ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐẶNG BÍCH THỦY KIẾN THỨC BẢN ĐỊA TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA DÂN TỘC MÔNG Ở HUYỆN MÈO VẠC TỈNH HÀ GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC

THÁI NGUYÊN - 2016

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐẶNG BÍCH THỦY KIẾN THỨC BẢN ĐỊA TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA DÂN TỘC MÔNG Ở HUYỆN MÈO VẠC TỈNH HÀ GIANG Chuyên ngành: Địa lí học Mã số: 60.31.05.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Dương Quỳnh Phương

THÁI NGUYÊN - 2016

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

trong luận văn là trung thực chưa được công bố trong bất cứ công trình nghiên

cứu nào khác.

Thái nguyên, tháng 4 năm 2016

Tác giả luận văn

Đặng Bích Thủy

i

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Dương Quỳnh Phương đã

chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi rất tận tình trong suốt thời gian thực hiện và

hoàn thành luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Ban chủ nhiệm khoa

Địa lí, các Thầy, Cô giáo khoa Địa lí, trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái

Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian nghiên

cứu và hoàn thành luận văn.

Tôi xin cảm ơn các cơ quan, Ban, ngành huyện Mèo Vạc và các cá nhân

đã tạo điều kiện và tận tình giúp đỡ tôi trong thời gian nghiên cứu, thu thập tài

liệu và thực địa tại địa phương.

Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, những người thân và bạn bè luôn động

viên, ủng hộ và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận

văn.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016

Tác giả luận văn

Đặng Bích Thủy

ii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................... iv

DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................. v

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ............................................................................ vi

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 2

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................... 5

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 6

5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu .......................................................... 7

6. Những đóng góp của luận văn ......................................................................... 9

7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 10

Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KIẾN THỨC BẢN

ĐỊA CỦA CÁC DÂN TỘC ............................................................................. 10

1.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................ 10

1.1.1. Tổng quan về dân tộc ............................................................................ 10

1.1.2. Tổng quan về kiến thức bản địa ............................................................. 15

1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................ 22

1.2.1. Khái quát về KTBĐ của các dân tộc ở Việt Nam ............................... 22

1.2.2. Đôi nét về dân tộc Mông ở Việt Nam .................................................... 24

Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 29

Chương 2. CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC MÔNG Ở HUYỆN MÈO VẠC

TỈNH HÀ GIANG VÀ KIẾN THỨC BẢN ĐỊA TRONG SẢN XUẤT

NÔNG NGHIỆP............................................................................................... 30

2.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên.................................................................... 30

iii

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

2.1.1. Vị trí địa lí ............................................................................................ 30

2.1.2. Điều kiện tự nhiên ............................................................................... 30

2.2. Dân cư và thành phần dân tộc .................................................................... 35

2.2.1. Dân cư .................................................................................................. 35

2.2.2. Thành phần dân tộc.............................................................................. 33

2.3. Đặc điểm cấu trúc cộng đồng và bản sắc văn hóa dân tộc Mông ở

huyện Mèo Vạc .................................................................................................. 38

2.3.1. Tên gọi và nguồn gốc của dân tộc Mông ............................................ 38

2.3.2. Địa bàn cư trú ...................................................................................... 40

2.3.3. Phong tục tập quán của dân tộc Mông ................................................ 40

2.4. Tri thức bản địa trong hoạt động sản xuất nông nghiệp ............................. 48

2.4.1. Trong hoạt động trồng trọt .................................................................. 48

2.4.2. Trong hoạt động chăn nuôi .................................................................. 69

2.5. Đánh giá chung về kiến thức bản địa của người Mông ở huyện Mèo Vạc .......... 76

Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 77

Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIỮ GÌN, PHÁT HUY

KIẾN THỨC BẢN ĐỊA TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA

DÂN TỘC MÔNG Ở HUYỆN MÈO VẠC TỈNH HÀ GIANG .................. 79

3.1. Cơ sở để đưa ra các giải pháp bảo tồn và phát huy kiến thức bản địa

của dân tộc Mông ở Mèo Vạc tỉnh Hà Giang .................................................... 79

3.1.1. Nhiệm vụ và định hướng phát triển của tỉnh Hà Giang đối với

đồng bào dân tộc Mông ................................................................................. 79

3.1.2. Vai trò của KTBĐ và sự cần thiết phải giữ gìn, phát huy kiến thức

bản địa của các dân tộc .................................................................................. 82

3.1.3. Một số thay đổi về KTBĐ của dân tộc Mông ở Mèo Vạc .................. 84

3.1.4. Các yếu tố tác động đến sự thay đổi của kiến thức bản địa ................ 90

3.2. Một số giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy kiến thức bản địa trong sản

xuất nông nghiệp của dân tộc Mông ở huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang ............ 97

3.2.1. Một số giải pháp chung nhằm giữ gìn và phát huy kiến thức bản địa ...... 97

iv

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

3.2.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm giữ gìn và phát huy kiến thức bản

địa trong sản xuất nông nghiệp của dân tộc Mông huyện Mèo Vạc ........... 103

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 106

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 108 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 111

v

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

CNH-HĐH Công nghiệp hóa -hiện đại hóa

ĐDSH Đa dạng sinh học

DTTS Dân tộc thiểu số

KTBĐ Kiến thức bản địa

KHKT Khoa học kĩ thuật

KT - XH Kinh tế - xã hội

PTBV Phát triển bền vững

TNTN Tài nguyên thiên nhiên

iv

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2015 phân theo xã của

huyện Mèo Vạc ............................................................................... 35

Bảng 2.2. Thành phần các dân tộc huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang năm 2015 ...... 36

Bảng 2.3. Lịch thời vụ (truyền thống) ............................................................. 52

Bảng 3.1. Lịch thời vụ (có sự thay đổi so với lịch thời vụ truyền thống) ....... 84

v

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình 2.1. Bản đồ hành chính huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang ....................... 33

Hình 2.2. Biểu đồ thể hiện cơ cấu các dân tộc huyện Mèo Vạc năm 2015 .... 37

Hình 2.3. Bản đồ phân phân bố dân cư và cơ cấu dân tộc huyện Mèo Vạc .......... 38

Hình 3.1. Sơ đồ Kiến thức bản địa trong các dự án phát triển ..................... 103

vi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Kiến thức bản địa (KTBĐ) hiện đang là một trong những vấn đề được rất

nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm. KTBĐ có vai trò quan trọng đối với sự

phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung, đặc biệt là các dân tộc thiểu số

(DTTS) nói riêng và đóng góp cho sự phong phú, đa dạng của nền văn dân tộc

của mỗi vùng miền, địa phương. KTBĐ đã được hình thành qua nhiều thế kỉ,

nhiều thế hệ. Sự sản sinh ấy vẫn còn được tiếp diễn trong các xã hội hiện nay ở

trong các cộng đồng nhất định và trong một bối cảnh mới.

Mèo Vạc là một huyện miền núi vùng cao của tỉnh Hà Giang - mảnh đất

địa đầu tổ quốc, là nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc Mông. Đây là

huyện có địa hình khá phức tạp, chủ yếu của là núi đá vôi, độ cao trung bình

1.150m so với mực nước biển, độ dốc trung bình là 250 - 350, điều kiện sinh hoạt

và sản xuất của người dân gặp rất nhiều khó khăn, đây cũng là một trong những

địa phương mà người Mông chọn làm nơi định cư đầu tiên khi di cư từ Trung

Quốc đến Việt Nam. Để duy trì cuộc sống lâu dài trên vùng núi cao, người Mông

đã sớm thích nghi và sáng tạo ra những phương thức sản xuất nông nghiệp hết

sức độc đáo, đồng thời cũng xác lập được một hệ thống nông nghiệp hoàn chỉnh

bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi, khai thác nguồn lợi tự nhiên, làm nghề phụ gia

đình và trao đổi hàng hóa.

Hiện nay, trước sự phát triển của đời sống và tiến bộ khoa học kĩ thuật những

kiến thức bản địa đang dần bị mất đi giá trị vốn có của nó trong hoạt động sản xuất

nông nghiệp của người dân. Do đó, trong bối cảnh đất nước đang hướng tới sự phát

triển bền vững cần có những giải pháp hữu hiệu nhằn giữ gìn và phát huy những giá

trị văn hóa truyền thống đó của đồng bào dân tộc Mông ở Mèo Vạc.

1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nghiên cứu về kiến thức bản địa của các dân tộc thiểu số nói chung và của

dân tộc Mông ở huyện Mèo Vạc nói riêng đang là vấn đề cần thiết và đáng được

lưu tâm. Gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa đó vừa là yêu cầu cấp bách

vừa có ý nghĩa lâu dài. Với những lí do trên tôi quyết định chọn đề tài: “Kiến

thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp của dân tộc Mông ở huyện Mèo Vạc

tỉnh Hà Giang”. Nhằm tìm hiểu về những kiến thức bản địa của dân tộc Mông

đồng thời đưa ra những giải pháp giữ gìn và phát huy, góp phần làm phong phú

hơn cho nền văn hóa dân tộc.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1. Trên thế giới

Kiến thức bản địa mang tính đặc thù cho mỗi khu vực, mỗi cộng đồng nhất

định. Nó dựa trên những kinh nghiệm được tích lũy, thừa kế từ người này qua người

khác, đời này qua đời khác. Kiến thức bản địa được phản ánh trong những bài dân

ca, câu chuyện, truyền thuyết, và những thực hành văn hóa của người bản địa. Đôi

khi nó được bảo tồn dưới dạng trí nhớ, nghi thức, lễ thức hay điệu múa. Đôi khi nó

được lưu giữ dưới dạng những vật dụng được lưu truyền từ đời cha sang đời con,

hay từ mẹ cho con gái. Do tri thức bản địa gắn bó với cuộc sống của người dân và

được trải nghiệm trong lịch sử nên đa số tri thức bản địa là những tri thức liên quan

đến môi trường, cách thức sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt.

Trên thế giới, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về KTBĐ trong quản

lí, sử dụng tài nguyên và khẳng định việc phát triển bền vững (PTBV) nguồn tài

nguyên phải dựa vào tri thức địa phương. Kết quả nghiên cứu của Ruguelito M.

Pastores và Romeo E. SanBuenaventura đã chỉ ra rằng những người dân bản xứ

đóng góp rất lớn và giữ vai trò đặt biệt quan trọng trong việc tìm hiểu và lựa chọn

những loài cây có đặc tính sinh thái và sinh học phù hợp với địa phương.

Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21) là một văn kiện đồ sộ gồm 40

chương đã đưa ra các giải pháp PTBV chung cho toàn thế giới trong thế kỷ XXI.

2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Trong đó có giải pháp “Đẩy mạnh vai trò của nhân dân bản xứ” (chương 26)

cùng với nhận thức và áp dụng hệ thống tri thức dân gian của họ phục vụ cho

PTBV. Các quốc gia tham gia vào công ước Đa dạng sinh học (ĐDSH) cũng phải

cam kết rằng: “Các nước phải bảo vệ và duy trì những kiến thức bản xứ và đẩy

mạnh việc sử dụng ngày càng rộng rãi kiến thức này”.

Trong vài thập kỉ gần đây, KTBĐ của các dân tộc đã được các nhà khoa

học và các nhà quản lí quan tâm. Một mạng lưới quốc tế nghiên cứu và sử dụng

tri thức dân gian được thành lập năm 1987, thông qua trung tâm nghiên cứu tri

thức dân gian phục vụ phát triển Nông nghiệp ở Đại học Iowa State, Hoa Kì.

Hiện nay, có nhiều chuyên gia tại các nước trên thế giới đang hoạt động

trong lĩnh vực nghiên cứu KTBĐ. Đã có nhiều công trình khảo cứu về tri thức dân

gian ở hầu khắp thế giới. Nó được coi như bộ phận không thể thiếu trong chiến

lược PTBV, đồng thời khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của KTBĐ trong

các dự án phát triển kinh tế xã hội ở khu vực miền núi. Điều 22 trong nghiên tắc

Stockholm (Hội nghị “Môi trường và con người”) có nêu: “Nhân dân bản xứ và

các cộng đồng khác của địa phương có vai trò quan trọng trong phát triển và quản

lí môi trường nhờ KTBĐ và phong tục truyền thống của họ. Các quốc gia nên công

nhận và ủng hộ thích đáng bản sắc văn hóa và những mối quan tâm của họ, giúp

họ tham gia có hiệu quả vào phát triển bền vững”. Qua đó cho thấy, KTBĐ có ý

nghĩa rất quan trọng trong chiến lược PTBV toàn cầu.

2.2. Ở Việt Nam

Ở Việt Nam, vấn đề nghiên cứu KTBĐ mới được chú trọng trong những

năm gần đây, với những công trình nghiên cứu về KTBĐ của các dân tộc thiểu

số ở khu vực miền núi. Những công trình này có đóng to lớn cho sự phát triển

khoa học nói riêng và sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung.

3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Trong các công trình nghiên cứu tri thức bản địa vùng núi trước hết phải

kể đến cuốn sách: “Kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong nông nghiệp

và quản lý tài nguyên thiên nhiên” của Hoàng Xuân Tý, Lê Trọng Cúc. Cuốn

sách này đề cập tới 2 nội dung cơ bản: Giới thiệu tóm tắt về khái niệm KTBĐ,

các đặc thù và bài học kinh nghiệm ở Việt Nam; Giới thiệu một số kiến thức bản

địa của đồng bào miền núi trong các lĩnh vực: trồng trọt, sử dụng và quản lí tài

nguyên rừng, chăm sóc sức khỏe cộng đồng…

Phạm Quang Hoan và Hoàng Hữu Bình trong bài viết “Các dân tộc thiểu

số và việc quản lý tài nguyên thiên nhiên ở vùng cao Việt Nam” đề cập đến

nguyên tắc quản lý khai thác rừng hài hoà với phương pháp canh tác rẫy luân

canh bảo vệ rừng của đồng bào thiểu số Tây Nguyên (1996).

Trong bài viết “Luật tục với việc phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam”

GS. Ngô Đức Thịnh cho rằng: Một trong những giá trị nổi bật của các dân tộc

thiểu số là những tri thức bản địa của nhân dân về quản lý và khai thác tài nguyên

thiên nhiên, ở đó con người và tự nhiên gắn bó hữu cơ, con người là một bộ phận

không thể tác rời tự nhiên. Luật tục với những tri thức bản địa về môi trường và

cách thức quản lý, khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên vẫn giữ nguyên

giá trị tích cực của nó (Ngô Đức Thịnh, 1999). Hay cuốn “Sổ tay: thu thập và sử

dụng kiến thức bản địa” của Viện Quốc tế Tái thiết nông thôn (IIRR) do Everlyn

Mathial biên tập năm 1996. Công trình nghiên cứu: “Vai trò của cộng đồng các

dân tộc niềm núi phía Bắc trong sử dụng tài nguyên đất rừng” của TS Vương

Xuân Tình, nói tới vai trò của cộng đồng trong việc tự quản trên cơ sở vận hành

các luật tục. Mạng lưới quản lí và phát triển bền vững tài nguyên miền núi thuộc

trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường - Đại học quốc gia Hà Nội đã có

nhiều báo cáo, đề tài nghiên cứu về KTBĐ của đồng bào các dân tộc thuộc khu

vực Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên với nhiều cách tiếp cận khác nhau.

4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

2.3. Ở Hà Giang

Ở Hà Giang đến nay vẫn chưa có nhiều nghiên cứu, đánh giá tổng thể về

KTBĐ và những biến đổi về KTBĐ của đồng bào các DTTS nói chung và dân

tộc Mông nói riêng. Hiện nay, đã có một số đề tài, luận văn, bài báo khoa học,

chương trình đi sâu tìm hiểu về các vấn đề có liên quan như: vấn đề dân tộc, dân

cư - xã hội, kinh tế…Trong đó, phải kể tới: “Giải pháp phát triển bền vững trong

điều kiện khó khăn của môi trường địa lí vùng cao biên giới qua thực tế Cao

nguyên đá Đồng Văn - Lũng Cú, Hà Giang”. Về sự tăng trưởng và giảm nghèo

trong thời kì đổi mới có báo cáo của TS. Vũ Như Vân tại Hội nghị khoa học Địa

lí toàn quốc 19/6/2010 với tiêu đề“Tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ở huyện

Vị Xuyên, Hà Giang”. Luận văn:“ Thực trạng đói nghèo và những giải pháp xóa

đói giảm nghèo cho đồng bào dân tộc Mông, huyện Yên Minh, tỉnh hà Giang, luận

văn: “Nghiên cứu du lịch sinh thái Cao nguyên đá Đồng Văn - Hà Giang phục vụ

phát triển bền vững”, luận văn: “Đời sống văn hóa dân tộc Mông ở tỉnh Hà Giang

hiện nay”, đề tài: “ Tập quán canh tác trên nương đá tai mèo của người H’mông

ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang”. Mèo Vạc là một huyện vùng cao của tỉnh Hà

Giang, nơi có địa hình rất hiểm trở, chủ yếu là núi đá với hơn 70% là dân tộc Mông

sinh sống. Họ có những nét đặc trưng văn hóa rất riêng trong sinh hoạt và sản xuất

nông nghiệp nhưng đến nay vẫn chưa có nhiều nghiên cứu, đánh giá tổng hợp về

KTBĐ trong sản xuất nông nghiệp và các tài liệu liên quan tới vấn đề này còn rất

hạn chế. Do vậy, việc nghiên cứu về KTBĐ trong sản xuất nông nghiệp của dân

tộc Mông ở huyện Mèo Vạc và đưa ra các giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy các

KTBĐ đó là cấp bách và cần thiết.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn về KTBĐ của dân tộc Mông

ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, đề xuất

một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy hiệu quả các KTBĐ, hướng tới mục

tiêu PTBV.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan cơ sở lí luận về dân tộc và kiến thức bản địa của các dân tộc.

- Nghiên cứu tổng quan về huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.

- Khái quát về đặc điểm cấu trúc cộng đồng và bản sắc văn hóa của dân

tộc Mông huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.

- Phân tích những kiến thức bản địa trong hoạt động sản xuất nông nghiệp

của dân tộc Mông ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.

- Phân tích những biến đổi của các KTBĐ trong hoạt động sản xuất nông

nghiệp của người Mông hiện nay.

- Đề xuất các giải pháp nhằm phát huy tính tích cực của KTBĐ trong sản

xuất nông nghiệp của dân tộc Mông, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và

đảm bảo sự phát triển bền vững cho khu vực miền núi.

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

4.1. Về không gian lãnh thổ

Đề tài đánh giá khái quát chung về toàn huyện Mèo Vạc, nhưng tập trung

nghiên cứu tại 5 xã, đó là: xã Pả Vi, xã Lũng Pù, xã Cán Chu Phìn, xã Khâu Vai

và thị trấn Mèo Vạc, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. (Đây là những địa bàn có

tỉ lệ người dân tộc Mông sinh sống cao).

4.2. Về nội dung

Tập trung nghiên cứu về vấn đề KTBĐ trong các lĩnh vực: trồng trọt và

chăn nuôi của dân tộc Mông. Bên cạnh đó, phân tích sự biến đổi của một số

KTBĐ trong giai đoạn hiện nay.

6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu

5.1. Quan điểm nghiên cứu

5.1.1. Quan điểm tổng hợp

Đây là quan điểm khoa học chung, phổ biến và là quan điểm cơ bản,

phương pháp tư duy tiếp cận mọi vấn đề. Các hoạt động kinh tế trong vùng lãnh

thổ được hình thành và phát triển trong mối tác động tổng hợp của các yếu điều

kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và phù hợp với hoàn cảnh của từng địa

phương, từng dân tộc. Trên cơ sở điều tra khảo sát chi tiết các yếu tố ngoài thực

địa cho phép đánh giá những những trình độ phát triển, tập quán sản xuất và văn

hóa của mỗi dân tộc, những tác động của chúng tới môi trường, kinh nghiệm

truyền thống riêng của mỗi dân tộc trong sản xuất. Trên cơ sở đó, cho phép xác

định những sự thay đổi về kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp của

người dân trong khu vực nghiên cứu.

5.1.2. Quan điểm lãnh thổ

Bất kỳ một đối tượng địa lý nào cũng đều gắn với một không gian lãnh thổ

nhất định, có sự phân hoá và phụ thuộc lẫn nhau trong lãnh thổ đó, nhưng đồng thời

cũng có mối quan hệ với các lãnh thổ xung quanh trên phương diện tự nhiên cũng

như kinh tế - xã hội. Nghiên cứu KTBĐ của dân tộc Mông huyện Mèo Vạc là nghiên

cứu mối quan hệ tương tác giữa dân tộc Mông với các yếu tố tự nhiên, thông qua hoạt

động sản xuất nông nghiệp trên lãnh thổ cấp huyện.

5.1.3. Quan điểm hệ thống

Cộng đồng các dân tộc huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang được coi là một hệ

thống được đặt trong một hệ thống lớn hơn đó là cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Dân tộc Mông ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang được coi là một thành phần, có tác

động qua lại và có mối quan hệ chặt chẽ với cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

5.1.3. Quan điểm lịch sử

7

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Sự phát triển của cộng đồng các dân tộc và mối quan hệ của cộng đồng

với tài nguyên thiên nhiên không chỉ thay đổi theo không gian mà còn biến động

theo thời gian. Vì vậy, khi nghiên cứu vấn đề trên quan điểm lịch sử sẽ thấy được

sự biến đổi một cách rõ rệt của chúng và tìm ra được nguyên nhân dẫn tới biến

đổi đó. Từ đó, làm cơ sở để đưa ra những dự báo về phát triển cộng đồng và các

phương hướng nhằm sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên trên địa

bàn huyện trong những năm tới.

5.1.4. Quan điểm phát triển bền vững

Việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên phải gắn kiền với phát

triển bền vững. Việc sử dụng sao cho đạt hiệu quả nhất, đồng thời phải đem lại

lợi ích cho cho đồng bào dân tộc và cả nước là điều cần phải nghiên cứu. Những

nguồn tài sản quí giá mà thiên nhiên mang tới phải sử dụng một cách hợp lí, đáp

ứng được nhu cầu cuộc sống hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến thế hệ tương

lai. Để phát triển bền vững tỉnh Hà Giang nói chung, huyện Mèo Vạc nói riêng

cần phải phát huy KTBĐ của các dân tộc và có sự kết hợp giữa KTBĐ và kiến

thức khoa học trong quá trình phát triển.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

5.2.1. Phương pháp thu thập, tổng hợp và phân tích tài liệu

Để có một lượng thông tin đầy đủ kiến thức bản địa dân tộc Mông ở huyện

Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang tác giả đã thu thập thông tin, tư liệu từ nhiều lĩnh vực,

nhiều nguồn tin khác nhau: báo cáo và tài liệu hội thảo, các tài liệu về vấn đề dân

tộc, số liệu thống kê của các cơ quan ban ngành, sách báo, internet… có liên

quan tới nội dung của đề tài. Sau đó chọn lọc, xử lí những thông tin cần thiết cho

đề tài.

5.2.2. Phương pháp điều tra xã hội học

Con người là chủ thể của mọi hoạt động xã hội đồng thời là đối tượng

nghiên cứu của xã hội học. Con người chính là đối tượng của việc nghiên cứu và

8

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

môi trường là nền tảng khách quan. Chính vì vậy, sử dụng phương pháp điều tra

xã hội học trong nghiên cứu đề tài nhằm thu thập những thông tin về văn hóa phi

vật thể của các dân tộc hiện đang tiềm ẩn trong trí nhớ, tập quán, hành vi ứng xử

của người dân.

5.2.3. Phương pháp khảo sát thực địa

Đây là phương pháp quan trọng để nghiên cứu KTBĐ. Phương pháp này

nhằm mục đích thu thập tài liệu bổ sung, so sánh giữa tài liệu trong phòng, bản

đồ với ngoài thực địa, trực tiếp nghiên cứu ngoài thực địa và đưa ra kết quả

nghiên cứu mang tính xác thực.

Tác giả đã lựa chọn các điểm chìa khóa trên bản đồ, sau đó vạch ra tuyến

khảo sát, quan sát, chụp ảnh, khai thác các nguồn tư liệu thống kê, lập phiếu điều

tra... giúp tác giả có những số liệu và thông tin chân thực nhất phục vụ cho đề tài.

5.2.4. Phương pháp bản đồ - GIS

Phương pháp bản đồ là một trong những phương pháp rất quan trọng trong

nghiên cứu địa lí, giúp các vấn đề nghiên cứu trở nên cụ thể, trực quan và toàn

diện hơn. Đây là phương phương pháp chủ yếu để xây dựng bản đồ cho luận văn.

Dựa trên cơ sở các nguồn tư liệu mà tác giả thu thập, xử lí và sử dụng phần mềm

Mapinfor để xây dựng bản đồ hành chính, bản đồ phân bố dân cư và dân tộc

huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.

5.2.5. Phương pháp phỏng vấn sâu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tham khảo ý kiến chuyên gia, các nhà

khoa học trong lĩnh vực văn hóa dân gian, nghiên cứu quan trọng vấn đề về dân

tộc, vấn đề quản lí và bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể của dân tộc.

6. Những đóng góp của luận văn

- Tổng quan có chọn lọc về cơ sở lí luận và thực tiễn về KTBĐ của đồng

bào các dân tộc trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.

- Nghiên cứu tổng quan về huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, trên các mặt:

vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên... từ đó thấy được sự 9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ảnh hưởng của các nhân tố tự nhiên đó tới hoạt động kinh tế nông nghiệp của

người Mông.

- Phân tích được đặc điểm cấu trúc cộng đồng của dân tộc Mông ở huyện

Mèo Vạc.

- Làm nổi bật được những KTBĐ, đặc biệt là phương thức ứng xử văn hóa

với môi trường tự nhiên trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của người Mông

ở ở huyện Mèo Vạc.

- Làm rõ được những biến đổi của các KTBĐ trong hoạt động sản xuất

nông nghiệp của người Mông hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát

huy tính tích cực của KTBĐ trong sản xuất nông nghiệp của người Mông.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và tài liệu tham khảo nội

dung luận văn được xây dựng gồm 3 chương chính như sau:

Chương 1:Cơ sở lí luận và thực tiễn về kiến thức bản địa của các dân tộc

Chương 2: Cộng đồng dân tộc Mông ở huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang và

kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp.

Chương 3: Những biến đổi và một số giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy

kiến thức bản địa trong sản xuất nông nghiệp của người Mông ở huyện Mèo Vạc,

tỉnh Hà Giang.

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KIẾN THỨC BẢN ĐỊA

CỦA CÁC DÂN TỘC

1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Tổng quan về dân tộc

1.1.1.1. Khái niệm

* Dân tộc: Thuật ngữ dân tộc được bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp cổ "ethnos"

dùng để chỉ những cộng đồng người hình thành và phát triển trong quá trình tự 10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nhiên - lịch sử. Mỗi cộng đồng tộc người được đặc trưng bởi những dấu hiệu

như: cùng chung tiếng nói, lãnh thổ, lối sống văn hoá và ý thức tự giác dân tộc.

Trong một số trường hợp, những dấu hiệu cùng chung lãnh thổ có thể đóng vai

trò kém quan trọng hơn [6].

Theo nghĩa hẹp, thuật ngữ “dân tộc” dùng để chỉ một cộng đồng tộc người.

Mỗi dân tộc có tính bền vững nội tại, được thống nhất bởi một số yếu tố đặc trưng

như địa vực cư trú, ngôn ngữ, những đặc điểm văn hóa, đời sống kinh tế, ý thức

dân tộc và nhờ đó người ta có thể phân biệt được dân tộc này với dân tộc khác, ví

dụ như: dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Thái...Ở nước ta, từ“dân tộc” còn được thay thế

bằng từ “người”, ví dụ: dân tộc Kinh còn được gọi là người Kinh.

Một dân tộc được xác định không phụ thuộc vào số lượng người nhiều hay

ít, vào trình độ phát triển, mà căn cứ vào tổng thể của một số nét đặc trưng (chung

một ngôn ngữ, chung một lịch sử - nguồn gốc, đời sống văn hóa, ý thức tự giác

dân tộc). Một dân tộc có thể gồm nhiều nhóm địa phương, ví dụ: người Dao gồm

Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt, Dao Lô Gang, Dao Tiền, Dao Quần Trắng, Dao Thanh

Y, Dao Làn Tẻn.

Theo nghĩa rộng, dân tộc được hiểu là cộng đồng dân tộc - chính trị tức là dân

tộc - quốc gia (Nation). Trong đó có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống. Ví dụ:

dân tộc Việt Nam có 54 dân tộc anh em, dân tộc Lào, dân tộc Campuchia... Dân tộc

hiểu theo nghĩa mọt quốc gia trong đó tổng hợp nhiều cộng đồng người (dân tộc - tộc

người), được hình thành do nhu cầu tồn tại lịch sử lâu dài.

Thành phần dân tộc của dân cư trên Trái Đất ngày nay là kết quả phát triển

của lịch sử hàng nghìn năm của loài người trên Trái Đất. Ở mỗi giai đoạn phát

triển của lịch sử tồn tại những cộng đồng tộc người khác nhau.

* Dân tộc đa số, dân tộc thiểu số

Trên thế giới hiện nay, người ta thường dùng các thuật ngữ: Dân tộc bản

địa (Thổ dân, Dân bản xứ), Dân tộc thiểu số bản địa, bộ lạc, bộ tộc, sắc tộc, tộc

người, dân tộc thiểu số, dân tộc ít người... Sự tồn tại nhiều thuật ngữ đó, do những

11

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nguyên nhân gắn liền với sự phát triển của các dân tộc trên thế giới và sự xáo

trộn của mỗi nước qua các thời kỳ biến thiên lịch sử. Những khái niệm trên không

đơn giản chỉ là học thuật mà là vấn đề có nội dung chính trị của nó.

Ở nước ta hiện nay đang dùng thuật ngữ dân tộc đa số và các dân tộc thiểu số.

Dân tộc Việt Nam hoặc cộng đồng các dân tộc Việt Nam được dùng để chỉ tất cả các

dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, có quốc tịch Việt Nam, không phân

biệt nguồn gốc. Khái niệm này đồng nghĩa với quốc gia đa dân tộc hay còn gọi là

quốc gia - dân tộc. Xét trong phạm vi Quốc gia - dân tộc Việt Nam, thuật ngữ dân tộc

đa số và dân tộc thiểu số, được hiểu thống nhất là:[6]

- Dân tộc đa số là dân tộc có số người đông nhất trong cộng đồng các dân

tộc Việt Nam, tức là dân tộc Kinh (Việt), dùng thuật ngữ này là nói trên phạm vi

cả nước chứ không là nói trên địa bàn vùng hoặc địa phương nào đó.

- Dân tộc thiểu số, thuật ngữ này không đồng nghĩa với dân tộc chậm phát

triển, càng không phải là dân tộc lạc hậu, khái niệm đó là chỉ những dân tộc có

số người ít hơn so với dân tộc đa số.

Trên thực tế, khái niệm “dân tộc thiểu số” chỉ có ý nghĩa biểu thị tương

quan về dân số trong một quốc gia đa dân tộc. Theo quan điểm của chủ nghĩa

Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng dân

tộc, thì khái niệm “dân tộc thiểu số” không mang ý nghĩa phân biệt địa vị, trình

độ phát triển của các dân tộc. Địa vị, trình độ phát triển của các dân tộc không

phụ thuộc ở số dân nhiều hay ít, mà nó được chi phối bởi những điều kiện kinh

tế - chính trị - xã hội và lịch sử của mỗi dân tộc.

Như vậy, khái niệm “dân tộc thiểu số” dùng để chỉ những dân tộc có số

dân ít, chiếm tỷ trọng thấp trong tương quan so sánh về lượng dân số trong một

quốc gia đa dân tộc. Khái niệm “dân tộc thiểu số” cũng không có ý nghĩa biểu

thị tương quan so sánh về dân số giữa các quốc gia dân tộc trên phạm vi khu vực

và thế giới. Một dân tộc có thể được quan niệm là “đa số” ở quốc gia này, đồng

12

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thời có thể là “thiểu số” ở quốc gia khác. Chẳng hạn người Việt (Kinh) được coi

là “dân tộc đa số” ở Việt Nam, nhưng lại được coi là “dân tộc thiểu số” ở Trung

Quốc (vì chỉ chiếm tỉ lệ 1/55 dân tộc thiểu số của Trung Quốc); ngược lại người

Hoa (Hán), được coi là “dân tộc đa số” ở Trung Quốc, nhưng lại là dân tộc thiểu

số ở Việt Nam (người Hoa chiếm tỉ lệ 1/53 dân tộc thiểu số của Việt Nam). Rõ

ràng, quan niệm về “dân tộc thiểu số” và “dân tộc đa số” cũng như nội hàm của

chúng hiện nay còn có những vấn đề chưa thống nhất và nó cũng được vận dụng

xem xét rất linh hoạt trong từng điều kiện cụ thể, tuỳ theo quan niệm và mối quan

hệ so sánh về dân số trong mỗi quốc gia dân tộc.

* Cộng đồng các dân tộc

Khái niệm cộng đồng các dân tộc có thể được hiểu là một khái niệm phát

sinh do kết hợp hơn một đến nhiều dân tộc trên một không gian lãnh thổ nhất định.

Mỗi dân tộc được hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử nhất định

với những đặc trưng cơ bản: cùng chung ngôn ngữ, đặc điểm văn hóa, địa bàn cư

trú và ý thức tự giác dân tộc. Tất cả hợp thành một cộng đồng tộc người gắn bó với

nhau trong truyền thống, nghĩa vụ và quyền lợi [23].

1.1.1.2. Các tiêu chí xác định dân tộc

* Cùng chung lãnh thổ: (đây là điều kiện để hình thành cộng đồng kinh tế).

Lãnh thổ được coi như một điều kiện vật chất cơ bản để hình thành các cộng

đồng tộc người. Cùng cư trú trên một lãnh thổ nhất định là điều kiện quan trọng để

con người tiếp xúc, giao dịch với nhau. Những người cùng một xuất xứ thường

chung cư trú gần nhau trên một địa vực nhất định. Những nhóm người không cùng

một ngôn ngữ, không cùng xuất xứ nhưng sống cùng nhau trong một thời kỳ lịch

sử lâu dài, họ có thể tạo thành một dân tộc thống nhất.

* Cùng chung một ngôn ngữ: Ngôn ngữ không những là phương tiện giao tiếp,

truyền tải thông tin mà còn là phương tiện để phát triển đời sống văn hóa, tinh thần

của con người. Tiếng mẹ đẻ là đặc trưng quan trọng nhất để xác định dân tộc.

13

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

* Chung đặc điểm văn hóa: Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh

thần do con người sáng tạo ra được tích lũy qua nhiều thế hệ trong mối tương tác

giữa con người - tự nhiên - xã hội. Mỗi dân tộc tồn tại trong và phát triển trong

những hoàn cảnh tự nhiên và xã hội khác nhau vì vậy có những bản sắc văn hóa

dân tộc khác nhau (thờ cúng, tín ngưỡng, lễ hội, quan niệm,...). Văn hóa chính là

chất keo gắn kết dân tộc.

* Ý thức dân tộc: ý thức tự giác dân tộc là tiêu chí quan trọng khi xác định thành

phần dân tộc. Ý thức dân tộc chính là lòng tự hào dân tộc, là sự tự khẳng định nguồn

gốc xuất xứ của mình. Mỗi người, dù sống trong lãnh thổ bị ngăn cách, văn hóa bị pha

trộn, thậm chí tiếng mẹ đẻ đã mất thì ý thức dân tộc vẫn được duy trì [23].

Ngoài bốn tiêu chí chủ yếu trên, các nhà nghiên cứu còn đề cập tới một số

khía cạnh khác:

+ Coi cộng đồng kinh tế như một dấu hiệu quan trọng để hình thành cộng

đồng dân tộc. Cộng đồng kinh tế thường dựa trên cộng đồng lãnh thổ kết hợp với

cộng đồng quốc gia. Nó không phải được tạo ra từ nội bộ bên trong của tộc người

mà từ mối quan hệ nội tại của các quốc gia.

+ Dấu hiệu tâm lý. Mỗi cộng đồng người thường có những biểu hiện tâm

lý giống nhau trước các hiện tượng tự nhiên và xã hội cũng như cách ứng xử và

phản ứng khác nhau trước một tình huống.

1.1.1.3. Quan niệm về dân tộc bản địa

Dân tộc bản địa là nhóm người có một chiều dài lịch sử xuất thân từ một

xã hội đã có mặt trên một lãnh thổ trước thời kỳ xâm lược và đô hộ của dân tộc

khác. Họ tự nhận diện bản thân của họ có nguồn gốc khác biệt đối với nhóm dân

tộc đang nắm quyền hành trên toàn lãnh thổ hay một phần lãnh thổ của họ. Họ là

thành phần tộc người không có quyền lực trong một xã hội nhưng lúc nào cũng

cương quyết bảo vệ, phát triển và chuyển đạt cho thế hệ tương lai, lãnh thổ do

cha ông của họ để lại cũng như bản sắc dân tộc dựa trên mô hình văn hóa, hệ

thống xã hội và qui chế luật tục mà họ xem đó là yếu tố quyết định trong cuộc

sống của dân tộc. Liên Hợp Quốc quan niệm: “Dân tộc bản địa hay còn gọi là

14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thổ dân là nhóm người đã từng có mặt trên một lĩnh vực đất đai, trước ngày di

dân của nhóm dân tộc khác vào lãnh thổ của họ” [37].

1.1.2. Tổng quan về kiến thức bản địa

1.1.2.1. Khái niệm KTBĐ

Tri thức bản địa là những kiến thức địa phương của riêng một nền văn hóa

hoặc cộng đồng nào đó. Nó có thể có những tên gọi khác như: “kiến thức địa

phương”, “ kiến thức dân gian”, “kiến thức truyền thống” hoặc “kiến thức khoa học

truyền thống”. Những kiến thức này được truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác,

thường là được truyền lại thông qua hình thức truyền miệng hoặc thông qua các

nghi lễ văn hóa, chúng là nền tảng duy trì các hoạt động xã hội thiết yếu của cộng

đồng như nông nghiệp, cách chế biến thức ăn, cách chăm sóc sức khỏe, giáo dục,

sự bảo tồn và rất nhiều các hoạt động khác ở rất nhiều vùng trên thế giới.

Mặc dù đã được nghiên cứu từ lâu, nhưng cho tới nay khái niệm kiến thức

bản địa vẫn chưa được thống nhất. Nói cách khác, kiến thức bản địa - kiến thức

truyền thống được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào các lĩnh

vực chuyên môn và theo các mục đích sử dụng thuật ngữ khác nhau.

GS.TS Hoàng Xuân Tý quan niệm: Kiến thức bản địa (Indigenouse

knowledge) còn được gọi là kiến thức truyền thống (Traditionnal knowledge)

hay kiến thức địa phương (Local knowledge) là hệ thống kiến thức của các dân

tộc bản địa, hoặc của một cộng đồng tại một khu vực cụ thể nào đó. Nó tồn tại

và phát triển trong những hoàn cảnh nhất định với sự đóng góp của mọi thành

viên trong cộng đồng ở một vùng địa lý xác định [37].

Tác giả Louise Grenier định nghĩa: Kiến thức bản địa là vốn kiến thức duy

nhất, truyền thống và của một địa phương, tồn tại và phát triển dưới các điều kiện

cụ thể của những người dân bản địa trong một khu vực địa lý nhất định. Sự phát

triển của hệ thống kiến thức bản địa trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống, kể

cả việc quản lý môi trường tự nhiên, từ lâu đã là vấn đề sống còn đối với những

15

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

con người sáng tạo ra chúng. Các hệ thống kiến thức bản địa cũng có tính động,

kiến thức mới liên tục được bổ sung. Các hệ thống này luôn đổi mới trong lòng

nó và cũng sẽ tiếp nhận, sử dụng và thích nghi với kiến thức bên ngoài nhằm phù

hợp với điều kiện của địa phương.

Tác giả Phạm Quang Hoan cho rằng: Tri thức địa phương được hiểu ở các

cấp độ khác nhau. Một là, “tri thức địa phương” (hay “tri thức bản địa”, “tri thức

dân gian”, “tri thức tộc người”) là toàn bộ những hiểu biết, những kinh nghiệm

của một tộc người nhất định được tích luỹ, chọn lọc và trao truyền từ thế hệ này

sang thế hệ khác. Vốn tri thức đó được phản ánh trong các lĩnh vực khác nhau

của đời sống cộng đồng để mỗi tộc người sinh tồn, phát triển và thích nghi trước

những biến đổi đã và đang diễn ra.

Một cách khái quát có thể hiểu: kiến thức bản địa hay kiến thức truyền

thống là hệ thống kiến thức mà người dân ở một cộng đồng tích lũy và phát triển

dựa trên kinh nghiệm, đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn và thường xuyên thay

đổi để thích nghi với môi trường văn hóa, xã hội.

Có thể nói, trong một thời gian dài kiến thức bản địa đã từng coi là sự lạc

hậu và “thiếu chuyên nghiệp”, trong các dự án phát triển kinh tế địa phương nó

thường bị bỏ qua thậm chí còn bị coi là một trở ngại trong việc triển khai các

kiến thức khoa học. Kiến thức bản địa bắt đầu được nhìn nhận một cách nghiêm

túc trong sự so sánh với các kiến thức khoa học. Ngày nay kiến thức bản địa đang

được đề cao, tuy vậy không phải kiến thức bản địa nào cũng được sử dụng như

nhau và phát huy tính tích cực của nó trong bối cảnh mới. Bởi vì một số kiến

thức bản địa có thể không có hiệu quả thậm chí còn kìm hãm sự phát triển do

điều kiện hình thành nên tri thức bản địa trước kia khác với bối cảnh xã hội hiện

nay. Trong bối cảnh mới KTBĐ vẫn có thể nảy sinh trong một cộng đồng dân cư

nhất định. Những tri thức ấy cũng đáng quý như những tri thức mà ông cha ông

16

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

ta tích luỹ được vì vậy cần có sự kết hợp với khoa học hiện đại để những kiến

thức ấy ngày càng có giá trị hơn.

Khác với “kiến thức hàn lâm” (Academic Knowledge) được hình thành do

các nhà thông thái, được hình thành và truyền thụ lại qua sách vở, các KTBĐ

được hình thành trực tiếp từ lao động của mọi người dân trong cộng đồng, được

hoàn thiện dần và truyền thụ cho tất cả các thế hệ tiếp sau bằng hình thức truyền

khẩu trong gia đình, thôn bản, hoặc thể hiện trong ca hát, ngạn ngữ, trường ca,

tập tục,... [37].

KTBĐ không chỉ đơn thuần là kiến thức của một số bộ tộc hay nhóm người

bản xứ của một vùng, cũng không chỉ giới hạn trong khu vực dân cư nông thôn.

Chính xác hơn, KTBĐ thuộc sở hữu tất cả cộng đồng: nông thôn, thành thị, định

cư và du cư, người bản xứ và di cư đến. KTBĐ thường trái ngược với kiến thức

“khoa hoc”, “phương Tây”, “quốc tế” hay “hiện đại”- những kiến thức này do

các trường đại học, các viện nghiên cứu hay các hang tư nhân phát triển dựa trên

các phương pháp khoa học chính thống.

KTBĐ bao hàm rất nhiều lĩnh vực liên quan đến đời sống, sản xuất nông

nghiệp, lâm nghiệp, quản lí tài nguyên và quản lí cộng đồng,…Trong cuốn sách:

“Kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong nông nghiệp và quản lí tài

nguyên”, GS.TS Hoàng Xuân Tý đã đưa ra các nội dung nghiên cứu của KTBĐ

trong các lĩnh vực sau:

- Kiến thức về trồng trọt: Các giống cây trồng bản địa, kinh nghiệm xác

định đất nào cây ấy, lịch thời vụ và dự đoán thời tiết, các kinh nghiệm tưới tiêu,

sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu từ cây cỏ, cách thu hoạch và bảo quản lương

thực, hạt giống, các kinh nghiệm sản xuất trên đất dốc, luân canh nương rẫy.

- Kiến thức về chăn nuôi: Kinh nghiệm chọn giống gia súc, quản lí bãi

chăn thả theo mùa, các cây thức ăn cho gia súc địa phương, phòng và chữa bệnh

cho gia súc truyền thống.

17

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

- Kiến thức về quản lí rừng và tài nguyên cộng đồng: Khai thác chế biến lâm

sản, quản lí nguồn nước sinh hoạt và tưới ruộng, kinh nghiệm thu hái, sử dụng các

sản phẩm trong thiên nhiên như nấm, rau rừng, hoa quả dại và nhiều lâm sản khác.

- Kiến thức về dinh dưỡng và sức khỏe con người: Bao gồm các kinh

nghiệm lựa chọn, chế biến và bảo quản thức ăn. Phòng chữa các bệnh cho cá

nhân và cộng đồng, thu hái và quản lí cây thuốc thiên nhiên.

- Kiến thức về tổ chức cộng đồng và truyền thụ kinh nghiệm cho con cháu: Đó là hình thức tổ chức cộng đồng, các tập tục, hương ước nhằm bảo đảm các hoạt động sản xuất và duy trì nền văn hóa truyền thống,…

Có thể nói rằng, KTBĐ bao gồm hầu hết các khía cạnh của sản xuất và tổ chức cộng đồng của người bản xứ và có khả năng thích ứng cao với điều kiện môi trường rất đa dạng của địa phương vùng cao. 1.1.2.2. Phân loại KTBĐ

Có nhiều cách phân loại kiến thức bản địa theo những tiêu chí khác nhau, tuỳ thuộc vào từng chuyên ngành khoa học. Trong cuốn “Cẩm nang về tri thức bản địa - 2000”, các tác giả đưa ra hệ thống phân loại và xác định các đặc điểm theo nhận thức và chức năng. Trên cơ sở đó, kiến thức bản địa có thể được chia thành các loại sau: (1) Thông tin, (2) Kỹ thuật và thực hành, (3)Tín ngưỡng, (4) Các công cụ, (5) Vật liệu, (6) Thực nghiệm, (7) Tri thức về các nguồn tài nguyên sinh học, (8) Sự hiểu biết về nguồn nhân lực, (9) Giáo dục, và (10) Giao tiếp. Ngô Đức Thịnh, sau khi đồng nhất khái niệm kiến thức bản địa với tri thức dân gian lại cho rằng: “Tri thức dân gian có thể được chia thành 4 loại: (1) Tri thức về tự nhiên và môi trường, (2) Tri thức về bản thân con người, (3) Tri thức về sản xuất, và (4) Tri thức về quản lý xã hội và cộng đồng” [39].

Với đặc điểm của ngành nghiên cứu về các quá trình tộc người, văn hoá tộc người trong bối cảnh liên tục phát triển, các nhà Dân tộc học thường phân loại tri thức bản địa như sau:

- Sự nhận biết các yếu tố tự nhiên (đặc điểm địa hình, địa mạo, thổ nhưỡng, các đặc tính sinh học của động - thực vật, khí hậu - thời tiết, nguồn nước…), các kinh nghiệm khai thác, sử dụng và quản lý các yếu tố đó.

18

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

- Các kiến thức liên quan đến quá trình mưu sinh (các phương thức sinh

kế cụ thể, các giống cây trồng - vật nuôi, mùa vụ, công cụ…).

- Các kiến thức liên quan đến đời sống vật chất (thôn làng, nhà cửa, trang

phục, đồ ăn - thức uống, phương tiện vận chuyển).

- Các kiến thức trong việc quản lý xã hội (thiết chế tự quản thôn làng với

vai trò của luật tục, người già và các thủ lĩnh, dòng họ và gia đình).

- Các tri thức trong đời sống tinh thần (tín ngưỡng, lịch pháp, y - dược thuật, các chuẩn mực trong ứng xử và giao tiếp xã hội, các loại hình văn học, nghệ thuật dân gian).

Sự phân loại theo phương pháp dân tộc học không mâu thuẫn với cách phân

loại của các ngành khoa học khác. Nó có một ưu điểm là mang tính bao quát toàn

diện hơn hẳn so với các ngành khoa học chuyên sâu. Tuy nhiên, trong bối cảnh của

một nền khoa học liên - đa ngành, sự kết hợp giữa công tác nghiên cứu cơ bản về

dân tộc học với các ngành khoa học chuyên sâu là hết sức cần thiết.

Kiến thức bản địa cũng có nhiều loại hình, thuộc nhiều cấp độ khác nhau,

mang đặc tính của lứa tuổi, giới tính và đặc điểm của nhóm xã hội. Những người

già có nhiều loại kiến thức khác so với thế hệ trẻ, phụ nữ và nam giới; nông dân

và thương nhân; người có học thức và người ít học... tất cả đều có các loại kiến

thức khác nhau. Có những kiến thức chung, được tất cả mọi người trong cộng

đồng hiểu biết; cũng có những kiến thức cùng chia sẻ, có nhiều người biết nhưng

không phải toàn bộ cộng đồng; lại có những kiến thức chuyên nghiệp - chuyên

biệt, chỉ có ở một số ít người (ví dụ chỉ có một số ít người dân là thầy thuốc, thầy

cúng, biểu diễn dân ca, dân vũ, bà đỡ, hoặc thợ thủ công.. )

1.1.2.3. Đặc điểm của KTBĐ

KTBĐ có nhiều đặc điểm nổi bật, trong đó chứa đựng nhiều ưu điểm,

nhưng cũng có những hạn chế nhất định [37].

Thứ nhất, KTBĐ được hình thành và biến đổi liên tục qua các thế hệ trong

một cộng đồng địa phương nhất định: KTBĐ là sản phẩm được tạo ra trong quá

trình lao động sản xuất của toàn cộng đồng, được tích lũy, hoàn thiện và truyền

19

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

bá qua nhiều thế hệ của cộng đồng tại các địa phương. Theo thời gian môi trường

tự nhiên và xã hội có những thay đổi nhất định vì thế hệ thống kiến thức của cộng

đồng cũng phải có những thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh. Các kinh nghiệm

tích lũy từ các thế hệ trước được truyền lại cho thế hệ sau sẽ được cải thiện để

ngày càng hoàn thiện hơn.

Thứ hai, KTBĐ có khả năng thích ứng cao với môi trường riêng của từng

địa phương - nơi đã hình thành và phát triển kiến thức đó.Trong quá trình phát

triển nhiều kiến thức cũ không còn phù hợp nên dần bị đào thải và thay vào đó

là những kiến thức mới liên tục được hình thành. Những kiến thức này liên tục

được nảy sinh tại chính địa phương, cũng có thể được biến đổi từ những kiến

thức du nhập từ vùng khác vào trong quá trình giao lưu, điều này làm cho KTBĐ

ngày càng phong phú hơn, hoàn thiện hơn và phù hợp với điều kiện cụ thể của

địa phương.

Thứ ba, KTBĐ là do toàn thể cộng đồng sáng tạo ra qua lao động trực

tiếp: Mỗi một người trong cộng đồng sẽ nắm giữ những kiến thức nhất định tùy

thuộc vào độ tuổi, giới tính, sự phân công lao động… Những kiến thức này chính

là một phần bộ phận của KTBĐ. Trong quá trình lao động nhiều vấn đề mới này

nảy sinh đòi hỏi những cách giải quyết mới do đó KTBĐ được hình thành một

cách tự nhiên với sự tham gia đóng góp của toàn bộ các thành viên trong cộng

đồng bao gồm cả đàn ông, đàn bà, trẻ em, người già. Tuy nhiên, mỗi nhóm người

sẽ có những điểm mạnh riêng trong một vài lĩnh vực.

Thứ tư, KTBĐ được lưu giữ bằng trí nhớ và truyền bá từ thế hệ này qua

thế hệ khác bằng truyền miệng, thơ ca, tế lễ và nhiều tập tục khác nhau. Cũng

như văn hóa dân gian, KTBĐ là hệ thống kiến thức của người bình dân, không

có tác giả cụ thể và không được ghi chép lại thành văn bản để lưu giữ. Người ta

tìm KTBĐ không phải qua sách vở mà là qua các buổi trao đổi nói chuyện, qua

sát người khác làm việc hoặc tìm thấy nó trong các hoạt động văn hóa địa

phương. Do không được lưu giữ nó bằng văn bản đã khiến KTBĐ đôi khi bị mất

đi vì không có người nhớ đến nó nữa và cũng như việc nghiên cứu KTBĐ trở 20

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nên khó khăn hơn. Tuy nhiên chính đặc điểm này đã giúp cho KTBĐ có chỗ

đứng vững chắc trong dân gian bởi nó thực sự là hệ thống kiến thức của người

lao động: lưu truyền bằng hình thức giản đơn nhưng hiệu quả.

KTBĐ là hệ quả của các gắn kết thực tế trong đời sống hàng ngày và liên

tục được củng cố bằng các kinh nghiệm, các lần thử, các lỗi và các thử nghiệm

cẩn trọng những trải nghiệm này là sản phẩm tiêu biểu của rất nhiều thế hệ.

Thứ năm, KTBĐ luôn gắn liền và hòa hợp với nền văn hóa, tập tục địa phương.

KTBĐ được cộng đồng sáng tạo dựa trên những điều kiện cụ thể nơi mà

cộng đồng đó sinh sống hoặc được du nhập từ bên ngoài vào thì cũng được

cải biến nhiều lần cho phù hợp rồi mới sử dụng, cho nên KTBĐ có khả năng

thích ứng rất cao với điều kiên tự nhiên, tập quán xã hội của nơi đang sử dụng

chúng.

Thứ sáu, KTBĐ có giá trị cao trong việc xây dựng các mô hình phát triển

nông thôn bền vững theo hướng có người dân tham gia và ít tốn kém.Một số nhà

nghiên cứu đã coi KTBĐ là cơ sở để đề xuất các quyết định tại địa phương trong

các lĩnh vực nông nghiệp, y tế, giáo dục, quản lí tài nguyên.

Ngoài ra hệ thống KTBĐ còn là một kho thông tin quý giá để các nhà khoa

học đưa ra các giải pháp kĩ thuật mới, các chuyên gia lập kế hoạch và cán bộ xây

dựng chính sách. Đã có không ít những thành tựu khoa học được khởi đầu bằng các

ý tưởng được đúc rút từ kinh nghiệm truyền thống của người nông dân.

Thứ bảy, KTBĐ có tính đa dạng cao bởi nó được hình thành biến đổi liên

tục qua các thế hệ trọng một cộng đồng địa phương nhất định, khiến cho các thế

hệ khác nhau có những kiến thức khác nhau do ở thế hệ sau này đã nảy sinh

những kiến thức mới hoặc kiến thức cũ đã bị biến đổi đi để phù hợp với xu thế

mới. KTBĐ do toàn thể công đồng sáng tạo ra cho nên mỗi thành viên trong cộng

đồng sẽ có đóng góp khác nhau khiến cho KTBĐ trở nên đa dạng.

Bên cạnh những ưu điểm, KTBĐ cũng có hạn chế nhất định: Tính địa

phương rất cao nên khó phổ biến rộng rãi cho vùng khác. Ví dụ: Tại một vùng

núi, một kĩ thuật canh tác có thể rất có giá trị tại một bản làng này, nhưng lại

21

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

không thể áp dụng cho làng kề bên cạnh do sự khác biệt về địa hình, tập tục

ngăn cản.

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Khái quát về KTBĐ của các dân tộc ở Việt Nam

Các dân tộc ở nước ta sống xen kẽ với nhau và không có lãnh thổ riêng biệt

như một số nước trên thế giới. Người Kinh chủ yếu sinh sống ở đồng bằng, ven biển

và trung du; còn các dân tộc ít người cư trú chủ yếu ở các vùng miền núi và vùng

cao, một số dân tộc như Khơ me, Hoa, một số ít vùng Chăm sống ở đồng bằng. Các

DTTS nước ta có sự tập trung ở một số vùng, nhưng không cư trú thành những khu

vực riêng biệt mà xen kẽ với các dân tộc khác trong phạm vi của tỉnh, huyện, xã và

các bản mường. Do những nguyên nhân lịch sử, xã hội và hoàn cảnh tự nhiên nên

mỗi dân tộc đã đúc kết và tìm ra cho mình những phương thức ứng xử với môi

trường tự nhiên khác nhau, hình thành nên những bản sắc văn hóa dân tộc rất riêng,

đặc biệt là trong sản xuất, quản lý và bảo vệ TNTN.

Trải qua quá trình hàng trăm năm, các DTTS đều đúc kết cho mình những

kinh nghiệm dân gian rất quý báu trong sản xuất nông nghiệp. Họ rất giỏi trong

việc nhận biết tự nhiên, dự đoán thời tiết, lựa chọn đất canh tác, chọn giống vật

nuôi, cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên nơi họ cư trú. Đồng thời biết cách

lựa chọn phương thức canh tác sao cho đạt hiệu quả kinh tế cao.

Chẳng hạn, người Kinh là dân cư lâu đời trên địa bàn vùng trung du - miền

núi phía Bắc, có truyền thống canh tác lúa nước. Họ có kinh nghiệm tuyển chọn

giống cây trồng, vật nuôi, đào kênh, đắp đê, phòng chống thiên tai và dịch họa.

Trong quá trình mở rộng không gian cư trú họ khai khẩn các sườn địa hình đồi

bát úp với độ dốc không lớn, cánh đồng chân đồi, trước núi tương đối bằng

phẳng, nguồn nước dồi dào, đất màu mỡ. Men theo triền sông, suối họ xâm nhập

vào các vùng núi xa hơn, cao hơn [28].

Quá trình sinh tụ và cư trú lan tỏa, người Kinh áp dụng mô hình kinh tế lúa nước truyền thống bằng việc phát triển hệ thống canh tác trên các vùng đất thấp, bằng phẳng, tạo nên những cánh đồng lúa, ngô và hoa màu, hình thành vùng trọng điểm lương thực có hạt (lúa, ngô). Tại những địa bàn có diện tích

22

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

hẹp, người Kinh cải tạo các ruộng rộc để trồng lúa nước, sườn và đỉnh đồi thì trồng rừng để tạo nguồn nước, khai thác lâm sản, gỗ củi. Họ đã hình thành nên mô hình ruộng lúa - vườn rừng.

Người Tày - Nùng địa bàn canh tác của họ là những thung lũng, khe suối, chân núi, cánh đồng giữa núi, trên những sườn đồi thấp, gần nguồn nước, đất đai thuận lợi. Trong quá trình phát triển, họ đã tích lũy được những kinh nghiệm trong canh tác nông nghiệp, cải tạo và bảo vệ tài nguyên đất, tổng hợp được lịch thời vụ rất chặt chẽ. Mùa xuân trồng ngô vụ chính và đất gieo mạ vụ lúa xuân hè. Ngoài ra, trồng một số cây ăn quả và cây công nghiệp ngắn ngày (thuốc lá, gừng, khoai sọ). Mùa hạ cấy lúa mùa sớm, sau khi thu hoạch lúa xuân hè, tiến hành trồng ngô chiêm, trồng xen đỗ vào gốc ngô. Mùa thu, từ lập thu đến hàn lộ làm cỏ lúa và chăm sóc các cây trồng khác, khi sương giáng là thời gian thu hoạch lúa mùa. Mùa đông, trồng rau vụ đông, từ đông chí cho đến lập xuân thời tiết lạnh khô nên không trồng được cây gì. Để phá vỡ thế độc canh đồng bào đã trồng các loại cây đỗ, lạc, cây ăn quả... cùng với chăn nuôi góp phần tăng vụ, tận dụng thời gian nông nhàn, sử dụng thế mạnh tự nhiên và tăng thêm thu nhập [23].

Đại bộ phận dân tộc Mông, Dao, Tày, Thái...đã có phương thức canh tác nông nghiệp phù hợp với điều kiện đất dốc, vừa phát triển nông nghiệp vừa bảo vệ đất đai, sử dụng hợp lí TNTN như làm ruộng bậc thang, thổ canh hốc đá, hay hệ thống thủy lợi mương, phai, lái, lìn...Đối với dân tộc Mông, Dao trong quá trình khai thác rừng, đồng bào đã rút kinh nghiệm là khi chặt cây bao giờ cũng để lại một đoạn gốc khoảng 50cm đến 1m, như vậy sau một thời gian cây sẽ lên chồi và tái sinh trở lại. Trong khi đi rừng nếu gặp cây nào ưng ý thì họ đánh dấu bằng cách khắc chữ thập hoặc buộc một chùm lá ám chỉ cây đã có chủ. Khi cây được hạ xuống, nếu là cây to và rậm lá thì phải một năm sau mới vào rừng để xẻ, nhằm mục đích để giảm lượng nước trong thân cây. Khi chặt cây to bao giờ họ cũng chọn hướng đổ làm sao cho ít ảnh hưởng tới cây con. Ngoài ra, họ còn có một số kinh nghiệm về cách khai thác và sử dụng một số loại cây rừng để phục vụ bữa ăn và chữa bệnh.

Qua đó ta thấy, cộng đồng các dân tộc Việt Nam sinh sống ở những vùng

sinh thái khác nhau rất đa dạng nên đã sáng tạo và tích lũy được hệ thống kiến thức 23

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

dân gian rất đồ sộ và có giá trị to lớn. Đây cũng là một trong những nền tảng để các

nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu và đưa ra những giải pháp trong sản xuất, quản lý,

sử dụng và bảo vệ TNTN, góp phần đảm bảo cho sự phát triển ổn định và bền vững

cho cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đặc biệt là đối với các DTTS.

1.2.2. Đôi nét về dân tộc Mông ở Việt Nam

1.2.1.1. Tên gọi và nguồn gốc hình thành dân tộc Mông

Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc Mông được coi là một thành

viên quan trọng trong cộng đồng của dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Người Mông

ở Việt Nam hiện nay có nhiều tên gọi: Mèo, Muor, Miêu, Hmông, Mán. Họ tự

gọi là Mông. Căn cứ vào đặc điểm dân tộc học và ngôn ngữ học, dân tộc Mông

chia thành các ngành: Mông Trắng (Môngz Đơư), Mông Hoa (Môngz Lênhz),

Mông Đỏ (Môngz Si), Mông Đen (Môngz Njuôz), Na Miểu (Mèo nước) [14].

Cũng có ý kiến cho rằng Mông Hoa và Mông Đỏ là một. Hiện nay ở nước ta có

các nhóm Mông sau:

(1) Mông Đơ và Mông Đâu (Mông Trắng).

(2) Mông Đu (Mông Đe).

(3) Mông Si (Mông Đỏ).

(4) Mông Dua (Mông Xanh).

(5) Mông Lềnh (Mông Hoa).

(6) Mông Xúa (Mông Lai).

(7) Ná Mẻo (Mông Nước).

Dân tộc Mông sinh sống ở Việt Nam có khoảng trên 1 triệu người thuộc

nhóm ngôn ngữ: Mông - Dao (gồm ba dân tộc: Mông, Dao, Pà Thẻn). Tiếng

Mông là một nhóm ngôn ngữ không có chữ viết. Người Mông nhập cư vào Việt

Nam khoảng 300 năm về trước, họ có quan hệ thân tộc với người Mông ở các

nước láng giềng Việt Nam như Trung Quốc, Thái Lan, Lào và một bộ phận người

Mông hiện đang sinh sống ở Mỹ. Dân tộc Mông ở Việt Nam hiện nay đều có

nguồn gốc từ phương Bắc. Theo các nhà nghiên cứu, người Mông di cư sang

Việt Nam thì phần lớn là những người Mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc đều

24

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

di cư trực tiếp từ Quý Châu, Quảng Tây và Vân Nam (Trung Quốc) sang. Riêng

một số nhóm ở Thanh Hóa và Nghệ An di cư đến Việt Nam qua Lào. Người

Mông đến Việt Nam bằng các con đường khác nhau và chia thành nhiều đợt,

trong đó có 3 đợt:

Đợt di cư đầu tiên: Cách đây khoảng 18 đời (trên dưới 350 năm), có

khoảng 100 hộ thuộc họ Lù, Giàng từ Quý Châu (Trung Quốc) sang Đồng Văn,

Mèo Vạc (Hà Giang).

Đợt di cư thứ hai: Cách đây trên 200 năm, khoảng 12 đời. Với số lượng

khoảng trên 100 hộ. Người Mông từ Trung Quốc sang Việt Nam theo hai đường:

Một đường vào huyện Đồng Văn - Hà Giang, rồi phân tán dần đến Hoàng Su Phì,

chủ yếu là những hộ thuộc họ Vàng, họ Lý; một đường vào Si Ma Cai và huyện

Bắc Hà - Lào Cai với số lượng người ít hơn, thuộc các họ Vừ, Sùng, Vàng, Chấu.

Đợt di cư thứ ba: Đông hơn tất cả các cuộc di cư trước đây, (8 đời). Hơn một

vạn người Mông di cư vào Việt Nam qua các tỉnh: Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái,

Cao Bằng và một số địa phương khác. Phần lớn có nguồn gốc từ Quý Châu, một bộ

phận từ Vân Nam, Quảng Tây. Thời kì này diễn ra phong trào “Thái Bình Thiên

Quốc”chống nhà Mãn Thanh, kéo dài từ năm 1840 đến năm 1860 [14].

Về sau, người Mông di cư rải rác sang Việt Nam hàng năm. Các con đường

di chuyển của đồng bào là vào Đồng Văn rồi xuống Tuyên Quang.

Từ sau ngày đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới vào năm 1986, tình hình

di chuyển của người Mông luôn gia tăng, theo hai hướng Bắc - Nam và Đông - Tây.

Vì vậy, số địa phương có người Mông sinh sống ngày càng tăng lên đáng kể.

1.2.1.2. Đặc điểm về đời sống văn hóa - xã hội và kinh tế của dân tộc Mông

* Làng bản: Làng của người Mông có thể coi là điển hình cho cấu trúc cư

trú ở các tộc người vùng núi cao miền Bắc nước ta. Trên địa bàn của họ nơi nào

cũng thấy tái hiện một cơ cấu tổ chức thống nhất và tồn tại cho đến ngày nay.

Theo ngôn ngữ của người Mông (Mông Hoa, Mông Trắng, Mông Đen, Mông

Đỏ), làng được gọi bắng từ dò, còn nhóm Mông Xanh gọi bằng từ giào. Người

Mông giải thích dò và giào chỉ cái tổ, nói về khu vực có một nhóm người cùng

25

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

làm ăn sinh sống,có những mối quan hệ họ hàng với nhau. Dò và giào là đơn vị

tổ chức xã hội cơ sở. Mỗi dò, giào có tên gọi riêng gắn bó với dân làng qua nhiều

thế hệ [34].

Người Mông có các hình thức cư trú:

Làng phân bố thành một khối dài theo địa thế của đồi núi hoặc triền sông,

mỗi nóc nhà cách nhau vài chục mét hoặc tách rời bởi những con đường mòn.

Hình thức cư trú đó chủ yếu ở Quản Bạ, Yên Minh (Hà Giang), Bắc Hà, Sa Pa

(Lào Cai), Mường Lống (Kỳ Sơn, Nghệ An).

Làng phân bố theo hình vành khăn từ lưng chừng núi lên dần phía đỉnh

núi. Nhà quay lưng vào núi. Kiểu cư trú này tương đối phổ biến ở Kỳ Sơn (Nghệ

An), Đồng Văn, Quản Bạ (Hà Giang), Sa Pa (Lào Cai).

Làng phân bố mật tập, mỗi làng vài chục nóc nhà, cùng quay về một hướng.

Làng phân bố thành từng cụm vài ba nhà ở một chỗ đất trên một khu vực

nhất định.

Làng phân bố lẻ tẻ, gồm vài ba nóc nhà rải rác ven rừng, sườn núi.

Bên cạnh nơi cư trú, làng nào cũng có đất đai để canh tác và khai thác

riêng (rừng núi, nguồn nước, nghĩa địa).

* Nhà: Nhà của người Mông về cơ bản có thể chia thành hai loại là nhà

định cư lâu năm và nhà du cư sống tạm. Người Mông dùng các vật liệu như gỗ,

song, mây, đá...để làm nhà. Họ thường đi khai thác vật liệu vào hạ tuần hàng

tháng âm lịch để chống mối mọt. Cấu trúc ngôi nhà gồm 3 gian. Ngoài ra, nhà

của người Mông thường có gác nhỏ để chứa lương thực, hoa màu hoặc thực phẩm

khô. Bàn thờ (xử ca) được đặt ở gian giữa. [34]

* Trang phục: Người Mông là cư dân trồng trọt, họ dệt vải từ cây có sợi thớ,

đó là cây lanh. Vải lanh rất bền và có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống của

người Mông. Theo phong tục, chàng trai Mông nào muốn đi hỏi vợ thì phải chuẩn

bị hai bộ quần áo cho bố và mẹ cô gái, khi chết, người Mông phải mặc quần áo bằng

vải lanh mới được về đoàn tụ với tổ tiên ở thế giới bên kia. Người Mông dù thuộc

nhóm địa phương nào đều phải mặc vải lanh nhuộm chàm, trừ váy của nhóm Mông

26

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Trắng là để nguyên vải mộc. Ngoài ra, người Mông còn sử dụng nhiều đồ trang sức

bằng bạc, hạt cườm và các tua vải màu. Người Mông dùng ô để che mưa nắng.

Người Mông xưa kia cả nam và nữ chủ yếu đội khăn. Bên cạnh đó, Tạp dề còn là

một bộ phận cấu thành trang phục của phụ nữ Mông. Họ thường đeo bên ngoài váy.

Dựa vào trang phục nữ để phân biệt giữa các nhóm.

Có thể nói, từ những nguyên liệu đơn giản lấy từ thiên nhiên, với óc thẩm

mỹ, sáng tạo và bàn tay khéo léo người Mông đã tạo ra những bộ trang phục độc

đáo, rực rỡ mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

* Gia đình người Mông (chí nình): Về kết cấu, gia đình thuộc loại gia đình

nhỏ: một vợ, một chồng; phổ biến là hai thế hệ gồm bố mẹ và con cái. Hình thái

gia đình mang tính phụ hệ rất rõ nét. Người chủ gia đình là ông hoặc bố, họ điều

khiển mọi công việc trong gia đình từ sản xuất, cưới xin, giao thiệp với bà con

làng xóm. Người phụ nữ thường được đối xử không công bằng so với nam giới.

Gia đình người Mông có tập tục thờ cúng tổ tiên, được hiểu là tập hợp những

quan niệm và các nghi lễ liên quan đến các cụ, ông, bà, bố, mẹ, những người

cùng dòng họ đã chết. Việc thờ cúng tổ tiên trong gia đình mang tính lưỡng

truyền. Bàn thờ tổ tiên (thà từ trung) của người Mông không có hình dạng cụ thể

mà chỉ được quy định là một tấm ván đối diện với cửa chính.

* Dòng họ người Mông (Sênh): Người Mông gọi dòng họ là Sênh với quan niệm cùng dòng họ là cùng tên như họ Hoàng, họ Thào, họ Sùng,... và có cùng một ông tổ, cùng một kiểu cúng tổ tiên. Một đặc trưng quan trọng là những quy định trong hôn nhân, tang ma và trong cuộc sống người Mông cấm kết hôn trong dòng họ. Trong sinh đẻ, người Mông cấm người khác họ, cho dù là con đẻ, được đẻ ở nhà mình. Trong tang ma, tuyệt đối kiêng người khác họ chết trong nhà mình [26].

Vai trò của trưởng họ của người Mông là tập thể những người già, am hiểu

phong tục, tập quán canh tác, sản xuất điều hành thông qua thảo luận bàn bạc.

* Lễ hội:Văn hóa của người Mông được bảo tồn, làm giàu và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hội Gầu Tào (chơi xuân ngoài trời) là một trong những

27

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

lễ hội tiêu biểu nhất của dân tộc Mông. Bên cạnh đó, người Mông còn có lễ Nào Sồng hay Nào Cống (lễ ăn ước hay ăn hội). Lễ Nào Sồng được tổ chức trong phạm vi từng bản.

* Tục lệ truyền thống trong vòng đời người Mông - Tín điều và nghi lễ trong sinh đẻ: Người Mông cho rằng nếu không có con gái thì tại vợ, không có con trai thì tại chồng. Người phụ nữ Mông có bầu không được đi đâu xa, không qua sông to, không động chạm mạnh, không được thay đổi giường ngủ. Khi nhà có người đẻ, người Mông lấy cành - lá xanh cài cửa vào nhà để làm dấu hiệu, kiêng cấm người lạ vào nhà thời gian này. Khi chuẩn bị đẻ, gia đình phải làm lễ “dề ca súa” để xua đuổi tà ma. Đỡ đẻ là mẹ chồng hoặc là mời bà mụ về đỡ. Nếu khó đẻ phải làm lễ vái mẹ chồng 3 vái hoặc cho sản phụ uống một bát canh do mẹ chồng nấu và đưa cho. Khó nữa thì làm lễ gọi hồn. Người đàn ông Mông thường có hai tên, một tên đặt sau khi sinh được 3 ngày, một tên đặt dùng khi cưới vợ và sinh con đầu lòng.

- Tín điều và nghi lễ trong cưới xin: Nguyên tắc hôn nhân của người Mông là “nội hôn tộc người, ngoại hôn dòng họ”. Nam nữ thanh niên tự do lựa chọn bạn đời, nhưng cưới xin phải theo phong tục truyền thống của gia đình và dòng họ. Nghiêm cấm kết hôn cùng họ nội. Trường hợp người anh chết, em trai có thể lấy chị dâu làm vợ, dù là vợ lẽ.

Lễ dạm hỏi: diễn ra vào tháng 7 - 8, nhà trai nhờ thầy cúng chọn ngày tốt để dạm hỏi. Theo phong tục, khi dạm hỏi, ông mối chính phải đeo một tấm yếm bụng (xé) đã được cuộn lại bởi dây vải quấn trên đầu phụ nữ. Nếu không có tấm yếm bụng nhà gái có thể không tiếp chuyện vì cho đây không phải là ông mối thực thụ.

Lễ báo cưới (tềnh nông shông): Nhà trai nhờ thầy cúng hoặc người già

biết xem ngày để tiến hành lễ cưới. Việc chọn ngày khá khắt khe, phải là ngày

chẵn trong tháng chẵn, vào ngày con dê, con rồng, con trâu (mùi, thìn, sửu).

- Tín điều và nghi lễ tang ma: Người Mông có quan niệm con người có 3

hồn (plì) trú ngụ trong cơ thể con người. Làm ma của người Mông có hai dạng:

làm ma tươi và làm ma khô [26].

* Sinh kế của người Mông

28

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Để duy trì cuộc sống trên núi cao, người Mông đã sớm thích nghi với từng

vùng sinh thái và xác lập cho mình một hệ thống nông nghiệp hoàn chỉnh bao gồm

trồng trọt, chăn nuôi, khai thác nguồn lợi tự nhiên, làm nghề phụ gia và trao đổi hàng

hóa. Người Mông lấy nông nghiệp trồng trọt là chủ yếu và họ sớm biết đến những

trình độ canh tác ở trình độ khá cao. Ngoài ra, người Mông còn có truyền thống chăn

nuôi rất giỏi. Bên cạnh đó, nghề thủ công nghiệp của người Mông khá phát triển, sản

phẩm chủ yếu phục vụ cho nhu cầu sản xuất, sinh hoạt hàng ngày cả khi cần có thể

đem ra chợ bán. Với người Mông, rừng có ảnh hưởng rất sâu sắc đến mọi hoạt động

của họ. Đây chính là nơi cung cấp nhiều sản phẩm hái lượm phục vụ nhiều mục đích

khác nhau như chữa bệnh, nguồn thực phẩm, nguồn trao đổi.

Tiểu kết chương 1

Hệ thống KTBĐ có ý nghĩa rất to lớn đối với cộng đồng địa phương đã

sáng tạo ra nó, đặc biệt đối với đồng bào các DTTS. KTBĐ nảy sinh ngay trong

hoạt động sản xuất, thường xuyên được kiểm nghiệm qua quá trình sử dụng, luôn

có sự chọn lọc trong quá trình vận động của cuộc sống để ngày càng thích nghi

với môi trường của các cộng đồng người, KTBĐ luôn được kế thừa và phát triển,

truyền từ đời này qua đời khác, nó được hình thành để thích ứng với điều kiện

địa phương và cũng là cơ sở nền tảng để đưa ra các giải pháp phát triển kinh tế,

sử dụng hợp lý nguồn TNTN và bảo vệ môi trường.

Mỗi một dân tộc lại có những KTBĐ riêng trong sinh hoạt và sản xuất, điều

đó đã đóng góp cho sự tồn tại và phát triển bền vững của đất nước. Cộng đồng dân

tộc Mông là một trong những dân tộc thiểu số có hệ thống KTBĐ rất phong phú, đa

dạng mang đậm bản sắc dân tộc, đặc biệt là trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.

29

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Chương 2

CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC MÔNG Ở

HUYỆN MÈO VẠC TỈNH HÀ GIANG VÀ KIẾN THỨC

BẢN ĐỊA TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP

2.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên

2.1.1. Vị trí địa lí

Mèo Vạc là một huyện miền núi ở phía bắc tỉnh Hà Giang, trung tâm huyện

cách thành phố Hà Giang 164km và cách thủ đô Hà Nội hơn 480km. Huyện nằm

trong tọa độ từ 22022’- 33019’ vĩ độ Bắc, 105012’-105024’ kinh độ Đông. Phía

Đông giáp Trung Quốc và huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng; phía Nam giáp huyện

Yên Minh, Hà Giang và huyện Bảo Lâm, Cao Bằng; phía Tây giáp huyện Đồng

Văn; Phía Bắc giáp Đồng Văn, tỉnh Hà Giang và Trung Quốc. Mèo Vạc có tổng

diện tích tự nhiên là 574,18 km². Huyện gồm 1 thị trấn (Mèo Vạc, huyện lị) và

17 xã : Thượng Phùng, Pải Lủng, Xín Cái, Pả Vi, Giàng Chu Phìn, Sủng Trà,

Sủng Máng, Sơn Vĩ, Tả Lủng, Cán Chu Phìn, Lũng Pù, Lũng Chinh, Tát Ngà,

Nậm Ban, Khâu Vai, Niêm Tòng, Niêm Sơn.

2.1.2. Điều kiện tự nhiên

* Địa hình

Địa hình của huyện khá phức tạp, chủ yếu của là núi đá vôi, độ cao trung

bình 1150m so với mực nước biển, độ dốc trung bình là 25o-35o. Núi đá chiếm

hơn 34.000 ha, đất nông nghiệp chỉ chiếm gần 15.000 ha, lâm nghiệp hơn 10.000

ha, còn lại là đất chuyên dùng và đất ở. Về tổng thể, địa hình Mèo Vạc phân thành

ba tiểu vùng có địa hình, địa chất và thế mạnh kinh tế khác nhau.

30

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

- Tiểu vùng phía Nam gồm 4 xã: Niêm Sơn, Nậm Ban, Tát Ngà và Khâu

Vai. Tiểu vùng này được coi là tiểu vùng núi đất, nhưng đất cũng chỉ chiếm

khoảng 50%, độ dốc lớn.

31

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

32

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Hình 2.1. Bản đồ hành chính huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang

- Tiểu vùng biên giới gồm 3 xã: Sơn Vĩ, Thượng Phùng và Xín Cái, đây

là ba xã biên giới huyện Mèo Vạc. Địa hình thấp dần từ biên giới Việt - Trung

xuống dòng sông Nho Quế.

- Mười một xã còn lại và thị trấn nằm trong tiểu vùng giữa của huyện. Khu

vực này nằm trên địa tầng đá vôi có nhiều khe, dốc, hố sụt địa chất và hầu như

không có suối hoặc khe nước, duy nhất có nguồn nước ở rừng đầu nguồn từ Dải

Chí Sán.

Như vậy ta thấy, với đặc điểm địa hình khá phức tạp có ảnh hưởng lớn tới

đời sống của cư dân nơi đây. Đặc biệt là giao thông đi lại khó khăn, do đó đã hạn

chế sự giao lưu kinh tế - văn hoá - xã hội giữa các vùng.

* Thổ nhưỡng

Mèo Vạc có những dải núi đá tai mèo sắc nhọn, những khe núi sâu và hẹp,

nhiều vách núi dựng đứng. Lớp thổ nhưỡng hình thành trên nền đá vôi bị phân

hoá mạnh, phần lớn lớp phủ thổ nhưỡng ở đây là loại đất đỏ xám hoặc vàng sẫm,

với thảm thực vật chủ yếu là các loại cây thấp, mật độ thưa. Tính đến năm 2015

tổng diện tích đất tự nhiên 57.418,21 ha, trong đó: Đất nông nghiệp là 47259,59

ha chiếm khoảng 82,32% diện tích đất tự nhiên; đất phi nông nghiệp là 1725,65

ha chiếm 3,0 %; đất chưa sử dụng (chủ yếu là núi đá không có rừng cây) là

8432,97 ha chiếm trên 14,68%. Trong tổng diện tích đất nông nghiệp thì đất sản

xuất nông nghiệp là 25620,15 ha; đất lâm nghiệp có rừng là 21638,40 ha. Trong

tổng diện tích đất phi nông nghiệp thì đất ở là 514,90 ha; đất chuyên dùng là

984,82 ha; còn lại là đất sử dụng vào mục đích khác. Trong tổng diện tích đất

chưa sử dụng thì đất bằng chưa sử dụng là 2,37 ha; đất đồi núi chưa sử dụng là

7417,95 ha; còn lại là núi đá không có cây rừng. Huyện có 17 loại đất chính,

trong đó đất xám feralit điển hình chiếm 12,28%; đất xám feralit đá sâu chiếm

14,11%, còn lại là các loại đất khác.

33

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nhìn chung, tài nguyên đất của huyện rất đa dạng tạo nên một hệ thống thực

vật khá phong phú, hàm lượng chất dinh dưỡng trong đất tương đối khá nhưng thường

ở dạng cây trồng không hấp thụ được và địa hình chủ yếu là đất dốc.

* Khí hậu

Huyện Mèo Vạc nằm trong vành đai chí tuyến Bắc, mang khí hậu á nhiệt

đới - cận ôn đới. Khí hậu trong năm phân thành hai mùa tương đối rõ rệt. Mùa

khô (mùa đông) thường kéo dài từ tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau. Khí

hậu mùa này hết sức khắc nghiệt, khô, hanh, có nhiều ngày rét đậm, rét hại và

sương muối, nhiều năm có tuyết rơi. Mùa mưa kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10

trong năm. Lượng mưa trung bình hàng năm đạt 1.600 - 1700mm nhưng phân bố

không đều trong các tháng, các tiểu vùng.

Khí hậu nơi đây rất khắc nghiệt gây khó khăn cho sinh hoạt và sản xuất

của cư dân.

* Thủy văn

Do địa hình phân cắt mạnh nên huyện Mèo Vạc có rất nhiều khe suối. Các

khe suối này hầu như có nước quanh năm nhưng do địa hình phức tạp, độ dốc

lớn, lòng suối thấp nên khả năng phục vụ cho thâm canh cây trồng và sinh hoạt

còn gặp nhiều khó khăn.

Hệ thống sông của huyện Mèo Vạc ít, toàn huyện có hai con sông chảy qua

là sông Nho Quế và sông Nhiệm. Sông Nho Quế bắt nguồn từ Trung Quốc chảy

theo hướng Bắc - Nam qua địa phận huyện Đồng Văn, chảy qua 9 xã của huyện

Mèo Vạc với chiều dài là 20km. Sông Nhiệm bắt nguồn từ huyện Yên Minh chảy

qua ba xã phía nam của huyện Mèo Vạc là Nậm Ban, Niêm Sơn và Niêm Tòng với

chiều dài 8km. Sông Nho Quế và Sông Nhiệm hợp lưu tại nơi tiếp giáp với tỉnh Cao

Bằng. Với điều kiện tự nhiên không thuận lợi, hệ thống sông suối lại ít nên vào mùa

khô thường gây ra tình trạng thiếu nước sinh hoạt và sản xuất.

34

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

2.2. Dân cư và thành phần dân tộc

2.2.1. Dân cư

Tính đến hết năm 2015, dân số toàn huyện là 79819 người, trong đó có 3923

nữ và 40589 nam. Cư dân ở đây sống rải rác trên các sườn núi hoặc các thung lũng,

quần tụ theo dân tộc, dòng họ. Mật độ dân số trung bình là 139 người/km².

Bảng 2.1. Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2015

phân theo xã của huyện Mèo Vạc

Diện tích (Km²) Dân số trung bình (Người) Mật độ dân số (Người/ km²)

Tổng số

Nguồn: Phòng thống kê huyện Mèo Vạc

Thị trấn Mèo Vạc Xã Thượng Phùng Xã Pải Lủng Xã Xín Cái Xã Pả Vi Xã Giàng Chu Phìn Xã Sủng Trà Xã Sủng Máng Xã Sơn Vĩ Xã Tả Lủng Xã Cán Chu Phìn Xã Lũng Pù Xã Lũng Chinh Xã Tát Ngà Xã Nậm Ban Xã Khâu Vai Xã Niêm Tòng Xã Niêm Sơn 574,18 17 28,04 15,41 35,9 20,02 27,23 17,51 25,42 46,69 27,96 35,06 30,72 33,21 40,7 49,89 41,69 29,66 52,07 79819 5690 4413 2979 4833 2805 4730 4100 2694 6216 2688 5907 5163 3677 3398 3541 6880 5192 4913 139 334 157 193 134 140 173 234 105 133 96 168 168 110 83 71 165 175 94

Dân cư tập trung chủ yếu ở thị trấn Mèo Vạc (5690 người), xã Khâu Vai

(6880 người), xã Sơn Vĩ (6216 người), xã Cán Chu Phìn (5907 người), xã Niêm

Tòng,… tập trung ít nhất ở xã Sủng Máng (2694 người), xã Tả Lủng (2688

35

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

người). Tỉ lệ sinh của toàn huyện đạt 25,33‰ (giảm 0,6‰ so với cùng kỳ năm

trước), tỉ lệ tử là 5,82 ‰ (giảm 0,24‰ so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ gia tăng

dân số tự nhiên là 19,50‰ (giảm 0,41‰ so với cùng kỳ năm trước).

2.2.2. Thành phần dân tộc

Theo số liệu điều tra, trên địa bàn huyện có gồm 17 dân tộc cùng sinh sống

như: Mông, Lô Lô, Dao, Giáy, Tày, Kinh, Nùng, Hoa, Sán Chay, Sán Dìu, Cờ

Lao, Pu Péo, Bố Y, Pà Thẻn….

Bảng 2.2.Thành phần các dân tộc huyện Mèo Vạc tỉnh hà Giang năm 2015

STT Dân tộc Dân số (người)

1 Mông 61723

2 Giáy 5342

3 Dao 4450

4 Kinh 2906

5 Tày 2445

6 Nùng 1690

8 Hoa 115

9 Lô Lô 971

177 10 Các dân tộc khác

Nguồn: Phòng thống kê huyện Mèo Vạc

79819 Tổng số

Trong đó, dân tộc có số dân đông nhất là dân tộc Mông 61723 người chiếm 77,33% dân số toàn huyện, thứ hai là dân tộc Giáy với 5342 người chiếm 6,69% dân số, dân tộc Dao 4450 người chiếm 5,58% dân số còn lại là các dân tộc khác. Đây cũng là một trong những địa phương mà người Mông chọn làm nơi định cư đầu tiên khi đến Việt Nam.

36

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

3,7%

Mông

3,1% 5,6% 3,6%

Giáy

Dao

6,7%

Kinh

77,3%

Tày

Các dân tộc khác

Hình 2.2. Biểu đồ thể hiện cơ cấu các dân tộc huyện Mèo Vạc năm 2015

Mỗi một dân tộc lại có nét văn hóa đặc trưng mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc riêng tạo nên một nền văn hóa vô cùng phong phú, đa dạng, đặc sắc với những nét đẹp văn hóa truyền thống và những phong tục tập quán trong hoạt động sản xuất, tạo nên những nét độc đáo và riêng biệt trên vùng cao nguyên đá hoang sơ, hùng vĩ.

37

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Hình 2.3. Bản đồ phân phân bố dân cư và cơ cấu dân tộc huyện Mèo Vạc

2.3. Đặc điểm cấu trúc cộng đồng và bản sắc văn hóa dân tộc Mông ở huyện

Mèo Vạc

2.3.1. Tên gọi và nguồn gốc của dân tộc Mông

Dân tộc Mông là một trong những DTTS có số dân đông nhất hiện nay ở

Hà Giang. Người Mông sinh sống chủ yếu ở các huyện vùng cao như Mèo Vạc,

Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ, Xí Mần, Hoàng Su Phì và rải rác ở một số huyện

khác trong tỉnh. Người Mông ở Mèo Vạc chủ yếu là Mông Trắng. Tộc danh đó

cũng dùng thống nhất cho người Mông ở các nước khác như Trung Quốc, Thái

Lan, Lào... nói chung và Việt Nam nói riêng. Từ xa xưa người Hán đã gọi người

Mông là người Mèo. Đó là từ để chỉ một bộ lạc biết trồng lúa rất sớm ở vùng hồ

Động Đình (Trung Quốc). Từ thế kỷ XIX trở về trước, các tầng lớp phong kiến

gọi người Mèo cũng như các dân tộc thiểu số khác là “Man” hay “Mán”, về sau

trong các tài liệu “Bắc cương kỳ giới”, “Đại Nam nhất thống chí” có chép là

“Miêu tộc” hay “Miêu dân”. Người Mèo lúc đó có 3 ngành theo màu sắc y phục:

38

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Mèo Trắng, Mèo Đen và Mèo Xanh. Ban đầu người Mông mới di cư sang Việt

Nam thì các dân tộc khác căn cứ vào chiếc áo của họ có thêu nhiều màu sặc sỡ

như cánh bướm, nên họ gọi người Mèo là người “Bươm bướm”. Tên gọi Mủo

hay Mèo hay Miêu là những tên gọi, còn Hmông hay Mông là tên tự gọi của

người Mông có nghĩa là “Người”.

Theo truyền thuyết Trung Quốc thì người Mông xuất hiện sớm nhất ở lưu

vực sông Hoàng Hà - Trung Quốc, cách đây 5000 năm đã có liên minh bộ lạc do tù

trưởng Suy - Vưu chỉ huy. (Suy Vưu tức là Vua của Cửu Lê). Sau đó bị bộ lạc du

mục người Hán, do tù trưởng Hiên - Viên chỉ huy di cư từ phương bắc xuống, đánh

bại bộ lạc nông nghiệp người Mèo và xưng vua, lấy hiệu là Hoàng đế (vào khoảng

2700 năm trước công nguyên). Lúc đầu người Mông cư trú ở phía bắc sông Hoàng

Hà, giai đoạn phát triển nhất của họ là Tam Miêu. Về sau, dưới ách thống trị của

Hoàng đế, người Mông luôn nổi dậy chống lại nhưng thường bị thất bại và bị đàn

áp dã man, nên họ di cư dần về khu vực hồ Động Đình và hồ Bành Lãi. Trải qua

quá trình lịch sử lâu dài, người Mông xây dựng nước Tam Miêu và đóng đô ở

Trường Sa. Địa vực Tam Miêu lúc đó gồm Giang Tô, Triết Giang, Hoãn Nam,

Giang Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc và Dự Nam. Về sau thế lực của người Hán ngày càng

phát triển về phía nam, người Miêu không chống lại được nên phải lùi dần về hạ

lưu sông Dương Tử, rồi vượt qua con sông này về phía Nam và Tây Nam, sống trên

dãy núi Nam Lĩnh, sau này gọi là Miêu Lĩnh. Dãy núi này nằm ở biên giới các tỉnh

Quảng Tây (Quế), Hồ Nam (Tương), Quý Châu (Kiềm), Tứ Xuyên (Xuyên), Hồ

Bắc (Ngạc), lấy Nguyên Giang làm trung tâm. Sau đó, người Miêu di cư dần vào

các tỉnh trên và sang cả đảo Hải Nam.

Người Mông di cư vào Mèo Vạc vào đợt thứ nhất, cách đây trên 300 năm,

thuộc các họ Lù, Giàng từ Quý Châu (Trung Quốc). Đợt di cư này tương ứng với

phong trào của người Mông chống lại chính sách “Cải tổ quy lưu” đó là chính sách

xóa bỏ chế độ tù trưởng của người Mông ở Quý Châu và triều đình trung ương đưa

bọn quan lại người Hán đến trực tiếp cai trị. Phong trào kéo dài từ cuối đời Minh cho

đến đầu đời nhà Thanh (TK XVII - XVIII), cuối cùng đều thất bại. Từ đây, họ bắt

đầu tiếp tục di cư vào sâu hơn đến các tỉnh thuộc Đông Bắc Việt Nam.

39

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Có thể nói, người Mông vào Việt Nam là do nguyên nhân: trong lịch sử

các triều đại phong kiến Trung Hoa đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh tàn bạo và

đẫm máu, đàn áp nhiều tộc người (trong đó có dân tộc Mông), để giành quyền

cai trị đất nước, làm người Mông phải thiên di đi khắp nơi. Điểm đầu tiên, họ đặt

chân đến là Mèo Vạc trên cao nguyên Đồng Văn (Hà Giang), nơi địa đầu Tổ

quốc Việt Nam. Vì thế, người Mông sinh sống ở Việt Nam đều coi cao nguyên

Đồng Văn là quê hương đất tổ của mình. Tuy có nhiều nhóm Mông khác nhau

nhưng về ngôn ngữ và văn hoá cơ bản giống nhau, sự khác nhau giữa các nhóm

chủ yếu là dựa trên trang phục phụ nữ.

2.3.2. Địa bàn cư trú

Người Mông cư chú chủ yếu ở những vùng núi cao có độ cao 800 - 1700m

so với mặt biển. Đó là những nơi có địa hình hiểm trở, vách núi đá dựng đứng

trong hẻm núi sâu tựa những ốc đảo. Đây là những nơi không thích hợp với điều

kiện sống của các dân tộc khác, do đó đặc điểm cư trú của người Mông là cư trú

biệt lập, ít có quan hệ với dân tộc khác. Trên địa bàn huyện, xã có người Mông

sống đan xem với các dân tộc khác như Lô Lô, Giáy, Dao...Tuy nhiên,họ vẫn sống

tập trung thành trong những vùng rõ rệt, họ quan niệm đó là dò, giào (làng) của

mình. Đặc điểm này phản ánh truyền thống khép kín, tính cố kết tộc người của họ.

Tên làng thường được đặt dựa vào đặc điểm tự nhiên nơi cư trú. Ví dụ: thôn Ha

Cá, thôn Cò Súng, thôn Lũng Làn... Làng của người Mông ở Mèo Vạc thường

phân bố thành một khối dài theo địa thế của đồi núi hoặc triền sông, mỗi nóc nhà

cách nhau vài chục mét, hoặc bởi những con đường mòn. Họ cư trú tập trung vài

chục nóc nhà, cũng có chỗ có vài ba nhà ở trên một địa vực nhất định, có nơi phân

bố lẻ tẻ ven rừng, sườn núi. Một đặc điểm nổi bật là trong từng khuôn viên của

mỗi gia đình đều được rào bằng tường đá hoặc hàng rào tre và gỗ, nhằm mục đích

phòng thủ, bảo vệ người, gia súc, của cải nếu có sự tấn công bằng vũ lực từ bên

ngoài, phòng ngừa thú dữ. Ngoài ra, mỗi làng còn có các khu vực công cộng như

bãi chơi, bãi thả trâu bò [14].

2.3.3. Phong tục tập quán của dân tộc Mông

2.3.3.1. Hình thức cư trú

40

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Trước kia, làng của người Mông chỉ có từ 10 đến 15 hộ, nhiều làng có từ

5 đến 7 hộ. Ngày nay, chủ yếu là làng có từ 30 đến 50 hộ. Nơi được chọn lập

làng là nơi có nguồn nước chung cho cả người và gia súc. Làng có ranh giới qua

sự thỏa thuận bằng miệng giữa các trưởng làng (chư dò) của các làng gần nhau

trước sự chứng kiến của các cấp chính quyền xã. Ranh giới đó luôn được mọi

người tôn trọng, duy trì, hiếm khi có ai vi phạm.

Làng của người Mông quần tụ theo dòng họ, một làng trung bình từ 2 đến

3 họ, làng lớn có 6 đến 7 họ. Tuy cùng sống trong một làng nhưng các dòng họ

cư trú thành từng cụm riêng gọi là Y Chua Sểnh. Điều này thể hiện sự gắn bó

giữa những người cùng dòng họ và được người Mông nói thành khẩu ngữ: “ Anh

em ghét nhau không bỏ được cái ma, vợ chồng ghét nhau không bỏ được cái

giường”. Chính điều đó thể hiện tình cảm khăng khít giữa những người mà họ

gọi là “ thùng sểnh, thùng đa” (cùng họ, cùng ma). Mọi thành viên trong làng

đều có quyền sở hữu chung rừng núi, sông suối, đồi cỏ, bãi chăn thả. Từng gia

đình thuộc các dòng họ khác nhau có quyền phát nương, gieo trồng ở khu rừng

do mình chọn (trừ khu rừng cấm và đất có chủ).

Nhà trình tường đất của người Mông thường dựng trên các triền núi. Đó

là những ngôi nhà trệt. Để chống thời tiết lạnh giá, gió rét, sương muối. Ngôi nhà

thường thấp, kín đáo và vững chắc. Nhà thường có ba gian, hai chái, cửa chính

ở giữa, cửa phụ ở hai bên đầu hồi, gian giữa có cửa chính nhìn về phía trước nhà.

Đây là gian tiếp khách. Vách sau của gian giữa là chỗ thiêng. Ở gian bên cạnh

có buồng ngủ và bếp. Ở đầu nhà có một cửa phụ đó chính là lối ra vào. Hàng

ngày người trong gia đình chủ yếu đi lại bằng cửa này. Xung quanh nhà thưng

ván, vách nứa hoặc xếp đá. Nhà những người Mông khá giả thường làm khá

rộng, cột gỗ kê đá, đeo hình đèn lồng hay quả bí. Gian giữa là nơi để thờ và để

dụng cụ sản xuất. Bàn thờ rất đơn giản đó là mảnh giấy được gắn mấy chiếc lông

gà, chấm tiết rồi dính vào vách sau của gian giữa. Đối với nhà có người làm nghề

thầy thuốc hoặc thầy cúng thì có thêm bàn thờ riêng. Hai gian hai bên một bên

là buồng ngủ, một bên là bếp lò. Tùy theo gia chủ họ gì sẽ có cách bố trí riêng.

41

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Ví dụ, họ Thào, họ Giàng đặt bếp lò và buồng ngủ bên phải, còn họ Lù, họ

Mùa...thì đặt bên trái. Cửa chính thường treo một miếng vải đỏ hình chữ nhật,

hoặc tờ giấy bản để cầu phúc. Người Mông thường dựng nhà theo hướng Tây

hoặc Đông. Trước khi làm nhà người ta chọn đất xem đất lành hay đất xấu, bằng

cách người ta đào ba cái hố, một nơi đặt bàn thờ, một nơi đặt bếp lò, một nơi làm

phòng khách. Sau đó đặt ba bát gạo hoặc hạt ngô xuống ba hố đó rồi lấy bát úp

lên. Sáng hôm sau mở ra, nếu hạt gạo không thay đổi vị trí là đất tốt, ngược lại

là đất xấu. Nếu bị kiến tha đi là đất rất xấu. Khi dựng nhà quan trọng nhất là dựng

“cột ma”. Chủ nhà phải mổ lợn, gà để cúng “cột ma”. Phải chọn ngày, giờ tốt để

dựng “cột ma”. Sau khi làm xong phải làm lễ “ma nhà”, “cột ma”. Chủ nhà là

người nhóm bếp lửa đầu tiên để khai mở cuộc sống cho ngôi nhà mới.

2.3.3.2. Văn hóa ẩm thực của người Mông

Người Mông thường ăn ngô đồ hay cơm và rau xào với mỡ làm canh.

Nhưng món ăn chủ đạo vẫn là ngô đồ hay còn gọi là mèn mén. Gạo tẻ thường đồ

như ngô, còn gạo nếp được dùng làm bánh trưng, bánh dày ăn trong những dịp

lễ tết. Người Mông thường ăn thìa bằng gỗ, đũa chỉ là phụ.

Thắng cố (canh chảo) đây là một món ăn đặc trưng của người Mông. Món

này được chế biến bằng cách tất cả các loại thịt, xương, tim, gan, lòng phổi của

con vật như dê, trâu, bò, ngựa...được thái thành miếng nhỏ nấu chung vào một

chảo canh. Người Mông thường nấu thắng cố vào các dịp như cưới xin, ma chay,

lễ...Khi đi chợ phiên người Mông thường hay mua món “thắng cố” ăn với cơm

mang sẵn từ nhà đi.

Người Mông rất thích ăn tiết lợn, dê. Riêng tiết gà chỉ dùng cho lễ kết nghĩa

anh em, nhận họ hàng, người thân. Mỗi họ của người Mông đều kiêng ăn một số

loại con vật hay hóa quả. Ví dụ, họ Giàng kiêng ăn tim lợn, họ Thào kiêng ăn dưa

chuột... Mâm cơm cúng cũng quy định số bát đũa khác nhau tuy theo dòng họ. Ví

dụ, họ Vàng bày 33 bát, họ Mùa bày 19 bát, họ Sùng bày 13 bát.

Đồ uống của người Mông khá đơn giản. Họ thích uống rượu, chủ yếu là

rượu ngô, sắn và một số cây rừng.

42

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

2.3.3.3. Trang phục của người Mông

Trang phục của người Mông rất sực sỡ và đa dạng với nhiều màu sắc, họa

tiết. Mỗi một nhóm Mông lại có bộ trang phục riêng. Chất liệu vải lanh và màu

sắc nhuộm chàm đã tạo nên nét riêng của y phục Mông. Ở huyện Mèo Vạc với

100% là người Mông Trắng. Trang phục của phụ nữ nhóm Mông Trắng để

nguyên vải mộc không nhuộm tràm. Một bộ trang phục cổ truyền gồm váy, áo

xẻ ngực có yếm lưng, tấm vải che váy trước, thắt lưng, vuông vải che đằng sau,

khăn cuốn đầu, đội xà cạp... Ngoài ra, còn có đồ trang sức như khuyên tai, vòng

cổ, vòng tay, bộ xà tích, nhẫn. Màu sắc trang trí trên trang phục của người Mông

rất sặc sỡ gồm các màu kết hợp đỏ, xanh, đen. Kỹ thuật tạo hoa văn trên trang

phục kết hợp giữa thêu, dệt, ghép màu và in sáp ong. Để tạo hoa văn trên trang

phục, người Mông chủ yếu là thêu, thêu khá độc đáo, không vẽ sẵn mà chỉ nhìn

vào mẫu hoặc theo các mẫu đã thuộc lòng; thêu mặt trái, hoa văn lại nổi lên ở

mặt phải.

Người Mông cũng rất khéo tay trong việc in hoa văn bằng sáp ong, ghép

vải trên y phục, tạo sự phong phú về hoa văn, đồng thời với các khổ ghép vải bên

cạnh các đường thêu thanh mảnh, tạo cảm giác hoa văn biến hóa. Trong y phục

của người Mông, còn có áo cúng bò, tức là áo mặc trong lần giết bò làm ma cho

bố mẹ. Đó là kiểu áo tứ thân làm bằng vải lanh trắng dài và rộng, xẻ ngực. Cũng

như áo cúng bò, áo mặc khi chết được khâu bằng vải đẹp và nhất định phải là vải

lanh. Kiểu áo này không cài cúc, cổ áo tương tự như kiểu áo của phụ nữ.

Váy của người Mông có hình nón cụt, thường xếp ly với khoảng 200 nếp

xếp ly, xòe rộng rất đẹp và đặc trưng, chiếc váy của người Mông Trắng có màu

trắng không thêu thùa hoa văn.

Phụ nữ Mông thường hay dùng xà cạp để quấn chân với mục đích chống rét, nam giới trước kia cũng dùng, nhưng nay phần lớn không dùng. Xà cạp được làm bằng vải đen hay xanh cắt chéo hình tam giác, với chiều rộng khoảng 20cm và chiều dài khoảng 100cm. Xà cạp dùng ban ngày nhưng mùa rét họ quấn cả ban đêm khi đi ngủ.

43

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Tạp dề của người Mông Trắng bằng vải phin hoa, phía trước có thêm

những dây vải màu nhỏ, phần gấu có thêu hoa văn hoặc ghép vải màu.

Trang phục của đàn ông Mông có một kiểu, áo cài vạt sang một bên, ngắn lửng để hở một khoang bụng, áo thường ngắn, phía trước chỉ đủ che một phần ngực, quần chân què, không dài lắm nhưng đũng và đùi rất rộng, rất ít trang trí hoa văn thêu thùa. 2.3.3.4. Văn hóa gia đình và dòng họ của người Mông

Gia đình người Mông thuộc loại nhỏ và chỉ có 6 đến 8 người. Nhiều gia đình gồm hai đến ba thế hệ. Trong gia đình quyền hành thuộc về người cha, người ông, người bố. Người đàn ông trong gia đình quyết định việc chi tiêu, mua sắm, buôn bán... Khi trong nhà có việc cưới hỏi, tang ma quyền quyết định thuộc về người chồng, người cha. Người đàn ông Mông gánh vác mọi công việc nặng nhọc như cày, bừa, đốn gỗ, rèn, làm mộc... đặc biệt phải biết cúng bái tổ tiên, thay mặt gia đình trong mọi công việc của làng xóm. Người phụ nữ Mông chăn gia súc, lo việc bếp núc, thêu thùa, lấy củi, dệt vải, hái rau.

Trước đây mỗi làng chỉ có một dòng họ nhưng ngày nay mỗi làng đã có từ hai đến ba dòng họ sống xen kẽ nhau. Các họ Mông có rất nhiều tên gọi riêng: Thào, Ràng, Vàng, Mùa,... Tên mỗi họ đều liên quan đến một số con vật, loài cây, đồ vật, màu sắc như Sùng là Gấu, Mã là ngựa, Giàng là dê, Thào là đào, Lù là xanh.

Hàng năm, họ thường làm lễ “ma bò” (nhuz dăngz) đây là lễ của con cháu trong dòng họ cúng báo hiếu ông bà, cha mẹ. Ngoài ra, người Mông còn tổ chức lễ đuổi tà ma (ngu tâu hay tuz su).

Nam nữ Mông thường lập gia đình sớm, nhiều trường hợp con trai 12 - 13 tuổi đã có vợ. Vợ thường hơn chồng 5 - 7 tuổi. Con gái Mông đến tuổi đôi mươi mà chưa có chồng được cho là “quá lứa”.

Gia đình của người Mông là một vợ một chồng, cư trú bên nhà chồng. Hôn nhân ngoài dòng họ là nguyên tắc cơ bản và bất biến. Người Mông có tục “cướp vợ” và tồn tại hình thức chị dâu - em chồng, con cô - con cậu. Người Mông thường dùng tiếng khèn, hát đối đáp, qua hội ném pao để gặp gỡ tâm sự. Khi yêu người con trai trao cho người con gái kỉ vật để làm tin, nếu ba ngày người con gái không

44

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

trả lại có nghĩa là đã ưng thuận. Đó là bằng chứng để chàng trai có thể “bắt” cô gái về làm vợ trước khi cưới và là cái cớ để cãi lý khi nhà gái phản ứng.

Lễ cưới: Thường tổ chức từ tháng 10 đến tháng 12 âm lịch, kiêng vào các ngày mưa có sấm sét. Lễ cưới tổ chức ở nhà gái trước, đoàn nhà gái bao gồm 2 ông mối, chú rể, phù rể, chú ruột, bà thím, một người con gái cầm ô che cô dâu, một người làm bếp, 1 - 2 người gánh đồ sính lễ. Đi lẻ về chẵn. Người Mông có tục lệ dừng giữa đường ăn cơm nắm. Khi đến nhà gái, nhà gái mở cửa chính đón đoàn nhà trai đến xin đón dâu.Sau khi ăn uống xong, nhà gái tiến hành các nghi lễ: Lễ tiễn ông mối (cha mè công sờ kề); Lễ cho của hồi môn; Dặn dò cô dâu. Theo tập tục của người Mông, bố mẹ cho con gái bộ váy, chiếc vòng bạc, một con lợn lái, một cái chăn, hai cái bát...Chiếc vòng bạc được đeo ở cổ được coi là kỷ vật thiêng liêng nhất, cô gái phải có nghĩa vụ gìn giữ suốt đời, không được bán và tặng người khác. Giá trị tượng trưng của vòng bạc bằng một con bò, nếu khi cô gái chết hoặc ly dị vợ thì nhà trai phải đền bằng một con bò. Khi ra đến cửa, cô dâu phải khóc thật to để thể hiện mình có hiếu. Đón dâu về đến nhà chồng, cô dâu phải đứng ngoài cửa để làm lễ đuổi ma ngoại (lử cai) và các tà ma bám theo cô dâu và đoàn người đón dâu. Trong hai ngày đầu nhà chồng, cô dâu không được ra ngoài nhà, chủ yếu ở trong buồng. Sau ba ngày, tổ chức lễ lại mặt (pổ pây thầy kì). Bố mẹ, đôi vợ chồng mới cưới về để nhận mặt thông gia, lễ vật mang về nhà gái gồm 1 chai rượu, 1 kg thịt lợn. Sau này nếu có bất hòa, vợ chủ động bỏ chồng phải trả tiền cưới, nhưng nếu chồng chủ động bỏ vợ mà có sự thông báo trước cho nhà gái thì không phải trả khoản đó. Người Mông có tục cưới rể nhất là gia đình hiếm con. Cưới rể thì nhà gái chịu mọi tổn phí như cưới dâu. Cưới rể thường đắt hơn mua dâu. Đối với tục bắt - kéo vợ, sau khi bắt được vợ ngay lúc về phải làm lễ nhập ma của họ nhà trai. Làm lễ nhập ma xong, cô dâu chú rể làm lễ trước bàn thờ tổ tiên nhận mặt và phù hộ. Em gái chồng hoặc mẹ chồng dẫn cô dâu vào buồng. Sáng hôm sau, nhà trai cử người sang thông báo cho nhà gái biết. Ông mối có lời xin lỗi nhà gái, lúc này nhà gái mới mở cửa để đón nhà trai vào. Sau khi báo tin cho nhà gái biết, thì tiến hành lễ cưới bên nhà trai trước gọi là lễ làm vía (húp plì) cho vợ chồng, sau đó mổ lợn làm cơm mời ông mối.

45

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

2.3.3.5. Tín ngưỡng của người Mông

Trong các hình thức tín ngưỡng - tôn giáo của người Mông thì thờ cúng tổ

tiên và đặc biệt là sa ma giáo khá phát triển. Người Mông tin rằng mỗi người đều

có ba hồn (pli). Hồn chính (thà plì) ở đỉnh đầu điều khiển mọi hoạt động của cơ thể;

hồn thứ hai nằm ở bụng điều khiển sự uống và phần nội tạng; hồn thứ ba nằm ở gần

ngực nơi tim với chức năng điều khiển sự sống của hai hồn trên. Nếu một trong ba

hồn bỏ đi con người sẽ bị ốm. Đồng bào thường đeo vòng vía, tượng trưng cho

chiếc chìa khía, được thấy cúng làm phép để ngăn hồn bỏ đi.

Thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng quan trọng của người Mông. Nơi thờ

tổ tiên chỉ có người đàn ông mới được đến gần. Tổ tiên được coi là ma lành luôn

phù hộ con cháu. Vốn theo hình thức phụ quyền nên tổ tiên trong nhà cũng đồng

nhất là tổ tiên nhà chồng; vai trò tổ tiên bên vợ hầu như không có ảnh hưởng và

tác động đến các nghi lễ. Người Mông thờ tổ tiên ba đời: đời bố, đờ ông, đời cụ.

Nếu như có thế hệ liền kề mất đi thì đời cụ được coi là đã đầu thai sang kiếp khác

và đẩy các thứ bậc cúng lên một bậc. Quan niệm này được thể hiện trong các bài

cúng vào dịp lễ, tết, mùng một, ngày rằm.

Người Mông còn thờ cúng một hệ thống các loại ma nhà (xưv căngz ) là vị

thần linh quan trọng nhất cai quản của cải, tiền bạc, giữ gìn các hồn ma trong nhà.

“ Ma cột chính” (cundêx dăngz) đây là cột linh thiêng thờ ma lợn, tượng

trưng cho sự hưng thịnh, liên quan tới sức khỏe và vận mệnh mỗi gia đình.

“Ma cửa” (khaortrôngx plangl) là vị thần linh chuyên canh giữ cửa, ngăn

các ma ác vào nhà, bỏ vệ gia súc, của cải, không cho các hồn bỏ đi.“ Ma buồng”

liên quan đến chăm sóc,bảo vệ trẻ em. “ Ma bếp lò” liên quan đến việc sinh nở.

“Ma bếp lửa” là vị thần tiêu diệt ma ác.

Sa man giáo là hình thức tôn giáo chuyên biệt, có người chuyên hành

nghề. Giống nhiều dân tộc khác, người Mông cũng có một số ma thuật. “ Ma

thuật làm hại” đây là cách chém bóng. Người ta tin rằng làm ma thuật này kẻ thù

sẽ bị tiêu diệt.

46

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

“Ma thuật phòng ngự” người Mông thường đeo những vật kỵ ma như răng

lanh lợn lòi, vuốt hổ... Những vật này tượng trưng cho sức mạnh và ngăn cản

được phép thuật của kẻ thù. “Ma tình yêu” người Mông cho rằng muốn yêu một

người nào đó chặt đứt đuôi của hai con rắn đang giao cấu, lấy máu rắc vào cành

cây, đặt vào lối người yêu mình đi. Người đó dẫm vào cành cây sẽ tự khắc phải

lòng mình. Khi tình yêu bị phản bội, lấy tóc hoặc khăn đội đầu của người bội bạc

trộn với lá ngón và chôn ở ngã ba đường. Làm như vậy người ta tin kẻ bội bạc

sẽ dần ốm đau mà chết.

2.3.3.6. Văn hóa nghệ thuật truyền thống của người Mông

Người Mông có một kho tàng văn học dân gian hết sức phong phú và đa

dạng với rất nhiều thể loại khác nhau phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan,

cuộc sống lao động vất vả, đấu tranh của dân tộc mình. Đặc biệt sử thi Mông

được lưu truyền từ đời này sang đời khác, thật sự là những tác phẩm văn học có

giá trị cao: Tiếng hát làm dâu, Tiếng hát mồ côi, Tiếng hát tình yêu...Nam nữ

Mông ai cũng biết hát dân ca người ca và sử dụng thành thạo nhiều nhạc cụ, gẩy

đàn môi, thổi khèn lá.

Trai gái Mông rất thích tụ họp để hát giao duyên (gầu plềnh) nhất là vào các

dịp lễ tết. Họ hát để thi tài hoặc trai gái tìm hiểu nhau. Bên cạnh đó, chàng trai Mông

thường thể hiện tài năng của mình bằng những điệu múa khèn rất đặc sắc.

Vào dịp Tết Nguyên đán là ngày hội lớn của người Mông. Hội Gầu Tào

được tổ chức vào những ngày đầu năm mới, là lễ hội quan trọng của người Mông

nhằm cầu phúc, cầu sức khỏe và mùa màng. Lễ hội này diễn ra vào mùa xuân,

trong khoảng thời gian từ ngày mùng một đến ngày mười lăm tháng giêng, diễn

ra trong năm ngày liền. Ngày đầu và ngày cuối là phần lễ, ba ngày giữa là phần

hội. Hội Gầu tào được tiến hành ở chỗ đất rộng, có địa hình tương đối bằng

phẳng, thuận tiện cho việc đi lại, vui chơi, nhảy múa. Mỗi khi mở hội, một gia

đình trong bản đứng ra làm chủ lễ. Khi định ngày tổ chức thông báo cho dân bản

và anh em họ hàng gần xa đến dự.

47

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Trước khi mở hội, người ta dựng một cây nêu (cây bương hoặc cây tre)

còn cả ngọn ở địa điểm đã lựa chọn. Trên ngọn cây treo một trai rượu hoặc tấm

vải đỏ với ý nghĩa báo hiệu cho thần trời và tổ tiên về vui xuân cùng gia đình,

con cháu. Vào ngày khai hội, người ta dựng đàn cúng ở ngay chân cột cây nêu

và mổ một con lợn to để cúng tạ ơn thần trời và tổ tiên đã phù hộ, đồng thời xin

phép thổ thần cùng các loại ma xung quanh địa điểm vui chơi.

Phần hội được tổ chức rất vui, thu hút mọi lứa tuổi tham gia. Các cô gái

mặc những bộ quần áo mới và mang theo ô, đàn môi. Các chàng trai mang theo

khèn, sáo, nhị. Các em thiếu niên mang con quay, có người mang theo chim,

ngựa, gà để so tài với nhau.

Trong ngày hội người Mông tổ chức nhiều trò chơi hấp dẫn như đấu vật,

đua ngựa, bắn súng, bắn nỏ, chọi chim, chọi gà, ném còn, đánh quay, múa khèn,

thổi sáo,... Đặc biệt, là hát đối đáp. Khi tham gia trò chơi này, các chàng trai, cô

gái Mông luôn trổ hết tài năng, tìm cách làm quen, bày tỏ tình cảm với người

mình yêu.

Có thể thấy rằng Hội Gầu tào của người Mông là một hoạt động văn hóa

đặc sắc, vừa mang ý nghĩa mừng công lao động, cầu chúc sức khỏe, cầu sinh sôi

nảy nở, vừa là hội thượng võ và sinh hoạt văn hóa nghệ thuật của các thành viên

thuộc các thế hệ khác nhau trong cộng đồng.

Đặc biệt hơn cả, nơi đây còn có chợ tình Khâu Vai. Chợ tình người ta đến

không chỉ để mua sắm mà còn để gặp lại bạn tình xưa. Cả nhà từ ông, bà, bố,mẹ,

con cái cùng đi mà không có sự ghen tuông hay đố kỵ. Những đôi lứa ngày xưa

yêu nhau gặp lại để tha thiết tâm tình. Tan chợ ai về nhà nấy nếu còn quyến luyến

vấn vương thì lại đợi ngày này phiên chợ năm sau. Đây là một hình thức sinh

hoạt văn hóa hết sức độc đáo mang tính nhân văn sâu sắc.

2.4. Kiến thức bản địa trong hoạt động sản xuất nông nghiệp

2.4.1. Trong hoạt động trồng trọt

2.4.1.1. Lựa chọn đất canh tác

48

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Kinh nghiệm canh tác nương rẫy đã trở thành tài sản của người Mông.

Quy trình canh tác nương rẫy được tuân thủ theo một trình tự: phát - dọn, đốt -

chọc lỗ - tra hạt, trồng tỉa - làm cỏ - chăm bón - thu hoạch - bảo quản. Dù là canh

tác trên loại nương nào thì công việc quan trọng đầu tiên vẫn là chọn đất.

* Lựa chọn đất làm nương

Người Mông chủ yếu cư trú ở rẻo cao, nơi có địa hình hiểm trở, núi non

trùng điệp. Mèo Vạc (Hà Giang) là vùng núi đá tai mèo, khí hậu quanh năm mát

mẻ, mùa đông giá rét. Người Mông sống ở đây lấy nông nghiệp trồng trọt là chủ

yếu, với phương thức canh tác là thổ canh hốc đá, nương cày cuốc và ruộng bậc

thang. Mặc dù thời tiết, chế độ thủy văn và địa hình hiểm trở nhưng người Mông

ở Mèo Vạc sớm biết đến những kĩ thuật canh nông ở trình độ khá cao. Trong

canh tác, người Mông cũng tuân thủ các quy trình chung như mọi cư dân nông

nghiệp khác, nghĩa là cũng bắt đầu từ việc chọn đất, gieo trồng, chăm sóc và thu

hoạch, bảo quản.

Người Mông gọi nương rẫy bằng một từ chung là tế, đó là những khoảnh

đất do đốt rừng, chặt cây theo lối “đao canh, hỏa chủng”. Căn cứ vào cây trồng

có các loại nương: nương lúa (tế blê), nương ngô (tế pó cừ), nương lanh (tế

măng)... Nhưng loại nương theo địa thế canh tác là phổ biến hơn cả như nương

bằng (tế Tìa) và nương dốc (tế xá). Tế Tìa là loại nương tương đối bằng phẳng ít

đá lộ, canh tác tương đối thuận lợi, năng suất mùa màng khá cao, chiếm diện tích

nhỏ, khoảng 5% diện tích toàn huyện. Tế xá là nương dốc hay nương thổ canh

hốc đá, chia làm hai loại: Xùa tế là loại nương có nhiều hốc đá nằm kề nhau,

trong các hốc đá, khe đá có sẵn một ít đất. Dầu tế là loại nương gồm những hốc

đá có khoảng rộng 3 - 4 mét vuông, ở những nơi tảng đá rộng, bề mặt tương đối

bằng phẳng, người Mông nơi đây phải gùi đất đổ lên bề mặt và tiến hành canh

tác như xùa tế. Người ta rất giỏi trong việc phân biệt nương đá với nương đất.

Theo kinh nghiệm, họ cho rằng nương đá chiếm tới 80% là đá, 20% là đất; ngược

lại, nương đất là đất chiếm 80%, đá chiếm 20%. Người Mông ở Mèo Vạc có kinh

nghiệm chọn nương khá độc đáo. Theo kinh nghiệm của họ: nơi chọn làm nương

phải dại nắng, không quá dốc; Đất làm nương thường có nhiều cây mọc tốt; Đất

49

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

đen và tơi xốp thích hợp cho việc trồng ngô. Nếu là đất màu vàng thì khai phá

làm ruộng. Theo kinh nghiệm của người Mông ở đây, đất thịt (a đu) là để trồng

cây lương thực; đất sỏi bãi (thềnh nhềnh) là để trồng lạc, đậu, ngô sẽ cho năng

suất cao.

Sau khi chọn được nơi làm nương vừa ý, người ta khoanh vùng và làm

dấu (uôm phua) cho vùng đất đó. Trên mảnh đất nương vừa chọn đó, họ đánh

dấu tại bốn góc nương bằng cách, họ phát khoảng 2m² chặt một cây nhỏ làm

cọc dài 1m đến 1,5m chẻ đầu để gài một mảnh gỗ, hoặc buộc thanh tre hình chữ

thập. Nếu ở đó có cây to, người ta chặt vát vào thân cây, giặt mảnh gỗ, que tre

hướng về phía phát nương. Khi nhìn thấy ám chỉ này tuyệt đối không ai được

xâm phạm.

Việc phát nương họ tiến hành vào mùa khô. Sau khi phát nương xong, người

ta phơi nắng khoảng 2 đến 3 tuần, khi các cây bị phát đã khô rồi mới đốt. Theo

kinh nghiệm của người dân, họ tạo ra khoảng trống khoảng 2m. Đốt nương ngược

chiều gió, đốt từ chân đồi lên, cho lửa cháy lan, để tránh cháy rừng.

Theo kinh nghiệm của người Mông ở Mèo Vạc, nếu đám nương phát làm

năm đầu tiên thì không cày mà đốt xong chỉ cần cuốc hố là gieo trồng. Với những

đám nương canh tác từ năm thứ hai trở đi, thì phải cày bừa để làm đất. Với nương

có độ dốc thoải cao, dùng trâu hoặc bò để cày vỡ đất, nhưng họ không cày thành

luống mà cày theo cách là hết đường cày này đến đường cày khác theo độ dốc từ

dưới chân nương lên. Đối với những nương đá khó cày họ dùng cuốc để xới đất.

Những đoạn nương dài và nhiều đất thì bờ đá được kè cao, chạy dọc theo sườn thấp

của nương, với diện tích rộng thì có thể làm thành nương bậc thang. Việc xếp bờ đá

đòi hỏi nhiều công sức và kỹ thuật để xếp sao cho những phiến đá chồng lên nhau

vừa khít, tạo sự chắc chắn và đất không bị xói mòn vào mùa mưa.

* Lựa chọn đất làm ruộng bậc thang

Ngoài nương rẫy, người Mông ở Mèo Vạc còn có nhiều kinh nghiệm làm

ruộng nước. Mảnh đất được chọn để làm ruộng nước thường là những mảnh nằm

dưới chân đồi, giữa hai sườn đồi. Vùng đất này phải có độ dốc không cao lắm (tối đa 50o), đặc biệt phải có nguồn nước tự nhiên do suối và mạch nước mang 50

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

lại. Ruộng của đồng bào làm theo chiều rộng hẹp khác nhau, có những ruộng nhỏ

chỉ vừa một đường bừa, chiều dài uốn lượn theo sườn núi, có những thửa ruộng

kéo dài vài chục mét. Việc khai phá ruộng bậc thang rất công phu, tốn nhiều công

sức. Họ thường tìm đến những nơi ẩn nguồn nước, có chất đất phù hợp với từng

loại cây trồng. Nguồn nước được coi là rất quan trọng và đặt lên hàng đầu. Người

ta quan niệm “nước là mẹ, đất là cha”. Hệ thống thủy lợi thường bắt nguồn từ

nguồn nước từ các khe nước giữa kè đá chảy trên cao xuống. Khi đã chọn được

chỗ làm ruộng, người ta tiến hành đào và san ruộng. Đây là hai khâu rất quan

trọng và đòi hỏi phải có kinh nghiệm và kĩ thuật cao, ruộng bậc thang bắt buộc

phải đảm bảo hai yếu tố đó là: mặt bằng và nguồn nước. Theo như người Mông

ở Mèo Vạc, họ thường làm ruộng từ trên xuống, bởi ruộng của họ có độ nghiêng

lớn từ 30 - 50 độ. Sau khi mảnh đất được dọn sạch, người ta sẽ tìm mặt phẳng

nhất để làm chuẩn (hoàn toàn bằng mắt thường), tiến hành đào và san lấp tạo

thành mặt bằng. Sau đó họ tiến hành làm bở ruộng, người ta lấy phần đất san gạt

ở mép cuối mặt bằng thửa ruộng, lấy cuốc bướm cào đất thành bờ, chỗ nào thiếu

thì cào từ chỗ cao sang, rồi dùng chân và gáy cuốc đạp mạnh để nén chặt bờ

ruộng. Ruộng của người Mông thường để cấy lúa, nhưng vì thiếu nước nên mỗi

năm chỉ cấy được một vụ mùa. Mỗi đám ruộng họ thường cày bừa đến 3 lần. Lần

thứ nhất: cày cho vỡ đất sau khi đã thu hoạch xong, cày lên để phơi ải, làm cho

cỏ và gốc dạ lật úp xuống nhanh chóng mục nát và tơi xốp hơn. Lần thứ hai: Khi

những cơn mưa đầu mùa đến, người ta cày lật đất lên để ngâm nước vài ngày sau

đó bừa kĩ lại cho thật tơi xốp. Lần thứ ba: bừa lại trước khi cấy. Trong lần thứ ba

người ta sẽ vãi phân chuồng đều khắp mặt ruộng rồi bừa nhằm giúp cho đất được

đều phân và có độ nhuyễn nhất định để cấy lúa.

* Canh tác hốc đá: Trước kia, người Mông có tập tục du canh, du cư. Họ

đốt rừng làm nương, sau vài vụ đất bạc màu lại bỏ đi nơi khác. Sau đó, rừng ngày

càng cạn kiệt nên đồng bào đã kè nương đá, gùi đất, đổ vào hốc đá, trồng cây

lương thực qua nhiều đời nay. Đó còn gọi là tri thức thổ canh hốc đá. Trước khi

gieo trồng người ta tiến hành khai phá nương. Khi muốn tạo mảnh nương mới

đồng bào thường chọn khu vực có nhiều ánh nắng, không quá dốc. Sau đó, người

51

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

dân phát cỏ và cây bụi theo từ dưới lên. Cây phát xong để phơi nắng khoảng 2

đến 3 tuần rồi đốt. Do thiếu đất canh tác, đồng bào không chỉ xếp đá ở những nơi

có diện tích rộng, tại những sườn phía trên cao của nương, những chỗ nhiều đá

không thể san bằng được, đồng bào thường kè thành những hốc đá kín, sau đó

gùi thêm đất đổ vào đó, mỗi hốc thường chỉ trồng được 1 - 2 cây ngô. Việc xếp

bờ đá đòi hỏi nhiều công sức và kỹ thuật để xếp sao cho những phiến đá chồng

lên nhau vừa khít, tạo sự chắc chắn và đất không bị xói mòn vào mùa. Tuy nhiều

mùn, độ phì cao nhưng không thể dùng cày bừa nên họ trồng ngô và các loại rau

đậu, hoa màu. Nhờ sáng tạo ra hình thức thổ canh hốc đá và kĩ thuật trồng ngô

trên nương đá, kĩ thuật xen canh các loại cây hoa màu, mà bà con nơi đây thích

nghi được với điều kiện tự nhiên đặc biệt để ổn định cuộc sống. Đến nay, thổ

canh hốc đá vẫn là phương thức chủ đạo trong hoạt động sản xuất của đồng bào

nơi đây.

2.4.1.2. Lịch thời vụ

Người Mông ở Mèo Vạc cũng dựa vào những hiểu biết và sự vận hành của

Mặt Trăng và mặt Trời từ đó định ra lịch thời vụ. Họ cũng dựa vào chu kì trăng

tròn gồm 30 ngày để định ra tháng. Tên mười hai tháng tương ứng với tên của

12 con vật: tháng một - tháng con thỏ (Lour hli), tháng 2 - tháng con Rồng (Jax

hli), tháng 3 -tháng con rắn (Naz hli), tháng 4 - tháng con ngựa (Nenh hli), tháng

5 -tháng con dê (Jangx hli), tháng 7 - tháng con gà (keiz hli), tháng 8 - tháng con

chó (Đêr hli), tháng 9 - . tháng con lợn (Buô hli), tháng 10 -tháng con chuột (Na

hli). Tháng 11 - tháng con bò (Nhux hli), tháng 12 - tháng con hổ (Tsor hli).

Trước đây, lịch nông vụ của người Mông:

Bảng 2.3: Lịch thời vụ (truyền thống)

Tháng

Tháng 1

Lịch thời vụ Nghỉ ăn tết, từ giữa tháng phát nương, dọn cỏ ở nương du canh, tiến hành cày ở nương định canh. Cuối tháng thu hoạch đậu răng ngựa.

52

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Tháng 2

Tháng 3

Tháng 4

Tháng 5, 6

Tháng 7

Tháng 8

Tháng 9

Tháng 10

Nguồn: Tác giả thu thập trong quá trình điều tra thực tế

Tháng 11 Tháng 12 Làm nương ngô muộn trên nương du canh. Cày nốt nương định canh và tiến hành gieo ngô, trồng lanh, đỗ tương, đậu cô ve. Phát nương lúa. Nhổ cỏ, vun ngô, tra ngô muộn trên nương du canh. Vun ngô trên nương định canh đợt một. Tra lúa nương, vun ngô sớm trên nương du canh. Làm cỏ và vun ngô trên nương định canh đợt hai. Ở nương du canh tiến hành trồng đỗ tương, vun ngô muộn. Trên nương định canh, chăm sóc ngô, phòng ngừa thú rừng và chim chóc phá hoại mùa màng, thu hoạch lanh. Làm cỏ lúa nương đợt hai. Thu hoạch ngô muộn trên nương du canh. Tiếp tục chăm sóc ngô trên nương định canh. Thu hoạch ngô còn lại và làm cỏ cho đỗ tương trên nương du canh. Trên nương định canh, bắt đầu thu hoạch ngô. Thu hoạch đỗ tương. Trên nương định canh vun đậu răng ngựa. Thu hoạch lúa nương, gieo rau cải. Gieo đậu răng ngựa trên nương định canh. Vun đậu răng ngựa cho nương định canh. Làm cỏ cho đậu răng ngựa.

Ngày nay, một số cây trồng của người Mông đã không còn như cây thuốc

phiện. Lịch canh tác trên nương đá của dân tộc Mông ở Mèo Vạc cũng gần như

thống nhất giống một số dân tộc khác như người Lô Lô, người Pu Péo đó là:

tháng đầu tháng 1 là thời gian dọn cỏ, đốt nương, làm đất, đổ thêm đất, ủ phân

chuồng vào nương hay các hốc đá; tháng 2 đến đầu tháng 3 là thời gian gieo

trồng ngô, xen canh bí, đậu hoặc dưa chuột…; tháng 3, khi ngô được hai hoặc ba

lá, cây xen canh vươn ngọn thì vun gốc lần 1; tháng 4, khi cây ngô, cây xen canh

sắp trổ hoa thì vun tiếp lần 2, cũng là lần cuối; tháng 8 và 9 là thời gian thu hoạch;

thu hoạch xong, đồng bào trồng thêm một vụ tam giác mạch và một số loại rau

vụ đông, chủ yếu là rau cải và đậu răng ngựa. Hiện nay, quy trình sản xuất ở một

số nơi được rút ngắn lại, do đồng bào sử dụng các giống ngô lai ngắn ngày và

53

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nguồn phân bón hóa học, nhưng về cơ bản, những nương thổ canh vẫn áp dụng

theo lịch canh tác truyền thống. Tuy nhiên, việc tiến hành trồng cấy vẫn có sự sê

dịch khi có sự thay đổi của thời tiết.

Bên cạnh đó, người dân còn quan sát các hiện tượng sự vật xung quanh để

đưa ra kế hoạch cho việc canh tác. Theo như kinh nghiệm của người Mông ở

Mèo Vạc, đồng bào thường nhìn cây để giao hạt (gieo trồng ngô khi thấy hoa

đào nở), người ta thường quan sát cây đào, mận, lê nếu thấy nở hoa từ ngọn

xuống chỗ phân nhánh thì phải tiến hành việc gieo trồng từ 25 tháng 2 âm lịch

và kết thúc trong tháng. Vì người ta cho rằng, năm đó mưa xuân sẽ đến muộn và

ít. Do đó, phải tiến hành gieo trồng để tránh hạn hán và sâu bệnh. Nếu như hoa

nở từ giữa cành trở ra ngọn và chỗ phân cành thì tháng 2 không nên gieo trồng

nhiều mà phải đợi sang tháng 3. Vì năm đó mưa rào sẽ đến sớm hơn, bắt đầu

tháng 4 âm lịch đã có mưa, tránh được sự rụng phấn của bông hoa ngô. Nếu như

hoa nở từ chỗ phân nhánh trở lên ngọn thì trong tháng 3 phải gieo hạt xong, vì

mưa xuân bắt đầu từ tháng 2 và kết thúc vào tháng 4, lúc này cây mới ra hoa

tránh được sương lạnh. Bên cạnh đó, người ta cũng cho rằng vào mùa xuân, hoa

lê, mận, đào nở và đồng đều nhiều thì năm đó mùa màng sẽ bội thu và ngược lại

năm đó mùa màng sẽ thất thu.

2.4.1.3. Lựa chọn giống cây trồng

Do đặc điểm cư trú trên vùng núi cao, nên người Mông lựa chọn những

giống cây trồng phù hợp với điều kiện môi trường sinh thái. Dưới ruộng họ trồng

lúa, trên nương trồng ngô và lúa nương. Ngoài ra, còn trồng xen kẽ các loại bầu bí

và những cây họ đậu. Những cây trồng chủ yếu phải là những cây chịu hạn và có

khả năng xen canh gối vụ. Người Mông rất chú trọng việc lựa chọn giống cây

trồng như lúa, ngô hay các loại cây khác như đậu, bí, dưa chuột, tam giác mạch,

rau cải. Theo kinh nghiệm của người dân, nếu như mảnh nương nào có cây trồng

tươi tốt, cho hạt to, sai hạt sẽ được khoanh lại làm giống.

54

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Đối với lúa (sú), gồm lúa nếp (sú blong) và lúa tẻ (sú chùa), người Mông

thường chọn giống vào vụ gặt, chọn giống có hạt chắc, mẩy, khi gặt bó thành

từng cum và phơi trên gấc bếp hoặc xà nhà.

Đối với giống ngô (pà cừ), là cây lương thực độc canh và có vai trò quan

trọng trong việc duy trì đời sống của đồng bào Mông nơi đây. Nó là nguồn lương

thực chính trong bữa ăn của đồng bào nơi đây. Ngô gồm có: ngô nếp (pa cừ

blọng) có đặc điểm cây cao, hạt dẻo; ngô tẻ (pa cừ chùa) có ngô tẻ vàng, ngô tẻ

màu trắng, ngô tẻ màu tím lẫn trắng có đặc điểm là bắp to, cây cao, hạt đều. Ngô

tẻ được trồng nhiều hơn ngô nếp, chiếm tới hơn 80% diện tích vì dễ chăm bón,

cho năng suất cao. Người ta chọn những loại ngô chịu hạn và chịu rét tốt, bắp to,

hạt đều phù hợp với khí hậu ở khu vực này, khi thu hoạch họ thu hoạch riêng, để

cả lớp vỏ bên ngoài, phơi khô và buộc túm lại với nhau rồi treo lên gác bếp để

tránh mọt. Việc bảo quản loại ngô này khá đơn giản, ít bị mọt và ngon hơn ngô

lai, tuy nhiên, năng suất không cao. Khi tới vụ gieo trồng, người ta tách hạt ra

khỏi bắp đem ngâm nước một hai ngày cho nở rồi mang gieo.

Ngoài ra, người Mông còn trồng xen canh gối vụ với các cây khác: bí (sau

blồng tau), đậu tương (tậu đàn), ớt (pụt cha), dưa chuột (đi mè), rau cải... Đối

với giống cây họ đậu thì chọn quả to, hạt chắc, phơi khô rồi tách lấy hạt hoặc để

cả quả rồi cho vào ống tre, phủ tro bếp lên, đậy kín miệng ống tre lại. Khi gieo

trồng, dùng chân bóc vỏ, làm sạch và loại nỏ hạt lép. Đây là giống cây trồng chịu

được lạnh điển hình là đậu Hà Lan và đậu răng ngựa. Những loại cây trồng này

có thể sinh trưởng trên đất nghèo chất đạm, không những vậy nó còn có khả năng

làm cho đất tốt. Đất trồng 2 đến 3 vụ ngô và lúa đem trồng 2 đến 3 vụ đậu lại có

thể trồng ngô lúa được.

Việc canh tác trên nương đá của người Mông không chỉ trồng những cây

lương thực, thực phẩm chính mà còn có cả những cây phụ gia và một số loại cây

lâu năm như: đào (chi đúa), mận (thép), su su (chi su su). Đặc biệt, đồng bào

55

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Mông ở Mèo Vạc còn trồng tam giác mạch ở những mảnh nương đã cằn cỗi và

cây lanh để dệt vải may trang phục.

2.4.1.4. Lựa chọn công cụ lao động

Kĩ thuật thổ canh hốc đá - Canh tác trên vùng đất xen lẫn đá, thường dùng

đá xếp quanh đất để che chắn, chống xói mòn, rửa trôi đất, nhiều hốc đá tự nhiên

được người dân gùi đất đổ vào và trở thành hốc canh tác. Nhờ sáng tạo ra hình

thức thổ canh hốc đá và kĩ thuật trồng ngô trên nương đá, kĩ thuật xen canh các

loại cây hoa màu, mà bà con nơi đây thích nghi được với điều kiện tự nhiên đặc

biệt để ổn định cuộc sống. Đến nay, thổ canh hốc đá vẫn là phương thức chủ đạo

* Công cụ làm đất

trong hoạt động sản xuất của đồng bào nơi đây.

Trong thổ canh hốc đá, người dân đã sử dụng các nông cụ thích hợp với

điều kiện canh tác, như: cày, bừa, cuốc bướm.

- Cày: Cày sử dụng trên nương đá là loại cày do người Mông chế tác, phù

hợp với địa hình đất dốc, nhiều đá. Thân cày chắc khỏe, lưỡi cày có hình tam

giác cân, nhỏ, dầy, mũi hơi tù và nặng, chịu được lực khi va đập vào đá.

- Bừa: có hai loại đó là bừa tay và bừa chân. Bừa tay là loại bừa có tay

ngang để người sử dụng cầm ấn xuống khi bừa. Bừa chân được dùng thông dụng

hơn, thường có dạng hình chữ nhật, cấu tạo chắc chắn, với hai hàng răng, không

có tay giữ, khi bừa, người điều khiển phải đứng lên bừa. Với nơi đất khô cứng,

người bừa phải xếp thêm đá lên thân bừa để tạo sức nặng, cho bừa sâu hơn, làm

cho tơi đất.

- Cuốc bướm: có lưỡi mỏng, to bản, hình tam giác, cong ở phần chuôi,

nhọn hai đầu, nên thuận lợi cho việc cào, vơ cỏ, vun gốc trên nương đá.

- Dao: có ba loại: dao chặt, dao phát và dao thái. Trong quá trình canh tác

người Mông sử dụng chủ yếu là dao chặt và dao dùng để chặt cây, phát nương làm

rẫy. Dao của người Mông trông to và dày, do có nhiều sắt nên rất sắc và ít bị mẻ.

56

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

- Thuổng: Thuổng của người Mông lưỡi khá phẳng, chỉ hơi cong một chút

họ cho rằng lưỡi thuổng như vậy khi đào các loại củ ở sâu không bị vỡ, củ không

bị gãy, có thể đào lỗ sâu hơn, phần cán sắt uốn cong để tra cán thuổng bằng gỗ

vào. Phần cán gỗ được làm bằng loại gỗ chắc, vừa vòng tay nắm của người dùng,

thuổng của người Mông cán rất dài, ít nhất là 1m dài nhất phải tới 3m, cán dài như

vậy để tạo lực khi đào được hố sâu hơn. Thuổng người ta dùng để khai phá ruộng

bậc thang, bẩy dọn những hòn đá, đào đất, đào các rễ cây to trên nương.

* Công cụ chăm sóc

- Cuốc bướm: nó không chỉ được dùng để làm đất mà còn được dùng để

chăm sóc cây trồng. Cuốc bướm rất thích hợp với việc canh tác trên địa hình núi

cao hiểm trở, dùng để cuốc hố tra hạt, để luồn lách vào những hốc đá làm cỏ cho

cây trồng.

- Cào cỏ: Người Mông dùng cào gỗ thiết kế theo kiểu bán nguyệt, dùng

để làm cỏ lúa nước, cào gỗ có thể dễ dàng luồn lách vào từng khóm lúa. Cào sắt

có cấu tạo hình dấu chấm hỏi, lưỡi cào được dát mỏng để luồn lách vào các hốc

đá làm cỏ và vun đất cho cây nơi mà cuốc bướm không thể dùng được. Loại cào

này thích hợp cho việc làm cỏ trên nương có lẫn nhiều đá.

* Công cụ thu hoạch

- Dao cắt lúa (Hái): là dụng cụ sản xuất của đồng bào Mông. Dao cắt lúa

có cán làm bằng gỗ có tiết diện rộng 10cm có hình con bướm ở giữa là 1 lưỡi

nhỏ. Giữa chuôi cán có buộc 1 sợi dây và 1 ống trúc để khi cắt lúa dùng ống trúc

đó cặp vào tay để giữ. Người Mông thường trồng lúa nương và gặt xong không

đập luôn mà bó thành từng bó nhỏ cho vào gùi đem về gác bếp, rồi tuốt để dùng

dần. Khi gặt họ dùng lòng bàn tay và các ngón tay để cầm cán dao, ống trục được

kẹp giữa ngón trỏ và ngón giữa để ra sau mu bàn tay để giữ chặt dao, ngón trỏ

để vào lưỡi dao để cặp từng bông lại cắt. Nói chung dùng lưỡi hái năng suất rất

thấp, ngày nay đồng bào đã dùng liềm để gặt.

- Liềm (Las): Liềm gặt lúa là 1 sản phẩm của nghề rèn được đồng bào tự

sản xuất để phục vụ cuộc sống hàng ngày do đàn ông tự làm. Liềm dùng để gặt

lúa, cắt cỏ gianh về lợp nhà, thu hoạch lanh. Do đồng bào Mông chủ yếu canh

57

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tác lúa nương năng xuất thấp, cây lúa khá cứng nên liềm làm rất nhỏ, có độ cong

vừa phải. Liềm có 2 phần: Phần lưỡi sắt dài 22cm, rộng lưỡi 3cm, phần lưỡi làm

cong để vơ lúa và giữ khi cắt nhưng do số lượng bông lúa của mỗi lần gặt ít lên

liềm chỉ có độ cong vừa phải, có gia đình thì làm loại lưỡi liềm có trấu (răng cưa)

có gia đình thì không làm trấu mà để trơn. Phần cán gỗ ngắn, nhỏ vừa gọn trong

nắm tay của người dùng.

- Gùi (lù cở): Gùi là 1 trong những sản phẩm của nghề đan mây tre truyền

thống của đồng bào dân tộc Mông. Với địa vực cư trú ở núi cao, địa hình dốc,

đời sống kinh tế chủ yếu là nương rẫy nên gùi là một vật dụng, một phương tiện

vận chuyển thiết yếu của đồng bào Mông. Tất cả mọi người trong gia đình mỗi

người đều có một chiếc gùi, người lớn đàn ông dùng gùi to, đàn bà dùng gùi nhỏ

hơn, các em nhỏ là những chiếc gùi nhỏ. Gùi được đan bằng tre, 1 loại tre nhỏ

bằng cổ tay, có vỏ bóng, người ta không cần chặt tre theo mùa mà khi cần gùi

người ta chặt và đan luôn gùi. Tre được vót thành nan có bản rộng 1cm, vót mỏng

để lại cật tre, chiều dài của nan tính bằng chiều cao của gùi. Đầu tiên đan đáy

trước, rồi đan lên đến phần thân gùi theo kiểu đan lóng mốt, lúc đan từ đáy lên

đan 1 lượt thưa. Sau đó gập nân xuống đan từ miệng xuống, gài nan tre hết lỗ

hổng cho gùi kín. Tất cả các phần thừa của nan gập vào đáy tạo cho cả 2 lớp, giữ

cho đáy gùi chắc chắn hơn. Gùi có 2 dây đeo, dây đeo làm bằng bẹ của cây móc

được tết chặt buộc vào thên gùi, dây móc vừa bền, vừa mềm làm cho người sử

dụng không bị đau vai. Khi lên nương gùi dùng đựng thức ăn, cuốc, dao, hoặc

vận chuyển giống, phân bón, khi về đưa cuốc dao về, đựng thêm rau, củ lấy từ

rừng. Vào mùa thu hoạch gùi đựng ngô, thóc, sắn, đậu… đưa về nhà. Ở nhà gùi

để đựng lương thực, thực phẩm, gùi đựng quần áo. Nói chung Gùi được sử dụng

đa dạng phong phú, đi lại dễ dàng.

2.4.1.5. Các loại cây trồng chủ yếu

58

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

a) Ngô: Ngô được canh tác theo kĩ thuật thổ canh hốc đá - Canh tác trên

vùng đất xen lẫn đá, thường dùng đá xếp quanh đất để che chắn, chống xói mòn,

rửa trôi đất, nhiều hốc đá tự nhiên được người dân gùi đất đổ vào và trở thành

hốc canh tác. Nhờ sáng tạo ra hình thức thổ canh hốc đá và kĩ thuật trồng ngô

trên nương đá, kĩ thuật xen canh các loại cây hoa màu, mà bà con nơi đây thích

nghi được với điều kiện tự nhiên đặc biệt để ổn định cuộc sống. Canh tác trên

nương rẫy hốc đá là kiểu canh tác bằng cuốc, hạt được gieo trong hốc đá cùng

với phân. Với công cụ canh tác chủ yếu đó là cuốc bướm. Người Mông ở Mèo

Vạc chủ yếu vẫn trồng những giống ngô địa phương. Loại ngô vàng thường được

trồng nhiều đặc biệt là ngô “đá”, giống địa phương với hạt tròn, có khả năng chịu

hạn và chịu rét tốt, và thời gian trồng là 6 đến 7 tháng. Sau khi làm đất, bà con

dùng phân chuồng đã được ủ kĩ bón cho đất. Ngô giống được ngâm nước khoảng

2 - 3 ngày, để khi trồng hạt giống nhanh nảy mầm, tránh được sự phá hoại của

sâu bọ, chuột khi bị vùi lâu dưới mặt đất. Khi tra hạt, người Mông kiêng tra vào

ngày con rắn và con rồng, vì với họ, đây là những ngày xấu, nếu tra hạt vào ngày

này thì năng xuất sẽ không cao.

Việc tra hạt được tiến hành từ nương thấp đến nương cao, hốc đá phải tra

hạt riêng lẻ sẽ làm sau cùng. Thông thường, công đoạn tra hạt được làm theo

nhóm 4 người: người đi đầu cuốc hốc, người tiếp theo tra hạt, người đi sau bỏ

phân và người cuối cùng lấp đất. Công việc cuốc hốc tốn nhiều công sức hơn nên

nam giới thường đảm nhiệm. Những công đoạn sau thường dành cho phụ nữ,

người già và trẻ con. Về cách trồng, mỗi hốc thường tra từ 4 - 5 hạt để phòng sâu

bọ làm hỏng, khoảng cách giữa các hốc ngô thường từ 50 - 60cm. Đối với những

chỗ nhiều đá không thể san bằng được, đồng bào thường kè thành những hốc đá

kín, sau đó gùi thêm đất đổ vào đó, mỗi hốc thường chỉ trồng được 1 - 2 cây ngô.

Sau khi tra hạt xong ở nương thấp, đồng bào mới bắt đầu tra hạt trên những hốc

đá. Việc tra hạt trên hốc đá thường do một người làm. Sau 20 - 25 ngày, cây ngô

mọc cao khoảng 20 cm, họ bắt đầu tỉa bớt cây, chỉ để 2 đến 3 cây, hốc nào không

59

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

mọc đủ thì lại nhổ ở những hốc mọc nhiều dặm vào. Cây ngô mọc được hai đến

ba lá thì tiến hành làm cỏ và vun gốc lần đầu. Cây ngô đã cao chừng 1m là lúc

ngô chuẩn bị trổ hoa thụ phấn thì tiến hành làm cỏ, bổ sung phân bón và vun gốc

lần hai. Đây cũng là lần vun gốc cuối cùng. Đối với cây ngô trồng trong những

hốc đá, nếu thấy cỏ mọc nhiều thì có thể thêm một lần phát cỏ nữa.

Ngoài ra, cây ngô thường được trồng xen với một số loại cây khác, như

rau dền, dưa chuột, bí, rau cải, bằng cách trộn lẫn hạt giống của những loại cây

này với phân ải để bón vào từng hốc ngô, khi ngô nảy mầm, các loại rau này

cũng mọc theo. Sau một hai tháng, ngô được vun gốc và làm cỏ cũng là lúc bắt

đầu thu hái nguồn rau về ăn.

Thời gian thu hoạch vào khoảng tháng 6 tháng 7 Âm lịch. Công việc đầu

tiên khi thu hoạch, người Mông chọn những bắp dài, có hạt to, mẩy đều để làm

giống cho vụ sau. Khi ngô chín, bắp ngô cụp xuống, lớp bẹ ngoài như một chiếc

áo che cho những chiếc áo che cho hạt ngô khỏi bị mưa ướt, sương gió, côn

trùng. Người Mông cứ để ngô trên nương phơi khi nào cày thì ra bẻ mang về.

Đây là một hình thức bảo quản tự nhiên. Khi bẻ để mang về đồng bào cho lên

ngựa hoặc gùi về nhà phơi 3 đến 4 nắng rồi xếp lên gác bếp. Sau khi thu hoạch,

thân cây ngô được dùng làm giá leo cho cây đậu, các cây này giúp khôi phục

lại độ phì của đất.

b) Đậu tương và tam giác mạch

Do việc canh tác thổ canh trên nương phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện

tự nhiên nên thường chỉ trồng được một vụ ngô chính. Sau khi thu hoạch ngô

xong, đồng bào tận dụng đất để trồng thêm một số loại cây lương thực, hoa màu

khác. Ngoài ngô thì sản phẩm từ nương thổ canh hốc đá còn có đậu tương. Đây

là loại cây trồng nguồn gốc nhiệt đới và á nhiệt đới, có khả năng trồng trên

nhiều loại đất khác nhau, ở nhiều vụ trong năm, là cây trồng tốt nhất trong việc

luân canh, xen canh, gối vụ với nhiều loại cây trồng khác nhau; cây đậu tương

60

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

còn mang lại rất nhiều lợi ích khác như làm tăng độ phì nhiêu cho đất, chống

xói mòn đất.

Thời gian sinh trưởng của cây đậu tương ngắn ngày tùy thuộc vào từng

giống cây. Đối với giống ngăn ngày là 67 - 70 ngày. Với giống dài ngày là khoảng

120 ngày. Cây đậu tương có ưu điểm là dễ trồng, tốn ít phân bón và công chăm

sóc. Theo kinh nghiệm của người Mông ở Mèo Vạc, đậu tương có thể trồng trên

nương, xen canh gối vụ nhưng không ảnh hưởng đến năng suất cây trồng khác.

Đậu tương được trồng luân canh theo phương thức: Đậu tương xuân - ngô xuân

hè - đậu tương hè thu đối với những xã núi đá, vùng trồng ngô; đậu tương xuân

- lúa hè thu - rau màu vụ đông ở những xã núi đá, vùng có diện tích lúa 1 vụ.

Nhưng chủ yếu là vào hai vụ đó là vụ xuân và hè thu. Người ta thường trồng lẫn

với ngô, mỗi hốc cách nhau 15cm đến 20cm, mỗi hốc có 3 đến 4 cây. Sau khi

thu hoạch ngô được khoảng gần một tháng thì người ta tiến hành thu hoạch đậu

tương. Hiện nay, Mèo Vạc đã chọn đậu tương là cây mũi nhọn, có thế mạnh để

chuyển đổi cơ cấu cây trồng và có chính sách mở rộng gieo trồng từ 1 lên 2

vụ/năm với các giống mới.

Ngoài ra, tam giác mạch cũng là một loại cây trồng rất phổ biến. Tam giác

mạch có chu kỳ sinh trưởng ngắn, không mất nhiều công chăm sóc. Đồng bào

thường trồng loại cây này sau khi thu hoạch ngô hoặc ở những khu vực đất quá

xấu mà ngô và các loại cây trồng khác kém phát triển. Trước kia, khi điều kiện

sống khó khăn, tam giác mạch thường là nguồn lương thực chính trong mùa giáp

hạt. Tam giác mạch nở hoa khoảng tháng 10, tháng 11. Không chỉ mang vẻ đẹp

huyền bí, hạt hoa Tam giác mạch còn cho giá trị kinh tế như làm bánh, nấu rượu.

Tam giác mạch được chế biến thành mèn mén như món mèn mén làm từ ngô.

Hiện nay, đa phần đồng bào trồng loại này để nuôi gia súc, gia cầm. Khi thu

hoạch, đồng bào dùng liềm cắt sát gốc, đập hạt vào thùng gỗ ngay tại nương.

Thân cây để khô và đốt làm phân bón tại chỗ.

c) Cây lanh

61

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Đến với Mèo Vạc, chúng ta vẫn dễ dàng bắt gặp những người phụ nữ

Mông lưng đeo quẩy tấu, chân đạp đá núi nhưng đôi tay chai sần vẫn miệt mài

với công việc nối, cuộn sợi lanh. Với người Mông ở Mèo Vạc, vải lanh không

chỉ đơn thuần chứa đựng tính thẩm mỹ mà nó còn chứa đựng về quan niệm tâm

linh riêng biệt. Bởi người Mông vẫn luôn nhớ rằng “chỉ có mặc vải lanh mới

không lạc tổ tiên”. Cây lanh chiếm một vị trí quan trọng trong cả đời sống thường

nhật cũng như đời sống tinh thần của đồng bào Mông nơi đây.

Cây lanh được trồng trên nương ven chân núi, hay các thung lũng nhỏ cạnh

nhà để tiện chăm sóc. Lanh được trồng vào tháng 3, khoảng75 - 80 ngày là thu

hoạch được, nếu để quá, sợi lanh sẽ khó se và dễ đứt. Theo như đồng bào cho biết,

trồng lanh phải phải làm cho đất tơi xốp. Trước khi gieo người ta cho hạt giống

vào cối giã nhẹ làm vỡ vỏ cứng, trộn lẫn với tro bếp và phân chuồng cho cây phát

triển tốt. Mật độ gieo lanh vừa phải, nếu quá dày cây nhỏ sẽ ít sợi, gieo thưa cây

có cành, vỏ dày khó tước. Sau khi hạt lanh được gieo trồng đến độ thu hoạch được

cắt thành từng bó rồi đem phơi. Bó lanh được phơi nắng khoảng 1 đến 2 tuần là

vừa đủ. Đặc biệt, để làm cho sợi lanh được dai, mềm, người phụ nữ Mông lại phải

mang bó lanh ra phơi sương nhiều ngày. Sau đó, vỏ cây lanh được tước ra thành

từng sợi nhỏ. Sợi lanh được dùng để dệt nên những tấm vải lớn để may thành trang

phục, hoặc làm các vật dụng khác trong gia đình.

d) Các loại cây dược liệu

Trên địa bàn huyện Mèo Vạc, người Mông từ lâu đã trồng và bán nhiều

loại cây dược liệu khác nhau như Thảo quả, Hương thảo, Đỗ trọng, Đương quy,

- Tam thất: Tam thất là một loại cây dược liệu quý khó trồng bởi nó đòi

Gừng, Nghệ,… Điển hình nhất đó là Tam thất và đỗ trọng.

hỏi các điều kiện sinh sống trong môi trường rất khắt khe, nơi có khí hậu mát

lạnh quanh năm như ở Mèo Vạc thì đây đúng là một nơi phát triển tốt nhất cho

sự sinh trưởng và phát triển của giống cây được mệnh danh “kim bất hoán” này.

Nhờ vào điều kiện khí hậu thuận lợi để phát triển mà cây Tam thất đã được người

62

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

dân đưa về đây từ rất sớm từ những năm 1970. Tam thất là cây thân nhỏ, sống

lâu năm. Cây cao khoảng 30 - 60 cm, thân mọc đứng, vỏ cây không có lông, có

rãnh dọc, lá mọc vòng 3 - 4 lá một. Lá kép kiểu bàn tay xòe. Cuống lá dài 3 - 6

cm, mỗi cuống lá mang từ 3 đến 7 lá chét hình mác dài. Các gân lá mọc nhiều

lông cứng, màu trắng, mặt lá màu xanh sẫm, mặt dưới màu nhạt hơn, mép lá có

răng cưa nhỏ. Cây mọc một năm chỉ ra một lá kép, cây 2 tuổi trở lên thì có 2 - 6

lá kép mọc vòng xung quanh ngọn cây. Cây có hoa khoảng tháng 6 tháng 7 dương

lịch. Hoa tự hình tán mọc đầu ngọn cây, gồm nhiều hoa đơn. Cuống hoa trơn

bóng không có lông. Quả chín vào khoảng tháng 10, tháng 11 dương lịch. Quả

mọng lúc chín màu đỏ. Mỗi quả có từ 1 - 3 hạt hình cầu, vỏ trắng. Cây có một rễ

chính phình thành củ và có những rễ phụ. Trên mặt củ có nhiều vết sẹo do thân

củ để lại sau mỗi mùa đông. Cây chỉ có một thân mang một chùm lá cố định,

sống qua suốt năm và từ tháng 12 đến tháng 1 tàn lụi, sau đó cây lại mọc ra thân

mới. Tam thất trồng từ 3 đến 7 năm mới thu hoạch rễ củ để làm thuốc. Khi thu

hoạch người ta tiến hành đào rễ củ về, rửa sạch đất cát, cắt tỉa rễ con, phơi hay

sấy đến gần khô, lăn xoa nhiều lần cho khô. Hiện nay cây tam thất đang được

trồng với số lượng lớn. Đây Không chỉ là một loại dược liệu quý mà còn có giá

trị kinh tế cao có tiềm năng khi chỉ từ năm thứ ba nuôi trồng mà cây đã cho thu

hoạch củ, hạt còn làm giống, hoa có thể bán nên lượng tiêu thụ trên thị trường

không nhỏ với mức giá trên thị trường hiện nay khoảng 2,5 triệu đồng đến 3,5

triệu đồng/kg trở thành một loại cây góp công lớn trong việc xóa đói giảm nghèo

cho đồng bào nơi đây. Đã từng có thời gian cây Tam thất tại đây dần bị mai một

do nhiều nguyên nhân khiến cho diện tích bị thu hẹp đến gần như không còn.

Tuy nhiên do nhận thấy giá trị kinh tế tiềm tăng và những công dụng không thể

thiếu trong Y học nên hiện nay loại cây trồng này đang được nâng cao về diện

tích và sản lượng.

- Đỗ trọng: là cây đa tác dụng, vừa là cây dược liệu vừa là cây lâm nghiệp

những năm trước đây đã được tỉnh khuyến khích trồng trên địa bàn huyện, nhưng

63

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

do thị trường hiện tại ít tiêu thụ nên người dân không mở rộng diện tích, không

những thế những diện tích còn lại cũng phân tán nhỏ lẻ tại các gia đình.

e) Các loại cây ăn quả

Với đặc điểm địa hình khí hậu mang sắc thái ôn đới và chia làm 2 mùa:

mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10) và mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 4). Đây

là một trong những điều kiện thích hợp cho việc trồng một số loại cây ăn quả

như đào, mận, lê… Lê là một trong những loại cây ăn quả được trồng nhiều ở

vùng này. Lê vùng cao có vị chua nhè nhẹ cùng vị chát thanh thanh tạo cho loại

quả này một hương vị đặc biệt. Lê ở vùng cao có 2 loại: Loại quả tròn hoặc tròn

dẹt có vỏ màu vàng xanh và loại quả có màu nâu mà đồng bào gọi là quả Mắc

coọc. Mắc coọc là loại quả có vị chát, vỏ màu nâu và thô ráp. Ngày nay cùng với

sự hiện đại và phát triển của khoa học, các nhà khoa học đã nghiên cứu và nhân

rộng mô hình trồng cây lê Đài Loan trên khu vực huyện vùng cao này. Đây là

loại quả hình tròn dẹt, vỏ màu vàng nhạt, mịn và mỏng. Lê vùng cao được trồng

nhiều và thích hợp với khí hậu và thổ nhưỡng của núi đá. Vào tháng 3 - 4 cây lê

ra hoa. Hoa của chúng thường màu trắng, có 5 cánh, khi nở cánh hoa bung nở

trắng muốt, nhụy hoa thường có màu phớt hồng. Đến tháng 9, 10 quả lê chín, khi

chín vỏ thường màu vàng nhạt hoặc nâu sậm. Vào mỗi phiên chợ đồng bào lại

mang ra xuống chợ để bán.

Ngoài ra, ở Mèo Vạc còn có cây Chè Shan tuyết. Đây là dòng chè xứ lạnh

chỉ có vùng núi cao. Ở vùng này, do có điều kiện tự nhiên và sinh thái phù hợp

nên giống chè Shan đã được người dân địa phương trồng từ hàng trăm năm nay

theo phương thức hoang dã và phân tán. Chè Shan tuyết thường là những cây chè

cổ thụ, rất to có tuổi đời vài chục năm hay đến hàng trăm năm, mọc ở sâu trong

rừng. Cây chè có đặc điểm lá to, búp và lá non có nhiều lông trắng như tuyết,

sinh trưởng khoẻ, chịu ẩm, chịu lạnh, năng suất và chất lượng tốt. Đồng bào

thường thu hái chè Shan tuyết cổ thụ vào đầu tháng 4 là lứa chè đầu vụ; tiếp tục

thu hái vụ chè thứ 2 vào tháng 5 và tháng 6; vụ thứ 3 vào tháng 8; vụ thứ 4 vào

64

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tháng 10, tháng 11. Trên địa bàn huyện Mèo Vạc cây chè tập trung chủ yếu ở xã

Tát Ngà và xã Sủng Trà.

2.4.1.6. Thu hoạch, bảo quản và trao đổi hàng hóa

* Thu hoạch ngô: Thu hoạch và cất trữ là khâu cuối cùng của chu kỳ

sản xuất. Việc thu hoạch của đồng bào thường diễn ra vào tháng 6, tháng 7,

có khi kéo dài đến tháng 8 và tháng 9 Âm lịch, tùy vào từng loại cây trồng.

Trước tiên, bà con thu hoạch các loại đậu, bí, rồi mới đến thu hoạch ngô. Ngô

trồng ở vùng cao đa phần là giống địa phương, có thời gian sinh trưởng kéo

dài 6 - 7 tháng. Theo đồng bào, loại ngô này chịu hạn và chịu rét tốt, phù hợp

với khí hậu nơi đây.

Mặt khác, việc bảo quản loại ngô này khá đơn giản, ít bị mọt và ăn ngon

hơn ngô lai, tuy nhiên, năng suất không cao. Sau khi thấy râu ngô đã héo, vỏ ngô

chuyển sang màu vàng, người ta bắt đầu tiến hành thu hoạch. Công việc đầu tiên

của vụ thu hoạch là chọn ngô để giống cho vụ sau. Đồng bào thường chọn ngô

giống ngay tại nương, thu hoạch riêng, đem về treo trên gác bếp. Người ta tránh

không thu hoạch vào các ngày 11 - 15 âm lịch, người Mông cho rằng vào ngày

có trăng tròn sâu ngô sẽ đẻ trứng sau 2 ngày 1 đêm trứng sẽ nở. Vì vậy, trứng nở

thành con trong quá trình thu hoạch sẽ bị rơi, rụng, chết trong quá trình bẻ và vận

chuyển về nhà. Sau khi đã thu hoạch ngô giống, các gia đình thường dàn hàng

ngang, đi từ chân nương ngô lên tới đỉnh, dùng tay bẻ bắp cho vào quẩy tấu, đem

về bóc bớt vỏ, phơi 3 - 4 nắng rồi phân loại và xếp trên gác. Loại tốt dùng để ăn

và nấu rượu ngô, loại xấu cho gia súc, gia cầm. Loại ngô nào không để được lâu

thì dùng trước.

* Thu hoạch lúa: Công việc đầu tiên là chọn được hạt giống chất lượng nhất

và bảo quản thật tốt. Người Mông sẽ đợi sau 2 ngày thời tiết nắng dịu để lúa khô

tại ruộng rồi mới thu hoạch cắt cả bông đem về. Nếu lúa còn ướt, sẽ tiếp tục phơi

nắng rồi mới cất bằng cách người ta bó các bông lúa thành từng bó nhỏ (gọi là

cum) rồi treo trên xà nhà, ở những nơi khô thoáng để tránh cho thóc giống bị ẩm

65

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

mốc hoặc ở nơi bếp lửa có hơi bếp lửa, tạo ấm để khô hạt thóc, không bị ẩm. Như

thế người ta kiểm soát được mọt, đảm bảo độ khô nhất định.

* Thu hoạch hoa màu:Do việc canh tác thổ canh trên nương phụ thuộc rất

nhiều vào điều kiện tự nhiên nên thường chỉ trồng được một vụ ngô chính. Sau

khi thu hoạch ngô xong, đồng bào tận dụng đất để trồng thêm một số loại cây

lương thực, hoa màu khác. Ngoài ngô thì sản phẩm từ nương thổ canh hốc đá

còn có tam giác mạch. Đây là một loại cây trồng rất phổ biến. Tam giác mạch có

chu kỳ sinh trưởng ngắn, không mất nhiều công chăm sóc. Đồng bào thường

trồng loại cây này sau khi thu hoạch ngô hoặc ở những khu vực đất quá xấu mà

ngô và các loại cây trồng khác kém phát triển. Trước kia, khi điều kiện sống khó

khăn, tam giác mạch thường là nguồn lương thực chính trong mùa giáp hạt. Tam

giác mạch cũng được chế biến thành mèn mén như món mèn mén làm từ ngô.

Hiện nay, đa phần đồng bào trồng loại này để nuôi gia súc, gia cầm. Khi thu

hoạch, đồng bào dùng liềm cắt sát gốc, đập hạt vào thùng gỗ ngay tại nương.

Thân cây để khô và đốt làm phân bón tại chỗ. Ngoài ra, người ta còn thu hoạch

đậu tương, đậu Hà Lan, đậu răng ngựa, bí, ớt, dưa chuột, rau cải. Các loại cây

này được trồng xen canh với các loại cây lương thực khác. Rau cải khi được 15

- 20 cm người ta có thể ngắt về để nấu canh, hoặc khi nó ra hoa người ta cắt

ngồng về luộc và ướp muối rồi phơi khô để dự trữ ăn dần. Cây bí là loại cây có

thể ăn được ngọn và quả, khi cây bắt đầu đua ngọn người ta cắt ngọn về ăn, quả

bí non được dùng nấu canh, quả bí già cho vào gùi mang về đặt ở góc nhà để ăn

dần. Với cây đậu tương, đậu Hà Lan, đậu răng ngựa khi còn non người ta có thể

ngắt về ăn, khi già họ nhổ về bộc từng bó nhỏ và treo trước ở hiên nhà hoặc bếp

để chế biến thức ăn lâu dài.

* Trao đổi hàng hóa

Trao đổi hàng hóa là nhu cầu tất yếu của cuộc sống. Người Mông ở Mèo

Vạc từ lâu đã hình thành các chợ phiên khá sầm uất. Chợ chỉ được mở vào một

ngày duy nhất là chủ nhật hàng tuần nên đã thu hút được rất đông người đến đây.

66

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Thế nên, cứ chủ nhật của tuần tới là người dân khắp nơi của huyện Mèo Vạc kéo

về đây mang theo những sản vật để trao đổi, để mang đi bán. Người Mông thường

bán ngô, thóc, lợn, gà, rau củ, các thực phẩm khác như dưa chuột, ớt, quả bí...và

các sản phẩm của nghề thủ công như cuốc, dao, rìu. Ngoài ra, còn có vải vóc,

quần áo. Những mảnh vải do chính tay người dân tộc tự dệt bằng nguyên liệu tự

nhiên, rồi may thành những bộ quần áo đẹp. Rất nhiều mặt hàng phục vụ nhu cầu

sống hằng ngày của người dân nơi đây. Người bán sẽ ngồi vào từng khu, tập

trung một mặt hàng để người mua dễ tìm đến và lựa chọn được sản phẩm muốn

mua. Họ mua những loại hóa thiết yếu như muối, dầu hỏa, chỉ thêu, nồi, bát, đồ

trang sức,... Người Mông đến chợ phiên không chỉ đê mua bán, trao đổi hàng hóa

mà cồn để gặp gỡ nhau, thăm hỏi họ hàng, bạn bè. Không ít những người đến

chợ chẳng để mua bán gì mà chỉ để gặp gỡ bạn bè, người thân cùng nhau ăn bát

“thắng cố”, uống bát rượu làm vui sau một tuần lao động vất vả. Nét độc đáo, cứ

phiên chợ Mèo Vạc tới là những gia đình người Mông tất cả thành viên đều

xuống chợ bán hàng, sau khi hàng hoá bán xong, họ cùng ngồi ăn uống no say

mới về. Với đặc thù của huyện miền núi, chợ nông thôn không chỉ là nơi diễn ra

các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá mà còn phản ánh nét văn hoá mang

đậm bản sắc dân tộc của người dân. Hiện nay huyện Mèo vạc có 9 chợ, trong đó

có 7 chợ duy trì hoạt động thường xuyên, hiệu quả. Như chợ Niêm Sơn, Sơn Vĩ,

Khâu vai…Tạo điều kiện thuận lợ cho người dân trao đổi, mua bán hàng hóa

thuận tiện và đẩy mạnh hoạt động trao đổi hàng hóa ở cư dân biên giới. Trong

phiên chợ của người Mông ở Mèo Vạc không thể thiếu mốn đặc sản đó là rượu

ngô. Đây là một loại rượu do đồng bào Mông tự cất bằng phương pháp thủ công,

có hẳn một khu dành riêng cho việc mua bán rượu ngô. Đàn ông hay đàn bà cũng

đi nếm thử món rượu này.

Bên cạnh đó, khu gian hàng ăn uống là nơi được xem như ấm cúng nhất ở

chợ. Nơi này, người ta bán những món ăn phổ biến từ miền xuôi như phở, mì,

67

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

miến với bò, gà… Đặc biệt, “ thắng cố” là món đặc trưng, không thể thiếu ở bất

kì phiên chợ vùng cao nào. Đàn ông, phụ nữ người Mông ngồi quây với nhau,

ăn thắng cố, uống rượu ngô cay nồng, rít điếu thuốc lào hay thuốc rê, trò chuyện

rộn rã. Đó là cái thú mà họ phải chờ đợi sau cả thuần lao động cực nhọc. Tiếng

cười, tiếng nói, lời hát của họ hòa vào tiếng đàn môi, khèn bè lảnh lót, toát lên

chất nghệ sĩ dân dã, tâm hồn sảng khoái, quên đi cái khó, cái nghèo vẫn còn quẩn

quanh đâu đó ở vùng cao nguyên đá thiếu thốn này. Sau mỗi phiên chợ vùng cao,

người Mông nơi đây lại tạm chia tay với những cuộc hẹn hò người thân, bạn bè

và công việc mua bán và trở về bản làng trên những triền núi cao. Khi đó, ngựa

vẫn là người bạn trung thành giúp họ vượt qua những chặng đường xa xôi, hiểm

trở.

2.4.1.7. Tín ngưỡng dân gian trong trồng trọt

Cuộc sống của đồng bào Mông gắn liền với hai cây lương thực hàng đầu

đó là cây ngô và cây lúa. Do đó, dân tộc Mông quan niệm: Mùng Một Tết

Nguyên Đán, làm khách vào nhà phải uống rượu, ngày hôm đó không được ăn

rau xanh, không quét nhà, không đỏ nước vào bếp, chảo nấu cám lợn và phải

đun cho chảo khô. Vì người ta cho rằng, đổ nước vào chảo sợ mưa nắng không

thuận lợi cho trồng trọt; nam nữ ai búi tóc phải tháo ra đội khăn, sợ năm đó sâu

cuốn lá; bữa ăn hôm đó không chan canh vì sợ năm đó mưa nhiều hại lúa, hại

ngô; không khâu vá vì sợ sâu hại lúa; không ngủ ngày vì sợ lúa đổ. Vốn tin vào

vạn vật hữu linh, người Mông cũng tin có hồn lúa (plỉ cống), hồn cây ngô (plỉ

hông) nên khi tra ngô, lúa đầu vụ cũng phải làm lễ gọi hồn cây lúa, cây ngô

thức dậy.

Các nghi lễ liên quan đến trồng trọt phổ biến nhất là nghi lễ cúng nương

vào dịp mùng Ba tháng Ba và cúng ngô mới vào tháng năm Âm lịch.

Lễ cúng nương là để cầu thần nương (Sì tề) gọi hồn lúa, hồn ngô cho vụ

gieo trồng may mắn. Lễ vật chuẩn bị gồm: một con gà đã luộc, rượu và cây tiền

giấy (cắt giấy thành hình đồng tiền và đính vào một cành cây). Toàn bộ lễ vật để 68

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

lên một mảnh lá cây rừng, rót rượu vào một ống tre nhỏ. Chủ nhà khấn: Cầu những

thung lũng, đồi cao, đồi thấp, tôi là... có rượu có gà cùng nhau đến ăn, xem xét để

không có sâu bệnh, không có hạn hán, luôn được mùa màng. Khấn xong ông hất

rượu vè phía trước, còn gà được mọi người cùng nhau ăn hết tại nương. Sau khi

cúng xong, chủ nhà cầm nhát cuốc đầu tiên bổ xuống đất. Từ lúc này, người nhà

có thể tiến hành làm đất chuẩn bị cho một mùa vụ mới. Khi tra ngô, tra lúa người

Mông còn có tục lệ đó là chủ nhà khấn: tao trồng mày xuống đất, mày mọc cho

nhanh để tranh kịp với con sóc, con chuột, con chim. Khi cấy hay trồng một loại

cây gì đó, phải kiêng tránh trùng với ngày mất của bố mẹ.

Lễ cúng ngô mới (lài đe pa củ xiêng): nghi lễ này khá đơn giản. Khi ngô

chuẩn bị ra chín, người già nhất trong nhà ra nương bẻ một ít ngô non luộc lên

cúng tổ tiên để tỏ lòng biết ơn đã phù hộ cho mùa màng và cầu mong một vụ

mùa tươi tốt hơn.

Ngoài ra, để bảo vệ cho cây trồng, người Mông còn có tập quán là làm bù

nhìn, cắm cờ giấy, hay là làm mõ tự động lợi dụng sức gió phát ra tiếng kêu để

đuổi thú và chim chóc.

2.4.2. Trong hoạt động chăn nuôi

2.4.2.1. Chọn giống vật nuôi

* Trâu, bò: Từ lâu, người dân tộc Mông đã có truyền thống chăn nuôi bò.

Họ quý trọng con bò, coi như một tài sản lớn của gia đình, bởi nó mang lại nhiều

giá trị kinh tế. Mỗi gia đình người Mông trung bình có 2 con bò. Giống bò của

người Mông nuôi dễ thuần thục, chịu được khắc nghiệt thời tiết đặc biệt là giá

rét, dịch bệnh, chịu kham khổ, rất phù hợp với điều kiện sống ở các vùng cao,

núi đá, khả năng sản xuất cao, thể trạng khỏe, giỏi cày kéo, chất lượng thịt ngon,

sản lượng thịt cao, tầm vóc khá lớn, thích nghi tốt, mắn đẻ.

Theo kinh nghiệm của đồng bào Mông trong việc chọn giống bò, người ta

chọn những con tai to, lưng hơi võng, mông dài, chân cao, thẳng, đỉnh trán có u

69

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

gồ hoặc phẳng, vai có u gồ lên, là giống bò có sức vóc sản xuất tốt, thịt ăn mềm

ngon. Giống bò đực có thế lên tới 400-600 kg, bò cái có bầu vú to, mắn đẻ.

Người Mông quan niệm, một con trâu khỏe là con trâu có đuôi to, chân

to vững chãi, các móng phải khít, mồn rộng, hai sừng cong đều. Với con trâu nái

thì ngoài các tiêu chí trên thì mông phải to. Một con trâu có đủ các tiêu chí trên

sẽ có sức cày kéo tốt. Người ta không phân biệt bò giống hay bò kéo, miễn là

con vật phải ngoan và dễ thuần phục để cày trên địa hình hiểm trở nhiều đá.

Người Mông ở Mèo Vạc chủ yếu là nuôi bò vì nó có khả năng thích nghi với

điều kiện khắc nghiệt, ăn ít hơn trâu nên dễ chăn thả.

* Lợn: Người Mông nuôi chủ yếu là lợn cắp nách. Đây là vật nuôi truyền

thống, bắt nguồn từ thói quen chăn nuôi lạc hậu của đồng bào vùng cao. Lợn cắp

nách là giống lợn được lai giữa lợn rừng và lợn Mường. Chúng có sức chịu đựng

rất giỏi, lợn con mới đẻ đã có thể chạy nhảy và tự kiếm ăn ngay được, chúng chỉ

theo bố mẹ vài ngày rồi tách ra. Điều đặc biệt là loài lợn này tuy tự kiếm sống ở

trong rừng, song chúng không bao giờ đi xa, chỉ quanh quẩn trong một khu vực

nhất định. Chúng thuộc giống lợn ri lợn nhỏ, chỉ chừng chục kg, được người dân

nuôi theo kiểu thả rông và thường được người dân tộc Mông vùng cao

cắp nách đem bán trong các phiên chợ vùng cao. Lợn cắp nách được đặc trưng

bởi ngoại hình còi cọc, kích cở nhỏ bé, có thể cắp vào nách. Kích cở của chúng

dao động từ 4 kg đến dưới 25 kg. Đặc điểm dễ nhận thấy, lợn của người Mông

có mõm nhọn, chân bé, cao, tai dài, thân hình thon và lông cứng. Đồng bào rất

coi trọng việc chọn lợn lái. Một con lợn để làm giống chân phải to và cao, mõm

ngắn, tai to, đuôi bé. Còn đối với lợn nuôi để thịt hoặc đen ra chợ bán thì phải là

những con mõm nhọn, chân bé, ăn nhanh thì nuôi sẽ nhanh lớn và cho thịt chắc.

* Ngựa: Ngựa có vai trò quan trọng đối với văn hóa và đời sống của đồng

bào các dân tộc miền núi phía Bắc nói chung và dân tộc Mông huyện Mèo Vạc

nói riêng. Ở nơi địa thế hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, nên từ lâu ngựa trở

70

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thành thân thiết với từng gia đình người Mông, là "đầu cơ nghiệp" của họ. Ngựa

của người Mông có đặc điểm là tầm vóc nhỏ, sinh sản kém, nhưng lại chịu đựng

kham khổ rất tốt, chúng ăn cả những loại cỏ khô ít chất dinh dưỡng, nên rất dễ

nuôi. Giống ngựa Mông rất "chịu thương chịu khó", thồ hàng tốt trên những đoạn

đường dốc, gập ghềnh, chịu đi qua suối, leo đèo, chịu đi bất kể thời tiết nào. Các

phiên chợ vùng cao và lễ hội văn hóa của đồng bào dân tộc Mông không thể thiếu

được bóng dáng của ngựa và món thắng cố đặc sản nấu từ thịt ngựa. Người Mông

không chỉ dùng ngựa làm phương tiện đi lại mà còn dùng để thồ hàng, chở phân,

tro, giống… lên nương. Đến mùa thu hoạch ngựa lại giúp đồng bào trở ngô, lúa

về nhà. Ngựa vùng Mèo Vạc có nhiều loại: ngựa thồ, ngựa đua, ngựa chiến. Người

có kinh nghiệm khi chọn ngựa phải xem kỹ tính nết, bởi ngựa cũng có con dữ, con

hiền, con biết nghe lời và có con bướng bỉnh.

Một chú ngựa chạy vài vòng quanh chân núi về mà không bị thở dốc mới

được xem là có sức khỏe tốt. Nếu là ngựa thồ tốt thì ngực phải nở, chân thẳng,

đứng vững, móng dày, mũi khô, mắt trong, bờm dựng. Một con ngựa như vậy có

thể thồ tới 300kg trên lưng, hoặc kéo cả tấn hàng lên dốc cũng vẫn không đổ mồ

hôi. Bên cạnh ngựa thồ, vùng núi đá tai mèo còn có loại ngựa đua rất quý: thân

dài, mông to, bụng thon, ức nở, đi nước kiệu rất nhanh trên đường bằng, leo núi

thiện nghệ, phi nhanh.

* Chó, dê, gà

Chó, dê, gà là những con vật được nuôi chủ yếu ở trong mỗi gia đình người

Mông. Trong đó, gà là con vật được nuôi nhiều hơn cả, mỗi gia đình có từ 30

đến 50 con. Người Mông chọn giống gà chân đen, xương đen để nuôi. Gà đen

hay còn gọi là gà thịt đen, xương đen, gà Mông, nó không chỉ là nguồn thực

phẩm mà còn là một loại thuốc quý của đồng bào dân tộc Mông nơi đây. Gà đen

của người Mông không phải là giống gà ác nhỏ con, thịt đen hay giống gà Tây

Hoa nhiều thịt của Trung Quốc. Đó là giống gà đen từ ngoài vào trong: lông đen,

71

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thịt đen, xương đen. Nó to khoảng tầm giống gà ri, khi trưởng thành chỉ nặng từ

1.2 - 1.6kg. Thân hình gà thon nhỏ, chân cao, bay nhảy rất tốt. Do sống thả rông,

hoang rã, loài gà này rất dữ, rất hay đánh nhau. Thịt gà Mông không tanh do

lượng sắt trong thịt rất thấp.

Người Mông thường nuôi chó để canh giữ nhà. Đó là giống chó “cộc”.

Theo quan niệm của đồng bào Hmông, bếp là nơi quan trọng nhất, nơi giữ lửa,

giữ ấm cho mọi người trong gia đình. Nó linh thiêng như gian bàn thờ của người

Kinh. Với người H'mông, các vật dụng lao động dựng trong bếp chính là những

“vị thần” đã giúp họ làm ra của cải, nuôi sống họ từ đời này qua đời khác. Chúng

được coi là thần giữ của của gia đình họ. Còn những con chạy loăng quăng ngoài

sân, hàng rào là những con chó loại. Một con chó thuần chủng trưởng thành có

nhiều điểm đặc biệt, gần như không có đuôi, nếu có thì cũng rất ngắn. Nanh của

loài chó này thường có từ 6 đến 8 cạnh khác nhau. Tai có hình tam giác luôn

dựng đứng, kiểu nằm hai chân sau luôn trong tư thế sẵn sàng tấn công. Tầm vóc

của loài chó này trung bình nhưng toàn thân đậm chắc, khung xương rộng, đầu

to, thể hình hơi góc cạnh, thiếu các nét thanh tú và mềm mại nhưng luôn bộc lộ

các đặc điểm về thể lực rất tốt cũng như khả năng chịu đựng các điều kiện thời

tiết khắc nghiệt. Người Mông có cách lựa chọn rất độc đáo: khi chó mẹ đẻ đàn

con ra, đợi ít ngày sau chó đã cứng cáp, gia chủ sẽ đốt một đống lửa to chặn lối

ra của đàn chó con và chó mẹ. Lúc này, chó mẹ sẽ rối lên, bắt buộc phải chọn

một con ưu tú nhất để thoát ra ngoài. Theo quan niệm của người Mông thì chú

chó được mẹ cứu ấy sẽ là chú chó trừ tà, sẽ đem lại nhiều may mắn, bảo vệ được

cả gia đình.

Hầu hết, gia đình người Mông nào cũng có một vài con dê để cải thiện bữa

ăn và bán đi mua vật dụng trong nhà. Người Mông nuôi loại dê chủ yếu là dê cỏ.

Dê có màu lông vàng nâu hay loang đen, loang trắng. Loại này chỉ nặng chừng

30-35 kg/con. Chúng chỉ cần 6-7 tháng tuổi là đã có thể phối giống, khoảng 2

năm đẻ 3 lứa, mỗi lứa 1-3 con. Dê cỏ rất dễ nuôi, ăn tạp, thịt của chúng lại ngon,

có thể chăn thả hoặc nuôi nhốt trong chuồng, chúng ít bệnh tật mà lại mắn đẻ nên

72

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

đàn dê tăng rất nhanh. Theo như đồng bào cho biết, nuôi dê từ khi mới sinh cho

đến lúc bán thịt là 8 tháng, dê trọng lượng 30-35 kg/con, bán ra với giá 90.000-

100.000đồng/kg, mỗi năm thu nhập khoảng 30 triệu đồng/năm nhờ nuôi dê.

* Ong: Từ tháng 10 đến tháng 12 âm lịch là mùa "ăn ong" của người Mông

vùng cao. Đây cũng là mùa hoa bạc hà, mùa hoa tam giác mạch. Loài cây hiếm

hoi mọc trên triền đá, trong cái giá lạnh của mùa đông cao nguyên. Thu sang, trên

các triền núi của vùng cao Mèo Vạc (Hà Giang), cây bạc hà bắt đầu mọc, sang

tháng 10, tháng 11 âm lịch, cây bạc hà bắt đầu ra hoa. Hoa Bạc Hà trổ bông tím

ngắt trên khắp các sườn núi hương thơm quyến rũ dụ những đàn ong ở khắp nơi

tìm về lấy mật. Mật ong hoa Bạc Hà chỉ có riêng ở vùng Cao Nguyên đá mà không

nơi đâu có được, mật có mầu vàng ánh xanh, hương thơm nhè nhẹ, vị ngọt thanh,

sánh đặc. Mỗi gia đình người Mông, trải qua bao đời này đều để có một vài đàn

ong nhà nuôi lấy mật. Họ dùng để làm thuốc cho cuộc sống hàng ngày và làm

hương vị chế biến bánh vào các dịp lễ tết của bản làng.

Theo như đồng bào cho biết, một tổ ong thường cho họ thu hoạch từ 3- 5

lít mật. Nhưng nếu tổ ong thuộc loại to chúng có thể chứa tới 10 lít. Và để có

được 1kg mật quý giá ấy, trung bình những chú ong phải dày công đi hút mật

của hơn mười triệu bông hoa bạc hà giữa núi rừng lạnh giá. Có lẽ vì thế với người

dân Hà Giang những chú ong thợ giống như những người bạn tri ân của mình.

Hiện toàn huyện có gần 8.000 đàn ong, bình quân mỗi đàn cho 3 lít mật/năm, tập

trung nhiều ở các xã Giàng Chu Phìn, Thượng Phùng, Xín Cái, Pải Lủng, Sủng

Trà và thị trấn Mèo Vạc. Với giá bình quân từ 350.000 - 400.000 đồng/lít mật

nên nghề nuôi ong lấy mật đã mang lại thu nhập cao cho đồng bào nơi đây. Đặc

biệt, đồng bào Mông đã được trang bị kĩ thuật nuôi và lấy mật ong, biết cách

nhân đàn ong, biết quay mật ong bằng máy mà không phải cắt bánh tổ. Lượng

mật lấy được nhiều hơn, chất lượng mật tốt.

2.4.2.2. Nuôi dưỡng và bảo vệ

73

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Người Mông có truyền thống chăn nuôi rất giỏi. Chăn nuôi của người

Mông chủ yếu là từng hộ gia đình, mỗi nhà có vài ba con trâu, bò, ngựa, dê...

Chăn nuôi để phục vụ sản xuất nông nghiệp là chính, ngoài ra còn là nguồn thực

phẩm cung cấp cho các lễ hội, cúng bái. Trước đây, người ta thường thả trâu, bò

vào các thung lũng để tự kiếm ăn, đến chiều thì lùa về chuồng. Ngày nay, người

ta thường chăn thả trên những đám nương đã thu hoạch, nơi có cỏ mọc và thân

cây ngô. Ngoài ra, người ta còn trồng cỏ voi để cắt về cho trâu, bò ăn. Để có con

bò cày, kéo tốt, người Mông còn cho chúng ăn thêm bột ngô để lấy sức, đồng

thời kiên trì huấn luyện sao cho bò có thể cày, kéo được ở cả nương dốc có lẫn

đá. Người Mông làm chuồng bằng ván cao ráo, mái lợp cẩn thận để chống rét và

bệnh tật cho trâu, bò. Do làm nhà trên địa hình dốc nên người Mông thường làm

chuồng trâu, chuồng bò ở trước cửa nhà để trời mưa gió tránh phân chảy hoặc

bốc mùi vào nhà. Người Mông quan niệm làm chuồng trâu, chuồng bò trước cửa

thì con vật sẽ mau lớn.

Ngựa cũng là con vật rất được người Mông quí mến và chăm sóc cẩn thận.

Ngoài thả rông như trâu, bò người ta cũng cho ngựa ăn thêm tinh bột (ngô, đậu,

gạo...). Ngựa cũng được làm chuồng riêng.

Lợn là vật nuôi phổ biến trong gia đình người Mông. Gia đình nào trung

bình cũng có 5 đến 6 con, nhiều có tới vài chục con. Điều đặc biệt là nhà nào

cũng nuôi lợn nái để tự túc giống. Người ta cho lợn ăn chuối rừng, rau lang, rau

rừng nấu với bột ngô, hoặc trộn thêm bỗng rượu. Theo kinh nghiệm của người

Mông, bỗng rượu làm cho lợn mau lớn mà thịt vẫn thơm, tốt hơn so với cám tăng

trọng của người Kinh.

Khi thiếu lương thực, chó, gà, dê thường được thả rông tự tìm kiến thức

ăn gần nhà. Chiều tối những con vật đó tự tìm về nhà để ngủ. Chó có thể một

ngày được ăn một bữa. Gà thỉnh thoảng được quãi cho ít hạt ngô để ăn. Những

năm gần đây, đời sống của đồng bào khá hơn, người ta chăm sóc con vật bằng

ngô nên thịt của chúng rất chắc. Người Mông cũng làm chuồng cho dê, nhưng

74

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

không làm chuồng cho gà, mà tận dụng gác của chuông bò, đặt lên đó vài tấm

ván để cho chúng ngủ và trú mưa.

2.4.2.3. Sản phẩm và trao đổi hàng hóa

Trong lĩnh vực chăn nuôi của người Mông ở Mèo Vạc có quy mô nhỏ, vẫn

mang tính chất tự cung tự cấp, chưa trở thành hoạt động trao đổi hàng hóa có

tính quy mô. Người Mông ít khi mang trâu bò đi bán, chỉ ai có nhu cầu mua thì

đến nhà hỏi và trả giá hoặc khi nào gia đình có công việc lớn như làm nhà, dựng

vợ gả chồng cho con cháu thì đồng bào mới đem ra chợ bán. Trâu, bò chỉ được

mổ vào dịp lễ, tết, đám cưới, đám ma và chế biến thành món thắng cố ngon nổi

tiếng. Ngoài ra, người Mông còn làm thành món thịt trâu khô hun khói để ăn dần,

hoặc khi nào có khách mang ra đãi, cũng có khi đen ra bán vào dịp chợ phiên.

Người Mông ít khi mổ dê mang ra chợ bán, nhưng lại mổ lợn để bán vào ngày

chợ phiên với những con lợn to đã nuôi được một đến hai năm, còn lợn nhỏ người

ta cắp nách mang đi bán.

Trong các con vật nuôi của người Mông thì con gà được đem đi trao đổi

thường xuyên nhất. Bất cứ khi nào cần tiền người ta lại mang gà ra chợ bán. Gà của

người Mông rất được ưa chuộng. Gà được buộc chân và người chủ ôm trên tay

mang đi khắp chợ để bán. Người ta không bán nhiều mà chỉ bán một hai con để lấy

tiền mua những vật dụng cần thiết. Nhìn chung, hoạt động chăn nuôi gia súc, gia

cầm của người Mông ở Mèo Vạc còn chưa phát triển, hoạt động mua bán trao đổi

còn nhỏ lẻ chưa thoát khỏi vòng tự cung, tự cấp. Huyện có 3 chợ biên giới (Chợ

Xín Cái, Thượng Phùng và chợ Sơn Vĩ) và cặp cửa khẩu Săm Pun - Điền Bồng,

Lũng Làn- Pờ Tú thuận lợi cho giao lưu, trao đổi hàng hoá với nước bạn.

2.4.2.4. Tín ngưỡng dân gian trong chăn nuôi

Đối với người Mông, ma cửa có nhiệm vụ canh gác ngăn ma ác vào nhà,

bảo vệ gia súc, bảo vệ của cải, bảo vệ các hồn và không cho hồn các thành viên

gia đình bỏ đi. Người Mông quan niệm, khi nào súc vật chết vì bệnh tật, hoặc bị

hổ vồ là do ma cửa bị ngã. Cũng có khi người đàn bà có thai bước qua ngưỡng

cửa, ma cửa cũng bị ngã. Do đó, cần làm lễ nâng ma cửa dậy.

75

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Mục đích của nghi lễ này là cầu mong cho mọi người trong gia đình khỏe

mạnh, cầu mong cho đàn gia súc sinh sôi, nảy nở. Lễ cúng ma cửa được tiến hành

vào buổi tối và cửa nhà được đóng trong suốt quá trình đó. Lễ cúng gồm có một

con lợn. Con lợn được cúng phải được cắt một nhúm lông đuôi từ bé đặt lên phía

trên cửa ra vào. Sau khi giết lợn, thịt lợn được bày vào các bát đặt cạnh cửa chính

và chủ nhà bắt đầu thực hiện lễ cúng. Người phụ nữ không được tham gia nghi

lễ này. Ngoài thịt lợn còn bày thêm thịt gà hay thịt một số loại thú rừng khác như

sóc, nhím, hay thịt chó.

2.5. Đánh giá chung về kiến thức bản địa của người Mông ở huyện Mèo Vạc

Mèo Vạc một trong những huyện vùng cao, nơi có địa hình hiểm trở, khí hậu

khắc nghiệt, quanh năm bao phủ bởi sương mù và có nhiều dân tộc khác nhau cùng

sinh sống, trong đó đông nhất là dân tộc Mông. Từ xa xưa, người Mông có tập tục

du canh, du cư. Họ đốt rừng làm nương rẫy, sau vài năm đất bạc màu họ lại bỏ đến

nơi khác. Song hành cùng lịch sử hình thành vùng đất, trải qua bao nhiêu thăng trầm

dân tộc Mông vẫn kiên trì bám đất, gieo sự sống ngay trên những núi đá để tạo dựng

cuộc sống và làm nên một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Đất đai khan hiếm,

địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt dân tộc Mông sinh sống trên cao nguyên đá

dần hình thành và đúc kết nên những kinh nghiệm quý báu trong sinh hoạt và sản

xuất nông nghiệp. Nổi bật trong hệ thống KTBĐ của người Mông là sáng tạo nên

hình thức canh tác nông nghiệp mang tính đặc thù và biểu tượng này trở thành đặc

biểu trưng tộc người đó là tri thức kĩ thuật thổ canh hốc đá. Đây không chỉ là một

hình thức canh tác để sản xuất ra lương thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu

của cuộc sống mà tri thức canh tác hốc đá của đồng bào Mông nơi đây còn là sự kết

tinh những giá trị trong cuộc sống tại vùng cao nguyên núi đá, là bản sắc văn hóa

mà không phải dân tộc nào cũng có được.

Nó thể hiện sức sống mạnh mẽ, tinh thần giữ đất, giữ làng, dù khó khăn đến

đâu, các dân tộc vẫn tìm tòi sáng tạo, để duy trì cuộc sống, từng bước vươn lên xóa

đói, giảm nghèo. Bên cạnh đó, đồng bào còn đúc kết được những kinh nghiệm trong 76

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

việc lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi; cách chăm sóc và bảo quản; và sáng tạo ra

những công cụ lao động phù hợp với việc canh tác ở vùng núi đá này. Qua đó cho

thấy, sức mạnh, sự cần cù, sáng tạo của đồng bào trong chinh phục tự nhiên. Hệ

thống KTBĐ của dân tộc Mông là một trong nhưng nguồn tri thức dân gian vô cùng

quý giá, góp phần làm phong phú kho tàng văn hóa Việt Nam.

Cùng với thời gian và sự phát triển của đất nước hệ thống KTBĐ của dân

tộc Mông đang dần có sự biến đổi lớn. Do đó, cần phải có những giải pháp hiệu

quả để phát huy hiệu quả hệ thống KTBĐ kết hợp với hệ thống kiến thức khoa

học, giúp cho đời sống của đồng bào ngày càng nâng cao, thoát nghèo mà vẫn

giữ gìn được hệ thống kiến thức quý giá đó.

Tiểu kết chương 2

Cộng đồng dân tộc Mông ở huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang có rất nhiều

kinh nghiệm sáng tạo, đặc biệt là sự cần cù, chịu khó. Hệ thống KTBĐ đó được

hình thành trong hoạt động sản xuất và duy trì, phát triển được lưu truyền qua

nhiều thế hệ. Trong canh tác, người Mông biết xen canh, gối vụ, khai thác nương,

kết hợp phát triển chăn nuôi và làm thêm các nghề phụ đan lát, thêu dệt. Người

Mông chủ yếu sống ở vùng núi cao, hiểm trở, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt nên

trong quá trình canh tác, họ cũng có nhiều cách làm đặc trưng. Những thửa ruộng

bậc thang của người Mông tạo ra cũng đủ để thấy trình độ và sự khéo léo, tài giỏi

của họ trong việc làm nông nghiệp. Tri thức và kĩ thuật thổ canh hốc đá của người

Mông thể hiện tinh thần sáng tạo, vượt khó và thích nghi với môi trường sống

khắc nghiệt của đồng bào nơi đây. Phương thức sản xuất này còn góp phần bảo

vệ môi trường sinh thái trên vùng cao nguyên đá, giúp đồng bào ổn định cuộc

sống, giữ gìn mảnh đất biên cương nơi địa đầu của tổ quốc. Đất nước đổi mới,

mở cửa, hội nhập và phát triển đã tác động và làm mai một đôi nét về bản sắc

77

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

văn hóa và những tri thức dân gian trong sản xuất của dân tộc. Do vậy, việc

nghiên cứu hệ thống KTBĐ của rất tộc Mông có ý nghĩa rất thiết thực.

78

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIỮ GÌN, PHÁT HUY

KIẾN THỨC BẢN ĐỊA TRONG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA

DÂN TỘC MÔNG Ở HUYỆN MÈO VẠC TỈNH HÀ GIANG

3.1. Cơ sở để đưa ra các giải pháp bảo tồn và phát huy kiến thức bản địa

của dân tộc Mông ở Mèo Vạc tỉnh Hà Giang

3.1.1. Nhiệm vụ và định hướng phát triển của tỉnh Hà Giang đối với đồng bào

dân tộc Mông

Trong những năm qua, công tác ở vùng đồng bào dân tộc nói chung và

đồng bào dân tộc Mông nói riêng luôn được các cấp, các ngành, các đoàn thể

quan tâm chỉ đạo, thực hiện; những vấn đề bức xúc trong đồng bào các dân tộc

từng bước được giải quyết; đời sống vật chất, tinh thần của người dân không

ngừng được cải thiện. Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, địa hình chia

cắt mạnh, thiếu đất sản xuất, thiếu nước sinh hoạt, dân cư phân tán. Nhận thức

của một số cấp ủy, chính quyền và cán bộ, đảng viên về công tác dân tộc chưa

thực sự đầy đủ, trình độ của đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ cơ sở còn hạn chế; sự

phối hợp của các ngành trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách về dân

tộc đôi khi chưa chặt chẽ, đồng bộ; một số vấn đề nảy sinh trong nhân dân chậm

được nắm bắt hoặc giải quyết chưa thỏa đáng, kịp thời. Cơ sở hạ tầng thiếu, bất

cập, trình độ sản xuất của nhân dân còn nhiều hạn chế, bên cạnh đó một bộ phận

nhân dân vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước, chưa phát

huy được nội lực, tiềm năng sẵn có của địa phương để vươn lên xóa đói giảm

nghèo và làm giàu chính đáng. Vì thế, Đời sống vật chất, tinh thần ở vùng đồng

bào dân tộc thiểu số cũng như đồng bào dân tộc Mông còn nhiều khó khăn (tỷ lệ

hộ nghèo của đồng bào Mông còn cao, chiếm 57% tổng số hộ nghèo toàn tỉnh).

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, tập quán canh tác sản xuất lạc hậu; thu nhập

79

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

bình quân đầu người còn thấp so với bình quân chung của cả tỉnh. Việc khai thác,

bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Mông chưa được

quan tâm đúng mức; việc đào tạo nghề, tạo việc làm cho lao động là người dân

tộc Mông còn nhiều bất cập; một bộ phận thoát nghèo nhưng thiếu bền vững,

nguy cơ tái nghèo cao.

Trong chiến lược phát triển, tỉnh Hà Giang đã xác định nhiệm vụ và định

hướng phát triển kinh tế- xã hội ở vùng dân tộc Mông như sau:

Một là: Phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí

cho vùng đồng bào Mông

Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tiếp tục tạo

điều kiện thuận lợi, đầu tư giúp đỡ về vốn, vật tư, kỹ thuật… để đồng bào đẩy

mạnh thâm canh, tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, nâng cao giá trị

và hiệu quả trên một đơn vị diện tích, hỗ trợ lãi suất vốn vay phát triển chăn nuôi.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chính sách, chương trình dự án đầu tư trên địa

bàn, Chương trình xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững theo tinh thần Nghị

quyết 30a, chương trình 167 và các chương trình của TW, của tỉnh; lồng ghép các

chương trình dự án trên cùng một địa bàn đảm bảo tối ưu hóa việc sử dụng các

nguồn đầu tư. Quan tâm công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm.

Sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa truyền

thống của dân tộc Mông; khôi phục và phát triển ngành nghề thủ công truyền

thống. Đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học, nhất là ở vùng

sâu vùng xa. Thực hiện tốt các chính sách ưu tiên đối với đội ngũ giáo viên công

tác ở vùng sâu, vùng xa và học sinh con em các dân tộc thiểu số. Trên cơ sở phát

triển giáo dục, nâng cao dân trí, lựa chọn đào tạo bồi dưỡng cán bộ là con em

dân tộc Mông.

80

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Hai là: Đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền đường lối chính sách,

pháp luật Nhà nước, giải quyết tốt tình hình tôn giáo, chống di dịch cư tự do

trong vùng đồng bào Mông.

Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động đồng bào thực hiện tốt các

chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là chính sách

về dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng để đồng bào hiểu rõ và tự giác thực hiện; động

viên, phát huy tốt vai trò của các già làng, trưởng bản, những người có uy tín

trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói chung đồng bào dân tộc Mông nói

riêng; tăng cường chất lượng và thời lượng các chương trình phát thanh, truyền

hình bằng tiếng Mông; đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết

xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” gắn với xây dựng nông thôn mới, tiếp

tục chỉ đạo thành lập và duy trì hoạt động của “Hội Nghệ nhân dân gian” gắn với

khôi phục và phát triển nghề truyền thống, văn hóa dân gian của các dân tộc;

phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, đấu tranh với các hoạt

động tôn giáo trái pháp luật, buôn bán phụ nữ, bắt cóc trẻ em; phát huy hiệu quả

hoạt động của các tổ dân vận ở thôn, tổ dân phố.

Tiếp tục chỉ đạo các ngành, các cấp làm tốt công tác quản lý địa bàn, không

để những hộ di cư tự do bán tài sản, đất đai, đặc biệt là ngăn chặn những người

mua lại của hộ di cư tự do, tập trung quản lý chặt chẽ về công tác hộ tịch, hộ

khẩu ở cấp cơ sở, thường xuyên theo dõi tạm trú, tạm vắng từ cấp thôn bản để

kịp thời phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời.

Ba là: làm tốt công tác đào tạo cán bộ và xây dựng hệ thống chính trị cơ

sở vững mạnh

Phát triển hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú để tạo nguồn cán

bộ cho vùng đồng bào dân tộc. Chú trọng việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng bố

trí sử dụng cán bộ người Mông vào những vị trí cần thiết, thích hợp ở địa phương,

81

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

cơ sở. Củng cố, kiện toàn, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vùng đồng bào

Mông đủ mạnh đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Tăng cường

khối đại đoàn kết các dân tộc, phát huy sức mạnh của cộng đồng trong phát triển

kinh tế - xã hội, thu hẹp khoảng cách về đời sống giữa các vùng dân tộc, nhất là

đồng bào Mông với các dân tộc khác. Tăng cường nâng cao nhận thức và trách

nhiệm của hệ thống chính trị, các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể xã hội về nhiệm

vụ của công tác dân tộc trong tình hình hiện nay.

3.1.2. Vai trò của KTBĐ và sự cần thiết phải giữ gìn, phát huy kiến thức bản

địa của các dân tộc

Trên quan điểm phát triển thì không phải tất cả các loại KTBĐ đều hữu

ích như nhau, cũng có nhiều KTBĐ mang lại hiệu quả cao trong quá trình phát

triển và có thể áp dụng mà không cần sửa đổi. KTBĐ đã hỗ trợ cho công tác

nghiên cứu khoa học và có một phần vai trò trong các sáng kiến phát triển. Việc

ứng dụng nó trong phát triển được xem là giải pháp cho những vấn đề công nghệ.

Người dân địa phương rất quen thuộc với những thói quen và công nghệ của địa

phương. Họ có thể hiểu, nắm bắt và nhớ được kiến thức đó dễ hơn các kinh

nghiệm và công nghệ hiện đại.

KTBĐ được sử dụng để đánh giá tác động của quá trình phát triển. Nó là

một phương án thay thế có hiệu quả công nghệ khoa học kỹ thuật hiện đại, cung

cấp cho người dân địa phương và cán bộ triển khai các dự án phát triển những

giải pháp bổ sung. Thay vì việc tìm kiếm những công nghệ hiện đại cho những

giải pháp khả thi. Ví dụ: ở nước ta việc săn bắn, du lịch và khai thác tài nguyên

đã ảnh hưởng lớn đến môi trường. Người dân bản địa là người có điều kiện quan

sát kỹ càng nhất những thay đổi về môi trường. Vì vậy, đó là công cụ tốt nhất để

đánh giá tác động của các dự án phát triển.

KTBĐ được sử dụng như một công cụ để lựa chọn, quyết định, là cơ sở

để nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh của địa phương. Tuy nhiên, tri thức

bản địa cũng cần phải giao thoa với tri thức khoa học, cái này dựa trên cái kia để

82

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

có sự thích ứng bền vững và hiệu quả với các môi trường tự nhiên và kinh tế - xã

hội khác nhau.

Hiện nay, KTBĐ đã và đang đóng góp một phần quan trọng vào việc giải

quyết các vấn đề của địa phương và tộc người. Những tri thức về nông nghiệp

(kỹ thuật xen canh, chăn nuôi, đa dạng cây trồng, chăm sóc sức khoẻ vật nuôi,

chọn giống cây trồng); chăm sóc sức khoẻ con người (bằng các phương thuốc

truyền thống); sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên (bảo vệ đất, thuỷ lợi và

các hình thức quản lý nước khác); giáo dục (kiến thức truyền miệng, các ngôn

ngữ địa phương)… đã có những tác dụng nhất định trong xóa đói giảm nghèo và

phát triển kinh tế - xã hội.

KTBĐ của các tộc người được coi là một trong những lợi thế so sánh của

một số nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Bởi vậy, việc bảo vệ các

KTBĐ ở quy mô quốc gia và quốc tế, đặc biệt là bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối

với KTBĐ, được coi là một yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, do bản chất của KTBĐ

là tồn tại dưới dạng thông tin được lưu truyền qua các thế hệ, hoặc được trao đổi

giữa các cộng đồng, nên nhiều tri thức quý giá có nguy cơ bị mai một dần theo

thời gian, hoặc bị chiếm đoạt khai thác trái phép ngoài phạm vi kiểm soát của

cộng đồng nắm giữ tri thức. Những hành vi đó không chỉ gây thiệt hại về kinh tế

cho cộng đồng mà nguy hại hơn là phá vỡ nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa cộng

đồng nắm giữ và chủ thể khai thác tri thức bản địa, hủy hoại nỗ lực bảo tồn và

phát triển tri thức, đi ngược lại truyền thống văn hóa, phong tục tập quán… của

cộng đồng.

KTBĐ có tầm quan trọng lớn trong việc thực hiện các dự án phát triển

mang tính bền vững cho nên không những chỉ các nước đang phát triển mà các

nước có nền khoa học phát triển cao cũng rất chú ý sưu tầm, phân tích và ứng

dụng KTBĐ, nhằm tìm kiếm những giải pháp quản lý bền vững cổ truyền cũng

như giá trị của các tài nguyên mà khoa học hiện đại chưa biết tới.

Việc phát huy và áp dụng KTBĐ trên thế giới đã mang lại nhiều thành

công lớn. Rất nhiều nghiên cứu cho rằng, đa dạng sinh học phải vận dụng KTBĐ

83

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nằm trong nền văn hóa của các tộc người địa phương. Giá trị thương mại của

KTBĐ trên thực tế còn rất lớn. Như vậy, KTBĐ không những chỉ có giá trị phục

vụ các giải pháp phát triển, mà nó còn là kho báu văn hóa cần được bảo vệ và sử

dụng thật hữu ích.

Trong quá trình tiếp biến văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và xã

hội ở miền núi phía Bắc, người Mông ở Mèo Vạc đã tích lũy được một kho tàng

tri thức dân gian rất phong phú, dưới dạng kinh nghiệm sản xuất, đặc biệt kinh

nghiệm trong việc lực chọn đất canh tác, bảo tồn các giống cây trồng và vật nuôi

bản địa cũng như cách khai thác các nguồn lợi từ tự nhiên.

Ngày nay, đời sống văn hóa của đồng bào đang vận động và biến đổi cùng

với bối cảnh đất nước hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự tác động sâu sắc của

thời đại bùng nổ thông tin và cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật hiện đại, đã làm

cho nhiều KTBĐ của người Mông đang dần bị thay đổi. Việc giữ gìn những ưu

điểm của kiến thức bản địa, có sự kết hợp giữa KTBĐ và những kiến thức khoa

học đối với cao nguyên đá Mèo Vạc, mang lại những thay đổi cho cuộc sống của

đồng bào dân tộc Mông là rất cần thiết.

3.1.3. Một số thay đổi về KTBĐ của dân tộc Mông ở Mèo Vạc

3.2.3.1. Lịch nông vụ, lựa chọn đất, giống cây trồng vật nuôi

* Lịch nông vụ: Đồng bào Mông ở Mèo Vạc đã nhận được sự quan tâm

của Đảng, nhà nước và chính quyền địa phương với các chủ trương, chính sách

đúng đắn đồng bào đã từng bước có những thay đổi tích cực trong hoạt động xuất

và đời sống. Đặc biệt là thông qua chương trình 135 giai đoạn III và chương trình

30a, các chính sách hỗ trợ trồng trọt, phát triển chăn nuôi gắn với trồng cỏ cùng

với hoạt động giới thiệu sản phẩm đặc sản của địa phương được thực hiện đa

dạng. Qua đó, đã chuyển dần tập quán lao động, sản xuất của bà con nông dân

sang hình thức hàng hóa. Do đó, lịch thời vụ trong sản xuất cũng có sự thay đổi.

Lịch nông vụ của người Mông có sự thay đổi như sau:

Bảng 3.1. Lịch thời vụ (có sự thay đổi so với lịch thời vụ truyền thống)

Cây trồng Thời gian gieo trồng Thời gian thu hoạch

84

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Ngô Tháng 2,3 Tháng 7,8

Lúa Tháng 4, 5 Tháng 8, 9

Tháng 2, 3 Tháng 5, 6 Đậu tương Tháng 7, 8 Tháng 10, 11

Bí Tháng 3, 4 Tháng 9

Tam giác mạch Tháng 9, 10 Tháng 12

Cây Lanh Tháng 3 Tháng 6

Nguồn: Tác giả thu thập trong quá trình điều tra thực tế

* Lựa chọn đất: Rẻo cao là nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc

Mông. Mèo Vạc là vùng núi đá tai mèo, núi non trùng điệp, khí hậu mát mẻ

quanh năm. Tuy nhiên, do là vùng núi cao nên đất đai dễ bị xói mòn, rửa trôi.

Trước đây, người Mông thường sống du canh du cư nên việc lựa chọn đất để ở

và sản xuất là rất quan trọng, bởi mảnh đất đó sẽ quyết định xem họ có thể sinh

sống và canh tác ở đó trong thời gian mấy năm. Những ngày nay, với chính sách

của Đảng và Nhà nước hầu hết người Mông đã sống định canh định cư và được

giao đất giao rừng để hoạt động sản xuất. Do đó, khâu chọn đất bằng kinh nghiệm

dân gian đã không còn quan trọng nữa. Trên các mảnh đất canh tác, đồng bào

thường trồng xen canh gối vụ tạo độ màu cho đất, đồng thời kết hợp với bón

phân chuồng độ phì cho đất. Đồng bào đã được áp dụng mô hình nông lâm kết

hợp theo hình thức cải tiến dưới sự hướng dẫn tận tình của cán bộ xã. Hiện nay,

với những suy nghĩ lạc hậu đang dần được xóa bỏ, nhất là tâm lí chọn nơi mảnh

đất không người đặt chân đến đã không còn nữa. Một số đồng bào đã dần chuyển

xuống sinh sống và canh tác ở những vùng thấp hơn, thuận lợi cho việc đi lại

cũng như hoạt động sản xuất và sinh hoạt.

* Lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi

- Đối với cây trồng: Người Mông ở Mèo Vạc thời gian trước đây vẫn

trồng chủ yếu là những cây có giống địa phương như ngô, lúa, đậu tương, dưa

chuột, ớt, rau cải, rau dền, lanh. Hiện nay, đồng bào vẫn trồng những loại cây 85

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

này vì nó phù hợp với điều kiện sinh thái và tập quán canh tác của đồng bào nơi

đây. Tuy nhiên, người Mông đã biết áp dụng và đưa vào trồng một số những

giống cây mới cho năng suất cao, nhưng lại không bảo quản và giữ được giống

như các loại hạt giống địa phương. Ở Mèo Vạc, lúa được trồng với diện tích

nhỏ, chủ yếu là ngô - cây lương thực độc canh ở vùng này. Ngoài giống ngô địa

phương, ngày nay người dân đã trồng một số giống ngô lai: SSC557, SSC586,

DK999, LVN10, F1SSC …Đây là những giống ngô ngắn ngày và cho năng suất

cao, có thể ăn,chăn nuôi gia súc và mang đi trao đổi, buôn bán. Ngày nay, người

dân đã chú trọng hơn tới việc trồng lúa phục vụ cho nhu cầu cuộc sống hàng

ngày, nhiều giống lúa mới đã được đồng bào đưa vào để trồng cấy như: Shan

ưu 63, Nghị hương 3 dòng, lúa DS1, HT1, ĐS1…những giống lúa này được

gieo trồng cho năng suất và chất lượng gạo thơm ngon, luôn được người tiêu

dùng ưa chuộng. Bên cạnh, đó là những giống đậu tương mới cũng được đưa

vào trồng trọt và cho năng suất cao như các giống mới như DT84, VX93,

DT2000.

Ngoài ra, bên cạnh trồng giống rau cải địa phương người Mông còn trồng

một số giống cải dầu cho năng suất cao như: Hyola 76 (Úc), Hyola 432 (Úc), Cải

Miên 16 (Trung Quốc), Aggamax (Đức),…để thay thế cho cây trồng vụ đông.

Đây là những giống có sức chống chịu với điều kiện bất thuận như đóng băng,

sương muối, chịu hạn, chịu rét, trồng được trên địa hình khắc nghiệt mà vẫn cho

năng suất cao. Hay là giống cỏ voi đã được đồng bào trồng rất nhiều để phục vụ

cho chăn nuôi gia súc. Bên cạnh những cây lương thực chính, cây bí cũng được

người dân đã trồng nhiều với những giống bí siêu quả và siêu ngọn không chỉ để

phục vụ cho nhu cần ăn uống mà còn mang ra bán tại các phiên chợ. Thêm nữa,

với mục đích thay dần màu xám ngắt của đá tai mèo bằng màu xanh của cây

rừng, địa phương đang đẩy mạnh công tác trồng rừng, quyết tâm mang đến một

“không gian xanh” trên vùng Cao nguyên đá, nhiều xã đã trồng giống cây trồng

mới gồm Thông, Sa Mộc, Mắc Rạc các loại cây phù hợp với điều kiện khí hậu 86

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

của từng địa phương nơi đây. Đặc biệt, trong những năm gần đây du lịch ở Mèo

vạc rất phát triển, lãnh đạo huyện đã có chủ trương trồng cây cảnh quan, đặc biệt

là cây Đào cổ thụ không chỉ đơn thuần là bảo tồn và phát triển các giống đào cổ

thụ quý hiếm, bảo vệ môi trường sinh thái, mà quan trọng hơn chính là tạo “điểm

nhấn” để thúc đẩy ngành du lịch phát triển, góp phần giải quyết việc làm, tăng

thu nhập cho nhân dân địa phương. Bên cạnh đó, người dân còn đưa cây lanh về

trồng ở những ruộng thấp và chú trọng đưa cây Tam giác mạch vào trồng nhằm

mục đích phục vụ du lịch.

- Vật nuôi: Cơ cấu và giống vật nuôi có sự thay đổi mạnh mẽ. Ngoài việc

việc duy trì phát triển giống bò, ngựa, dê địa phương, đồng bào đang nhân rộng

mô hình nuôi ngựa Bạch. Loài ngựa này có khả năng thích nghi với điều kiện khí

hậu ở Mèo Vạc, có sự phát triển cả về trọng lượng và khả năng sinh sản.Hiện

nay ở một số như xã Sủng Máng, Lũng Chinh, Tát Ngà, Pả Vi đã đang phát triển

giống vật nuôi này. Bên cạnh đó, là việc nuôi giống bò và dê cho giá trị kinh tế

cao. Đưa vào thử nghiệm mô hình nuôi bồ câu, thỏ, vịt theo hướng tập trung và

bước đầu đã mang lại hiệu quả rõ rệt.

Qua đó cho thấy, hoạt động sản xuất nông nghiệp đã và đang được đẩy

mạnh, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thâm canh tăng vụ, nâng

hệ số sử dụng đất lên hai lần, ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa sản xuất

để tăng giá trị trên đơn vị diện tích. Với phương châm “gắn lý thuyết với thực

hành”, “coi trọng hiệu quả sau làm điểm”, việc xây dựng và nhân rộng những mô

hình sản xuất đưa các giống cây trồng, vật nuôi mới vào trong sản xuất, thực hiện

đúng khung thời vụ và cơ cấu giống theo hình thức luân canh tăng vụ để tăng hiệu

quả kinh tế trên cùng một đơn vị diện tích sản xuất nông nghiệp. Do đó, sản lượng

lương thực, bình quân lương thực đầu người và giá trị sản xuất nông nghiệp của

huyện Mèo Vạc đều tăng lên liên tục qua các năm.

Theo thống kê, năm 2015, tổng sản lượng lương thực (có hạt) toàn huyện

ước đạt trên 34.516 tấn, tăng 8.516 tấn so với năm 2010; bình quân lương thực 87

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

đầu người ước đạt 442 kg/người/năm, tăng 19,46% so với năm 2010; giá trị sản

xuất nông nghiệp hàng năm ước đạt 31,84 triệu đồng/ha/năm, tăng 10,73 triệu

đồng/ha/năm so với năm 2010. Tổng đàn gia súc của huyện đạt khoảng trên

82.500 con, trong đó đàn bò chiếm trên 25.600 con.

3.2.3.2. Lựa chọn phương thức canh tác và công cụ lao động

Xưa kia, nương rẫy của đồng bào Mông chủ yếu là nương du canh, nhưng

ngày nay đã được thay thế chủ yếu là nương định canh. Trên nương định canh

người ta liên tục xen canh gối vụ, đa đạng hóa các loại cây trồng. Trước đây, nương

rẫy của người Mông chủ yếu là độc canh cây ngô, nhưng ngày nay người ta đã

biết tận dụng đất để xen canh với những cây trồng khác như bí, đậu tương.

Với điều kiện tự nhiên, khí hậu của một huyện vùng cao núi đá khắc

nghiệt, khó khăn, diện tích đất canh tác thì ít, núi đá thì nhiều nên huyện xác định

tập trung chỉ đạo các ngành chức năng vận động nhân dân tập trung chuyển đổi

cơ cấu cây trồng, vật nuôi bằng việc đưa các tiến bộ KHKT vào sản xuất, chăn

nuôi để tăng thu nhập, từng bước xóa đói giảm nghèo bền vững cho đồng bào

các dân tộc trong huyện. Người Mông đã biết ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản

xuất nông nghiệp đặc biệt là vấn đề chuyển đổi mô hình, giống vật nuôi cây

trồng, áp dụng những phương tiện máy móc vào trong sản xuất. Trước đây, nông

cụ sản xuất chủ yếu của đồng bào chủ yếu là con dao, cái cuốc, cái cày…ngày

nay nông cụ phục vụ cho sản xuất ngày càng đa dạng với nhiều loại hình khác

nhau. Một số khu vực đồng bào Mông đã sử dụng máy cày, máy tuốt đạp chân,

máy xay xát…vào trong quá trình sản xuất.Việc sử dụng máy móc vào trong

canh tác không những giúp đồng bào tăng năng suất và sản lượng để nâng cao

đời sống, mà còn giúp đồng bào giải phóng sức lao động, tiết kiệm được thời

gian. Còn một số khu vực đồng bào ở trên những vùng núi cao thì việc sử dụng

những phương tiện này còn gặp nhiều khó khăn.

Bên cạnh đó, người Mông đã bắt đầu biết sử dụng một số loại phân bón,

thuốc trừ sâu, bệnh, thuốc diệt cỏ vào trong sản xuất. Việc sử dụng những vật tư

88

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

nông nghiệp này ngày càng tăng do sự gia tăng về dân số, dẫn tới nhu cầu về

lương thực ngày càng tăng, và việc sử dụng phân bón truyền thống như phân

xanh, phân chuồng không mang lại hiệu quả tối ưu, đồng bào đã sử dụng thêm

phân hóa học như NPK, phân lân, phân đạm, kali để bón lót và bón thúc…sẽ

giúp đất đai màu mỡ, cây trồng cho năng suất cao, ổn định, đảm bảo nhu cầu

lương thực của đồng bào. Thêm vào đó, do điều kiện thời tiết thay đổi nên có

nhiều loại sâu bệnh xuất hiện mà với những kinh nghiệm dân gian thì không diệt

trừ được nên người ta đã dùng thuốc trừ sâu, bệnh để khắc phục tình trạng này.

Đối với vật nuôi người ta cũng đã biết sử dụng một số loại cám tăng trọng cho

gà, lợn, bò, cỏ bò thay thế cho nguồn thức ăn tự nhiên ngày càng cạn kiệt và cho

hiệu quả kinh tế cao.

Mèo Vạc quanh năm trong tình trạng thiếu nước nhất là vào mùa khô, vấn

đề nước sinh hoạt luôn là nỗi lo lớn của những người dân nơi đây. Được sự quan

tâm của Đảng, nhà nước và các cấp chính quyền địa phương đã xây dựng được

15 hồ treo nhân tạo trên các triền núi đá giúp xoa dịu “cơn khát” và cung cấp

nước cho sinh hoạt cũng như sản xuất của người dân nơi đây. Đây cũng là một

bước tiến quan trọng trong hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp của người Mông

ở Mèo Vạc. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất vẫn chủ yếu dựa trên những kinh

nghiệm, lối tư duy và nhận thức của đồng bào còn hạn chế nên chưa phát huy

được hết những lợi thế, lợi nhuận đem lại chưa tưng xứng với tiềm năng.

3.2.3.3. Thu hoạch, bảo quản và trao đổi hàng hóa

Trong thu hoạch và bảo quản các sản phẩm nông nghiệp người Mông vẫn

giữ được những kinh nghiệm truyền thống như việc thu hoạch ngô người ta vẫn

phơi trên nương rồi chờ chín vàng mới bẻ và gùi về nhà để bảo quản trên gác

bếp. Tuy nhiên, ở nột số địa phương trước khi để lên gác bếp người ta phun một

lớp hóa chất chống mọt rồi mới xếp lên trên cao. Nhờ có loại thuốc này nên đồng

bào không còn đợi 10 đến 15 ngày mới thu hoạch nữa, sau khi ngô chín vàng thu

hoạch để kịp cho vụ sau. 89

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Nhìn chung, người Mông ở gần khu vực trung tâm huyện do sống gần với

các dân tộc khác nên chợ mua bán nhộn nhịp, phong phú và tan chợ sớm hơn. Ở

những xã này, đồng bào đã biết nuôi lợn, gà, trồng các loại rau củ mang ra chợ

bán cho lái buôn. Một số những loại sản phẩm như rau, đậu, bí còn được người

ta mang đến bán ở các phiên chợ khác xa hơn. Còn đối với các xã chỉ có người

Mông sinh sống thì chợ ở nơi đây hàng hóa không phong phú, ít có mua bán

nhộn nhịp mà chủ yếu vẫn là hình thức trao đổi, người ta chỉ đem bán các sản

phẩm nông nghiệp khi có nhu cầu mua sắm vật dụng, hay vào các dịp lễ, tết và

gia đình có việc cưới hỏi.

Trong chăn nuôi, đồng bào đã biết dùng thuốc chữa bệnh cho vật nuôi.

Đồng thời thường phòng chống dịch bệnh, đói rét cho vật nuôi bằng cách tiêm

phòng, tiêu độc, vệ sinh chuồng trại, che chắn và giữ ấm cho vật nuôi khi thời

tiết giá rét. Trước đây, người Mông thường ít khi mang vật nuôi ra chợ bán, mà

chỉ có người đến nhà hỏi mua nhưng ngày nay đồng bào đã biết đem đến chợ

phiên để bán và được giá cao hơn so với người ta đến nhà mua. Một số những

vật nuôi được đem đi trao đổi chủ yếu là lợn, gà, bò. Một số gia đình khá giả,

người ta đã biết áp dụng những khoa học kĩ thuật và phương pháp mới vào trong

chăn nuôi và bước đầu đã thu được những kết quả đáng khích lệ, góp phần nâng

cao chất lượng cuộc sống cho đồng bào.

3.1.4. Các yếu tố tác động đến sự thay đổi của kiến thức bản địa

* Chính sách phát triển kinh tế - xã hội của khu vực miền núi vùng cao

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Hà Giang hiện có đủ 13 chính sách của Đảng,

Nhà nước dành cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số gồm: (chính sách đầu tư và

sử dụng nhân lực; chính sách đầu tư phát triển bền vững; chính sách phát triển

giáo dục và đào tạo; chính sách cán bộ người dân tộc thiểu số; chính sách đối với

người có uy tín ở vùng dân tộc thiểu số; chính sách phát triển thể dục - thể thao

90

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

vùng dân tộc thiểu số; chính sách phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số; chính

sách bảo tồn và phát triển văn hóa…). Hầu hết các chính sách đều gắn với công

tác xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh nói chung, vùng đồng bào dân tộc thiểu

số nói riêng, đều được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền và của cả

hệ thống chính trị. Trong từng giai đoạn 5 năm một lần, tỉnh đều xây dựng kế

hoạch giảm nghèo cho từng giai đoạn cụ thể gồm: 1995-2000, 2001-2005, 2005-

2010, 2011-2015. Hiện nay tỉnh Hà Giang đã và đang thực hiện nhiều chương

trình giảm nghèo nhanh và bền vững giai đoạn 2011-2015, trong đó có chính

sách dân tộc và miền núi, vùng dân tộc thiểu số khó khăn và đặc biệt khó khăn,

để giúp cho đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo.

Được sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Hà Giang, hiện

nay trình độ dân trí của đồng bào Mông ở Mèo Vạc đã được nâng cao rõ rệt cả

trong nhận thức lẫn lối tư duy. Người Mông đã nhanh chóng tiếp thu, học tập

những tri thức mới, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp từ địa phương

khác và qua thông tin đại chúng để rút ra những kinh nghiệm áp dụng vào phục

cho cuộc sống của mình. Thực tế cho thấy, phong tục tập quán lạc hậu dần được

xóa bỏ, những kĩ thuật mới được áp dụng vào sản xuất nâng cao hiệu quả kinh

tế, đặc biệt là việc sử dụng máy móc, phân bón, giống vật nuôi cây trồng mới

vào trong sản xuất. Từ việc sản xuất nông nghiệp mang tính tự cung tự cấp người

Mông ở Mèo Vạc đã nhận thấy được sự cần thiết phải thay đổi cơ cấu cây trồng,

vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa. Được sự hỗ trợ về kĩ thuật của cán bộ

huyện đồng bào tiếp tục mở rộng diện tích gieo trồng, tập trung thâm canh tăng

năng suất, sản lượng các loại cây trồng; tích cực chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, chú

trọng phát triển cây vụ Đông, tăng hệ số sử dụng đất; chuyển đổi các loại giống

mới có năng suất, chất lượng cao phù hợp với điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng,

thực hiện cải tạo và phát triển các loại cây ăn quả; tăng cường đầu tư thâm canh,

đa dạng hóa sản phẩm. Bên cạnh đó, tập trung cải tạo, nâng cao chất lượng đàn

gia súc, gia cầm có giá trị cao như trâu, bò, dê và đàn ong; tiếp tục đẩy mạnh

91

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thực hiện chương trình chuyển đổi đất sang trồng cỏ phát triển chăn nuôi bò hàng

hóa, tạo thương hiệu bò vàng Mèo Vạc; chú trọng phát triển đàn gia súc cái sinh

sản. Từ đó, hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa của người dân cũng đã diễn ra

mạnh mẽ hơn. Quan đó ta thấy, đồng bào đang dần có sự thay đổi dần về nhận

thức trong việc thấy được sự cần thiết phải đa dạng hóa các loại cây trồng, vật

nuôi, tận dụng tối đa thời gian và nguồn nhân lực vào sản xuất. Với tư duy làm

ăn mới cuộc sống của đồng bào nơi đây giờ đã và đang dần có sự thay đổi để

thoát khỏi sự đói nghèo.

Bên cạnh những biến đổi tích cực của KTBĐ để tiến kịp với sự phát triển

kinh tế xã hội của đất nước, thì một số những kinh nghiệm dân gian trong sản

xuất và sinh hoạt của đồng bào Mông không còn phù hợp với hiện tại và nó đang

dần bị mai một. KTBĐ của người Mông thường được lưu giữ bằng trí nhớ và

truyền bá cho các thế hệ khác bằng miệng, thơ ca, tế lễ. Do vậy, những người

hiểu biết là những người già, thầy cúng, phụ nữ lớn tuổi. Khi những người này

qua đời do chiến tranh, bệnh tật, tuổi già thì hệ thống kiến thức quý báu đó rất dễ

bị thất truyền. Mặt khác, do truyền lại bằng miệng nên KTBĐ cũng có nhiều dị

bản. Cứ mỗi một thế hệ được truyền lại thì nội dung kiến thức lại bị biến dạng

thành nhiều nội dung khác nhau so với nội dung kiến thức ban đầu. Một số KTBĐ

mang tính bí truyền, người Mông chỉ truyền lại cho con trai cả, con dâu, hay một

vài người trong gia đình. Chúng không được phổ biến rộng rãi và có khả năng bị

mai một dần. Những kiến thức này thiên về cây thuốc, việc chữa bệnh hay là bí

quyết trong công nghệ sản xuất một loại sản phẩm nào đó. Đặc biệt, người Mông

luôn cư trú trên vùng núi cao, với bản làng xa xôi, hẻo lánh rất khó khăn cho

công tác vận động, tuyên truyền của cán bộ và giao lưu với các tộc người khác.

Tiếng nói và chữ viết của họ rất khó học. Do vậy, kiến thức của người Mông ít

được lưu giữ thông qua hình thức giao lưu giữa các tộc người, thông qua việc

tìm hiểu các văn tự do người Mông để lại. Với người Kinh những kinh nghiệm

92

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

trong hoạt động sản xuất thường được thể hiện qua những câu ca dao, tục ngữ,

lời hát ru…thì đối với đồng bào Mông, những bài dân ca thường là những lời hát

đối đáp của những chàng trai, cô gái chủ yếu là lời thề, hẹn ước, nhắn nhủ, là

tiếng hát than thân trách phận của nàng dâu, những đôi trai gái bị ép duyên, trẻ

mồ côi…Những KTBĐ trong sản xuất chỉ được truyền từ đời này sang đời khác

qua hoạt động sản xuất thực tiễn. Do đó, nó rất dễ bị lãng quên và mất dần đi.

Có thể nói, KTBĐ là một yếu tố “động” bản thân nó luôn vận động và biến

đổi không ngừng để tiến kịp với sự phát triển của thời đại. Khi kinh nghiệm mới

tiến bộ hơn ra đời sẽ dần thay thế cho những kinh nghiệm cũ lỗi thời, lạc hậu,

không còn phù hợp với thực tiễn. Hệ thống những kinh nghiệm cũ sẽ được thay

thế bởi những cái mới tiến bộ hơn.

* Yếu tố kinh tế

Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra

đường lối đổi mới đất nước với xu thế là: dân chủ hóa đời sống KT - XH;phát

triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN; tăng cường

giao lưu và hợp tác với các nước trên thế giới. Với đường lối đổi mới này đã tác

động mạnh mẽ tới sự phát triển KT - XH của cả nước nói chung, và từng địa

phương nói riêng, đặc biệt nó có ý nghĩa rất lớn đối đồng bào vùng sâu, vùng xa.

Với những chính sách phát triển kinh tế, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp đã

tác động mạnh mẽ tới lối nhận thức và tư duy của người dân. Nền kinh tế hàng

hóa thị trường đã dẫn tới lối sản xuất độc canh, áp dụng những tiến bộ về KHKT

vào trong sản xuất, khiến cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Điều đó, đã giúp cho cơ

cấu kinh tế có sự chuyển dịch rõ rệt, tỷ lệ đói nghèo đã được giảm mạnh, đời

sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên,

bên cạnh những thành tựu đã đạt được là những hạn chế nhất định, đặc biệt là

đối với những dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa. Đó là những KTBĐ quý báu

đã và đang dần bị biến đổi và có thể sẽ mất đi, nhất là trong lĩnh vực sản xuất

nông nghiệp. Chẳng hạn, trước đây đồng bào thường trồng các giống ngô, lúa,

93

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

đỗ tương địa phương, do đồng bào tự để lại giống sau mỗi đợt thu hoạch, nhưng

hiện nay, đồng bào đã sử dụng các giống lúa, ngô lai vào trong trồng trọt. Hay là

việc chuyển đổi từ việc trồng ngô giống bản địa sang tập trung đầu tư thâm canh

những loại cây trồng có giá trị kinh tế cao đó là cây cải dầu. Theo như người dân

cho biết, nhiều hộ gia đình hiện nay đã không còn trồng giống ngô nếp địa

phương thơm ngon, ngọt và rất dẻo, năng suất thấp mà thay vào đó là trồng các

giống ngô lai cho năng suất cao, thời gian sinh trưởng ngắn, nhưng giống ngô

này đồng bào không để được giống cho vụ sau. Nếu có để thì hạt rất dễ bị mốc,

nảy mần, hoặc khi trồng không cho năng suất cao như giống ngô mua sẵn lúc

ban đầu.

Nền kinh tế hàng hóa đã làm mất đi sự đa dạng của các sản phẩm nông

nghiệp cũng như những KTBĐ trong sản xuất của đồng bào. Trong những năm

gần đây Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương đa tích cực chuyển đổi cơ

cấu cây trồng, đưa những giống cây trồng, vật nuôi mới vào trong sản xuất nông

nghiệp điển hình đó là các giống lúa, ngô, gà, lợn, bò…nhằm nâng cao năng

suất và chất lượng sản phẩm, giúp đời sống của nhân dân ngày càng được cải

thiện, thoát khỏi cái nghèo. Tính riêng năm 2015, tổng sản lượng lương thực

(có hạt) toàn huyện ước đạt 34.516,8 tấn, tăng 8.516 tấn so với năm 2010; bình

quân lương thực đầu người ước đạt 442 kg/người/năm, tăng 19,46% so với năm

2010. Giá trị sản xuất/ha canh tác cây hàng năm ước đạt 31,84 triệu đồng/ha,

tăng 10,73 triệu đồng/ha so với năm 2010. Người Mông đã chú trọng tập trung

đầu tư vào các giống cây trồng vật nuôi bản địa bò, gà xương đen, ong, rau

cải…nhưng với mục đích kinh tế đáp ứng nhu cầu của thị trường tiêu thụ nên

đồng bào đã áp dụng những tiến bộ KHKT vào trong sản xuất làm suy giảm

chất lượng vốn có của các sản phẩm địa phương. Mặt khác, trước yêu cầu của

thị trường tiêu thụ khiến cho một số bộ phận đông bào từ bỏ tập quán canh tác,

sản xuất cũ, đi theo những mô hình sản xuất mới, từ đó những kinh nghiệm dân

gian trong sản xuất sẽ bị lãng quên và có nguy cơ mất đi. Qua đó cho thấy, đi

94

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

đôi với cái đạt được lại là sự mất đi hệ thống KTBĐ cũng như nguồn giống cây

trồng, vật nuôi bản địa mà người dân phải mất khoảng thời gian dài mới tạo ra

được.

* Yếu tố văn hóa - xã hội:

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, không chỉ tác động mạnh mẽ tới sự

phát triển kinh tế, mà còn tác động tới những hoạt động văn hóa - xã hội của đất

nước. Với sự phát triển kinh tế thị trường không chỉ thúc đẩy sự giao lưu giữa các

vùng miền địa phương mà còn làm cho đời sống văn hóa của người dân ngày càng

được nâng cao. Bên cạnh đó, nó còn tạo điều kiện cho các dân tộc có sự giao lưu

và học hỏi lẫn nhau. Quá trình này, làm cho nền văn hóa của nước ta thêm phong

phú và đa dạng, mặt khác việc hòa nhập văn hóa cũng khiến cho bản sắc văn hóa

riêng của từng tộc người đứng trước nguy cơ bị xói mòn và rất có thể sẽ bị mai

một. Chẳng hạn, khi nền kinh tế phát triển, thị trường mở rộng, giao thông liên xã

thuận lợi tạo điều cho việc giao lưu kinh tế. Vì vậy, hàng hóa từ miền xuôi, từ

Trung Quốc dễ dàng len lỏi vào từng bản làng của đồng bào. Hàng hóa được áp

dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất vừa đẹp, giá cả vừa phải nên được người

Mông ưa chuộng. Từ những dụng cụ như con dao, lưỡi cày, cái cuốc...mẫu mã

giống của người Mông nhưng chất lượng không bằng nhưng đồng bào vẫn mùa

về dùng. Những chiếc váy được may bằng nhiều loại vải với những màu sắc khác

nhau, lại được thiết kế tiện lợi trong sinh hoạt, gọn nhẹ nên người phụ nữ Mông

mua về mặc. Để bảo vệ thực vật người Mông ở Mèo Vạc đã biết mua những loại

thuốc của Trung Quốc về sử dụng rẻ mà lại dễ sử dụng... Người Mông rất thích lễ

hội và đi chợ phiên. Bởi đây là nơi để các chàng trai, cô gái gặp nhau giao duyên,

so tài bởi những điệu múa khèn, lời hát giao duyên, chơi ném pao... nhưng ngày

nay trong ngày chợ phiên của người Mông đã vắng bóng những nét văn hóa đặc

sắc này. Khi bản sắc văn hóa tộc người bị đe dọa thì KTBĐ cũng đứng trước nguy

cơ bị suy thoái và biến mất.

Ngày nay, khi phương tiện thông tin đã được sử dụng phổ biến và rộng

rãi, đồng bào đã biết dựa vào thông tin dự báo thời tiết để có kế hoạch sản xuất.

95

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Sự phụ thuộc vào các nguồn thông tin nên những kiến thức dân gian về dự đoán

thời tiết đã không được dùng đến và dần bị lãng quên.

Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách đào tạo và bồi

dưỡng tầng lớp tri thức là người DTTS ngày càng được đẩy mạnh. Qua trình học

tập, tiếp thu tri thức mới đã được mở rộng trong cộng đồng, dẫn đến thay đổi nếp

sống và tư duy của đồng bào, nhiều hình thức canh tác và sản xuất mới được áp

dụng tại các thôn, bản ngày càng nhiều. Điều này khiến cho việc truyền thụ và

áp dụng những KTBĐ trong đời sống và sản xuất của đồng bào bị ảnh hưởng

không ít. Sự thay đổi cơ cấu nghề nghiệp trong gia đình và xã hội làm gián đoạn

sự truyền thụ kiến thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hiện nay, với chính sách

đào tạo cán bộ là người DTTS ngày càng được đẩy mạnh, nhiều con em dân tộc

Mông đã đi học ở các trường nội trú, chuyên nghiệp. Do đó, thời gian sinh hoạt

cùng gia đình rất ít, không được truyền thụ những kinh nghiệm trong sản xuất từ

cha, mẹ, ông, bà. Qua đó ta thấy, hệ thống KTBĐ trong trồng trọt và chăn nuôi

của đồng bào đang ngày càng bị mai một và đến thế hệ con cháu có thể sẽ không

còn nữa.

* Yếu tố tự nhiên: Sự tác động mạnh mẽ của con người, đặc biệt là của

đồng bào nơi đây tới tự nhiên đã làm thiên nhiên bị tàn phá nghiêm trọng. Khi

thiên nhiên bị tàn phá nghiêm trọng có thể làm cho hệ thống KTBĐ bị mất đi

nhanh chóng. Bởi KTBĐ được lưu truyền cho mọi thế hệ qua quá trình hoạt động

sản xuất và thích ứng với điều kiện tự nhiên. Mỗi một địa phương có điều kiện

tự nhiên khác nhau sẽ hình thành những kinh nghiệm ứng xử với tự nhiên khác

nhau. Trong quá trình con người tác động vào tự nhiên thì bản thân tự nhiên ở

địa phương đó cũng đã có sự biến đổi, theo đó kinh nghiệm dân gian cũng dần

bị biến đổi. Bên cạnh đó, nạn phá rừng đã làm mất đi một số loài cây dược liệu

quý hay những loài cây chỉ thị trong việc lựa chọn đất trồng, điều này dẫn đến

96

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tình trạng kiến thức dân gian, những kinh nghiệm và những hiểu biết về cây thuốc

và cách chữa bệnh cũng sẽ bị biến mất. Đây cũng là một trong những nguyên

nhân dẫn đến sự biến đổi trong phương thức sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu

số nói chung và dân tộc Mông ở Mèo Vạc nói riêng.

3.2. Một số giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy kiến thức bản địa trong sản

xuất nông nghiệp của dân tộc Mông ở huyện Mèo Vạc tỉnh Hà Giang

3.2.1. Một số giải pháp chung nhằm giữ gìn và phát huy kiến thức bản địa

3.2.1.1. Giữ gìn và phát huy mặt tích cực của kiến thức bản địa trong tập quán

sản xuất và sinh hoạt của dân tộc

KTBĐ là sản phẩm lao động của nhân dân trong hàng thế kỉ. Hệ thống

những kiến thức đó được tích lũy, hoàn thiện và truyền qua nhiều thế hệ trong

cộng đồng địa phương. Hiện nay KTBĐ được coi như “Một nguồn tài nguyên”

rất quý giá cần được thu thập, giữ gìn và phát huy, đồng thời có thể cải tiến hoặc

phối hợp với kỹ thuật hiện đại để áp dụng trong quản lý và PTBV tài nguyên,

cũng như PTBV về mặt kinh tế, xã hội cho các dân tộc.

Theo thời gian các kinh nghiệm truyền thống được biến cải để ngày càng

hoàn thiện hơn, có hiệu quả và thích ứng cao hơn với những thay đổi của môi

trường tự nhiên và xã hội. Hệ thống KTBĐ có giá trị cao trong việc xây dựng

các mô hình phát triển nông thôn và quản lý bền vững tài nguyên miền núi theo

hướng có người dân tham gia. Một số nhà nghiên cứu đã coi KTBĐ là cơ sở để

đề xuất các quyết định tại địa phương trong các lĩnh vực nông nghiệp, y tế, giáo

dục và quản lý tài nguyên, môi trường.

Do đặc thù về phong tục tập quán và địa bàn cư trú trong những môi trường

tự nhiên cụ thể, mỗi dân tộc lại có những cách thức sản xuất, những kinh nghiệm

cũng như cách ứng xử với tự nhiên khác nhau. Như vậy, tập quán canh tác và tập

97

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

quán sinh hoạt của đồng bào các DTTS vốn đã ăn sâu vào nếp nghĩ và trở thành

thói quen của mọi người.

Để phát huy, giữ gìn những KTBĐ trong vấn đề bảo vệ tài nguyên và môi

trường cần phải có một số những giải pháp thiết thực. Trong đó, cần đặc biệt chú

ý tới những chính sách ưu tiên đầu tư, hỗ trợ các dân tộc thiểu số phát triển kinh

tế, văn hóa, xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần. Có như vậy đồng

bào mới yên tâm định canh định cư lâu dài trên mảnh đất của mình và đó cũng

là cơ sở để phát huy những tri thức bản địa. Đồng thời tăng cường những biện

phápnhằm duy trì, nâng cao tính gắn bó trong cộng đồng, phát huy những quy

định luật tục của dòng họ, của làng bản trong việc khai thác và bào vệ TNTN.

Để giữ gìn và phát huy KTBĐ của dân tộc Mông, trong luận văn xin đề xuất một

số biện pháp sau:

Thứ nhất, việc áp dụng tri thức bản địa vào phát triển kinh tế - xã hội cần

phải biết chắt lọc các giá trị đích thực của tri thức bản địa nâng cao giá trị của nó

vào môi trường mới, thích ứng với cuộc sống hiện tại khi nền kinh tế đất nước

thực sự phát triển theo cơ chế thị trường. Cần nhận thức khách quan xu hướng

cơ bản là cộng đồng địa phương không thể bỏ tri thức bản địa vốn đã thích nghi.

Tuy nhiên vốn bản chất của tri thức bản địa là sự tự thay đổi để thích ứng với

hoàn cảnh nên nó luôn tiếp thu các giá trị tri thức du nhập từ bên ngoài để phát

triển. Dựa vào các KTBĐ sẽ giúp các nhà khoa học lập các dự án phát triển mà

không phải điều tra sàng lọc, mất nhiều thời gian và tốn kém.

Thứ hai, Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, góp phần nâng cao

nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của KTBĐ nhất là thế hệ trẻ là con em

đồng bào DTTS thiểu số nói chung và đồng bào Mông nói riêng nhằm nâng cao

lòng tự hào về những giá trị văn hóa đặc sắc của cha ông, từ đó tự giác tham gia

98

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

các hoạt động văn hóa truyền thống cộng đồng, đấu tranh với sự xâm nhập của

văn hóa ngoại lai, phản tiến bộ.

Thứ ba, Tiếp tục bảo lưu những giá trị văn hóa tinh thần bằng cách truyền

đạt lại quy trình và kỹ năng trong sinh hoạt và hoạt động sản xuất cho thế hệ trẻ

thông qua các lễ hội, từ việc khôi phục các lễ thức truyền thống, lựa chọn những

lễ hội đặc sắc, tiêu biểu duy trì thường xuyên vào thời gian cố định.

Thứ tư, Nhà nước cần quan tâm đầu tư nhiều cho văn hóa, có chính sách

động viên, khen thưởng, công nhận các danh hiệu thầy thuốc dân gian, thầy thuốc

cộng đồng đối với người có công lao trong việc chữa bệnh; danh hiệu nghệ nhân

dân gian đối với người có công lưu giữ những giá trị KTBĐ của tộc người.

Thứ năm, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu

quả triển khai, định kỳ đánh giá sơ, tổng kết rút ra bài học kinh nghiệm và điều

chỉnh các nội dung triển khai phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương

để phát triển kinh tế-xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an

ninh quốc phòng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Xây dựng và phát

triển văn hóa nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại trên cơ sở bảo tồn và phát

huy bản sắc văn hóa mỗi dân tộc là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình thực

hiện CNH-HĐH đất nước.

Thứ sáu, nghiên cứu và xây dựng một số chính sách mới về xây dựng đời

sống văn hóa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa và hệ thống KTBĐ đối với

đồng bào DTTS.

3.2.1.2. Hỗ trợ cộng đồng bảo tồn kiến thức bản địa của dân tộc

KTBĐ là nền tảng cơ sở tự cung tự cấp và tự quyết định vì hai lý do: thứ

nhất, người dân quen thuộc với những thói quen và kinh nghiệm của địa phương;

họ có thể nắm bắt và nhớ những kiến thức đó dễ hơn những kiến thức khoa học

kỹ thuật công nghệ mới; thứ hai, KTBĐ được đúc kết trên cơ sở những nguồn

99

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

sẵn có của địa phương, tuy nhiên KTBĐ thường được truyền miệng, ít được lưu

giữ ở dạng văn bản. Cùng với thời gian, một số kiến thức đã bị thất truyền do các

nguyên nhân khác nhau. Do vậy việc hỗ trợ cộng đồng bảo tồn KTBĐ là rất cần

thiết.

Trong tài liệu “Recording and using indigenous knowlege: A manual” của

Viện Thiết kế nông thôn (IIRR) do Everlyn Mathias biên soạn đã đưa ra những

phương pháp nhằm hỗ trợ bảo tồn KTBĐ, theo tác giả những phương pháp này

có thể áp dụng rộng rãi ở Việt Nam nói chung và cộng đồng dân tộc Mông nói

riêng.

Thứ nhất, là việc nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá trị KTBĐ của

họ thông qua việc ghi chép và phổ biến hiệu quả KTBĐ trên các phương tiện

thông tin đại chúng, qua những câu chuyện, bài thơ, bức họa...

Thứ hai, đó là việc trình diễn lợi ích của KTBĐ bằng việc xây dựng những

mô hình nông trại, những mô hình sản xuất trên các hệ sinh thái đặc trưng của

đồng bào dân tộc; xây dựng các thửa ruộng và mô hình nông nghiệp trình diễn,

các cơ sở sản xuất hàng thủ công bằng những kỹ thuật truyền thống để người dân

có thể thấy được những giá trị truyền thống của mình.

Thứ ba, giúp các thành viên trong cộng đồng ghi lại và tư liệu hóa những

kinh nghiệm của địa phương dưới hình thức: lưu hành các kết quả ghi chép về

KTBĐ trong các bản tin nội bộ, sách, băng hình và những phương tiện thông tin

truyền thống và hiện đại. Khuyến khích các dạng lưu trữ truyền thống.

Thứ tư, sắp xếp những thông tin KTBĐ luôn sẵn có. Khuyến khích người

dân địa phương tham gia bảo tồn KTBĐ của họ. Ví dụ, tạo điều kiện cho người

dân được tham gia quản lý nguồn tài nguyên tại địa bàn họ sinh sống.

Thứ năm, phục hồi kinh nghiệm truyền thống địa phương thông qua việc

khuyến khích tổ chức hoặc tăng cường các tổ chức địa phương sưu tầm và truyền

100

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

thông KTBĐ. Điều này sẽ giúp các thành viên của cộng đồng nhận thức tốt hơn

về giá trị của các kinh nghiệm và văn hóa bản địa vốn có của họ.

Những phương pháp trên được xem như là những gợi ý quan trọng giúp

cho mỗi địa phương, mỗi người dân bảo tồn được KTBĐ của dân tộc mình.

Những kỹ năng xã hội, những kỹ thuật sản xuất sẽ được trao truyền cho con cháu

từ đời này sang đời khác, trong nhiều thế kỷ.

Trong xã hội hiện đại, cần tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc vừa kế

thừa vốn tri thức dân gian, vừa tiếp tục sáng tạo vốn tri thức mới, và trao quyền

cho thế hệ sau một cách hiệu quả nhất. Gần đây, Chính phủ Việt Nam đã phê

duyệt chương trình đặc biệt về bảo tồn và phát triển các đặc tính văn hóa cho một

số nhóm DTTS. Theo kết quả nghiên cứu của Viện dân tộc thuộc Ủy ban Dân

tộc của Chính phủ, thì việc bảo tồn các giá trị văn hóa và những KTBĐ phải trên

cơ sở giúp cho các nhóm dân tộc này có lợi ích tốt hơn từ sự phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước trong quá trình CNH - HĐH. Như vậy, trong thời gian tới,

đồng bào các dân tộc sẽ nhận được hỗ trợ trong việc phát triển kinh tế cũng như

bảo tồn những KTBĐ của mình.

3.2.1.3. Kết hợp kiến thức bản địa và kiến thức mới

Nhiều KTBĐ vẫn đang được cộng đồng người bản địa sử dụng có hiệu

quả. Tuy nhiên, một cộng đồng ổn định không phải là một tập thể tĩnh mà phải

là một cộng đồng có khả năng thích ứng với những điều kiện mới. KTBĐ kết

hợp với kiến thức hiện đại sẽ bổ sung cho nhau nhằm tạo ra sự phát triển bền

vững hơn so với việc áp dụng máy móc tất cả những gì từ bên ngoài đưa vào

cộng đồng. Ở một số nước trên thế giới, KTBĐ đã được kết hợp và cải tiến dựa

vào những kiến thức mới. Điều này đã đem lại hiệu quả trực tiếp cho người dân

và những người tiến hành triển khai các dự án PTBV nông nghiệp, nông thôn

miền núi. Việc kết hợp giữa KTBĐ và kiến thức hiện đại thường được thông

101

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

qua sự hướng dẫn của các cơ quan khuyến nông, khuyến lâm tại mỗi địa

phương.

KTBĐ đã và đang đóng góp một phần quan trọng vào việc giải quyết các

vấn đề của địa phương và tộc người. Tuy nhiên, không phải KTBĐ nào cũng

được sử dụng và phát huy hiệu quả trong bối cảnh mới. Do vậy, không thể chỉ

lựa chọn và áp dụng tri thức khoa học, cũng không thể chỉ dựa vào KTBĐ mà

phải kết hợp hai nguồn tri thức ấy vì mục tiêu PTBV. Điều đó có nghĩa là khi

triển khai các dự án, chúng ta phải nghiên cứu để lồng ghép và chuyển tải những

kinh nghiệm trong bảo vệ đất, tính lịch thời vụ, xen canh, luân canh; những tri

thức bảo vệ TNTN, xây dựng mô hình phát triển. Từ đó, góp phần vào việc thay

đổi nhận thức và thế ứng xử trong không gian sinh tồn của người dân miền núi.

Bên cạnh đó, những tri thức trong việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng; trong điều

hành, quản lý con người, làng bản, xã hội với việc đề cao vai trò của người già,

của cộng đồng, tính nhân văn của những quan hệ bền chặt trong gia đình, dòng

họ là những kinh nghiệm quý trong xây việc xây dựng nông thôn có tăng trưởng

kinh tế những vẫn đảm bảo công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Đó chính là

mục tiêu của PTBV mà chúng ta đang hướng tới.

Xác định vấn đề

Việc cải tiến kiến thức bản địa có thể có nhiều cách:

Bước 1 Không

Bước 2

KTBĐ có liên quan đến vấn đề hiện nay không? Thử nghiệm kiến thức bên ngoài phù hợp Có

KTBĐ có hiệu quả và bền vững không?

Phát triển KTBĐ Không

102

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Thử nghiệm kiến thức bên ngoài phù hợp KTBĐ có thể cải tiến được không?

Áp dụng và phát triển

Bước 3 Không

Bước 4 Có

Hình 3.1. Sơ đồ Kiến thức bản địa trong các dự án phát triển

Thực tế tại một số thôn bản ở huyện Mèo Vạc, cho thấy nhiều bằng chứng

rõ ràng về sự kết hợp giữa KTBĐ và kiến thức hiện đại trong trong quản lý, sử

dụng các nguồn lợi tự nhiên của đồng bào dân tộc. Đối với dân tộc Mông việc

chặt cây đốt rừng làm nương rẫy theo phương thức canh tác truyền thống đang

dần được chuyển đổi theo hướng bảo vệ và phát triển rừng dưới sự tư vấn và

hướng dẫn tận tình của cán bộ khuyến nông xã. Hiện nay, bà con đã biết trồng

rừng với những giống cây do địa phương cung cấp xen với những cây bản địa.

Đồng bào đã biết tự điều chính thói quen và tập quán của mình để hòa nhập và

phù hợp với điều kiện môi trường xung quanh.

Trong nhiều trường hợp, KTBĐ có thể cải tiến được thông qua việc phát

triển công nghệ với sự tham gia và quản lý của người dân. Những KTBĐ đã được

cải tiến có thể được phát triển và áp dụng thông qua các dịch vụ phổ cập, các trung

tâm khuyến nông và các phương pháp thông tin giáo dục khác. Điều cần quan tâm

là phải giúp đỡ đồng bào vận dụng các kiến thức khoa học nhằm làm tăng hiệu

quả quản lý và sử dụng TNTN nhưng không để mất đi KTBĐ quý giá vốn có của

họ. Vấn đề ở đây là nên kết hợp hai nguồn tri thức ấy vì mục tiêu khai thác, bảo

vệ, quản lý tốt nguồn TNTN, hướng tới mục tiêu PTBV.

3.2.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm giữ gìn và phát huy kiến thức bản địa

trong sản xuất nông nghiệp của dân tộc Mông huyện Mèo Vạc

103

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

3.2.2.1. Trong trồng trọt

- Cần tăng cường ứng dụng các tiến bộ KHKT mới vào sản xuất, đẩy mạnh

thâm canh, đưa một số giống mới vào gieo trồng sản xuất trên diện rộng, đưa cơ

giới hóa vào sản xuất,quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa tập trung tại các xã có

điều kiện thuận lợi. Điển hình đó là một số xã như Pả Vi, Tát Ngà, Niềm Tòng,

Lũng Chinh. Đặc biệt, cần tiếp tục xây dựng các hồ treo nhân tạo nhằm cung cấp

nước cho sinh hoạt và phục vụ sản xuất.

- Từng bước đẩy mạnh và thực hiện việc trồng cây vụ Đông, đưa vụ Đông

trở thành vụ sản xuất chính. Cán bộ xã cần hướng dẫn đồng bào chăm sóc, sử

dụng phân hữu cơ sinh học bón cho cây trồng để giảm chi phí đầu vào và nâng

cao năng suất cây trồng; thường xuyên kiểm tra đồng ruộng để kịp thời phát hiện

và phòng trừ sâu bệnh, ưu tiên cây trồng ngắn ngày, vừa có hiệu quả kinh tế lại

vừa kịp gieo trồng vụ xuân như cây rau, đậu và khoai tây, su su đáp ứng nhu cầu

rau, củ tại chỗ và phục vụ chăn nuôi, giải quyết việc làm tại chỗ, tăng thu nhập

cho người nông dân.

- Mô hình trồng cây cải dầu đem lại hiệu quả kinh tế không cao cần được

thay thế bằng một số giống cây trồng khác như khoai tây, khoai lang, bắp cải.

-Tích cực hơn nữa trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản

xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, mang lại hiệu quả kinh

tế cao, rút ngắn thời gian sản xuất cho bà con nông dân. Cần tập trung vào nhóm

các cây trồng mũi nhọn điển hình là cây đậu tương, tiếp tục đẩy mạnh thâm canh

giống mới, chọn lọc và đưa một số giống cho năng suất cao như VX93, DT84,

DT2000, Hoa Kiều.

- Đảng, Nhà nước và lãnh đạo huyện cần có những chính sách cụ thể trong

việc hỗ trợ vốn trong sản xuất như phát triển các giống cây mới, điển hình là cây

chè shan tuyết. Đa số cây chè đã ở độ tuổi già cỗi (có cây chè cổ thụ hàng trăm

năm tuổi), rất có thể bị suy thoái nên độ phân cành kém, tỷ lệ búp không đáng kể

dẫn đến năng suất chè thấp, đồng bào chưa biết áp dụng các tiến bộ KHKT vào

104

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

các khâu chăm sóc, thu hái và chế biến nên sản lượng chè còn rất thấp và chưa

được quảng bá hình ảnh rộng rãi. Do đó, các cơ quan chuyên môn của huyện cần

hướng dẫn người dân áp dụng các tiến bộ KHKT vào thâm canh cây chè, khai

thác có hiệu quả diện tích chè Shan tuyết cổ thụ hiện có. Mặt khác, cần duy trì

giống chè thay thế những cây đã già cối, quy hoạch vùng chè, mở rộng diện tích,

tăng năng suất và quảng bá hình ảnh và thiết kế logo riêng cho thương hiệu chè

này.

- Cần quy hoạch trồng tập trung cây đào, mận và tam giác mạch trên quy

mô và diện tích lớn kết hợp với áp dụng khoa học kĩ thuật nhằm mục đích nâng

cao năng suất và phục vụ cho du lịch, tăng thêm nguồn thu nhập cho người dân.

- Để hạn chế sự xói mòn và bạc màu của diện tích đất đang được sử dụng

trồng ngô cần trồng xen canh một số loại cây ngắn ngày khác có độ che phủ tốt

đồng thời có tác dụng cải tạo và nâng cao độ phì của đất như lạc, đỗ tương…;

che phủ đất bằng thân cây trồng vụ trước; bón phân đúng mức.

- Cần có chính sách để thu hút các nhà đầu tư tham gia thực hiện chương

trình sản xuất lúa, ngô hàng hóa.

- Tăng cường hệ thống thủy lợi bằng việc xây dựng các hồ treo nhân tạo

để mở rộng diện tích gieo trồng.

- Đi đôi với việc đưa những tri thức khoa học vào trong sản xuất cần phải

giữ gìn và phát huy những hình thức canh tác truyền thống để mang lại hiệu quả

kinh tế cao nhất. Điển hình, với cây ngô, đậu tương, cần tăng cường trồng những

giống mới cho năng suất cao những vẫn phải duy trì giống ngô, đỗ tương địa

phương.

3.2.2.2. Trong chăn nuôi

- Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân dân chuyển đổi diện

tích đất trồng ngô sang trồng cỏ để chăn nuôi bò theo hướng hàng hoá, mở rộng

qui mô chợ bò nhằm ổn định đầu ra cho nhân dân. Đồng thời, đẩy mạnh công tác 105

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

tập huấn nhằm chuyển giao các tiến bộ KHKT trong chăn nuôi và phòng chống

dịch bệnh cho đàn gia súc như việc phát hiện bò cái động đực và tiến hành thụ

tinh nhân tạo. Tiếp tục đẩy mạnh mô hình thụ tinh nhân tạo ở các xã Tả Lủng,

Sủng Trà, Pả Vi, thị trấn Mèo Vạc và nhân rộng mô hình này tới các xã khác.

Cần liên doanh, liên kết tìm kiếm và mở rộng thị trường tới các tỉnh khác trong

cả nước giúp tiêu thụ sản phẩm cho đồng bào. Thu hút, khuyến khích các doanh

nghiệp, cá nhân đầu tư dây truyền chế biến các sản phẩm từ thịt bò, xây dựng

thương hiệu thịt bò khô Mèo Vạc.

- Nhà nước cần tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, dịch vụ phục vụ

cho việc phát triển chăn nuôi theo hướng đồng bộ từ khâu chọn giống, cung cấp

thức ăn, kỹ thuật chăm sóc, dịch vụ thú y, mạng lưới chợ buôn bán gia súc, gia

cầm... Đồng thời phát huy tiềm năng thế mạnh của huyện về lao động, kinh

nghiệm chăn nuôi trâu, bò truyền thống của nhân dân, kết hợp với việc đẩy mạnh

việc chuyển giao KHKT, phương thức chăn nuôi tiên tiến.

- Tiếp tục đẩy mạnh và nhân rộng mô hình nuôi ong để lấy mật, quảng bá

hình ảnh, đăng kí nhãn mác cho sản phẩm kèm chỉ dẫn địa lý với nhãn hiệu "Đặc

sản mật ong bạc hà huyện Mèo Vạc" để mở rộng thị trường tiêu thụ cho sản phẩm

này, giúp cho đồng bào nâng cao thu nhập.

- Tiếp tục đưa vào thử nghiệm chăn nuôi một số loại vật nuôi khác có khả

năng chống chịu với điều kiện khí hậu khắc nghiệt của vùng này. Mặt khác, phải

duy trì được những giống vật nuôi địa phương điển hình là bò, lợn, dê, gà.

-Vận động, khuyến khích đồng bào chuyển đổi diện tích đất sản xuất nông

nghiệp kém hiệu quả sang trồng cỏ (Goatemala, VA06) chủ động dự trữ nguồn

thức ăn cho mùa đông, phục vụ chăn nuôi; tận dụng triệt để phụ phẩm nông

nghiệp để bổ sung nguồn thức ăn; hướng dẫn người chăn nuôi cách chế biến, bảo

quản, dự trữ thức ăn cho chăn nuôi.

- Nhân rộng một số mô hình giống vật nuôi mới đã được thử nghiệm thành

công như bồ câu, thỏ, vịt quy hoạch sản xuất tập trung có quy mô lớn.

Tiểu kết chương 3

106

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

Mèo Vạc là một trong những huyện xa xôi với địa hình hiểm trở và khí

hậu khắc nghiệt. Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước trong những năm gần đây

kinh tế, văn hóa xã hội của huyện đã có nhiều khởi sắc và có tác động lớn tới

cuộc sống của người dân nơi đây, đặc biệt là đối với dân tộc Mông. Ngày nay,

hệ thống KTBĐ trong sản xuất nông nghiệp được hình thành và phát triển qua

nhiều thế hệ vẫn được lưu truyền và phát huy. Một số KTBĐ đã và đang có sự

kết hợp với các tri thức khoa học hiện đại nhằm đem lại hiệu quả cao trong hoạt

động sản xuất của đồng bào, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần vào công

cuộc xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, một số KTBĐ có

giá trị được người Mông lưu giữ hàng trăm năm nay đang dần bị mai một và mất

đi. Do đó, chúng ta cần có những biện pháp đúng đắn và hiệu quả để bảo tồn và

phát huy những hệ thống kiến thức quý báu đó. Việc phát huy giá trị KTBĐ sẽ

góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề địa phương.

107

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

KẾT LUẬN

Từ những nội dung đã nghiên cứu về KTBĐ của dân tộc Mông ở huyện

Mèo Vạc tỉnh Hà Giang, tác giả rút ra những kết luận chủ yếu sau:

1. Nằm trên Cao nguyên đá Đồng Văn, Mèo Vạc được coi là huyện khó

khăn nhất tỉnh. Nơi đây có địa hình rất hiểm trở, phức tạp và khí hậu hết sức khắc

nghiệt ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân. Huyện

này có 17 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó, phần lớn là dân tộc Mông.

Mỗi dân tộc lại có những truyền thống và bản sắc văn hóa rất riêng. Đặc biệt,

trong hoạt động sản xuất và sinh hoạt của họ mang đậm dấu ấn tộc người. Đó

cũng là nền tảng để đưa ra những giải pháp phát triển đúng đắn, giúp đồng bào

nơi đây vươn lên thoát nghèo bền vững.

2. Dân tộc Mông là một trong 54 dân tộc anh em ở nước ta, chiếm số đông

ở Hà Giang nói chung và huyện Mèo Vạc nói riêng. Người Mông đến Mèo Vạc

cách đây trên 300năm, họ di cư từ Quý Châu (Trung Quốc) sang, gồm họ Lù và

Giàng. Dân tộc này cư trú ở rẻo cao và có mặt ở cả 18 xã của huyện Mèo Vạc,

trong đó tập trung đông nhất tại xã Khâu Vai, xã Cán Chu Phìn. Với địa hình

hiểm trở, hơn 2/3 là núi đá tai mèo, điều kiện sống hết sức khó khăn. Đối diện

với những khó khăn về điều kiện tự nhiên, đặc biệt là tư liệu sản xuất rất hạn chế,

đồng bào Mông đã hình thành cho mình một hệ thống kiến thức dân gian phong

phú, đặc sắc và mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, đặc biệt là trong hoạt động

sản xuất nông nghiệp, đồng bào đã sáng tạo ra hình thức canh tác độc đáo trên

nương đá tai mèo.

3. Trải qua hàng trăm năm tồn tại và phát triển dân tộc Mông đã tích lũy

cho mình một hệ thống tri thức dân gian trong sản xuất nông nghiệp. Họ đã tích

lũy được những kinh nghiệm trong việc lựa chọn đất canh tác, chọn giống cây

trồng vật nuôi, tính lịch thời vụ, cho tới những khâu chăm sóc, thu hoạch và bảo

quản các sản phẩm từ nông nghiệp. Đặc biệt, do thiếu đất canh tác nên đồng bào

108

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

phải tận dụng từng hốc đá để canh tác, tứ đó kĩ thuật thổ canh hốc đá độc đáo

của đồng bào đã hình thành và được duy trì qua nhiều thế hệ.

4. Trước sự phát triển của đời sống và tiến bộ khoa học kỹ thuật, hệ thống

tri thức dân gian truyền thống của dân tộc Mông đang dần bị mất đi giá trị vốn

có của nó trong sản xuất nông nghiệp và đời sống tinh thần của nhân dân. Do đó,

cần phải nghiên cứu và có những giải pháp cụ thể để giữ gìn và phát huy hệ thống

KTBĐ của dân tộc Mông trong hoạt động sản xuất nông nghiệp và hướng tới sự

phát triển bền vững.

5. Luận văn đã tìm hiểu về một số những thay đổi trong sản xuất nông nghiệp

và đưa ra một số những giải giáp cụ thể nhằm giữ gìn và phát huy hệ thống KTBĐ

của dân tộc Mông ở Mèo Vạc, góp phần ổn định, phát triển kinh tế xóa đói giảm

nghèo mà không làm mất đi những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc

Mông của huyện nói riêng và cộng đồng các dân tộc tỉnh Hà Giang nói chung, xây

dựng quê hương đất nước ngày một giàu đẹp và văn minh.

109

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

110

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Ngọc Anh (1994), "Dân tộc học với vấn đề nương rẫy", Tạp chí

dân tộc học (số 1), trang 43 - 44.

2. Cổng thông tin điện tử Tỉnh Hà Giang, http://www.hagiang.gov.vn

3. Lê Trọng Cúc, Terry Rambo (1999), Những khó khăn trong công cuộc

phát triển miền núi Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

4. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2012), Niên giám thống kê tỉnh Hà Giang

năm 2011, Nxb Thống kê.

5. Lê Sĩ Giáo (1989), “Canh tác nương rẫy, chăn nuôi truyền thống và vấn

đề xây dựng kinh tế hộ gia đình ở miền núi phía Bắc hiện nay”, Tạp chí

Dân tộc, (số 4).

6. Lê Sĩ Giáo (chủ biên), Hoàng Lương, Lâm Bá Nam, Lê Ngọc Thắng

(1998), Dân tộc học đại cương, Nxb Giáo dục.

7. Lê Duy Hải, Triệu Đức Thanh (2008), Các dân tộc ở Hà Giang, Nxb Thế

Giới, Hà Giang.

8. Diệp Đình Hoa (1998), Dân tộc Mông và thế giới thực vật, Nxb văn hóa

dân tộc, Hà Nội.

9. Trần Viết Khanh, Nguyễn Việt Tiến, Vũ như Vân (2010), Giáo trình địa

lí Trung du miền núi phía Bắc, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

10. Nguyễn Thị Lê (2013), Nông nghiệp du canh, tri thức bản địa và vấn đề

phát triển miền núi Việt Nam, Viện nghiên cứu Con người.

11. Nguyễn Phương Liên và nnk (2013), Giáo trình phương pháp luận và

phương pháp nghiên cứu Địa lý tự nhiên, Địa lý kinh tế xã hôi., Nxb GD,

Hà Nội, 120 tr.

12. Lã Văn Lô (1973), Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam

trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, Nxb khoa học xã hội.

111

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

13. Trường Lưu, Huỳnh Đình Quý (1994), Văn hóa dân tộc Mông ở Hà Giang,

Nxb Văn hóa thông tin Hà Giang.

14. Trường Lưu - Hùng Đình Quý (1996),Văn hóa dân tộc Mông, Viện văn

hóa, Sở văn hóa thông tin Hà Giang.

15. Nguyễn Bình Minh (2014), "Giải pháp phát triển kinh tế - xã hội vùng dân

tộc Mông tỉnh Hà Giang", Tạp chí Dân tộc, số 166, tháng 10/2014

16. Hoàng Thị Hồng Ngân (2010), Kiến thức bản địa trong sản xuất nông

nghiệp của người Mông ở huyện bắc Mê tỉnh Hà Giang, Luận văn thạc sĩ,

Trường ĐHSP Thái Nguyên.

17. Nguyễn Thị Ngân (2000), Công cụ sản xuất nông nghiệp của các dân tộc

nhóm ngôn ngữ H’Mông, Dao, Công trình nghiên cứu khoa học cấp Viện,

Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam.

18. Trung Ngôn (2014), Vấn đề quyền của dân tộc bản địa

http://www.baobinhdinh.com.vn/viewer.aspx?macm=38&macmp=38&m

abb=16613, ngày 19/01/2014.

19. Đỗ Thị Nhung (2005), Di sản văn hóa các dân tộc ở tỉnh Hà Giang trong

quá trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, Luận văn cao cấp lý luận

chính trị, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

20. Hoàng Phê và nnk (1992), Từ điển Tiếng Việt, Nhà in Trần Phú, TP.HCM.

21. Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Mèo Vạc (2015), Báo

cáo sơ kết Chương trình chăn nuôi đại gia súc gắn với trồng cỏ thâm canh

trên địa bàn huyện Mèo Vạc.

22. Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Mèo Vạc (2015), Báo

cáo sơ kết thực hiện "Chương trình xây dựng nông thôn mới” theo Nghị

quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV nhiệm kỳ 2010 - 2015.

112

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

23. Dương Quỳnh Phương (2010), Cộng đồng các dân tộc với việc sử dụng

tài nguyên thiên nhiên vì mục tiêu phát triển bền vững, Nxb Văn hóa

dân tộc.

24. Vương Duy Quang (2005), Văn hóa tâm linh của người H’Mông ở Việt

Nam truyền thống và hiện đại, Nxb Văn hóa Thông tin.

25. Hùng Đình Quý (chủ biên) (1994), Văn hóa truyền thống các dân tộc Hà

Giang, Nxb Sở văn hóa thông tin tỉnh Hà Giang, Hà Giang.

26. Trần Hữu Sơn, Văn hóa H’Mông, Nxb văn hóa dân tộc, Hà Nội.

27. Bùi Hoài Sơn (2008), Về khái niệm tri thức bản địa, http:// vietems. com/

index, ngày 26/12/2008.

28. Bùi Hoài Sơn (2010), “Đôi nét về khái niệm tri thức bản địa”, Tạp chí Văn

hóa nghệ thuật tháng 2/2010, số 308.

29. Lê Bá Thảo (1997), Miền núi và con người, Nxb khoa học và kỹ thuật, Hà

Nội.

30. Ngô Đức Thịnh (1996), Tìm hiểu công cụ cổ truyền Việt Nam, Lịch sử các

loại hình, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.

31. Ngô Đức Thịnh: Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá Việt Nam, H, 1996).

32. Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức (2003), Giáo trình Địa lí kinh tế -

xã hội Việt Nam (tập 1), NXB Giáo Dục Hà Nội.

33. Hà Thị Thu Thủy, Dương Quỳnh Phương (2012), Tri thức dân gian của

dân tộc Dao tỉnh Thái Nguyên, Nxb Văn hóa Thông tin.

34. Hà Thu Thủy, Dương Quỳnh Phương, Vũ Như Vân (2012), Các dân tộc

Mông, Dao: góc nhìn đa chiểu từ Địa lí học - Dân tộc học - Lịch sử - Sinh

Thái nhân văn miền núi phía Bắc, Nxb Văn hóa thong tin.

35. Nguyễn Việt Tiến (2014), Một số vấn đề địa lí kinh tế - xã hội và nhân

văn, Trường ĐHSP - ĐH Thái Nguyên.

36. Trần Hữu Tiệp (2007), Miêu tộc giản chí hợp biên (quyển thượng).

113

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

37. Hoàng Xuân Tý, Lê Trọng Cúc (chủ biên) (1998), Kiến thức bản địa của

đồng bào vùng cao trong nông nghiệp và quản lí tài nguyên thiên nhiên,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

38. Dương Thị Thanh Vân (2015), Kiến thức bản địa của dân tộc Dao trong

hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp ở tỉnh Yên Bái, Luận văn cao học

ngành Sư phạm Địa Lí, ĐHSP Thái Nguyên.

39. Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam (2001), Phương pháp thu thập và sử

dụng kiến thức bản địa (tập 2), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

114

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn

PHỤ LỤC 1

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ ĐỒNG BÀO DÂN TỘC MÔNG

HUYỆN MÈO VẠC TỈNH HÀ GIANG

Những núi đá tai mèo sắc nhọn Địa hình hiểm trở

Nghệ thuật “xếp đá” của đồng bào Mông đạt đến mức kỹ xảo

Vượt khó vươn lên

Hình thức canh tác độc đáo

Gieo mầm xanh trên đá Cỏ voi phục vụ chăn nuôi

Cây đậu răng ngựa Mùa hoa tam giác mạch

Hoa cải mọc chen cùng núi đá Cô gái Mông thu hoạch cỏ voi

Anh Lầu Sèo Khón nuôi bò vỗ béo Chợ bò ở thị trấn Mèo Vạc

Mô hình nuôi ong tại xã Pải Lủng Bảo quản ngô và đậu tương

Xuân về trên bản Mông Lễ hội Gầu Tào

Múa khèn ở Chợ tình Khâu Vai Món thắng cố

Cuộc sống nghèo khó Tục “Vỗ mông”

Đường đi xã Niêm Tòng huyện Mèo vạc

Những thửa ruộng bậc thang Đồng bào tự làm phân bón

Sự khan hiếm nước trong sinh hoạt Hồ treo nhân tạo