BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Võ Minh Thu

ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN

CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

Ở TỈNH TRÀ VINH PHỤC VỤ DU LỊCH

THỜI KỲ HỘI NHẬP

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Võ Minh Thu

ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN

CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

Ở TỈNH TRÀ VINH PHỤC VỤ DU LỊCH

THỜI KỲ HỘI NHẬP

Chuyên ngành: Địa lý học (trừ Địa lý tự nhiên)

Mã số: 603195

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. PHẠM XUÂN HẬU

Thành phố Hồ Chí Minh – 2012

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các số liệu có nguồn gốc rõ ràng, tuân thủ đúng nguyên tắc và kết quả trình

bày trong luận văn được thu thập trong quá trình nghiên cứu là trung thực, chưa từng

được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Võ Minh Thu

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn khoa học PGS.TS.

Phạm Xuân Hậu đã tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn

thành tốt nhất luận văn của mình.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Phòng Sau Đại học, các phòng

ban chức năng của Trường Đại Học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều

kiện thuận lợi trong công tác liên hệ và giải quyết các thủ tục học tập tại Trường.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo của Khoa Địa lý - Trường

Đại Học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy và cung cấp cho

tôi những kiến thức quý báu trong suốt quá trình tham gia học tập tại trường.

Tôi chân thành cảm ơn quý thầy cô trong trường Trung học phổ thông Võ Văn

Kiệt đã tạo điều kiện cho tôi được đi học và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã ủng hộ, giúp đỡ

và chia sẻ với tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn.

Chân thành cảm ơn các ý kiến đóng góp quí báu để luận văn được hoàn thiện

hơn.

Vĩnh Long, tháng 10 năm 2012

Tác giả luận văn

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT VIẾT TẮT TỪ ĐẦY ĐỦ

CNH Công nghiệp hóa 1

CNH – HĐH Công nghiệp hóa – hiện đại hóa 2

ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long 3

ĐBSH Đồng bằng sông Hồng 4

HTX Hợp tác xã 5

LNTT Làng nghề truyền thống 6

NXB Nhà xuất bản 7

TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh 8

UBND Ủy ban nhân dân 9

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Trà Vinh ....................... 48

Bảng 2.2. Các đơn vị hành chính của Trà Vinh năm 2010 ....................................... 50

Bảng 2.3. Dân số và lao động theo thành thị và nông thôn tỉnh Trà Vinh ................ 53

Bảng 2.4. Diện tích, dân số và mật độ dân số tỉnh Trà Vinh phân theo huyện ......... 54

Bảng 2.5. Tình hình sản xuất kinh doanh LNTT ở Trà Vinh năm 2010 ................... 90

Bảng 2.6. Doanh thu các LNTT tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2007 – 2010 .................... 91

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Tổng sản phẩm quốc dân của của tỉnh Trà Vinh theo giá thực tế ........ 49

Biểu đồ 2.2. Cơ cấu tổng sản phẩm quốc dân của tỉnh Trà Vinh phân theo khu vực

kinh tế giai đoạn 2006 – 2010 ................................................................................... 49

Biểu đồ 2.3. Cơ cấu dân thành thị và dân nông thôn tỉnh Trà Vinh ......................... 53

Biểu đồ 2.4. Doanh thu các LNTT tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2007 – 2010 ................ 91

DANH MỤC BẢN ĐỒ

Bản đồ 2.1. Hành chính tỉnh Trà Vinh năm 2010 .................................................... 43a

Bản đồ 2.2. Hiện trạng các LNTT tỉnh Trà Vinh năm 2010 .................................... 64a

Bản đồ 2.3. Định hướng các điểm du lịch làng nghề tương lai ở tỉnh Trà Vinh ..... 95a

DANH MỤC HÌNH ẢNH

Hình 2.1. Một khâu sản xuất sản phẩm của lao động làng nghề đan đát Đại An. .. 133

Hình 2.2. Sản phẩm của làng nghề đan đát Đại An ................................................ 133

Hình 2.3. Sản phẩm của làng nghề đan đát Đại An. ............................................... 134

Hình 2.4. Sản phẩm của làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã Lương Hòa. ... 134

Hình 2.5. Máy móc của một hộ trong làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã

Lương Hòa. ............................................................................................................. 135

Hình 2.6. Sản phẩm của làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã Lương Hòa. ... 135

Hình 2.7. Một khâu sản xuất sản phẩm của làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã

Lương Hòa. ............................................................................................................. 136

Hình 2.8. Một khâu sản xuất sản phẩm của làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã

Lương Hòa. ............................................................................................................. 136

Hình 2.9. Sản phẩm của làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã Lương Hòa. ... 137

Hình 2.10. Sản phẩm của làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã Lương Hòa. . 137

Hình 2.11. Sản phẩm của làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã Lương Hòa. . 138

Hình 2.12. Sản phẩm của làng nghề Hưng Mỹ ....................................................... 138

Hình 2.13. Sản phẩm của làng nghề Hưng Mỹ ....................................................... 139

Hình 2.14. Sản phẩm của làng nghề Hưng Mỹ (thảm lát). ..................................... 139

Hình 2.15. Sản phẩm của làng nghề Hưng Mỹ ....................................................... 140

Hình 2.16. Sản phẩm của làng nghề Hưng Mỹ ....................................................... 140

Hình 2.17. Sản phẩm của làng nghề Đức Mỹ ......................................................... 141

Hình 2.18. Sản phẩm của làng nghề sơ chế biến thủy sản Xóm Đáy ..................... 141

Hình 2.19. Sản phẩm của làng nghề sơ chế biến thủy sản Xóm Đáy ..................... 142

Hình 2.20. Sản phẩm của làng nghề sơ chế biến thủy sản Xóm Đáy ..................... 142

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN

PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1

1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI ........................................................................................... 1

2.MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI ..................................................................................... 2

3.NHIỆM VỤ ............................................................................................................ 2

4.LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ........................................................................ 3

4.1. Thế giới .......................................................................................................... 3

4.2. Việt Nam........................................................................................................ 3

5.PHẠM VI NGHIÊN CỨU ..................................................................................... 6

5.1. Về nội dung ................................................................................................... 6

5.2. Về không gian ................................................................................................ 6

6.QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................... 6

6.1. Các quan điểm vận dụng trong nghiên cứu ................................................... 6

6.2. Các phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 8

7.CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN ............................................................................ 9

8.NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI .................................................................. 10

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................................... 11

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG

NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ DU LỊCH LÀNG NGHỀ. ............................................ 11

1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM: ................................................................................... 11

1.1.1. Du lịch: ..................................................................................................... 11

1.1.2. Nhu cầu du lịch ......................................................................................... 12

1.1.3. Sản phẩm du lịch ...................................................................................... 12

1.1.4. Ngành nghề truyền thống ......................................................................... 15

1.1.5. Làng nghề ................................................................................................. 15

1.1.6. Làng nghề truyền thống: ........................................................................... 18

1.1.7. Du lịch làng nghề: .................................................................................... 20

1.1.8. Quan niệm về hội nhập: ............................................................................ 20

1.1.9. Tác động của hội nhập đến du lịch và làng nghề phục vụ du lịch: .......... 21

1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA LÀNG NGHỀ: ................................................................... 25

1.2.1. Các làng nghề phát triển đa dạng về quy mô, cơ cấu ngành nghề và gắn

bó chặt chẽ với nông nghiệp, nông thôn:............................................................ 25

1.2.2. Đặc điểm về trình độ kĩ thuật, công nghệ và lao động: ............................ 26

1.2.3. Nguyên vật liệu của các làng nghề thường là tại chỗ: .............................. 26

1.2.4. Sản phẩm của các làng nghề mang tính thuần túy, có tính mỹ thuật cao,

mang đậm bản sắc dân tộc: ................................................................................. 27

1.2.5. Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của làng nghề gắn với truyền

thống hộ gia đình, qui mô nhỏ: ........................................................................... 28

1.2.6. Làng nghề là sự kết tinh giá trị văn hóa văn minh lâu đời của dân tộc: ... 29

1.3. Ý NGHĨA CỦA LÀNG NGHỀ: ...................................................................... 29

1.3.1. Ý nghĩa về kinh tế: ................................................................................... 30

1.3.2. Ý nghĩa về xã hội và môi trường: ............................................................. 31

1.3.3. Ý nghĩa đối với du lịch: ............................................................................ 32

1.4. PHÂN LOẠI LÀNG NGHỀ: ........................................................................... 33

1.4.1. Phân theo số lượng làng nghề: ................................................................. 33

1.4.2. Phân theo tính chất nghề: ......................................................................... 34

1.4.3. Phân theo các nhóm nghề ......................................................................... 34

1.4.4. Phân theo trình độ kĩ thuật ........................................................................ 34

1.5. PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ VÀ DU LỊCH LÀNG NGHỀ Ở MỘT SỐ

NƯỚC VÀ VIỆT NAM: ......................................................................................... 35

1.5.1. Ở Trung Quốc ........................................................................................... 35

1.5.2. Ở Đài Loan ............................................................................................... 35

1.5.3. Ở Nhật Bản ............................................................................................... 36

1.5.4. Ở Thái Lan ................................................................................................ 36

1.5.5. Ở Việt Nam ............................................................................................... 38

1.5.6. Một số điểm du lịch làng nghề điển hình ................................................. 39

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN

THỐNG CỦA TỈNH TRÀ VINH. ...................................................................................... 45

2.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH TRÀ VINH: ............................................................. 45

2.2. CÁC ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

CỦA TỈNH TRÀ VINH ......................................................................................... 47

2.2.1. Các nhân tố kinh tế - xã hội ...................................................................... 47

2.2.2. Các nhân tố tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên ....................................... 59

2.3. THỰC TRẠNG CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG CỦA TỈNH TRÀ

VINH....................................................................................................................... 66

2.3.1. Các làng nghề đang hoạt động.................................................................. 67

2.3.2. Số lượng khách ......................................................................................... 90

2.4. DOANH THU TỪ CÁC LÀNG NGHỀ .......................................................... 91

2.5. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ CỦA TỈNH

PHỤC VỤ DU LỊCH .............................................................................................. 92

2.5.1. Những thành tựu đạt được ........................................................................ 92

2.5.2. Những hạn chế cần khắc phục .................................................................. 93

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC LÀNG

NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở TỈNH TRÀ VINH PHỤC VỤ DU LỊCH THỜI KỲ

HỘI NHẬP. ............................................................................................................................... 98

3.1. NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ ĐƯA RA ĐỊNH HƯỚNG ......................................... 99

3.2. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN ..................................................................... 102

3.2.1. Qui hoạch hệ thống các làng nghề truyền thống .................................... 102

3.2.2. Phát triển hệ thống các làng nghề truyền thống ưu thế .......................... 103

3.2.3. Đầu tư nhân lực, vật lực cho phát triển .................................................. 104

3.2.4. Thiết lập và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ................................ 106

3.2.5. Hợp tác đầu tư từ ngành du lịch, đặc biệt cho các làng nghề ................. 107

3.2.6. Phát triển cơ sở hạ tầng – vật chất kĩ thuật hiện đại cho các làng nghề . 107

3.2.7. Bảo vệ môi trường – phát triển bền vững trong các làng nghề .............. 108

3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ............................................................ 110

3.3.1. Thực hiện đổi mới quản lí, tổ chức, tiến trình qui hoạch hệ thống làng

nghề phù hợp với tiềm năng ............................................................................. 110

3.3.2. Kêu gọi đầu tư hiện đại hóa vật chất kĩ thuật, phương tiện sản xuất ..... 111

3.3.3. Cải tiến mẫu mã, đa dạng hóa sản phẩm ................................................ 113

3.3.4. Tổ chức các loại hình đào tạo kết hợp để nâng cao chất lượng đội ngũ lao

động nghề có kĩ thuật cao ................................................................................. 114

3.3.5. Xúc tiến quảng bá sản phẩm làng nghề qua nhiều phương tiện và hoạt

động xã hội trong và ngoài nước ...................................................................... 116

3.3.6. Sử dụng tối đa và có hiệu quả lao động nghề truyền thống địa phương 117

3.3.7. Liên kết, hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp du lịch tham gia đầu tư

phát triển và tiêu thụ sản phẩm ......................................................................... 118

3.3.8. Triển khai đồng bộ thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ môi trường sinh thái

và môi trường sản xuất, phát triển bền vững làng nghề ................................... 119

3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................................................................................... 121

3.4.1. Kiến nghị với cấp lãnh đạo Trà Vinh ..................................................... 121

3.4.2. Kiến nghị với chính quyền địa phương có phát triển nghề truyền thống125

3.4.3. Kiến nghị với các doanh nghiệp du lịch ................................................. 126

3.4.4. Kiến nghị với người dân địa phương tham gia sản xuất sản phẩm nghề

truyền thống ...................................................................................................... 127

KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 128

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................ 131

PHỤ LỤC ............................................................................................................................. 133

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Nghề và làng nghề truyền thống (LNTT) đóng vai trò quan trọng trong đời

sống kinh tế - xã hội, nhất là các vùng nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác, LNTT góp

phần vào sự phân công lao động trong nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam. Chuyển

dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp – nông thôn phải gắn liền với quá trình xây dựng

nông thôn mới, trong đó phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và làng nghề sẽ

góp phần thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, cải tạo và giữ gìn môi trường

sinh thái, cải thiện và nâng cao mức sống cho cư dân nông thôn.

Ngày nay, du lịch đã trở thành một nhu cầu xã hội không thể thiếu được trong

đời sống sinh hoạt của các nước đặc biệt là các nước có nền kinh tế phát triển, các

nước đang tiến hành công nghiệp hóa và đô thị hóa.

Trong những năm gần đây, loại hình du lịch làng nghề truyền thống ở Việt

Nam ngày càng hấp dẫn du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài, bởi những giá trị

văn hóa lâu đời và cách sáng tạo sản phẩm thủ công đặc trưng ở mỗi vùng.

Trong xu thế hội nhập và mở cửa, LNTT đang dần lấy lại vị trí quan trọng

của mình trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia.

Những làng nghề này như một hình ảnh đầy bản sắc, khẳng định nét riêng biệt, độc

đáo không thể thay thế. Một cách giới thiệu sinh động về đất, nước và con người

của mỗi vùng, miền, địa phương. Phát triển du lịch làng nghề chính là một hướng đi

đúng đắn và phù hợp, được nhiều quốc gia ưu tiên trong chính sách quảng bá và

phát triển du lịch. Những lợi ích to lớn của việc phát triển du lịch làng nghề không

chỉ thể hiện ở những con số tăng trưởng lợi nhuận kinh tế, ở việc giải quyết nguồn

lao động địa phương mà hơn thế nữa, còn là một cách thức gìn giữ và bảo tồn những

giá trị văn hoá của dân tộc. Đó là những lợi ích lâu dài không thể tính được trong

ngày một ngày hai.

2

Trà Vinh là một trong những tỉnh có nhiều lợi thế để phát triển các ngành

nghề và LNTT, sự phát triển của các làng nghề góp phần giải quyết việc làm cho

người lao động ở nông thôn, tăng giá trị tổng sản phẩm hàng hóa cho nền kinh tế,

thu nguồn ngoại tệ lớn, thực hiện các yêu cầu chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế nông

thôn theo hướng CNH – HĐH, đặc biệt sản phẩm của các làng nghề tạo sức cuốn hút

khách du lịch trong và ngoài nước. Tuy nhiên trong thời gian qua LNTT phát triển

chưa tương xứng với tiềm năng. Vì vậy, việc tìm hiểu thực trạng phát triển của các

LNTT ở tỉnh, để có những đánh giá chung về sự phát triển của làng nghề, trên cơ sở

đó đưa ra các định hướng và giải pháp phát triển làng nghề sao cho Trà Vinh thực sự

là điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước, để du lịch làng nghề thực sự

phát huy tiềm năng và hiệu quả, đóng góp ngày một bền vững hơn cho mục tiêu phát

triển du lịch cũng như phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn các giá trị văn hóa, góp

phần khẳng định vai trò của các LNTT trong sự phát triển của du lịch là một nghiên

cứu thiết thực. Chính vì thế, tôi đã chọn đề tài: “Định hướng phát triển các LNTT ở

tỉnh Trà Vinh phục vụ du lịch thời kỳ hội nhập”.

2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI:

Vận dụng cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển LNTT và du lịch làng nghề

vào nghiên cứu các điều kiện và thực trạng phát triển các LNTT ở tỉnh Trà Vinh. Từ

đó, đề ra định hướng và giải pháp phát triển các LNTT phục vụ du lịch thời kỳ hội

nhập.

3. NHIỆM VỤ:

Tổng quan cơ sở lí luận và thực tiễn về du lịch và LNTT để vận dụng vào

nghiên cứu LNTT của tỉnh Trà Vinh.

Khảo sát thực tế, thu thập thông tin, phân tích các điều kiện và thực trạng

phát triển các LNTT ở tỉnh Trà Vinh.

Đánh giá chung về sự phát triển các LNTT và thực trạng du lịch làng nghề

của tỉnh.

Đề ra những định hướng và giải pháp phát triển các LNTT ở tỉnh phục vụ du

lịch.

3

4. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:

4.1. Thế giới:

Trên thế giới, từ những năm đầu của thế kỷ XX cũng có một số công trình

nghiên cứu có liên quan đến làng nghề như:

- “Nhà máy làng xã” của Bành Tử (1922).

- “Mô hình sản xuất làng xã” và “Xã hội hóa làng thủ công” của N.H.Noace

(1928).

- Năm 1964, tổ chức WCCI (World crafts council International – Hội đồng

Quốc tế về nghề thủ công thế giới) được thành lập, hoạt động phi lợi nhuận vì lợi ích

chung của các quốc gia có nghề thủ công truyền thống.

Đối với các nước Châu Á, sự phát triển kinh tế LNTT là giải pháp tích cực

cho các vấn đề kinh tế xã hội nông thôn. Thực tế nhiều quốc gia trong khu vực có

những kinh nghiệm hiệu quả trong phát triển làng nghề, điển hình là Trung Quốc,

Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan. Trung Quốc sau thời kỳ cải cách mở cửa

năm 1978, việc thành lập và duy trì Xí nghiệp Hương Trấn, tăng trưởng với tốc độ

20 – 30 % đã giải quyết được 12 triệu lao động dư thừa ở nông thôn. Hay Nhật Bản,

với sự thành lập “Hiệp hội khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống” là hạt

nhân cho sự nghiệp khôi phục và phát triển ngành nghề có tính truyền thống dựa

theo “Luật nghề truyền thống”…

4.2. Việt Nam:

Ở Việt Nam, vấn đề làng nghề được đề cập đến qua nhiều thời kỳ, với những

khía cạnh và các mục đích khác nhau.

- Về sách tham khảo:

+ “Tạo việc làm thông qua khôi phục và phát triển LNTT” NXB Nông

nghiệp, 1997, của KS. Nguyễn Văn Đại và PTS. Trần Văn Luận.

+ “Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam” NXB Văn hóa, 1998, của

ThS. Bùi Văn Vượng, 1998. Tác giả đã tập trung trình bày các loại hình LNTT như:

đúc đồng, kim hoàn, rèn, gốm, chạm khắc đá, dệt, thêu ren, giấy dó, tranh dân gian,

dệt chiếu, quạt giấy, mây tre đan, ngọc trai, làm trống. Ở đây chủ yếu giới thiệu lịch

4

sử, kinh tế, văn hoá, nghệ thuật, tư tưởng, kỹ thuật, các bí quyết nghề, thủ pháp nghệ

thuật, kỹ thuật của các nghệ nhân và các làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam.

+ “Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình CNH” NXB Khoa học

xã hội, 2001, TS. Dương Bá Phượng, tác giả đã đề cập khá đầy đủ từ lý luận đến

thực trạng của làng nghề: từ đặc điểm, khái niệm, con đường và điều kiện hình thành

làng nghề, tập trung vào một số làng nghề ở một số tỉnh với các quan điểm, giải

pháp và phương hướng nhằm phát triển các làng nghề trong CNH – HĐH.

+ “Phát triển LNTT trong quá trình CNH – HĐH” NXB Chính trị Quốc gia,

2003, TS Mai Thế Hởn, GS.TS. Hoàng Ngọc Hòa, PGS.TS. Vũ Văn Phúc …

Và nhiều công trình khác của nhiều tác giả như: “Làng Đại Bái – Gò đồng

Bắc Ninh”, tác giả Đỗ Thị Hào, 1987; “Về hai LNTT Phú Bài và Hiền Lương” tác

giả Bùi Thị Tân, 1999, “LNTT tại TPHCM” tác giả Tôn Nữ Quỳnh Trân và tập thể

tác giả, 2002; “Làng nghề Việt Nam và môi trường”, của Đặng Kim Chi và các cộng

sự, 2005…

- Về đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước và cấp bộ:

+ Đề tài “Các giải pháp phát triển thủ công nghiệp theo hướng CNH – HĐH ở

vùng ĐBSH” của Học viện Chính trị Quốc gia TPHCM, do TS. Đặng Lễ Nghi làm chủ

nhiệm đề tài, thực hiện năm 1998.

+ Đề tài “Đề xuất chính sách và biện pháp cải thiện môi trường cho bảy loại

nghề có nguy cơ gây ô nhiễm nghiêm trọng do GS.TS. Đặng Kim Chi làm chủ nhiệm

(đề tài được tặng bằng khen của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ giai đoạn 2001

– 2005).

+ Đề tài “Qui hoạch phát triển ngành nghề thủ công phục vụ CNH – HĐH nông

thôn Việt Nam” do JICA và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện tháng

11/2002. Công trình đã điều tra, nghiên cứu nhiều vấn đề liên quan đến làng nghề thủ

công của tất cả 61 tỉnh, thành cả nước (số lượng các tỉnh, thành đến năm 2001) chuẩn bị

qui hoạch tổng thể và nêu các kiến nghị cụ thể, đề xuất các chương trình hành động để

phát triển ngành nghề nông thôn.

5

+ Đề tài “Tiếp tục đổi mới chính sách và giải pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm

của các LNTT ở Bắc Bộ thời kỳ đến năm 2010” - Bộ Thương Mại, 2003.

+ Đề tài khoa học về việc “Hoàn thiện các giải pháp kinh tế tài chính nhằm khôi

phục và phát triển làng nghề ở nông thôn vùng ĐBSH” của Học viện Tài chính, 2004.

+ Đề tài “Phát triển thị trường cho làng nghề tiểu thủ công nghiệp vùng ĐBSH

trong giai đoạn hiện nay” của Khoa Kinh tế phát triển (Học viện Chính trị quốc gia

TPHCM) thực hiện năm 2005.

- Về luận án tiến sĩ:

+ Luận án của Mai Thế Hởn (2000) “Phát triển LNTT trong quá trình CNH,

HĐH ở vùng ven Thủ đô Hà Nội”.

+ Luận án của Trần Minh Yến (2003) “Phát triển LNTT ở nông thôn Việt Nam

trong quá trình CNH – HĐH”.

+ Luận án của Lê Mạnh Hùng (2005) “Định hướng và những giải pháp kinh

tế chủ yếu nhằm phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn tỉnh Hà

Tây”.

+ Luận án của Đỗ Quang Dũng (2006) “Phát triển làng nghề trong quá trình

CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở Hà Tây”.

- Về luận văn thạc sĩ:

+ Luận văn của Vũ Thị Hà (2002) “Khôi phục và phát triển làng nghề ở nông

thôn vùng Đồng bằng sông Hồng”.

+ Luận văn của Nguyễn Trọng Tuấn (2006) “Nghề truyền thống trên địa bàn

Hà Nội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”.

+ Luận văn của Nguyễn Hữu Loan (2007) “Giải pháp xây dựng làng nghề

trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh theo hướng phát triển bền vững”.

+ Luận văn của Trần Thị Thùy Linh (2011) “Phát triển hệ thống làng nghề

tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp”.

Nhìn chung các công trình nghiên cứu kể trên đã nghiên cứu những khía cạnh

khác nhau của làng nghề, LNTT, hiện trạng và xu hướng phát triển, vấn đề ô nhiễm

môi trường và một số giải pháp. Đối với tỉnh Trà Vinh, Sở Nông nghiệp và Phát

6

triển nông thôn đã thông qua báo cáo qui hoạch phát triển ngành nghề nông thôn

tỉnh đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2010, chưa có công trình nghiên cứu cụ thể

về LNTT phục vụ du lịch.

5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:

5.1. Về nội dung:

Trong đề tài này tác giả tập trung nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến

sự hình thành và phát triển của các LNTT của tỉnh Trà Vinh; thực trạng phát triển

các LNTT như: Làng nghề dệt chiếu, thảm, se sợi tơ xơ dừa ở xã Đức Mỹ, huyện

Càng Long; làng nghề đan đát xã Đại An, huyện Trà Cú; làng nghề đan lát, dệt mành

tre, se sợi tơ sơ dừa, tranh ghép gỗ xã Hưng Mỹ, huyện Châu Thành; làng nghề đan

đát – thủ công mỹ nghệ xã Lương Hòa, huyện Châu Thành; làng nghề sơ chế thủy

sản Xóm Đáy, xã Đông Hải, huyện Duyên Hải; làng nghề hoa kiểng ở ấp Vĩnh Yên,

xã Long Đức, Thành phố Trà Vinh và làng nghề hoa kiểng ở ấp Long Bình, phường

4, Thành phố Trà Vinh. Trên cơ sở đó đánh giá khách quan về sự phát triển các làng

nghề của tỉnh từ đó đề ra những định hướng và giải pháp phát triển các LNTT ở tỉnh

Trà Vinh phục vụ du lịch thời kỳ hội nhập.

5.2. Về không gian:

Nghiên cứu các LNTT trên toàn bộ lãnh thổ tỉnh Trà Vinh.

6. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

6.1. Các quan điểm vận dụng trong nghiên cứu:

6.1.1. Quan điểm lãnh thổ:

Trong lãnh thổ có sự phân hóa về dân cư, kinh tế... nghiên cứu sự khác biệt

này nhằm phát hiện các mối liên hệ hữu cơ bên trong một tổng thể nhất định. Việc

sử dụng quan điểm lãnh thổ trong nghiên cứu LNTT là hết sức cần thiết bởi vì

không phải nơi nào trong một vùng, một khu vực cũng có điều kiện giống nhau để

phát triển LNTT. Vì vậy, dựa vào quan điểm lãnh thổ tìm ra các đặc trưng quan

trọng nhất để phát triển LNTT phục vụ du lịch phù hợp với cấu trúc lãnh thổ trong

một thể tổng hợp, sao cho mang lại hiệu quả tối ưu nhất.

7

6.1.2. Quan điểm tổng hợp:

Trong nghiên cứu Địa lý nói chung và Địa lý kinh tế - xã hội nói riêng, việc

vận dụng quan điểm tổng hợp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Các vấn đề về phát

triển LNTT ở Trà Vinh là vô cùng phong phú và đa dạng, có quá trình hình thành và

phát triển trong mối liên hệ nhiều chiều. Để việc định hướng phát triển làng nghề

phục vụ du lịch khách quan và khoa học, nhất thiết phải sử dụng quan điểm tổng

hợp.

6.1.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh:

Mỗi một hiện tượng địa lý kinh tế xã hội đều tồn tại trong một thời gian nhất

định. Nói cách khác các quá trình này có quá trình phát sinh, phát triển và suy vong.

Khi xem xét đánh giá cần thiết phải đứng trên quan điểm lịch sử. Nghiên cứu các

LNTT ở tỉnh Trà Vinh đòi hỏi phải nhìn nhận từ quá khứ để lí giải ở một mức độ

nhất định ở hiện tại và dự báo tương lai. Nếu tách rời quá khứ khỏi hiện tại thì khó

có thể giải thích thỏa đáng sự phát triển ở thời điểm hiện tại và nếu không chú ý đến

tương lai thì mất khả năng dự báo.

6.1.4. Quan điểm phát triển bền vững:

Thuật ngữ “Phát triển bền vững” đã trở thành thuật ngữ quen thuộc đối với tất

cả những ai quan tâm đến môi trường và phát triển. Hiện nay, quan niệm được sử

dụng rộng rãi nhất là: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu của các

thế hệ hôm nay mà không gây hại đến khả năng thỏa mãn những nhu cầu của các thế

hệ tương lai trong việc đáp ứng những nhu cầu của họ” của Ủy ban thế giới về môi

trường và phát triển.

Quán triệt quan điểm phát triển bền vững đòi hỏi phải bền vững cả về ba mặt:

kinh tế, xã hội, môi trường. Về mặt kinh tế, đó là tốc độ tăng trưởng, hiệu quả và sự

ổn định của nền kinh tế. Dưới góc độ xã hội , phải chú trọng đến việc xóa đói giảm

nghèo, xây dựng thể chế và bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Còn về phương diện môi

trường là giữ gìn tính đa dạng sinh học, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, ngăn chặn sự

ô nhiễm và xuống cấp của môi trường. Phát triển các LNTT ở Trà Vinh phải chú ý

đến cả ba mặt trên thì mới phát triển bền vững.

8

6.2. Các phương pháp nghiên cứu:

6.2.1. Phương pháp thu thập tài liệu:

Phương pháp thu thập tài liệu là phương pháp truyền thống. Việc nghiên cứu

các LNTT tỉnh Trà Vinh không thể mang tính chính xác nếu thiếu tính kế thừa, thiếu

sự tích lũy những thành tựu của quá khứ.

Các nguồn tài liệu cần thu thập tương đối đa dạng, phong phú bao gồm các

tài liệu đã được xuất bản, tài liệu của các cơ quan lưu trữ và các cơ quan khác nhau

theo chương trình hay đề tài nghiên cứu hoặc theo những vấn đề nghiên cứu riêng

cũng như các tài liệu trên thực địa và cả tài liệu trên mạng internet.

Đối với bản thân khi nghiên cứu các làng nghề truyền thống ở tỉnh Trà Vinh,

tôi đã quan tâm đến các dạng thông tin sau đây: trình bày bằng văn bản (sách, báo,

tạp chí), số liệu thống kê, các bản đồ, tranh ảnh và các dạng khác (điều tra, phỏng

vấn, Internet).

6.2.2. Phương pháp khảo sát thực tế:

Phương pháp khảo sát thực tế là một phương pháp quan trọng trong quá trình

nghiên cứu đề tài. Quá trình khảo sát thực tế được tiến hành gần như toàn bộ lãnh

thổ của Trà Vinh. Khảo sát thực tế trên các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, các LNTT, các

vùng nguyên liệu,... để từ đó có cái nhìn tổng thể, khách quan về thực trạng và có

căn cứ khoa học để đề xuất những định hướng phát triển các LNTT ở tỉnh Trà Vinh

phục vụ du lịch.

9

6.2.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh:

Sau khi thu thập được tài liệu, bước tiếp theo là xử lí theo mục tiêu của việc

nghiên cứu. Trong quá trình xử lí tài liệu, các phương pháp truyền thống được sử

dụng như phân tích, tổng hợp, so sánh... Tài liệu sau khi tiến hành phân tích, tổng

hợp đặc biệt là các số liệu, tài liệu được phân tích, tổng hợp sẽ được đối chiếu làm

cơ sở cho việc đưa ra nhận định hoặc kết luận của mình.

6.2.4. Phương pháp bản đồ và hệ thống thông tin địa lý (GIS):

Phương pháp bản đồ đây là phương pháp rất đặc trưng của Địa lý kinh tế - xã

hội bởi vì mọi nghiên cứu về Địa lý điều mở đầu bằng bản đồ và kết thúc cũng bằng

bản đồ.

Đối với Địa lý kinh tế - xã hội, ý nghĩa to lớn của nó là góp phần giải quyết

nhiều nội dung nghiên cứu cũng như đánh giá, phân tích thực trạng phát triển các

LNTT của địa phương cũng như đề xuất các định hướng phát triển trong tương lai.

Ngày nay, công nghệ thông tin phát triển như vũ bão. Việc sử dụng những

thành tựu mới của nhân loại trong nghiên cứu địa lý kinh tế - xã hội ngày càng được

nhân rộng.

Hệ thống thông tin địa lý là hệ thống thông tin đa dạng dùng để lưu trữ, xử lí,

phân tích, tổng hợp, điều hàng và quản lí những dữ liệu không gian, đồng thời cho

phép lấy và trình bày thông tin dưới dạng dễ tiếp nhận, trao đổi và sử dụng.

Có thể coi đây là một công cụ hoặc là một phương pháp có hiệu quả trong

nghiên cứu địa lý kinh tế - xã hội. Nó cho phép chồng xếp các thông tin địa lý để xác

định được những đặc trưng của các đối tượng nghiên cứu với độ tin cậy cao.

Trong quá trình nghiên cứu, tôi sử dụng nhiều bản đồ để khai thác kiến thức,

kiểm tra và đánh giá. Ngoài ra, tôi thành lập nhiều bản đồ để thể hiện kết quả nghiên

cứu.

7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN:

Tên đề tài luận văn: “Định hướng phát triển các làng nghề truyền thống ở

tỉnh Trà Vinh phục vụ du lịch thời kỳ hội nhập”

10

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục chữ cái viết tắt, tài liệu tham

khảo và phụ lục, nội dung luận văn gồm ba chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển LNTT và du lịch làng

nghề.

Chương 2: Thực trạng phát triển các LNTT của tỉnh Trà Vinh.

Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển các LNTT ở tỉnh Trà Vinh

phục vụ du lịch thời kỳ hội nhập.

8. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI.

Về mặt lí luận: Đề tài đã tổng quan có chọn lọc những cơ sở lí luận và thực tiễn

của phát triển LNTT và du lịch làng nghề.

Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu và phân tích thực trạng phát triển các LNTT của

tỉnh Trà Vinh, định hướng và giải pháp để phát triển các LNTT ở tỉnh Trà Vinh phục

vụ du lịch hợp lí, hiệu quả và bền vững.

11

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

VÀ DU LỊCH LÀNG NGHỀ.

1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM:

1.1.1. Du lịch:

Trong lịch sử nhân loại, du lịch được ghi nhận như một sở thích, một nhu

cầu, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch được xác

định là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung văn hóa sâu sắc, có

tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao.

Năm 1811, định nghĩa về du lịch lần đầu tiên xuất hiện tại nước Anh. Năm

1930, Glusman người Thụy Sĩ định nghĩa: “Du lịch là sự chinh phục không gian của

những người đến một địa điểm, mà ở đó họ không có chỗ cư trú thường xuyên”.

Bên cạnh đó, hai học giả Hunziker và Krapf – những người đặt nền móng cho

lí thuyết về cung – cầu du lịch và I.I Pirojnik (năm 1985) cũng đã đưa ra định nghĩa

về du lịch.

Hội nghị lần thứ 27 (năm 1993) của Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) đã

đưa ra khái niệm: “Du lịch là hoạt động về chuyến đi đến một nơi khác với môi

trường sống thường xuyên (usual environment) của con người và ở lại đó để tham

quan, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí hay các mục đích khác ngoài các hoạt động để có

thù lao ở nơi đến với thời gian liên tục ít hơn 1 năm”.

Trong Luật Du lịch Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam khóa XI, kì họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 7 năm 2005, tại điều

4, chương I định nghĩa: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của

con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham

quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”. Trong

12

điều kiện nước ta hiện nay, quan niệm này ngày càng phổ biến và được công nhận

rộng rãi.

1.1.2. Nhu cầu du lịch:

- Nhu cầu du lịch là sự mong muốn của con người đi đến một nơi khác với

nơi ở thường xuyên của mình để có được những xúc cảm mới, trải nghiệm mới, hiểu

biết mới, để phát triển các mối quan hệ xã hội, phục hồi sức khỏe tạo sự thoải mái,

dễ chịu về tinh thần.

+ Nhu cầu thiết yếu trong du lịch: là những nhu cầu về vận chuyển, lưu trú và

ăn uống cần phải được thỏa mãn trong chuyến hành trình du lịch.

+ Nhu cầu đặc trưng: là những nhu cầu xác định mục đích chính của chuyến

đi, ví dụ như: nhu cầu nghỉ dưỡng, tham quan, giải trí, thăm viếng, tham gia lễ hội,

học tập nghiên cứu.

+ Nhu cầu bổ sung: là những nhu cầu chưa định hình trước, nó phát sinh

trong chuyến hành trình du lịch như thông tin, tư vấn, mua sắm.

- Phân loại nhu cầu du lịch:

+ Nhu cầu du lịch thực tế: là nhu cầu được thỏa mãn được thực hiện trong

thực tế được thể hiện qua số lượng khách du lịch trong một khoảng thời gian nào đó.

+ Nhu cầu bị kiềm chế: là nhu cầu của một bộ phận dân cư muốn đi du lịch

nhưng không thực hiện được vì một lí do nào đó. Các nguyên nhân chủ quan có thể

là: thu nhập thấp và quá bận rộn. Các nguyên nhân khách quan có thể là: hoàn cảnh

gia đình, điểm đến du lịch không đảm bảo an toàn, phương tiện vận chuyển không

đáp ứng đủ nhu cầu đi lại, cơ chế chính sách của chính phủ nơi khách đi hoặc đến

không khuyến khích đi du lịch hoặc tiếp nhận khách đi du lịch. Không có nhu cầu

gồm những người có đủ điều kiện nhưng không muốn đi du lịch và những người

trong suốt cuộc đời không thể đi du lịch vì lí do hoàn cảnh gia đình, sức khỏe, lối

sống, văn hóa…

1.1.3. Sản phẩm du lịch:

1.1.3.1. Khái niệm:

Có nhiều khái niệm về sản phẩm du lịch có thể được nêu ra:

13

Theo nghĩa rộng: “Sản phẩm du lịch có thể được hiểu là tất cả các hàng hóa

và dịch vụ mà khách du lịch tiêu dùng cho chuyến đi du lịch của họ”.

Theo nghĩa hẹp: “Sản phẩm du lịch là các hàng hóa và dịch vụ mà khách mua

lẻ hoặc trọn gói do các doanh nghiệp du lịch tạo ra nhằm thỏa mãn nhu cầu của

khách du lịch”.

“Sản phẩm du lịch là một tổng thể phức tạp bao gồm nhiều thành phần không

đồng nhất cấu tạo thành, đó là tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn, cơ sở vật

chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng, dịch vụ du lịch và đội ngũ cán bộ nhân viên du lịch”.

“Sản phẩm du lịch là loại sản phẩm tiêu dùng đáp ứng cho nhu cầu của du

khách, nó bao gồm di chuyển, ăn ở và giải trí”.

“Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho du khách dựa trên

cơ sở khai thác các tiềm năng du lịch nhằm cung cấp cho khách một khoảng thời

gian thú vị, một kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và sự hài lòng”.

Theo Michael M. Coltman: “Sản phẩm du lịch là một tổng thể bao gồm các

thành phần không đồng nhất hữu hình và vô hình”.

Theo quan điểm Maketting: “Sản phẩm du lịch là những hàng hóa và dịch vụ

có thể thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch mà các doanh nghiệp du lịch đưa ra chào

bán trên thị trường với mục đích thu hút sự chú ý mua sắm và tiêu dùng của khách

du lịch”.

Theo điều 4, chương I, Luật Du lịch Việt Nam định nghĩa: “Sản phẩm du lịch

là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến

đi du lịch”.

Ngày nay, tuy chưa thật thống nhất chuẩn mực nhưng hiểu chung là: “Sản

phẩm du lịch là sự kết hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên cơ sở khai

thác các tài nguyên du lịch đáp ứng nhu cầu của khách du lịch” hay “Sản phẩm du

lịch bao gồm các dịch vụ du lịch, các hàng hóa, tiện nghi cho du khách, nó được tạo

nên bởi các yếu tố tự nhiên, nhân văn và trên cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động du

lịch tại một vùng, một cơ sở nào đó”.

14

Nhu cầu của con người không có mục đích, đòi hỏi ngày càng cao do đó việc

đa dạng hóa và nâng cao chất lượng của sản phẩm du lịch là một yêu cầu cấp thiết.

Điểm chung nhất mà sản phẩm du lịch mang lại cho du khách chính là sự hài lòng.

Nhưng đó không phải là sự hài lòng như khi mua sắm một hàng hóa vật chất, mà ở

đây sự hài lòng do được trải qua một khoảng thời gian thú vị, tồn tại trong kí ức của

du khách khi kết thúc chuyến du lịch.

1.1.3.2. Những bộ phận hợp thành sản phẩm du lịch:

Sản phẩm du lịch bao gồm hai bộ phận: Dịch vụ du lịch và tài nguyên du lịch.

- Dịch vụ du lịch gồm có:

+ Dịch vụ lữ hành;

+ Dịch vụ vận chuyển;

+ Dịch vụ lưu trữ, ăn uống;

+ Dịch vụ vui chơi giải trí;

+ Dịch vụ mua sắm;

+ Dịch vụ thông tin, hướng dẫn;

+ Dịch vụ trung gian và dịch vụ bổ sung.

- Tài nguyên du lịch gồm có:

+ Tài nguyên du lịch tự nhiên;

+ Tài nguyên du lịch nhân văn.

1.1.3.3. Phân loại sản phẩm du lịch:

Sản phẩm du lịch gồm:

+ Sản phẩm hữu hình (sản phẩm vật chất): là những sản phẩm mà ta có thể

nhìn thấy, cầm nắm, cân đong, đo đếm (tài nguyên du lịch cụ thể, phương tiện tham

gia vào hoạt động du lịch của khách), được các doanh nghiệp du lịch cung cấp cho

khách du lịch.

+ Sản phẩm vô hình (sản phẩm phi vật chất): thể hiện ở kinh nghiệm tổ chức,

thái độ phục vụ, môi trường sinh hoạt đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ, văn hóa. Hay sản

phẩm phi vật chất là những sản phẩm dịch vụ tồn tại dưới dạng vô hình thể hiện ở

một sự trải nghiệm, một giá trị tinh thần, hoặc một sự hài lòng hay không hài lòng.

15

1.1.4. Ngành nghề truyền thống:

Ngành nghề truyền thống là những ngành nghề tiểu thủ công nghiệp đã xuất

hiện từ lâu đời trong lịch sử phát triển kinh tế, được truyền từ đời này qua đời khác

và tồn tại cho đến ngày nay, bao gồm cả những ngành nghề mà phương pháp sản

xuất được cải tiến hoặc sử dụng những máy móc hiện đại để hỗ trợ cho sản xuất,

nhưng vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống.

Căn cứ vào thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định

số 66/2006/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn, tiêu chí công

nhận nghề truyền thống gồm có 3 tiêu chí sau:

- Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính từ thời điểm đề nghị

công nhận.

- Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc.

- Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng

nghề.

1.1.5. Làng nghề:

Từ xa xưa, người nông dân Việt Nam đã biết sử dụng thời gian nông nhàn để

sản xuất những sản phẩm thủ công, phi nông nghiệp phục vụ cho nhu cầu đời sống

như: các công cụ lao động nông nghiệp, giấy, lụa, vải, thực phẩm qua chế biến…

Các nghề này được lưu truyền và mở rộng qua nhiều thế hệ, dẫn đến nhiều hộ dân có

thể cùng sản xuất một loại sản phẩm. Bên cạnh những người chuyên làm nghề, đa

phần lao động vừa sản xuất nông nghiệp, vừa làm nghề, hoặc làm thuê (nghề phụ).

Nhưng do nhu cầu trao đổi hàng hóa, các nghề mang tính chất chuyên môn sâu hơn,

được cải tiến kỹ thuật hơn và thường được giới hạn trong quy mô nhỏ (làng), dần

dần tách hẳn nông nghiệp để chuyển hẳn sang nghề thủ công. Như vậy, làng nghề đã

xuất hiện. Có rất nhiều quan niệm về làng nghề:

Quan niệm thứ nhất: Làng nghề là nơi mà hầu hết mọi người dân trong làng

đếu hoạt động theo nghề ấy và lấy đó làm nghề sống chủ yếu. Với quan niệm này thì

làng nghề đó hiện nay còn không nhiều.

16

Quan niệm thứ hai: Làng nghề là làng cổ truyền làm nghề thủ công. Ở đây

không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ thủ công

nhiều khi cũng là người làm nông. Nhưng do yêu cầu chuyên môn hóa cao đã tạo ra

những người thợ chuyên sản xuất hàng thủ công truyền thống ngay tại làng nghề hay

phố nghề ở nơi khác. Quan niệm này về làng nghề như vậy vẫn chưa đủ. Không phải

bất kì làng nào có vài ba lò rèn hay vài hộ làm nghề mộc… đều là làng nghề. Để xác

định làng đó có phải là làng nghề hay không, cần xem xét tỉ trọng lao động hay số

hộ làm nghề so với toàn bộ lao động và hộ ở làng hay tỉ trọng thu nhập từ ngành

nghề so với tổng thu nhập của thôn (làng).

Quan niệm thứ ba: Làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, nơi quy tụ các

nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên tâm làm nghề truyền thống lâu đời, có sự

liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống

doanh nghiệp vừa và nhỏ, có cùng tổ nghề. Song ở đây chưa phản ánh đầy đủ tính

chất làng nghề; nó như một thực thể sản xuất kinh doanh tồn tại và phát triển lâu đời

trong lịch sử, là một đơn vị kinh tế tiểu thủ công nghiệp có tác dụng to lớn đối với

đời sống kinh tế - văn hóa – xã hội một cách tích cực.

Từ những cách tiếp cận trên chúng ta có thể thấy khái niệm về làng nghề liên

quan đến các nghề thủ công cụ thể. Vào thời gian trước đây, khái niệm làng nghề chỉ

bao hàm các nghề thủ công nghiệp, còn ngày nay với xu hướng trên thế giới khu vực

kinh tế thứ ba đóng vai trò quan trọng và chiếm ưu thế về mặt tỉ trọng thì các nghề

buôn bán dịch vụ trong nông thôn cũng được xếp vào các làng nghề. Như vậy, trong

làng nghề sẽ có loại làng chỉ có một nghề và làng nhiều nghề, tùy theo số lượng

ngành nghề thủ công nghiệp và dịch vụ chiếm ưu thế có trong làng. Trong nông thôn

Việt Nam trước đây loại làng một nghề xuất hiện và tồn tại chủ yếu, loại làng nhiều

nghề gần đây mới xuất hiện và có xu hướng phát triển mạnh.

Theo Đặng Kim Chi: “Làng nghề là làng nông thôn Việt Nam có ngành nghề

tiểu thủ công nghiệp, phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số lao động và thu nhập so

với nghề nông”.

17

Theo một khái niệm khác: “Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong

một thôn (làng) có một hay một số nghề tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh

doanh độc lập. Thu nhập từ các nghề đó chiếm tỉ trọng cao trong tổng giá trị sản

phẩm của toàn làng”.

Vậy làng nghề là gì? “Làng nghề là một thể chế kinh tế - xã hội ở nông thôn,

được cấu thành bởi hai yếu tố làng, nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất

định, trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính,

giữa họ có mối liên kết kinh tế, văn hóa và xã hội”.

Có rất nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau khi đề cập đến tiêu chí để một

làng ở nông thôn được coi là một làng nghề. Nhưng nhìn chung, các ý kiến thống

nhất ở một số tiêu chí sau:

- Giá trị sản xuất và thu nhập của từ phi nông nghiệp ở làng nghề đạt trên

50% so với tổng giá trị sản xuất và thu nhập chung của làng nghề trong năm; hoặc

doanh thu hàng năm từ ngành nghề ít nhất đạt trên 300 triệu đồng, hoặc:

- Số hộ và số lao động tham gia thường xuyên hoặc không thường xuyên, trực

tiếp hoặc gián tiếp đối với nghề phi nông nghiệp ở làng ít nhất đạt 30% so với tổng

số hộ hoặc lao động ở làng nghề có ít nhất 300 lao động.

- Sản phẩm phi nông nghiệp do làng sản xuất mang tính đặc thù của làng và

do người trong làng tham gia.

Căn cứ vào thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định

số 66/2006/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn, tiêu chí công

nhận làng nghề gồm có 3 tiêu chí sau:

- Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề

nông thôn.

- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm

đề nghị công nhận.

- Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.

18

1.1.6. Làng nghề truyền thống:

Quan niệm thứ nhất: LNTT là một cộng đồng dân cư, cư trú trong một phạm

vi địa bàn tại các vùng nông thôn tách rời khỏi sản xuất nông nghiệp, cùng làm một

hoặc nhiều nghề thủ công có truyền thống lâu đời, để sản xuất một hay nhiều loại

sản phẩm bán ra thị trường để thu lợi. Quan niệm này mới thể hiện được yếu tố

truyền thống lâu đời của làng nghề, còn những làng nghề mới, những tuân thủ yếu tố

truyền thống của vùng hay của khu vực chưa được đề cập đến.

Quan niệm thứ hai: LNTT là những làng nghề làm nghề thủ công có truyền

thống lâu năm, thường là qua nhiều thế hệ. Quan niệm này cũng chưa đầy đủ bởi vì

khi nói đến LNTT ta không thể chú ý đến các mặt đơn lẻ, mà phải chú trọng đến

nhiều mặt trong cả không gian và thời gian, nghĩa là quan tâm đến tính hệ thống,

toàn diện của làng nghề đó, trong đó yếu tố quyết định là nghệ nhân, sản phẩm, kĩ

thuật sản xuất và thủ pháp nghệ thuật.

Quan niệm thứ ba: LNTT là những làng có tuyệt đại đa số bộ phận dân số

làm nghề cổ truyền. Nó được hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử,

được nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác kiểu cha truyền con nối hoặc ít nhất

cũng tồn tại hàng chục năm. Trong làng sản xuất mang tính tập trung, có nhiều nghệ

nhân tài hoa và một nhóm người có tay nghề giỏi làm hạt nhân để phát triển nghề.

Đồng thời, sản phẩm làm ra mang tính tiêu biểu, độc đáo, tinh xảo, nổi tiếng và đậm

nét văn hóa dân tộc. Giá trị sản xuất và thu nhập tiểu thủ công nghiệp của làng

chiếm tỉ lệ 50 % so với tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm.

Đây là khái niệm tương đối đầy đủ bởi vì những làng nghề được gọi là LNTT

hay cổ truyền phải là những làng nghề có các nghề thủ công truyền thống; được hình

thành, tồn tại và phát triển lâu đời, được truyền từ đời này sang đời khác, sản xuất

tập trung, có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề, sản phẩm

mang tính tiêu biểu và độc đáo.

Để xác định một làng nghề là LNTT thì cần có những tiêu thức sau:

- Số hộ và số lao động làm nghề truyền thống ở làng nghề đạt từ 30 % so với

tổng số hộ và lao động của làng.

19

- Giá trị sản xuất và thu nhập từ ngành nghề truyền thống ở làng đạt trên 50

% tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong một năm.

- Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ mang đậm nét yếu tố văn hóa và bản sắc

dân tộc Việt Nam.

- Sản xuất có qui trình công nghệ nhất định, được truyền từ thế hệ này sang

thế hệ khác.

Như vậy, từ những quan niệm trên có thể định nghĩa LNTT là những thôn

làng có một hay nhiều nghề thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để

sản xuất kinh doanh và đem lại nguồn thu nhập chiếm phần chủ yếu trong năm.

Ngành nghề thủ công đó được truyền từ đời này qua đời khác, thường là nhiều thế

hệ. Cùng với thử thách của thời gian, các làng nghề thủ công này đã trở thành nghề

nổi trội, một nghề cổ truyền, tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp

và bán chuyên nghiệp đã chuyên tâm sản xuất, có quy trình công nghệ nhất định và

sống chủ yếu bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ và trở thành hàng hóa

trên thị trường.

Căn cứ vào thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định

số 66/2006/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn, LNTT phải

đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất một nghề truyền thống. Đối với những làng chưa

đạt tiêu chuẩn công nhận làng nghề nhưng có ít nhất một nghề truyền thống được

công nhận thì cũng được công nhận là LNTT.

Khái niệm LNTT phục vụ du lịch: Có thể hiểu LNTT phục vụ du lịch là một

không gian lãnh thổ nông thôn mang đậm nét văn hóa, lịch sử, có các nghệ nhân tiêu

biểu thực hiện tổ chức sản xuất một hoặc một số sản phẩm thủ công truyền thống,

đồng thời các làng nghề này còn cung cấp các dịch vụ phục vụ và thu hút khách du

lịch.

Cần phân biệt rõ sự khác nhau cơ bản giữa LNTT thông thường hay làng

nghề thương mại và LNTT phục vụ du lịch ở chỗ LNTT phục vụ du lịch có lợi thế

thu hút khách du lịch (có giá trị văn hóa lịch sử, thuận tiện về mặt vị trí địa lý…) và

20

các dịch vụ phục vụ du lịch (trưng bày, bán hàng, biểu diễn quy trình sản xuất,

hướng dẫn tham quan…).

1.1.7. Du lịch làng nghề:

Du lịch làng nghề là loại hình du lịch khai thác giá trị văn hóa vật thể, các sản

phẩm do nghề thủ công của các làng nghề tạo ra như một đối tượng tài nguyên du

lịch có giá trị, được khai thác để phục vụ cho nhu cầu vui chơi, giải trí, nghiên cứu

tìm hiểu văn hóa, tham quan du lịch, hoặc tham gia vào công đoạn sản xuất sản

phẩm đặc trưng của làng nghề đó, mang lại lợi ích kinh tế cho địa phương và đất

nước, góp phần tôn vinh, bảo tồn giá trị truyền thống văn hóa và tăng cường vai trò

kinh tế của làng nghề.

Theo một quan điểm khác, du lịch làng nghề là loại hình du lịch văn hóa tổng

hợp đưa du khách tới tham quan, thẩm nhận các giá trị văn hóa và mua sắm những

hàng hóa đặc trưng của các làng nghề truyền thống trên khắp mọi miền đất nước.

1.1.8. Quan niệm về hội nhập:

Theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới, hội nhập kinh tế là

việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội nhập kinh tế đã

diễn ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh tế với quy mô toàn cầu đã diễn ra từ

cách đây hai nghìn năm khi đế quốc La Mã xâm chiếm thế giới và mở mang mạng

lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong toàn bộ lãnh địa chiếm đóng

rộng lớn của họ và áp đặt đồng tiền của họ cho toàn bộ các nơi.

Theo một quan niệm khác, hội nhập kinh tế là quá trình phát triển đan xen

giữa các nền kinh tế trên thế giới, hình thành nên các mối quan hệ tùy thuộc lẫn

nhau giữa các nền kinh tế. Quá trình này bắt đầu từ khâu quốc tế hóa về thương mại,

tiếp đó là vốn và cuối cùng là sản xuất kinh doanh. Khi đó cơ chế hợp tác – điều hòa

sẽ là cơ chế thống soái của nền kinh tế thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình

khách quan, thể hiện mức độ phù hợp của quan hệ sản xuất ở quy mô toàn cầu và

khu vực.

Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang tính

thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Khái niệm này được Bela Balassa đề xuất

21

từ thập niên 1960 và được chấp nhận chủ yếu trong giới học thuật và lập chính sách.

Nói rõ hơn, hội nhập kinh tế là quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc: một

mặt gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế giới thông

qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân và mặt

khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu.

Trong các giáo trình nhập môn về kinh tế học quốc tế, hội nhập kinh tế

thường được cho là có sáu cấp độ: khu vực/hiệp định thương mại ưu đãi, khu

vực/hiệp định thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh

kinh tế tiền tệ và hội nhập toàn diện. Tuy nhiên trong thực tế, các cấp độ hội nhập có

thể nhiều hơn và đa dạng hơn.

Hội nhập kinh tế có thể là song phương – tức là giữa hai nền kinh tế, hoặc

khu vực – tức là giữa một nhóm nền kinh tế, hoặc đa phương – tức là có quy mô

toàn thế giới giống như những gì mà Tổ chức thương mại Thế giới đang hướng tới.

Hội nhập kinh tế quốc tế có rất nhiều khía cạnh. Về mặt chính sách, khuyến

khích hội nhập quốc tế, các nước thường hành động bằng cách mở cửa khả năng tiếp

cận thị trường, đối xử quốc gia và đảm bảo môi trường chính sách trong nước hỗ trợ

cạnh tranh. Mức độ hội nhập quốc tế đạt được trên thực tế tùy thuộc vào sự phản hồi

của sự phát triển kinh tế xã hội nói chung, hội nhập đối ngoại và kinh tế ngoại

thương nói riêng đối với các cơ hội do sự thay đổi của chính sách.

Hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng hoàn thiện và góp phần tích cực và

dàn xếp các quan hệ kinh tế giữa các nước trong khu vực và trên phạm vi toàn cầu.

1.1.9. Tác động của hội nhập đến du lịch và làng nghề phục vụ du lịch:

1.1.9.1. Tác động tích cực:

Hội nhập kinh tế làm cho từng doanh nghiệp, từng ngành, nghề thu được lợi

ích, tăng thu nhập cho người lao động, mở rộng kinh doanh.

Hội nhập mang đến những thành quả phát triển công nghệ, giúp các cơ sở sản

xuất làm quen với phương thức, kiến thức sản xuất mới, tiếp cận với các công cụ sản

xuất hiện đại hơn, nhờ đó sản lượng sản xuất tăng trưởng mạnh mẽ. Các doanh

nghiệp cũng từng bước đổi mới tổ chức sản xuất và quản lí, ứng dụng khoa học và

22

công nghệ tiên tiến nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, tạo ra thương hiệu có độ

tin cậy và uy tín cao, đồng thời linh hoạt tiếp thị, vươn ra chiếm lĩnh thị phần ngày

càng lớn và tiếp cận với những thị trường mới, mở rộng giao lưu với nhiều đối tác

và phục vụ được nhiều đối tác và phục vụ được nhiều khách hàng trong nước và trên

thế giới.

Mở cửa, hội nhập, các làng nghề có cơ hội giới thiệu sản phẩm của mình với

khách nước ngoài. Theo thống kê, hiện hàng hóa của các làng nghề nước ta như thủ

công mỹ nghệ, thêu ren, gốm sứ… đã có mặt ở hơn 100 quốc gia trên thế giới với

kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng. Nếu như năm 2004, kim ngạch xuất khẩu mới

đạt 450 triệu USD, thì năm 2008 đã tăng lên hơn 776 triệu USD. Theo số liệu thống

kê của Tổng cục Hải quan trong tháng 4/2009, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm thủ

công mỹ nghệ đạt được gần 14,07 triệu USD. Tính chung 4 tháng đầu năm 2009,

kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt trên 58,30 triệu USD, tuy có giảm 19,3% so

với cùng kì năm trước, nhưng lại tăng 23,3% so với kế hoạch năm đề ra.

Trong những năm gần đây, số hộ và cơ sở ngành nghề ở nông thôn đang tăng

lên với tốc độ bình quân từ 8,8% - 9,8%/năm, kim ngạch xuất khẩu từ các làng nghề

cũng không ngừng tăng lên.

Hội nhập kinh tế góp phần phát huy nội lực, sử dụng tốt ngoại lực để tăng

trưởng nhanh và nâng cao chất lượng của sự phát triển, đặc biệt nâng cao sức cạnh

tranh của nền kinh tế nói chung, dịch vụ nói riêng, trong đó phải kể đến ngành du

lịch và thúc đẩy xóa đói, giảm nghèo.

Hội nhập giúp nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ

Việt Nam trên cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Bên cạnh đó còn tăng

cường thu hút và tranh thủ tiếp nhận các nguồn lực bên ngoài, đặc biệt là thu hút vốn

đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài, dùng nguồn lực bên ngoài để nhân lên

sức mạnh bên trong, dùng sức mạnh bên trong đủ để hấp dẫn và định hướng sự hoạt

động của các nguồn lực bên ngoài. Bên cạnh phong cảnh thiên nhiên ưu đãi, những

loại hình dịch vụ du lịch mang đậm đà bản sắc văn hóa các dân tộc của Việt Nam

23

trong đó phải kể đến du lịch làng nghề đã và đang hấp dẫn không chỉ đối với các du

khách trong và ngoài nước mà còn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

Các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh trong và ngoài nước tạo được mối

liên kết chặt chẽ thông qua mạng lưới thông tin liên lạc.

Hội nhập giúp các làng nghề, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch có nhiều

điều kiện phát huy thế mạnh, thu hút đầu tư, đổi mới công nghệ, mở rộng kinh

doanh, để thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.

Bên cạnh những làng nghề đang loay hoay tìm hướng phát triển, vẫn có một

số làng nghề từng bước phát triển và hội nhập khá tốt. Quy mô hoạt động của các

làng nghề được mở rộng, khâu sản xuất được chuyên nghiệp hóa.

Lao động làng nghề được học hỏi, trao đổi kinh nghiệm nâng cao tay nghề

góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Người lao

động không chỉ là người sản xuất sản phẩm mà còn đóng vai trò là hướng dẫn viên

du lịch của làng nghề.

Ngoài sự nỗ lực của bản thân, các cơ sở trong làng nghề còn được sự hỗ trợ

của các cơ quan chức năng trong việc xây dựng thương hiệu, tổ chức tập huấn, hội

thảo… nâng cao chất lượng và thương hiệu của sản phẩm làng nghề.

Nhiều mặt hàng của làng nghề có sự thay đổi, phong phú về mẫu mã, chủng

loại sản phẩm nên đời sống của người lao động trong làng nghề dần ổn định. Nhiều

mặt hàng truyền thống của làng nghề được đưa đi tiêu thụ ở các tỉnh trong nước,

trong khu vực và trên thế giới, sản phẩm của làng nghề được khách hàng ưa chuộng

và đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch.

Hội nhập đã tạo điều kiện cho các dân tộc trao đổi, học tập, tiếp thu những

giá trị, tinh hoa của nhau để làm phong phú cho nền văn hóa của dân tộc mình, đồng

thời đẩy mạnh tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc trong nước và tình hữu nghị giữa

các dân tộc trên thế giới.

1.1.9.2. Tác động tiêu cực:

Hội nhập kinh tế làm gia tăng khảng cách phát triển giữa các vùng kém phát

triển với các trung tâm kinh tế trong một quốc gia. Ở nước ta, quá trình hội nhập

24

kinh tế quốc tế đã phát triển mạnh mẽ những trung tâm kinh tế, thương mại và dịch

vụ tập trung ở các thành phố, các thị xã và các khu vực có điều kiện thuận lợi. Trong

khi đó, những vùng sâu vùng xa nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số là nơi có

nhiều khó khăn về điều kiện tự nhiên và xã hội, kinh tế chưa phát triển, trình độ dân

trí thấp, hạn chế tiếp cận với nền kinh tế thị trường. Với xuất phát điểm thấp, đồng

bào các dân tộc khó nắm bắt, tiếp thu thành quả khoa học và công nghệ cao để phát

triển kinh tế - xã hội cũng như theo kịp sự phát triển nhanh của các trung tâm kinh

tế, thương mại và dịch vụ khác trên cả nước.

Hội nhập kinh tế buộc các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh phải

trực tiếp cạnh tranh với nhau ngày càng gay gắt. Mặc khác, năng lực cạnh tranh của

các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất trong nước còn thấp, việc chuẩn bị cho hội

nhập kinh tế của chúng ta còn yếu cả về nhận thức tư tưởng, về hiểu biết các luật lệ,

nguyên tắc có liên quan, còn thiếu kế hoạch tổng thể và rõ ràng của tiến trình hội

nhập, hệ thống luật pháp còn bất cập, năng lực đội ngũ cán bộ còn non yếu.

Tác động của suy thoái kinh tế, các đơn đặt hàng của các cơ sở trong làng

nghề giảm đi đáng kể, sản phẩm thiếu đầu ra, việc làm và thu nhập của người lao

động giảm khiến cho đời sống của họ gặp rất nhiều khó khăn.

Giá cả nguyên vật liệu tăng mà sản phẩm làm ra tiêu thụ không mạnh, vì thế

nhiều cơ sở sản xuất cầm chừng.

Các sản phẩm của làng nghề bị cạnh tranh bởi các sản phẩm nhập khẩu vì thế

tiêu thụ ít, do đó ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề trong nước.

Song song với sự phát triển mạnh của các LNTT, số người mắc bệnh nghề

nghiệp ở các làng nghề tăng. Phát triển kinh tế không gắn liền với bảo vệ môi trường

và đảm bảo an toàn vệ sinh lao động là nguyên nhân gây bệnh tật cho người lao

động trực tiếp và người dân sống trong khu vực làng nghề.

Hội nhập cho phép các dân tộc có nhiều cơ hội tiếp xúc với nhau hơn nên

bước đầu đã hình thành nên những thói quen về sinh hoạt, tập tục, văn hóa... đó là

nguyên nhân làm cho nền văn hóa của các dân tộc ngày càng mất dần đi bản sắc

riêng.

25

1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA LÀNG NGHỀ:

1.2.1. Các làng nghề phát triển đa dạng về quy mô, cơ cấu ngành nghề và

gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp, nông thôn:

Các LNTT ở nước ta đều ra đời và tách dần từ nông nghiệp. Ban đầu, người

lao động ở nông thôn do nhu cầu việc làm và thu nhập đã làm nghề thủ công bên

cạnh làm ruộng, nghề chính là làm ruộng, nghề phụ là nghề thủ công. Khi lực lượng

sản xuất đã phát triển thì thủ công nghiệp tách ra thành ngành độc lập, vươn lên

thành ngành sản xuất chính ở một số làng; song để đảm bảo cuộc sống, người dân

bao giờ cũng làm thêm nghề nông hay buôn bán hoặc làm thêm nghề khác. Sự kết

hợp đa nghề này thường thể hiện trong một làng hay trong từng gia đình bởi vì

người thợ thủ công vốn là người nông dân tách ra làm nghề thủ công, từ đó nghề thủ

công truyền thống ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nông dân, nông

nghiệp và thúc đẩy nhau cùng phát triển.

Về quy mô: đại bộ phận các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề có

quy mô nhỏ. Bình quân mỗi hộ gia đình có khoảng vài ba chục triệu đồng. Do tính

đặc thù của làng nghề là phát triển nhiều loại mô hình sản xuất, hình thức tổ chức

của các đơn vị sản xuất cũng mang đậm sắc thái nông nghiệp, nông thôn như các hộ,

tổ hợp tác, HTX… Trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định ấy, các hình thức

tổ chức sản xuất của làng nghề cũng bắt đầu mang dáng vẻ, hình thức của sản xuất

công nghiệp đô thị hoặc khu công nghiệp tập trung. Đó là các công ty, các doanh

nghiệp ở nông thôn. Đặc biệt là những năm gần đây do nhu cầu của thị trường còn

xuất hiện những nghề mới như chế biến nông sản, thực phẩm, sản xuất vật liệu xây

dựng… đã hình thành nên những công ty.

Về cơ cấu ngành nghề: rất đa dạng và phong phú, đã có sự thay đổi thích ứng

với cơ chế thị trường (ở các địa phương, tỉ lệ ngành nghề cũng khác nhau do nhu cầu

tiêu thụ và tiêu dùng khác)

Các ngành nghề truyền thống gồm có:

+ Các nghề sản xuất mặt hàng thủ công mỹ nghệ

+ Các ngành nghề phục vụ cho sản xuất và đời sống

26

+ Các ngành nghề sản xuất các mặt hàng tiêu dùng

+ Các ngành nghề chế biến lương thực thực phẩm.

1.2.2. Đặc điểm về trình độ kĩ thuật, công nghệ và lao động:

Kĩ thuật công nghệ của nghề thủ công mang nặng tính truyền thống. Đây là

một trong những đặc trưng cơ bản và cũng là bí quyết của các ngành nghề.

Sự phát triển của khoa học kĩ thuật và sản xuất trong các làng nghề đã có sự

đan xen, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại, giữa công nghệ truyền

thống và công nghệ hiện đại trên cơ sở tận dụng tiềm năng và lợi thế lao động của

mỗi địa phương, đồng thời kết hợp tay nghề cao với công cụ cơ giới hóa, hiện đại

hóa và áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất.

Trình độ công nghệ sản xuất đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng lao động của

các làng nghề. Lao động của các làng nghề phần lớn là lao động thủ công có trình

độ, kinh nghiệm, tay nghề tinh xảo, khéo léo, có đầu óc thẩm mỹ và đầy tính sáng

tạo. Một đặc điểm nổi bật là những lao động này chủ yếu phân bố trong các hộ gia

đình (chiếm tới 90%), chỉ còn 10% nằm ở các doanh nghiệp. Chính vì vậy, đã giải

quyết được phần lớn lao động nông nhàn.

Trước đây, lao động làng nghề chủ yếu là thủ công, nhưng ngày nay các làng

nghề đã ứng dụng ngày càng nhiều khoa học công nghệ mới vào sản xuất, nhất là

trong lĩnh vực sản xuất gốm sứ, trong chế biến lương thực, thực phẩm….

1.2.3. Nguyên vật liệu của các làng nghề thường là tại chỗ:

Hầu hết các làng nghề được hình thành xuất phát từ có sẵn nguồn nguyên

liệu tại chỗ, trên địa bàn địa phương. Một số ngành nghề còn có thể tận dụng cả

những phế liệu, phế phẩm, phế thải trong công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt để

làm nguyên liệu sản xuất. Đối với một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ, sơn mài,

chạm khắc gỗ đá, vàng, bạc... có thể được khai thác từ các nguồn nguyên liệu tại

chỗ, địa phương, trong nước, cũng có thể phải nhập khẩu từ nước ngoài, song không

nhiều.

27

1.2.4. Sản phẩm của các làng nghề mang tính thuần túy, có tính mỹ thuật

cao, mang đậm bản sắc dân tộc:

Mỗi một sản phẩm là một tác phẩm văn hóa nghệ thuật và văn hóa tinh thần

kết tinh trong văn hóa vật thể. Quá trình sản xuất tuân theo công nghệ truyền thống

và thường nhạy bén với thị trường trong việc đổi mới mẫu mã, chất lượng và có điều

kiện linh hoạt thay đổi hướng sản xuất. Nhờ bám sát thị trường, am hiểu thị hiếu nên

các mặt hàng của làng nghề được cải tiến nhanh chóng và đáp ứng nhu cầu của

người tiêu dùng, sản phẩm của họ ngày càng chiếm ưu thế trên thị trường trong nước

và quốc tế. Đây là nét nổi trội mang tính cách mới của làng nghề truyền thống. Mỗi

một sản phẩm là một tác phẩm nghệ thuật, thể hiện rất rõ trên những bức chạm khảm

bằng vàng bạc, thêu ren và những bộ gốm sứ cao cấp... Hơn nữa, các LNTT không

chỉ đơn giản cung cấp tư liệu tiêu dùng mà còn là nơi trao đổi tư liệu sản xuất với

nhau.

Các sản phẩm của LNTT đều là sự giao kết giữa phương pháp thủ công tinh

xảo với sự sáng tạo nghệ thuật của nghệ nhân, chính điều này đã tạo ra những đặc

thù khác nhau của hàng thủ công truyền thống như tính riêng lẻ hơn tính đồng loạt;

chiều sâu nhiều hơn chiều rộng, mang tính trường phái, gia tộc giữ bí quyết hơn là

sự phổ cập, phổ biến rộng rãi; đầy chất trí tuệ trí thức lâu đời. Ngoài ra, việc sử dụng

các sản phẩm này đồng thời phải thưởng thức tính nghệ thuật của nó.

Chính sự giao kết này đã tạo ra tính cá biệt và sắc thái riêng của mỗi làng

nghề, nó giải thích tại sao làng nghề cụ thể này không có sản phẩm bằng làng nghề

kia, nghệ nhân ở làng nghề này không thể thay thế bằng nghệ nhân làng nghề khác.

Mặc dù ở các làng nghề ấy đều làm cùng một nghề và sản xuất ra cùng một loại sản

phẩm.

Sản phẩm thủ công truyền thống Việt Nam bao giờ cũng phản ánh sâu sắc tư

tưởng tình cảm và quan niệm thẩm mỹ của dân tộc Việt Nam, bản sắc văn hóa Việt

Nam. Từ những con rồng, phượng, lân, rùa... chạm trổ ở các đình chùa, hoa văn trên

các trống đồng, cửu đỉnh, màu men và các họa tiết trên đồ gốm sứ đến những nét

chấm phá trên các bức thêu... tất cả đều mang vóc dáng dân tộc, quê hương, chứa

28

đựng ảnh hưởng văn hóa, tinh thần, quan niệm về nhân văn, tín ngưỡng, tôn giáo của

người Việt chúng ta. Chính yếu tố tài hoa đậm nét này của sản phẩm thủ công truyền

thống đã tạo nên vị trí quan trọng của các sản phẩm này trên thương trường và giao

lưu quốc tế.

1.2.5. Hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của làng nghề gắn với

truyền thống hộ gia đình, qui mô nhỏ:

LNTT của nước ta bên cạnh nghề làm ruộng còn có những ngành nghề tiểu

thủ công nghiệp tồn tại lâu đời. Thời kì mới hình thành qui mô sản xuất các làng

nghề chủ yếu là hộ gia đình (huyết thống) gắn với các phường nghề, hội nghề như:

phường gốm, phường cược, phường đúc đồng…

Trong thời kì tập trung quan liêu bao cấp, làng nghề được gọi là “đội ngành

nghề” của hợp tác xã như: đội gốm, đội mộc, đội nề…Nơi có đông thợ thủ công thì

thành lập hợp tác xã thủ công nghiệp. Nhưng dần dần “đội ngành nghề” hay “HTX

thủ công nghiệp” hoạt động kém hiệu quả, không tồn tại được.

Từ khi bước vào cơ chế mới, quan niệm sản xuất trở về quy mô truyền thống

là hộ gia đình, đồng thời xuất hiện các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, các

hình thức hợp tác và HTX kiểu mới… Trên cơ sở các hình thức sở hữu này, các

doanh nghiệp, các HTX có bước phát triển và xã hội thừa nhận. Chính cơ chế mới đã

tạo điều kiện thuân lợi để khuyến khích đa dạng hóa các hình thức tổ chức sản xuất

kinh doanh LNTT. Tuy nhiên, trong những năm qua hình thức sản xuất kinh doanh

theo hộ gia đình vẫn còn chiếm ưu thế ở các LNTT, có nơi lên tới 90 %.

Hiện nay, trong quá trình phát triển đi lên sản xuất cơ giới hóa, kế thừa và

phát huy kinh nghiệm chuyển từ HTX thủ công nghiệp lên trình độ HTX tiểu công

nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh trong LNTT đẩy mạnh trang bị cơ sở vật chất

cho sản xuất. Tuy nhiên, trong quá trình vận động để phát triển, các hộ gia đình sẽ

xảy ra nhiều vấn đề bất cập như: qui mô sản xuất không được mở rộng, không có

điều kiện để đầu tư lớn cho sản xuất.

Những hình thức tổ chức kinh doanh trong làng nghề cũng tồn tại đan xen, hỗ

trợ nhau phát triển. Sự đan xen này đã đảm bảo sự thích ứng của từng loại hình với

29

nhu cầu của người sản xuất và đặc trưng của ngành nghề, tạo điều kiện thúc đẩy sản

xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế ở làng nghề trong điều kiện kinh tế thị trường.

1.2.6. Làng nghề là sự kết tinh giá trị văn hóa văn minh lâu đời của dân

tộc:

Từ xa xưa, người nước ngoài hiểu Việt Nam, quan hệ mật thiết với Việt Nam,

trước hết là từ yếu tố văn hóa. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta coi nhẹ các

yếu tố khác. Một điểm nổi bật là những sản phẩm thủ công mỹ nghệ trong các làng

nghề mang chất văn hóa dân tộc rất đậm đà và là những bảo vật vô giá. Trống đồng

Ngọc Lũ; tượng phật nghìn mắt, nghìn tay; tranh sơn mài, tranh lụa; tranh dân gian

khắc trên đá, trên gốm... Đó là những minh chứng cho đời sống sinh hoạt, cảnh quan

thiên nhiên và phong tục tập quán của dân tộc ta qua từng thời kỳ lịch sử.

Các sản phẩm thủ công truyền thống Việt Nam vừa phản ánh những nét văn

hóa chung của dân tộc, vừa có những nét riêng của làng nghề. Ngay cả người Việt

Nam sống ở nước ngoài khi nhớ về quê hương là nhớ ngay đến dấu ấn đậm nét của

mỗi làng nghề với bao sản phẩm độc đáo. Như vậy, LNTT không chỉ là những đơn

vị kinh tế thực hiện mục tiêu sản xuất hàng tiêu dùng, và hàng xuất khẩu mà còn

mang nét đặc sắc, biểu trưng của nền văn hóa dân tộc, văn hóa cộng đồng làng xã

Việt Nam.

1.3. Ý NGHĨA CỦA LÀNG NGHỀ:

Từ khi mới hình thành các làng nghề đã có ý nghĩa quan trọng trong sản xuất,

sinh hoạt ở các vùng nông thôn. Qua hàng trăm năm phát triển các làng nghề đã có

nhiều thay đổi nhưng làng nghề vẫn khẳng định được vai trò với sản xuất, đời sống

của nhân dân địa phương cũng như với sự phát triển của đất nước.

Phát triển làng nghề là một giải pháp quan trọng để góp phần thực hiện CNH

nông thôn, phát triển và nâng cao mức sống vật chất tinh thần của người dân ở cả

miền đồng bằng và miền núi, dân tộc Kinh cũng như các dân tộc thiểu số, đẩy mạnh

giao lưu kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa các vùng lãnh thổ, giữa các dân tộc

trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.

30

Sự phát triển của các làng nghề sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, làm

tăng quy mô kinh tế, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế. Các làng nghề là tiền đề

cho sự phát triển công nghiệp, cùng các dịch vụ đi kèm thúc đẩy sự chuyển dịch cơ

cấu kinh tế theo hướng tích cực.

Bảo tồn và phát triển làng nghề tăng thêm sức mạnh nguồn cội, gieo vào lòng

mỗi người Việt Nam tình cảm dân tộc, yêu quí giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam.

Điều đó không gì khác là giữ gìn và phát huy một bộ phân của nền văn hoá – văn

minh nhân loại làm tăng những giá trị truyền thống trong một thế giới đa phương

tiện thông tin và đầy biến động.

Các sản phẩm tinh hoa của làng nghề tạo thương hiệu cho các địa phương,

cho đất nước với bạn bè trên thế giới. Việc giữ gìn và phát triển nghề truyền thống là

nhiệm vụ của thế hệ ngày nay.

Sự phát triển của các làng nghề đã có ý nghĩa lớn về kinh tế - xã hội và môi

trường các địa phương có làng nghề.

1.3.1. Ý nghĩa về kinh tế:

Làng nghề Việt Nam mang tính tập tục truyền thống, đặc sắc, có tính kinh tế

bền vững, mang đến nhu cầu việc làm tại chỗ và những lợi ích thiết thực cho các

cộng đồng cư dân nhỏ lẻ trên mọi miền đất nước (chủ yếu ở các vùng ngoại vi thành

phố và nông thôn Việt Nam), đồng thời góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của

toàn xã hội.

Các làng nghề góp phần lớn vào quy mô sản xuất kinh tế nói chung cũng như

của ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp nói riêng của các địa phương có làng

nghề từ đó đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Sự hình thành và phát triển của các làng nghề và các dịch vụ hỗ trợ làng nghề

thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH cho các địa phương

làng nghề. Đó là tăng tỉ trọng của công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ,

giảm tỉ trọng của nông nghiệp.

Xuất khẩu tại chỗ hàng thủ công truyền thống thông qua việc bán cho khách

du lịch đã mang lại nguồn ngoại tệ không nhỏ.

31

Phát triển làng nghề góp phần thúc đẩy việc tăng giá trị tổng sản phẩm hàng

hóa cho nền kinh tế nhằm thu nguồn ngoại tệ lớn.

Trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, làng nghề là một bộ phận quan

trọng của kinh tế đất nước, là nhân tố làm thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn. Sự

khôi phục và phát triển các làng nghề Việt Nam trong những năm gần đây có ý

nghĩa tích cực về kinh tế - xã hội, đặc biệt trong tiến trình CNH – HĐH.

Sự hình thành và phát triển của các làng nghề và các dịch vụ hỗ trợ làng nghề

thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH cho các địa phương

làng nghề. Đó là tăng tỉ trọng của công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ,

giảm tỉ trọng của nông nghiệp. Tại nhiều làng nghề, tỉ trọng ngành công nghiệp và

dịch vụ đạt từ 60% - 80% và ngành nông nghiệp chỉ đạt 20% - 40%.

Thu hút vốn nhàn rỗi của cư dân nông thôn.

Góp phần khai thác tốt các tài nguyên thiên nhiên (nhất là nguồn nguyên liệu

tại chỗ.

Phát triển làng nghề thu hút được nguồn vốn đầu tư góp phần hiện đại hóa

nông thôn.

Sự phát triển của làng nghề cũng làm thay đổi tư duy, tập quán sản xuất của

người dân, từ tập quán sản xuất thủ công, nhỏ lẻ, manh mún mang tính tự cung tự

cấp sang sản xuất với quy mô sản xuất lớn hơn tăng cường áp dụng máy móc.

1.3.2. Ý nghĩa về xã hội và môi trường:

Làng nghề thực sự có ý nghĩa quan trọng đối với việc xóa đói, giảm nghèo,

nâng cao trình độ dân trí của nhân dân nông thôn, trực tiếp giải quyết việc làm cho

người lao động trong lúc nông nhàn, góp phần tăng thu nhập, nâng cao chất lượng

cuộc sống cho người lao động, đặc biệt tạo ra bộ mặt đô thị hóa nông thôn để nông

dân ly nông nhưng không ly hương và làm giàu trên quê hương mình. Làng nghề đã

mở ra cho nông dân một hướng làm ăn khác trên quê hương mình. Trung bình mỗi

cơ sở doanh nghiệp tư nhân chuyên làm nghề tạo việc làm ổn định cho khoảng 27

lao động thường xuyên và 8 – 10 lao động thời vụ; các hộ cá thể chuyên nghề tạo 4

32

– 6 lao động thường xuyên và 2 – 5 lao động thời vụ. Ở những làng nghề thêu ren,

dệt, mây tre đan, mỗi cơ sở có thể thu hút 200 – 250 lao động.

Nâng cao thu nhập và đời sống của các nghệ nhân tâm huyết với nghề.

Làng nghề góp phần bảo tồn và phát huy những bản sắc văn hóa độc đáo của

dân tộc Việt và quảng bá với bạn bè quốc tế.

Góp phần cải thiện, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường. Tiến tới xây

dựng tiêu chí “Làng nghề xanh” nhằm xếp loại cho các làng nghề bảo vệ môi trường

theo hướng phát triển “bền vững”.

Tăng cường mạnh mẽ công tác quản lí môi trường tại các làng nghề.

Thúc đẩy các cơ sở vừa mở rộng sản xuất, vừa đầu tư theo hướng công nghệ

thân thiện với môi trường, thực hiện cam kết bảo vệ môi trường.

Hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề góp phần quan trọng vào

việc khai thác sử dụng hợp lí có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi

trường. Các làng nghề đã sử dụng các nguồn nguyên vật liệu đa dạng như nguồn

nguyên liệu sẵn có trong tự nhiên, nguồn nguyên liệu tái chế, phế phẩm của các

ngành khác. Việc phát triển làng nghề cho phép chúng ta tận dụng có hiệu quả thế

mạnh của đất nước về nguồn tài nguyên đất, nước, khí hậu, sinh vật và khoáng sản.

Bên cạnh những tác động tích cực, sự phát triển hoạt động sản xuất tại các

làng nghề cũng mang lại nhiều bất cập. Đặc biệt nhất hiện nay là vấn đề ô nhiễm

môi trường tại các làng nghề là một vấn đề nan giải, gồm: ô nhiễm đất, nước, không

khí, tiếng ồn, nguồn nhiệt thừa. Từ đó dẫn đến người dân làng nghề thường mắc

nhiều các bệnh về đường hô hấp, bệnh ngoài da, sự suy giảm về thính lực, thể lực.

Những tồn tại về vấn đề môi trường từ nhiều năm qua trong quá trình phát triển của

làng nghề có thể coi là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng môi

trường làng nghề ngày càng giảm, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển

bền vững tại các làng nghề.

1.3.3. Ý nghĩa đối với du lịch:

Làng nghề phát triển hỗ trợ phát triển dịch vụ du lịch và góp phần đa dạng

hóa loại hình du lịch, các điểm tham quan sản xuất, phòng trưng bày sản phẩm

33

truyền thống ... sẽ mở rộng các tour du lịch và là lí do chính đáng để kêu gọi và giữ

chân khách du lịch. Mặt khác, với những mặt hàng lưu niệm phong phú sẽ làm tăng

thêm chất lượng của tour du lịch, đồng thời đó cũng là cơ hội lớn để quảng bá cho

ngành du lịch. Làng nghề phát triển sẽ thúc đẩy khai thác phát triển du lịch có chiều

sâu và khai thác đúng tài nguyên du lịch của địa phương đó.

LNTT đã và đang trở thành nguồn lực quan trọng cho phát triển du lịch. Hàng

thủ công truyền thống là một phần quan trọng của du lịch, là một trong ít các mặt

hàng phản ánh văn hóa bản địa đặc sắc. Hàng thủ công truyền thống có thể được ví

như biểu tượng văn hóa và nghệ thuật của một quốc gia, là nhân tố quan trọng để

hấp dẫn du khách.

Du lịch làng nghề thỏa mãn phần nào nhu cầu khám phá, tìm hiểu thế giới

xung quanh, tìm hiểu lịch sử, văn hóa, đời sống người dân Việt Nam nói chung và

các làng nghề nói riêng của các du khách. Mặt khác, hoạt động du lịch làng nghề

cũng có những đóng góp tích cực trong sự phát triển kinh tế - xã hội của các làng

nghề đó.

Trong công cuộc CNH – HĐH nông nghiệp và nông thôn, các làng nghề

không chỉ sản xuất, kinh doanh mà còn là nơi tổ chức sinh hoạt cộng đồng, mang sắc

thái văn hóa riêng, có đặc trưng của từng làng theo ngành nghề truyền thống lâu đời,

là nét độc đáo góp phần mở rộng, phát triển các loại hình du lịch của nước ta.

Trong những năm gần đây, loại hình du lịch làng nghề ở Việt Nam ngày càng

hấp dẫn du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài.

1.4. PHÂN LOẠI LÀNG NGHỀ:

1.4.1. Phân theo số lượng làng nghề:

- Làng một nghề: là làng duy nhất có một nghề xuất hiện và tồn tại hoặc có

một nghề chiếm ưu thế, các nghề khác chỉ có lác đác ở một số hộ, không đáng kể.

- Làng nhiều nghề: là làng xuất hiện và tồn tại nhiều nghề có tỉ trọng các nghề

chiếm ưu thế gần tương đương nhau.

34

1.4.2. Phân theo tính chất nghề:

- Làng nghề cổ: là những làng nghề xuất hiện từ lâu trong lịch sử và còn tồn

tại đến ngày nay.

- Làng nghề mới: là những làng nghề xuất hiện do sự phát triển lan tỏa của

các làng nghề hoặc được du nhập từ các địa phương khác.

1.4.3. Phân theo các nhóm nghề: gồm 4 nhóm

- Làng nghề chuyên sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như: gốm, sứ,

dệt tơ tằm, chạm khắc gỗ, thuê ren...

- Làng nghề chuyên sản xuất các mặt hàng chuyên phục vụ cho sản xuất và

đời sống như: rèn, mộc, nề, hàn, đúc gang, vật liệu xây dựng... phục vụ cho nghiên

cứu.

- Làng nghề chuyên sản xuất các mặt hàng chuyên phục vụ cho nghiên cứu,

tiêu dùng thông thường như: dệt vải, chiếu cói, làm nón, may mặc...

- Làng nghề chuyên chế biến lương thực thực phẩm: xay xát, làm bún, làm

bánh, chế biến hải sản...

1.4.4. Phân theo trình độ kĩ thuật:

- Loại nghề có kĩ thuật đơn giản như: đan lát, chế biến lương thực, thực

phẩm, làm gạch... Sản phẩm của những nghề này có tính chất thông dụng phù hợp

với nền kinh tế tự cấp tự túc.

- Loại nghề có kĩ thuật phức tạp như: kim hoàn, đúc đồng, làm gốm, khảm

gỗ, dệt lụa thêu thùa... Các nghề này không chỉ có kĩ thuật công nghệ phức tạp, mà

còn đòi hỏi ở người thợ sự sáng tạo, khéo léo. Sản phẩm của nó vừa có giá trị kinh

tế, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại khác như:

+ Phân theo giá trị kinh tế

+ Phân theo dân tộc

+ Phân theo vùng (không gian)...

35

Mặt khác còn có các làng nghề chuyên sản xuất các sản phẩm cung cấp cho

các cơ sở kinh doanh du lịch bán cho du khách và các làng nghề tổ chức cho các

đoàn khách đến tham quan và bán sản phẩm tại chỗ.

1.5. PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ VÀ DU LỊCH LÀNG NGHỀ Ở MỘT

SỐ NƯỚC VÀ VIỆT NAM:

1.5.1. Ở Trung Quốc:

Nghề thủ công truyền thống có từ lâu đời và nổi tiếng như đồ gốm, dệt vải,

dệt tơ lụa, luyện kim, làm giấy... Sang đầu thế kỉ XX, Trung Quốc có 10 triệu thợ

thủ công chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp làm việc trong các hộ gia đình,

trong phường nghề và làng nghề. Đến năm 1954, số người làm nghề tiểu thủ công

nghiệp được tổ chức vào HTX, sau này phát triển thành xí nghiệp Hương Trấn và

cho đến ngày nay vẫn tồn tại ở một số địa phương.

Xí nghiệp Hương Trấn là tên gọi chung của các xí nghiệp công thương, xây

dựng... hoạt động ở khu vực nông thôn. Nó bắt đầu xuất hiện vào năm 1978, khi

Trung Quốc bắt đầu thực hiện chính sách mở cửa. Xí nghiệp Hương Trấn phát triển

mạnh mẽ, đã góp phần đáng kể vào việc thay đổi bộ mặt nông thôn. Những năm 80,

các xí nghiệp cá thể và làng nghề phát triển nhanh chóng đóng góp tích cực trong

việc tạo ra 68 % giá trị sản lượng công nghiệp nông thôn và trong số 32 % sản lượng

công nghiệp nông thôn do các xí nghiệp cá thể tạo ra có phần đóng góp đáng kể vào

các làng nghề. Trong đó, hàng thủ công xuất khẩu, hàng thảm có vị trí đáng kể

(chiếm 75 % hàng thảm ở thị trường Nhật).

Năm 1992, xí nghiệp Hương Trấn lại có bước phát triển lớn hơn. Theo thống

kê bước đầu của các tỉnh ở Trung Quốc, so với năm 1991, giá trị sản phẩm công

nghiệp tăng 4 %, đạt 1.250 tỉ NDT, tổng thu nhập do tiêu thụ hàng hóa và thu nhập

nghiệp vụ khác xấp xỉ 1.500 tỉ NDT, tăng 38 %, số công nhân viên xí nghiệp Hương

Trấn đạt trên 100 triệu, tăng trên 4 triệu người.

1.5.2. Ở Đài Loan:

CNH ở Đài Loan chú trọng cả công nghiệp và nông nghiệp, cả thành thị và

nông thôn. Công nghiệp nông thôn bao gồm các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp,

36

các làng nghề cổ truyền, các xí nghiệp gia đình sản xuất, chế biến lương thực, thực

phẩm theo công nghệ cổ truyền và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ du lịch

và xuất khẩu, các xí nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn sản xuất hàng tiêu dùng, vật tư

kỹ thuật và tư liệu sản xuất cho nông nghiệp, sản xuất kinh doanh độc lập. Với cơ

chế thoáng trong chính sách tự do kinh doanh, tự do thành lập doanh nghiệp của Đài

Loan đã tạo cơ hội thuận lợi cho những người sản xuất có tài quản lý tập hợp những

người thợ làng nghề phát triển sản xuất, đa dạng hóa thu nhập của ngành, đưa thu

nhập phi nông nghiệp lên tới 90% còn nông nghiệp chỉ chiếm 10%.

1.5.3. Ở Nhật Bản:

Trong quá trình CNH, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp không bị mai một đi

mà trái lại nó vẫn được duy trì và phát triển ở nông thôn, trong các hộ nông dân

trong các làng nghề và thị trấn có nghề truyền thống.

Theo kết quả điều tra thống kê hiện nay Nhật Bản có 867 nghề thủ công khác

nhau như chế biến lương thực, thực phẩm bằng nông sản, thủy sản, đan lát, gốm sứ,

sơn mài, rèn…Vào thập kỷ 70 đã có phong trào “mỗi làng một sản phẩm” nhằm

khôi phục phát triển ngành nghề truyền thống nông thôn, đã tạo ra 270 sản phẩm tiểu

thủ công nghiệp tại các cơ sở sản xuất gia đình, thu nhập 1,2 tỷ USD (1992). Trong

quá trình CNH – HĐH, Nhật Bản phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp

nông thôn, đồng thời đầu tư về phát triển nông nghiệp về mọi mặt như thủy lợi hóa,

hóa học hóa, điện khí hóa sản xuất, dịch vụ kinh tế kĩ thuật ở nông thôn hỗ trợ về:

tín dụng, mua bán, giao thông liên lạc, bảo quản…kết quả là số hộ kinh tế vừa làm

nông nghiệp vừa làm công nghiệp tăng lên từ 45,6% (1945) lên tới 88% (1990). Như

vậy Nhật Bản phát triển ngành nghề nông thôn có tác động tích cực đến nông

nghiệp, làm thay đổi cơ cấu lao động theo chiều hướng tăng số hộ kiêm, đồng thời

làm thay đổi cơ cấu thu nhập theo hướng tăng thu nhập phi nông nghiệp, giải quyết

việc làm cho cư dân nông thôn. Đây là vấn đề cần tìm hiểu và học tập đối với các

nước nông nghiệp nói chung và Việt Nam nói riêng.

1.5.4. Ở Thái Lan:

37

Thái Lan có nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và làng nghề. Các ngành

nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống như: chế tác vàng bạc, đá quý, đồ trang sức

được duy trì và phát triển tạo ra nhiều hàng hóa xuất khẩu, đứng hàng thứ hai trên

thế giới. Do kết hợp tay nghề của nghệ nhân tài hoa với công nghệ kĩ thuật tiên tiến,

do đó sản phẩm làm ra đạt chất lượng cao, cạnh tranh được trên thế giới. Nghề gốm

sứ cổ truyền của Thái Lan trước đây chỉ sản xuất để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong

nước. Những năm gần đây, ngành này phát triển theo hướng CNH – HĐH và trở

thành mặt hàng xuất khẩu đứng thứ hai sau gạo, được thị trường Mỹ và Châu Âu ưa

chuộng. Vùng gốm truyền thống ở Chiềng Mai được xây dựng thành trung tâm gốm

quốc gia với ba mặt hàng là gốm truyền thống, gốm công nghiệp, gốm mới; gồm có

21 xí nghiệp chính và 72 xí nghiệp lân cận sản xuất. Để nâng cao chất lượng sản

phẩm, Thái Lan đã xúc tiến chương trình nâng cao tay nghề cho công nhân của 93 xí

nghiệp ở Chiềng Mai và Lam Pang. Bên cạnh đó, nghề kim hoàn, chế tác ngọc, chế

tạo đồ gỗ vẫn tiếp tục phát triển, tạo việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn.

Việc tổ chức lại các LNTT ở Thái Lan đã tạo ra giá trị nhiều mặt: bảo tồn và

nâng cao kỹ năng tay nghề nghệ nhân, gìn giữ văn hóa truyền thống, tạo công ăn

việc làm ở nông thôn ngăn chặn làn sóng di cư vào đô thị, tạo ra sản phẩm xuất

khẩu, sản phẩm du lịch.

Thái Lan có khoảng 70.000 làng nghề thủ công, nhưng vấn đề về chất lượng

sản phẩm khiến sản phẩm thiếu sức thuyết phục với thị trường. Để khai thác kỹ năng

của các LNTT ở miền bắc Thái Lan, tạo ra thêm thu nhập, giải quyết lao động địa

phương, từ năm 2001, Chính phủ Thái Lan đã thực hiện dự án OTOP (One Tambon

One Product: mỗi làng nghề một sản phẩm). Đây là chương trình chiến lược từ sáng

kiến của Cục xúc tiến xuất khẩu (DEP) thuộc Bộ Thương mại Thái Lan. Chính phủ

hỗ trợ kết nối địa phương với toàn cầu, thông qua việc hỗ trợ tiêu chuẩn hóa sản

phẩm, hoàn tất đóng gói, tiếp thị, tổ chức kênh phân phối ở hải ngoại. Doanh số các

sản phẩm OTOP năm 2003 đạt 30,8 tỉ baht, tăng 13% so năm trước. Hiện nay ở Thái

Lan có khoảng 36.000 mô hình OTOP, mỗi mô hình tập hợp từ 30 đến 3.000 thành

viên tham gia. Sự phát triển OTOP đã giúp nghề thủ công truyền thống của Thái Lan

38

được duy trì. Nó đã giúp cho người dân Thái giải quyết được công ăn việc làm, làm

ra nhiều sản phẩm đặc sắc của từng địa phương, góp phần tăng thu nhập cho người

dân tham gia và điều quan trọng là giữ được giá trị tri thức truyền thống trong văn

hóa lâu đời của họ. Ngoài ý nghĩa kinh tế, đây là cách bảo tồn, phát triển và sử dụng

bền vững nguồn tài nguyên ở địa phương và giữ gìn tri thức bản địa một cách hiệu

quả.

1.5.5. Ở Việt Nam:

Cũng như nhiều quốc gia khác, Việt Nam có nhiều ngành nghề truyền thống

như: gốm sứ, mộc, nề, mây tre đan, dệt... Những ngành nghề này được phát triển

thành làng nghề, xã nghề ở nhiều vùng nông thôn trên toàn quốc. Trong những giai

đoạn lịch sử khác nhau làng nghề có sự phát triển không giống nhau, lúc thăng, lúc

trầm do tác động tổng hợp của các nhân tố tự nhiên và kinh tế xã hội. Đặc biệt, từ

giai đoạn đổi mới nền kinh tế đến nay, dưới tác động to lớn của sự biến đổi nền kinh

tế trong nước cũng như trên toàn thế giới, sự phát triển của các làng nghề cũng có

những thay đổi lớn, được phục hồi phát triển và có những thành công mới nhưng

cũng có không ít những vấn đề nan giải.

Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, hiện nay nước ta có 2.790

làng nghề (trong đó có 400 làng nghề truyền thống với 53 nhóm nghề làm ra khoảng

200 loại sản phẩm thủ công khác nhau; nhiều sản phẩm nghề có lịch sử phát triển

hàng năm, hàng nghìn năm), riêng Hà Nội có 1.264 làng nghề. Theo tổng hợp của

Tổng cục Môi trường, làng nghề nước ta phân bố tập trung chủ yếu tại ĐBSH

(chiếm khoảng 60%), miền Trung (khoảng 30%) và miền Nam (khoảng 10%). Các

làng nghề thu hút hơn 10 triệu lao động, nâng cao thu nhập cho người dân, cải thiện

đáng kể đời sống cho một bộ phận dân cư khu vực nông thôn. Hiện nay, Nhà nước

có nhiều chính sách nhằm khuyến khích làng nghề phát triển, đặc biệt từ khi Hiệp

hội làng nghề Việt Nam được thành lập vào năm 2005, đã có nhiều chương trình,

chính sách nhằm bảo tồn, thúc đẩy sự phát triển làng nghề. Tuy nhiên, nhiều làng

nghề có nguy cơ lâm vào tình trạng suy thoái do nhiều nguyên nhân khác nhau (do

bế tắc về thị trường, do bị cạnh tranh, do thiếu vốn để cải tiến sản xuất, gây ô nhiễm

39

môi trường…). Để giải quyết những khó khăn này, cần có cái nhìn tổng quan về

làng nghề và gắn với thực trạng kinh tế xã hội trong nước và thế giới nói chung.

Nguồn tài nguyên du lịch LNTT đang được khai thác tích cực ở khía cạnh là

điểm đến đặc trưng của Việt Nam. Tuy nhiên chức năng sản xuất hàng hoá phục vụ

du lịch thì vẫn còn chưa được khai thác một cách thực sự hiệu quả. Ở nước ta, mặc

dù có chủ trương từ cấp quản lý gắn làng nghề với phát triển du lịch như: Cụm làng

nghề mây tre đan ở Chương Mỹ, khảm trai Chuyên Mỹ, thêu Quất Động, nón làng

Chuông, sơn mài Hạ Thái. Các làng nghề này dù có định hướng phát triển du lịch từ

những năm 2003 – 2004, có tên trong sản phẩm tour của các hãng lữ hành, song các

tour đến đây vẫn chưa có biến chuyển tích cực, lượng khách rất ít. Tại các làng nghề

chưa có những điều kiện để trình diễn, dịch vụ phục vụ khách tham quan nghèo nàn.

Sự tham gia của cộng đồng và phát triển du lịch chưa cao, bởi họ chưa nhận thức

được giá trị của du lịch đem lại. Một làng nghề được coi là phát triển du lịch khi thu

nhập từ du lịch chiếm ít nhất 25% thu nhập của làng. Bên cạnh đó, một số làng nghề

hướng phát triển du lịch nhưng hạ tầng giao thông và môi trường còn nhiều bất cập.

Mặc dù phát triển du lịch làng nghề được ưu tiên trong chiến lược phát triển

du lịch Việt Nam, nhưng chúng ta vẫn còn ít kinh nghiệm trong phát triển du lịch

gắn với bảo tồn các giá trị LNTT, văn hóa cư dân bản địa và xóa đói, giảm nghèo ở

vùng nông thôn. Việc nhìn nhận phát triển làng nghề gắn với du lịch chậm. Điểm

yếu để phát triển làng nghề gắn với du lịch là hầu hết các làng nghề hiện nay cơ sở

hạ tầng, giao thông còn kém phát triển. Hầu hết các làng nghề này cơ sở hạ tầng

chưa đáp ứng được nhu cầu của tour du lịch. Ngoài ra, ô nhiễm môi trường tại các

làng nghề hiện nay cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển du lịch tại địa

phương. Để phát triển làng nghề gắn với du lịch có tính xã hội hóa cao, yếu tố hạ

tầng cơ sở, giao thông chiếm vị trí rất quan trọng. Hiện nay, người dân làng nghề

mới chỉ làm nghề, bởi vậy cần giúp họ hiểu ngoài làm nghề phải biết làm thương

mại, gắn với du lịch nghề trở thành điểm du lịch, chúng ta cần có quy hoạch, đầu tư

về hạ tầng giao thông.

1.5.6. Một số điểm du lịch làng nghề điển hình:

40

1.5.6.1. Làng gốm Bát Tràng, Hà Nội:

Nằm bên bờ tả ngạn sông Hồng, làng gốm Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm,

cách trung tâm thủ đô Hà Nội hơn 10 km về phía đông nam. Làng gốm đã tồn tại ở

ven đô Thăng Long với tư cách một làng nghề khoảng hơn 500 năm nay.

Gốm Bát Tràng từ xưa đến nay đã lưu hành trên khắp mọi miền đất nước,

thậm chí ra cả nước ngoài. Sản phẩm gốm Bát Tràng như lọ độc bình, song bình, bát

vẽ chuồn, bát vẽ các tích cổ… đã được lái thương Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Hà Lan,

Pháp… mua với số lượng lớn. Nhiều nghệ nhân Nhật Bản đã bắt chước phong cách

tạo hình, nét vẽ phóng khoáng, màu men đa dạng, giản dị, mộc mạc mà sâu lắng của

gốm Bát Tràng. Từ những thế kỉ trước, đồ gốm Bát Tràng đã thuộc loại cao cấp, quí

hiếm nhưng phần nhiều là đồ thờ: chân đèn, lư hương, bình hoa. Về sau, do thị hiếu

phát triển cộng với nhu cầu thị trường, gốm Bát Tràng đã có nhiều đồ gia dụng, phổ

biến nhất là bát, đĩa, bình, lọ. Ngày nay, cái khéo cái tài của người làng gốm Bát

Tràng được phát huy cao độ trong cơ chế thị trường. Nhiều mặt hàng phong phú về

chủng loại và kiểu dáng đã được sản xuất. Các loại gốm mỹ thuật, gốm sứ công

nghiệp, đồ giả cổ, gốm xây dựng cao cấp đã dần được sản xuất nhiều hơn đồ gốm

gia dụng. Bây giờ, những mặt hàng truyền thống xưa chỉ được làm khi có khách đặt

để trùng tu phục chế di tích cổ. Đứng trước những mặt hàng mỹ nghệ gốm Bát

Tràng, chúng ta cảm thấy thán phục đến kinh ngạc bởi bàn tay tài hoa của các nghệ

nhân làng gốm – những con người đã sai khiến được đất và lửa để tạo nên những

men ngọc cho đời.

Hiện nay, trên địa bàn xã Bát Tràng (Gia Lâm) có hơn 1.000 lò gốm lớn, nhỏ.

Sản phẩm gốm của Bát Tràng không chỉ thu hút khách du lịch trong nước, mà cả

khách du lịch nước ngoài mỗi khi đến Hà Nội. Theo Ban quản lý chợ gốm sứ Bát

Tràng, trung bình hàng tháng, chợ gốm Bát Tràng đón 25 – 30 nghìn lượt khách

trong nước, 5 – 6 nghìn lượt khách quốc tế. Mặc dù năm 2009, được coi là năm khó

khăn của nền kinh tế, nhiều làng nghề đều rơi vào hoàn cảnh khó khăn, sản xuất

giảm sút, nhưng tại khu vực chợ gốm Bát Tràng khách đến tham quan vẫn khá tập

nập, cho dù không phải là ngày cuối tuần. Từ khách nội thành tới khách du lịch ở

41

các tỉnh khác, và tất nhiên, không thể vắng những du khách nước ngoài. Hiện nay,

Bát Tràng đã hình thành hệ thống tour và có tuyến xe buýt đến chợ gốm, đưa người

dân nội đô đến Bát Tràng. Mấy năm trở lại đây, Bát Tràng còn mở thêm dịch vụ để

du khách tham quan trực tiếp một số xưởng sản xuất, tham gia trực tiếp vào một số

công đoạn sản xuất... và đã thu hút được nhiều du khách. Thú chơi vẽ gốm ở Bát

Tràng đã và đang là một thú chơi độc đáo, hấp dẫn trí tò mò của bất kỳ du khách nào

có dịp ghé qua. Thú chơi vẽ gốm mới được người dân đưa vào hoạt động 5 năm trở

lại đây. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian, hoạt động này đã thu hút một số lượng lớn

khách du lịch tham gia, nhất là các bạn trẻ. Vẽ gốm, nặn gốm... không những giúp

du khách hiểu hơn về những công đoạn của việc làm gốm, mà còn giúp du khách

tiếp cận với nghệ thuật làm gốm theo cách riêng của mỗi người. Không chỉ thu hút

các em học sinh, sinh viên… trò chơi vẽ gốm còn thu hút rất nhiều du khách quốc tế.

Việc phát triển làng nghề gốm Bát Tràng gắn với du lịch đã tạo ra một hình thức

xuất khẩu tại chỗ hữu hiệu, góp phần quảng bá hình ảnh làng nghề, sản phẩm làng

nghề ở khắp mọi nơi. Song, chỉ vì sản phẩm của Bát Tràng còn sơ sài, nghèo nàn về

chủng loại mẫu mã, chất liệu... nên 2 – 3 năm trở lại đây, thị trường xuất khẩu cũng

đã bị thu hẹp đáng kể.

1.5.6.2. Làng gốm Bình Dương:

Gốm Bình Dương không chỉ gắn với nghề truyền thống có từ trăm năm trước

mà còn là nghề đang ăn nên làm ra. Cách TPHCM chưa đến 30 km, làng nghề gốm

đã trở thành điểm đến của những người ưa thích khám phá, mê cái nghề “biến cục

đất vô tri thành sản phẩm có hồn”. Nghề gốm Bình Dương gắn với lịch sử phát triển

vùng đất Sài Gòn – Gia Định. Theo những người dân địa phương lớn tuổi, gốm Bình

Dương xuất hiện vào khoảng giữa thế kỉ XIX tại Tân Phước Khánh, Lái Thiêu,

Chánh Nghĩa… Tương truyền nghề gốm ngày xưa được người Hoa ở Triều Châu,

Phúc Kiến, Quảng Đông sang định cư tại đất Thủ (một cách gọi cho thị xã Thủ Dầu

Một – Bình Dương) và hình thành nên nghề gốm mang đặc trưng của từng vùng.

Gốm kiểu Quảng Đông phong thái trang nhã, sử dụng men trang trí; gốm kiểu Phúc

Kiến đơn giản hơn, thường là các vật dụng có màu tối; gốm kiểu Triều Châu chủ yếu

42

là màu men xanh trắng, hình ảnh phong cảnh sơn thủy hữu tình, con vật… Phần lớn

trong số hơn 500 lò gốm hiện đang hoạt động ở địa phương là nghề cha truyền con

nối của người Hoa, một số ít còn lại là của người Việt bản địa. Có những lò gốm

tuổi ngót 1,5 thế kỷ.

Từ xưa, gốm Bình Dương đã theo các con sông lớn, kinh rạch đổ đi khắp nơi

ở khu vực miền Đông sang Tây Nam bộ và nổi tiếng khắp vùng. Gốm Bình Dương

hiện đã thay đổi nhiều về kỹ thuật, mẫu mã để thích ứng với thị trường. Nhiều

thương hiệu gốm được khẳng định như: Minh Long, Hiệp Ký, Nam Việt, Minh Tâm,

Cường Phát… Tham quan vùng đất được xem là cái nôi nghề gốm này, du khách

không khỏi thán phục tài nghệ khéo léo của các nghệ nhân và óc sáng tạo của người

làng nghề. Đứng đầu phải kể đến thương hiệu Minh Long. Đây là gia đình truyền

thống làm gốm ở đất Thủ. Gốm Minh Long ở Bình Dương mang sắc thái riêng, giá

trị cao hơn vượt khỏi ranh giới quốc gia sang nhiều nước trên thế giới… Nghề đã

gắn với đất và người nên làm gốm như là sự sống, huyết quản của người Bình

Dương. Những làng gốm hiện trở thành sản phẩm du lịch độc đáo của vùng đất này.

Rất nhiều du khách đến Bình Dương để được hiểu về cuộc sống làng nghề, tìm hiểu

văn hóa, lịch sử của nghề gốm. Các nghệ nhân đất Thủ đã tạo nên những tuyệt tác

lập kỉ lục Việt Nam, với cúp Sen Vàng, cúp Hồn Việt, chén ngọc Văn Lang, quốc

bình Thăng Long, lu Thiên Địa, đèn gốm, địa cầu. Thăm những cơ sở sản xuất gốm,

du khách đứng ngắm mãi, quên cả thời gian bởi vẻ đẹp của nước men và các hoa

văn, họa tiết tinh xảo mang bản sắc dân tộc Việt Nam.

1.5.6.3. Làng nghề chiếu cói Nga Sơn, Thanh Hóa:

Nói đến Thanh Hoá, không ai là không biết chiếu cói Nga Sơn, một sản phẩm

nổi tiếng của vùng đất ven biển này, vật biểu trưng cho niềm hạnh phúc của những

đôi lứa yêu nhau... Chiếc chiếu nổi tiếng đã được lưu truyền qua bao đời, bao thế hệ

trên khắp mọi miền của đất nước. Nga Sơn là vùng đất nằm sát biển, cách Thành

phố Thanh Hóa 40 km về hướng Đông Bắc. Với 8 xã nằm dọc bờ biển là một vùng

triều màu mỡ, ngoài trồng sú vẹt, mảnh đất này chỉ trồng một loại cây duy nhất là

cói, dệt nên chiếu Nga Sơn – niềm kiêu hãnh của vùng quê này.

43

Cói Nga Sơn nổi tiếng là sợi nhỏ, dai, óng mượt. Điều đặc biệt ít có nơi nào

có thể trồng được loại cói dài như ở vùng này, loại cói chuyên dùng để dệt nên

những tấm chiếu vừa đẹp lại vừa bền. Theo lời các cụ kể lại, ngày xưa, chiếu cói

Nga Sơn cùng chiếu cói của Kim Sơn (Ninh Bình) là một trong những vật cống tiến

triều đình, được các bậc vua chúa, quí tộc ưa dùng. Trải qua hơn 150 năm tồn tại với

không biết bao nhiêu thăng trầm, giờ đây, người dân Nga Sơn không đơn thuần chỉ

dệt chiếu cói, nhiều sản phẩm từ cói đã được đôi bàn tay tài hoa, khối óc giàu tính

sáng tạo của những người thợ đã "nâng đời" trở thành những mặt hàng thủ công mỹ

nghệ với những nét hoạ tiết, văn hoa khác nhau dành cho xuất khẩu. Những tấm

thảm lót sàn, chiếu xe đan, làn, dép đi trong nhà, đồ dùng trang trí... đã có mặt tại thị

trường Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.

Nhưng không phải đến tận bây giờ, cây cói mới trở thành thế mạnh của kinh

tế Nga Sơn mà ngay từ những năm 1965, những chiếc chiếu đậu, chiếu hoa, cùng

các mặt hàng từ cói đã xuôi ngược khắp các nẻo đường đất nước từ những làng quê

lên thành phố, từ những ngõ nhỏ lắt léo đến những đường phố lớn, từ bắc vào nam,...

xa hơn nữa là thị trường các nước trên thế giới, chủ yếu là thị trường Ðông Âu.

Chiếu cói Nga Sơn đã dệt nên tiếng thơm ngàn đời cho vùng đất ven biển

Nga Sơn. Mong rằng, trong tương lai không xa, việc phát triển ngành nghề truyền

thống sẽ gắn liền với phát triển ngành du lịch sinh thái và các danh lam thắng cảnh

huyền ảo mà thiên nhiên ban tặng cho vùng đất Nga Sơn, góp phần làm giàu cho

vùng cói ngút ngàn này.

44

Bản đồ 2.1. Hành chính tỉnh Trà Vinh năm 2010

45

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN

CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

CỦA TỈNH TRÀ VINH.

2.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH TRÀ VINH:

Tỉnh Trà Vinh thuộc khu vực duyên hải phía Đông vùng Đồng bằng sông

Cửu Long (ĐBSCL), nằm giữa hai nhánh sông Mekong là sông Cổ Chiên và sông

Hậu, phía Đông giáp biển với hơn 65 km bờ biển. Tổng diện tích tự nhiên 2.288,09 km2 (chưa tính đất phi nông nghiệp Cửa Cung Hầu 53,06 km2). Dân số 1.005.856

người, trong đó đồng bào dân tộc Khmer chiếm 31,5 % và tập trung nhiều nhất tại

huyện Trà Cú (108.994 người). Là tỉnh vùng sâu vùng xa của châu thổ ĐBSCL

nhưng trong thập niên 1990 – 2000 tỉnh Trà Vinh đã đạt được những thành tựu đáng

kể với tăng trưởng kinh tế liên tục và ổn định ở mức trên 8 % năm (2002 tăng 9,78

%).

Trà Vinh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nóng ẩm

quanh năm, khí hậu chia thành hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm từ 26 – 27,60C. Lượng

mưa trung bình năm 1.526,16 mm, hiếm khi có bão.

Nguồn cung cấp nước ngọt chính là sông Cổ Chiên, sông Hậu và sông Mang

Thít. Ngoài ra, hệ thống sông rạch chằng chịt đã tạo nên hệ thống dòng chảy lưu

thông trên toàn bề mặt tỉnh, cung cấp nước tưới vào mùa khô và tiêu úng vào mùa

lũ.

Khoáng sản ở Trà Vinh nghèo, chỉ có cát xây dựng và sét để làm gạch ngói.

Đất Trà Vinh là một dải đồng bằng ven biển bao gồm vùng châu thổ được

hình thành lâu đời và những vùng đất trẻ mới bồi. Độ cao trung bình từ 1 – 3 m so

với mực nước biển. Đất đai tỉnh Trà Vinh chủ yếu là đất phù sa và đất phèn, bao

gồm 3 nhóm đất chính: đất cát giồng chiếm 6,62%, đất phù sa chiếm 58% và đất

phèn chiếm 24,3% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, diện tích còn lại là sông rạch. Từ

46

điều kiện tự nhiên, Trà Vinh có những vùng sinh thái, vùng phù sa nước ngọt bao

gồm các huyện Cầu Kè, Càng Long, Tiểu Cần với diện tích 74.900 ha. Vùng đất gốc

nhiễm mặn diện tích khoảng 120.600 ha bao gồm các huyện Duyên Hải, một phần

Thành phố Trà Vinh, Châu Thành, Trà Cú, Cầu Ngang và vùng cửa sông ven biển,

ngoài đê bao của dự án Nam Mang Thít diện tích khoảng 27.000 ha rất thuận lợi cho

phát triển rừng và nuôi trồng thủy sản. Đất đai, khí hậu của Trà Vinh phù hợp cho

phát triển cây lúa, cây công nghiệp, các loại cây ăn trái, rau màu, chăn nuôi gia súc

và nuôi trồng thủy sản. Phát triển nông nghiệp là cơ sở để thúc đẩy nền công nghiệp

của tỉnh phát triển. Đây là nguồn nguyên liệu dồi dào phong phú cho phát triển công

nghiệp chế biến và xuất khẩu. Nhằm đưa giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân

hàng năm trên 20 %. Trà Vinh sẽ xây dựng 13 cụm phát triển công nghiệp và trung

tâm công nghiệp tại tỉnh và các huyện với quy mô diện tích 275,73 ha.

Du lịch Trà Vinh gắn kết với hệ thống bãi biển, sông kênh rạch, chùa chiền

và các điểm di tích văn hóa lịch sử như: cù lao Long Trị, Long Hòa, Hòa Minh, Tân

Quy, đền thờ Bác Hồ, Ao Bà Om, chùa Âng, chùa Giác Linh (chùa Dơi), chùa

Nodol, chùa Hang, chùa Cò, biển Ba Động,… các lễ hội dân tộc đặc trưng của người

Kinh, Khmer, Hoa… là sản phẩm tốt cho các nhà đầu tư du lịch và là những điều

kiện tốt để hình thành những khu du lịch hấp dẫn.

Là vùng có nhiều dân tộc cùng sinh sống, với những phong tục tập quán và

bản sắc văn hóa độc đáo, tạo nên nét đặc trưng văn hóa riêng cho vùng đất Trà Vinh,

mặt khác Trà Vinh có lực lượng lao động dồi dào, cần cù, sáng tạo, được đào tạo

qua trường nghề và các trung tâm dạy nghề sẽ là nguồn cung ứng lao động rất tốt

cho các cơ sở sản xuất công nghiệp, nhất là các ngành có nhu cầu sử dụng nhiều lao

động. Ngoài ra, người lao động còn gắn bó lâu đời với các ngành nghề nông thôn

như: xay xát gạo, nấu rượu, nghề làm bánh, làm bún, nghề đan đát, dệt chiếu thảm,

dệt chiếu, se sợi tơ xơ dừa, chế biến thủy hải sản, gây trồng và kinh doanh sinh vật

cảnh… Bên cạnh đó, mỗi dân tộc lại có những nghề riêng nên làng nghề Trà Vinh

cũng khá đa dạng, phong phú. Mỗi làng nghề tạo ra những sản phẩm đặc trưng mang

đậm bản sắc văn hóa Trà Vinh.

47

2.2. CÁC ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN

THỐNG CỦA TỈNH TRÀ VINH:

2.2.1. Các nhân tố kinh tế - xã hội:

2.2.1.1. Về kinh tế:

Phát triển kinh tế của tỉnh đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao trong giai

đoạn 1996 – 2008. Trong thời kì 1996 – 2000 tăng 7,2 %, thời kì 2001 – 2005 tăng

đến 11,2 % và thời kì 2006 – 2008 tăng 12,4 %. Đạt được tốc độ tăng trưởng cao là

nhờ ngành nông nghiệp vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, công nghiệp và dịch vụ

đạt tốc độ tăng trưởng rất nhanh trong thời gian gần đây.

Tuy đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, nhưng GDP bình quân đầu người năm

2008 của Trà Vinh vẫn thấp hơn nhiều so với bình quân chung của cả nước nên khả

năng tích lũy từ nội bộ nền kinh tế của tỉnh còn hạn chế. Kim ngạch xuất khẩu ở tỉnh

tăng ở tốc độ nhanh nhưng tổng kim ngạch chỉ đạt 107,19 triệu USD, chiếm tỉ lệ nhỏ

trong nền kinh tế của tỉnh. Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực ở tỉnh chủ yếu bao gồm

các mặt hàng nông sản đã qua chế biến như gạo, thủy sản đông lạnh, tơ xơ dừa, than

hoạt tính, sản phẩm đan đát.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỉ trọng dịch vụ và công

nghiệp, giảm dần tỉ trọng nông nghiệp nhưng tốc độ còn chậm, tỉ trọng công nghiệp

vẫn còn chiếm tỉ trọng khiêm tốn. Năm 1995 tỉ trọng ngành nông nghiệp là 74,11 %

đến năm 2000 giảm xuống còn 67,43 %, năm 2008 còn 50,31 % và đến năm 2010

chỉ còn 47,29 %; ngành dịch vụ tăng tương ứng: 18,75 % - 23,97 % - 28,66 % -

29,72 %; trong khi tỉ trọng ngành công nghiệp tăng tương ứng qua các năm 7,15 % -

8,6 % - 21,03 % - 22,99 %.

Công nghiệp còn chậm phát triển nên chưa có sự hỗ trợ mạnh mẽ cho ngành

nghề nông thôn và làng nghề phát triển, đặc biệt là tạo thêm việc làm trong lĩnh vực

gia công sản phẩm, cơ giới hóa sản xuất, giúp tìm kiếm thị trường… Trước đây do

công nghiệp còn nhỏ lẻ nên sức ép về tăng thu nhập, tăng năng suất, việc làm lên lao

động làng nghề còn chưa lớn, nhưng từ năm 2010 khi tỉnh Trà Vinh đẩy mạnh phát

triển công nghiệp thì bên cạnh việc tạo thêm cơ hội cho một số ngành nghề phát

48

triển thì sự cạnh tranh với các LNTT là rất lớn, cụ thể là năng suất, thu nhập, việc

làm, thị trường… Vì vậy, để phát triển ngoài việc lựa chọn các làng nghề có triển

vọng cần đẩy mạnh tìm kiếm thị trường, hiện đại hóa sản xuất làng nghề, tăng năng

suất và chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm, mẫu mã… góp phần nâng cao

thu nhập lao động làng nghề.

Bảng 2.1 Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Trà Vinh

thời kỳ 2006 - 2010

CÁC NĂM

HẠNG MỤC

2006

2007

2008

2009

2010

1. GDP toàn tỉnh

5.373.171

6.107.584

6.775.876

7.353.679

8.248.199

1.1. Giá so sánh 1994

(triệu đồng)

Nông, lâm, ngư nghiệp

3.154.423

3.414.150

3.377.283

3.442.868

3.672.360

Công nghiệp, xây dựng

875.124

1.064.396

1.349.201

1.496.414

1.720.649

Dịch vụ

1.343.624

1.629.038

2.049.392

2.414.397

2.855.190

1.2. Giá thực tế (triệu đồng)

7.593.354

8.982.138

9.397.549

11.141.952

13.752.042

Nông, lâm, ngư nghiệp

4.400.002

5.083.175

4.728.060

5.046.294

6.503.563

Công nghiệp, xây dựng

1.365.014

1.653.995

1.976.624

2.586.091

3.161.801

1.828.338

2.244.968

2.692.865

3.509.567

4.086.678

Dịch vụ

2. Cơ cấu (%)

57,95

56,59

50,31

45,29

47,29

Nông, lâm, ngư nghiệp

17,98

18,41

21,03

23,21

22,99

Công nghiệp, xây dựng

24,07

25,00

28,66

31,50

29,72

Dịch vụ

7,641

9,007

9,390

11,106

13,671

3. GDP/người

(triệu đồng/người)

4. Thu ngân sách

2.049.868

2.753.584

2.729.753

3.505.935

4.022.860

(triệu đồng)

4.1. Trợ cấp từ trung ương

787.315

1.260.987

1.370.071

1.855.358

2.081.278

4.2. Thu trên địa bàn

1.246.270

1.457.219

1.324.212

1.640.361

1.926.359

4.2. Thu khác

16.283

35.378

35.470

10.216

15.223

5. Chi ngân sách (triệu

1.942.166

2.536.716

2.811.282

3.202.337

3.473.046

đồng)

(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Trà Vinh 2006 – 2010)

49

Biểu đồ 2.1. Tổng sản phẩm quốc dân của của tỉnh Trà Vinh theo giá thực tế

giai đoạn 2006 – 2010

Biểu đồ 2.2. Cơ cấu tổng sản phẩm quốc dân của tỉnh Trà Vinh phân theo khu vực kinh tế giai đoạn 2006 – 2010

2.2.1.2. Về xã hội:

Tỉnh Trà Vinh gồm Thành phố Trà Vinh và 7 huyện (Càng Long, Tiểu Cần,

Cầu Kè, Châu Thành, Trà Cú, Cầu Ngang, Duyên Hải), với 104 xã phường, thị trấn.

50

Bảng 2.2. Các đơn vị hành chính của Trà Vinh năm 2010

Huyện Tổng số

Thành phố Trà Vinh Huyện Càng Long Huyện Châu Thành Huyện Cầu Kè Huyện Tiểu Cần Huyện Cầu Ngang Huyện Trà Cú Huyện Duyên Hải 10 14 14 11 11 15 19 10 Thị trấn 1 1 1 2 2 2 1 Chia ra Xã 1 13 13 10 9 13 17 9 Phường 9

(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Trà Vinh 2006 – 2010)

Dân cư đông đúc, khoảng cách đến các đô thị lớn như: Cần Thơ, TPHCM

không xa, giao thông thủy, bộ thuận lợi nên đây sẽ là các thị trường có sức hút lớn

cho ngành nghề nông thôn và các làng nghề ở Trà Vinh phát triển.

Mạng lưới giao thông đường bộ phát triển khá mạnh, tổng chiều dài đường

quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện và giao thông nông thôn có đến 3.000 km, trong đó có 600 km đường trải nhựa. Bình quân 1,31 km đường nhựa/km2. Cụ thể từng

tuyến như sau:

- Quốc lộ: Có 3 tuyến: quốc lộ 53, quốc lộ 54, quốc lộ 60. Trong đó, quốc lộ

53 là tuyến đường huyết mạch hiện nay của tỉnh, nối với quốc lộ 1A; quốc lộ 54 là

tuyến ven sông Hậu, là tuyến đường quan trọng thứ hai, có tác dụng phá thế độc đạo

của quốc lộ 53; quốc lộ 60 là tuyến đường ngang của tỉnh, nối quốc lộ 53 và quốc lộ

54. Tổng chiều dài trong phạm vi tỉnh 248,5 %, chất lượng còn thấp so với tiêu

chuẩn quốc lộ.

- Đường tỉnh: Có 5 tuyến bao gồm: Đường tỉnh 911 nối quốc lộ 53 với 2

huyện Cầu Kè và Càng Long; đường tỉnh 912 nối 2 huyện Tiểu Cần và Châu Thành;

đường tỉnh 913 là tuyến vành đai ngoài của tỉnh với biển Đông, nối với cảng Đại

An; đường tỉnh 914 là tuyến nối quốc lộ 54 và quốc lộ 53; đường tỉnh 915 chạy dọc

theo sông Hậu qua các huyện Cầu Kè, Tiểu Cần, Trà Cú. Tổng chiều dài 183,08 km,

là đường nhựa, nhưng chất lượng cũng còn thấp so với tiêu chuẩn cấp đường.

51

- Đường huyện: Có 39 tuyến, với chiều dài 322,35 km, đại bộ phận là đường

đất.

- Đường giao thông nông thôn: Có khoảng trên 400 tuyến, tương ứng với

chiều dài khoảng 1.600 km, chủ yếu là đường đất.

Nhìn chung, mạng lưới giao thông bộ ở tỉnh về cơ bản đã hình thành, đáp ứng

được nhu cầu đi lại, vận chuyển, phục vụ đắc lực cho phát triển các ngành kinh tế,

các ngành nghề và làng nghề của tỉnh, tuy nhiên chất lượng đường thấp so với tiêu

chuẩn của từng cấp đường và so với yêu cầu lưu thông bằng xe cơ giới.

Các tuyến giao thông huyết mạch của vùng ĐBSCL đã và đang được đầu tư

xây dựng, đặc biệt là tuyến quốc lộ 60 đang được xây dựng hệ thống cầu qua các

sông lớn, khi hoàn thành đây sẽ là tuyến giao thông quan trọng giúp kết nối các tỉnh

ven biển ĐBSCL với vùng trọng điểm kinh tế phía Nam và sẽ góp phần thúc đẩy

phát triển du lịch, tạo thêm kênh quảng bá các sản phẩm làng nghề của vùng ĐBSCL

nói chung, ở Trà Vinh nói riêng đến với các vùng khác trong cả nước và xuất khẩu.

2.2.1.3. Dân cư và lao động:

Dân số và quy mô dân số có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển

các làng nghề. Tại những vùng nông thôn có mật độ dân số cao, bình quân diện tích

đất nông nghiệp theo đầu người thấp và tình trạng dư thừa lao động đã tạo tiền đề

xuất hiện nghề phi nông nghiệp đi kèm. Dần dần các nghề phi nông nghiệp đi kèm

này phát triển và trở thành các làng nghề.

Các yếu tố truyền thống, tập quán, quan hệ dòng họ, gia đình cũng có những

tác động mạnh mẽ tới sự phát triển các làng nghề, nhất là các làng nghề thủ công

truyền thống. Tập quán sản xuất kinh doanh khép kín đã hạn chế tính chất sản xuất

hàng hoá nói chung cũng như trong các làng nghề nói riêng và kìm hãm sự phát triển

của việc du nhập những ngành nghề mới vào nông thôn.

Cần phải khẳng định rằng, vai trò của nghệ nhân đối với các làng nghề thủ

công truyền thống là rất lớn. Không có nghệ nhân thì không có làng nghề.

Dân số và lao động là nhân tố động lực đối với sự phát triển kinh tế của tỉnh

nói chung, sự phát triển của các làng nghề nói riêng. Dân số cung cấp lao động trực

52

tiếp, đồng thời dân số cũng là thị trường tiêu thụ sản phẩm chủ yếu của các làng

nghề. Do đó số dân, gia tăng dân số, cơ cấu dân số, tỉ lệ lao động, chất lượng lao

động luôn có tác động thường xuyên tới sự phát triển của các làng nghề.

Dân số trung bình toàn tỉnh năm 2010 là 1.005.856 người, mật độ dân số khoảng 440 người/km2. Dân cư tỉnh Trà Vinh phân bố không đều giữa các huyện, tập trung chủ yếu ở Thành phố Trà Vinh (1.484 người/km2), thưa nhất là huyện Duyên Hải (236 người/km2). Trong những năm qua, bên cạnh việc thực hiện tốt

công tác dân số, do sức hút từ các đô thị lớn, các khu công nghiệp ngoài tỉnh nên tốc

độ di dân cơ học từ trong ra ngoài tỉnh tương đối cao, dẫn đến tỉ lệ tăng dân số trung

bình ở mức thấp hơn bình quân cả nước, xấp xỉ 1 %/năm.

Tốc độ gia tăng dân số tự nhiên của tỉnh trước đây khá cao, nhưng đã giảm

mạnh trong những năm gần đây nhờ việc triển khai có hiệu quả công tác dân số - kế

hoạch hóa gia đình. Cụ thể là năm 1992 mức tăng dân số là 2,12 % thì đến năm 2000

giảm còn 1,65 %, năm 2001 là 1,59 % và đến năm 2010 chỉ còn 0,93 %. Mức tăng

tuy đã giảm, nhưng vẫn còn cao hơn mức gia tăng trung bình của cả nước.

Mức gia tăng dân số tự nhiên có sự phân hóa giữa các huyện thị và nhất là

giữa thành thị và nông thôn. Nhìn chung, ở khu vực thành thị dân số tăng chậm hơn

so với khu vực nông thôn (Năm 2009 – 2010 dân thành thị tăng 932 người, trong khi

đó dân nông thôn tăng 1.760 người).

Trà Vinh là tỉnh có đông đồng bào Khmer sinh sống, chiếm đến 31,5 % dân

số toàn tỉnh vào năm 2010. Trong khi đó, dân tộc Kinh chiếm 67,7 % và dân tộc

khác chỉ chiếm 0,8 % dân số toàn tỉnh. So với các tỉnh trong khu vực Đồng bằng

sông Cửu Long (ĐBSCL), Trà Vinh là một trong hai tỉnh có tỉ lệ đồng bào dân tộc

Khmer sinh sống đông nhất. Phần lớn đồng bào Khmer của tỉnh có nguồn lực kinh tế

hạn chế, trình độ sản xuất thấp nên gặp nhiều khó khăn trong đầu tư sản xuất cũng

như tiếp nhận các tiến bộ khoa học kĩ thuật, thị trường vào sản xuất.

53

Bảng 2.3. Dân số và lao động theo thành thị và nông thôn tỉnh Trà Vinh

thời kỳ 2006 – 2010

Các năm

Hạng mục

Đơn vị

2006

2007

2008

2009

2010

1. Dân số trung bình

Người

993.706

997.188

1.000.782

1.003.164

1.005.856

145.081

148.082

151.118

153.819

154.751

Người

1.1. Dân số thành thị

Tỉ lệ so với tổng dân số %

14,6

14,8

15,1

15,3

15,4

848.625

849.106

849.664

849.345

851.105

1.2. Dân số nông thôn Người

Tỉ lệ so với tổng dân số %

85,4

85,2

84,9

84,7

84,6

Người

567.665

571.676

576.752

580.824

585.926

2. Lao động xã hội

Tỉ lệ so với tổng dân số %

57,1

57,3

57,6

57,9

58,3

(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Trà Vinh 2006 – 2010)

Biểu đồ 2.3. Cơ cấu dân thành thị và dân nông thôn tỉnh Trà Vinh

giai đoạn 2006 – 2010

54

Bảng 2.4. Diện tích, dân số và mật độ dân số tỉnh Trà Vinh phân theo huyện

năm 2010.

Dân số STT Đơn vị hành chính Diện tích (km2) (người) Mật độ dân số (người/km2)

1 Thành phố Trà Vinh 68,16 101.174 1.484

2 Huyện Càng Long 294,09 143.209 487

3 Huyện Cầu Kè 246,62 109.481 444

4 Huyện Tiểu Cần 226,75 108.750 480

5 Huyện Châu Thành 343,39 136.506 398

6 Huyện Cầu Ngang 319,09 131.303 411

7 Huyện Trà Cú 369,92 176.256 476

8 Huyện Duyên Hải 420,07 99.177 236

(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Trà Vinh 2006 – 2010)

55

Trà Vinh có kết cấu dân số trẻ, mặc dù trong những năm gần đây tốc độ gia

tăng dân số đã giảm. Kết cấu dân số trẻ của tỉnh Trà Vinh được là do tỉ suất sinh thô

khá cao trong một thời gian dài và kết quả là tăng tốc độ gia tăng dân số tự nhiên.

Dân số trẻ nên Trà Vinh có nguồn lao động đông đảo. Với một nền kinh tế

chủ yếu còn dựa vào nông nghiệp, hàng loạt thách thức đã và đang đặt ra cần phải

giải quyết như việc làm, y tế, giáo dục và nâng cao vật chất, tinh thần cho nhân dân

trong tỉnh.

Kết cấu dân số theo giới tính của Trà Vinh có xu hướng chung là giảm tỉ

trọng của nữ và tăng tỉ trọng của nam. Năm 2010 giới nữ chiếm 50,7 % tổng số dân

của tỉnh, còn tỉ trọng của nam là 49,3 %.

Cộng đồng các dân tộc đã tạo nên tính chất đa dạng và phong phú trong đời

sống văn hóa của Trà Vinh. Mỗi tộc người có những bản sắc riêng hội nhập với cả

cộng đồng cùng nhau xây dựng Trà Vinh giàu đẹp trên con đường công nghiệp hóa

và hiện đại hóa.

Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2010 là 585.926 người;

trong đó, lao động nông nghiệp 318.659 người (chiếm 54,4 %); lao động công

nghiệp – xây dựng 106.542 người (chiếm 18,2 %); lao động dịch vụ 160.725 người

(chiếm 27,4 %). Trong những năm gần đây, xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động

xã hội tương đối nhanh theo hướng thu hút nhiều lao động vào các lĩnh vực công

nghiệp – xây dựng, dịch vụ và giảm dần tỉ trọng lao động trong lĩnh vực nông

nghiệp. Năm 2002 lao động trong khu vực I chiếm đến 79,6 % lao động xã hội

nhưng đến năm 2007 tỉ lệ này giảm xuống còn 67,3 % và đến năm 2010 chỉ còn 54,4

%. Nguyên nhân là do sức hút từ các khu công nghiệp, đô thị trong và ngoài tỉnh đã

thu hút thanh niên từ nông thôn chuyển sang làm việc trong các khu công nghiệp,

thương mại và đô thị, điều này đồng nghĩa với lực lượng lao động làng nghề cũng sẽ

bị ảnh hưởng.

Về chất lượng lao động: Nhìn chung Trà Vinh có lực lượng lao động trẻ

nhưng chất lượng còn thấp, tỉ lệ lao động chưa qua đào tạo chiếm đến 85,22%, cao

hơn mức trung bình của ĐBSCL 1,97 % và cao hơn mức trung bình cả nước 10,55

56

%; lao động có trình độ công nhân kĩ thuật chiếm 10 %; trung học chuyên nghiệp

2,65 % và cao đẳng trở lên chiếm 2,04 %. Tuy nhiên, phần lớn lao động trong nông

thôn đang bị già hóa và chưa qua đào tạo dẫn đến khả năng tiếp thu khoa học – công

nghệ và thích ứng với cơ chế thị trường sẽ gặp không ít hạn chế.

Về truyền thống ngành nghề của dân cư: Cùng với sự phát triển của nền văn

minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm trước đây, nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời

tại vùng nông thôn, việc hình thành các làng nghề bắt đầu từ những nghề ban đầu

được cư dân tranh thủ làm lúc nông nhàn, những lúc không phải mùa vụ chính. Bởi

lẽ trước đây kinh tế của người Việt cổ chủ yếu sống dựa vào việc trồng lúa nước, mà

nghề nông không phải lúc nào cũng có việc. Thông thường chỉ những ngày đầu vụ,

hay những ngày cuối vụ thì người nông dân mới có việc làm nhiều, vất vả như: cày

bừa, cấy, làm cỏ (đầu vụ) cho đến gặt lúa, phơi khô… còn những ngày còn lại thì

nhà nông rất nhàn hạ, rất ít việc để làm. Từ đó nhiều người đã bắt đầu tìm kiếm thêm

công việc phụ để làm nhằm mục đích ban đầu là cải thiện bữa ăn và những nhu cầu

thiết yếu hàng ngày về sau là tăng thêm thu nhập cho gia đình. Theo thời gian, nhiều

nghề phụ ban đầu đã thể hiện vai trò to lớn của nó, mang lại những lợi ích thiết thân

cho cư dân. Như việc làm ra các đồ dùng bằng mây, tre, lát, lục bình… phục vụ sinh

hoạt và sản xuất. Nghề phụ từ chỗ chỉ phục vụ nhu cầu riêng đã trở thành hàng hóa

để trao đổi, đã mang lại lợi ích kinh tế to lớn cho người dân vốn trước đây chỉ trông

chờ vào các vụ lúa. Từ chỗ một vài nhà làm nghề, sau đó nghề lan rộng và phát triển

trong cả làng. Nguồn lao động làng nghề dồi dào, khéo tay, cần cù, chịu khó, sáng

tạo, biết tích lũy kinh nghiệm và từng bước đưa khoa học – công nghệ mới áp dụng

vào sản xuất. Lao động làng nghề có thể tự làm sản phẩm ở tại nhà, không phải thuê

mướn mặt bằng, không vướng các nội qui, qui chế, kỉ luật trong lao động như làm

việc ở các công ty, xí nghiệp… người lao động có thể tranh thủ thời gian nông nhàn

lúc rảnh rỗi để tham gia sản xuất, tăng thêm thu nhập cho nông hộ, vì thế làng nghề

không ngừng được mở rộng và phát triển. Từ nguồn nguyên liệu phong phú sẵn có

như tre, trúc, lát, thủy hải sản… lao động tại địa phương đã khai thác và tạo ra

những sản phẩm đặc trưng phục vụ cho cuộc sống hàng ngày, sản xuất và đưa ra thị

57

trường tiêu thụ, không chỉ thị trường trong nước mà còn thị trường nước ngoài, ngày

nay sản phẩm của làng nghề còn rất hấp dẫn đối với khách du lịch.

Ưu thế dân cư và lao động của Trà Vinh thuận lợi phát triển các làng nghề

đan chiếu; đan đát các sản phẩm từ tre, trúc, lục bình; thủ công mỹ nghệ; sơ chế biến

thủy hải sản và gây trồng hoa cây kiểng.

Quá trình hình thành và phát triển của các dân tộc trên địa bàn tỉnh Trà Vinh

gắn liền với đặc điểm sinh sống, lao động, văn hóa và tôn giáo. Mỗi dân tộc ở Trà

Vinh có phong tục tập quán, tiếng nói, chữ viết và món ăn đặc thù riêng. Nhân dân

Trà Vinh đã đóng góp rất lớn sức người, sức của trong công cuộc kháng chiến chống

Mỹ, cứu nước. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Trà Vinh có nhiều di tích lịch sử ghi lại

truyền thống đấu tranh giữ nước và bảo vệ đất nước của nhân dân như: đền thờ Bác

Hồ, cụm tượng đài “Toàn dân nổi dậy đoàn kết lập công”, bia đồng khởi Mỹ Long,

khu căn cứ Tỉnh ủy ở huyện Duyên Hải; nhiều địa phương được phong tặng danh

hiệu anh hùng lực lượng vũ trang. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều di tích lịch sử văn

hóa và lịch sử cách mạng gắn liền với các dân tộc, tôn giáo như khu di tích Ao Bà

Om, chùa Dơi và nhiều chùa của đồng bào Khmer, nhà thờ của đạo Cao Đài, Công

giáo và đạo Tin Lành với nhiều kiến trúc độc đáo. Cùng với hệ thống di tích là

những lễ hội riêng của các dân tộc như lễ Thượng ngôn ngày 15 – 1, lễ Trung ngôn

ngày 15 – 8 của đạo Cao Đài, ngày hội Ok – Om – Bok của đồng bào dân tộc

Khmer, lễ mừng Chúa giáng sinh ngày 24 – 12 của đồng bào Công giáo, lễ cúng

biển của ngư dân thị trấn Mỹ Long, Cầu Ngang… góp phần bảo vệ những di sản văn

hóa dân tộc và tăng cường mối quan hệ trong cộng đồng dân cư.

2.2.1.4. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch và tiêu thụ sản phẩm du lịch đặc thù:

Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ mang tính tổng hợp cao nhằm phục vụ và

làm thỏa mãn các nhu cầu của con người, do đó cần tạo ra các sản phẩm du lịch

phục vụ du khách. Trong quá trình đi du lịch, du khách sẽ tiêu dùng các sản phẩm du

lịch đa dạng đó. Không chỉ thỏa mãn những nhu cầu sinh học, du khách còn mong

muốn được thỏa mãn các nhu cầu văn hóa ngày càng cao. Những nhu cầu này phụ

thuộc nhiều vào các yếu tố quốc gia, dân tộc, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, vị trí

58

xã hội, sức khỏe, khả năng tài chính và các yếu tố tâm sinh lí khác… Do vậy để thỏa

mãn nhu cầu ngày càng cao của du khách, các sản phẩm du lịch đòi hỏi phải đạt

được nhiều tiêu chí hết sức cơ bản. Trên thực tế, hoạt động du lịch mang bản chất và

nội dung văn hóa sâu sắc. Trên cơ sở nền tảng văn hóa dân tộc – vùng miền, hoạt

động du lịch luôn đem đến cho du khách những sản phẩm chứa đựng các giá trị nhân

văn đặc sắc mang sắc thái bản địa, đó chính là những sản phẩm du lịch. Do đó, với

sự đa dạng của nguồn khách là điều kiện tạo ra các sản phẩm du lịch đa dạng. Bên

cạnh đó, số lượng khách đông cũng quyết định sản xuất ra số lượng sản phẩm lớn,

mẫu mã đa dạng. Sự phát triển của làng nghề chịu ảnh hưởng sâu sắc của sự đa dạng

của nguồn khách và số lượng khách.

Sự phát triển của ngành du lịch trong những năm qua đã cho thấy: Mỗi địa

phương cần căn cứ vào tiềm năng, điều kiện cụ thể của mình để tạo ra những sản

phẩm đặc trưng phục vụ du khách. Tính hấp dẫn của du lịch trên một địa bàn nào đó

phụ thuộc vào các sản phẩm du lịch được xây dựng và đưa ra phục vụ du khách.

Kinh tế phát triển, thu nhập và đời sống của người dân nhiều nơi trên thế giới

nói chung và của Việt Nam nói riêng ngày một tăng, trình độ dân trí ngày một cao

thì nhu cầu ngày càng tăng, đặc biệt nhu cầu khám phá, tìm hiểu những điều mới lạ,

tìm hiểu thế giới xung quanh, tìm hiểu lịch sử, văn hóa, đời sống nhân dân các nước,

các dân tộc, các địa phương… ngày càng tăng. Vì thế, đặt ra yêu cầu tạo ra những

sản phẩm khác biệt và ấn tượng. Sự phát triển du lịch Việt Nam trong những năm

qua cho thấy: Xây dựng thương hiệu điểm đến là một yêu cầu đặc biệt quan trọng

trong quá trình phát triển du lịch. Mỗi địa phương cần căn cứ vào tiềm năng, điều

kiện cụ thể của mình để tạo ra những sản phẩm đặc trưng. Đây cũng là điều kiện

thúc đẩy phát triển các làng nghề phục vụ du lịch với những sản phẩm đặc trưng hấp

dẫn du khách. Việt Nam đã trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn trong danh

sách địa điểm du lịch của du khách Châu Âu, Singapo, Thái Lan, Australia và Hàn

Quốc.

59

2.2.2. Các nhân tố tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên:

2.2.2.1. Vị trí địa lý:

Trà Vinh là một tỉnh ven biển ĐBSCL được bao bọc bởi sông Tiền, sông Hậu và biển Đông, có tọa độ địa lý từ 9031’05’’ đến 10004’05’’ vĩ độ Bắc và từ 105057’16’’ đến 106036’04’’ kinh độ Đông. Ranh giới hành chính được giới hạn như sau: phía

Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Vĩnh Long, phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Bến Tre bởi

sông Cổ Chiên, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Sóc Trăng bởi sông Hậu, phía Đông Nam giáp biển Đông với hơn 65 km bờ biển. Tổng diện tích tự nhiên 2.288,09 km2 (chưa tính đất phi nông nghiệp Cửa Cung Hầu 53,06 km2), chiếm 5,63% diện tích

vùng ĐBSCL và 0,67% diện tích cả nước. Dân số 1.005.856 người, chiếm 5,8% dân

số ĐBSCL và 1,16% dân số cả nước.

Tỉnh Trà Vinh nằm giữa sông Cổ Chiên và sông Hậu, một mặt giáp biển

Đông (dài 65 km), có 2 cửa Cung Hầu và Định An là 2 cửa sông quan trọng của

vùng ĐBSCL thông thương qua biển Đông với cả nước và quốc tế. Trà Vinh còn có

hệ thống quốc lộ 1, 53, 54 và 60 qua tỉnh, nối Trà Vinh với các tỉnh khác trong vùng

và ngoài vùng. Trung tâm tỉnh lị nằm trên Quốc lộ 53, cách Thành phố Hồ Chí Minh

gần 200 km và cách Thành phố Cần Thơ 95 km. Nếu đi bằng quốc lộ 60 thì chỉ cách

TPHCM 130 km. Trong tương lai không xa, khi hoàn thành tuyến kênh Quan Chánh

Bố thông ra biển qua địa bàn huyện Duyên Hải để thông luồng cho tàu 20.000 tấn

vào cảng Cái Cui – Thành phố Cần Thơ (theo ngã sông Hậu), Trà Vinh sẽ có điều

kiện tốt để xây dựng một khu kinh tế tổng hợp với cảng trung chuyển quốc tế tại cửa

Định An.

Với những điều kiện đó tạo cho Trà Vinh có nhiều lợi thế trong giao lưu kinh

tế và giao lưu với các tỉnh khác, vị thế quan trọng về kinh tế và quốc phòng đối với

vùng ĐBSCL.

Nằm ở vùng tiếp giáp giữa hai nguồn nước ngọt và mặn nên các loại cây

trồng, vật nuôi ở tỉnh khá đa dạng, đã tạo ra nguồn nguyên liệu rất dồi dào cho phát

triển ngành nghề nông thôn và làng nghề như: Lúa gạo, mía đường, rau, quả, dừa,

cói – lát, tre nứa, sản phẩm chăn nuôi, thủy sản,…

60

2.2.2.2. Địa hình:

Địa hình tỉnh Trà Vinh mang tính chất của địa hình đồng bằng ven biển, chịu

ảnh hưởng bởi tác động giao thoa giữa sông và biển. Kết quả tác động này đã hình

thành nên các vùng trũng xen với các giồng cát ven biển. Độ cao trung bình 1 – 3 m,

cao trình phổ biến của tỉnh khoảng 0,4 – 1 m chiếm 66% diện tích tự nhiên Các

huyện phía bắc có địa hình bằng phẳng hơn các huyện ven biển; địa hình dọc theo 2

bờ sông thường cao, vào sâu nội đồng bị các giồng cát hình cánh cung chia cắt tạo

nên các vùng trũng cục bộ. Khu vực ven biển có địa hình dạng sóng với nhiều giồng

cát hình cánh cung, độ cao từ 3 m đến 5 m.

Trên nền cao trình 0,4 – 1,0 m, khu vực có địa hình cao nhất (hơn 4 m) gồm

đỉnh các giồng cát phân bố ở Nhị Trường, Long Sơn (Cầu Ngang), Ngọc Biên (Trà

Cú), Long Hữu (Duyên Hải). Địa hình thấp nhất dưới 0,4 m tập trung tại các cánh

đồng trũng Tập Sơn, Ngãi Xuyên, Ngọc Biên (Trà Cú); Thanh Mỹ, cánh đồng

Ôcàđa (Châu Thành); Mỹ Hòa, Mỹ Long, Hiệp Mỹ (Cầu Ngang); Long Vĩnh

(Duyên Hải). Địa hình đồng bằng với các cao độ khác nhau, nên việc đầu tư cải tạo

đồng ruộng, xây dựng các công trình thủy lợi khá tốn kém.

Như vậy, địa hình của Trà Vinh tạo điều kiện hình thành một nền sản xuất

nông nghiệp đa dạng: Cây màu lương thực, cây thực phẩm, cây ăn quả phát triển

trên các giồng cát; cây lúa, cây lát chiếm ưu thế ở các vùng có độ cao trung bình và

thấp; còn ở một số vùng trũng ven sông có thể nuôi trồng thủy sản (tôm); cung cấp

những nguyên liệu cần thiết cho phát triển các làng nghề dệt chiếu, đan đát và sơ chế

thủy hải sản.

2.2.2.3. Khí hậu:

Cũng như toàn vùng ĐBSCL, Trà Vinh có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa cận

xích đạo, không chịu ảnh hưởng của gió mùa cực đới, nhưng lại bị tác động mạnh

mẽ của gió đông nam từ biển thổi vào, bị ảnh hưởng bởi lũ, còn bão hầu như không

có (trong thế kỉ XX chỉ có hai cơn bão, đó là các năm 1904 và 1997). Vì vậy có thể

nói, Trà Vinh là một trong số ít tỉnh của Việt Nam có điều kiện khí hậu thuận lợi cho

các hoạt động sản xuất, kinh doanh và du lịch quanh năm. Các yếu tố khí hậu, nhiệt

61

độ, ánh sáng, lượng nước bốc hơi và lượng mưa được phân bố đều khá rõ rệt giữa

mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10) và mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau).

Nhiệt độ trung bình giữa các tháng từ 26 – 27,60C. Nhiệt độ trung bình năm khá ổn định. Biên độ nhiệt trung bình giữa các tháng biến thiên từ 3 – 50C. Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối vào tháng 4 (36,70C), nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối vào tháng 1 (18,50C). Tổng nhiệt lượng trong năm đạt tới 98570C. Năng lượng bức xạ dồi dào (bức xạ tổng cộng trung bình 155 Kcal/cm2/năm). Số giờ nắng trong năm từ 2.236

đến 2.877 giờ, năm 2010 tổng số giờ nắng là 2.447,2 giờ (trung bình 6,7 giờ/ngày).

Lượng mưa trung bình năm là 1.526,16 mm, cao nhất là 1.862,9 mm, thấp nhất là

1.209 mm, phân bố không đều theo không gian và thời gian, thấp hơn so với trung

bình toàn ĐBSCL và có xu thế giảm dần từ tây bắc xuống đông nam (Càng Long

1.600 mm/năm, Trà Cú 1.500 mm/năm, Cầu Ngang 1.350 mm/năm, Thành phố Trà

Vinh 1.223 mm/năm, Duyên Hải 1.200 mm/năm), mưa tập trung theo mùa (từ tháng

5 đến tháng 10) và thường không ổn định trong thời kì đầu và cuối mùa mưa. Lượng

mưa tập trung trong mùa mưa tới 85,6% tổng lượng mưa cả năm, với số ngày có

mưa trung bình đạt từ 110 – 150 ngày. Sự phân bố lượng mưa các tháng cho thấy

vào tháng 10 có lượng mưa lớn nhất (17,3% cả năm). Độ ẩm tương đối trung bình

năm từ 83 – 85%, tháng khô nhất là tháng 2 và tháng 3. Lượng bốc hơi nước bình

quân nhiều năm của các tháng biến thiên từ 48 mm vào tháng 7 đến 111 mm vào

tháng 3. Lượng bốc hơi cao nhất vào mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau,

trong thời gian này lượng mưa thấp không đáng kể. Tuy nhiên, trong mùa mưa

thường xảy ra 2 đợt hạn cục bộ, người dân địa phương gọi là hạn “bà chằng”, thời

gian kéo dài 10 – 18 ngày. Đợt hạn đầu vụ vào cuối tháng 6 đầu tháng 7 và đợt hạn

giữa vụ cuối tháng 7 đầu tháng 8. Các tháng mùa khô đều ít mưa. Đặc biệt tháng 1

và tháng 2 rất ít mưa, lượng mưa dưới 20 mm/tháng.

Chế độ gió thay đổi theo mùa. Từ tháng 5 – 10, gió mùa tây nam hoạt động,

tốc độ gió từ 3 – 4 m/s. Từ tháng 11 – 3 là gió mùa đông bắc hoặc gió đông nam

(người dân địa phương gọi là gió chướng), tốc độ gió khoảng 2 – 3 m/s.

Nhìn chung, khí hậu tỉnh Trà Vinh với đặc điểm nhiệt đới gió mùa với nền

62

nhiệt độ cao ổn định, nắng và bức xạ mặt trời rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.

Tuy nhiên, sự phân hóa sâu sắc giữa hai mùa dẫn đến thiếu nước trong mùa khô, làm

ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của người dân.Với điều kiện khí hậu như trên

cùng với phân bố về mặt địa lý rất phù hợp cho nhiều loại cây trồng, vật nuôi phát

triển, tạo ra nhiều nguồn nguyên liệu phong phú cho ngành nghề nông thôn và làng

nghề phát triển. Cụ thể: lúa gạo, mía đường, ngô, rau – quả các loại, dừa, lác, lục

bình, tre trúc, tầm vông, thủy hải sản các loại…

2.2.2.4. Tài nguyên sinh vật:

Nằm giữa hai cửa sông lớn: cửa Cung Hầu (sông Cổ Chiên) và cửa Định An

(sông Hậu) có nguồn thức ăn tự nhiên phong phú, bãi biển nhiều phù sa là môi

trường thuận lợi cho thực, động vật phát triển. Ven biển Trà Vinh có các khu rừng

ngập mặn với các loài như: mắm, đước, bần, sú, vẹt. Toàn tỉnh hiện có 6.684,3 ha

đất rừng, chủ yếu ở các huyện Duyên Hải, Cầu Ngang, Trà Cú, Châu Thành. Ngoài

ra còn có các dải dừa nước ven sông, rạch. Ở các vùng hoang hóa có các loài lăn,

lác, bang… Đất bãi bồi 1.138 ha. Sản lượng lâm sản các loại năm 2007 như sau: gỗ 68,95 ngàn m3, củi 327,3 ngàn ster, lá dừa nước 10.352,4 ngàn tàu, măng tươi 225,8

tấn, tre 1.194,6 ngàn cây. Tuy nhiên chỉ mới đáp ứng được một phần nhu cầu

nguyên liệu cho các ngành nghề đồ gỗ, đan đát ở tỉnh. Hiện nay, các cơ sở mộc

trong tỉnh đều phải nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ bên ngoài.

Năm 2000, toàn tỉnh Trà Vinh có 5670,37 ha rừng; trong đó, rừng tự nhiên

chỉ còn 868,78 ha (15,32%), rừng trồng 4801,59 ha (84,68%). Tuy nhiên, năm 2010

rừng của Trà Vinh có xu hướng mở rộng với diện tích là 7.194 ha, trong đó rừng tự

nhiên có 1.453 ha, rừng trồng có 5.741 ha.

Rừng của Trà Vinh vừa có ý nghĩa phòng hộ chắn gió, sóng biển, cân bằng hệ

sinh thái rừng ngập mặn vừa là nguồn tài nguyên của tỉnh.

Về sản lượng các loại nông sản chính ở tỉnh năm 2010 bao gồm: Lúa

1.155,963 tấn, bắp 27.010 tấn, khoai các loại 45.456 tấn, rau các loại 518 ngàn tấn,

dưa hấu 86 ngàn tấn, mía 617.398 tấn, lát 10.135 tấn, đậu phộng 19.296 tấn, dừa

164.013 tấn, trái cây 167.137 tấn, thịt các loại 76.243 tấn. Ngoài ra còn có các loại

63

sản phẩm phụ của ngành trồng trọt và chăn nuôi như rơm rạ, tơ xơ dừa, lục bình,

xương, da trâu bò… Đây là nguồn nguyên liệu cung cấp cho các ngành nghề nông

thôn và các LNTT, nhất là chế biến nông sản, đan đát.

Biển Trà Vinh nhiều tôm cá và các loài thủy sản khác. Trữ lượng thủy sản 1,2

triệu tấn, khả năng khai thác 630.000 tấn/năm. Cá biển có 42 loài, cá nước lợ có 37

loài, cá nước ngọt có 15 loài, tôm có 32 loài. Ngoài ra còn có nhiều loài nghêu, sò…

Tỉnh Trà Vinh nổi tiếng có những bãi nghêu rộng lớn, nhất là ở Mỹ Long (Cầu

Ngang). Đây là nguồn lợi thủy sản đang được tỉnh quan tâm khai thác và phát triển.

Diện tích lưu vực tự nhiên của tỉnh là 21,265 ha và khoảng 98,597 ha ngập

nước từ 3 – 5 tháng/năm, trữ lượng thủy sản nội đồng ước tính của Trà Vinh là 3.000

– 4.000 tấn, khai thác thường xuyên từ 2.000 – 2.500 tấn.

Diện tích nuôi trồng thủy sản là 62.000 ha (diện tích nuôi tôm sú 25.000 ha).

Tổng sản lượng thủy, hải sản bình quân đạt 157.000 tấn/năm. Trong đó sản lượng

hải sản khai thác: 54.000 tấn, sản lượng nuôi trồng: 90.000 tấn, sản lượng khai thác

nội đồng: 12.000 tấn (Trong đó: tôm sú trên 19.000 tấn/năm, tôm càng xanh, tôm thẻ

chân trắng 3.000 tấn/năm), sản lượng cá: 52.000 tấn/năm (Trong đó: cá da trơn

30.000 tấn/năm). Cua: 5.200 tấn/năm. Nghêu: 3.800 tấn/năm.

Năm 2010, tổng sản lượng thủy sản toàn tỉnh đạt 160.053 tấn, bao gồm: đánh

bắt 77.276 tấn (Khai thác biển 60.930 tấn, trong đó cá là 24.013 tấn; khai thác nội

địa 16.345 tấn), nuôi trồng 82.777 tấn (Trong đó: tôm 20.944 tấn, cá 53.824 tấn).

Nguồn lợi thủy sản vùng ven biển Trà Vinh bao gồm nguồn lợi cửa sông,

rừng ngập mặn và vùng nước ven biển có độ sâu 30 – 40 m nước vào bờ. Nguồn cá

ven biển có 40 họ, 78 giống và 150 loài gồm cá biển ven bờ, cá nước lợ và cá di cư.

Trữ lượng cá vùng cửa sông ven biển Trà Vinh trên diện tích lưới quét năm 1994 là

62 tấn (khu cửa sông), 274 tấn cá nổi và cá tầng giữa; khu nước mặn và lợ là 9.063

tấn, cá nổi và cá tầng giữa là 63.470 tấn. Tổng trữ lượng khu cửa sông, ven biển là

72.869 tấn, khả năng khai thác (50%) là 36.434 tấn.

Bãi tôm cửa Định An diện tích khoảng 20.000 ha là bãi tôm lớn nhất trong 5

bãi tôm dải ven biển đồng bằng sông Cửu Long. Ước tính trữ lượng tôm biển tại hai

64

bãi tôm chính là 97 – 212 kg/ha (Bắc Cung Hầu) và 64 – 249 kg/ha (cửa Định An).

Tổng sản lượng tôm biển của Trà Vinh khoảng 4.300 – 11.000 tấn/năm. Ngoài tôm,

hàng năm còn có thể khai thác 2.000 – 3.000 tấn mực, 35 – 49 tấn sò huyết.

Hiện nay sản lượng nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản của tỉnh có bước phát

triển, đảm bảo cung ứng đủ nguyên liệu cho các nhà máy chế biến và ngành nghề,

làng nghề chế biến thủy hải sản hoạt động. Mặt khác, nhu cầu về đầu tư nhà máy chế

biến thủy hải sản xuất khẩu rất cần thiết.

2.2.2.5. Tài nguyên nước:

Tỉnh Trà Vinh có 3 sông lớn: sông Tiền, sông Hậu và sông Mang Thít với

tổng chiều dài 578 km. Ngoài ra còn có hàng trăm sông rạch nhỏ và nhiều kênh đào

dẫn nước từ sông chính về đồng ruộng với chiều dài 1876 km (tính kênh cấp I, II).

Hệ thống thủy văn của tỉnh Trà Vinh chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của biển.

Vùng biển Trà Vinh thuộc chế độ triều biển Đông, chủ yếu là bán nhật triều với biên

độ dao động khá lớn, trung bình khoảng 3m. Tuy nhiên, đây là chế độ bán nhật triều

không đều (ngày có 2 lần triều lên và 2 lần triều xuống). Hàng tháng có 2 kì triều

cường (vào ngày 1 và 15 âm lịch) và 2 kì triều kém (vào ngày 7 và 23 âm lịch).

Do gần biển, biên độ và mực nước trên sông rạch khá cao nên tiêu tự chảy

của tỉnh rất lớn. Chỉ riêng một phần ở Càng Long và khu vực giữa tỉnh do nước đến

từ nhiều hướng và biên độ triều tắt nhanh nên bị ngập kéo dài 3 – 4 tháng.

Nguồn cung cấp nước ngọt chính là sông Cổ Chiên, sông Hậu và sông Mang

Thít. Ngoài ra, hệ thống sông rạch chằng chịt đã tạo nên hệ thống dòng chảy lưu

thông trên toàn bề mặt tỉnh, cung cấp một nguồn nước tưới dồi dào vào mùa khô,

góp phần phục vụ tiêu nước vào mùa lũ, phát triển giao thông, thủy lợi, cung cấp

lượng nước đủ dùng cho sinh hoạt và đời sống dân cư tại chỗ… Nhìn chung, mật độ

kênh trục khá đồng đều (4 – 10 m/ha) nhưng mật độ kênh nội đồng còn thấp.

Khoảng 1/3 diện tích tự nhiên của tỉnh bị ngập khá sâu vào mùa mưa (hơn 0,6

m). Khu vực này phân bố tập trung ở ven sông và các trũng giữa giồng của các

huyện Cầu Ngang, Duyên Hải, Trà Cú. Các vùng ngập ít (dưới 0,4 m) phân bố chủ

yếu ở khu vực giữa tỉnh (thuộc vùng lúa cao sản).

65

Về mặt khí hậu, bên cạnh những thuận lợi của khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa

cận xích đạo, Trà Vinh còn có nhiều khó khăn cho sản xuất nông nghiệp như đã

trình bày ở trên. Tuy nhiên, Trà Vinh có thế mạnh đối với việc phát triển lâm nghiệp

và thủy sản do có nhiều diện tích bị ngập úng. Là cơ sở cho các làng nghề của tỉnh

phát triển mạnh.

Tóm lại, các nguồn tài nguyên ở Trà Vinh tuy không đa dạng nhưng có trữ

lượng lớn, tạo lợi thế rất lớn trong phát triển các làng nghề và ngành nghề nông

thôn.

66

Bản đồ 2.2. Hiện trạng các LNTT tỉnh Trà Vinh năm 2010

67

2.3. THỰC TRẠNG CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG CỦA TỈNH

TRÀ VINH:

2.3.1. Các làng nghề đang hoạt động:

2.3.1.1. Làng nghề dệt chiếu, thảm, se sợi tơ xơ dừa Đức Mỹ (xã Đức Mỹ,

huyện Càng Long):

Đức Mỹ là một xã cánh B của huyện Càng Long về địa giới hành chính, xã có 9 ấp, tổng số hộ 2311 hộ bằng 11.848 nhân khẩu. Mật độ dân số là 516 người/km2.

Trung tâm hành chính của xã là chợ Đức Mỹ nằm tại ấp Mỹ Hiệp A cách trung tâm

huyện lị về phía Tây Nam 11 km. Về phía Đông giáp xã Đại Phước, phía Tây giáp

xã Trung Nghĩa huyện Vũng Liêm, phía Nam giáp xã Nhị Long – Nhị Long Phú,

phía Bắc giáp sông Cổ Chiên tiếp giáp 2 tỉnh Bến Tre và Vĩnh Long. Diện tích tự

nhiên bằng 2.225,29 ha, chiếm 8,58 % diện tích đất tự nhiên của huyện. Nền kinh tế

của xã chủ yếu là sản xuất nông nghiệp chiếm tỉ trọng khoảng 85 % trong cơ cấu

kinh tế, còn lại là sản xuất công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.

Xã đã có nhiều mô hình và hướng phát triển mạnh các cơ sở sản xuất, kinh

doanh các mặt hàng tiểu thủ công mỹ nghệ ở các ấp trong xã đặc biệt là các cơ sở hộ

cá thể làm nghề tơ xơ dừa, dệt chiếu thảm xuất khẩu và buôn bán nội địa. Đây cũng

là thế mạnh của xã trong nhiều năm qua và các năm tiếp theo.

Nghề dệt chiếu, thảm, se sợi tơ xơ dừa đã có từ lâu đời nhưng đến cuối thập

kỉ 80 của thế kỉ XX, khi nền kinh tế bắt đầu mở cửa, sản phẩm của ngành nghề được

thị trường bên ngoài biết đến, từ đó nghề này phát triển mạnh mẽ, hình thành làng

nghề, tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho các hộ gia đình làm nghề. Làng

nghề xã Đức Mỹ hiện tại gồm các ấp Đức Hiệp, Long Sơn, Đức Mỹ A, Đức Mỹ,

Nhuận Thành, Thạnh Hiệp và Đại Đức. Các cơ sở và các hộ cá thể trong xã, đại đa

số làm việc chuyên nghề từ hợp tác xã (HTX) Hiệp Đức Thành và HTX Quyết Tâm.

Sản phẩm chính của làng nghề là chiếu, thảm xuất khẩu.

Khi được Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Trà Vinh công nhận làng nghề vào

năm 2007, làng nghề chỉ có 587 hộ với 1.720 lao động, nhưng tính đến thời điểm

hiện nay đã có 1492 hộ, cơ sở và doanh nghiệp sản xuất, trong đó có 1.477 hộ sản

68

xuất, 06 doanh nghiệp, 02 HTX, 07 tổ hợp tác, với tổng số lao động là 2.600 người,

thu nhập bình quân/người/tháng từ 900.000 đồng – 1.100.000 đồng. Tổng doanh thu

16.000.000.000 đồng.

Về se sợi tơ xơ dừa xã Đức Mỹ có 11 cơ sở, thành lập HTX Hiệp Đức Thành,

gồm 11 thành viên, mỗi thành viên đều có mặt bằng và máy đánh tơ. Hiện có 11

máy sản lượng sản xuất 2 tấn/ngày/máy, có trên 300 máy se lõi chỉ dừa. Tổng số lao

động 1.720 lao động, tập trung chủ yếu ở 3 ấp: Nhuận Thành, Thạnh Hiệp, Đại Đức.

Nguyên liệu chủ yếu tại địa phương, tuy nhiên còn thu mua dừa trái ở các tỉnh lân

cận như: Vĩnh Long, Cần Thơ, Sóc Trăng… Kết quả đạt được của 11 cơ sở tơ xơ

dừa nằm liền kề 3 ấp đã hình thành hoạt động có hiệu quả, nổi bật từ năm 2006 –

2007.

- Máy đánh tơ:

+ 02 tấn/ ngày/máy x 30 ngày x 12 tháng = 720 tấn/máy/năm

+ Quy thành tiền 720.000 x 2.000 đồng = 1.440.000.000 đồng /máy/năm

+ Doanh thu 11 máy đánh tơ HTX trong 2 năm là 31.680.000.000 đồng

- Se lõi tơ xơ dừa:

+ 300 máy x 07 kg/ngày = 2.100 kg/ngày.

+ 2.100 kg/ngày x 30 ngày x 12 tháng = 756.000 kg

+ Quy thành tiền 756.000 kg x 6000 đồng/kg = 4.536.000.000 đồng

Tổng thu nhập từ tơ xơ dừa là: 36.216.000.000 đồng

Ngoài ra, còn có HTX “Quyết Tâm” chuyên sản xuất chiếu thảm xuất khẩu

nguyên liệu từ cây lát từ địa phương cung ứng, diện tích lát trên 650 ha đảm bảo cho

HTX sản xuất. HTX có 09 thành viên, có 800 lao động; thu nhập bình quân từ

10.000.000 – 10.500.000 đồng/lao động/năm, tập trung ở 04 ấp: Đức Mỹ, Đức Mỹ

A, Long Sơn, Đức Hiệp. Hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX chuyên sản xuất

chiếu thảm xuất khẩu trong 02 năm 2006 – 2007 đạt được tổng doanh thu như sau:

- Sản phẩm chiếu cói xanh: có 10 máy dệt công suất 11.000 chiếc/tháng hoạt

động 10 tháng/năm, sản lượng 110.000 sản phẩm, quy thành tiền 2.530.000.000

69

đồng/năm giá 23.000 đồng/sản phẩm. Tổng doanh thu 02 năm sản phẩm chiếu cói

xanh là: 5.060.000.000 đồng.

Sản phẩm chiếu cói xanh với sản lượng 20.400 sản phẩm, hoạt động 10

tháng/năm, quy thành tiền 265.200.000 đồng/năm giá 13.000 đồng. Tổng doanh thu

02 năm là: 530.400.000 đồng.

- Sản phẩm thảm: có 55 khung, công suất 4.260 sản phẩm, quy thành tiền

46.860.000 đồng/năm giá 11.000 đồng.

Tổng doanh thu của HTX “Quyết Tâm” 02 năm là 5.637.260.000 đồng.

Nhìn chung, chất lượng sản phẩm đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu và thị hiếu

người tiêu dùng. Sản phẩm của làng nghề không chỉ phục vụ cho sinh hoạt của

người dân trong tỉnh và các tỉnh lân cận mà còn phục vụ cho xuất khẩu sang Pháp,

Hà Lan, Lucxembua… Tuy nhiên, làng nghề này chưa phục vụ cho du lịch.

Về vấn đề xử lí và bảo vệ môi trường làng nghề: Do các sản phẩm của làng

nghề sản xuất từ nguyên liệu là tơ xơ dừa, lát nên ít gây ảnh hưởng đến môi trường.

Bên cạnh đó các cơ sở sản xuất, HTX áp dụng một số biện pháp cải tiến công nghệ

sản xuất và thường xuyên vận động hội viên, hộ gia đình… giữ gìn cảnh quan và

bảo vệ môi trường làng nghề. Phụ phẩm từ tơ xơ dừa được xử lí, tạo nên một lượng

phân hữu cơ có ích cho sản xuất nông nghiệp.

2.3.1.2. Làng nghề đan đát Đại An (xã Đại An, huyện Trà Cú):

Đại An là một xã nằm về phía Nam của huyện, cách trung tâm huyện khoảng

8 km theo quốc lộ 53, với diện tích đất tự nhiên 1.236,16 ha chiếm 3,36 % diện tích

đất tự nhiên của huyện. Về phân giới hành chính xã được chia thành 8 ấp, với 2.145 hộ sinh sống bằng 9.268 người, mật độ dân số trung bình 729 người/km2, trung tâm

hành chính xã nằm ở ấp Chợ, xã Đại An. Phía Đông giáp xã Đôn Xuân, phía Tây

giáp xã Định An, phía Nam giáp xã Định An và xã Long Vĩnh huyện Duyên Hải,

phía Bắc giáp xã Hàm Giang.

Những năm gần đây kinh tế của xã có bước phát triển tương đối ổn định, cơ

cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng ngành

công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, thương mại – dịch vụ góp phần thúc đẩy kinh tế

70

nông thôn ngày càng phát triển. Tuy nhiên, ngành nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ

đạo, diện tích lúa hàng năm luôn ổn định khoảng 1.105 ha, đạt sản lượng trên 4.370

tấn.

Song song với việc phát triển sản xuất nông nghiệp của xã, được sự quan tâm

hỗ trợ của tỉnh, huyện, chính quyền địa phương đã đầu tư xây dựng một số cơ sở hạ

tầng thiết yếu: xây dựng đường điện trung thế một pha, nâng cấp lưới điện một pha

lên ba pha, hạ thế vào khu dân cư, xây dựng đường tráng nhựa, đường đan, cầu giao

thông nông thôn… phục vụ nhu cầu sản xuất, góp phần đưa bộ mặt nông thôn ngày

một đổi mới.

Tuy nhiên, xã vẫn còn nghèo và phần lớn là người dân tộc Khmer (chiếm gần

75 % dân số của xã), hộ nghèo còn cao (chiếm 38,24 % tổng số hộ toàn xã). Sản

xuất nông nghiệp còn mang tính độc canh, chi phí sản xuất còn cao, trình độ khoa

học kĩ thuật còn hạn chế, chất lượng sản phẩm chưa cao, khả năng cạnh tranh thị

trường còn kém nên giá trị và hiệu quả sản xuất, thu nhập của người dân còn thấp

chưa tương xứng tiềm năng và lợi thế hiện có của xã.

Ngoài ra, là xã vùng sâu nên việc đi lại còn khó khăn, trình độ dân cư không

đồng đều nên khả năng áp dụng khoa học kĩ thuật còn hạn chế, cho nên đời sống

người dân còn khá vất vả. Bên cạnh đó còn một số bộ phận lao động trong địa

phương thiếu việc làm và không việc làm còn khá lớn, hàng năm số lao động đến

tuổi từ 150 – 250 người tạo nên một áp lực lớn trong việc giải quyết việc làm. Với

diện tích đất tự nhiên là 1.236,16 ha, đất nông nghiệp 1.129,75 ha chiếm 91,39 %

diện tích đất tự nhiên, đất trồng lúa 1.067 ha chiếm 86,32 % diện tích đất tự nhiên,

đất trồng trúc trên 15 ha. Sản xuất nông nghiệp chiếm tỉ trọng khoảng 90 % trong cơ

cấu kinh tế chung, còn lại là sản xuất ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và

dịch vụ. Vì vậy cần có định hướng chuyển đổi cơ cấu sản xuất hợp lí, nhất là trong

việc phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp.

Xuất phát từ tình hình trên và với lợi thế của huyện Trà Cú nói chung, xã Đại

An nói riêng thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông ngư nghiệp và

phát triển nông thôn, ngoài việc tập trung chuyển đổi cơ cấu sản xuất cho phù hợp

71

với điều kiện tự nhiên, xã còn chú trọng phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp,

đặc biệt là làng nghề đan đát từ tre trúc, đây là thế mạnh và tiềm năng phát triển lớn

của xã. Làng nghề này đã có từ lâu, nhưng đến cuối thập kỉ 80 của thế kỉ XX sản

phẩm của làng nghề không chỉ phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của người dân, mà

còn được đem ra thị trường tiêu thụ mạnh, từ đó làng nghề phát triển hơn. Nếu làng

nghề này phát triển mạnh sẽ thu hút lớn lực lượng lao động, tăng thu nhập cho người

dân địa phương, góp phần phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hóa – hiện

đại hóa.

Làng nghề đan đát xã Đại An tập trung tại các ấp Giồng Lớn A, Giồng Đình,

Trà Kha, Mé Rạch E, Cây Da, Xà Lôn, Mé Rạch B. Trên địa bàn xã hiện có 23 tổ

hợp tác đan đát với 649 hộ sản xuất, 01 cơ sở sản xuất, 01 HTX, số lao động tham

gia làm nghề là 2.513 lao động. Ngoài ra còn tạo việc làm gián tiếp cho hàng trăm

lao động khác trong lĩnh vực thu mua, vận chuyển… Thu nhập bình quân của người

lao động từ 900.000 đến 1.025.000 đồng/người/tháng, tạo ra 10.000.000 sản phẩm,

đóng góp vào giá trị sản phẩm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp của xã đạt 16 tỉ

đồng, góp phần tích cực trong mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Bên

cạnh đó, tạo được giá trị sản phẩm có kim ngạch từ 2 – 3 triệu USD/năm.

Nguồn vốn hoạt động của làng nghề chủ yếu là hộ tự bỏ vốn, hiện nay các hộ

còn được vay vốn ưu đãi tín dụng đầu tư vào thúc đẩy phát triển sản xuất.

Thị trường chưa được ổn định chủ yếu bán tại địa phương và theo đơn đặt

hàng trong và ngoài tỉnh với số lượng nhỏ.

Làng nghề đan đát xã Đại An đã hình thành từ lâu đời nên trình độ tay nghề

của các hộ dân cũng vì thế được nâng lên. Bên cạnh đó, nguồn lao động tại địa

phương rất dồi dào, đáp ứng nhu cầu phát triển làng nghề trong những năm tiếp

theo. Có 10 hộ dân của xã được tham gia lớp tập huấn nâng cao tay nghề sau đó

truyền đạt lại cho các hộ khác. Nguồn nguyên liệu tre trúc có sẵn tại địa phương, khả

năng thu hút nguyên liệu trong khu vực tương đối thuận lợi, đáp ứng nhu cầu cung

cấp sản phẩm trên thị trường trong thời gian sắp tới. Vị trí địa lý làng nghề tại xã Đại

72

An rất thuận lợi về giao thông cả đường bộ lẫn đường thủy nên dễ vận chuyển

nguyên vật liệu và sản phẩm cung cấp cho thị trường.

Về việc đầu tư máy móc thiết bị vào phục vụ sản xuất các tổ hợp sản xuất và

HTX có 06 máy chẽ nang. Về lâu dài HTX tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng các

mặt hàng từ tre trúc. Sản phẩm làm ra đa dạng với nhiều chủng loại khác nhau, phục

vụ gia đình, đánh bắt cá, tôm… (như: cần xé, rổ, xà ngôm, thúng, ky). Nhất là mặt

hàng tiểu thủ công nghiệp đan đát xã Đại An được nhiều khách du lịch ưa chuộng,

với những sản phẩm rất xinh xắn có thể dùng để làm quà lưu niệm hay trưng bày rất

đẹp mắt. Trong đó, phát triển mạnh mặt hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ khách tham

quan du lịch. Làng nghề này đã có khách du lịch đến, tuy nhiên chưa nhiều và theo

hình thức tự phát, không do một cơ sở hay doanh nghiệp du lịch nào tổ chức.

Về vấn đề xử lí và bảo vệ môi trường làng nghề: Các tổ hợp tác và HTX đan

đát áp dụng một số biện pháp cải tiến công nghệ sản xuất góp phần giảm ô nhiễm

môi trường. Phụ phẩm từ tre trúc sau khi thu lại được xử lí, tạo nên một lượng phân

hữu cơ rất ích lợi trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.

2.3.1.3. Làng nghề đan lát, dệt mành tre, se sợi, tranh ghép gỗ Hưng Mỹ

(xã Hưng Mỹ, huyện Châu Thành):

Xã Hưng Mỹ là một xã nông thôn của huyện Châu Thành, cách trung tâm

huyện lị khoảng 11 km về hướng đông bắc, xã có diện tích tự nhiên là 2.795,76 ha,

trong đó đất nông nghiệp 1.669 ha chiếm 60,77 % diện tích tự nhiên, với diện tích

sản xuất lúa 950 ha, diện tích chuyên cây lát 82 ha, diện tích chuyên cây dừa 154 ha,

xã có 8 ấp, với 2.118 hộ, dân số chung là 10.301 người, khu hành chính của xã nằm

tại ấp Rạch Vồn. Về vị trí địa lý: phía Đông giáp xã Hòa Minh, phía Tây giáp xã

Hòa Lợi, phía Nam giáp xã Phước Hảo, phía Bắc giáp Cù lao Long Trị - Thành phố

Trà Vinh.

Sản xuất nông nghiệp của xã luôn phát triển, bình quân tốc độ phát triển

khoảng 11,85 %/năm, góp phần thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển, diện tích lúa

hàng năm luôn giữ ổn định khoảng 1.800 ha, sản lượng khoảng 7.200 tấn. Tuy

nhiên, xã vẫn còn nghèo, hộ nghèo còn chiếm tỉ lệ cao (21,53 % so với tổng số hộ

73

năm 2010 theo tiêu chí mới), sản xuất nông nghiệp vẫn còn mang tính độc canh, chi

phí sản xuất cao chậm chuyển đổi cơ cấu, ứng dụng khoa học kĩ thuật còn hạn chế,

chất lượng sản phẩm chưa cao, khả năng cạnh tranh thị trường còn kém nên giá trị

và hiệu quả sản xuất trên đơn vị diện tích canh tác và thu nhập nông hộ còn thấp

chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế hiện có của xã. Giao thông nông thôn chưa

hoàn thiện nên việc đi lại còn gặp rất nhiều khó khăn, trình độ dân cư không đồng

đều giữa các ấp, còn một số bộ phận lao động trong địa phương thiếu việc làm và

không việc làm còn khá lớn, hàng năm số lao động đến tuổi bổ sung từ 200 – 300

người, tạo một áp lực lớn về giải quyết việc làm.

Căn cứ vào tình hình thực tế, thực hiện chủ trương của cấp trên và quán triệt

Nghị quyết Đại hội X, Đảng bộ xã đã chỉ đạo ngoài việc tập trung chuyển đổi cơ cấu

sản xuất nông nghiệp cho phù hợp với điều kiện tự nhiên còn chú trọng phát triển

làng nghề tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt trong việc chế biến và tạo các sản phẩm từ

cây lát, cây dừa, cây tre,… đây là một trong những thế mạnh và tiềm năng phát triển

lớn của huyện Châu Thành nói chung và tại xã Hưng Mỹ nói riêng.

Trên 10 năm qua, đặc biệt là những năm gần đây, làng nghề ở xã Hưng Mỹ

phát triển khá mạnh, nhất là ở các ấp: Ngãi Hiệp, Ngãi Lợi, Bãi Vàng, Đại Thôn và

Rạch Vồn. Đến cuối năm 2006 xã Hưng Mỹ có 01 HTX dệt chiếu Thành Trung, với

08 cơ sở đan đát, 02 cơ sở dệt mành tre, 01 cơ sở se chỉ tơ xơ dừa, 01 cơ sở dệt lưới

xơ dừa, 01 cơ sở tranh ghép gỗ, 01 doanh nghiệp làm hàng tiểu thủ công nghiệp,

năng lực sản xuất trên 800.000 sản phẩm/năm, doanh thu ước đạt trên 3 tỉ đồng/năm.

Tình hình sản xuất của làng nghề trong 2 năm 2006 – 2007: Tổng sản phẩm 856.000

sản phẩm, doanh thu 6.853 triệu đồng, chi phí 6.097 triệu đồng, lợi nhuận 756 triệu

đồng, thu nhập bình quân 550.000 – 600.000 đồng/người/tháng. Năm 2010 làng

nghề có 08 cơ sở dệt thảm lát, 05 cơ sở tơ xơ dừa, 03 cơ sở đốt than gáo dừa, 15 cơ

sở dệt mành tre, mành trúc, 13 cơ sở dệt lưới chỉ xơ dừa. Sản phẩm khoảng 2.000

tấn xơ dừa, 618 tấn than gáo dừa, 600.000 sản phẩm dệt mành tre mành trúc,

470.000 lưới chỉ xơ dừa, 100.000 sản phẩm thảm lát. Hàng năm giải quyết cho trên

400 lao động. Đến nay toàn xã có 863 hộ tham gia làng nghề đạt 40,74 % so với

74

tổng số hộ toàn xã, chiếm 53,73 % so với tổng số hộ của 5 ấp nêu trên (1.606 hộ)

giải quyết việc làm thường xuyên cho 2.600 lao động địa phương. Tổng doanh thu

8.000.000.000 đồng. Làng nghề tiểu thủ công nghiệp của xã đã tạo ra được một số

sản phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu như: chiếu cói, thảm lát, tranh

ghép gỗ, lưới xơ dừa, dệt mành tre, giấy dán bằng yếm dừa, đan giỏ, chậu hoa lục

bình xuất khẩu… góp phần tăng thu nhập cho người dân, giúp họ từng bước vươn

lên xóa đói, giảm nghèo. Thu nhập bình quân của người lao động từ 900.000 –

1.100.000 đ/người/tháng. Tạo ra sản phẩm xuất khẩu có kim ngạch từ 5 – 6 triệu

USD/năm. Tuy sản phẩm của làng nghề rất phong phú nhưng chỉ cung cấp cho các

cơ sở dịch vụ thương mại bán cho khách.

Tháng 3/2001 HTX dệt chiếu Thành Trung được thành lập với 9 thành viên,

vốn điều lệ 75 triệu đồng, số xã viên và vốn điều lệ của HTX tăng lên không ngừng

theo thời gian, tháng 8/2004 có 12 xã viên vốn điều lệ tăng lên 102,4 triệu đồng, vốn

góp chủ yếu là giá trị đất, nhà xưởng, khung dệt, … Năm 2007 HTX Thành Trung

có 190 khung dệt, 145 máy se V, 20 máy dệt mành tre, 200 máy se chỉ tơ xơ dừa,

năng lực sản xuất/tháng đạt 30.000 sản phẩm thảm lát, 120.000 mành tre, 01 tấn chỉ

xơ dừa, 500 mành lưới xơ dừa. Về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lí điều hành hoạt

động luôn được quan tâm củng cố. Trong 02 năm 2006 – 2007 thông qua Liên hiệp

HTX Trà Vinh, HTX dệt chiếu Thành Trung đã kí hợp đồng với Công ty cổ phần

sản xuất kinh doanh – xuất nhập khẩu Vĩnh Long, Công ty đầu mối ở Bến Tre, …

dệt gia công và đan đát 12 loại sản phẩm, giải quyết cho 1.500 lao động trong đó dệt

thảm 800 lao động, đan đát mành tre mành trúc 400 lao động, dệt lưới tơ xơ dừa 300

lao động. Tổng sản phẩm sản xuất 406.000 sản phẩm, doanh thu 4.538 triệu đồng,

chi phí 4.112 triệu đồng, lợi nhuận 426 triệu đồng, thu nhập 600.000 – 700.000

đồng/lao động/tháng.

Ngoài ra, năm 2004 Cơ sở tranh ghép gỗ Hứa Trạng được công nhận theo

Quyết định 2181/QĐ – CTT của Chủ tịch UBND Tỉnh Trà Vinh, với vốn điều lệ là

38.800.000 đồng và tiếp tục tăng lên 50.800.000 đồng. Cơ sở hoạt động liên tục và

có hiệu quả từ ngày thành lập cho đến nay tạo ra nhiều sản phẩm tranh ghép gỗ được

75

chào bán trên mọi miền đất nước, hiện cơ sở có 9 lao động hoạt động tại cơ sở, tổng

sản phẩm tạo ra năm 2007 là 15.000 sản phẩm các loại, tổng doanh thu là

68.400.000 đồng/năm, chi phí 76.320.000 đồng, lợi nhuận 10.180.000 đồng. Năm

2010 tổng sản phẩm 21.000 sản phẩm, doanh thu 143.262.000 đồng, chi phí

104.717.000 đồng, lợi nhuận 38.545.000 đồng, thu hút khoảng 24 lao động. Về cơ

sở vật chất phục vụ cho sản xuất có các loại máy móc như máy cưa, máy tiện cây,

máy mài bóng.

Cũng trong năm 2004, Doanh nghiệp tư nhân Văn Chất cũng được công nhận

với vốn điều lệ 213.090.000 đồng, chuyên kinh doanh các mặt hàng thủ công mỹ

nghệ (như những giỏ xách được đan bằng dây nhựa, khay hộp bằng nhựa, …) doanh

nghiệp có 18 cơ sở hoạt động gia công, luôn tạo việc làm thường xuyên cho trên 600

lao động. Năm 2007 tổng sản phẩm tạo ra: 80.000 sản phẩm, tổng doanh thu

985.909.712 đồng, chi phí 968.296.029 đồng, lợi nhuận cho doanh nghiệp

17.613.683 đồng. Về cơ sở vật chất của doanh nghiệp phục vụ cho sản xuất có 04

máy se lõi, 01 bàn cắt, 01 máy may công nghiệp, 30 bàn sắt đan ghế, 01 sa quay dây, 100 go dệt, 50 sa chỉ, doanh nghiệp có diện tích nhà kho khoảng 500 m2 được xây

cất bằng cây tạp, mái tol, nền lát gạch. Năm 2010 tổng sản phẩm tạo ra là: 150.000

sản phẩm, doanh thu 2.000.000.000 đồng, chi phí 1.960.000.000 đồng, lợi nhuận

40.000.000 đồng, thu hút khoảng 900 lao động.

Đến năm 2005, Cơ sở Tài Phú cũng được công nhận, với vốn điều lệ trên

80.000.000 đồng, cơ sở hoạt động chuyên lĩnh vực se tơ xơ dừa, dệt lưới xơ dừa, …

Về cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất có 170 máy se chỉ xơ dừa, 03 máy se tim

đèn, 07 máy dệt lưới tơ xơ dừa, tổng số lao động tại các cơ sở là 600 lao động. Cơ sở

hoạt động lĩnh vực chính là gia công lại cho công ty đầu mối ở Bến Tre thông qua

các hợp đồng kinh tế là se chỉ tơ xơ dừa và dệt lưới tơ xơ dừa. Tổng sản phẩm tạo ra

05 tấn chỉ xơ dừa, tổng doanh thu 720.000.000 đồng, chi phí 648.000.000 đồng, lợi

nhuận 16.000.000 đồng. Năm 2010 tổng sản phẩm 13 tấn chỉ tơ xơ dừa, doanh thu

chung 910.000.000 đồng, chi phí 850.000.000 đồng, lợi nhuận 60.000.000 đồng.

76

Sản phẩm tạo ra từ HTX Thành Trung, doanh nghiệp, các cơ sở chủ yếu là

gia công cho các công ty đầu mối các tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang và

TPHCM.

Về vấn đề xử lí và bảo vệ môi trường làng nghề: Do nguyên liệu của làng

nghề chủ yếu từ cây lát, cây dừa, tre, trúc nên không ảnh hưởng lớn đến môi trường

làng nghề. Nhưng việc đốt than gáo dừa thì lại ảnh hưởng đến môi trường xung

quanh khu vực sản xuất. Tuy nhiên, cơ sở sản xuất than gáo dừa chú trọng đến khâu

xử lí khi đốt than nên cũng giảm bớt phần khí thải. Phụ phẩm sau khi thu lại được xử

lí, cung cấp lượng phân hữu cơ có ích cho sản xuất nông nghiệp.

2.3.1.4. Làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ Lương Hòa (xã Lương

Hòa, huyện Châu Thành):

Xã Lương Hòa là một xã vùng nông thôn huyện Châu Thành, có diện tích tự

nhiên là 2.194,24 ha, trong đó đất nông nghiệp 2.030,44 ha, xã có 07 ấp, có 2.174

hộ, trong đó hộ đồng bào dân tộc Khmer chiếm 54 %, dân số chung là 11.084 người,

khu hành chính của xã nằm tại ấp Sâm Bua, cách trung tâm huyện lị 7 km về hướng

Đông.

Sản xuất nông nghiệp của xã trong những năm qua luôn phát triển, góp phần

thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển, diện tích lúa hàng năm luôn giữ vững ổn định

khoảng 2.900 ha, sản lượng khoảng 11.000 tấn. Nhưng xã vẫn là xã nghèo thuộc

Chương trình 135/CP. Nông nghiệp phát triển chưa bền vững, phụ thuộc nhiều yếu

tố bất lợi từ thời tiết, vật tư, giá cả thị trường luôn biến động, tình hình dịch bệnh

thường xuyên xảy ra trên diện rộng, khó kiểm soát, đã ảnh hưởng rất lớn đến đời

sống của nông dân. Mặt khác, khả năng ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào

sản xuất còn hạn chế, chất lượng sản phẩm chưa cao. Cơ sở hạ tầng phát triển chưa

đồng bộ. Xã có đông đồng bào Khmer nên hộ nghèo còn chiếm tỉ lệ khá cao. Bên

cạnh đó, một số bộ phận lao động trong địa phương thiếu việc làm và không việc

làm còn khá lớn, số lao động đến tuổi hàng năm từ 150 – 200 lao động, đã tạo áp lực

lớn trong việc giải quyết việc làm cho địa phương.

77

Thực hiện chủ trương của trên về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển

làng nghề tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt là tạo ra các sản phẩm từ nguồn nguyên liệu

sẵn có như cây dừa, tre, trúc, lát, lá dừa nước, … xã đã chỉ đạo phát triển làng nghề

đã có ở địa phương nhằm thu hút lao động nông thôn, giải quyết việc làm tại chỗ,

tăng thu nhập cho người dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn theo

hướng CNH – HĐH.

Làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã Lương Hòa đã có từ lâu đời nhưng

những năm gần đây, làng nghề phát triển khá mạnh, nhất là ở các ấp: Ô Chích A,

Base A, Base B, Bình La và Sâm Bua. Đến cuối năm 2008, xã Lương Hòa có 01 cơ

sở se chỉ tơ xơ dừa, 01 tổ sản xuất đan mê bánh tráng, 01 tổ sản xuất bánh tráng và

hàng trăm hộ dân với nghề đan đát, chằm lá, thủ công mỹ nghệ, … năng lực sản xuất

trên 700.000 sản phẩm/năm, doanh thu ước đạt trên 2 tỉ đồng/năm, đến nay toàn xã

có 697 hộ tham gia làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ đạt tỉ lệ 32,1 % so với

tổng số hộ toàn xã và đạt 41,44 % so với số dân của 5 ấp (697/1.682), giải quyết việc

làm thường xuyên cho 850 lao động địa phương, tạo thu nhập bình quân 1.000.000 –

1.300.000 đồng/người/tháng. Làng nghề tạo ra được một số sản phẩm phục vụ tiêu

dùng trong nước và xuất khẩu như: bánh tráng, điêu khắc gỗ, lưới xơ dừa, tơ xơ dừa,

đan mê bánh tráng, may mặc… Ngoài ra, còn có 01 cơ sở may gia công, 01 cơ sở

sản xuất than tổ ong, góp phần tăng thu nhập cho người dân từng bước vươn lên xóa

đói giảm nghèo.

Cơ sở tơ xơ dừa Tám Quang, ấp Ô Chích được thành lập vào năm 2001, có

vốn điều lệ 150.000.000 đồng. Cơ sở hoạt động chuyên lĩnh vực se chỉ tơ xơ dừa, se

chỉ tim đèn, dệt lưới xơ dừa… Đây là bước ngoặt lớn cho sự phát triển ngành nghề

tiểu thủ công nghiệp của xã. Về cơ sở vật chất phục vụ cho việc sản xuất kinh

doanh: cơ sở có 110 máy se chỉ tơ xơ dừa, 02 máy se tim đèn, 02 máy dệt lưới xơ

dừa. Lực lượng lao động của cơ sở là 90 lao động. Sản phẩm chủ yếu cung cấp cho

các doanh nghiệp tỉnh Bến Tre thông qua hợp đồng kinh tế. Năm 2007 tổng sản

phẩm đạt 40 tấn chỉ xơ dừa, lưới xơ dừa, se chỉ tim đèn, tổng doanh thu 200 triệu

đồng. Năm 2008 tổng sản phẩm 43 tấn chỉ xơ dừa, lưới xơ dừa, se chỉ tim đèn, tổng

78

doanh thu 215 triệu đồng. Năm 2009 tổng sản phẩm 45 tấn chỉ xơ dừa, lưới xơ dừa,

se chỉ tim đèn, tổng doanh thu 225 triệu đồng. Năm 2010 tổng sản phẩm 50 tấn chỉ

xơ dừa, lưới xơ dừa, se chỉ tim đèn, tổng doanh thu 320 triệu đồng, tạo thu nhập

bình quân 1.200.000 đồng/người/tháng.

Vào tháng 01/2008 cơ sở may gia công TTK hoạt động chuyên lĩnh vực may

gia công áo sơ – mi cũng được thành lập với vốn điều lệ 200 triệu đồng. Từ khi

thành lập hoạt động liên tục và có hiệu quả cho đến nay, cơ sở có 16 máy may, giải

quyết việc làm cho 48 lao động. Năm 2007 tổng sản phẩm 82.500 sản phẩm, tổng

doanh thu 165 triệu đồng. Năm 2008 tổng sản phẩm 90.000 sản phẩm, tổng doanh

thu 180 triệu đồng. Năm 2009 tổng sản phẩm 95.000 sản phẩm, tổng doanh thu 190

triệu đồng. Năm 2010 tổng sản phẩm 100.000 sản phẩm, tổng doanh thu 200 triệu

đồng, tạo thu nhập bình quân từ 700.000 – 800.000 đồng/người/tháng. Sản phẩm gia

công chủ yếu cung cấp cho Công ty Anh Phú – TPHCM. Do nguồn vốn của Ngân

hàng chưa đáp ứng đủ cho điều kiện về các trang thiết bị như máy vắt sổ, máy

scan… theo nhu cầu nên cơ sở chưa sử dụng hết tiềm năng lao động sẵn có để giải

quyết việc làm và phát triển kinh tế.

Với nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương như: dừa nước, tre, trúc… tạo

điều kiện cho các nghề chằm lá, nghề đan đát, nghề mộc (chủ yếu là đóng giường,

bàn, ghế, thang … từ tre) phát triển mạnh, hàng năm tạo ra khoảng trên 200.000 sản

phẩm cung cấp cho thị trường góp phần giải quyết việc làm đáng kể cho lao động

nông thôn. Đặc biệt là hộ Lâm Phene với nghề mộc đã tạo các dòng nhạc cụ dân tộc

Khmer như các mặt nạ tinh xảo, được giới thiệu trưng bày trong những cuộc triển

lãm trong và ngoài tỉnh. Về mặt tiêu thụ, sản phẩm được đặt hàng theo yêu cầu của

các chùa ở các tỉnh như Cà Mau, Sóc Trăng… Hiện tại địa phương đang xin công

nhận 02 nghệ nhân là Lâm Phene và Thạch Chét. Nghệ nhân Thạch Chét với nghề

chạm khắc các mặt hàng thủ công mỹ nghệ từ những gốc cổ thụ ở ấp Base A. Từ các

nguyên vật liệu đơn giản, rẻ tiền nhưng với năng khiếu và bàn tay khéo léo của các

nghệ nhân đã làm phong phú thêm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của địa phương

79

cũng như trong huyện. Chính vì thế, làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ Lương

Hòa đã hấp dẫn du khách tìm đến.

Mặt khác, vào năm 2000 Cơ sở than tổ ong thuộc ấp Base B thành lập có vốn

điều lệ 30.000.000 đồng. Cơ sở hoạt động chuyên sản xuất than các loại gồm loại

đại, trung, tiểu. Về cơ sở vật chất phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh, cơ sở có 02

máy gồm 01 máy xay than và 01 máy ép khuôn. Khi thành lập cơ sở chỉ gồm 06 lao

động. Mặc dù là cơ sở tự phát nhưng kinh doanh rất có hiệu quả, sản phẩm được tiêu

thụ rộng rãi trên thị trường như: huyện Vũng Liêm, Thành phố Vĩnh Long (tỉnh

Vĩnh Long), huyện Càng Long, Thành phố Trà Vinh… do đây là mặt hàng đáp ứng

nhu cầu hàng ngày nên có số lượng cũng như doanh thu trên nên đạt ở mức khá cao.

Năm 2007 tổng sản phẩm 180.000 sản phẩm, tổng doanh thu 340.000.000 đồng.

Năm 2010 tổng sản phẩm 220.000 sản phẩm, tổng doanh thu 390 triệu đồng, giải

quyết việc làm cho 08 lao động, thu nhập bình quân 750.000 đồng/người/tháng.

Bên cạnh đó có 02 tổ hợp tác kinh tế được thành lập là Tổ hợp tác sản xuất

bánh tráng ấp Base B và Tổ hợp tác chằm lá ấp Base A. Tổ hợp tác đan mê ấp Base

B (Ô Bốn) được thành lập vào tháng 01/2008, có 18 thành viên tham gia. Tổ hoạt

động chuyên đan mê thủ công và theo hình thức dần công mua nguyên liệu và thu

gom sản phẩm (vĩ) của các tổ viên tiêu thụ ra thị trường, chủ yếu là thị trường trong

tỉnh. Về tình hình sản xuất vào năm 2007 tổng sản phẩm: 4.000 sản phẩm, doanh thu

120 triệu đồng, tạo thu nhập bình quân 600.000 đồng/người/tháng. Năm 2010 tổng

sản phẩm: 5.500 sản phẩm, doanh thu 150 triệu đồng, tạo thu nhập bình quân

700.000 đồng/người/tháng.

Tổ hợp tác sản xuất bánh tráng ấp Base B xã Lương Hòa, huyện Châu Thành,

tỉnh Trà Vinh, được thành lập vào tháng 2/2008, có 10 thành viên tham gia. Tổ hoạt

động chuyên sản xuất bánh tráng thủ công. Về cơ sở vật chất phục vụ cho việc sản

xuất chủ yếu do hộ tự đầu tư. Tuy nhiên thiếu các trang thiết bị phục vụ sản xuất như

máy tráng, sân phơi sản phẩm và các công trình hạ tầng. Tổ hoạt động theo hình

thức dần công phơi bánh, thu gom bánh tráng của các tổ viên tiêu thụ ra thị trường,

chủ yếu là thị trường trong tỉnh. Đây là loại hình hợp tác hiệu quả góp phần giải

80

quyết lao động nông thôn, tăng thu nhập hộ gia đình, góp phần phát triển kinh tế địa

phương. Về tình hình sản xuất vào năm 2008 tổng sản phẩm: 400.000 sản phẩm,

doanh thu 60 triệu đồng, tạo thu nhập bình quân 600.000 đồng/người/tháng. Năm

2010 tổng sản phẩm: 460.000 sản phẩm, doanh thu 64.500.000 triệu đồng, tạo thu

nhập bình quân 700.000 đồng/người/tháng.

Nhìn chung, môi trường làng nghề ít bị ô nhiễm một phần nhờ vào ý thức của

các hộ dân; các cơ sở, các tổ hợp tác cải tiến công nghệ sản xuất, giữ gìn và bảo vệ

môi trường. Các hộ dân trong làng nghề còn thu gom những phụ phẩm sau khi sản

xuất để xử lí tạo ra lượng phân hữu cơ có ích phục vụ cho nông nghiệp.

2.3.1.5. Làng nghề sơ chế biến thủy sản Xóm Đáy (xã Đông Hải, huyện

Duyên Hải):

Đông Hải là xã ven biển nằm ở phía nam của huyện Duyên Hải, có bờ biển

dài 16 km và một vàm lớn đổ ra biển Đông. Xã có 5 ấp (Động Cao, Định An, Phước

Thiện, Hồ Thùng và Hồ Tàu) diện tích tự nhiên là 4.384,98 ha, trong đó đất rừng

ngập mặn và nuôi trồng thủy sản 2.555 ha chiếm hơn 58 %. Địa giới hành chính:

phía Đông giáp xã Dân Thành, phía Tây giáp xã Long Vĩnh, phía Nam giáp biển

Đông, phía Bắc giáp xã Long Khánh. Toàn xã có 2.022 hộ với 8.367 nhân khẩu (hộ

dân tộc Khmer 53 hộ chiếm 2,6 %).

Chính đặc điểm tự nhiên nhân dân xã Đông Hải sống chủ yếu bằng nghề khai

thác, sơ chế thủy sản và nuôi trồng thủy sản. Cơ cấu kinh tế của xã là nông – lâm –

ngư nghiệp, công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Thủy sản là ngành kinh

tế chủ lực của xã trên 2 lĩnh vực: khai thác và nuôi trồng thủy sản. Thủy sản đã gắn

kết với công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp qua sơ chế biến mặt hàng thủy sản, gắn

kết với dịch vụ hậu cần nghề cá. Những năm qua khai thác đánh bắt được mùa, đa

dạng được con nuôi nên nuôi trồng thủy sản cũng được mùa đạt sản lượng hàng năm

trên 10 ngàn tấn tôm cá các loại, đạt giá trị sản xuất trên 150 tỉ đồng chiếm gần 80 %

giá trị GDP toàn xã. Phát huy được thế mạnh thủy sản đã đẩy tốc độ tăng trưởng

kinh tế của xã tăng bình quân hàng năm 13 – 15 %. Từ một xã nghèo thuộc chương

trình 135 đã kết thúc giai đoạn 1 đưa thu nhập bình quân đầu người 10,6 triệu

81

đồng/năm trong năm 2008. Xã có 4/5 ấp văn hóa và một khu dân cư tiên tiến, sự

nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, chăm lo xã hội có nhiều tiến bộ, tình hình an ninh

chính trị trật tự an toàn xã hội giữ vững, ổn định được trên công nhận xã an toàn về

an ninh trật tự năm 2008.

Tuy nhiên kinh tế của xã có bước phát triển nhưng chưa đồng bộ, sản xuất

còn lệ thuộc vào thiên nhiên, việc ứng dụng khoa học kĩ thuật còn hạn chế, chất

lượng sản phẩm không cao, khả năng cạnh tranh thị trường gặp nhiều khó khăn hao

hụt lớn, giá thành cao nên hiệu quả sản xuất còn thấp, chưa khai thác hết tiềm năng

và thế mạnh của mình.

Trong những năm trước đây luồng lạch ngoài khơi ở xã Đông Hải hiện nay

rất thuận lợi cho nghề đóng đáy biển. Chính ngư trường có nhiều tôm cá đã thu hút

ngư dân ở Mỹ Long, Hiệp Thạnh… đến đây khai thác. Sông Động Cao đổ ra vàm

lớn thuận lợi cho tàu thuyền đánh bắt vào đây bán sản phẩm, sơ chế mặt hàng thủy

sản tiêu thụ các nơi. Dịch vụ hậu cần nghề cá cũng hình thành cung cấp lương thực,

thực phẩm, nhiên liệu cho tàu thuyền đánh bắt chủ yếu là ghe đóng đáy nên hình

thành Xóm Đáy từ đây.

Năm 1985 xã Đông Hải được thành lập nên cơ sở hạ tầng được đầu tư trong

đó có giao thông, điện lưới quốc gia về xã, làng nghề Xóm Đáy được phát triển theo.

Ban đầu mới thành lập xã có ấp Động Cao sau đó chia tách thêm ấp Định An nên

Xóm Đáy hiện nay bao gồm 2 ấp Động Cao và Định An của xã Đông Hải.

Ban đầu chủ đóng đáy khi sản phẩm về họ tự chế biến tiêu thụ có thuê lao

động giúp việc. Dần dần do nhu cầu thị trường nhất là ngoài tỉnh đã hình thành

nhiều cơ sở đứng ra thu mua từ hàng tươi sống thuê lao động sơ chế tiêu thụ đã làm

cho làng nghề ngày càng phát triển và lớn mạnh.

Trên 10 năm qua, đặc biệt là những năm gần đây, các cơ sở thu mua, chế biến

thủy sản phát triển khá mạnh, tập trung nhiều nhất ở khu vực ấp Định An và ấp

Động Cao chuyên sản xuất, sơ chế biến mặt hàng thủy sản như: tôm, cá, phân khô…

Khu vực này có 745 hộ dân (thuộc Xóm Đáy cũ) có 349 hộ tham gia chế biến thủy

sản, chiếm 46,8 % tổng số hộ trong khu vực. Số hộ dân còn lại không trực tiếp tham

82

gia lao động làm thuê cho làng nghề nên thu hút hơn 1000 lao động phổ thông. Năng

lực chế biến thành phẩm từ 2.500 – 3.000 tấn tôm, cá, phân khô, đạt được doanh thu

từ 30 – 40 tỉ đồng/năm, năm 2010 doanh thu đạt 42 tỉ đồng, giải quyết cho trên

1.000 lao động tại chỗ. Đây là làng nghề chủ lực để xóa đói giảm nghèo cho xã

Đông Hải, góp phần đáng kể vào sự phát triển chung của huyện Duyên Hải.

Nghề khai thác biển được mùa sản lượng đánh bắt tăng hàng năm kết hợp

chính sách hỗ trợ tiền dầu cho các phương tiện đánh bắt nên đời sống ngư dân khá

hơn, từ đó có điều kiện đổi mới nâng cấp trang thiết bị đánh bắt.

Nguồn nguyên liệu cho làng nghề bị lệ thuộc hoàn toàn vào sản lượng khai

thác. Năm nào trúng mùa thì năm đó sản xuất kinh doanh phát triển, thu nhập cao

hơn. Sản lượng tôm cá tươi từ nguồn khai thác biển đã tăng lên hơn 10 ngàn

tấn/năm, đây là nguồn nguyên liệu chủ yếu cho chế biến từ 2.500 – 3.000 tấn thành

phẩm khô.

Sản lượng thủy sản tươi từ khai thác biển về được phân loại ngay làm 2 dạng:

Tôm cá tươi được tiêu thụ theo dạng làm thức ăn, chế biến đông lạnh; số còn lại chế

biến theo dạng khô qua phơi, sấy.

Về sơ chế biến tôm khô, ruốc khô: Các cơ sở thu mua tôm, ruốc tươi từ hộ

khai thác biển tập kết về kho xưởng để luột chín rồi đem phơi nắng hoặc sấy khô

bóc vỏ, phân loại thành phẩm đóng gói bao bì tiêu thụ. Năm 2008 sản lượng tôm

khô đạt 95 tấn, doanh thu 19.000.000.000 đồng; sản lượng ruốc khô 174 tấn, doanh

thu 1.210 tấn.

Về sơ chế biến cá khô: Cá khoai, cá lù đù, lưỡi trâu, cá hố, cá chét… ướp

muối mặn, thêm gia vị hoặc để lạc phơi sấy khơi, phân loại đưa đi tiêu thụ. Riêng

mặt hàng cá khoai, cá kèo khô… do cơ sở Tiến Hải cung cấp cho các siêu thị lớn ở

TPHCM. Năm 2008 sản lượng cá khô 48 tấn, doanh thu 2.400 tấn.

Về sơ chế phân cá khô: đây là mặt hàng chiếm sản lượng lớn nhất nó tập

trung hầu hết nguồn nguyên liệu còn lại như ruốc, cá tạp, cua còng, … phơi khô bán

đi cho các cơ sở, nhà máy làm nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc, gia cầm, nuôi

trồng thủy sản trong và ngoài tỉnh. Đây cũng là nguồn cung cấp phân tươi cho trồng

83

màu nhất là dưa hấu chất lượng cao. Năm 2008 sản lượng phân cá khô 2.180 tấn,

doanh thu 19.400 triệu tấn.

Năm 2008 tổng sản lượng đạt 3.060 tấn, tổng doanh thu 42.010 triệu đồng.

Làng nghề thu hút lượng lớn lao động có việc làm và thu nhập khá ổn định cho

1.000 lao động trong mùa vụ tập trung. Lao động từ khai thác đánh bắt trên biển, lao

động dịch vụ hậu cần nghề cá, lao động thu mua sơ chế biến thủy sản, lao động dịch

vụ hỗ trợ cho nghề chế biến như cung cấp bao bì, bạt nhựa, cần xé và cả lao động

bốc xếp, vận tải hàng hóa. Các cơ sở thu mua chế biến thủy sản ít nhất có từ 5 – 10

lao động thường xuyên, vào mùa vụ chính lực lượng lao động tăng từ 3 – 5 lần. Lao

động phổ thông thu nhập hàng tháng 700.000 – 1.200.000 đồng, có tay nghề hơn

1.500.000 đồng/tháng. Thu nhập bình quân của lao động trong làng nghề hơn

6.000.000 đồng/năm (Mùa vụ thủy sản từ khai thác chế biến mỗi năm từ 6 – 8

tháng). Sản phẩm chính của làng nghề là tôm khô và cá khô. Làng nghề cũng thu hút

được du khách đến, tuy nhiên số lượng còn hạn chế.

Về hoạt động của các cơ sở sản xuất, kinh doanh của làng nghề:

- Cơ sở Tiến Hải có trụ sở chính đặt tại ấp Động Cao, xã Đông Hải, huyện

Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh, được công nhận ngày 08/01/2008, cơ sở có vốn đầu tư 1

tỉ đồng, kinh doanh trên các mặt hàng thủy sản sấy khô. Về cơ sở vật chất của doanh

nghiệp phục vụ cho sản xuất có 02 máy sấy khô, 3 thùng trữ lạnh, 01 máy lau tôm,

02 máy bơm nước, 01 máy đèn, 03 nhà kho, 02 sân phơi. Doanh nghiệp có diện tích nhà kho khoảng 250 m2 được xây cất bằng bê tông cốt thép, về lực lượng lao động

có hơn 10 lao động. Năm 2008 tổng sản phẩm đạt 150 tấn, doanh thu chung 1,2 tỉ

đồng, chi phí 1,15 tỉ đồng, lợi nhuận 50 triệu đồng. Năm 2010 tổng sản phẩm đạt

250 tấn, doanh thu 1,5 tỉ đồng, lợi nhuận 100 triệu đồng, thu hút 17 lao động.

- Doanh nghiệp tư nhân Sáu Hùng có trụ sở chính đặt tại ấp Định An, xã

Đông Hải, huyện Duyên Hải, được công nhận năm 2008, doanh nghiệp có vốn đầu

tư 1 tỉ đồng, kinh doanh trên các mặt hàng thủy sản sấy khô. Về cơ sở vật chất của

doanh nghiệp phục vụ cho sản xuất có 02 máy sấy khô, 2.000 m sân phơi. Doanh nghiệp có diện tích nhà kho khoảng 2.000 m2 được xây cất bằng bê tông cốt thép, về

84

lực lượng lao động có hơn 60 lao động. Năm 2008 tổng sản phẩm đạt 400 tấn, doanh

thu chung 3,5 tỉ đồng, chi phí 3,3 tỉ đồng, lợi nhuận 200 triệu đồng. Năm 2010 tổng

sản phẩm đạt 700 tấn, doanh thu 4,7 tỉ đồng, lợi nhuận 500 triệu đồng, thu hút 90 lao

động.

- Cơ sở Liễu Thăng có trụ sở chính đặt tại ấp Động Cao, xã Đông Hải, huyện

Duyên Hải, được công nhận năm 2008, cơ sở có vốn đầu tư 1,2 tỉ đồng, kinh doanh

trên các mặt hàng thủy sản sấy khô. Về cơ sở vật chất của doanh nghiệp phục vụ cho

sản xuất có 02 máy bơm nước, 01 máy đèn, 02 nhà kho, 02 sân phơi. Cơ sở có diện tích nhà kho khoảng 1.960 m2 được xây cất bằng bê tông cốt thép, về lực lượng lao

động có hơn 40 lao động. Năm 2008 tổng sản phẩm đạt 500 tấn, doanh thu chung 4

tỉ đồng, chi phí 3,9 tỉ đồng, lợi nhuận 100 triệu đồng. Năm 2010 tổng sản phẩm đạt

700 tấn, doanh thu 4,6 tỉ đồng, lợi nhuận 300 triệu đồng, thu hút 70 lao động.

- Cơ sở Chín Giòn có trụ sở chính đặt tại ấp Động Cao, xã Đông Hải, huyện

Duyên Hải, được công nhận năm 2008, cơ sở có vốn đầu tư 500 triệu đồng, kinh

doanh trên các mặt hàng thủy sản sấy khô. Về cơ sở vật chất của doanh nghiệp phục

vụ cho sản xuất có 02 máy bơm nước, 02 nhà kho, 01 sân phơi. Cơ sở có diện tích nhà kho khoảng 600 m2 được xây cất bằng tre lá, về lực lượng lao động có hơn 07

lao động. Năm 2008 tổng sản phẩm đạt 100 tấn, doanh thu chung 800 triệu đồng, chi

phí 750 triệu đồng, lợi nhuận 50 triệu đồng. Năm 2010 tổng sản phẩm đạt 150 tấn,

doanh thu 950 tỉ đồng, lợi nhuận 100 triệu đồng, thu hút 10 lao động.

Vấn đề xử lí và bảo vệ môi trường của làng nghề: Hầu hết kho chứa hàng và

sân phơi người sản xuất đã tận dụng nhà ở, sân nhà nên tình trạng ô nhiễm môi

trường đã ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và sinh hoạt của nhân dân. Thiếu hệ

thống thoát nước, đường giao thông hẹp thấp gây ô nhiễm nghiêm trọng vào mùa

mưa do nước từ phân cá ruốc phơi chảy lan dễ gây ra dịch bệnh cho cộng đồng. Tình

trạng trên kéo dài nhiều năm qua chưa có giải pháp khắc phục có hiệu quả.

2.3.1.6. Làng nghề trồng hoa kiểng ấp Vĩnh Yên (xã Long Đức, Thành phố

Trà Vinh):

85

Xã Long Đức là một xã nông nghiệp của Thành phố Trà Vinh, phía Bắc giáp

sông Cổ Chiên, phía Nam giáp phường 1, phường 7 và xã Nguyệt Hóa – huyện Châu

Thành, phía Đông giáp xã Hòa Minh, Hòa Thuận – huyện Châu Thành và phường 4,

Thành phố Trà Vinh, phía Tây giáp xã Đại Phước – huyện Càng Long. Có diện tích

tự nhiên 3.895,8 ha, được chia thành 12 ấp, toàn xã có 4.545 hộ với 17.050 nhân

khẩu. Cơ cấu kinh tế của xã bao gồm nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp, dịch vụ, thương mại. Riêng diện tích nông nghiệp có 2.070,07 ha chiếm

53,13 % tổng diện tích toàn xã. Trong đó, đất trồng cây hàng năm là 903,44 ha chủ

yếu là trồng lúa, đất trồng cây lâu năm và đất vườn tạp 1.141,14 ha, đất trồng hoa

màu và hoa kiểng 132 ha.

Ấp Vĩnh Yên có 405 hộ thì đã có 148 hộ tham gia sản xuất hoa kiểng chiếm

36,5 % số hộ trong toàn ấp. Đồng thời, có vị trí thuận lợi cả đường bộ lẫn đường

sông là một trong những đầu mối giao lưu của Thành phố Trà Vinh với các tỉnh

trong khu vực, thuận lợi trong tiếp cận thị trường, trao đổi hàng hóa có điều kiện học

hỏi trao đổi kinh nghiệm, tiếp cận và áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Nhân

dân có truyền thống lâu đời với nghề trồng hoa kiểng với nhiều chủng loại phong

phú và đa dạng như: các loại vạn thọ, các loại cúc, thược dược, hoa hồng, ớt kiểng,

sống đời… Với gần 50 năm hình thành và phát triển, đặc biệt từ năm 1975 trở lại

đây nghề trồng hoa kiểng ấp Vĩnh Yên, xã Long Đức phát triển mạnh và đã trở

thành một làng nghề được nhiều khách hàng trong tỉnh và các tỉnh thành trong khu

vực biết đến. Đây là điều kiện thuận lợi để nghề trồng hoa kiểng ở ấp Vĩnh Yên, xã

Long Đức duy trì và phát triển bền vững. Hàng năm làng nghề sản xuất từ 272.000 –

310.0000 chậu cho khách hàng từ TPHCM, Bình Dương, các tỉnh trong khu vực

ĐBSCL và nhân dân trong tỉnh. Doanh thu đạt 3,86 – 4,65 tỉ đồng/năm, giải quyết

việc làm thường xuyên cho 195 lao động, năm 2011 thu nhập bình quân 1.200.000 –

1.550.000 đồng.

Vào những năm 60 của thế kỉ XX nghề trồng hoa kiểng bắt đầu phát triển một

số lão nông khởi xướng phát triển cụ thể như: Ông Nguyễn Khắc Minh, ông Ba

Phát, ông Ba Vân, bà Ba Khéo, ông Tư Phụ, ông Ba Lương, ông Mười Hựu, bà Tư

86

Ngân, ông Năm Dễ, ông Tư Đóng, ông Hai Sết, … Đến thập niên 80 hoa kiểng đã

được nhiều khách hàng ưa chuộng từ đó đã thu hút thêm nhiều gia đình nông dân

tham gia phát triển nhân rộng mô hình như: ông Hai Thủy, ông Ba Trình, ông Mười

Đấu, ông Tư Bé, bà Tám Sa, ông Bảy Hào, … và từ sau ngày miền Nam hoàn toàn

giải phóng thống nhất đất nước, người dân Vĩnh Yên vẫn tiếp tục duy trì phát triển

nghề trồng hoa kiểng của địa phương cho đến ngày nay. Đặc biệt, từ năm 2008 đã

thành lập tổ trồng hoa kiểng của ấp, gồm 11 tổ viên, đến nay đã tăng lên được 25 tổ

viên.

Quá trình phát triển theo hướng đô thị hóa của Thành phố Trà Vinh nói chung

và xã Long Đức nói riêng. Hiện nay, diện tích nông nghiệp của ấp Vĩnh Yên chỉ còn

khoảng 25 ha, chủ yếu là trồng hoa màu và hoa kiểng đã được người dân đẩy mạnh

phát triển sản xuất hoa kiểng quyết tâm giữ vững nghề trồng hoa kiểng vì nó đã tạo

thêm được việc làm nâng cao thu nhập ổn định cuộc sống cho người dân.

Hiệu quả kinh tế của làng nghề đạt được kết quả như sau: Năm 2008 có 143

hộ, 170 lao động tham gia sản xuất 272.000 chậu hoa kiểng các loại, doanh thu

3.808.000.000 đồng, lợi nhuận 2.448.000.000 đồng, thu nhập bình quân 1.200.000

đồng/lao động/tháng. Năm 2009 có 148 hộ, 195 lao động tham gia sản xuất 310.000

chậu hoa kiểng các loại, doanh thu 4.650.000.000 đồng, lợi nhuận 3.100.000.000

đồng, thu nhập bình quân 1.324.000 đồng/lao động/tháng. Năm 2010 với tổng sản

phẩm đạt 360 ngàn chậu hoa kiểng các loại, doanh thu đạt 5,6 tỉ đồng, lợi nhuận

3,675 tỉ đồng, thu hút 565 lao động.

Về tình hình sản xuất của Tổ hoa kiểng ấp Vĩnh Yên: Năm 2008 – 2009 tổ có

36 hộ với 61 lao động, sản xuất được 122.000 chậu hoa kiểng với tổng doanh thu

1.788.000.000 đồng, tổng lợi nhuận 1.178.000.000 đồng, thu nhập bình quân

1.600.000 đồng/người/tháng. Năm 2010 tổng sản phẩm đạt 110.000 chậu hoa kiểng

các loại, doanh thu đạt 1,76 tỉ đồng, thu hút thêm 14 lao động.

Nghề trồng hoa kiểng ở ấp Vĩnh Yên, xã Long Đức đã tạo nên việc làm ổn

định cho 148 hộ trồng hoa kiểng nâng cao thu nhập ổn định được cuộc sống, tạo

điều kiện cho nông dân vươn lên. Bên cạnh đó còn thể hiện được tình đoàn kết gắn

87

bó hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và ổn định đời sống, tình hình an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội được kéo giảm đến mức thấp nhất góp phần thực hiện

thắng lợi phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”.

Không những giúp cho những hộ trồng hoa kiểng ổn định và phát triển kinh tế mà

còn giải quyết việc làm cho nhiều lao động kể cả lao động thời vụ qua các khâu công

việc phục vụ sản xuất như: đan bội, cung cấp phân chuồng, vận chuyển, uốn sửa hoa

kiểng tại địa phương…

Về vấn đề xử lí và bảo vệ môi trường của làng nghề: Đây là làng nghề đem

lại nhiều lợi ích thiết thực cho môi trường, như tạo được cảnh quan đẹp, với bầu

không khí trong lành. Chính vì vậy, làng nghề được địa phương khuyến khích mở

rộng.

2.3.1.7. Làng nghề trồng hoa kiểng ấp Long Bình (phường 4, Thành phố

Trà Vinh):

Phường 4 là một trong những phường thuộc trung tâm tỉnh lị Trà Vinh và một

phần là vùng ven được trải dài theo sông Long Bình. Phía Đông giáp sông Long

Bình, phía Tây giáp phường 1 và xã Long Đức, phía Bắc giáp xã Long Đức, phía Nam giáp phường 3. Diện tích tự nhiên 1,56 km2 được chia thành 6 khóm và 1 ấp,

toàn phường có 1.938 hộ, 8.605 nhân khẩu. Cơ cấu kinh tế của phường bao gồm

thương mại, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp. Riêng diện tích nông

nghiệp có 35,86 ha chiếm 22,99 % trong tổng diện tích toàn phường được tập trung

tại ấp Long Bình với 429 hộ có 136 hộ tham gia sản xuất hoa kiểng (trong đó có 136

hộ trực tiếp tham gia sản xuất hoa kiểng chiếm 31,7 % dân số trong toàn ấp.

Ấp Long Bình có vị trí thuận lợi cả đường bộ lẫn đường sông là một trong

những đầu mối giao lưu của Thành phố Trà Vinh với các tỉnh trong khu vực, tạo

điều kiện trao đổi, học hỏi kinh nghiệm sản xuất và kinh doanh. Nhân dân có truyền

thống lâu đời với nghề trồng hoa kiểng với nhiều chủng loại phong phú và đa dạng

như: hoa giấy, hoa cúc, vạn thọ… thời vụ trồng quanh năm. Với gần 60 năm hình

thành và phát triển nghề trồng hoa kiểng ở ấp Long Bình đã trở thành một làng nghề

được nhiều khách hàng trong tỉnh và các tỉnh thành trong khu vực biết đến. Đây là

88

điều kiện thuận lợi để làng nghề trồng hoa kiểng ở Long Bình, phường 4 duy trì và

phát triển.

Vào thập niên 50 của thế kỉ XX, nghề trồng hoa kiểng bắt đầu phát triển do

một số lão nông khởi xướng phát triển cụ thể như: Ông Tư Ngà, ông Mười Lẹo, ông

Biện Chính, ông Chín Cường, ông Tám Giỏ Trắng … Đến thập niên 60 hoa kiểng đã

được nhiều khách hàng ưa chuộng từ đó đã thu hút thêm nhiều gia đình nông dân

tham gia phát triển nhân rộng mô hình như: ông Tám Phó, ông Tư Thao, ông Năm

Nghi, ông Tư Kĩnh, ông Ba Sung… Không dừng lại ở đó vào đầu thập niên 70 đến

sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng thống nhất đất nước người dân Long Bình

vẫn tiếp tục duy trì phát triển làng nghề của địa phương cho đến ngày nay.

Đặc biệt từ năm 1995 đến nay, nghề trồng hoa kiểng ở Long Bình phát triển

mạnh đã mở rộng được thị trường tiêu thụ, hàng năm cung cấp 70 – 80 ngàn chậu

hoa giấy cung cấp cho khách hàng từ Bà Rịa Vũng Tàu, TPHCM, Bình Dương,

Đồng Nai đến các tỉnh trong khu vực ĐBSCL và nhân dân trong tỉnh. Mặc dù hiện

nay do quá trình đô thị hóa nên diện tích nông nghiệp của ấp Long Bình chỉ còn

35,86 ha, trong đó diện tích trồng màu và hoa kiểng 8,9 ha nhưng đã được người dân

tận dụng tối đa để đẩy mạnh phát triển sản xuất hoa kiểng, quyết tâm giữ vững làng

nghề, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống cho người dân.

Những năm gần đây, thương hiệu hoa kiểng của các nghệ nhân tại Thành phố

Trà Vinh ảnh hưởng lớn đến thị trường trong khu vực, các tỉnh, thành phía Nam, tạo

điều kiện phát triển ổn định làng nghề trồng hoa.

Hiệu quả kinh tế của làng nghề đạt được kết quả như sau: Năm 2008 có 91

lao động tham gia sản xuất 75.000 chậu hoa giấy, 1.000 chậu hoa kiểng khác, doanh

thu 1.875.000.000 đồng, lợi nhuận 1.557.000.000 đồng, thu nhập bình quân

1.425.000 đồng/lao động/tháng. Năm 2009 có 136 lao động tham gia sản xuất

95.000 chậu hoa kiểng các loại (hoa giấy 80.000 chậu, hoa kiểng các loại 15.000

chậu), doanh thu 2.448.000.000 đồng, lợi nhuận 2.068.000.000 đồng, thu nhập bình

quân 1.267.000 đồng/lao động/tháng. Năm 2010 có 110.000 chậu hoa kiểng các loại,

89

doanh thu 2,42 tỉ đồng, thu nhập bình quân 1.550.000 đồng, nâng tổng số lao động

lên 388 lao động.

Ngoài ra, làng nghề còn có 02 tổ sản xuất hoa kiểng:

- Tổ sản xuất hoa kiểng số 01 hoạt động sản xuất hoa kiểng tại ấp Long Bình,

phường 4, Thành phố Trà Vinh, tổ có 20 thành viên chuyên sản xuất hoa kiểng các

loại, diện tích sản xuất hoa kiểng của tổ 2,49 ha với 20 lao động chính thức và trên

37 lao động thời vụ. Năm 2009, với tổng sản phẩm 31.500 chậu hoa, doanh thu

535.500.000 đồng, lợi nhuận 346.500.000 đồng, thu nhập bình quân 1.443.750

đồng/người/tháng. Năm 2010, với tổng sản phẩm 36.000 chậu hoa, doanh thu

702.000.000 đồng, lợi nhuận 396.000.000 đồng, giải quyết việc làm cho thêm 10 lao

động.

- Tổ sản xuất hoa kiểng số 02 hoạt động sản xuất hoa kiểng tại ấp Long Bình,

phường 4, Thành phố Trà Vinh, tổ có 27 thành viên chuyên sản xuất hoa kiểng các

loại, diện tích sản xuất hoa kiểng của tổ 1,82 ha với 27 lao động chính thức và trên

28 lao động thời vụ. Năm 2009, với tổng sản phẩm 31.000 chậu hoa, doanh thu

527.000.000 đồng, lợi nhuận 341.000.000 đồng, thu nhập bình quân 1.052.496

đồng/người/tháng. Năm 2010, với tổng sản phẩm 35.000 chậu hoa, doanh thu

682.000.000 đồng, lợi nhuận 385.000.000 đồng, giải quyết việc làm cho thêm 10 lao

động.

Tuy nhiên, làng nghề chưa có điều kiện cập nhật thông tin kịp thời về nhu cầu

xã hội, giá cả thị trường, khoa học kĩ thuật, giống mới có hiệu quả cao, chưa được

các ngành chuyên môn và những nghệ nhân có tay nghề cao chuyển giao khoa học

kĩ thuật và hướng dẫn trao đổi kinh nghiệm về sản xuất hoa kiểng. Mặc dù vậy, làng

nghề rất chú trọng việc xử lí và bảo vệ môi trường, tạo cảnh quan đẹp với bầu không

khí trong lành.

Làng nghề trồng hoa kiểng ấp Long Bình và ấp Vĩnh Yên cũng đã thu hút

được khá nhiều du khách đến tham quan làng nghề, do nằm ở Thành phố Trà Vinh

nơi tập trung nhiều điểm tham quan du lịch nên du khách dễ dàng biết đến thương

hiệu hoa kiểng của các nghệ nhân Thành phố Trà Vinh.

90

Bảng 2.5. Tình hình sản xuất kinh doanh LNTT ở Trà Vinh năm 2010

STT Làng nghề Số hộ (hộ) Lao động (lao động) Doanh thu (triệu đồng)

Lương Hòa

2.513 2.600 1.720 850 1.000 388 565 649 863 587 697 349 136 148 16.000 8.000 21.500 2.000 42.000 2.420 5.600

1 Đại An 2 Hưng Mỹ 3 Đức Mỹ 4 5 Xóm Đáy Phường 4 6 7 Long Đức (Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Trà Vinh)

2.3.2. Số lượng khách:

2.3.2.1. Tổng số khách đến các làng nghề:

Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Trà Vinh thống kê hoạt động du

lịch của tỉnh năm 2010 như sau: Tổng lượng khách phục vụ là 230.000 lượt; khách

lưu trú 121.051 lượt (trong đó khách quốc tế 3.767 lượt, khách nội địa 117.284

lượt). Nhưng khách du lịch đến với các làng nghề của tỉnh không đáng kể chỉ có

1.200 lượt, trong đó khách quốc tế 282 lượt, khách nội địa 918 lượt.

2.3.2.2. Sản phẩm làng nghề khách tiêu thụ chủ yếu:

Những sản phẩm của làng nghề tỉnh Trà Vinh mang đậm bản sắc văn hóa các

dân tộc ĐBSCL nói chung và Trà Vinh nói riêng. Chính vì vậy rất hấp dẫn du khách

trong và ngoài tỉnh. Tuy nhiên, phần lớn khách du lịch biết đến sản phẩm của làng

nghề gián tiếp thông qua du lịch tại một địa điểm khác, ít trực tiếp đến với các làng

nghề. Ví dụ: Khách đến tham quan biển Ba Động – huyện Duyên Hải sẽ có thể mua

về những sản phẩm từ các làng nghề của tỉnh tại các quầy hàng buôn bán đồ lưu

niệm như: tranh ghép gỗ, giỏ, chậu hoa lục bình, các nhạc cụ dân tộc…

Sản phẩm khách tiêu thụ chủ yếu là: chiếu, thảm, những mặt hàng tiểu thủ

công nghiệp được làm bằng tre, trúc, dừa, lục bình như: giỏ xách bằng tre, dừa, lục

bình, chậu hoa lục bình, giấy dán yếm dừa…Bên cạnh đó các nhạc cụ dân tộc điển

hình là mặt nạ của dân tộc Khmer, tranh ghép gỗ, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ

được chạm khắc từ những gốc cây cổ thụ rất tinh xảo. Ngoài ra khách cũng rất thích

mặt hàng tôm, cá khô của làng nghề Xóm Đáy, những loại hoa, cây kiểng của 2 làng

91

nghề ở Thành phố Trà Vinh. Năm 2010, tổng sản phẩm làng nghề khách tiêu thụ đạt

552.752 sản phẩm, 200 tấn tôm, cá khô. Đối tượng tiêu thụ không chỉ là khách hàng

trong tỉnh mà còn có khách du lịch trong nước và quốc tế.

2.4. DOANH THU TỪ CÁC LÀNG NGHỀ:

Năm 2010, tổng giá trị thu nhập từ các LNTT của tỉnh Trà Vinh là

97.520.000.000 đồng, chiếm 1,18 % tổng sản phẩm quốc dân của tỉnh theo giá so

sánh và chiếm 0,7 % tổng sản phẩm quốc dân của tỉnh theo giá thực tế.

Tuy thu nhập từ các làng nghề so với tổng thu nhập kinh tế quốc dân của tỉnh

không cao nhưng doanh thu từ các LNTT của tỉnh Trà Vinh tăng liên tục qua các

năm, từ năm 2007 – 2010 tăng 13.242 tỉ đồng (tăng 1,16 lần), cụ thể năm 2007 –

2008 tăng 6.660 tỉ đồng, năm 2008 – 2009 tăng 3.312 tỉ đồng, năm 2009 – 2010 tăng

3.270 tỉ đồng thể hiện qua bảng số liệu sau:

Bảng 2.6. Doanh thu các LNTT tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2007 – 2010

Năm 2007 2008 2009 2010

Doanh thu (triệu đồng) 84.278 90.938 94.250 97.520

(Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Trà Vinh)

Biểu đồ 2.4. Doanh thu các LNTT tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2007 – 2010

92

2.5. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ CỦA

TỈNH PHỤC VỤ DU LỊCH:

2.5.1. Những thành tựu đạt được:

Phát triển kinh tế làng nghề đã thu hút và góp phần giải quyết việc làm, tăng

thu nhập, ổn định đời sống cho một lực lượng lao động khá đông ở vùng nông thôn

(giải quyết việc làm cho 9636 lao động), đồng thời tạo sự ổn định, an ninh cho tỉnh

nhà.

Các LNTT phát triển vừa nâng cao đời sống cho cư dân nông thôn, vừa đóng

góp một phần ngân sách cho địa phương đồng thời tích cực thúc đẩy quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn theo hướng CNH – HĐH.

Sự phát triển các LNTT đã góp phần đáp ứng thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng

một số sản phẩm thiết yếu của xã hội, đồng thời từng bước đa dạng hóa sản phẩm

phục vụ du lịch trên địa bàn.

Thông qua nguồn vốn ngân sách, vốn ưu đãi giải quyết việc làm, các làng

nghề trong tỉnh Trà Vinh được hỗ trợ hơn 35 tỉ đồng xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà

xưởng, thu mua nguyên liệu… mở rộng thị trường xuất khẩu. Năm 2010, các LNTT

của tỉnh Trà Vinh sản xuất hàng triệu sản phẩm truyền thống cung cấp cho thị

trường trong nước và xuất khẩu, tổng giá trị sản xuất hơn 80 tỉ đồng. Các sản phẩm

của làng nghề trong những năm qua phát triển khá ổn định, với những sản phẩm đặc

thù và mang nét văn hóa của tỉnh như: các vật dụng được đan đát từ tre, trúc, các sản

phẩm điêu khắc, các nhạc cụ dân tộc, các loại cây cảnh… và một số thực phẩm đặc

trưng của vùng như tôm cá khô, nước mắm rươi… góp phần đa dạng hóa sản phẩm

du lịch, thu hút và giữ chân khách du lịch, hỗ trợ phát triển dịch vụ du lịch, là cơ hội

lớn để quảng bá cho ngành du lịch Trà Vinh. Đối với tỉnh, hiện nay du lịch còn kém

phát triển nhưng trong tương lai không xa ngành này sẽ có bước phát triển đáng kể.

Sử dụng hợp lí và nâng cao giá trị sử dụng các nguồn tài nguyên. Cụ thể là

các làng nghề đan đát, se sợi tơ dừa, than tổ ong, than gáo dừa… đã sử dụng các

nguyên liệu gần như phụ phẩm từ lục bình, cói, lát, tre nứa, dừa… để tạo ra các sản

93

phẩm có ích cho xã hội; làng nghề chế biến thủy hải sản góp phần tiêu thụ lượng

thủy hải sản và làm đa dạng hóa sản phẩm.

Trong quá trình phát triển làng nghề đã xuất hiện các chủ hộ, cơ sở sản xuất,

HTX… sản xuất kinh doanh liên tục phát triển và là đầu mối để truyền nghề cho các

hộ nông dân trong vùng, giải quyết tốt các mục tiêu về giải quyết việc làm, tăng thu

nhập cho nông hộ… Đây là các điển hình, tạo nòng cốt cho việc tiếp tục mở rộng và

phát triển làng nghề trên địa bàn tỉnh trong những năm tới.

2.5.2. Những hạn chế cần khắc phục:

Giá thành sản xuất còn cao so với cùng nhóm sản phẩm ở địa phương khác,

do chưa biết cách tổ chức sản xuất hiệu quả và quan niệm làm giá, khi gặp đối tác

thường chào giá cao, dự phòng bị trả giá.

Mẫu mã sản phẩm còn đơn điệu, chưa độc đáo, thiếu dấu ấn đặc trưng, chưa

khai thác giá trị lịch sử, văn hóa để hình thành những câu chuyện tạo dấu ấn sản

phẩm cho khách hàng khi sử dụng sản phẩm. Phần lớn các sản phẩm chủ yếu phục

vụ cho nhu cầu tại chỗ của dân cư địa phương và các địa bàn lân cận, những sản

phẩm phục vụ cho du lịch chiếm số lượng ít và giá trị kinh tế không cao, có những

sản phẩm trùng lặp về hình thức, mẫu mã với các sản phẩm ở địa phương khác.

Đa số các cơ sở, các doanh nghiệp sản xuất của làng nghề ở tỉnh Trà Vinh có

qui mô nhỏ, chủ yếu là kinh tế hộ, phân theo hộ gia đình, thiết bị công nghệ sản xuất

lạc hậu, lại chậm đổi mới, năng lực trình độ tổ chức quản lí các cơ sở sản xuất kinh

doanh còn bất cập, nhỏ về vốn, yếu về quan hệ, tính liên kết, hợp tác trong sản xuất

và tiêu thụ kém. Hơn nữa, do phần lớn cơ sở là kinh tế hộ nên mức độ cơ giới hóa

trong sản xuất còn chậm làm ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sản phẩm trên

thị trường. Khả năng kết hợp giữa nguyên liệu truyền thống tại chỗ và nguyên liệu

hiện đại để tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao còn yếu; nguồn nguyên liệu tại

chỗ dồi dào nhưng nếu không tổ chức sản xuất và khai thác một cách hợp lí thì sẽ

cạn kiệt. Các hộ sản xuất phát triển mang tính tự phát, chưa có qui hoạch đầu tư phát

triển làng nghề cụ thể cho phù hợp. Nhiều hộ sản xuất còn thiếu thông tin, kiến thức

94

để hành động thích ứng với những biến đổi của thị trường, làng nghề sản xuất thực

phẩm ít cập nhật những thông tin nên thiếu quan tâm đến những qui định về an toàn

vệ sinh thực phẩm. Hiện tại, làng nghề hoạt động chủ yếu là loại hình tổ hợp tác,

loại hình này cũng khá mới mẻ nên hoạt động còn lúng túng dẫn đến kết quả đạt

được còn hạn chế. Lực lượng lao động chủ yếu phát triển theo hình thức cha truyền

con nối, chưa được đào tạo các lớp tập huấn nên sản phẩm làm ra còn hạn chế về

mẫu mã.

Năng lực cung cấp giới hạn, nhưng thiếu tính liên kết, không cùng đối tác xây

dựng kênh tiêu thụ cơ bản, lâu dài. Chính sách tín dụng cho các cơ sở sản xuất còn

nhiều bất cập. Mặt khác, phần đông những hộ sản xuất hay cơ sở, doanh nghiệp ở

các làng nghề có qui mô nhỏ nên khó tiếp cận với tổ chức tín dụng hay khó tìm được

các khoản tín dụng thỏa mãn nhu cầu phát triển, vì thực tế sản xuất, tiêu thụ chưa

thuyết phục được ngân hàng.

Hạn chế về điều kiện vốn đã khiến cho các LNTT không có điều kiện đổi mới

kĩ thuật, ứng dụng công nghệ vào sản xuất; công tác đào tạo tay nghề cho người lao

động chưa được thực hiện theo yêu cầu thực tiễn đặt ra.

Thiếu tính nhạy bén, thường bỏ lỡ những cơ hội tổ chức sự kiện để quảng bá

hình ảnh, bán hàng, các chương trình xúc tiến thương mại do tỉnh hoặc các ban

ngành tổ chức. Nói theo cách khác, do hạn chế về năng lực tài chính nên phần nhiều

những hộ, cơ sở sản xuất còn trông chờ vào các nguồn hỗ trợ hoặc chấp nhận kinh

doanh với qui mô vừa phải, không mở rộng sản xuất.

Có những làng nghề còn chưa tạo ra được sản phẩm đặc trưng cho làng.

Những hộ sản xuất phần đông chưa quan tâm nhiều đến việc xây dựng thương hiệu,

nhãn hiệu, hoặc cách thức kinh doanh để bảo vệ thương hiệu, nhãn hiệu mà mình

đang sử dụng. Từ đó, chưa khai thác tốt giá trị của những thương hiệu, nhãn hiệu

này. Chất lượng sản phẩm chưa thật cao, nhất là các sản phẩm hàng hóa là lương

thực – thực phẩm chưa hoặc khó đáp ứng yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm. Một số

ít sản phẩm đã có thương hiệu, chất lượng tốt, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm

95

như tôm khô, cá khô nhưng với sản lượng không nhiều và không ổn định nên không

đáp ứng được yêu cầu của các siêu thị.

Hiện nay, do nằm lệch so với tuyến quốc lộ huyết mạch của ĐBSCL, nên

trong điều kiện mạng lưới đường bộ nội tỉnh và cảng biển chưa phát triển thì mức độ

giao lưu với bên ngoài hiện còn nhiều hạn chế.

Công tác tìm kiếm thị trường gặp nhiều khó khăn. Tỉnh chưa có doanh nghiệp

nào đủ khả năng đứng ra làm đầu mối tìm kiếm thị trường và thu mua các sản phẩm

làng nghề. Đa phần các sản phẩm (trong lĩnh vực đan đát, se sợi tơ dừa…) hiện tại

được thực hiện theo đơn đặt hàng từ các công ty ở Vĩnh Long, Bình Dương và

TPHCM nên lượng hàng không ổn định. Sản phẩm chưa được bên ngoài biết đến

nhiều hoặc phải bán sang các doanh nghiệp trung gian ở Vĩnh Long, TPHCM, Bình

Dương sau đó mới xuất khẩu sang các thị trường bên ngoài. Hiện nay, trong thời kì

khủng hoảng kinh tế thế giới, người tiêu dùng sẽ thắt chặt chi tiêu, những sản phẩm

không thiết yếu với cuộc sống sẽ bị cắt giảm, chi phí cho du lịch cũng sẽ giảm, điều

đó sẽ tác động tiêu cực đến các sản phẩm làng nghề.

Cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng cho nhu cầu phát triển làng nghề, đa số các tuyến

đường giao thông nông thôn chưa được nâng cấp nên rất khó khăn trong việc vận

chuyển hàng hóa.

Khả năng cạnh tranh của sản phẩm làng nghề với sản phẩm công nghiệp cùng

loại kém hơn nhiều nên nhiều làng nghề sẽ bị cạnh tranh gay gắt bởi sản phẩm cùng

loại được sản xuất bằng dây chuyền thiết bị công nghiệp tiên tiến dẫn tới có khả

năng suy giảm hoặc bị mai một. Vì vậy, cần cân nhắc triển vọng của từng làng nghề

để có lộ trình phát triển phù hợp, làng nghề nào có thể phát triển bằng công nghiệp

thì tạo điều kiện cho công nghiệp sản xuất, những làng nghề nào có triển vọng lâu

dài thì cần có chính sách hỗ trợ đặc biệt.

Bên cạnh các làng nghề có nguồn nguyên liệu tại chỗ dồi dào, một số ngành

nghề phải thu mua nguyên liệu từ nơi khác. Một số làng nghề sản xuất gây ô nhiễm

môi trường, tuy nhiên có thể khắc phục được.

96

Hiện tại, các chính sách hỗ trợ cho làng nghề đã được ban hành nhưng do

thông tin tuyên truyền, cán bộ cơ sở, sự phối hợp giữa các ban ngành đoàn thể để

thúc đẩy phát triển còn nhiều hạn chế nên chưa đến được với người làm nghề.

Cán bộ quản lí có liên quan đến phát triển làng nghề còn thiếu kinh nghiệm

nên lúng túng trong chỉ đạo phát triển. Chưa có sự hợp lực cần thiết của các cơ quan

Nhà nước trong khuyến khích phát triển làng nghề. Công nghiệp còn chậm phát triển

nên chưa xuất hiện nhu cầu gia công cho công nghiệp như ở các tỉnh thuộc vùng

kinh tế trọng điểm phía Nam. Quan hệ giữa phát triển công nghiệp với tiểu thủ công

nghiệp và làng nghề chưa tốt nên chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp giữa các

ngành và các tổ chức kinh tế.

Đào tạo nghề còn mang tính tự phát chưa được dựa trên chiến lược phát triển

lâu dài.

Các LNTT của tỉnh chưa có làng nghề nào phát triển thành du lịch làng nghề,

phần lớn khách đến đây tham quan chủ yếu là theo hình thức tự phát hoặc gián tiếp

biết đến làng nghề đó thông qua các sản phẩm của làng nghề được trưng bày và bán

cho khách tại các địa điểm du lịch khác.

Bên cạnh những hạn chế chung, mỗi làng nghề có những hạn chế nhất định

khác như:

- Đối với làng nghề sơ chế biến thủy sản Xóm Đáy có hạn chế như: Ngư dân

tham gia khai thác biển và chủ sở hữu thu mua sơ chế biến thủy sản đều cần vốn

nhưng lại thiếu tài sản để thế chấp vay vốn ngân hàng. Nguồn vốn sử dụng không ổn

định chỉ tập trung cao vào mùa vụ đánh bắt (khoảng 6 tháng/năm) nên khó đầu tư

đúng theo nhu cầu sản xuất. Chính vì thế đã tạo điều kiện cho việc “vay nặng lãi” ở

thời điểm tập trung vốn cho mùa vụ trong nội bộ nhân dân đã ảnh hưởng trực tiếp

đến giá thành sản phẩm (giá thành cao lợi nhuận thấp). Cơ sở hạ tầng khu vực làng

nghề còn yếu kém chưa được nâng cấp, mặt lộ hẹp, tải trọng thấp gây khó khăn cho

vận chuyển hàng hóa, chợ cũ quá tải dời về chợ mới thì chưa được do thiếu vốn làm

tiếp sân chợ, đường và hệ thống thoát nước nên thiếu chợ đầu mối để tiêu thụ hàng

hóa. Chưa có nơi tập trung để tàu thuyền neo đậu chuyển sản phẩm đánh bắt về,

97

nhận cung cấp hậu cần nghề cá. Đây cũng là nơi cho tàu thuyền trong và ngoài tỉnh

vào đây để neo đậu tránh bão. Tuyến giao thông từ trung tâm huyện đến xã Đông

Hải đã tráng nhựa nhưng cầu kênh 2 tải trọng nhỏ nên hàng hóa chuyển đi tiêu thụ

phải trung chuyển gây tốn kém.

- Đối với làng nghề trồng hoa kiểng ấp Long Bình, phường 4 và làng nghề

trồng hoa kiểng ấp Vĩnh Yên, xã Long Đức, Thành phố Trà Vinh gặp khó khăn là:

chưa có lớp đào tạo chuyên môn về kĩ thuật trồng hoa kiểng nên trình độ hiểu biết

của người dân còn hạn chế trong việc áp dụng khoa học kĩ thuật. Hệ thống thoát

nước hiện nay còn bị ngập úng vào mùa mưa ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và

thu nhập của người dân. Chưa đa dạng được chủng loại cây, con giống đáp ứng theo

nhu cầu của thị trường hiện nay.

98

Bản đồ 2.3. Định hướng các điểm du lịch làng nghề tương lai ở

tỉnh Trà Vinh

99

CHƯƠNG 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở TỈNH TRÀ VINH

PHỤC VỤ DU LỊCH THỜI KỲ HỘI NHẬP.

3.1. NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ ĐƯA RA ĐỊNH HƯỚNG:

Theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2020 là tiếp tục

đổi mới và tạo bước đột phá để phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội của tỉnh

trên cơ sở phát huy nội lực gắn với tranh thủ tối đa ngoại lực trong thế chủ động hội

nhập và cạnh tranh quốc tế; hợp tác chặt chẽ với các địa phương trong cả nước, đặc

biệt là các địa phương trong vùng ĐBSCL. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế

theo hướng giảm nhanh tỉ trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ cả

trong GDP và cơ cấu lao động, góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước

và xuất khẩu. Phấn đấu đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội sau:

- Về mục tiêu kinh tế: Đạt tốc độ tăng trưởng GDP thời kỳ 2011 – 2015 đạt

13 % và thời kỳ 2016 – 2020 đạt 12 %. GDP bình quân đầu người đạt 20,7 triệu

đồng (2015) và trên 38 triệu đồng (2020). Từng bước thu hẹp khoảng cách chênh

lệch giữa GDP/người giữa Trà Vinh và cả nước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo

hướng tăng tỉ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm tỉ trọng ngành nông

nghiệp. Năm 2015 tỉ trọng ngành công nghiệp – xây dựng đạt 30 %, dịch vụ 32 % và

nông – lâm – thủy sản 38 %, năm 2020 tỉ trọng tương ứng các ngành là 36 % - 34 %

- 30 %. Phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn là 400 – 450 triệu USD vào

năm 2015 và đạt khoảng 800 – 900 triệu USD vào năm 2020.

– Về mục tiêu xã hội: Phấn đấu giảm tỉ lệ tăng dân số bình quân hàng năm

thời kỳ 2011 – 2015 khoảng 1,1 % và thời kỳ 2016 – 2020 khoảng 0,9 – 0,95 %.

Đến năm 2020, dân số toàn tỉnh khoảng 1,175 triệu người. Tăng cường các hình

thức đào tạo nghề cho lao động, đến năm 2020 nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt

trên 50 % (trong đó đào tạo nghề chiếm 27 % - 30 %). Phấn đấu giảm tỉ lệ hộ nghèo

100

bằng mức bình quân của khu vực ĐBSCL. Phấn đấu chỉ tiêu phổ cập giáo dục trung

học phổ thông cho 95 % học sinh tại khu vực đô thị và 85 % cho khu vực nông thôn.

Kiên cố hóa toàn bộ trường, lớp. Đảm bảo đủ giường bệnh, nhân viên y tế, nâng cấp

các cơ sở khám chữa bệnh cho cả 3 tuyến. Đảm bảo ít nhất 95 % số hộ gia đình được

dùng mức hợp vệ sinh, 100 % số hộ sử dụng điện vào năm 2020. Tỉ lệ đô thị hóa đạt

26 % vào năm 2015 và 30 % vào năm 2020. Bảo đảm trật tự an toàn xã hội và quốc

phòng an ninh trên địa bàn.

– Về mục tiêu bảo vệ môi trường: Phấn đấu đến năm 2020 cơ bản phủ xanh

100 % diện tích đất rừng phòng hộ rất xung yếu ngoài đê biển, trồng rừng xen kẽ

trong các vùng nuôi trồng thủy sản trong vùng qui hoạch phòng hộ xung yếu theo tỉ

lệ 55 % rừng và 45 % nuôi trồng thủy sản. Đẩy mạnh trồng cây phân tán. Đảm bảo

môi trường sạch cho cả khu vực đô thị và nông thôn: 100 % cơ sở sản xuất kinh

doanh đạt tiêu chuẩn môi trường; 95 – 100 % rác thải được thu gom, xử lí vào năm

2020.

- Trong định hướng phát triển ngành du lịch có nêu ra:

+ Cần khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế về điều kiện phát triển du lịch bãi

biển, du lịch sinh thái nhà vườn và du lịch văn hóa đặc sắc hội tụ của nền văn hóa

Kinh – Khmer để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng.

+ Phát triển du lịch theo hướng đa dạng hóa, tập trung vào những sản phẩm

du lịch đặc thù của tỉnh, kết hợp du lịch nhân văn như tham quan di tích văn hóa,

lịch sử, làng nghề với du lịch sinh thái miệt vườn, nghỉ dưỡng, giải trí…

+ Từ nay đến năm 2015, thu hút đầu tư xây dựng các khu du lịch đến khu du

lịch có đủ chức năng hiện đại, có điều kiện tiếp đón khách du lịch đến tham quan,

nghỉ dưỡng, giải trí và lưu trú dài ngày. Tập trung phát triển 02 khu du lịch:

• Khu văn hóa du lịch Ao Bà Om thuộc phường 8 – Thành phố Trà Vinh, qui

mô 84 ha, gồm các hạng mục đầu tư như khu trung tâm, khu thiếu nhi, khu văn hóa

dân tộc Khmer, khu thể thao, khu khách sạn resort, khu giải trí dưới nước, khu tham

quan LNTT, khu tham quan di tích văn hóa tôn giáo, khu kĩ thuật bảo trì…

101

• Khu du lịch biển Ba Động thuộc xã Trường Long Hòa – huyện Duyên Hải,

qui mô 368,8 ha gồm các hạng mục đầu tư: Khu bảo tồn thiên nhiên sinh thái rừng

ngập mặn, khu nghỉ dưỡng, khu dịch vụ sinh hoạt biển, khu cắm trại, dã ngoại...

+ Ngoài ra, tập trung phát triển các điểm du lịch làng nghề, du lịch vườn sinh

thái ở các vùng chuyên canh cây ăn quả đặc sản như: Càng Long, Cầu Kè…

Các loại ngành nghề nông thôn gắn với phát triển du lịch như: Bánh tráng,

bánh canh, bánh tét, tôm cá khô, đan đát, thủ công mỹ nghệ, sinh vật cảnh được dự

báo sẽ phát triển nhanh cùng với sự phát triển của ngành du lịch.

- Về mục tiêu phát triển ngành nghề nông thôn:

+ Về mục tiêu chung: Tập trung phát triển ngành nghề nông thôn nhằm sử

dụng hợp lí các nguồn tài nguyên, nâng cao giá trị các nguồn nguyên liệu tại chỗ,

giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người dân nông thôn. Khôi phục và phát

triển các nghề truyền thống, xây dựng các làng nghề, đa dạng hóa sản phẩm ngành

nghề góp phần tích cực vào phát triển du lịch và quá trình phát triển kinh tế - xã hội

của tỉnh.

+ Về mục tiêu cụ thể:

• Phấn đấu đạt tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành nghề nông thôn trên địa bàn

tỉnh Trà Vinh qua các thời kì như: Giai đoạn 2011 – 2015 tăng bình quân 5,5 – 6,0

%, giai đoạn 2016 – 2020 tăng bình quân 6,0 – 6,5 %.

• Giá trị sản xuất khu vực ngành nghề nông thôn năm 2015 gấp 1,5 lần và

năm 2020 gấp 2,0 – 2,5 lần so với giá trị sản xuất năm 2008.

• Nâng tỉ trọng giá trị sản xuất ngành nghề nông thôn trong tổng giá trị sản

xuất ngành công nghiệp, đồng thời chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn trên địa

bàn tỉnh theo hướng CNH – HĐH.

• Nâng tỉ trọng lao động ngành nghề nông thôn lên trên 5 % trong tổng lao

động xã hội, góp phần giải quyết việc làm cho lao động và tạo việc làm cho nông

dân trong lúc nông nhàn.

• Phấn đấu thu nhập bình quân đầu người từ ngành nghề đạt 23 – 25 triệu

đồng/năm vào năm 2020.

102

• Bảo tồn và phát triển các làng nghề, nghề truyền thống. Xây dựng các làng

nghề mới, làm hạt nhân cho phát triển ngành nghề. Vực dậy những cơ sở sản xuất

“cầm chừng” và mở thêm các ngành nghề mới mà tỉnh có thế mạnh về nguyên liệu

và triển vọng thị trường.

3.2. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN:

3.2.1. Qui hoạch hệ thống các làng nghề truyền thống:

Qui hoạch phát triển các làng nghề gắn với qui hoạch phát triển kinh tế - xã

hội của huyện, tỉnh và ngành. Hiện nay, các cơ sở sản xuất – kinh doanh làng nghề

chủ yếu tồn tại dưới hình thức kinh tế hộ gia đình, sản xuất kinh doanh diễn ra tại

nơi ở của hộ gia đình. Đó vừa là nơi ở, vừa là nơi sản xuất nên nhà xưởng hẹp, môi

trường bị ô nhiễm, không có khả năng mở rộng sản xuất, kết cấu hạ tầng cho sản

xuất – kinh doanh không đảm bảo.

Làng nghề muốn phát triển cần có sự qui hoạch tổng thể, qui hoạch điểm

nhấn, đẩy mạnh công tác qui hoạch các làng nghề truyền thống phù hợp với điều

kiện của từng địa phương, gắn phát triển sản xuất với du lịch và đẩy mạnh xúc tiến

thương mại, xây dựng thương hiệu, đăng kí bản quyền cho sản phẩm làng nghề. Khi

các làng nghề đã có thương hiệu trên thị trường sẽ tạo nên sức mạnh giúp giải quyết

được một lượng lớn lao động thu nhập thấp ở nông thôn có việc làm ổn định, tăng

thu nhập, đồng thời phát huy được bản sắc văn hóa đặc thù của các địa phương. Đây

cũng là hướng đi góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông thôn theo hướng

xây dựng hình ảnh nông thôn mới.

Bản thân các cơ sở hay các hộ sản xuất và các doanh nghiệp ở làng nghề phải

biết liên kết lại với nhau để thành những cơ sở, những doanh nghiệp mạnh, theo mô

hình tổ hợp tác hay các HTX và lớn hơn nữa là các doanh nghiệp, đóng vai trò như

là một người đỡ đầu, giúp các làng nghề tìm đầu vào, tiêu thụ và tìm kiếm thị trường

cho sản phẩm. Khi làm được điều này, làng nghề sẽ có lực để bước ra, tìm hiểu thị

trường và theo sát được nhu cầu của thị trường.

Liên thông giữa các địa phương: Liên thông ngày nay không mâu thuẫn với

việc giữ bí quyết làng nghề như nhiều người nghĩ, ngược lại, với những nghề lao

103

động thủ công đơn giản chiếm phần lớn (như đan từ tre, trúc, lục bình), liên thông

giúp luân chuyển hàng hóa, tiền tệ, nguyên liệu, lao động thuận lợi hơn, bổ trợ lẫn

nhau nhằm khắc phục những thiếu sót giữa các làng nghề.

Cần thiết tạo cầu nối liên kết giữa các HTX, làng nghề và doanh nghiệp để

tạo ra những đóng góp cho sự phát triển của thị trường, giải quyết việc làm cho hàng

ngàn lao động nông thôn và bình ổn xã hội.

Phải tách khu vực sản xuất khỏi khu vực nhà ở và phải đảm bảo kết cấu hạ

tầng, đảm bảo nhà xưởng cho sản xuất – kinh doanh và bảo vệ môi trường.

Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các làng nghề.

3.2.2. Phát triển hệ thống các làng nghề truyền thống ưu thế:

Xây dựng chương trình bảo tồn và phát triển LNTT đã được công nhận trên

địa bàn, đây là những làng nghề ưu thế, đem lại lợi nhuận cao, không những vậy còn

có giá trị đối với du lịch, cần hết sức chú trọng phát triển các LNTT thành làng nghề

phục vụ du lịch. Cụ thể phát triển du lịch làng nghề ở các địa phương như: Huyện

Châu Thành (làng nghề đan lát, tranh ghép gỗ Hưng Mỹ; làng nghề đan đát – thủ

công mỹ nghệ Lương Hòa và làng nghề rượu Xuân Thạnh, xã Hòa Thuận), Thành

phố Trà Vinh (làng nghề trồng hoa kiểng ấp Long Bình, phường 4 và làng nghề

trồng hoa kiểng ở ấp Vĩnh Yên, xã Long Đức), huyện Trà Cú (làng nghề đan đát Đại

An), huyện Duyên Hải (làng nghề sơ chế biến thủy sản Xóm Đáy) và huyện Cầu

Ngang (làng nghề bánh tét Trà Cuôn, xã Kim Hòa)

Bên cạnh đó cần chủ động đầu tư thực hiện các dự án phát triển các làng nghề

dệt chiếu Bến Bạ, Cà Hom, Hàm Giang; LNTT tôm khô Vinh Kim, huyện Cầu

Ngang. Đòi hỏi sản phẩm làng nghề phải giữ được sự tinh túy vốn có của truyền

thống, không chạy theo lợi nhuận mà giảm chất lượng. Bởi vậy, bên cạnh các nghề

mới, cần phải giữ gìn những nghề có truyền thống lịch sử lâu đời, mang bản sắc văn

hóa, tính độc đáo riêng có. Đối với nhiều nghề truyền thống đã, đang và sẽ có nguy

cơ bị mai một, cần nhanh chóng có kế hoạch bảo tồn, lưu giữ những nét văn hóa

truyền thống tồn tại trong sản phẩm qua đó tạo ra sự khác biệt so với sản phẩm cùng

loại của địa phương khác, bí quyết làm nghề, đồng thời phải chú trọng đến việc thiết

104

kế nên những sản phẩm mới phù hợp với thị trường tiêu thụ hiện đại, dựa trên các

nét văn hóa, chất liệu hoặc công nghệ sản xuất truyền thống nhằm nâng cao khả

năng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, làm sống lại sự phồn thịnh vốn có của địa

phương.

Đối với doanh nghiệp kinh doanh cần tập trung nghiên cứu phát triển sản

phẩm mới theo hướng đa dạng hóa giúp thích nghi với sự thay đổi và biến động của

thị trường, như: Thay đổi kiểu dáng, mẫu mã, sản xuất đơn hàng nhỏ…

Với những làng có nhiều nghề, nhiều sản phẩm thì cần lựa chọn ra ít nhất một

nghề có sản phẩm mang nét đặc trưng nhất về địa lý, phong tục, văn hóa, truyền

thống… của địa phương, có thị trường tiêu thụ lớn, để lập kế hoạch phát triển dài

hạn, tập trung nguồn lực, có chính sách ưu đãi thích hợp, phát triển sản phẩm theo

hướng củng cố nâng cao kĩ năng truyền thống, đưa công nghệ mới vào các khâu sản

xuất. Phấn đấu chủ trương “mỗi làng một nghề” phải được xem là công việc, sự

nghiệp của cả cộng đồng dân cư trong mỗi ấp, mỗi làng. Theo đó, mỗi cộng đồng

làng cần biết chủ động dựa vào lợi thế tự nhiên, kinh tế, văn hóa của mình để “chung

vốn, chung sức” xây dựng cho toàn cộng đồng ít nhất là một nghề cụ thể phù hợp.

Hướng đến mục tiêu “mỗi làng nghề có ít nhất một doanh nghiệp”, cần tiếp tục giảm

thiểu thủ tục hành chính trong hoạt động đầu tư, nhất là thủ tục cho thuê đất.

Cần xây dựng, quảng bá rộng rãi thương hiệu, tiếp thị, bán hàng, quan tâm

giải quyết vấn đề môi trường, biến sản phẩm đó thành sản phẩm chủ lực, mang đặc

trưng của địa phương, phát triển bền vững, …

Khi xây dựng các dự án phát triển làng nghề cần đặc biệt chú trọng đến

phương pháp xây dựng dự án có sự tham gia của người dân để có thể phát huy được

tối đa thế mạnh, hoặc lợi thế so sánh của địa phương làm tiền đề cho sự phát triển

bền vững của nghề sau này.

3.2.3. Đầu tư nhân lực, vật lực cho phát triển:

Cần coi trọng việc bồi dưỡng, nâng cao tay nghề, đào tạo nghệ nhân trẻ, phát

huy vốn quý của các nghệ nhân nhiều tuổi, hình thành nhiều lớp nghệ nhân trong

105

làng nghề, qua đó tạo lực lượng kế thừa, lưu giữ được những tinh hoa truyền thống

làng nghề.

Công tác đào tạo nghề cho lao động được chú trọng, nhất là lao động không

còn đất sản xuất nông nghiệp. Việc đào tạo nghề tiến tới cần có sự liên kết chặt chẽ

giữa cung – cầu, thông qua hình thức kí hợp đồng, phối hợp với cơ sở sản xuất.

Đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ cho làng nghề. Vì thế, cần hỗ trợ vốn cho các

cơ sở mở rộng sản xuất, khi đó họ có thể tự đào tạo nhân công, giải quyết được

lượng lao động ở nông thôn.

Cần có chính sách thu hút và mời gọi các nghệ nhân từ các tỉnh, thành lân cận

đến Trà Vinh sản xuất và kinh doanh, đặc biệt chú trọng chính sách ưu đãi đối với

đào tạo lao động sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.

Trong doanh nghiệp, nhân lực được coi là tài sản quý giá nhất, là nguồn vốn

đặc biệt, yếu tố bảo đảm cho năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền vững của

doanh nghiệp. Có nhiều học sinh, sinh viên của nước ta nói chung và Trà Vinh nói

riêng khi ra trường không đủ kĩ năng cần thiết để tham gia thị trường lao động, các

nhà đầu tư phải đào tạo lại, đào tạo bổ sung, thêm tốn kém. Hơn nữa, kỉ luật lao

động, tác phong làm việc công nghiệp của người lao động còn thiếu, thể lực cũng

chưa đáp ứng yêu cầu. Sự thiếu hụt lao động, đặc biệt là lao động có chuyên môn

cũng đang dẫn đến tình trạng di chuyển lao động đã qua đào tạo giữa các vùng, các

ngành, nghề, tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường lao động.

Tăng cường đào tạo kiến thức quản trị kinh doanh, marketing cho bộ phận

quản lí, kiến thức về kĩ thuật và thiết kế sản phẩm cho thợ thủ công; tổ chức các hoạt

động hỗ trợ thiết kế sản phẩm cho thợ thủ công; tổ chức các hoạt động hỗ trợ thiết

kế cho các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ hơn nữa.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các làng nghề. Các hoạt động đào

tạo, truyền nghề đã có truyền thống từ xưa với những hình thức khá đa dạng. Cần có

những khảo sát, đánh giá nhu cầu cần đào tạo cho người lao động các làng nghề;

đánh giá đội ngũ nghệ nhân, những người đang truyền nghề tại các làng nghề. Có kế

hoạch cụ thể phối hợp giữa các làng nghề và các cơ sở dạy nghề có nghề tương

106

đương để huy động đội ngũ giáo viên dạy nghề tham gia các khóa đào tạo nghề và tổ

chức cho học viên thực hành nghề phù hợp. Chú trọng mô hình dạy nghề gắn với

giải quyết việc làm và tiêu thụ sản phẩm làng nghề. Tăng cường giáo dục, tuyên

truyền nâng cao nhận thức cộng đồng và phổ biến lồng ghép nội dung bảo vệ môi

trường trong các làng nghề.

Về nguồn nguyên vật liệu phục vụ phát triển làng nghề, cần có kế hoạch cụ

thể việc sử dụng trong sản xuất ở từng làng nghề, để chủ động được nguồn nguyên

vật liệu, tránh tình trạng thiếu nguyên vật liệu, dẫn đến đình đốn sản xuất.

3.2.4. Thiết lập và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm:

Cần phát triển thị trường cho các làng nghề. Phát triển các thị trường đầu vào

(lao động, thông tin, khoa học công nghệ, nguyên vật liệu…) và thị trường sản phẩm

cho các làng nghề. Cần phát triển các thành phần kinh tế hoạt động trên thị trường,

trong đó nêu cao vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong cung ứng các yếu tố đầu

vào quan trọng (công nghệ, thông tin…) và tiêu thụ sản phẩm cho các làng nghề.

Bên cạnh việc tập trung vào thị trường chủ lực, các doanh nghiệp phải nghiên

cứu mở rộng xuất khẩu vào các thị trường như thị trường EU, Đông Nam Á và chú ý

hơn nữa thị trường nội địa.

Thông qua các hình thức như gia công đặt hàng và hợp tác sản xuất giữa các

doanh nghiệp ở thành thị với các cơ sở sản xuất kinh doanh ở nông thôn để tạo thị

trường lớn và ổn định các làng nghề.

Cùng với phát triển thị trường cho các làng nghề, thì việc tăng khả năng cạnh

tranh của các sản phẩm của làng nghề cần được chú trọng bằng việc khai thác các thị

trường ngách (là một phần hay một góc trong thị trường rộng lớn nhất của bất kì loại

hàng hóa dịch vụ nào), phát triển quan hệ gia công cho các doanh nghiệp lớn ở thành

thị, tích cực thực hiện các biện pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, cải

tiến mẫu mã sản phẩm, đẩy mạnh tiến bộ khoa học công nghệ trong các làng nghề.

Kết nối chặt chẽ giữa khâu tiêu thụ với khâu sản xuất, thông qua việc chủ

động nguồn cung – cầu, hạn chế các khâu trung gian phát sinh hao phí không cần

thiết. Đồng thời cũng góp phần quan trọng trong điều tiết thị trường, tránh hiện

107

tượng lũng đoạn, cạnh tranh thiếu lành mạnh, doanh nghiệp lớn chèn ép cơ sở sản

xuất nhỏ.

3.2.5. Hợp tác đầu tư từ ngành du lịch, đặc biệt cho các làng nghề:

Cần tranh thủ các nguồn vốn đầu tư từ ngành du lịch cho các làng nghề phát

triển du lịch làng nghề, phối hợp chặt chẽ với ngành du lịch mở nhiều tour, tuyến du

lịch đến với làng nghề sao cho du lịch trở thành cầu nối đưa mọi người đến với các

sản phẩm của LNTT. Đồng thời, đó là giải pháp hữu hiệu để giới thiệu, quảng bá

hình ảnh của đất nước, con người Việt Nam nói chung và con người Trà Vinh nói

riêng với bạn bè quốc tế. Cần phải giải bài toán về phát triển kinh tế, tạo việc làm

cho người lao động với việc bảo tồn văn hóa truyền thống sao cho hài hòa để từ đó

góp phần thúc đẩy việc bảo tồn và phát huy một giá trị văn hóa truyền thống.

3.2.6. Phát triển cơ sở hạ tầng – vật chất kĩ thuật hiện đại cho các làng

nghề:

Chủ yếu là giao thông vận tải và năng lượng, đang ảnh hưởng lớn đến việc

triển khai đầu tư của doanh nghiệp cả về thời gian và tiền bạc. Vì vậy, việc tập trung

đầu tư xây dựng, cải thiện kết cấu hạ tầng đang là một yêu cầu rất lớn. Tỉnh Trà

Vinh đang cố gắng tăng thêm vốn, đồng thời kêu gọi vốn đầu tư bằng nhiều hình

thức từ các nguốn khác, trong và ngoài nước cho việc đầu tư xây dựng đường sá, cầu

cống, cơ sở sản xuất điện và phát triển các nguồn năng lượng khác.

Nhanh chóng hỗ trợ đổi mới trang thiết bị công nghệ của các làng nghề trên

cơ sở chương trình khuyến công, sao cho giúp các làng nghề rút ngắn được các công

đoạn sản xuất, nâng cao năng suất lao động mà không làm mai một đi các giá trị của

các LNTT. Giữ gìn kĩ thuật truyền thống vốn có của một trong những cơ sở đầu tiên

để tăng cường thêm qui mô, hiện đại hóa công nghệ.

Đan xen yếu tố sản xuất hiện đại với mức độ hợp lí không làm mất đi truyền

thống, ngược lại khắc phục những hạn chế của nghề thủ công, là hướng phát triển

nhằm vươn tới những làng nghề qui mô lớn, hoạt động hiệu quả.

Tránh việc phát triển làng nghề ồ ạt, chạy theo phong trào, thiếu chọn lọc,

nhiều nghề song manh mún, đầu tư dàn trải, không có chiều sâu; phát triển nhanh, đa

108

dạng trong khi chưa hội đủ các điều kiện về nhân lực, vật lực dẫn đến hoạt động

hiệu quả thấp, dần mai một.

Đối với các doanh nghiệp làng nghề, yêu cầu cấp bách hiện nay là có đất đai

làm mặt bằng sản xuất kinh doanh phù hợp với yêu cầu duy trì và mở rộng sản xuất.

Phần lớn diện tích đất đai ở vị trí thuận lợi đã được giao cho các dự án, giá đất đã

cao, chi phí san lấp, xây dựng kết cấu hạ tầng rất lớn, cho nên các doanh nghiệp làng

nghề, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa không thể thuê lại mặt bằng ở các khu

công nghiệp được.

Song cấp đất cho doanh nghiệp ở những vùng lẫn với dân cư cũng không

được, nhất là doanh nghiệp làng nghề, vì gây ra ô nhiễm môi trường. Vì vậy, để giải

quyết mặt bằng cho các doanh nghiệp hiện nay, cần có chính sách trợ giúp về sử

dụng kết cấu hạ tầng và giải quyết môi trường cho doanh nghiệp để có thể thuê mặt

bằng ở các khu công nghiệp đã có, hoặc tỉnh đầu tư và chịu chi phí xây dựng kết cấu

hạ tầng, trợ giúp và giảm nhẹ giá thuê để doanh nghiệp có thể thuê đất với giá thấp

nhất.

Địa phương và các ngành liên quan cần có cơ chế đảm bảo, hỗ trợ vốn (cho

vay ưu đãi bao gồm vay ngắn hạn, trung và dài hạn) để đổi mới công nghệ ở các

làng nghề giúp sản xuất và kinh doanh hiệu quả.

Có chính sách khuyến khích nghiên cứu sản xuất và sử dụng máy móc thiết bị

cho các làng nghề. Phát triển các trung tâm đảm nhận nhiệm vụ thiết kế mẫu mã, đào

tạo cho các làng nghề.

3.2.7. Bảo vệ môi trường – phát triển bền vững trong các làng nghề:

Sản xuất kinh doanh phải chú ý cải thiện và bảo vệ môi trường, không hy

sinh lợi ích môi trường cho lợi ích kinh tế trước mắt. Nhanh chóng xây dựng, ban

hành và áp dụng văn bản qui phạm pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề, trong

đó cần quy định rõ trách nhiệm của địa phương, các ngành, lĩnh vực hoạt động làng

nghề. Các làng nghề tiến hành xây dựng các qui định về vệ sinh, môi trường dưới

dạng các qui định, hương ước, cam kết bảo vệ môi trường của chính địa phương

mình. Tăng cường hoạt động giám sát môi trường làng nghề và thực hiện kiểm kê

109

nguồn thải; áp dụng công cụ kinh tế như phí bảo vệ môi trường đối với nước thải,

khí thải, chất thải rắn. Xây dựng tiêu chí “Làng nghề xanh” nhằm xếp loại cho các

làng nghề bảo vệ môi trường theo hướng phát triển “bền vững”.

Qui hoạch không gian làng nghề gắn với bảo vệ môi trường. Di dời các cơ sở

gây ô nhiễm nặng ra khỏi khu vực dân cư. Qui hoạch tập trung theo cụm công

nghiệp nhỏ cần tránh xa khu dân cư và qui hoạch đồng bộ mặt bằng sản xuất, kết cấu

hạ tầng như đường giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước, hệ thống thông tin, thu

gom và xử lí nước thải, chất thải rắn để xử lí tập trung. Qui hoạch khu vực sản xuất

tùy thuộc vào đặc thù của các loại hình làng nghề như sản xuất gốm sứ, dệt nhuộm,

tái chế giấy, … Qui hoạch phân tán, sản xuất ngay tại hộ gia đình kết hợp điều kiện

sản xuất với cải thiện vệ sinh môi trường mà không phải di dời, hạn chế tối đa việc

cơi nới, mở rộng đường, xây nhà cao tầng, lưu giữ khung cảnh sản xuất, tính cổ

truyền nhân văn của làng để có thể kết hợp với du lịch.

Tăng cường mạnh mẽ công tác quản lí môi trường tại các làng nghề. Những

cơ sở mở rộng sản xuất phải thực hiện cam kết bảo vệ môi trường và đầu tư theo

hướng công nghệ thân thiện với môi trường. Tiêu chí lựa chọn công nghệ xử lí chất

thải tại làng nghề cần bảo đảm chất thải sau xử lí đạt qui chuẩn môi trường Việt

Nam hiện hành; công nghệ đơn giản, dễ vận hành, chuyển giao; vốn đầu tư, chi phí

thấp, phù hợp với điều kiện sản xuất của làng nghề; ưu tiên công nghệ có khả năng

tận thu, tái sử dụng chất thải. Khuyến khích các cơ sở sản xuất trong làng nghề áp

dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn để vừa giảm lượng phát thải, vừa mang lại

hiệu quả kinh tế cao. Cho vay ưu đãi với lãi suất thấp đối với các chủ cơ sở áp dụng

công nghệ và thiết bị tiên tiến tạo ít chất thải. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng các dự án

nghiên cứu về áp dụng sản xuất sạch hơn cụ thể cho từng loại hình làng nghề để có

mô hình trình diễn nhân rộng.

Phát hiện và xử lí trường hợp phát sinh các làng nghề gây ô nhiễm môi

trường. Các địa phương và các làng nghề phải khẩn trương xử lí môi trường để được

cấp giấy chứng nhận đã hoàn thành các biện pháp xử lí ô nhiễm triệt để. Mặt khác,

vẫn cần tăng cường thanh tra, kiểm tra để đưa vào “danh sách đen” làng nghề tiếp

110

tục gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Yêu cầu các làng nghề triển khai áp dụng

các biện pháp cần thiết nhằm giảm thiểu ô nhiễm; xây dựng các lộ trình xử lí ô

nhiễm và triển khai thực hiện theo đúng lộ trình được phê duyệt.

Tổ chức các lớp đào tạo, trình diễn thử nghiệm áp dụng sản xuất sạch hơn

cho các chủ cơ sở sản xuất tại làng nghề. Khuyến khích các cơ sở sản xuất xử lí

nước thải, khí thải, quản lí môi trường bằng cho vay ưu đãi hoặc giảm thuế. Đa dạng

hóa các nguồn đầu tư và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong bảo vệ môi

trường làng nghề. Sự phát triển của làng nghề phải bảo đảm tính bền vững, hài hòa

các mặt kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Do đó, một số loại hình làng nghề sẽ

phát triển mạnh cả về số lượng và quy mô sản xuất, một số khác cần được hạn chế,

không khuyến khích phát triển và một số hoạt động, công nghệ cần được nghiêm

cấm triệt để. Ví dụ: nghiêm cấm sử dụng trong làng nghề những phương pháp sản

xuất thủ công và thiết bị gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN:

3.3.1. Thực hiện đổi mới quản lí, tổ chức, tiến trình qui hoạch hệ thống

làng nghề phù hợp với tiềm năng:

Phát triển làng nghề phải gắn với qui hoạch kinh tế – xã hội, qui hoạch phát

triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp của Tỉnh, huyện, xã, thậm chí của từng

vùng. Trên cơ sở qui hoạch tổng thể làng nghề, cần xây dựng qui hoạch chi tiết cho

từng làng nghề về khu dân cư, khu sản xuất, giao thông, điện nước … Sở Công

thương phối hợp với Phòng Công thương, phối hợp với các ngành xây dựng, Địa

Chính, Giao thông, Thương mại, Du lịch … và các xã, huyện trong tỉnh để xây dựng

các công trình có liên quan, hướng dẫn các làng nghề xây dựng qui hoạch, xây dựng

nông thôn mới, UBND Tỉnh kết hợp với UBND Huyện, kết hợp với Sở Văn hóa,

Thể thao và Du lịch giúp các làng nghề xây dựng làng văn hoá, kết hợp với Sở Khoa

học và Công nghệ, Sở Tài nguyên và Môi trường giúp các làng nghề xây dựng

phương án xử lí chất thải và bảo vệ môi trường.

Tiếp tục kêu gọi vào các làng nghề, di dời các cơ sở gây ô nhiễm đến các khu

qui hoạch. Xây dựng và thực hiện chương trình hợp tác liên kết giữa các doanh

111

nghiệp với các cơ sở ngành nghề trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Thực hiện có

hiệu quả các chương trình thúc đẩy phát triển các LNTT. Phát triển các loại hình

dịch vụ phục vụ sản xuất, xây dựng và triển khai chương trình xúc tiến thương mại.

Các cấp, các ngành cùng với chính quyền địa phương tăng cường tuyên

truyền, vận động các hộ sản xuất nhỏ lẻ trong làng liên kết lại theo mô hình tổ hợp

tác hoặc HTX, để hạn chế việc mua, bán phá giá, hoặc những hình thức cạnh tranh

không lành mạnh giữa các hộ này với nhau, đồng thời đảm bảo năng lực cung cấp

sản phẩm khi có hợp đồng tiêu thụ số lượng lớn. Hình thức này cũng dễ dàng tiếp

cận với các tổ chức tín dụng khi vay vốn.

Phát triển LNTT gắn với nguồn nguyên liệu tại chỗ. Nếu sử dụng nguồn

nguyên liệu bên ngoài cần chủ động liên hệ, lập dự toán về số lượng, chất lượng

nguyên liệu để cho nơi cung cấp nguyên liệu tính toán phát triển để cung cấp đủ

nguồn nguyên liệu cho địa phương phát triển làng nghề.

3.3.2. Kêu gọi đầu tư hiện đại hóa vật chất kĩ thuật, phương tiện sản

xuất:

Khuyến khích và tạo điều kiện cho các hộ gia đình, các cơ sở, tổ hợp tác sản

xuất và các doanh nghiệp trong làng nghề ứng dụng kịp thời công nghệ và kĩ thuật

tiên tiến cần thiết để vừa tăng năng suất lao động, vừa sản xuất ra các sản phẩm có

sức cạnh tranh cao trên thị trường trong và ngoài nước.

Nhằm phát triển bền vững và tạo tâm lí tốt cho người tiêu dùng, các hộ, cơ

sở, doanh nghiệp sản xuất, các cấp chính quyền cần quan tâm đến việc đầu tư cơ sở

hạ tầng cho làng nghề. Việc làm này, giúp hộ sản xuất, cơ sở, doanh nghiệp giảm

được một phần chi phí, kịp thời để đưa sản phẩm ra thị trường.

Các nguồn vốn tín dụng đầu tư, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, quỹ quốc gia xúc

tiến việc làm, ngân hàng phục vụ người nghèo, các ngân hàng thương mại, các tổ

chức tín dụng, các tổ chức xã hội có vốn cho vay cần ưu tiên cho các làng nghề vay

vốn với lãi suất thấp và thời hạn vay hợp lí.

Tổ chức cơ quan tư vấn giúp đỡ cơ sở sản xuất làng nghề xây dựng các dự án

đầu tư chiều sâu, đầu tư phát triển sản xuất khả thi, hiệu quả và tạo điều kiện để cơ

112

sở được vay vốn thuận lợi. Trước mắt, Cục Đầu tư và phát triển tỉnh phối hợp với Sở

Kế hoạch – Đầu tư cần xem xét một số hộ ở các làng nghề lập dự án cho vay vốn

quỹ hỗ trợ quốc gia, vốn tín dụng ưu đãi.

Thành lập công ty cổ phần, HTX cổ phần, doanh nghiệp tư nhân ở các làng

nghề, đây là điều kiện để thu hút vốn của nội bộ và đầu tư từ bên ngoài.

Các cơ sở sản xuất trong làng nghề đầu tư phát triển ngành nghề mà Nhà

nước và địa phương khuyến khích do UBND quy định, thì được dùng tài sản hình

thành từ vốn vay (nếu tài sản hiện có không đủ để thế chấp) để thế chấp vay vốn

ngân hàng và được UBND Huyện tái bảo lãnh vốn. Các ngân hàng thương mại và

các quỹ đầu tư, tổ chức tín dụng nâng cao trách nhiệm trong việc tạo điều kiện cho

sản xuất trong các làng nghề vay trên cơ sở thẩm định các dự án khả thi và hiệu quả.

Ở các cấp, nhất là cơ sở cần hình thành các quỹ khuyến khích phát triển nghề,

nguồn vốn này ưu tiên cho vay với lãi suất thấp để đầu tư chiều sâu đổi mới công

nghệ.

Trên cơ sở tăng cường kiểm tra máy móc thiết bị của các doanh nghiệp Nhà

nước, nếu xét thấy không cần dùng thì ưu tiên bán với giá hạ cho các làng nghề nếu

có yêu cầu với phương thức trả chậm.

UBND Tỉnh sớm ban hành quy định khuyến khích các cơ sở sản xuất trong

các làng nghề đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ thiết bị theo phương châm: Kết

hợp hợp lí công nghệ tiên tiến và công nghệ cổ truyền, lựa chọn công nghệ phù hợp

nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.

Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế, vốn vay đối với các làng nghề sản xuất

công nghiệp tiểu thủ công nghiệp vay vốn đổi mới thiết bị công nghệ mang lại hiệu

quả kinh tế cao. UBND Tỉnh ban hành chính sách hỗ trợ về tư vấn pháp lí dịch vụ,

tư vấn quản lí kinh doanh, cung cấp thông tin chuyển giao công nghệ, kỹ thuật.

Hàng năm có kế hoạch đầu tư nghiên cứu khoa học, công nghệ cho các chương trình

đầu tư đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm, hỗ trợ vốn để trang bị kỹ

thuật, nghiên cứu ứng dụng, thiết kế chế tạo, cải tiến mẫu mã sản xuất truyền thống;

Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của các cơ sở sản xuất. Huyện phối hợp

113

với Sở Công thương, phối hợp với Sở Khoa học – Công nghệ, Sở Tài nguyên – Môi

trường và các ngành có liên quan để hướng dẫn các làng nghề thực hiện có hiệu quả

vấn đề trên.

3.3.3. Cải tiến mẫu mã, đa dạng hóa sản phẩm:

Các cơ sở sản xuất trong làng nghề cần mạnh dạn đầu tư chiều sâu vào sản

phẩm như nâng cao và đảm bảo chất lượng, thiết kế mẫu mã, bao bì, kiểu dáng để

làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm, qua đó gia tăng lợi nhuận cho nhà sản xuất.

Các cơ sở, doanh nghiệp làng nghề cần nghiên cứu tạo ra những sản phẩm

mang tính “kí ức”, mang đậm dấu ấn Trà Vinh, người thợ ngoài chú trọng về mặt kĩ

thuật, không quá rập khuôn theo truyền thống mà còn phải có sự sáng tạo và tìm

hiểu thị hiếu của khách du lịch.

Các doanh nghiệp cần tranh thủ mọi điều kiện để sáng tạo và thiết kế mẫu mã

sản phẩm làng nghề, tạo ra nhiều sản phẩm với tính thẩm mỹ và óc sáng tạo cao

không bị bó hẹp trong khuôn khổ, nên chú ý đến bản sắc văn hóa vùng miền và

thương hiệu của sản phẩm.

Ða dạng hóa sản phẩm làng nghề, tập trung sản xuất các mặt hàng có giá trị

nghệ thuật, phù hợp với thị hiếu của du khách. Hầu hết du khách khi đi du lịch ít khi

mua các sản phẩm có kích thước và trọng lượng lớn. Họ thường có xu hướng mua

các sản phẩm vừa và nhỏ, độc đáo, lạ mắt, có giá trị nghệ thuật để làm đồ lưu niệm

hoặc làm quà cho người thân với giá cả vừa phải. Các làng nghề cần tìm hiểu nắm

bắt được nhu cầu này của khách du lịch để tạo ra các sản phẩm phù hợp.

Để phát triển du lịch làng nghề, chúng ta phải “đáp ứng” được nhu cầu của du

khách. Muốn vậy, các cơ sở sản xuất tại làng nghề phải đầu tư nghiên cứu thị trường

từng đối tượng khách để sản xuất ra những sản phẩm có mẫu mã, màu sắc phù hợp.

Trước mắt là tổ chức bán hàng sản phẩm thủ công truyền tại các điểm du lịch. Còn

lâu dài, muốn làng nghề trở thành điểm du lịch, chúng ta cần có quy hoạch, đầu tư

về hạ tầng giao thông, cơ sở đón tiếp khách, điểm trình diễn; đào tạo nguồn nhân

lực, xúc tiến quảng bá.

114

Cần kết hợp tay nghề người thợ thủ công với việc ứng dụng khoa học công

nghệ mới vào sản xuất, các sản phẩm thủ công có chất lượng ngày càng cao, đa dạng

về kiểu dáng, phong phú về chủng loại, bền đẹp sẽ được nhiều người tiêu dùng trong

nước và thế giới ưa chuộng.

Bên cạnh lĩnh vực sản xuất thì việc ứng dụng khoa học và công nghệ trong

lĩnh vực bảo vệ môi trường làng nghề, quản lý chất lượng và xây dựng thương hiệu

sản phẩm... cũng rất quan trọng và cần có sự quan tâm đúng mức. Như thế, đẩy

mạnh ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến phục vụ phát triển bền vững

làng nghề truyền thống là một trong những giải pháp quan trọng cần được tiếp tục

nghiên cứu và thực hiện. Hiện đại hóa công nghệ truyền thống, truyền thống hóa

công nghệ hiện đại là điều cần thiết. Hai yếu tố đó gặp nhau sẽ tạo ra sản phẩm tinh,

có thể giúp sản phẩm làng nghề sẽ bắt nhịp, hòa nhập được với các sản phẩm trong

nước, khu vực và quốc tế.

3.3.4. Tổ chức các loại hình đào tạo kết hợp để nâng cao chất lượng đội

ngũ lao động nghề có kĩ thuật cao:

Đa số lao động làng nghề là lao đông thủ công, thanh niên ngày nay phần lớn

đi làm công nhân ở các khu, cụm công nghiệp; nếu không có phương pháp và chính

sách đào tạo phù hợp sẽ có nguy cơ mai một nghề truyền thống. Giải pháp đào tạo

lao động làng nghề như sau:

Có chính sách thu hút và mời gọi các chuyên gia, nghệ nhân giỏi từ các tỉnh,

thành lân cận đến Trà Vinh sản xuất, kinh doanh và dạy nghề mới nhằm đào tạo và

bồi dưỡng truyền nghề cho lực lượng lao động trẻ thông qua các lớp đào tạo, hội

thao, tập huấn, trao đổi kinh nghiệm …

Thay đổi phương thức đào tạo, thời gian đào tạo cho phù hợp với từng loại

đối tượng, phát huy hình thức đào tạo theo hợp đồng.

Mở các khóa tập huấn tại các làng nghề, giúp nâng cao tay nghề và chất

lượng đội ngũ lao động nghề, tạo điều kiện cho người lao động tiếp cận với những

tiến bộ khoa học, ứng dụng vào sản xuất góp phần nâng cao năng suất, chất lượng

sản phẩm. Những chuyên đề cần tổ chức tập huấn như “khởi sự doanh nghiệp”, “xây

115

dựng thương hiệu, nhãn hiệu”, “kĩ năng bán hàng và chăm sóc khách hàng”, “quản lí

và kiểm soát chi phí trong hộ, cơ sở, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh”,… Để giúp

cho các hộ sản xuất trong làng nghề biết cách tổ chức sản xuất kinh doanh hiệu quả

hơn, tạo dựng chữ “tín” đối với khách hàng.

Bên cạnh việc đào tạo lao động nghề, cần đặc biệt chú trọng chính sách ưu

đãi đối với đào tạo lao động sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ (ưu đãi cho cả người

truyền nghề và người học nghề). Có như vậy mới có cơ hội nâng cao chất lượng sản

phẩm hàng thủ công mỹ nghệ, đồng thời đa dạng hóa sản phẩm làng nghề.

Để tôn vinh lao động lành nghề và khuyến khích người lao động nâng cao tay

nghề, hàng năm cần tiến hành bình chọn và phong tặng danh hiệu nghệ nhân cho

những lao động hoạt động có hiệu quả và có tính nghệ thuật cao đáp ứng tiêu chí của

nghệ nhân theo qui định của Nhà nước. Thực hiện tuyển chọn các thợ tài hoa và các

nghệ nhân để có chính sách bồi dưỡng, sử dụng phù hợp với điều kiện của địa

phương.

Khuyến khích các làng nghề, cơ sở nghề truyền thống mở lớp đào tạo nghề,

cho lao động địa phương và các vùng lân cận theo qui định tại Thông tư số

113/2006/TT – BTC ngày 28/12/2006 của Bộ Tài chính.

Lao động làm việc trong các làng nghề hiện nay chủ yếu là cách truyền nghề

trực tiếp của bố mẹ, anh chị em và người lớn tuổi, do đó khả năng sáng tạo và đảm

bảo chất lượng sản phẩm chưa cao. Vậy để sản xuất kinh doanh có hiệu quả, lao

động trong các làng nghề cần phải được đào tạo về kĩ thuật, tiếp thị phù hợp với

nghề và sản phẩm sản xuất. Ở mỗi huyện, thị xã hoặc khu vực, cần có trung tâm hay

trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lí, công nhân kĩ thuật, thủ công lành nghề để

đáp ứng yêu cầu phát triển các làng nghề.

Ngành Giáo dục – Đào tạo hàng năm cần dành kinh phí hỗ trợ ở lớp đào tạo

nghề. Hình thức đào tạo đa dạng: đào tạo tập trung hoặc kèm cặp truyền nghề tại cơ

sở sản xuất theo một chương trình thống nhất.

Lao động nông thôn khi tham gia học nghề ở các cơ sở đào tạo nghề được hỗ

trợ kinh phí đào tạo theo chính sách hiện hành của Nhà nước. Thực hiện miễn phí

116

đào tạo hoặc giảm 50% đối với những người học nghề ở các trường, trung tâm đào

tạo của Nhà nước, khi học xong sẽ trực tiếp làm việc cho các cơ sở sản xuất công

nghiệp – tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề.

Người lao động tại các làng nghề được thực hiện đầy đủ các chế độ về

BHXH, bảo hiểm y tế, các chế độ khác theo quy định hiện hành.

Tổ chức cho đi tham quan nước ngoài, tham gia triển lãm, giới thiệu sản

phẩm đối với cán bộ và người lao động có nhiều công lao xây dựng và phát triển

làng nghề.

Tiến hành giáo dục và đào tạo cư dân ở các làng nghề cách làm du lịch tại

làng nghề của mình và ý thức xây dựng, phát triển LNTT nhằm hướng tới xây dựng

LNTT phục vụ du lịch.

3.3.5. Xúc tiến quảng bá sản phẩm làng nghề qua nhiều phương tiện và

hoạt động xã hội trong và ngoài nước:

Tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm: Tạo điều kiện thuận lợi

cho các cơ sở sản xuất của làng nghề tiếp cận thị trường trong nước và nước ngoài

bằng cách ưu tiên về quảng cáo, triển lãm. Tổ chức mạng lưới tiêu thụ trong và

ngoài tỉnh. Kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào phát triển, tiêu thụ sản phẩm làng

nghề. Hợp tác với Việt kiều ở nước ngoài để xâm nhập thị trường xuất khẩu. Tăng

cường các hoạt động liên doanh, liên kết trong phát triển làng nghề truyền thống của

tỉnh với các doanh nghiệp, các tỉnh lân cận như: Vĩnh Long, Thành phố Cần Thơ,

Tiền Giang và các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam như: TPHCM, Bình

Dương, Đồng Nai… để vừa tìm kiếm thị trường tiêu thụ, vừa tiếp cận các tiến bộ

khoa học kĩ thuật và vừa để thu hút đầu tư.

Đưa nhanh thông tin đến với người sản xuất, kinh doanh: Thành lập rộng rãi

mạng lưới thư viện đến các xã, tăng thời lượng và chất lượng đối với các chương

trình phát thanh, truyền hình, báo địa phương, hình thành hệ thống mạng thông tin từ

xã – huyện – tỉnh; hỗ trợ kinh phí xây dựng và phát triển website quảng bá sản

phẩm: trước mắt, hàng năm tỉnh cần trích một phần ngân sách để hỗ trợ kinh phí xây

dựng và nuôi dưỡng website nhằm giới thiệu về những sản phẩm đặc trưng của làng

117

nghề, về lâu dài website này sẽ tự đảm bảo, cần thường xuyên cập nhật nội dung về

phát triển LNTT, về thị trường tiêu thụ trên website của tỉnh. Trên cơ sở đó, du

khách có thể truy cập tìm hiểu về các LNTT và sản phẩm của làng nghề, trước khi

họ trực tiếp đến tham quan làng nghề.

Thường xuyên tham gia hội chợ: Theo dõi chặt chẽ chương trình kế hoạch

của các hội chợ có liên quan, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân tham

gia đầy đủ các buổi hội chợ, trong đó có cả việc tài trợ kinh phí tham gia. Bởi vì,

thông qua các hoạt động này, giúp các cơ sở, tổ hợp tác, HTX, doanh nghiệp của

làng nghề ở tỉnh Trà Vinh sẽ có dịp gặp gỡ, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm cách đưa

sản phẩm ra thị trường, đặc biệt đàm phán để tiến tới kí kết hợp đồng tiêu thụ sản

phẩm với đối tác, nhằm ổn định thị trường tiêu thụ. Bên cạnh đó, việc tham gia hội

chợ còn là cơ hội để giới thiệu, quảng bá sản phẩm của các làng nghề truyền thống

của tỉnh với khách du lịch tham quan, mua sắm tại hội chợ.

3.3.6. Sử dụng tối đa và có hiệu quả lao động nghề truyền thống địa

phương:

Có chính sách thu hút và giải quyết tốt việc làm cho lực lượng lao động bổ

sung hàng năm ở nông thôn, góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của

người lao động.

Đối với lao động có kinh nghiệm và những nghệ nhân có tâm huyết với nghề,

cần có những chế độ ưu đãi đặc biệt để tận dụng và phát huy hết năng lực của họ.

Sử dụng triệt để những lao động mới qua đào tạo về làm việc cho làng nghề,

phân công những lao động có kinh nghiệm kèm cặp, rèn luyện tay nghề và kĩ năng

cho lao động mới, giúp họ thêm yêu nghề, sống vì nghề.

Bên cạnh những lao động trực tiếp cho làng nghề, còn có những lao động thời

vụ. Vì vậy, nên có mức lương phù hợp nhằm thu hút lực lượng lao động khi mùa vụ

thu hoạch đến hoặc khi có những hợp đồng sản phẩm lớn.

Nhằm sử dụng có hiệu quả lao động làng nghề nên có qui hoạch chi tiết trong

phát triển làng nghề. Trên cơ sở đó, sẽ có kế hoạch sử dụng và đào tạo đội ngũ lao

118

động làng nghề hợp lí, hạn chế đến mức tối đa việc thừa hay thiếu lao động trong

sản xuất sản phẩm làng nghề.

3.3.7. Liên kết, hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp du lịch tham gia

đầu tư phát triển và tiêu thụ sản phẩm:

Nâng cao hoạt động của các làng nghề gắn với hoạt động du lịch. Lựa chọn

một số làng nghề đang thu hút khách để định hướng đầu tư các dịch vụ du lịch, hình

thành nên các phòng trưng bày, các trạm thông tin và hướng dẫn du lịch. Ưu tiên

việc đầu tư các thiết chế văn hóa thể thao để duy trì và tăng cường các hoạt động

sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng làng nghề phục vụ khách. Tích cực tuyên truyền văn

hóa du lịch tới từng hộ dân để từng bước đẩy mạnh hoạt động du lịch cộng đồng tại

làng nghề, hướng đến tự các làng nghề tổ chức và điều hành các hoạt động du lịch.

Phục hồi các giá trị văn hóa truyền thống như các phong tục, tập quán riêng có của

từng làng nghề.

Ðẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá về du lịch làng nghề như tổ chức

tham gia các hội chợ triển lãm, hội chợ du lịch trong nước và quốc tế. Giới thiệu

thông tin chi tiết về các sản phẩm làng nghề trên các tạp chí, các phương tiện thông

tin đại chúng, các sách báo, ấn phẩm mà khách du lịch thường quan tâm theo dõi.

Ðẩy mạnh việc trưng bày, giới thiệu sản phẩm ở các thành phố, đô thị lớn là nơi tập

trung nhiều du khách.

Tập trung đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về du lịch để hình thành một đội ngũ

du lịch tại chỗ theo hai hướng: hình thành đội ngũ quản lí và điều hành hoạt động du

lịch tại làng nghề; huy động cộng đồng dân cư tại làng nghề tham gia vào quá trình

hoạt động du lịch. Trong đó, ưu tiên vinh danh những nghệ nhân và khuyến khích

những nghệ nhân này trực tiếp hướng dẫn khách du lịch tham gia vào quá trình

hướng dẫn sản xuất sản phẩm cho các du khách.

Hợp tác để hình thành các tuyến du lịch mới, thu hút khách du lịch, hỗ trợ

cho ngành nghề và làng nghề phát triển.

Liên kết xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với các công ty du lịch của tỉnh và

các địa phương khác để xây dựng sản phẩm, thường xuyên cập nhật thông tin và có

119

nguồn khách ổn định. Các đơn vị kinh doanh lữ hành cần phối hợp cơ quan quản lí

Nhà nước tổ chức tốt các tour du lịch làng nghề để thông qua du khách có thể quảng

bá sản phẩm bằng hình thức truyền miệng từ người này sang người khác. Bên cạnh

đó, cần đẩy mạnh phát triển mô hình du lịch “mỗi làng một sản phẩm”.

Đẩy mạnh liên doanh, liên kết, tích cực thu hút các nguồn vốn trong nước và

ngoài nước để triển khai lồng ghép các tour, tuyến du lịch gây ấn tượng.

3.3.8. Triển khai đồng bộ thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ môi trường sinh

thái và môi trường sản xuất, phát triển bền vững làng nghề:

Trước tiên cần nâng cao năng lực của đội ngũ quản lí môi trường cho địa

phương. Nhanh chóng thiết lập được một hệ thống quản lí môi trường của xã, của huyện

mang tính chuyên trách thay cho kiêm nhiệm như hiện nay.

Từng bước di dời các cơ sở sản xuất của các làng nghề gây ô nhiễm môi

trường ra các khu, cụm tập trung, cách xa khu dân cư.

Thực hiện đồng thời nhiệm vụ bảo vệ môi trường sinh thái và môi trường sản

xuất.

Sở Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn các cơ sở sản xuất kinh doanh thực

thi Luật Bảo vệ môi trường, các qui định về môi trường của Nhà nước. Hướng dẫn

các biện pháp cụ thể để các cơ sở sản xuất sạch hơn, từng bước áp dụng hệ thống

tiêu chuẩn ISO 14000 và quản lí vòng đời sản phẩm (LCA).

Sở Khoa học – Công nghệ hướng dẫn các doanh nghiệp về thủ tục để được hỗ

trợ kinh phí từ Bộ Khoa học và Công nghệ trong nghiên cứu đổi mới công nghệ (ưu

tiên các công nghệ xử lí ô nhiễm môi trường theo Nghị định số 119/1999/NĐ – CP

ngày 18/9/1999 của Chính phủ).

Thường xuyên tuyên truyền, vận động, hướng dẫn hỗ trợ về thông tin kĩ thuật

để các cơ sở sản xuất có điều kiện xử lí, giảm gây ô nhiễm môi trường từ sản xuất.

Mặt khác Nhà nước cần có sự hỗ trợ thông qua qui hoạch xây dựng các khu công

nghiệp, cụm công nghiệp ở huyện thị trấn, với hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh dễ

dàng cho việc kiểm tra, kiểm soát ô nhiễm, xử lí chất thải, bảo vệ môi trường. Sở

120

Khoa học – Công nghệ và Sở Tài nguyên – Môi trường cần có cuộc điều tra mức ô

nhiễm ở các làng nghề để có giải pháp xử lý kịp thời.

Cần nâng cao vai trò và tích cực phối hợp sự tham gia của cộng đồng trong

vấn đề bảo vệ môi trường làng nghề: Cộng đồng làng nghề là những người trực

tiếp tham gia sản xuất, cũng là tác nhân cơ bản nhất gây ô nhiễm môi trường,

đồng thời lại là những người phải gánh chịu trực tiếp hậu quả của việc ô nhiễm.

Do đó, cộng đồng có vai trò quan trọng và quyết định đối với vấn đề nâng cao

năng lực sản xuất, bảo vệ môi trường hướng tới phát triển bền vững và tạo tâm lí

tốt cho người tiêu dùng.

Lên kế hoạch và lồng ghép thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường cho

cộng đồng làng nghề, với các nội dung chính gồm: Giữ gìn vệ sinh sạch sẽ nơi ở, nơi

sản xuất cũng như đường làng, ngõ xóm. Thu gom rác đúng nơi quy định của địa

phương, không vứt rác bừa bãi ra các nơi công cộng. Vận động người dân tham gia

các chương trình sử dụng nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn (nạo vét, khơi

thông kênh mương, cống rãnh, dọn vệ sinh đường phố định kì…). Trong quá trình

sản xuất, có kế hoạch tận thu các sản phẩm phụ để tái sản xuất, vừa tăng thu nhập,

vừa giảm nguồn thải. Người sản xuất cần nâng cao ý thức tôn trọng vấn đề vệ sinh

an toàn thực phẩm, chú ý tới việc “sản xuất sạch hơn”, vừa nâng cao uy tín, chất

lượng sản phẩm, vừa bảo vệ môi trường. Như vậy là tự bảo vệ cho sức khỏe của

mình, cộng đồng làng nghề cũng như người tiêu dùng sản phẩm…

Muốn có được sự tham gia hiệu quả của cộng đồng thì một trong những điều

quan trọng là cần thấu hiểu được những tâm tư, nguyện vọng, những tồn tại trong

nhận thức của cộng đồng cũng như những bức xúc của họ để có được kế hoạch hoạt

động phù hợp. Muốn vậy, hàng năm nên bộ phận chuyên trách tiến hành khảo sát,

điều tra lấy ý kiến trong nhân dân về những điều đã làm được và chưa làm được về

việc cải thiện, bảo vệ môi trường gắn với sản xuất.

Qua thực tế, mỗi năm cần tiến hành tổng kết lại toàn bộ các chương trình hoạt

động và có chính sách khen thưởng, kĩ luật đối với những đơn vị, cá nhân có thành

tích hoặc vi phạm qui chế, đồng thời có những bài học kinh nghiệm nghiêm túc cho

121

năm sau. Những người chịu trách nhiệm nếu hoàn thành tốt hoặc không hoàn thành

nhiệm vụ tùy theo mức độ cũng nên có hình thức xử lí phù hợp để nâng cao tinh

thần trách nhiệm.

3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ:

3.4.1. Kiến nghị với cấp lãnh đạo Trà Vinh:

- Kiến nghị UBND tỉnh:

+ Thực hiện tốt phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, xã hội hóa

trong đầu tư xây dựng, khai thác kết cấu hạ tầng; tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở vật

chất kĩ thuật nông thôn nói chung và làng nghề nói riêng. Triển khai các chính sách

tài chính và tín dụng của Nhà nước đến với các cơ sở, doanh nghiệp của làng nghề,

để các cơ sở, doanh nghiệp này thực hiện tốt các chính sách bên cạnh có thể tranh

thủ điều kiện để được vay vốn phát triển và đầu tư sản xuất.

+ UBND Tỉnh cần quan tâm hơn đến thành phần kinh tế tư nhân nhỏ ở làng

nghề bằng các giải pháp cụ thể (như chính sách thông thoáng, nguồn vốn dễ tiếp

cận, hỗ trợ xúc tiến thương mại, hỗ trợ đào tạo nghề, giúp đỡ giải quyết ô nhiễm môi

trường…) thì các làng nghề mới phát triển đồng bộ được. Ngoài ra, UBND Tỉnh nên

chỉ đạo các ngành chức năng thực hiện có hiệu quả các gói kích cầu của Chính phủ

giúp các doanh nghiệp qui mô nhỏ được tiếp cận với nguồn vốn vay ưu đãi.

+ Để khuyến khích, thu hút được nhiều nhà đầu tư vào phát triển làng nghề,

việc tăng cường chức năng quản lí của Nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt. Nội

dung gồm nhiều loại vấn đề: như hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh doanh, tiến

hành công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai; xúc tiến thương mại; trợ giúp

ứng dụng khoa học công nghệ (nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và nhất là nhằm

bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên); đào tạo nhân lực … và nhất là đẩy mạnh

cải cách hành chính, giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp về các thủ tục hành chính.

+ Thực hiện tốt chính sách thuế theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho ngành

nghề nông thôn phát triển.

122

+ Thực hiện đúng theo qui định của pháp luật về đất đai. Qui hoạch các vùng

nguyên liệu cung cấp cho ngành nghề. Cơ sở ngành nghề được ưu tiên thuê đất để

phát triển nguyên liệu phục vụ cho sản xuất.

+ UBND Tỉnh chỉ đạo UBND các huyện, thành phố, UBND các xã lập hồ sơ

trình UBND Tỉnh xét công nhận nghề truyền thống, làng nghề, LNTT để được

hưởng chính sách hỗ trợ của Nhà nước qui định tại chương II điều 6 Nghị định

66/2006/NĐ – CP. Đồng thời xem xét lập hồ sơ công nhận nghệ nhân cho cá nhân

đủ tiêu chuẩn theo thông tư liên tịch số 41/2002/TTLT/BNN – BLĐTBXH –

BVHTT.

+ Hàng năm dành một phần kinh phí từ nguồn ngân sách đủ để tăng cường

đầu tư cho các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, tổ chức và tham

gia các hội chợ thương mại,… đặc biệt là nghiên cứu khoa học về phát triển ngành

nghề và LNTT.

- Kiến nghị Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần:

+ Đề xuất qui hoạch phát triển LNTT, tham mưu cho UBND Tỉnh.

+ Chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành có liên quan như Trung tâm khuyến

công và tư vấn phát triển công nghiệp tỉnh Trà Vinh, Liên minh HTX Việt Nam tỉnh

Trà Vinh, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Công

Thương, UBND các huyện, thị và UBND các xã xây dựng qui hoạch, kế hoạch chi

tiết và các dự án ưu tiên đầu tư phát triển LNTT trên địa bàn tỉnh.

+ Chủ động phối hợp với Sở Công thương, UBND các huyện, thị tiến hành

lập, trình duyệt và tổ chức thực hiện các dự án ưu tiên đầu tư kịp thời đúng tiến độ.

+ Phối hợp chặt chẽ với Sở Tài nguyên và Môi trường trong việc lập kế

hoạch và qui hoạch sử dụng đất dành cho hoạt động làng nghề.

+ Xây dựng kế hoạch chi tiết về: truyền nghề, dạy nghề, bồi dưỡng đào tạo

cán bộ quản lí ngành nghề và làng nghề cho các cơ sở và HTX, doanh nghiệp hoạt

động sản xuất kinh doanh. Hướng dẫn cơ sở ngành nghề đăng kí nguồn gốc xuất xứ

hàng hóa và nhãn hiệu hàng hóa, tổ chức tham gia hội chợ triễn lãm cũng như các

hoạt động xúc tiến thương mại khác.

123

+ Chi cục Phát triển Nông thôn phối hợp với Chi cục Quản lí chất lượng nông

lâm thủy sản tiến hành xây dựng một số mô hình trình diễn chuyển giao tiến bộ kĩ

thuật – công nghệ về chế biến nông thủy sản, đan đát theo đúng chức năng nhiệm vụ

được giao.

+ Chi cục phát triển nông thôn phối hợp với UBND các huyện, thị tuyên

truyền vận động và hỗ trợ, hướng dẫn xây dựng các tổ chức kinh tế, tổ hợp tác đối

với phát triển LNTT.

+ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ động giao cho các cơ quan

trực thuộc Sở cũng như phối hợp với UBND các huyện, thị xây dựng vùng nguyên

liệu cung cấp cho ngành nghề và làng nghề trước hết là lâm sản (tre, tầm vông, lồ ô),

lác…

+ Tổ chức thực hiện, công bố, thông báo công khai và rộng rãi nội dung qui

hoạch, kế hoạch và các dự án tạo điều kiện thuận lợi để công dân, doanh nghiệp, các

nhà đầu tư trong và ngoài nước dễ dàng tiếp cận nghiên cứu, khai thác nhằm phát

triển ngành nghề nông thôn trên địa bàn. Theo dõi, giám sát, kiến nghị những bổ

sung cần thiết đảm bảo cho việc triển khai thực hiện qui hoạch có hiệu quả.

+ Tổ chức chỉ đạo và hướng dẫn địa phương trong tổ chức thực hiện qui

hoạch phát triển LNTT trên địa bàn tỉnh.

+ Hệ thống thông tin tư liệu về ngành nghề và LNTT ở tỉnh còn rất thiếu, cơ

quan – cán bộ quản lí Nhà nước về ngành nghề và làng nghề còn rất thiếu và yếu. Vì

vậy, đề nghị cần tiếp tục củng cố đội ngũ cán bộ quản lí ngành nghề và làng nghề từ

cấp tỉnh đến cấp xã và liên tục cập nhật theo hệ thống qua các năm làm căn cứ quan

trọng khi đánh giá và điều chỉnh qui hoạch sau các năm thực hiện.

+ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thừa ủy quyền của UBND Tỉnh chỉ

đạo UBND huyện, xã lập thủ tục công nhận nghề - LNTT và làng nghề nông thôn

trình UBND Tỉnh xét duyệt.

+ Hàng năm phải cập nhật các thông tin và kết quả thực hiện qui hoạch, từ đó

kịp thời đề xuất với UBND Tỉnh những vấn đề cần điều chỉnh bổ sung sát với thực

tế, đồng thời xây dựng báo cáo sơ kết, tổng kết một khi UBND Tỉnh có yêu cầu.

124

- Kiến nghị Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính: Trên cơ sở qui hoạch, các

dự án đầu tư đã được cấp có thẩm quyền cho chủ trương, bố trí, cân đối vốn đầu tư

theo phân cấp để thực hiện qui hoạch phát triển LNTT trên địa bàn theo qui định.

- Kiến nghị các sở ngành có liên quan:

+ Sở Công thương: Trực tiếp là Trung tâm Khuyến công và tư vấn phát triển

công nghiệp tỉnh Trà Vinh theo chức năng, nhiệm vụ tổ chức thật tốt các hợp phần

khuyến công theo qui định của pháp luật. Trung tâm Khuyến công phối hợp với Chi

cục Phát triển Nông thôn xây dựng, triển khai các dự án ưu tiên đầu tư. Sở Công

thương khuyến khích tạo điều kiện cho Trung tâm Khuyến công làm tốt chức năng

cầu nối giữa chủ trương với thực tiễn sản xuất, giữa sản xuất với nơi tiêu thụ. Dành

kinh phí nghiên cứu khoa học thỏa đáng cho Trung tâm Khuyến công nghiên cứu

triển khai ứng dụng các đề tài cần thiết cho phát triển làng nghề và ngành nghề nông

thôn.

+ Sở Khoa học và Công nghệ: Khẩn trương xây dựng thương hiệu cho các

sản phẩm truyền thống ở tỉnh nhằm duy trì và phát huy các cơ sở hành nghề hiện có,

hướng dẫn các cơ sở, HTX, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ngành nghề nông

thôn nhất là nghề truyền thống lập hồ sơ đăng kí công nhận xuất xứ hàng hóa trình

cơ quan có thẩm quyền xem xét, công nhận.

+ Sở Tài nguyên và Môi trường: Bố trí quỹ đất cho phát triển làng nghề trong

kì qui hoạch sử dụng đất 2010 – 2020. Hướng dẫn các cơ sở, HTX, doanh nghiệp

sản xuất kinh doanh ở làng nghề thực hiện đúng các qui định về bảo vệ môi trường.

Tiến hành những biện pháp cần thiết khi phát hiện vi phạm nhằm thực hiện phát

triển làng nghề một cách bền vững. Chỉ đạo, hỗ trợ cơ sở sản xuất kinh doanh của

làng nghề lập hồ sơ để được hưởng chính sách hỗ trợ từ phía Nhà nước đối với một

số mô hình xử lí môi trường theo qui định.

+ Sở Lao động – Thương binh và Xã hội: Phối hợp với Sở Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn, UBND các huyện, thị xây dựng kế hoạch đào tạo nghề và chỉ

đạo các cơ sở dạy nghề do Sở Lao động – Thương binh và Xã hội quản lí, tiếp nhận

125

đào tạo nghề cho số lao động cần được đào tạo theo các dự án ưu tiên đầu tư phát

triển các LNTT chất lượng cao, phục vụ du lịch.

+ Liên minh HTX tỉnh Trà Vinh: Chủ động phối hợp với Sở Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn, UBND các huyện, thị hỗ trợ các cơ sở sản xuất kinh doanh ở

làng nghề trong việc tham gia hội chợ triễn lãm, học tập và xây dựng mô hình kinh

tế hợp tác, đề xuất cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển LNTT trên địa bàn tỉnh theo

chức năng, nhiệm vụ của mình.

3.4.2. Kiến nghị với chính quyền địa phương có phát triển nghề truyền

thống:

Chủ động phối hợp với các Sở, ngành có liên quan xây dựng các dự án và kế

hoạch phát triển LNTT trên địa bàn.

Phối hợp các Trung tâm Khuyến công chọn, xây dựng dự án và tổ chức các

mô hình trình diễn chuyển giao tiến bộ kĩ thuật – công nghệ vào sản xuất.

Phối hợp với Chi cục Phát triển nông thôn tuyên truyền vận động xây dựng

các mô hình kinh tế hợp tác, đồng thời UBND huyện ban hành quyết định thành lập

HTX theo đúng luật HTX, cũng như giám sát, hỗ trợ HTX phát triển bền vững.

Giám sát các cơ sở, HTX, doanh nghiệp ở làng nghề trong sản xuất, kinh

doanh và công tác bảo vệ môi trường.

Có chính sách ưu tiên đầu tư và phát triển các làng nghề được xem là thế

mạnh và có giá trị trong phục vụ du lịch.

Tạo mọi điều kiện cho các làng nghề sản xuất, kinh doanh và vay vốn hỗ trợ

sản xuất.

Tranh thủ các nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở vật chất của địa phương, tạo

điều kiện thuận lợi cho làng nghề phát triển, đồng thời thu hút du khách có thể đến

tham quan làng nghề.

Chủ động hướng dẫn các phường, xã, khóm, ấp tiến hành lập hồ sơ trình cấp

có thẩm quyền công nhận nghề truyền thống, làng nghề và LNTT.

Có kế hoạch cụ thể khôi phục và phát triển nghề - nghề truyền thống, làng

nghề - LNTT.

126

UBND xã, ấp có làng nghề chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch phát

triển ngành nghề theo chỉ đạo của UBND huyện, thành phố, các cơ sở - ngành cấp

tỉnh. Hướng dẫn các cơ sở sản xuất kinh doanh và thực hiện tốt chủ trương chính

sách của Chính phủ về phát triển ngành nghề và làng nghề đúng theo qui hoạch.

Lồng ghép các chương trình triển khai thực hiện trên địa bàn (huyện, xã…)

nhằm hỗ trợ cho LNTT như: Xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật, đào tạo nhân lực và

tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo…

3.4.3. Kiến nghị với các doanh nghiệp du lịch:

Phối kết hợp với các ngành tăng cường quảng bá kêu gọi các thành phần kinh

tế, các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực du lịch trên địa bàn

tỉnh Trà Vinh.

Tăng cường công tác quảng bá, giới thiệu tài nguyên, sản phẩm du lịch tỉnh

Trà Vinh thông qua các phương tiện thông tin, báo chí, phát thanh truyền hình, các

hội chợ triễn lãm, trang web của Sở… với các hãng lữ hành, du khách trong và

ngoài nước.

Tăng cường công tác quản lí Nhà nước về du lịch, phối hợp các ngành du lịch

các tỉnh nhằm giao lưu, học hỏi kinh nghiệm, tổ chức các tour liên tỉnh trong vùng.

Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức quản lí Nhà nước về du lịch cho các

cán bộ quản lí Nhà nước.

Phối hợp với các ngành chức năng và các cơ sở sản xuất thủ công mỹ nghệ,

làng nghề phát triển sản phẩm phục vụ khách du lịch.

Thanh tra Sở tiến hành kiểm tra các cơ sở kinh doanh du lịch trên địa bàn

tỉnh.

Lựa chọn các làng nghề có khả năng phục vụ du khách để định hướng đầu tư

dịch vụ du lịch.

Phối hợp và liên kết với các công ty, doanh nghiệp du lịch mở nhiều tour du

lịch đến làng nghề, đào tạo đội ngũ hướng dẫn viên du lịch chính là những lao động

trực tiếp của làng nghề.

127

Các công ty, doanh nghiệp du lịch chủ động mở các tour, tuyến du lịch đưa

du khách đến với LNTT của tỉnh Trà Vinh.

3.4.4. Kiến nghị với người dân địa phương tham gia sản xuất sản phẩm

nghề truyền thống:

Có tinh thần yêu nghề, sống vì nghề, tâm huyết với nghề.

Không ngừng học hỏi nâng cao năng lực sản xuất, nghiên cứu, sáng tạo ra

những sản phẩm đặc trưng cho làng nghề phong phú về mẫu mã và kiểu dáng.

Kịp thời ứng dụng công nghệ, kĩ thuật hiện đại vào sản xuất, không quá cố

chấp áp dụng công nghệ lạc hậu.

Tạo các mối liên kết giữa các hộ sản xuất, sử dụng nguồn vốn vay thúc đẩy

sản xuất đạt hiệu quả. Sản xuất cần chú trọng bảo vệ môi trường.

128

KẾT LUẬN

Làng nghề tồn tại, phát triển và mở rộng đã góp phần không nhỏ vào đời sống

kinh tế – xã hội của Tỉnh. Đặc biệt đã góp phần làm tăng thu nhập cho từng hộ gia

đình và từng người lao động, cũng như từng doanh nghiệp hiện có trên địa bàn. Các

sản phẩm của làng nghề rất đa dạng, phong phú hợp với thị hiếu của người tiêu dùng

trong nước và xuất khẩu. Sự có mặt các sản phẩm từ LNTT đã góp phần chuyển

dịch cơ cấu kinh tế của Trà Vinh nói chung và ở nông thôn nói riêng theo hướng tích

cực. Các làng nghề đã tự vận động rất linh hoạt để thích ứng với cơ chế thị trường,

trước hết là tiêu thụ sản phẩm, lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phù

hợp. Đối với nguyên liệu cho quá trình sản xuất dễ tìm kiếm, lao động tại chỗ dồi

dào, kinh nghiệm sản xuất là những điều kiện tốt để các xã, làng nghề phát huy khả

năng, nội lực của mình. Các làng nghề tạo ra các sản phẩm với giá hợp lí, phù hợp

với khả năng người tiêu dùng. LNTT tồn tại và phát triển, làng nghề mới ra đời

chính là do tìm được nghề phù hợp với địa phương, sản phẩm sản xuất ra phù hợp

với thị trường và đủ sức cạnh tranh với những mặt hàng cùng loại, ngoài những kĩ

thuật độc đáo và truyền nghề sớm, rèn luyện tay nghề có kĩ năng kĩ xảo ở trình độ

cao. Hiệu quả kinh tế rất rõ ràng như: tăng thu nhập, đóng góp cho ngân sách tăng,

đời sống nhân dân được ổn định. Về mặt xã hội, giải quyết được nhiều việc làm,

giảm di dân từ nông thôn ra thành phố. Rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và

thành thị, góp phần xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Các làng nghề giữ

được thuần phong mỹ tục, tập quán sinh hoạt văn hoá riêng của làng. Hiện tại, có

nhiều làng thông qua nét đẹp văn hoá làng nghề mà giáo dục cho mọi người yêu lao

động, yêu nghề, sống vì nghề. Do vậy, tiếp tục duy trì và phát triển các ngành nghề

và LNTT được xác định có lợi thế là yêu cầu cấp thiết trong chiến lược phát triển

kinh tế của tỉnh trong giai đoạn từ nay đến 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.

Trà Vinh là tỉnh có nguồn tài nguyên tuy không đa dạng nhưng có trữ lượng

lớn và có lợi thế cho phát triển một số làng nghề, nổi bật là tài nguyên nông nghiệp

129

và thủy sản. Trong những năm qua những làng nghề có lợi thế về vùng nguyên liệu

đã phát triển khá tốt, đạt được những kết quả khích lệ, là cơ sở rất tốt cho đẩy mạnh

phát triển trong tương lai. Tuy nhiên, sản xuất của các LNTT ở Trà Vinh còn manh

mún, chưa có doanh nghiệp đủ khả năng đứng ra tìm kiếm thị trường và thu mua sản

phẩm của các làng nghề trong tỉnh, sản xuất chủ yếu theo đơn đặt hàng của các

doanh nghiệp ngoài tỉnh không ổn định, kĩ thuật và công nghệ sản xuất còn nhiều

hạn chế, thị trường tiêu thụ hẹp và gặp khó khăn, các LNTT phục vụ du lịch chưa

đạt hiệu quả cao, chưa thu hút được nhiều du khách.

Chính vì thế cần vạch ra định hướng cụ thể và đúng đắn thúc đẩy phát triển

các LNTT ở tỉnh Trà Vinh nhằm đạt hiệu quả cao nhất về kinh tế, xã hội, môi

trường. Trong đó ưu tiên phát triển các LNTT có thế mạnh về nguyên liệu, thị

trường và phục vụ tốt cho ngành du lịch. Các định hướng phát triển LNTT phục vụ

du lịch của tỉnh trước tiên phải qui hoạch hệ thống các LNTT cụ thể, tiếp theo là

phát triển hệ thống các LNTT ưu thế, đầu tư nhân lực, vật lực cho phát triển, thiết

lập và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, liên kết, hợp tác và thu hút đầu tư từ

ngành du lịch, đặc biệt cho các làng nghề, bên cạnh đó phải phát triển cơ sở hạ tầng

– vật chất kỹ thuật hiện đại cho các làng nghề, sau đó là định hướng bảo vệ môi

trường – phát triển bền vững trong các làng nghề.

Để các LNTT ở tỉnh Trà Vinh tiếp tục phát triển hiệu quả và bền vững, đồng

thời phục vụ cho ngành du lịch cần thực hiện đầy đủ hệ thống các giải pháp đã được

trình bày ở phần trên. Trong đó các giải pháp quan trọng, mang tính đột phá gồm:

Thực hiện đổi mới quản lí, tổ chức, tiến hành qui hoạch hệ thống làng nghề phù hợp

với tiềm năng; kêu gọi đầu tư hiện đại hóa vật chất kỹ thuật, phương tiện sản xuất;

cải tiến mẫu mã, đa dạng hóa sản phẩm; tổ chức các loại hình đào tạo kết hợp để

nâng cao chất lượng đội ngũ lao động nghề có kỹ thuật cao; xúc tiến quảng bá sản

phẩm du lịch qua nhiều phương tiện và hoạt động xã hội trong và ngoài nước; sử

dụng tối đa và có hiệu quả lao động nghề truyền thống địa phương; liên kết, hợp tác

chặt chẽ với các doanh nghiệp du lịch tham gia đầu tư phát triển và tiêu thụ sản

130

phẩm; triển khai đồng bộ thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ môi trường sinh thái và môi

trường sản xuất, phát triển bền vững làng nghề.

Việc hỗ trợ xây dựng khu vực làng nghề trong tỉnh phát triển là nhằm thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội ở các vùng nông thôn, góp phần thực hiện thành công

chương trình xóa đói giảm nghèo ở tỉnh. Nếu mọi người trong chúng ta cùng bắt tay

nhau chăm lo, hỗ trợ cho khu vực này phát triển tốt thì đồng nghĩa với việc chúng ta

đã đưa những hình ảnh đẹp về vùng đất và con người của tỉnh Trà Vinh ngày càng

vươn xa hơn, được nhiều khách hàng và du khách biết đến hơn qua những sản phẩm

do chính khu vực này tạo ra.

Phát triển LNTT phục vụ du lịch là phương thức hữu hiệu để quảng bá văn

hóa truyền thống, quảng bá thương hiệu, sản phẩm làng nghề đến người tiêu dùng,

thoả mãn phần nào nhu cầu tìm hiểu lịch sử, văn hoá, đời sống người dân Trà Vinh

nói chung và các làng nghề nói riêng của các du khách. Mặt khác, hoạt động du lịch

làng nghề cũng có những đóng góp tích cực trong sự phát triển kinh tế - xã hội của

các làng nghề đó, tạo hiệu quả kép vừa phát triển du lịch vừa bán được sản phẩm

làng nghề, nâng cao thu nhập đời sống cho các nghệ nhân tâm huyết với

nghề. Những LNTT đã và đang nóng lòng muốn bước ra khỏi cổng làng, hội nhập

và phát triển vào dòng chảy của ngành công nghiệp không khói.

131

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, (2010), Đề án Phát triển Du lịch ĐBSCL

đến 2020, Hà Nội.

2. TS. Đào Ngọc Cảnh, (2004), Địa lý kinh tế - xã hội đại cương, Trường Đại

học Cần Thơ, Cần Thơ.

3. Cục thống kê tỉnh Trà Vinh, (2011), Niên giám thống kê 2006 – 2010 , NXB

Thông tin và truyền thông, TPHCM.

4. GS.TS. Đặng Kim Chi, (2005), Làng nghề Việt Nam và Môi trường, NXB

Khoa học kĩ thuật, Hà Nội.

5. TS. Ngô Văn Điểm (Chủ biên), (2004), Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập

kinh tế quốc tế của Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Phạm Xuân Hậu, (2012), Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống Việt

Nam phục vụ du lịch, Tạp chí khoa học – Đại học sư phạm TPHCM,

TPHCM.

7. Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu, (2001), Du lịch bền vững, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

8. TSKH Trần Trọng Khê (chủ nhiệm đề tài), (2009), Phát triển kinh tế Tây

Nam Bộ dưới tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, Viện Khoa học xã hội

Việt Nam, Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ, TPHCM.

9. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Trà Vinh, (2009), Báo cáo qui

hoạch phát triển ngành nghề nông thôn tỉnh Trà Vinh đến năm 2015 và tầm

nhìn đến năm 2020, Trà Vinh.

10. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Trà Vinh, Chi Cục phát triển

nông thôn, (2010), Báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh làng nghề, Trà

Vinh.

11. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Trà Vinh, (2011), Báo cáo tình hình hoạt

động du lịch năm 2005 – 2010, Trà Vinh.

132

12. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Trà Vinh, (2011), Báo cáo tổng kết hoạt

động du lịch năm 2011, chương trình công tác năm 2012, Trà Vinh.

13. GS.TS Lê Thông (Chủ biên), (2003), Địa lý các tỉnh và Thành phố Việt Nam

(tập 6): Các tỉnh và Thành phố ĐBSCL, NXB Giáo dục Hà Nội, Hà Nội.

14. GS.TS. Lê Thông (Chủ biên), (2004), Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam, NXB

Đại học sư phạm TPHCM, TP HCM.

15. GS.TS. Lê Thông, (1996), Nhập Môn Địa Lí Nhân Văn, Trường ĐHSP Hà

Nội, Hà Nội.

16. Tổng Cục Du lịch Việt Nam, (2004), Non nước Việt Nam, Hà Nội

17. Tôn Nữ Quỳnh Trân và tập thể tác giả, (2002), Làng nghề thủ công truyền

thống tại TPHCM, NXB trẻ, TPHCM.

18. Nguyễn Minh Tuệ, (2005), Địa lý kinh tế xã hội đại cương, NXB Đại học sư

phạm TPHCM, TP HCM.

19. Nguyễn Minh Tuệ (Chủ biên), (2011), Địa lý Du lịch Việt Nam, NXB Giáo

dục Việt Nam, Hà Nội.

20. Viện chiến lược phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, (2009), Các vùng, tỉnh,

Thành phố trực thuộc trung ương: Tiềm năng và triển vọng đến năm 2020,

NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

133

PHỤ LỤC

MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỦA CÁC LÀNG NGHỀ

Hình 2.1. Một khâu sản xuất sản phẩm của lao động làng nghề đan đát Đại An.

Hình 2.2. Sản phẩm của làng nghề đan đát Đại An

134

Hình 2.3. Sản phẩm của làng nghề đan đát Đại An.

Hình 2.4. Sản phẩm của làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã Lương Hòa.

135

Hình 2.5. Máy móc của một hộ trong làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã Lương Hòa.

Hình 2.6. Sản phẩm của làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã Lương Hòa.

136

Hình 2.7. Một khâu sản xuất sản phẩm của làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã Lương Hòa.

Hình 2.8. Một khâu sản xuất sản phẩm của làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã Lương Hòa.

137

Hình 2.9. Sản phẩm của làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã Lương Hòa.

Hình 2.10. Sản phẩm của làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã Lương Hòa.

138

Hình 2.11. Sản phẩm của làng nghề đan đát – thủ công mỹ nghệ xã Lương Hòa.

Hình 2.12. Sản phẩm của làng nghề Hưng Mỹ

139

Hình 2.13. Sản phẩm của làng nghề Hưng Mỹ

Hình 2.14. Sản phẩm của làng nghề Hưng Mỹ (thảm lát).

140

Hình 2.15. Sản phẩm của làng nghề Hưng Mỹ

Hình 2.16. Sản phẩm của làng nghề Hưng Mỹ

141

Hình 2.17. Sản phẩm của làng nghề Đức Mỹ

Hình 2.18. Sản phẩm của làng nghề sơ chế biến thủy sản Xóm Đáy

142

Hình 2.19. Sản phẩm của làng nghề sơ chế biến thủy sản Xóm Đáy

Hình 2.20. Sản phẩm của làng nghề sơ chế biến thủy sản Xóm Đáy