, công nhận các danh hiệu thầy thuốc dân gian, thầy thuốc
cộng đồng đối với người có công lao trong việc chữa bệnh; danh hiệu nghệ nhân
dân gian đối với người có công lưu giữ những giá trị KTBĐ của tộc người.
Thứ năm, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu
quả triển khai, định kỳ đánh giá sơ, tổng kết rút ra bài học kinh nghiệm và điều
chỉnh các nội dung triển khai phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương
để phát triển kinh tế-xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an
ninh quốc phòng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Xây dựng và phát
triển văn hóa nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại trên cơ sở bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa mỗi dân tộc là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình thực
hiện CNH-HĐH đất nước.
Thứ sáu, nghiên cứu và xây dựng một số chính sách mới về xây dựng đời
sống văn hóa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa và hệ thống KTBĐ đối với
đồng bào DTTS.
3.2.1.2. Hỗ trợ cộng đồng bảo tồn kiến thức bản địa của dân tộc
KTBĐ là nền tảng cơ sở tự cung tự cấp và tự quyết định vì hai lý do: thứ
nhất, người dân quen thuộc với những thói quen và kinh nghiệm của địa phương;
họ có thể nắm bắt và nhớ những kiến thức đó dễ hơn những kiến thức khoa học
kỹ thuật công nghệ mới; thứ hai, KTBĐ được đúc kết trên cơ sở những nguồn
99
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
sẵn có của địa phương, tuy nhiên KTBĐ thường được truyền miệng, ít được lưu
giữ ở dạng văn bản. Cùng với thời gian, một số kiến thức đã bị thất truyền do các
nguyên nhân khác nhau. Do vậy việc hỗ trợ cộng đồng bảo tồn KTBĐ là rất cần
thiết.
Trong tài liệu “Recording and using indigenous knowlege: A manual” của
Viện Thiết kế nông thôn (IIRR) do Everlyn Mathias biên soạn đã đưa ra những
phương pháp nhằm hỗ trợ bảo tồn KTBĐ, theo tác giả những phương pháp này
có thể áp dụng rộng rãi ở Việt Nam nói chung và cộng đồng dân tộc Mông nói
riêng.
Thứ nhất, là việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá trị KTBĐ của
họ thông qua việc ghi chép và phổ biến hiệu quả KTBĐ trên các phương tiện
thông tin đại chúng, qua những câu chuyện, bài thơ, bức họa...
Thứ hai, đó là việc trình diễn lợi ích của KTBĐ bằng việc xây dựng những
mô hình nông trại, những mô hình sản xuất trên các hệ sinh thái đặc trưng của
đồng bào dân tộc; xây dựng các thửa ruộng và mô hình nông nghiệp trình diễn,
các cơ sở sản xuất hàng thủ công bằng những kỹ thuật truyền thống để người dân
có thể thấy được những giá trị truyền thống của mình.
Thứ ba, giúp các thành viên trong cộng đồng ghi lại và tư liệu hóa những
kinh nghiệm của địa phương dưới hình thức: lưu hành các kết quả ghi chép về
KTBĐ trong các bản tin nội bộ, sách, băng hình và những phương tiện thông tin
truyền thống và hiện đại. Khuyến khích các dạng lưu trữ truyền thống.
Thứ tư, sắp xếp những thông tin KTBĐ luôn sẵn có. Khuyến khích người
dân địa phương tham gia bảo tồn KTBĐ của họ. Ví dụ, tạo điều kiện cho người
dân được tham gia quản lý nguồn tài nguyên tại địa bàn họ sinh sống.
Thứ năm, phục hồi kinh nghiệm truyền thống địa phương thông qua việc
khuyến khích tổ chức hoặc tăng cường các tổ chức địa phương sưu tầm và truyền
100
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
thông KTBĐ. Điều này sẽ giúp các thành viên của cộng đồng nhận thức tốt hơn
về giá trị của các kinh nghiệm và văn hóa bản địa vốn có của họ.
Những phương pháp trên được xem như là những gợi ý quan trọng giúp
cho mỗi địa phương, mỗi người dân bảo tồn được KTBĐ của dân tộc mình.
Những kỹ năng xã hội, những kỹ thuật sản xuất sẽ được trao truyền cho con cháu
từ đời này sang đời khác, trong nhiều thế kỷ.
Trong xã hội hiện đại, cần tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc vừa kế
thừa vốn tri thức dân gian, vừa tiếp tục sáng tạo vốn tri thức mới, và trao quyền
cho thế hệ sau một cách hiệu quả nhất. Gần đây, Chính phủ Việt Nam đã phê
duyệt chương trình đặc biệt về bảo tồn và phát triển các đặc tính văn hóa cho một
số nhóm DTTS. Theo kết quả nghiên cứu của Viện dân tộc thuộc Ủy ban Dân
tộc của Chính phủ, thì việc bảo tồn các giá trị văn hóa và những KTBĐ phải trên
cơ sở giúp cho các nhóm dân tộc này có lợi ích tốt hơn từ sự phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước trong quá trình CNH - HĐH. Như vậy, trong thời gian tới,
đồng bào các dân tộc sẽ nhận được hỗ trợ trong việc phát triển kinh tế cũng như
bảo tồn những KTBĐ của mình.
3.2.1.3. Kết hợp kiến thức bản địa và kiến thức mới
Nhiều KTBĐ vẫn đang được cộng đồng người bản địa sử dụng có hiệu
quả. Tuy nhiên, một cộng đồng ổn định không phải là một tập thể tĩnh mà phải
là một cộng đồng có khả năng thích ứng với những điều kiện mới. KTBĐ kết
hợp với kiến thức hiện đại sẽ bổ sung cho nhau nhằm tạo ra sự phát triển bền
vững hơn so với việc áp dụng máy móc tất cả những gì từ bên ngoài đưa vào
cộng đồng. Ở một số nước trên thế giới, KTBĐ đã được kết hợp và cải tiến dựa
vào những kiến thức mới. Điều này đã đem lại hiệu quả trực tiếp cho người dân
và những người tiến hành triển khai các dự án PTBV nông nghiệp, nông thôn
miền núi. Việc kết hợp giữa KTBĐ và kiến thức hiện đại thường được thông
101
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
qua sự hướng dẫn của các cơ quan khuyến nông, khuyến lâm tại mỗi địa
phương.
KTBĐ đã và đang đóng góp một phần quan trọng vào việc giải quyết các
vấn đề của địa phương và tộc người. Tuy nhiên, không phải KTBĐ nào cũng
được sử dụng và phát huy hiệu quả trong bối cảnh mới. Do vậy, không thể chỉ
lựa chọn và áp dụng tri thức khoa học, cũng không thể chỉ dựa vào KTBĐ mà
phải kết hợp hai nguồn tri thức ấy vì mục tiêu PTBV. Điều đó có nghĩa là khi
triển khai các dự án, chúng ta phải nghiên cứu để lồng ghép và chuyển tải những
kinh nghiệm trong bảo vệ đất, tính lịch thời vụ, xen canh, luân canh; những tri
thức bảo vệ TNTN, xây dựng mô hình phát triển. Từ đó, góp phần vào việc thay
đổi nhận thức và thế ứng xử trong không gian sinh tồn của người dân miền núi.
Bên cạnh đó, những tri thức trong việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng; trong điều
hành, quản lý con người, làng bản, xã hội với việc đề cao vai trò của người già,
của cộng đồng, tính nhân văn của những quan hệ bền chặt trong gia đình, dòng
họ là những kinh nghiệm quý trong xây việc xây dựng nông thôn có tăng trưởng
kinh tế những vẫn đảm bảo công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Đó chính là
mục tiêu của PTBV mà chúng ta đang hướng tới.
Xác định vấn đề
Việc cải tiến kiến thức bản địa có thể có nhiều cách:
Bước 1 Không
Bước 2
KTBĐ có liên quan đến vấn đề hiện nay không? Thử nghiệm kiến thức bên ngoài phù hợp Có
Có
KTBĐ có hiệu quả và bền vững không?
Phát triển KTBĐ Không
102
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Thử nghiệm kiến thức bên ngoài phù hợp KTBĐ có thể cải tiến được không?
Áp dụng và phát triển
Bước 3 Không
Bước 4 Có
Hình 3.1. Sơ đồ Kiến thức bản địa trong các dự án phát triển
Thực tế tại một số thôn bản ở huyện Mèo Vạc, cho thấy nhiều bằng chứng
rõ ràng về sự kết hợp giữa KTBĐ và kiến thức hiện đại trong trong quản lý, sử
dụng các nguồn lợi tự nhiên của đồng bào dân tộc. Đối với dân tộc Mông việc
chặt cây đốt rừng làm nương rẫy theo phương thức canh tác truyền thống đang
dần được chuyển đổi theo hướng bảo vệ và phát triển rừng dưới sự tư vấn và
hướng dẫn tận tình của cán bộ khuyến nông xã. Hiện nay, bà con đã biết trồng
rừng với những giống cây do địa phương cung cấp xen với những cây bản địa.
Đồng bào đã biết tự điều chính thói quen và tập quán của mình để hòa nhập và
phù hợp với điều kiện môi trường xung quanh.
Trong nhiều trường hợp, KTBĐ có thể cải tiến được thông qua việc phát
triển công nghệ với sự tham gia và quản lý của người dân. Những KTBĐ đã được
cải tiến có thể được phát triển và áp dụng thông qua các dịch vụ phổ cập, các trung
tâm khuyến nông và các phương pháp thông tin giáo dục khác. Điều cần quan tâm
là phải giúp đỡ đồng bào vận dụng các kiến thức khoa học nhằm làm tăng hiệu
quả quản lý và sử dụng TNTN nhưng không để mất đi KTBĐ quý giá vốn có của
họ. Vấn đề ở đây là nên kết hợp hai nguồn tri thức ấy vì mục tiêu khai thác, bảo
vệ, quản lý tốt nguồn TNTN, hướng tới mục tiêu PTBV.
3.2.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm giữ gìn và phát huy kiến thức bản địa
trong sản xuất nông nghiệp của dân tộc Mông huyện Mèo Vạc
103
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
3.2.2.1. Trong trồng trọt
- Cần tăng cường ứng dụng các tiến bộ KHKT mới vào sản xuất, đẩy mạnh
thâm canh, đưa một số giống mới vào gieo trồng sản xuất trên diện rộng, đưa cơ
giới hóa vào sản xuất,quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa tập trung tại các xã có
điều kiện thuận lợi. Điển hình đó là một số xã như Pả Vi, Tát Ngà, Niềm Tòng,
Lũng Chinh. Đặc biệt, cần tiếp tục xây dựng các hồ treo nhân tạo nhằm cung cấp
nước cho sinh hoạt và phục vụ sản xuất.
- Từng bước đẩy mạnh và thực hiện việc trồng cây vụ Đông, đưa vụ Đông
trở thành vụ sản xuất chính. Cán bộ xã cần hướng dẫn đồng bào chăm sóc, sử
dụng phân hữu cơ sinh học bón cho cây trồng để giảm chi phí đầu vào và nâng
cao năng suất cây trồng; thường xuyên kiểm tra đồng ruộng để kịp thời phát hiện
và phòng trừ sâu bệnh, ưu tiên cây trồng ngắn ngày, vừa có hiệu quả kinh tế lại
vừa kịp gieo trồng vụ xuân như cây rau, đậu và khoai tây, su su đáp ứng nhu cầu
rau, củ tại chỗ và phục vụ chăn nuôi, giải quyết việc làm tại chỗ, tăng thu nhập
cho người nông dân.
- Mô hình trồng cây cải dầu đem lại hiệu quả kinh tế không cao cần được
thay thế bằng một số giống cây trồng khác như khoai tây, khoai lang, bắp cải.
-Tích cực hơn nữa trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản
xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, mang lại hiệu quả kinh
tế cao, rút ngắn thời gian sản xuất cho bà con nông dân. Cần tập trung vào nhóm
các cây trồng mũi nhọn điển hình là cây đậu tương, tiếp tục đẩy mạnh thâm canh
giống mới, chọn lọc và đưa một số giống cho năng suất cao như VX93, DT84,
DT2000, Hoa Kiều.
- Đảng, Nhà nước và lãnh đạo huyện cần có những chính sách cụ thể trong
việc hỗ trợ vốn trong sản xuất như phát triển các giống cây mới, điển hình là cây
chè shan tuyết. Đa số cây chè đã ở độ tuổi già cỗi (có cây chè cổ thụ hàng trăm
năm tuổi), rất có thể bị suy thoái nên độ phân cành kém, tỷ lệ búp không đáng kể
dẫn đến năng suất chè thấp, đồng bào chưa biết áp dụng các tiến bộ KHKT vào
104
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
các khâu chăm sóc, thu hái và chế biến nên sản lượng chè còn rất thấp và chưa
được quảng bá hình ảnh rộng rãi. Do đó, các cơ quan chuyên môn của huyện cần
hướng dẫn người dân áp dụng các tiến bộ KHKT vào thâm canh cây chè, khai
thác có hiệu quả diện tích chè Shan tuyết cổ thụ hiện có. Mặt khác, cần duy trì
giống chè thay thế những cây đã già cối, quy hoạch vùng chè, mở rộng diện tích,
tăng năng suất và quảng bá hình ảnh và thiết kế logo riêng cho thương hiệu chè
này.
- Cần quy hoạch trồng tập trung cây đào, mận và tam giác mạch trên quy
mô và diện tích lớn kết hợp với áp dụng khoa học kĩ thuật nhằm mục đích nâng
cao năng suất và phục vụ cho du lịch, tăng thêm nguồn thu nhập cho người dân.
- Để hạn chế sự xói mòn và bạc màu của diện tích đất đang được sử dụng
trồng ngô cần trồng xen canh một số loại cây ngắn ngày khác có độ che phủ tốt
đồng thời có tác dụng cải tạo và nâng cao độ phì của đất như lạc, đỗ tương…;
che phủ đất bằng thân cây trồng vụ trước; bón phân đúng mức.
- Cần có chính sách để thu hút các nhà đầu tư tham gia thực hiện chương
trình sản xuất lúa, ngô hàng hóa.
- Tăng cường hệ thống thủy lợi bằng việc xây dựng các hồ treo nhân tạo
để mở rộng diện tích gieo trồng.
- Đi đôi với việc đưa những tri thức khoa học vào trong sản xuất cần phải
giữ gìn và phát huy những hình thức canh tác truyền thống để mang lại hiệu quả
kinh tế cao nhất. Điển hình, với cây ngô, đậu tương, cần tăng cường trồng những
giống mới cho năng suất cao những vẫn phải duy trì giống ngô, đỗ tương địa
phương.
3.2.2.2. Trong chăn nuôi
- Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân dân chuyển đổi diện
tích đất trồng ngô sang trồng cỏ để chăn nuôi bò theo hướng hàng hoá, mở rộng
qui mô chợ bò nhằm ổn định đầu ra cho nhân dân. Đồng thời, đẩy mạnh công tác 105
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
tập huấn nhằm chuyển giao các tiến bộ KHKT trong chăn nuôi và phòng chống
dịch bệnh cho đàn gia súc như việc phát hiện bò cái động đực và tiến hành thụ
tinh nhân tạo. Tiếp tục đẩy mạnh mô hình thụ tinh nhân tạo ở các xã Tả Lủng,
Sủng Trà, Pả Vi, thị trấn Mèo Vạc và nhân rộng mô hình này tới các xã khác.
Cần liên doanh, liên kết tìm kiếm và mở rộng thị trường tới các tỉnh khác trong
cả nước giúp tiêu thụ sản phẩm cho đồng bào. Thu hút, khuyến khích các doanh
nghiệp, cá nhân đầu tư dây truyền chế biến các sản phẩm từ thịt bò, xây dựng
thương hiệu thịt bò khô Mèo Vạc.
- Nhà nước cần tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ
cho việc phát triển chăn nuôi theo hướng đồng bộ từ khâu chọn giống, cung cấp
thức ăn, kỹ thuật chăm sóc, dịch vụ thú y, mạng lưới chợ buôn bán gia súc, gia
cầm... Đồng thời phát huy tiềm năng thế mạnh của huyện về lao động, kinh
nghiệm chăn nuôi trâu, bò truyền thống của nhân dân, kết hợp với việc đẩy mạnh
việc chuyển giao KHKT, phương thức chăn nuôi tiên tiến.
- Tiếp tục đẩy mạnh và nhân rộng mô hình nuôi ong để lấy mật, quảng bá
hình ảnh, đăng kí nhãn mác cho sản phẩm kèm chỉ dẫn địa lý với nhãn hiệu "Đặc
sản mật ong bạc hà huyện Mèo Vạc" để mở rộng thị trường tiêu thụ cho sản phẩm
này, giúp cho đồng bào nâng cao thu nhập.
- Tiếp tục đưa vào thử nghiệm chăn nuôi một số loại vật nuôi khác có khả
năng chống chịu với điều kiện khí hậu khắc nghiệt của vùng này. Mặt khác, phải
duy trì được những giống vật nuôi địa phương điển hình là bò, lợn, dê, gà.
-Vận động, khuyến khích đồng bào chuyển đổi diện tích đất sản xuất nông
nghiệp kém hiệu quả sang trồng cỏ (Goatemala, VA06) chủ động dự trữ nguồn
thức ăn cho mùa đông, phục vụ chăn nuôi; tận dụng triệt để phụ phẩm nông
nghiệp để bổ sung nguồn thức ăn; hướng dẫn người chăn nuôi cách chế biến, bảo
quản, dự trữ thức ăn cho chăn nuôi.
- Nhân rộng một số mô hình giống vật nuôi mới đã được thử nghiệm thành
công như bồ câu, thỏ, vịt quy hoạch sản xuất tập trung có quy mô lớn.
Tiểu kết chương 3
106
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
Mèo Vạc là một trong những huyện xa xôi với địa hình hiểm trở và khí
hậu khắc nghiệt. Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước trong những năm gần đây
kinh tế, văn hóa xã hội của huyện đã có nhiều khởi sắc và có tác động lớn tới
cuộc sống của người dân nơi đây, đặc biệt là đối với dân tộc Mông. Ngày nay,
hệ thống KTBĐ trong sản xuất nông nghiệp được hình thành và phát triển qua
nhiều thế hệ vẫn được lưu truyền và phát huy. Một số KTBĐ đã và đang có sự
kết hợp với các tri thức khoa học hiện đại nhằm đem lại hiệu quả cao trong hoạt
động sản xuất của đồng bào, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần vào công
cuộc xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, một số KTBĐ có
giá trị được người Mông lưu giữ hàng trăm năm nay đang dần bị mai một và mất
đi. Do đó, chúng ta cần có những biện pháp đúng đắn và hiệu quả để bảo tồn và
phát huy những hệ thống kiến thức quý báu đó. Việc phát huy giá trị KTBĐ sẽ
góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề địa phương.
107
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
KẾT LUẬN
Từ những nội dung đã nghiên cứu về KTBĐ của dân tộc Mông ở huyện
Mèo Vạc tỉnh Hà Giang, tác giả rút ra những kết luận chủ yếu sau:
1. Nằm trên Cao nguyên đá Đồng Văn, Mèo Vạc được coi là huyện khó
khăn nhất tỉnh. Nơi đây có địa hình rất hiểm trở, phức tạp và khí hậu hết sức khắc
nghiệt ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân. Huyện
này có 17 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó, phần lớn là dân tộc Mông.
Mỗi dân tộc lại có những truyền thống và bản sắc văn hóa rất riêng. Đặc biệt,
trong hoạt động sản xuất và sinh hoạt của họ mang đậm dấu ấn tộc người. Đó
cũng là nền tảng để đưa ra những giải pháp phát triển đúng đắn, giúp đồng bào
nơi đây vươn lên thoát nghèo bền vững.
2. Dân tộc Mông là một trong 54 dân tộc anh em ở nước ta, chiếm số đông
ở Hà Giang nói chung và huyện Mèo Vạc nói riêng. Người Mông đến Mèo Vạc
cách đây trên 300năm, họ di cư từ Quý Châu (Trung Quốc) sang, gồm họ Lù và
Giàng. Dân tộc này cư trú ở rẻo cao và có mặt ở cả 18 xã của huyện Mèo Vạc,
trong đó tập trung đông nhất tại xã Khâu Vai, xã Cán Chu Phìn. Với địa hình
hiểm trở, hơn 2/3 là núi đá tai mèo, điều kiện sống hết sức khó khăn. Đối diện
với những khó khăn về điều kiện tự nhiên, đặc biệt là tư liệu sản xuất rất hạn chế,
đồng bào Mông đã hình thành cho mình một hệ thống kiến thức dân gian phong
phú, đặc sắc và mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt là trong hoạt động
sản xuất nông nghiệp, đồng bào đã sáng tạo ra hình thức canh tác độc đáo trên
nương đá tai mèo.
3. Trải qua hàng trăm năm tồn tại và phát triển dân tộc Mông đã tích lũy
cho mình một hệ thống tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp. Họ đã tích
lũy được những kinh nghiệm trong việc lựa chọn đất canh tác, chọn giống cây
trồng vật nuôi, tính lịch thời vụ, cho tới những khâu chăm sóc, thu hoạch và bảo
quản các sản phẩm từ nông nghiệp. Đặc biệt, do thiếu đất canh tác nên đồng bào
108
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
phải tận dụng từng hốc đá để canh tác, tứ đó kĩ thuật thổ canh hốc đá độc đáo
của đồng bào đã hình thành và được duy trì qua nhiều thế hệ.
4. Trước sự phát triển của đời sống và tiến bộ khoa học kỹ thuật, hệ thống
tri thức dân gian truyền thống của dân tộc Mông đang dần bị mất đi giá trị vốn
có của nó trong sản xuất nông nghiệp và đời sống tinh thần của nhân dân. Do đó,
cần phải nghiên cứu và có những giải pháp cụ thể để giữ gìn và phát huy hệ thống
KTBĐ của dân tộc Mông trong hoạt động sản xuất nông nghiệp và hướng tới sự
phát triển bền vững.
5. Luận văn đã tìm hiểu về một số những thay đổi trong sản xuất nông nghiệp
và đưa ra một số những giải giáp cụ thể nhằm giữ gìn và phát huy hệ thống KTBĐ
của dân tộc Mông ở Mèo Vạc, góp phần ổn định, phát triển kinh tế xóa đói giảm
nghèo mà không làm mất đi những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Mông của huyện nói riêng và cộng đồng các dân tộc tỉnh Hà Giang nói chung, xây
dựng quê hương đất nước ngày một giàu đẹp và văn minh.
109
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
110
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Anh (1994), "Dân tộc học với vấn đề nương rẫy", Tạp chí
dân tộc học (số 1), trang 43 - 44.
2. Cổng thông tin điện tử Tỉnh Hà Giang, http://www.hagiang.gov.vn
3. Lê Trọng Cúc, Terry Rambo (1999), Những khó khăn trong công cuộc
phát triển miền núi Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
4. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2012), Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang
năm 2011, Nxb Thống kê.
5. Lê Sĩ Giáo (1989), “Canh tác nương rẫy, chăn nuôi truyền thống và vấn
đề xây dựng kinh tế hộ gia đình ở miền núi phía Bắc hiện nay”, Tạp chí
Dân tộc, (số 4).
6. Lê Sĩ Giáo (chủ biên), Hoàng Lương, Lâm Bá Nam, Lê Ngọc Thắng
(1998), Dân tộc học đại cương, Nxb Giáo dục.
7. Lê Duy Hải, Triệu Đức Thanh (2008), Các dân tộc ở Hà Giang, Nxb Thế
Giới, Hà Giang.
8. Diệp Đình Hoa (1998), Dân tộc Mông và thế giới thực vật, Nxb văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
9. Trần Viết Khanh, Nguyễn Việt Tiến, Vũ như Vân (2010), Giáo trình địa
lí Trung du miền núi phía Bắc, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Lê (2013), Nông nghiệp du canh, tri thức bản địa và vấn đề
phát triển miền núi Việt Nam, Viện nghiên cứu Con người.
11. Nguyễn Phương Liên và nnk (2013), Giáo trình phương pháp luận và
phương pháp nghiên cứu Địa lý tự nhiên, Địa lý kinh tế xã hôi., Nxb GD,
Hà Nội, 120 tr.
12. Lã Văn Lô (1973), Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, Nxb khoa học xã hội.
111
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
13. Trường Lưu, Huỳnh Đình Quý (1994), Văn hóa dân tộc Mông ở Hà Giang,
Nxb Văn hóa thông tin Hà Giang.
14. Trường Lưu - Hùng Đình Quý (1996),Văn hóa dân tộc Mông, Viện văn
hóa, Sở văn hóa thông tin Hà Giang.
15. Nguyễn Bình Minh (2014), "Giải pháp phát triển kinh tế - xã hội vùng dân
tộc Mông tỉnh Hà Giang", Tạp chí Dân tộc, số 166, tháng 10/2014
16. Hoàng Thị Hồng Ngân (2010), Kiến thức bản địa trong sản xuất nông
nghiệp của người Mông ở huyện bắc Mê tỉnh Hà Giang, Luận văn thạc sĩ,
Trường ĐHSP Thái Nguyên.
17. Nguyễn Thị Ngân (2000), Công cụ sản xuất nông nghiệp của các dân tộc
nhóm ngôn ngữ H’Mông, Dao, Công trình nghiên cứu khoa học cấp Viện,
Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam.
18. Trung Ngôn (2014), Vấn đề quyền của dân tộc bản địa
http://www.baobinhdinh.com.vn/viewer.aspx?macm=38&macmp=38&m
abb=16613, ngày 19/01/2014.
19. Đỗ Thị Nhung (2005), Di sản văn hóa các dân tộc ở tỉnh Hà Giang trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, Luận văn cao cấp lý luận
chính trị, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
20. Hoàng Phê và nnk (1992), Từ điển Tiếng Việt, Nhà in Trần Phú, TP.HCM.
21. Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Mèo Vạc (2015), Báo
cáo sơ kết Chương trình chăn nuôi đại gia súc gắn với trồng cỏ thâm canh
trên địa bàn huyện Mèo Vạc.
22. Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Mèo Vạc (2015), Báo
cáo sơ kết thực hiện "Chương trình xây dựng nông thôn mới” theo Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV nhiệm kỳ 2010 - 2015.
112
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
23. Dương Quỳnh Phương (2010), Cộng đồng các dân tộc với việc sử dụng
tài nguyên thiên nhiên vì mục tiêu phát triển bền vững, Nxb Văn hóa
dân tộc.
24. Vương Duy Quang (2005), Văn hóa tâm linh của người H’Mông ở Việt
Nam truyền thống và hiện đại, Nxb Văn hóa Thông tin.
25. Hùng Đình Quý (chủ biên) (1994), Văn hóa truyền thống các dân tộc Hà
Giang, Nxb Sở văn hóa thông tin tỉnh Hà Giang, Hà Giang.
26. Trần Hữu Sơn, Văn hóa H’Mông, Nxb văn hóa dân tộc, Hà Nội.
27. Bùi Hoài Sơn (2008), Về khái niệm tri thức bản địa, http:// vietems. com/
index, ngày 26/12/2008.
28. Bùi Hoài Sơn (2010), “Đôi nét về khái niệm tri thức bản địa”, Tạp chí Văn
hóa nghệ thuật tháng 2/2010, số 308.
29. Lê Bá Thảo (1997), Miền núi và con người, Nxb khoa học và kỹ thuật, Hà
Nội.
30. Ngô Đức Thịnh (1996), Tìm hiểu công cụ cổ truyền Việt Nam, Lịch sử các
loại hình, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
31. Ngô Đức Thịnh: Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá Việt Nam, H, 1996).
32. Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức (2003), Giáo trình Địa lí kinh tế -
xã hội Việt Nam (tập 1), NXB Giáo Dục Hà Nội.
33. Hà Thị Thu Thủy, Dương Quỳnh Phương (2012), Tri thức dân gian của
dân tộc Dao tỉnh Thái Nguyên, Nxb Văn hóa Thông tin.
34. Hà Thu Thủy, Dương Quỳnh Phương, Vũ Như Vân (2012), Các dân tộc
Mông, Dao: góc nhìn đa chiểu từ Địa lí học - Dân tộc học - Lịch sử - Sinh
Thái nhân văn miền núi phía Bắc, Nxb Văn hóa thong tin.
35. Nguyễn Việt Tiến (2014), Một số vấn đề địa lí kinh tế - xã hội và nhân
văn, Trường ĐHSP - ĐH Thái Nguyên.
36. Trần Hữu Tiệp (2007), Miêu tộc giản chí hợp biên (quyển thượng).
113
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
37. Hoàng Xuân Tý, Lê Trọng Cúc (chủ biên) (1998), Kiến thức bản địa của
đồng bào vùng cao trong nông nghiệp và quản lí tài nguyên thiên nhiên,
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
38. Dương Thị Thanh Vân (2015), Kiến thức bản địa của dân tộc Dao trong
hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp ở tỉnh Yên Bái, Luận văn cao học
ngành Sư phạm Địa Lí, ĐHSP Thái Nguyên.
39. Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam (2001), Phương pháp thu thập và sử
dụng kiến thức bản địa (tập 2), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
114
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
PHỤ LỤC 1
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ ĐỒNG BÀO DÂN TỘC MÔNG
HUYỆN MÈO VẠC TỈNH HÀ GIANG
Những núi đá tai mèo sắc nhọn Địa hình hiểm trở
Nghệ thuật “xếp đá” của đồng bào Mông đạt đến mức kỹ xảo
Vượt khó vươn lên
Hình thức canh tác độc đáo
Gieo mầm xanh trên đá Cỏ voi phục vụ chăn nuôi
Cây đậu răng ngựa Mùa hoa tam giác mạch
Hoa cải mọc chen cùng núi đá Cô gái Mông thu hoạch cỏ voi
Anh Lầu Sèo Khón nuôi bò vỗ béo Chợ bò ở thị trấn Mèo Vạc
Mô hình nuôi ong tại xã Pải Lủng Bảo quản ngô và đậu tương
Xuân về trên bản Mông Lễ hội Gầu Tào
Múa khèn ở Chợ tình Khâu Vai Món thắng cố
Cuộc sống nghèo khó Tục “Vỗ mông”
Đường đi xã Niêm Tòng huyện Mèo vạc
Những thửa ruộng bậc thang Đồng bào tự làm phân bón
Sự khan hiếm nước trong sinh hoạt Hồ treo nhân tạo