VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN SƠN
ĐIỀU TRA VỤ ÁN LÀM SAI LỆCH HỒ SƠ VỤ ÁN, VỤ VIỆC TỪ THỰC
TIỄN CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN SƠN
ĐIỀU TRA VỤ ÁN LÀM SAI LỆCH HỒ SƠ VỤ ÁN, VỤ VIỆC TỪ THỰC
TIỄN CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM CÔNG NGUYÊN
Hà Nội, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận văn là trung
thực. Những kết luận nêu trong luận văn chưa có công bố
ở bất kỳ công trình khoa học nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Văn Sơn
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật hình sự
CAND:
Công an nhân dân
CQĐT:
Cơ quan điều tra
CQTP:
Cơ quan tư pháp
CQTHA:
Cơ quan thi hành án
HĐTP :
Hội đồng thẩm phán
LSLHSVAVV:
Làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc
TAND :
Toà án nhân dân
TTHS:
Tố tụng hình sự
TNHS:
Trách nhiệm hình sự
VKSND :
Viện kiểm sát nhân dân
XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LÀM SAI LỆCH HỒ SƠ VỤ ÁN, VỤ VIỆC VÀ HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LÀM SAI LỆCH HỒ SƠ VỤ ÁN, VỤ VIỆC THEO CHỨC NĂNG CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO ....................... 6 1.1. Nhận thức chung về tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc .............................. 6 1.2. Nhận thức chung về hoạt động điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc theo chức năng của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao...... 9 Chương 2. TÌNH HÌNH, ĐẶC ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LÀM SAI LỆCH HỒ SƠ VỤ ÁN, VỤ VIỆC CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO ...................................................................................... 32 2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến hoạt động điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao ........................................................................................................................ 32 2.2. Thực trạng điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao ............................................................... 41 2.3. Thực trạng công tác lãnh đạo, chỉ đạo và quan hệ phối hợp của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc ...................................................................................... 49 2.4. Nhận xét, đánh giá ........................................................................................ 52 Chương 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐIỀU TRA VỤ ÁN LÀM SAI LỆCH HỒ SƠ VỤ ÁN, VỤ VIỆC CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO ..................... 58 TRONG THỜI GIAN TỚI ................................................................................ 58 3.1. Dự báo tình hình tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc và những yếu tố tác động đến hoạt động điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời gian tới .................. 58 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời gian tới .......................................................................................................... 60 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 81 PHỤ LỤC ............................................................................................................ 85
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công tác điều tra tội phạm nói chung và điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ
vụ án nói riêng, yêu cầu CQĐT phải áp dụng mọi biện pháp tố tụng và các biện pháp
nghiệp vụ nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện,
khởi tố, điều tra; thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ, lập hồ sơ đề nghị truy tố đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Điều này không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của
bộ luật TTHS mà còn góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân đồng thời góp phần vào việc giáo dục mọi người ý thức tuân
theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, tạo cho người dân yên tâm,
tin tưởng hơn nữa vào chính sách pháp luật của Nhà nước.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay, bên cạnh những tác động tích cực là đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân ngày càng được nâng cao, thì dưới góc độ tội phạm học, mặt trái của
kinh tế thị trường và hội nhập cũng tác động mạnh mẽ đến diễn biến, cơ cấu tình hình
tội phạm ở nước ta. Những năm qua, mặc dù diễn biến tình hình tội phạm có thời điểm
tăng, thời điểm giảm, nhưng biểu hiện đặc trưng của tội phạm trong thời kỳ này là
không chỉ xuất hiện nhiều loại tội phạm mới có tính chất xuyên quốc gia như rửa tiền,
mua bán người, tội phạm sử dụng công nghệ cao... mà các tội phạm truyền thống trong
đó có tội phạm xâm phạm HĐTP, đặc biệt là tội phạm LSLHSVAVV trong điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án có nhiều thay đổi về phương thức, thủ đoạn thực hiện và
che dấu hành vi phạm tội gây khó khăn cho công tác phát hiện, điều tra, xử lý.
Trước thực trạng đó, lãnh đạo VKSND tối cao đã chỉ đạo quyết liệt CQĐT
VKSND tối cao trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố tội LSLHSVAVV để kịp thời ra quyết định khởi tố, tiến hành điều tra,
làm rõ, xử lý hành vi phạm tội và người phạm tội. Theo số liệu thống kê của CQĐT
VKSND tối cao, từ năm 2016 đến 06/2020, CQĐT VKSND tối cao đã khởi tố, điều tra
và làm rõ 15 vụ án LSLHSVAVV. Kết quả này đã góp phần quan trọng vào việc chấn
1
chỉnh hoạt động TTHS, các CQĐT, VKSND, TAND và cơ quan thi hành án hình sự,
dân sự, hành chính, nâng cao tinh thần, trách nhiệm của những người có liên quan
trong HĐTP, đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thực
hiện đúng đắn, chính xác, khách quan theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động điều tra vụ án
LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao trong thời gian qua vẫn chưa đáp ứng yêu
cầu. Đặc biệt là quá trình tổ chức điều tra vụ án vẫn còn bộc lộ những bất cập và còn
bị động, lúng túng; việc áp dụng các biện pháp điều tra vẫn chưa nhuần nhuyễn và hợp
lý, tiến độ điều tra vụ án thường bị kéo dài, một số vụ án phải thay đổi tội danh nhiều
lần, công tác giám định để xác định hồ sơ vụ án, vụ việc bị làm sai lệch gặp nhiều khó
khăn… Bởi vậy, kết quả của hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV chưa cao, các đối
tượng phạm tội chưa bị xử lý nghiêm minh, kịp thời.
Về phương diện lý luận, nhận thức về vụ án LSLHSVAVV và điều tra vụ án
LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao từ trước đến nay chưa có sự nghiên cứu
một cách đầy đủ, toàn diện và hệ thống. Kết quả điều tra vụ án LSLHSVAVV của
CQĐT VKSND tối cao chưa được sơ kết, tổng kết, đánh giá một cách kịp thời, chính
xác, hợp lý để rút ra những bài học kinh nghiệm, khái quát thành lý luận làm cơ sở cho
việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt các hoạt động điều tra loại án này. Hơn
nữa, hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV mang tính đặc thù cao, đối tượng phạm
tội hầu hết là những người có kiến thức pháp luật, kiến thức nghiệp vụ về hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, do đó, có nhiều thủ đoạn để đối phó trong quá
trình điều tra. Vấn đề này cũng chưa được quan tâm và thể hiện trong lý luận về
nghiệp vụ điều tra, phương pháp điều tra nên phần nào đó tác động không tốt đến hiệu
quả hoạt động thực tiễn của CQĐT VKSND tối cao trong điều tra loại án này.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, học viên thấy rằng, việc nghiên cứu lý luận
và thực tiễn hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao trong
giai đoạn hiện nay nhằm bổ sung, hoàn thiện lý luận, đề xuất các giải pháp, kiến nghị
để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV là vấn đề có
tính cấp thiết, đáp ứng nhu cầu thực tiễn hiện nay.
Từ những luận giải trên, học viên chọn vấn đề “Điều tra vụ án làm sai lệch hồ
sơ vụ án, vụ việc từ thực tiễn Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao” làm
2
đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự là
đáp ứng yêu cầu cấp thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan tới hoạt động điều tra VAHS, phương pháp điều tra các tội phạm cụ thể
đã có nhiều công trình nghiên cứu khác nhau tiếp cận dưới góc độ của Luật TTHS hoặc
nghiệp vụ điều tra của các CQĐT trong CAND. Có thể kể tới các giáo trình Luật TTHS,
sách và giáo trình về nghiệp vụ điều tra, các đề tài luận án, luận văn về hoạt động điều tra
được giảng dạy và lưu hành trong hệ thống các trường Đại học Luật, trường kiểm sát,
trường CAND. Tuy vậy, các công trình đề cập tới hoạt động điều tra của VKSND vẫn
chưa được quan tâm nghiên cứu. Các công trình chủ yếu tiếp cận hoạt động của cơ quan
VKSND trong điều tra VAHS, có thể kể đến một số công trình sau đây:
- Trần Đình Hải (2015), Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình
sự theo yêu cầu cải cách tư pháp, Luận án tiến sĩ Học viện Cảnh sát nhân dân.
- TS Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp trong giai đoạn điều tra”, sách chuyên khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội..
- Nguyễn Hải Phong (2014), Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố
trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư
pháp, sách tham khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Ths.Trần Đình Hải (2014), Nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra của CQĐT
VKSND tối cao đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát online.
- Lê Hồng Thanh (2014), Địa vị pháp lý và thẩm quyền của CQĐT VKSND tối
cao, Thông tin khoa học Kiểm sát, trường Đại học Kiểm sát Hà Nội.
- Mai Văn Lứ (2020), Về tổ chức bộ máy CQĐT VKSND tối cao trong tiến trình
cải cách tư pháp, thông tin điện tử VKSND tối cao.
Tuy vậy, các công trình này chủ yếu đề cập tới cơ cấu tổ chức, thẩm quyền và
hoạt động của CQĐT VKSND tối cao. Hiện tại, tác giả luận văn chưa tiếp cận công
trình nào về hoạt động điều tra của CQĐT VKSND tối cao trong điều tra các vụ án
xâm phạm HĐTP, trong đó có vụ án làm lệch hồ sơ vụ án.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý luận về điều tra vụ án
LSLHSVAVV.
3
- Đánh giá những ưu điểm, tìm ra những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của
những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV của CQĐT
VKSND tối cao từ đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động này trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận án cần giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu tài liệu, hệ thống hóa và phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về
điều tra vụ án LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao, trên cơ sở đó bổ sung, góp
phần hoàn thiện lý luận này.
- Khảo sát thực tế, nghiên cứu, thu thập số liệu, lấy ý kiến đóng góp trực tiếp
trên cơ sở đó phân tích làm rõ thực trạng hoạt động của CQĐT VKSND tối cao trong
điều tra vụ án LSLHSVAVV giai đoạn 2016 – 6/2020. Trên cơ sở đó làm rõ những kết
quả đạt được, chỉ ra những hạn chế, thiếu sót và xác định nguyên nhân của những hạn
chế, thiếu sót trong điều tra vụ án LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả điều
tra vụ án LSLHSVAVVcủa CQĐT VKSND tối cao trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV của
CQĐT VKSND tối cao.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối
cao từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
suốt quá trình khởi tố, điều tra.
- Về chủ thể: CQĐT VKSND tối cao.
- Về không gian: Phân tích số liệu trên phạm vi cả nước.
- Về thời gian: Từ năm 2016 đến hết tháng 6/2020.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng, Nhà nước trong đấu tranh
4
phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm HĐTP nói riêng; cơ sở lý
luận của khoa học Luật hình sự, Luật Tố tụng hình sự và khoa học Điều tra hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
sau đây: Phương pháp phân tích số liệu, tài liệu; phương pháp thống kê, phân tích,
tổng hợp và so sánh số liệu thống kê; phương pháp khảo sát và tổng kết thực tiễn;
phương pháp điều tra điển hình; phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về điều tra vụ án LSLHSVAVV
của CQĐT VKSND tối cao. Đồng thời, là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho việc
nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật và đào tạo các chức danh tư pháp.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Là tài liệu để lãnh đạo CQĐT VKSND tối cao, lãnh đạo VKSND các cấp
tham khảo để đưa ra những chỉ đạo nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra vụ án
LSLHSVAVV.
- Là tài liệu để các ĐTV, cán bộ điều tra của CQĐT VKSND tối cao tham khảo
nhằm tổ chức và thực hiện tốt hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của luận án
được kết cấu thành bốn chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề chung về tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc và hoạt
động điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc theo chức năng của Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Chương 2. Thực trạng hoạt động điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ
việc của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Chương 3. Dự báo và giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra
vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân
tối cao trong thời gian tới
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LÀM SAI LỆCH HỒ SƠ VỤ ÁN, VỤ VIỆC
VÀ HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA VỤ ÁN LÀM SAI LỆCH HỒ SƠ VỤ ÁN, VỤ
VIỆC THEO CHỨC NĂNG CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
1.1. Nhận thức chung về tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc
1.1.1. Khái niệm về tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc
Để đưa ra khái niệm về tội LSLHSVAVV, trước hết cần căn cứ vào quy định về
tội phạm tại Điều 8 BLHS năm 2015. Theo đó, Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 quy
định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự,
an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân,
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy
định của Bộ luật này phải xử lý hình sự”. Tức là, một hành vi bị coi là tội phạm khi có
đủ các dấu hiệu: Thứ nhất, có hành vi nguy hiểm cho xã hội trên thực tế, tức là có hành
vi gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại ở mức độ nhất định cho các quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ; thứ hai, hành vi đó có lỗi; thứ ba, hành vi đó được quy
định trong BLHS và thứ tư, hành vi đó đáng bị xử lý bằng hình phạt.
Tội LSLHSVAVV được quy định tại Điều 375 BLHS năm 2015. Hành vi nguy
hiểm của tội này được thể hiện ở việc thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, hủy hoặc làm hư
hỏng tài liệu, vật chứng của vụ án, vụ việc hoặc bằng thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch
nội dung vụ án, vụ việc. Chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm này là chủ thể đặc biệt,
đó phải là những người có nhiệm vụ, quyền hạn trong HĐTP hoặc có quyền, có điều
kiện tiếp xúc hồ sơ vụ án, vụ việc một cách hợp pháp, bao gồm: ĐTV, KSV, Thẩm
phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, người khác có nhiệm vụ, quyền hạn trong HĐTP,
người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Hành vi
6
phạm tội có mục đích nhằm làm sai lệch nội dung vụ án, vụ việc, do đó, được thực
hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp.
Từ những phân tích trên có thể khái niệm tội LSLHSVAVV như sau:
Tội LSLHSVAVV là hành vi cố ý thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, hủy hoặc làm hư
hỏng tài liệu, vật chứng của vụ án, vụ việc hoặc bằng thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch
nội dung vụ án, vụ việc của ĐTV, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án,
người khác có nhiệm vụ, quyền hạn trong HĐTP, người bào chữa, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của về tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc
1.1.2.1. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm
Tội LSLHSVAVV xâm phạm trực tiếp đến nguyên tắc xác định sự thật của vụ
án, vụ việc. Do hồ sơ vụ án, vụ việc bị làm sai lệch nên việc xác định của cơ quan tiến
hành tố tụng và người tiến hành tố tụng cũng như người tham gia tố tụng không còn
phản ảnh đúng với sự thật của vụ án, vụ việc nữa có thể dẫn đến làm oan người vô tội
hoặc bỏ lọt tội phạm, hoặc gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân.
Đối tượng tác động của tội phạm này chính là hồ sơ vụ án, vụ việc. Hồ sơ vụ
án, vụ việc là một tập tài liệu, vật chứng do cơ quan tiến hành tố tụng thu thập theo
quy định của pháp luật bao gồm hồ sơ VAHS; hồ sơ vụ án dân sự, hồ sơ việc dân sự;
hồ sơ vụ án kinh doanh, thương mại; hồ sơ việc kinh doanh, thương mại; hồ sơ vụ án
lao động, hồ sơ việc lao động; hồ sơ vụ án hành chính.
Mỗi loại án, hồ sơ bao gồm những tài liệu khác nhau được sắp xếp theo một trật tự
nhất định theo quy định của pháp luật tố tụng. Người phạm tội làm sai lệch hồ sơ vụ án là
làm cho các tài liệu có trong hồ sơ vụ án không còn đúng với những giá trị thật của nó.
1.1.2.2. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
- Hành vi khách quan: LSLHSVAVV là thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, huỷ, làm
hư hỏng các tài liệu, vật chứng của vụ án, vụ việc hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm
làm sai lệch nội dung hồ sơ vụ án, vụ việc. Người LSLHSVAVV có thể thực hiện một
hoặc một số hành vi sau:
7
Thêm các tài liệu của vụ án, vụ việc là hành vi đưa thêm vào hồ sơ vụ án, vụ
việc những tài liệu, vật chứng không được thu thập theo quy định của pháp luật vào hồ
sơ vụ án, vụ việc.
Thêm các vật chứng của vụ án, vụ việc là hành vi đưa thêm vào hồ sơ vụ án, vụ
việc không được thu thập theo quy định của pháp luật vào hồ sơ vụ án, vụ việc.
Lấy bớt các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, vụ việc là hành vi làm cho hồ sơ vụ
án, vụ việc thiếu đi những tài liệu đã được cơ quan tiến hành tố tụng thu thập theo quy
định của pháp luật.
Lấy bớt vật chứng có trong hồ sơ vụ án, vụ việc là hành vi làm cho hồ sơ vụ án,
vụ việc thiếu đi vật chứng đã được cơ quan tiến hành tố tụng thu giữ, bảo quản theo
một trình tự do pháp luật quy định.
Sửa đổi các tài liệu, vật chứng có trong hồ sơ vụ án, vụ việc là hành vi làm cho
tài liệu đã được thu thập theo quy định của pháp luật không còn nguyên giá trị ban đầu
khi cơ quan tiến hành tố tụng thu thập.
Đánh tráo các tài liệu, vật chứng có trong hồ sơ vụ án, vụ việc là hành vi thay
vào hồ sơ vụ án, vụ việc các tài liệu, vật chứng khác làm cho tài liệu, vật chứng được
đưa vào hồ sơ không phản ảnh đúng sự thật khách quan mà cơ quan tiến hành tố tụng
thu thập ban đầu.
Huỷ hoại hoặc làm hư hỏng các tài liệu, vật chứng của vụ án, vụ việc làm cho
tài liệu vật chứng mất giá trị ban đầu.
Các thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch nội dung hồ sơ vụ án, vụ việc là ngoài các
thủ đoạn đã được liệt kê, mà người phạm tội còn có những thủ đoạn khác
LSLHSVAVV thì cũng là hành vi phạm tội này. Việc nhà làm luật quy định các thủ
đoạn khác cũng là nhằm mục đích không để lọt bất cứ hành vi làm sai lệch vụ án, vụ
việc nào mà không bị trừng trị.
- Hậu quả: Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.
1.1.2.3. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, và được quy định cụ thể ngay
trong điều luật là: ĐTV, KSV, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, người khác có
nhiệm vụ, quyền hạn trong HĐTP, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại, đương sự.
8
Trong số những người có thể là chủ thể của tội phạm này, có cả những người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, nhưng không phải tất cả những người
tham gia tố tụng đều có thể là chủ thể của tội phạm này, mà chỉ có người bào chữa,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự mới là chủ thể của tội
phạm này, vì những người này mới có điều kiện tiếp xúc hồ sơ vụ án, vụ việc.
Đối với những người tiến hành tố tụng, ngoài ĐTV, KSV, Thẩm phán, Hội
thẩm, Thư ký Toà án, thì còn có những người khác có nhiệm vụ, quyền hạn trong
HĐTP. Những người khác có nhiệm vụ, quyền hạn trong HĐTP được đề cập ở đây
phải là những người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, HĐTP, có điều kiện tiếp
xúc hồ sơ vụ án, vụ việc thì mới có thể LSLHSVAVV. Do đó họ chỉ có thể là Thủ
trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát;
Chánh án, Phó chánh án; chuyên viên pháp lý Toà án; nhân viên văn thư khi giao nhận
hồ sơ vụ án; cán bộ Viện kiểm sát.
1.2.2.4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội LSLHSVAVV thực hiện hành vi phạm tội của mình là do cố ý
(cố ý trực tiếp), tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi thêm, bớt, sửa đổi, đánh
tráo, huỷ, làm hư hỏng các tài liệu, vật chứng của vụ án, vụ việc hoặc bằng các thủ
đoạn khác nhằm làm sai lệch nội dung hồ sơ vụ án, vụ việc của mình là trái pháp luật,
thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Động cơ phạm tội
cũng không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này.
1.2. Nhận thức chung về hoạt động điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án,
vụ việc theo chức năng của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ
án, vụ việc theo chức năng của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1.2.1.1. Khái niệm hoạt động điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc
Điều tra VAHS là hoạt động được các cơ quan TTHS tiến hành một cách
thường xuyên gắn với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy vậy, như thế nào
là điều tra VAHS thì vẫn chưa có văn bản pháp lý nào quy định, kể cả Bộ luật TTHS.
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân năm 2005 thì: “Điều tra tố tụng
hình sự là hoạt động điều tra theo pháp luật tố tụng hình sự của CQĐT và cơ quan
khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động đa tra nhằm xác định sự thật của
9
vụ án, lập hồ sơ đề nghị xử lý, tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các
cơ quan tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa” [8, tr.455].
Theo GS.TS Đỗ Ngọc Quang, trong cuốn Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt
Nam, Học viện cảnh sát nhân dân, Hà Nội năm 2003 thì: “Điều tra VAHS là một giai
đoạn tố tụng hình sự, trong giai đoạn này cơ quan điều tra áp dụng mọi biện pháp do
Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người phạm tội” [17, tr.133].
Còn theo cuốn sách “Khoa học hình sự Việt Nam" (Tập 4) do GS, TS Nguyễn
Xuân Yêm làm Tổng Chủ biên đã khái niệm điều tra VAHS: “Điều tra VAHS là hoạt
động thu thập tài liệu, chứng cứ của những Cơ quan điều tra và những cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật định, tiến hành theo trình tự tố
tụng hình sự, nhằm chứng minh sự thật của vụ án theo yêu cầu của pháp luật” [19, tr.22].
Mặc dù cách thức diễn đạt có thể khác nhau, nhưng về cơ bản các quan điểm đều
xác định điều tra VAHS là hoạt động điều tra của CQĐT và những cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật định, được tiến hành theo trình tự
tố tụng hình sự, nhằm chứng minh sự thật của vụ án theo yêu cầu của pháp luật.
Điều tra VAHS là một dạng của hoạt động nhận thức. Đối tượng nhận thức của
hoạt động điều tra là VAHS đã xảy ra. Khác với các dạng hoạt động nhận thức khác,
chủ thể tiến hành hoạt động điều tra chỉ có thể là các CQĐT và những cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật định. Trong quá trình
điều tra VAHS, các cơ quan này chỉ được áp dụng những biện pháp điều tra theo quy
định của pháp luật, không trái với pháp luật. Kết quả tiến hành điều tra VAHS được
phản ánh trong các văn bản tố tụng và có giá trị pháp lý.
Điều tra vụ án LSLHSVAVV theo chức năng của CQĐT VKSND tối cao cũng
chính là hoạt động điều tra VAHS đối với một loại vụ án cụ thể, đó là vụ án
LSLHSVAVV. Tội LSLHSVAVV là một loại tội phạm xâm phạm HĐTP được quy
định tại Điều 375 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Căn cứ vào Điều 20
Luật tổ chức VKSND năm 2014, Khoản 3 Điều 163 BLTTHS năm 2015, Khoản 2
Điều 30 Luật tổ chức CQĐT hình sự năm 2015 xác định trường hợp người phạm tội
LSLHSVAVV là cán bộ, công chức thuộc CQĐT, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ
quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành HĐTP thì thẩm quyền điều tra thuộc
về CQĐT VKSND tối cao. Nói cách khác, chủ thể tiến hành hoạt động điều tra vụ án
10
LSLHSVAVV là CQĐT VKSND tối cao khi mà người phạm tội LSLHSVAVV là cán
bộ, công chức thuộc CQĐT, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án,
người có thẩm quyền tiến hành HĐTP.
Từ những phân tích trên có thể có thể khái niệm hoạt động điều tra vụ án
LSLHSVAVV theo chức năng của CQĐT VKSND tối cao như sau:
Hoạt động điều tra LSLHSVAVV theo chức năng của CQĐT VKSND tối cao là
hoạt động của CQĐT VKSND tối cao sử dụng các biện pháp điều tra tố tụng theo quy
định của pháp luật để phát hiện, thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh sự thật của vụ
án LSLHSVAVV mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc CQĐT, Tòa án, Viện
kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành HĐTP.
1.2.1.2. Đặc điểm của hoạt động điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ
việc theo chức năng của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Từ lý luận và thực tiễn điều tra vụ án LSLHSVAVV, tác giả luận văn xác định
hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV theo chức năng của CQĐT VKSND tối cao có
một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, đối tượng của hoạt động điều tra là tội phạm LSLHSVAVV, đây là một
loại tội phạm xâm phạm HĐTP mà chủ thể thực hiện hành vi phạm tội là chủ thể đặc
biệt, bao gồm: ĐTV, KSV, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, người khác có
nhiệm vụ, quyền hạn trong HĐTP, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại, đương sự. Họ hầu hết là những người có trình độ hiểu biết pháp luật
và nghiệp vụ điều tra, thậm chí có người còn là chuyên gia trong các lĩnh vực điều tra,
truy tố, xét xử; bên cạnh đó họ thường có quan hệ rộng rãi, có uy tín trong xã hội, một
số có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan tiến hành tố tụng… Do đó, có nhiều thủ
đoạn tinh vi để thực hiện hành vi phạm tội và che dấu tội phạm, cũng như các thủ đoạn
để đối phó với cơ quan chức năng trong quá trình bị điều tra, kể cả việc lợi dụng chức
vụ, quyền hạn, vị trí công tác và các mối quan hệ của bản thân để tìm, nhờ vả người có
“thế lực” giúp đỡ, can thiệp, gây khó khăn cho hoạt động điều tra. Đây là đặc điểm chi
phối rất lớn đến quá trình tổ chức và tiến hành hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV.
Hai là, phương pháp điều tra vụ án LSLHSVAVV tập trung chủ yếu vào hoạt
động thu thập, nghiên cứu, xem xét các văn bản, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, vụ việc
đã bị làm sai lệch. Các hồ sơ đó phản ánh các hoạt động điều tra, xử lý vụ án, vụ việc
11
mà trước đó các đối tượng phạm tội đã tiến hành điều tra, xử lý hoặc tiếp cận nhưng cố
tình làm sai lệch. Do đó, để có thể phân tích, xử lý các văn bản, tài liệu có trong hồ sơ
vụ án, vụ việc, xác lập được chứng cứ chứng minh hành vi làm sai lệch hồ sơ đòi hỏi
ĐTV phải thu thập, xem xét, phân tích kỹ lưỡng chính các tình tiết, nội dung…. của vụ
án, vụ việc đã bị làm sai lệch hồ sơ. Tuy vậy, các hồ sơ của vụ án, vụ việc bị sai lệch
lại được quản lý theo những quy định của pháp luật và của ngành tư pháp nên ít nhiều
cũng gây ra những khó khăn, phức tạp nhất định cho việc tiếp cận, thu thập và phân
tích, đánh giá trong quá trình điều tra.
Ba là, hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV thường khó khăn, phức tạp, kéo
dài. Trường hợp người phạm tội là người trong các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt
là những người có chức vụ thì quá trình điều tra vụ án thường phải báo cáo, xin ý kiến
của các cơ quan Đảng, cơ quan cấp trên… để đảm bảo tính thống nhất cao trong đường
lối xử lý, đồng thời, để kết luận các tình tiết trong vụ án, nhiều khi phải chờ đợi kết
quả giám định văn bản, tài liệu có trong hồ sơ từ các cơ quan chuyên môn.
Bốn là, chủ thể tiến hành điều tra vụ LSLHSVAVV là CQĐT VKSND tối cao.
Xuất phát từ tính chất, đặc điểm của tội phạm LSLHSVAVV nên đòi hỏi đội ngũ ĐTV
tiến hành các hoạt động điều tra loại án này phải có kinh nghiệm, tinh thông về nghiệp
vụ điều tra. Đồng thời phải có lập trường tư tưởng vững vàng, lương tâm, đạo đức
trong sáng, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong
quá trình điều tra vụ án LSLHSVAVV đòi hỏi ĐTV phải tính toán cân nhắc thận
trọng, bình tĩnh, không nôn nóng, phải tranh thủ sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự chỉ
đạo của lãnh đạo và sự ủng hộ của các cấp có thẩm quyền kết hợp với việc thu thập
đầy đủ tài liệu, chứng cứ pháp lý nhằm chứng minh sự thật của vụ án, phục vụ cho
việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
1.2.2. Những vấn đề cần chứng minh trong án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc
Tại Điều 85 của Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định những vấn đề phải chứng
minh trong VAHS với các nội dung rất cụ thể, bao gồm: (1) Có hành vi phạm tội xảy
ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; (2) Ai
là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng
lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; (3) Những tình tiết
giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân
12
của bị can, bị cáo; (4) Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; (5)
Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; (6) Những tình tiết khác liên quan đến việc loại
trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
Để xác định chính xác những vấn đề phải chứng minh vụ án LSLHSVAVV,
phải căn cứ vào quy định của BLHS về tội LSLHSVAVV và Bộ luật TTHS về những
vấn đề phải chứng minh trong VAHS. Dựa trên nội dung của các điều luật và thực tiễn
điều tra vụ án LSLHSVAVV có thể xác định, trong điều tra vụ án LSLHSVAVV, phải
chứng minh, làm rõ những vấn đề cơ bản sau:
Một là, chứng minh có hành vi phạm tội LSLHSVAVV xảy ra hay không? Để
làm sáng tỏ vấn đề này, CQĐT VKSND tối cao cần phải tập trung làm rõ thời gian, địa
điểm diễn ra hành vi phạm tội LSLHSVAVV? Hành vi phạm tội đó đã xảy ra trong
HĐTP của lĩnh vực tố tụng nào (tố tụng dân sự, hình sự hay các lĩnh vực khác)? Đã
diễn ra ở giai đoạn tố tụng nào (giai đoạn điều tra, truy tổ, xét xử hay thi hành án)?
Phương thức, thủ đoạn và diễn biến của hành vi phạm tội? Những công cụ, phương
tiện người phạm tội dùng để gây án? Những đồ vật, tài sản, giấy tờ, tài liệu được sử
dụng để phạm tội hoặc để che dấu hành vi phạm tội?
Hai là, chứng minh người thực hiện hành vi phạm tội LSLHSVAVV. Đây là
nội dung tất yếu và quan trọng trong quá trình điều tra vụ án LSLHSVAVV. Để chứng
minh chủ thể của loại tội phạm này cần phải tập trung làm rõ những nội dung như:
- Họ tên, lý lịch của người có hành vi LSLHSVAVV; chức vụ, quyền hạn,
nhiệm vụ cụ thể của họ liên quan đến vụ án, vụ việc bị làm sai lệch hồ sơ? Hành vi
LSLHSVAVV có gắn với chức vụ, quyền hạn và trách nhiệm của họ trong HĐTP theo
quy định của pháp luật hay không? Họ đã lợi dụng chức trách, nhiệm vụ của mình để
thực hiện hành vi phạm tội LSLHSVAVV như thế nào?
- Lỗi, động cơ, mục đích LSLHSVAVV của người phạm tội; thái độ của họ
trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội LSLHSVAVV?
- Đặc điểm nhân thân của người phạm tội? Trình độ học vấn, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ của người phạm tội? Quá trình hoạt động xã hội, họ có thành tích hoặc
bị kỷ luật gì không? Các mối quan hệ xã hội của người phạm tội liên quan đến quá
trình phạm tội của họ?
13
- Quá trình phạm tội đã diễn ra như thế nào? Có đồng phạm không? Vị trí, vai
trò của mỗi người đông phạm trong vụ án?
Ba là, phải chứng minh tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Đó là, các thiệt hại về thể chất, vật chất và tinh thần của những người, những cơ quan,
tổ chức có liên quan đến vụ án bị làm sai lệch hồ sơ; những thiệt hại về uy tín, vị thế
của các cơ quan tư pháp, sự suy giảm niềm tin của nhân dân vào cán bộ và cơ quan
bảo vệ pháp luật.
Bốn là, chứng minh làm rõ những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của
người phạm tội. Khi điều tra vụ án LSLHSVAVV, ĐTV cần chú ý đến các tình tiết
giảm nhẹ TNHS như: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải hoặc tích
cực giúp đỡ CQĐT phát hiện, điều tra tội phạm; có thành tích xuất sắc trong học tập,
công tác... Hoặc những tình tiết tăng nặng TNHS như: Phạm tội có tổ chức; phạm tội
gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng…
Năm là, tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội để yêu cầu các cơ quan hữu
quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa. Việc phạm tội LSLHSVAVV có thể xuất phát
từ việc các CQTP chưa thường xuyên tiến hành việc giáo dục ý thức pháp luật, tinh thần
trách nhiệm cho cán bộ của mình hoặc kỷ luật nghiệp vụ không nghiêm, công tác kiểm
tra nghiệp vụ, xử lý các hành vi xâm phạm HĐTP chưa kịp thời, thiếu triệt để…
Những vấn đề phải chứng minh có mối quan hệ hữu cơ với hệ thống chứng cứ
cần thu thập trong quá trình điều tra, từ những vấn đề phải chứng minh, có thể xác
định hệ thống chứng cứ cần thu thập. Ngược lại, từ hệ thống chứng cứ thu thập đối
chiếu với những vấn đề phải chứng minh có thể xác định được từng chứng cứ trong hệ
thống đó chứng mình được vấn đề nào, giá trị chứng minh đến đâu. Điều đó có nghĩa
là, trên cơ sở những vấn đề phải chứng minh trong điều tra vụ án LSLHSVAVV, ĐTV
xác định những tài liệu, chứng cứ nào cần phát hiện, thu thập để chứng minh từng vấn
đề đó và áp dụng các biện pháp, phương tiện phù hợp để thu thập.
1.2.3. Nội dung hoạt động điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc
1.2.3.1. Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
tiến hành khởi tố vụ án
Tiếp nhận và xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố về tội phạm
LSLHSVAVV là hoạt động được tiến hành nhằm ghi nhận, kiểm tra những tố giác, tin
14
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố về tội phạm LSLHSVAVV do công dân, cơ quan
Nhà nước, tổ chức xã hội chuyển đến hoặc được đăng tải trên các phương tiện thông
tin đại chúng.
Căn cứ vào điểm a Khoản 2 Điều 145 Bộ luật TTHS năm 2015, Điều 9 Quy chế
tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành
kèm theo Quyết định số 208/QĐ-VKSTC-C1 ngày 28/5/2019 của Viện trưởng
VKSND dân tối cao (trước đó là: Khoản 2 Điều 3 và Khoản 1 Điều 7 Quy chế tổ chức
và hoạt động của CQĐT VKSND tối cao ban hành kèm theo quyết định số 18/QĐ-
VKSTC-C1 ngày 20/11/2015 của Viện trưởng VKSND tối cao) thì Phòng Tiếp nhận,
thu thập và xử lý thông tin tội phạm (Phòng 1) có trách nhiệm tiếp nhận, thu thập,
quản lý, phân loại xử lý các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Đối với
tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đối với tội phạm
LSLHSVAVV được tiến hành theo các nội dung cụ thể sau:
- Nguồn tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Những nguồn tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố về tội phạm
LSLHSVAVV nói riêng đưa đến CQĐT VKSND tối cao bao gồm: Tố giác của cá
nhân (qua đơn thư, trực tiếp đến tố giác, qua điện thoại, các phương tiện thông tin
khác) về hành vi có dấu hiệu tội phạm LSLHSVAVV; Đơn tố cáo hoặc các hình thức
văn bản khác của cá nhân phản ánh về hành vi có dấu hiệu tội phạm LSLHSVAVV;
Văn bản kiến nghị khởi tố tội phạm LSLHSVAVV của cơ quan Nhà nước; Thông tin
có dấu hiệu tội phạm LSLHSVAVV trên phương tiện thông tin đại chúng, qua hòm
thư điện tử hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp; Thông tin có dấu hiệu tội phạm
LSLHSVAVV tiếp nhận qua điện thoại; Người phạm tội LSLHSVAVV ra tự thú;
Thông tin về tội phạm LSLHSVAVV do đơn vị kiểm sát và giải quyết đơn khiếu nại,
tố cáo trong HĐTP tiếp nhận, chuyển đến; thông tin về tội phạm LSLHSVAVV từ các
đoàn kiểm tra liên ngành Công an – Kiểm sát – Tòa án… hoặc do các đơn vị nghiệp vụ
của VKSND trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ đã phát hiện hành vi
LSLHSVAVV...
- Thủ tục tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm LSLHSVAVV đối với các trường
hợp cụ thể, cần lưu ý:
15
+ Trường hợp tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm LSLHSVAVV do cá nhân
trực tiếp cung cấp:
Trường hợp cá nhân hoặc đại diện cơ quan, tổ chức trực tiếp gửi văn bản tố
giác, tin báo về tội phạm LSLHSVAVV thì cán bộ tiếp nhận phải viết giấy biên nhận
và giao cho người gửi văn bản một bản.
Trường hợp cá nhân hoặc đại diện cơ quan, tổ chức trực tiếp tố giác, báo tin về
tội phạm LSLHSVAVV bằng việc trình bày trực tiếp thì cán bộ tiếp nhận phải lập biên
bản về việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người
tố giác, báo tin; nếu người tố giác, báo tin về tội phạm đồng ý thì cán bộ tiếp nhận
hướng dẫn họ viết đơn tố giác, báo tin; nếu là tin quan trọng hoặc thấy cần thiết thì có
thể ghi âm, ghi hình.
Trường hợp người phạm tội đến tự thú thì cán bộ tiếp nhận phải lập biên bản
tiếp nhận người phạm tội ra tự thú và báo cáo lãnh đạo để xử lý theo quy định của
pháp luật.
+ Trường hợp tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố về tội
phạm LSLHSVAVV qua đường bưu điện: Cán bộ tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố qua đơn thư, công văn kiến nghị trong thời hạn 24 giờ phải
tiếp nhận và vào sổ theo và nhập vào hệ thống cơ sở dữ liệu (nếu có) để quản lý, theo
dõi; đóng dấu “Đến" và ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm tiếp nhận. Cán bộ tiếp nhận hoặc
người có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố có
trách nhiệm bảo quản, không để hư hỏng, thất lạc, không làm thay đổi hình thức và nội
dung đơn thư, công văn kiến nghị hoặc văn bản ghi thông tin tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố đối với tội phạm LSLHSVAVV.
+ Trường hợp tiếp nhận thông tin liên quan đến tội phạm LSLHSVAVV qua
phương tiện thông tin đại chúng, qua hòm thư điện tử: Đối với tin báo về tội phạm
phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng, cán bộ theo dõi, tiếp nhận sao chụp
hoặc in bài báo ra giấy; nếu là thông tin về tội phạm phản ánh qua báo nói, báo hình
thì có thể ghi âm, ghi hình hoặc trình bày bằng văn bản những thông tin đó báo cao
lãnh đạo đơn vị.
+ Trường hợp tiếp nhận thông tin liên quan đến tội phạm LSLHSVAVV qua
điện thoại, cán bộ tiếp nhận phải ghi chép các thông tin sau: Thời gian tiếp nhận thông
16
tin, họ tên, địa chỉ, số điện thoại của người tố giác, báo tin; Thời gian, địa điểm xảy ra
vụ việc LSLHSVAVV; Tóm tắt nội dung, diễn biến vụ việc; Các thông tin khác liên
quan như: Họ tên, địa chỉ người thực hiện hành vi LSLHSVAVV, người biết việc,
phương tiện phạm tội, hậu quả thiệt hại, nguyên nhân, biện pháp đã giải quyết (nếu
có)... Trường hợp người tố giác, báo tin từ chối cung cấp thông tin cá nhân thì vẫn phải
tiếp nhận thông tin tội phạm và ghi rõ lý do.
Cán bộ tiếp nhận thông tin liên quan đến tội phạm LSLHSVAVV qua điện
thoại phải có thái độ lịch sự, khiêm tốn, khẩn trương, nghiêm túc, kịp thời phân loại sơ
bộ, đánh giá tính chất sự việc để báo cáo, đề xuất lãnh đạo xử lý.
+ Đối với các thông tin về tội phạm do các đơn vị nghiệp vụ của VKSND cung
cấp hoặc do cơ quan chức năng, các đoàn kiểm tra liên ngành cung cấp thì CQĐT phải
nghe báo cáo nội dung, kết quả ban đầu về vụ án để xác định cơ quan nào đã xảy ra vụ
việc? Ai là người gây ra vụ việc, chức vụ, trách nhiệm cụ thê của họ? Mức độ nguy
hiểm của vụ việc đã xây ra như thế nào? Những vấn đề gì đã rõ hoặc cần phải xác
minh tiếp?
- Giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm LSLHSVAVV và kiến nghị khởi tố
phải được tiến hành đúng theo quy định của Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-
BCA-BQP-BTC-BNN&PTNN-VKSNDTC ngày 29/12/2017quy định việc phối hợp
giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật
TTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố. Cụ thể như sau:
CQĐT VKSND tối cao sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố về tội phạm LSLHSVAVV phải tiến hành phân loại trong thời hạn không quá
24 giờ kể từ khi tiếp nhận. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố về tội phạm LSLHSVAVV, Thủ trưởng CQĐT
VKSND tối cao trực tiếp tổ chức, chỉ đạo, phân công ĐTV, cán bộ điều tra thuộc
quyền thụ lý, giải quyết hoặc ra Quyết định phân công Phó Thủ trưởng CQĐT tổ chức,
chỉ đạo thụ lý, giải quyết và thông báo bằng văn bản cho Vụ Thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra án xâm phạm HĐTP, tham nhũng, chức vụ xảy ra trong HĐTP
VKSND tối cao (sau đây gọi tắt là Vụ 6). Đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
17
nghị khởi tố sau khi tiếp nhận đã rõ về dấu hiệu tội phạm LSLHSVAVV thì CQĐT
VKSND tối cao ra quyết định khởi tố VAHS theo quy định của Bộ luật TTHS, không
phải ra quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị
khởi tố.
Khi được phân công giải quyết tố giác, tin báo hoặc kiến nghị khởi tố về tội
phạm LSLHSVAVV, ĐTV (thụ lý chính) có trách nhiệm xây dựng kế hoạch giải
quyết, báo cáo đề xuất lãnh đạo để trình Thủ trưởng, hoặc Phó thủ trưởng CQĐT được
Thủ trưởng phân công phê duyệt. Sau khi tiến hành các biện pháp xác minh theo kế
hoạch, ĐTV thụ lý chính phải có báo cáo kết thúc xác minh bằng văn bản với lãnh đạo
trực tiếp để có ý kiến và trình Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra. Báo
cáo kết thúc xác minh nêu rõ kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và đề xuất xử lý cụ thể về việc khởi tố hay không khởi tố VAHS.
- Ra quyết định khởi tố VAHS hoặc quyết định không khởi tố vụ án
LSLHSVAVV
Sau khi kết thúc việc kiểm tra, xác minh đối với tố giác, tin báo hoặc kiến nghị
khởi tố về tội phạm LSLHSVAVV, ĐTV (thụ lý chính) có trách nhiệm:
+ Trường hợp xác định có dấu hiệu của tội phạm LSLHSVAVV thì báo cáo đề
xuất bằng văn bản kèm theo bản dự thảo quyết định khởi tố VAHS báo cáo lãnh đạo
trực tiếp để trình Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng CQĐT ra quyết định khởi tố VAHS.
+ Trường hợp xác định không có dấu hiệu của tội phạm LSLHSVAVV thì báo
cáo, đề xuất bằng văn bản kèm theo bản dự thảo quyết định không khởi tố VAHS báo
cáo lãnh đạo trực tiếp để trình Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng CQĐT ra quyết định
không khởi tố VAHS.
1.2.3.2. Khởi tố bị can phạm tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc
Khởi tố bị can là hình thức pháp lý trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định
một người đã thực hiện hành vi phạm tội. Hoạt động khởi tố bị can phạm tội
LSLHSVAVV phải tuân thủ quy định của Bộ luật TTHS về trình tự, thủ tục, thẩm
quyền khởi tố của bi ̣can. Cụ thể là:
- Thẩm quyền khởi tố đối với bị can là cán bộ, công chức thuộc CQĐT, TAND,
VKSND, CQTHA, người có thẩm quyền tiến hành HĐTP phạm tội LSLHSVAVV
thuộc về CQĐT VKSND tối cao.
18
- Đối tượng của khởi tố bị can phạm tội là cán bộ, công chức thuộc CQĐT,
TAND, VKSND, CQTHA, người có thẩm quyền tiến hành HĐTP phạm tội
LSLHSVAVV là con người cụ thể, đã thực hiện các hành vi LSLHSVAVV và đủ yếu
tố cấu thành tội phạm LSLHSVAVV quy định tại Điều 375 BLHS năm 2015.
- Về trình tự, thủ tục khởi tố:
+ Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can phạm tội
LSLHSVAVV, CQĐT VKSND tối cao phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên
quan đến việc khởi tố bị can cho Vụ 6 để xét phê chuẩn. Trong thời hạn 03 ngày kể từ
ngày nhận được quyết định khởi tố bị can, Vụ 6 phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết
định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can hoặc yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu làm căn
cứ để quyết định việc phê chuẩn và gửi ngay cho CQĐT VKSND tối cao.
Trường hợp Vụ 6 yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu thì trong thời hạn 03 ngày
kể từ ngày nhận được chứng cứ, tài liệu bổ sung, Vụ 6 phải ra quyết định phê chuẩn
hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can.
+ Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, CQĐT
VKSND tối cao phải giao ngay quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết
định khởi tố bị can và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can. Việc giao, nhận các quyết
định nêu trên được lập biên bản theo quy định của Bộ luật TTHS.
1.2.3.3. Áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự
được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố để kịp thời ngăn chặn
tội phạm, không để họ tiếp tục phạm tội, cũng như không cho họ có những hành vi cản
trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án hình sự.
Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong điều tra tội phạm LSLHSVAVV
dựa trên cơ sở của Điều 109 Bộ luật TTHS năm 2015: “Để kịp thời ngăn chặn tội
phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra,
truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án”. Căn cứ theo
quy định của Bộ luật TTHS năm 2015, từ Điều 110 đến Điều 117 quy định việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn xác định có 8 biện pháp: (1) Giữ người trong trường
hợp khẩn cấp; (2) Bắt; (3) Tạm giữ; (4) Tạm giạm; (5) Bảo lĩnh; (6) Đặt tiền để bảo
đảm; (7) Cấm đi khỏi nơi cư trú; (8) Tạm hoãn xuất cảnh.
19
Tuy nhiên, trong điều tra vụ án LSLHSVAVV theo chức năng của CQĐT
VKSNDTC, hành vi phạm tội do cán bộ, công chức thuộc CQĐT, TAND, VKSND,
CQTHA, người có thẩm quyền tiến hành HĐTP thực hiện nên thường áp dụng các
biện pháp ngăn chặn: Bắt người (Điều 111, 112, 113 BLTTHS năm 2015), Tạm giam
(Điều 119 BLTTHS năm 2015), Cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều 123 BLTTHS năm
2015), Tạm hoãn xuất cảnh (Điều 124 BLTTHS năm 2015).
Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV, đối tượng
phạm tội là những người có chức vụ, quyền hạn, am hiểu pháp luật và có quan hệ rộng,
đa phần người phạm tội là đảng viên. Do đó trong quá trình áp dụng các biện pháp
ngăn chặn, CQĐT VKSND tối cao và ĐTV phải tính toán, cân nhắc thận trọng, chấp
hành nghiêm chỉnh pháp luật.
1.2.3.4. Tiến hành các biện pháp điều tra
Trong điều tra vụ án LSLHSVAVV, CQĐT VKSND tối cao thường áp dụng
những biện pháp cụ thể sau:
- Lấy lời khai người làm chứng: Lấy lời khai người làm chứng là biện pháp điều
tra hình sự do người có thẩm quyền tiến hành nhằm thu thập những thông tin cần thiết
phục vụ công tác điều tra, xử lý vụ án từ người làm chứng.
Người làm chứng trong vụ LSLHSVAVV có thể là người cùng làm việc với bị
can, những người trực tiếp biết được hành vi LSLHSVAVV; những người chứng kiến
trực tiếp đối tượng thực hiện hành vi LSLHSVAVV, người là đại diện cơ quan chủ
quản của người phạm tội và những người có quan hệ khác trong công tác điều tra, xử
lý đối với vụ án bị LSLHSVAVV...
Hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong điều tra vụ án LSLHSVAVV do
ĐTV, cán bộ điều tra của CQĐT VKSNDTC tiến hành và phải tuân thủ các quy định
của Bộ luật TTHS về lấy lời khai người làm chứng được quy định tại Điều 186, 187.
Cụ thể là:
+ Việc lấy lời khai người làm chứng được tiến hành tại nơi tiến hành điều tra,
nơi cư trú, nơi làm việc hoặc nơi học tập của người đó.
+ Nếu vụ án có nhiều người làm chứng thì phải lấy lời khai riêng từng người và
không để cho họ tiếp xúc, trao đổi với nhau trong thời gian lấy lời khai.
20
+ Trước khi lấy lời khai, ĐTV, cán bộ điều tra phải giải thích cho người làm
chứng biết quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định tại Điều 66 của Bộ luật TTHS năm
2015. Việc này phải ghi vào biên bản.
+ Trước khi hỏi về nội dung vụ án, ĐTV phải hỏi về mối quan hệ giữa người
làm chứng với bị can và những tình tiết khác về nhân thân của người làm chứng. ĐTV
yêu cầu người làm chứng trình bày hoặc tự viết một cách trung thực và tự nguyện
những gì họ biết về vụ án, sau đó mới đặt câu hỏi. Khi lấy lời khai của người làm
chứng là người đại diện cơ quan nơi có cán bộ tư pháp phạm tội LSLHSVAVV thì cần
làm rõ: Nhiệm vụ, quyển hạn cụ thể của bị can, quá trình phạm tội, đặc điểm nhân thân
của bị can, điều kiện hoàn cánh có liên đến tội tội phạm, diễn biển vụ phạm tội, hậu
quá đã xảy ra, trách nhiệm của người phạm tội, quan điểm, đề xuất hướng giải quyết
vụ án của cơ quan chủ quản.
+ Biên bản ghi lời khai của người làm chứng được lập theo quy định tại Điều
178 của Bộ luật TTHS năm 2015. Việc lấy lời khai của người làm chứng có thể ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh.
Trong quá trình lấy lời khai, ĐTV cần đặc biệt chú ý phân tích, thuyết phục
người làm chứng cộng tác với CQĐT làm sáng tỏ sự thật của vụ án. Trên cơ sở đó,
ĐTV yêu cầu họ trình bày tất cả những sự việc họ hiểu biết có liên quan đến vụ án
LSLHSVAVV đang điều tra, sau đó mới hỏi tỉ mỉ vào từng vấn đề cụ thể. Nếu người
làm chứng cố ý khai báo sai sự thật thì tìm hiểu nguyên nhân, kiên trì thuyết phục,
không nên gây không khí căng thẳng. ĐTV có thể nêu ra một số vấn đề để họ hiểu
rằng CQĐT đã có những tài liệu chứng cứ để có thể xác định tính chính xác trong lời
khai của họ.
- Hỏi cung bị can: Hỏi cung bị can là biện pháp điều tra được quy định tại Điều
183, 184 Bộ luật TTHS năm 2015. Đây là biện pháp điều tra được tiến hành ngay sau
khi có quyết định khởi tố bị can và có thể được tiến hành nhiều lần xuyên suốt giai
đoạn điều tra. Hơn ai hết, chính bị can là người biết rõ nhất, đầy đủ nhất về hành vi
phạm tội và tính chất mức độ hành vi phạm tội của mình, do đó, việc tiến hành có hiệu
quả biện pháp điều tra hỏi cung bị can là cơ sở để kết thúc nhanh chóng hoạt động điều
tra vụ án LSLHSVAVV.
21
Hỏi cung bị can phải tuân thủ theo quy định của Bộ luật TTHS về trình tự, thủ
tục. Theo đó:
+ Trước khi hỏi cung bị can, ĐTV phải thông báo cho Vụ 6 và người bào chữa
thời gian, địa điểm hỏi cung. Khi xét thấy cần thiết, KSV của Vụ 6 tham gia việc hỏi
cung bị can.
+ Trước khi tiến hành hỏi cung lần đầu, ĐTV phải giải thích cho bị can biết rõ
quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật TTHS. Việc này phải ghi vào biên bản.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can thì hỏi riêng từng người và không để họ tiếp xúc với
nhau. Có thể cho bị can viết bản tự khai của mình.
+ Không hỏi cung bị can vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn được
nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
+ Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở CQĐT phải được ghi
âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng.
+ Mỗi lần hỏi cung bị can đều phải lập biên bản theo quy định của Bộ luật
TTHS. Biên bản hỏi cung bị can phải ghi đầy đủ lời trình bày của bị can, các câu hỏi
và câu trả lời. Sau khi hỏi cung, ĐTV, Cán bộ điều tra phải đọc biên bản cho bị can
nghe hoặc để bị can tự đọc. Trường hợp bổ sung, sửa chữa biên bản thì ĐTV, Cán bộ
điều tra và bị can cùng ký xác nhận. Nếu biên bản có nhiều trang thì bị can ký vào
từng trang biên bản. Trường hợp bị can viết bản tự khai thì ĐTV, Cán bộ điều tra và bị
can cùng ký xác nhận vào bản tự khai đó.
Trong quá trình tiến hành hỏi cung, ĐTV cần lưu ý: Bị can trong vụ án
LSLHSVAVV thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND tối cao là những người
có trình độ nghiệp vụ, chuyên môn pháp lý, thậm chí có người còn là chuyên gia trong
các lĩnh vực điều tra, truy xét xử nên họ thường tìm mọi cách đối phó để né tránh
TNHS. Mặt khác, trong rất nhiều vụ án, bị can phạm tội do định kiến chủ quan, hoặc
mắc bệnh “thành tích” nên không nhận thức được hành vi của mình là phạm tội và còn
tin tưởng rằng lãnh đạo cơ quan sẽ để nghị xử lý nội bộ, bảo vệ họ. Vì thế việc hỏi
cung bị can thường gặp khó khăn và trải qua nhiều bước. Do đó, trước khi hỏi cung,
ĐTV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án cũng như hồ sơ tư pháp của vụ việc làm phát
22
sinh tội phạm LSLHHSVAVV để sử dụng những chứng cứ, tài liệu đó vào việc đấu
tranh làm rõ hành vi phạm tội của bị can, kết hợp với việc nghiên cứu kỹ những thông
tin, tài liệu về đặc điểm nhân thân, quá trình công tác, quá trình phạm tội của bị can để
tùy theo trình độ của từng đối tượng, cấp bậc, chức vụ của họ, các tài liệu, chứng cứ đã
thu thập được phản ánh về họ mà có chiến thuật hỏi cung hợp lý.
Trong hỏi cung, ĐTV cần tập trung làm rõ những vấn đề như: Chức trách,
nhiệm vụ của bị can; thời gian, địa điểm, thủ đoạn, diễn biên, hậu quả của hành vi
LSLHSVAVV; động cơ, mục đích phạm tội của bị can hoặc của các bị can; vị trí, vai
trò, nhiệm vụ, mức độ tham gia của từng bị can trong vụ án; quan hệ của bị can với các
bị can khác hoặc với đối tượng nghi vẫn khác... Nên yêu cầu bị can khai báo toàn bộ
hành vi LSLHSVAVV, chú ý không cắt ngang hoặc nêu câu hỏi, tỏ ra ĐTV chưa nắm
bắt được nội dung, diễn biến… của hành vi phạm tội của bị can và đồng bọn.Hỏi sâu
vào từng hành vi LSLHSVAVV để bị can khai báo cụ thể, tỉ mỉ và trình bày rõ các vấn
đề chi tiết khác.
Tùy thuộc vào thái độ khai báo và đánh giá thái độ khai báo thành khẩn hay
không, nhận tội hay khai báo gian dối, chối tội… để có biện pháp, chiến thuật lấy lời
khai và sử dụng chứng cứ phù hợp trong quá trình hỏi cung để hoạt động này đạt hiệu
quả cao nhất.
- Khám xét: Khám xét là biện pháp điều tra được quy định từ Điều 192 đến 195
của Bộ luật TTHS năm 2015. Đây là biện pháp điều tra được thực hiện bằng cách lục
soát, tìm kiếm ở người, chỗ ở, địa điểm, đồ vật, thư tín, bưu kiện, bưu phẩm nhằm thu
thập công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết của tội phạm, vật là đối tượng
của tội phạm hoặc những vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án đang giải quyết hoặc
xác chết hay người bi ̣ truy nã.
Trong điều tra vụ án LSLHSVAVV, hoạt động khám xét chủ yếu được tiến
hành tại chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, phương tiện và mục đích của khám xét chủ yếu
nhằm phát hiện, thu giữ công cụ, phương tiện được sử dụng để phục vụ cho việc
LSLHSVAVV, các tài liệu, chứng cứ; các tài liệu, vật chứng mà người phạm tội đã
loại bỏ khỏi hồ sơ vụ án, vụ việc…
Quá trình tiến hành khám xét chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, phương tiện phải
tuân thủ theo các quy định tại Điều 195 Bộ luật TTHS năm 2015. Cụ thể:
23
+ Khi khám xét chỗ ở thì phải có mặt người đó hoặc người từ đủ 18 tuổi trở lên
cùng chỗ ở, có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người chứng kiến; trường
hợp người đó, người từ đủ 18 tuổi trở lên cùng chỗ ở cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc vì
lý do khác họ không có mặt mà việc khám xét không thể trì hoãn thì việc khám xét vẫn
được tiến hành nhưng phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi khám xét
và hai người chứng kiến. Không được bắt đầu việc khám xét chỗ ở vào ban đêm, trừ
trường hợp khẩn cấp nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
+ Khi khám xét nơi làm việc của một người thì phải có mặt người đó, trừ
trường hợp không thể trì hoãn nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. Việc khám xét
nơi làm việc phải có đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến.
Trong trường hợp không có đại diện cơ quan, tổ chức thì việc khám xét vẫn được tiến
hành nhưng phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi khám xét và 02
người chứng kiến.
+ Khi khám xét địa điểm phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi
khám xét và người chứng kiến.
+ Việc khám xét phương tiện phải có mặt chủ sở hữu hoặc người quản lý
phương tiện và người chứng kiến. Trường hợp chủ sở hữu hoặc người quản lý phương
tiện vắng mặt, bỏ trốn hoặc vì lý do khác họ không có mặt mà việc khám xét không thể
trì hoãn thì việc khám xét vẫn được tiến hành nhưng phải có hai người chứng kiến.
+ Khi tiến hành khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện, những
người có mặt không được tự ý rời khỏi nơi đang bị khám, không được liên hệ, trao đổi
với nhau hoặc với những người khác cho đến khi khám xét xong.
- Đối chất: Đối chất là hoạt động điều tra được quy định tại Điều 189 Bộ luật
TTHS năm 2015, áp dụng trong trường hợp phải giải quyết mâu thuẫn trong lời khai
của giữa những người tham gia tố tụng khi lời khai của họ có mâu thuẫn cần phải xác
định lời khai nào là đúng với thực tế khách quan.
Trong điều tra vụ án LSLHSVAVV, biện pháp đối chất được lựa chọn tiến
hành khi mà không có biện pháp nào khác để làm sáng rõ mâu thuẫn trong lời khai của
những người tham gia tố tụng. Hoạt động đối chất trong điều tra vụ án LSLHSVAVV
có thể tiến hành giữa các bị can, giữa bị can với người làm chứng và những người
khác có liên quan đến vụ án nhằm làm rõ một số vấn đề như: Sự mẫu thuẫn giữa các
24
lời khai của bị can với những đối tượng khác, với người làm chứng; thủ đoạn
LSLHSVAVV; vị trí, vai trò của từng đối tượng trong tổ chức tội phạm…
Quá trình đối chất phải tuân thủ các quy định của Bộ luật TTHS. Theo đó:
+ Trước khi tiến hành đối chất, ĐTV phải thông báo cho Vụ 6 để cử KSV kiểm
sát việc đối chất. KSV phải có mặt để kiểm sát việc đối chất. Nếu KSV vắng mặt thì
ghi rõ vào biên bản đối chất.
+ Nếu có người làm chứng tham gia thì trước khi đối chất ĐTV phải giải thích
cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian
dối. Việc này phải ghi vào biên bản.
+ Khi bắt đầu đối chất, ĐTV hỏi về mối quan hệ giữa những người tham gia đối
chất, sau đó hỏi họ về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Sau khi nghe đối chất, ĐTV có
thể hỏi thêm từng người.
+ Trong quá trình đối chất, ĐTV có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên
quan; có thể để cho những người tham gia đối chất hỏi lẫn nhau; câu hỏi và trả lời của
những người này phải ghi vào biên bản. Chỉ sau khi những người tham gia đối chất đã
khai xong mới được nhắc lại những lời khai trước đó của họ.
+ Việc tiến hành đối chất phải lập biên bản theo quy định của Bộ luật TTHS và
có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
Trong quá trình đối chất, ĐTV phải tạo điều kiện thuận lợi cho những người
tham gia đối chất đưa ra những lập luận, lý lẽ về những vấn đề còn mâu thuẫn trong lời
khai để giải quyết nhằm làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án.
- Trưng cầu giám định: Trưng cầu giám định là hoạt động điều tra được quy
định tại Điều 205 Bộ luật TTHS năm 2015. Đây là một hoạt động tố tụng mà nội dung
của nó là các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ra quyết định trưng
cầu những người giám định có kiến thức chuyên ngành của các lĩnh vực khoa học kỹ
thuật, văn hoá, thủ công theo quy định của pháp luật để nghiên cứu kết luận những vấn
đề cần làm rõ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án.
Trong điều tra vụ án LSLHSVAVV, mặc dù việc trưng cầu giám định không
rơi vào các trường hợp bắt buộc được quy định tại Điều 206 Bộ luật TTHS năm 2015,
tuy nhiên, xuất phát từ sự cần thiết phục vụ cho hoạt động điều tra mà hoạt động trưng
cầu giám định thường xuyên được CQĐT tiến hành và hoạt động này cũng đóng vai
25
trò quan trọng trong việc làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án LSLHSVAVV. Bởi để
làm rõ, xác định các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, vụ việc có bị thêm bớt, tẩy
xóa, viết thêm, chèn thêm, sửa chữa, đánh tráo, hủy hoại… hay không rất cần thiết có
sự nghiên cứu, phân tích, đánh giá và kết luận của người có chuyên môn ở cơ quan
giám định.
Chủ thể thực hiện trưng cầu giám định trong CQĐT VKSND tối cao là thủ
trưởng CQĐT hoặc phó thủ trưởng CQĐT khi được thủ trưởng CQĐT ủy nhiệm hoặc
phân công chỉ đạo điều tra vụ án. Quyết định trưng cầu giám định phải có các nội
dung: Tên cơ quan trưng cầu giám định; họ tên người có thẩm quyền trưng cầu giám
định; Tên tổ chức; họ tên người được trưng cầu giám định; Tên và đặc điểm của đối
tượng cần giám định; Tên tài liệu có liên quan hoặc mẫu so sánh gửi kèm theo (nếu
có); Nội dung yêu cầu giám định; Ngày, tháng, năm trưng cầu giám định và thời hạn
trả kết luận giám định. Trong đó nội dung yêu cầu giám định thường được trình bày
dưới hình thức câu hỏi giỏi định và phải đảm bảo tính khách quan, chính xác, khoa
học, logic và ngắn gọn.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định trưng cầu giám định, CQĐT
VKSND tối cao phải giao hoặc gửi quyết định trưng cầu giám định, hồ sơ, đối tượng
trưng cầu giám định cho tổ chức, cá nhân thực hiện giám định; gửi quyết định trưng
cầu giám định cho Vụ 6.
- Thực nghiệm điều tra: Thực nghiệm điều tra là một biện pháp điều tra được
quy định tại Điều 204 Bộ luật TTHS, do những người theo luật định tiến hành bằng
cách tiến hành các hoạt động thực nghiệm, các thí nghiệm nhằm mục đích kiểm tra
những tài liệu chứng cứ đã thu thập được, thu thập những tài liệu chứng cứ mới, kiểm
tra đánh giá những giả thuyết điều tra về khả năng diễn ra sự việc, hiện tượng hay thực
hiện mọt hành vi nào đó có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra và phòng ngừa tội phạm.
Trong điều tra vụ án LSLHSVAVV, thực nghiệm điều tra chủ yếu nhắm làm rõ
khả năng thực hiện hành vi LSLHSVAVV như: Tẩy xóa, thêm, sửa chữa nội dung tài
liệu có trong hồ sơ vụ án, vụ việc…, kiểm tra diễn biến của hành vi LSLHSVAVV và
quá trình hình thành dấu vết trên các tài liệu LSLHSVAVV.
26
Trước khi tiến hành thực nghiệm điều tra, ĐTV phải thông báo cho Vụ 6 biết về
thời gian và địa điểm tiến hành thực nghiệm điều tra. KSV của Vụ 6 phải có mặt để
kiểm sát việc thực nghiệm điều tra. Nếu KSV vắng mặt thì phải ghi rõ vào biên bản.
Quá trình tiến hành thực nghiệm điều tra do ĐTV chủ trì tiến hành và việc thực
nghiệm điều tra phải có người chứng kiến. CQĐT có thể mời người có chuyên môn
tham gia. Trường hợp cần thiết, người bị tạm giữ, bị can, người bào chữa, bị hại, người
làm chứng có thể tham gia.
1.2.3.4. Kết thúc điều tra
Ở giai đoạn này, CQĐT VKSND tối cao tiến hành các biện pháp kiểm tra, củng
cố, đánh giá lại toàn bộ tài liệu, chứng cứ đã thu thập được để hoàn chỉnh hồ sơ đề
nghị truy tố bị can hoặc quyết định đình chi điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS.
- Trường hợp đề nghị truy tố: Khi đã có đầy đủ chứng cứ để xác định tội phạm
LSLHSVAVV và chứng minh được bị can là người thực hiện hành vi phạm tội thì
CQĐT ra kết luận điều tra, đề nghị truy tố bị can. Sau khi hoàn thành bản kết luận điều
tra, ĐTV cần kiểm tra, sắp xếp hồ sơ vụ án theo trình tự thống nhất, khoa học và tiến
hành chuyển hồ sơ vụ án cùng với bản kết luận điều tra sang Vụ 6 để giải quyết theo
thẩm quyền.
- Trường hợp đình chỉ điều tra: Trong quá trình điều tra, khi thấy vụ án có một
trong những căn cứ quy định tại Điều 230 của Bộ luật TTHS năm 2015 hoặc tại Điều
16, Điều 29 BLHS năm 2015 hoặc đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được
bị can đã thực hiện tội phạm thì CQĐT VKSND tối cao ra quyết định đình chỉ điều tra.
Khi quyết định đình chỉ điều tra, CQĐT VKSND tối cao phải chuyển hồ sơ vụ án và
quyết định đình chỉ điều tra sang Vụ 6 để tiến hành kiểm sát việc đình chỉ điều tra theo
thẩm quyền.
1.2.4. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và quan hệ phối hợp trong hoạt động điều
tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việctheo chức năng của Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1.2.4.1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong hoạt động điều tra vụ án làm sai lệch
hồ sơ vụ án, vụ việc
Hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV theo chức năng của CQĐT VKSND tối
cao là một dạng hoạt động thực tiễn rất phức tạp. Đặc biệt, đối tượng bị điều tra trong
27
vụ án hầu hết là những người có trình độ nghiệp vụ, chuyên môn pháp lý, thậm chí có
người còn là chuyên gia trong các lĩnh vực điều tra, truy tố, xét xử nên họ thường tìm
mọi cách đối phó để né tránh TNHS. Bên cạnh đó, đối tượng có thể lợi dụng những
ảnh hưởng của mình để cản trở hoạt động điều tra. Ngoài ra, trong điều tra cũng cần có
sự cân nhắc giữa xử lý tội phạm và giữ uy tín cho các cơ quan tư pháp. Do đó, công
tác lãnh đạo và chỉ đạo hoạt động điều tra là một tất yếu không thể thiếu được để đảm
bảo cho hoạt động điều tra đi đúng hướng và đạt kết quả tốt. Nội dung của công tác
lãnh đạo, chỉ đạo bao gồm:
- Lãnh đạo về chính trị, tư tưởng và tổ chức: Lãnh đạo VKSND tối cao, Thủ
trưởng, phó Thủ trưởng CQĐT VKSND tối cao cần phải làm tốt công tác chính trị, tư
tưởng, nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với đội ngũ ĐTV để lực lượng này luôn
vững vàng trong mọi tình huống; không bị cám dỗ, mua chuộc, không bị tác động từ
những người khác trong quá trình điều tra. ĐTV được phân công thụ lý vụ án phải là
những người có trình độ, năng lực thực tiễn trong việc thụ lý, giải quyết vụ án nhằm
phát huy tối đa khả năng, sở trường, kinh nghiệm của ĐTV.
- Chỉ đạo về nghiệp vụ điều tra vụ án: Lãnh đạo VKSND tối cao, Thủ trưởng,
phó Thủ trưởng CQĐT VKSND tối cao cần chỉ đạo về: Tổ chức lực lượng điều tra,
chiến thuật điều tra, quan hệ phối hợp giữa các lực lượng, kết thúc điều tra đề nghị truy
tố... Trong đó cần chú ý một số vấn đề:
+ Xét duyệt, kiểm tra việc triển khai thực hiện kế hoạch điều tra vụ án và kế
hoạch tiến hành các biện pháp điều tra cụ thể.
+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT cần tham gia các cuộc họp án, cho ý kiến
giải quyết, tháo gỡ những vấn đề vướng mắc, này sinh trong quá trình tiến hành điều
tra vụ án. Đặc biệt chú ý trong điều tra các vụ án LSLHSVAVV, công tác chỉ đạo điều
tra phải tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các cấp ủy Đảng và cần phải đảm bảo
cho hoạt động điều tra vụ án chấp hành đúng các yêu cầu chính trị, pháp luật, nghiệp
vụ, vừa xử lý người phạm tội đảm bảo sự nghiêm minh theo đúng quy định của pháp
luật vừa đảm bảo giữ uy tín của các cơ quan tư pháp.
1.2.4.2. Quan hệ phối hợp trong trong hoạt động điều tra vụ án làm sai lệch hồ
sơ vụ án, vụ việc
- Quan hệ phối hợp giữa CQĐT VKSND tối cao với các đơn vị trong toàn
ngành Kiểm sát.
28
+ Quan hệ với Vụ 6: Theo quy định của pháp luật CQĐT VKSND tối cao là
CQĐT chuyên trách nhưng lại là đơn vị trực thuộc VKSND tối cao. Do đó, mối quan
hệ trong hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV được thể hiện ở hai phương diện:
Ở phương diện thứ nhất, đó là mối quan hệ phối hợp – chế ước giữa một bên là
CQĐT và một bên là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Trong mối
quan hệ này, CQĐT VKSND tối cao khi tiến hành hoạt động điều tra phải chịu sự
kiểm tra, giảm sát của Vụ 6.
Ở phương diện thứ hai, đó là quan hệ phối hợp công tác giữa hai đơn vị nghiệp
vụ trong cùng hệ thống cơ quan VKSND để cùng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
ngành. Do đó, CQĐT VKSND tối cao và Vụ 6 cùng có trách nhiệm thực hiện các quy
định của pháp luật, quy chế nghiệp vụ do Viện trưởng VKSND tối cao ban hành để
làm tốt chức năng của ngành Kiểm sát.
+ Quan hệ giữa CQĐT VKSND tối cao với các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc
VKSND tối cao và VKSND các địa phương
Đây là quan hệ phối hợp giữa các đơn vị trong ngành Kiểm sát. Căn cứ theo
Quy chế tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra viện kiểm sát nhân dân tối cao ban
hành kèm theo Quyết định số 208/QĐ-VKSTC-C1 ngày 28/5/2019 của Viện trưởng
VKSND dân tối cao (trước đó là: Quy chế tổ chức và hoạt động của CQĐT VKSND
tối cao ban hành kèm theo quyết định số 18/QĐ-VKSTC-C1 ngày 20/11/2015 của
Viện trưởng VKSND tối cao) thì, các Vụ nghiệp vụ thuộc VKSND tối cao và VKSND
các địa phương có trách nhiệm phối hợp với CQĐT trong việc tiếp nhận và giải quyết
tin báo, tố giác tội phạm thuộc thẩm quyền của CQĐT VKSND tối cao, tạo điều kiện
cho CQĐT hoàn thành nhiệm vụ. CQĐT VKSND tối cao có trách nhiệm tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và thông báo kết quả giải quyết cho các đơn vị
đã chuyển tố giác, tin báo về tội phạm. Đồng thời có trách nhiệm tham mưu cho các
đơn vị này thực hiện các biện pháp phòng ngừa những hành vi vi phạm, tội phạm xâm
phạm HĐTP của cán bộ, KSV trong toàn ngành Kiểm sát.
- Quan hệ phối hợp giữa CQĐT VKSND tối cao với các CQĐT khác và lực
lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp của Bộ Công an; các Trại tạm giam thuộc Bộ
Quốc phòng, Bộ Công an.
29
+ Quan hệ phối hợp giữa CQĐT VKSND tối cao với các CQĐT khác: Đây là
quan hệ phân công và phối hợp trong hoạt động điều tra, được thể hiện qua những nội
dung như:
Phối hợp trong việc tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác tội phạm: Khi tiếp
nhận được các tin báo, tố giác tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND
tối cao thì các CQĐT khác chuyển tin báo, tố giác tội phạm đó cho CQĐT VKSND tối
cao để thụ lý và tiến hành xác minh, giải quyết theo thẩm quyền và ngược lại.
Phối hợp thực hiện các hoạt động ủy thác điều tra theo quy định của pháp luật:
Khi cần thiết, CQĐT VKSND tối cao có thể ủy thác cho COĐT khác tiến hành một số
hoạt động điều tra.
+ Quan hệ phối hợp với lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp: Đây là
mối quan hệ phối hợp để thi hành lệnh bắt, áp giải bị can về nơi tạm giam hoặc áp giải
người làm chứng để tiến hành lấy lời khai trong quá trình điều tra vụ được thực hiện
theo Quyết định số 1502/2008/QĐ - BCA (C11) về quy trình bắt, áp giải bị can, bị cáo,
dẫn giải người làm chứng của lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp.
+ Quan hệ phối hợp giữa CQĐT VKSNDTC với các Trại tạm giam thuộc Bộ
Quốc phòng, Bộ Công an: Đây là mối quan hệ phối hợp để thực hiện việc giam, giữ bị
can phục vụ quá trình điều tra.
- Quan hệ phối hợp giữa CQĐT VKSND tối cao với các cơ quan, đơn vị chủ
quản của người phạm tội: Quan hệ phối hợp giữa CQĐT VKSND tối cao với các cơ
quan, đơn vị chủ quản của người phạm tội được xây dựng trên nguyên tắc tố tụng của
Bộ luật TTHS về trách nhiệm phối hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng với cơ quan nhà
nước trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì vậy, các cơ quan, đơn vị chủ quản của
người phạm tội có trách nhiệm cung cấp thông tin tội phạm, thực hiện các yêu cầu và
tạo điều kiện cho CQĐT VKSND tối cao thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm.
Kết luận chương 1
Trong chương 1 trên cơ sở tiếp cận, nghiên cứu các công trình lý luận có liên
quan đến điều tra tội phạm, điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và hoạt
động điều tra của CQĐT VKSND tối cao, cũng như nghiên cứu các văn bản pháp luật,
thông tư, quyết định về các vấn đề có liên quan đến tội phạm LSLHSVAVV, điều tra
30
tội phạm LSLHSVAVV thuộc thẩm quyền điều tra của của CQĐT VKSND tối cao,
luận văn đã giải quyết được các vấn đề: Đưa ra khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội
phạm LSLHSVAVV; đưa ra khái niệm và phân tích làm rõ đặc điểm hoạt động điều
tra tội phạm LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao; và đặc biệt làm rõ nội dung
của hoạt động điều tra tội phạm LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao từ khi tiếp
nhận tố giác, tin báo và kiến nghị khởi tố cho tới khi kết thúc điều tra. Bên cạnh đó,
luận văn cũng làm rõ công tác lãnh đạo, chỉ đạo và mối quan hệ phối hợp trong điều
tra vụ án LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao.
Đây là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả luận văn khảo sát, đánh giá thực trạng
hoạt động điều tra tội phạm LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao được trình bày
trong chương 2 của luận văn.
31
Chương 2
TÌNH HÌNH, ĐẶC ĐIỂM CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG
ĐIỀU TRA VỤ ÁN LÀM SAI LỆCH HỒ SƠ VỤ ÁN, VỤ VIỆC CỦA CƠ QUAN
ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến hoạt động điều tra vụ án làm sai
lệch hồ sơ vụ án, vụ việc của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
2.1.1. Tình hình tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và tội làm sai lệch hồ
sơ vụ án, vụ việc
2.1.1.1. Tình hình tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp
Theo số liệu thống kê của VKSND tối cao, hàng năm số lượng tội phạm và
người phạm tội xâm phạm HĐTP bị khởi tố, điều tra chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng số tội
phạm và người phạm tội trên toàn quốc. Trong giai đoạn 2016 – 6/2020 các CQĐT đã
khởi tố 803 vụ - 1609 bị can về tội xâm phạm HĐTP. Trung bình mỗi năm khởi tố
178,4 vụ - 357,5 bị can (chiếm tỉ lệ khoảng 0,26% trên tổng số vụ án hình sự và 0,33%
trên tống số bị can) (xem Bảng 2.1 - Phụ lục). Tuy vậy, trong khi tội phạm xâm phạm
HĐTP nói chung đang có chiếu hướng giảm thì số vụ phạm tội xâm phạm HĐTP hoặc
các tội phạm khác có liên quan đến hoạt động tư pháp do CQĐT VKSND tối cao khởi
tố, điều tra theo thẩm quyền lại có diễn biến phức tạp, xu hướng tăng và chiếm một tỉ
lệ không nhỏ trong tổng số tội phạm xâm phạm HĐTP. Cụ thế là:
Từ năm 2016 đến 6/2020, CQĐT của VKSND tối cao đã khởi tố 180 vụ - 228
bị can; chiếm 22,41% sô vụ và 14,17% số bị can phạm tội xâm phạm HĐTP. Trung
bình mỗi năm khởi tố 40 vụ - 50,67 bị can. Nếu lấy năm 2016 làm mốc và coi số vụ
án, bị can đã khởi tố trong năm là 16 vụ - 21 bị can bằng 100% thì diễn biến tội phạm
những năm tiếp theo là: Năm 2017, khởi tố 21 vụ - 42 bị can; tăng 31,25% số vụ và
100% số bị can; Năm 2018, khởi tố 52 vụ - 70 bị can; tăng 225% số vụ và 337% số bị
can; Năm 2019, khởi tố 66 vụ - 68 bị can; tăng 312,5% số vụ và 324% số bị can; 06
tháng đầu năm 2020 tỷ lệ tăng cũng tương đương năm 2018 (xem Bảng 2.1 - Phụ lục).
2.1.1.2. Tình hình tội phạm làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc
Từ năm 2016 – 6/2020, tổng số tin báo, tố giác về tội phạm LSLHSVAVV
thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND tối cao là 87, trong đó CQĐT VKSND
32
tối cao đã khởi tố là 15 vụ, với 16 bị can, bình quân mỗi năm khởi tố 3,33 vụ với 3,56
bị can. Diễn biến cụ thể qua các năm như sau:
Năm 2016: khởi tố 2 vụ, 2 bị can; năm 2017: khởi tố 3 vụ, 4 bị can; năm 2018:
khởi tố 4 vụ, 4 bị can; năm 2019: khởi tố 4 vụ, 4 bị can; 6 tháng đầu năm 2020: khởi tố
2 vụ, 2 bị can (xem Bảng 2.2, 2.9 – Phụ lục).
Kết quả điều tra của CQĐT VKSTC đối với 15 vụ án LSLHSVAVV khởi tố
trong giai đoạn 2016 – 6/2020 như sau: Có 11 vụ kết thúc điều tra đề nghị truy tố với
12 bị can, chiếm 73,33% số vụ và 75% bị can; tạm đình chỉ 01 vụ (chiếm 6,67%) với
01 bị can (chiếm 6,25%) (xem Bảng 2.3 – Phụ lục).
Căn cứ vào số liệu trên thấy rằng:
- Số vụ phạm tội LSLHSVAVV thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND
tối cao trong giai đoạn 2016 – 2018 tăng mỗi năm 01 vụ (tăng 50% mỗi năm). Giai
đoạn 2018 – 2019 không tăng, không giảm. 6 tháng đầu năm 2020 số vụ khởi tố bằng
½ so với năm 2019. Nếu suy luận bằng cách nhân đôi để đủ 12 tháng của năm 2020 thì
số vụ sẽ là 4 vụ. Nếu vậy, giai đoạn 2018 – 2020 số vụ phạm tội LSLHSVAVV do
CQĐT VKSND tối cao khởi tố không tăng, không giảm.
- Số vụ án LSLHSVAVV được khởi tố chiếm 15/87=17,24% tổng số tin báo, tố
giác về tội phạm LSLHSVAVV. Không loại trừ khả năng có tội phạm ẩn trong số vụ
không được khởi tố, trong đó có thể có nguyên nhân do tiêu cực, “bao che” hoặc trình
độ năng lực điều tra của ĐTV còn hạn chế nên không làm rõ được hành vi, không
chứng minh được tội phạm.
- Hiệu quả công tác điều tra của CQĐT VKSND tối cao đối với 15 vụ án
LSLHSVAVV khởi tố trong giai đoạn 2016 – 6/2020 chưa cao, số vụ kết thúc điều tra
đúng thời hạn và đề nghị truy tố chỉ chiếm 73,33%, số vụ phải tạm đình chiếm 6,25%.
2.1.2. Đặc điểm hình sự của tình hình tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc
2.1.2.1. Đặc điểm thời gian và địa điểm thực hiện tội phạm
- Đặc điểm về thời gian: Thông thường người phạm tội thực hiện hành vi gây
án trong thời gian được giao nhiệm vụ, quyền hạn trực tiếp tiến hành các hoạt động tố
tụng để giải quyết một vụ án, vụ việc cụ thể hoặc khi đang giữ chức vụ, quyền hạn
quản lý, chỉ đạo, điều hành HĐTP của cơ quan mình. Vì vậy, có nhiều vụ hành vi
phạm tội đã diễn ra trong thời gian dài. Nghiên cứu, nắm vững đặc điểm về thời gian
33
gây án trong các vụ án xâm phạm HĐTP do cán bộ của các CQTP thực hiện giúp cho
ĐTV đánh giá được các phạm vi các tình tiết của vụ án, xác định phạm vi về mặt thời
gian thực hiện tội phạm từ đó có phương pháp, chiến thuật thu thập chứng cứ phù hợp.
- Đặc điểm về địa điểm thực hiện tội phạm: Người phạm tội thường lựa chọn
địa điểm phạm tội là cơ quan, văn phòng nơi họ làm việc. Nói cách khác, tội phạm
LSLHSVAVV thường xảy ra tại địa điểm là trụ sở của các CQTP. Vì đây là nơi lưu
trữ hồ sơ, tài liệu, vật chứng có liên quan đến vụ án, vụ việc mà người phạm tội có
trách nhiệm quản lý hay có nhiệm vụ trực tiếp tiến hành các hoạt động tố tụng, đồng
thời cũng là nơi có người và có các công cụ, phương tiện có thể hỗ trợ cho việc phạm
tội. Việc xác định đúng địa điểm thực hiện tội phạm giúp cho ĐTV có thể nhanh
chóng phát hiện được những dấu vết, tài liệu, vật chứng có ý nghĩa chứng minh tội
phạm và người phạm tội.
2.1.2.2. Đặc điểm về nhân thân người phạm tội
Trên cơ sở phân tích lý lịch của 16 bị can bị khởi tố về tội LSLHSVAVV cho
thấy một số đặc điểm nhân thân của người phạm tội LSLHSVAVV như sau: (xem
Bảng 2.4 – Phụ lục).
- Về trình độ học vấn, độ tuổi, giới tính: Người phạm tội đa phần trình độ học
vấn cao, có hiểu biết nhiều về xã hội, được đào tạo cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ.
Theo thống kê, trong tổng số 16 bị can đã khởi tố, điều tra thì số bị can có trình độ Cao
đẳng, Đại học trở lên là 13 người (chiếm 81,25%), trình độ trung cấp chuyên nghiệp là 3
người (chiếm 18,75%). Trong đó, hầu hết các bị can được đào tạo về chuyên ngành Luật
hoặc chuyên ngành Điều tra, nghiệp vụ Công an, Kiểm sát… nên có kiến thức pháp lý
và rất am hiểu về những lĩnh vực tự pháp, về quy trình HĐTP mà họ đảm nhiệm. Đa số
người phạm tội ở độ tuổi trung niên, số bị can là nam giới chiếm tỉ lệ 100%.
Đặc điểm này đòi hỏi trong điều tra phải phân công ĐTV có trình độ kiến thức
pháp luật vững vàng, tinh thông nghiệp vụ và hiểu biết về lĩnh vực công tác của bị can,
có kỹ năng giao tiếp và khả năng tiếp xúc tâm lý tốt để có thể đấu tranh, kết hợp với
việc giáo dục, thuyết phục bị can nhận ra sai lầm của mình và chịu hợp tác trong quá
trình điều tra.
- Về tiền án, tiền sự và những yếu tố về nhân thân lai lịch: Tất cả các bị can đều
chưa có án tích. Nhiều bị can trước khi phạm tội là đảng viên, hàng năm được đánh giá
34
là hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác, thậm chí có những đối tượng còn là người có nhiều
thành tích, được cấp trên quan tín nhiệm và cấp dưới kính nể. Hầu hết người phạm tội là
người có mối hệ rộng rãi với những người có chức vụ, quyền hạn trong xã hội.
Nắm vững được những đặc điểm về nhân thân của người phạm tội sẽ giúp cho
ĐTV nhận thức được những thuận lợi, khó khăn trong việc tổ chức tiến hành các hoạt
động điều tra xác định tội phạm, hành vi phạm tội của từng bị can, từ đó áp dụng
những chiến thuật và phương pháp điều tra phù hợp.
2.1.2.3. Đặc điểm về thủ đoạn phạm tội và che giấu tội phạm
- Đặc điểm về thủ đoạn phạm tội:
+ Trong các giai đoạn tố tụng, giải quyết vụ án, vụ việc, khi tiến hành lập các
văn bản, biên bản, bên cạnh các văn bản, biên bản được lập đảm bảo quy định của
pháp luật đối tượng còn ký khống thêm các văn bản, biên bản mà không ghi nội dung
để sau này ghi nội dung và thực hiện đánh tráo tài liệu trong hồ sơ vụ án, vụ việc.
Để có thể đánh tráo tài liệu trong hồ sơ vụ án, vụ việc sau này, tại thời điểm tiến
hành hoạt động tố tụng, giải quyết vụ án, vụ việc, đối tượng vẫn tiến hành lập các văn
bản, biên bản đảm bảo quy định của pháp luật nhưng đồng thời đưa ra lý do nào đó và
chủ động đưa thêm văn bản, biên bản không nội dung rồi yêu cầu những người tham
gia, tham dự ký khống vào văn bản, biên bản đó. Sau này đối tượng thực hiện ghi nội
dung vào văn bản, biên bản đã được ký không và thay thế văn bản, biên bản trong hồ
sơ vụ án, vụ việc. Thủ đoạn này thường được thực hiện trong khi tiến hành các hoạt
động như: Khám xét, lấy lời khai, hỏi cung.
Tiêu biểu: Vụ Đinh Văn Long có hành vi phạm tội“Làm sai lệch hồ sơ vụ án”
theo bản Kết luận điều tra, đề nghị truy tố số 23/VKSTC-C1(P4) ngày 26/9/2018 của
CQĐT VKSTC.
Theo bản Kết luận điều tra, đề nghị truy tố: Thực hiện khám xét tại nhà bà Đinh
Thị Vinh (thôn 5 Thanh Lạng, xã Thanh Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình)
trong vụ bắt quả tang vụ đánh bạc bằng hình thức ghi số đề, ĐTV Đinh Văn Long
phân công ông Đinh Văn Hiến - Cán bộ điều tra Công an huyện Tuyên Hóa tiến hành
lập biên bản khám xét. Sau khi ông Hiến ghi biên bản xong thì Đinh Văn Long yêu
cầu ông Hiến đưa thêm 02 biên bản khám xét không ghi nội dung để cho những người
tham gia buổi khám xét cùng ký vào biên bản có nội dung và 02 biên bản ký khống
35
không ghi nội dung nhằm mục đích để sau này viết lại nội dung khám xét. Ngày
10/4/2013, Công an huyện Tuyên Hóa ra các Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố
bị can và Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Đinh Thị Vinh cùng các bị can khác về
tội: “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc”, theo các Điều 248, Điều 249 BLHS 1999 và
phân công Điều tra viên Đinh Văn Long tiến hành điều tra vụ án. Trong quá trình điều
tra vụ án này, Đinh Văn Long đã ghi lại nội dung biên bản khám xét, bỏ ra ngoài hồ sơ
vụ án 148 bảng đề trong tổng số 217 bảng đề đã thu giữ trong quá trình khám xét nhằm
mục đích là làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can Đinh Thị Vinh.
+ Trong các giai đoạn tố tụng, giải quyết vụ án, vụ việc, đối tượng yêu cầu
những người tham gia, tham dự ký khống vào văn bản, biên bản không ghi nội dung,
sau này mới ghi nội dung vào văn bản, biên bản.
Để thực hiện thủ đoạn này đối tượng thường đưa ra lý do hợp lý nào đó để che
mắt hoặc lợi dụng việc người tham gia tố tụng không nắm chắc quy định của pháp luật
về văn bản, biên bản tố tụng, giải quyết vụ án, vụ việc rồi yêu cầu người tham gia tố
tụng ký vào văn bản, biên bản mà không ghi nội dung. Sau này đối tượng mới ghi nội
dung vào biên bản đó. Thủ đoạn này thường được thực hiện trong quá trình tiến hành
lấy lời khai người làm chứng và hỏi cung bị can. Thực tế thủ đoạn này cũng tương tự
như thủ đoạn thứ nhất, chỉ khác ở chỗ đối tượng không lập biên bản nào theo đúng quy
định pháp luật tại thời điểm tiến hành hoạt động tố tụng, giải quyết vụ án, vụ việc.
+ Khi lập các biên bản, văn bản tố tụng cố tình ghi chép chừa lại khoảng trống
để sau này thực hiện viết thêm nội dung hoặc sau này đối tượng tự sửa chữa, tẩy xóa
và viết thêm nội dung.
Trong quá trình lập các văn bản, biên bản tố tụng, đối tượng vẫn thực hiện về cơ
bản đảm bảo các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, phần ghi nội
dung của văn bản, biên bản thì đối tượng cố tình chừa lại các khoảng trống, sau này đối
tượng ghi thêm vào văn bản, biên bản những nội dung khác. Hoặc đối tượng vẫn tiến
hành lập văn bản, biên bản theo đúng nội dung, trình tự, thủ tục pháp luật nhưng sau này
cố tình tẩy xóa, sửa chữa và thêm, bớt nội dung nhằm làm sai lệch hồ sơ vụ án.
Tiêu biểu: Vụ Nguyễn Việt Cường có hành vi phạm tội“Làm sai lệch hồ sơ vụ
án” theo bản Kết luận điều tra, đề nghị truy tố số 27/VKSTC-C1(P4) ngày 13/11/2019
của CQĐT VKSTC.
36
Theo bản Kết luận điều tra, đề nghị truy tố: Nguyễn Việt Cường (ĐTV Cơ quan
CSĐT Công an Tp. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên) trong quá trình được phân công điều tra
vụ án Từ Phạm Quang Vinh và đồng bọn phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”
theo khoản 2, Điều 194 BLHS năm 1999 đã thực hiện hành vi viết thêm những nội
dung có tính chất buộc tội đối với Nguyễn Hồng Ngọc Anh vào biên bản hỏi cung của
bị can Nguyễn Hồng Ngọc Anh lúc 08h00’ ngày 13/6/2013 (Bút lục số: 478); Biên bản
hỏi cung bị can Từ Phạm Quang Vinh lúc 08h00’ ngày 29/3/2015 và lúc 13h30’ ngày
31/3/2015 (Bút lục số: 818 và 824). Những nội dung mà bị can Cường viết thêm vào
các biên bản hỏi cung đã làm thay đổi hoàn toàn nội dung vụ án đối với bà Anh. Dẫn
đến hậu quả các cơ quan tiến hành tố tụng Tp. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên giải quyết vụ
án:“Mua bán trái phép chất ma túy”trên bị sai lệch, điều tra, truy tố, xét xử tuyên phạt
bà Anh 07 năm tù, sau đó bản án bị hủy và vụ án phải đình chỉ điều tra do không
chứng minh được hành vi phạm tội của bà Anh.
+ Cố tình loại bỏ hoặc thêm vào các tài liệu, vật chứng của vụ án, vụ việc.
Để thực hiện việc này, có thể ngay tại thời điểm tiến hành hoạt động thu thập
đối tượng chủ động bỏ ra ngoài đồng thời không thực hiện ghi vào trong biên bản, văn
bản tố tụng. Cũng có trường hợp đối tượng loại bỏ tài liệu, vật chứng của vụ án, vụ
việc cùng với đó là chỉnh sửa hoặc đánh tráo các văn bản của quá trình thu thập trước
đó. Thực tế thủ đoạn này thường đi kèm cùng với thủ đoạn thứ nhất và thủ đoạn thứ
hai. Cùng với việc loại bỏ các tài liệu, vật chứng của vụ án, vụ việc thì đối tượng cũng
hợp lý hóa bằng việc đánh tráo, thay đổi, sửa chữa… các biên bản, văn bản có liên
quan. Ngoài ra, đối tượng có thể thêm vào các tài liệu của vụ án, vụ việc mà thực tế
không tiến hành hoạt động tố tụng để có được tài liệu đó.
Tiêu biểu: Vụ Trần Nam Linh có hành vi phạm tội“Làm sai lệch hồ sơ vụ án”
theo bản Kết luận điều tra, đề nghị truy tố số 14/VKSTC-C1(P4) ngày 18/7/2015 của
CQĐT VKSTC.
Theo bản Kết luận điều tra, đề nghị truy tố: Trong điều tra vụ án Phạm Văn
Ngọc phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ĐTV Nguyễn Đức Hùng (Công an thị
xã Chí Linh, Hải Dương) phân công Trần Nam Linh (cán bộ Công an thị xã Chí Linh,
Hải Dương) tiến hành xác minh tại Chi cục THADS quận Lê Chân (Tp. Hải Phòng) để
xác minh Ngọc đã chấp hành hình phạt bổ sung theo quyết định của bản án số
37
285/HSST ngày 07/7/2000 của TAND thành phố Hải Phòng hay chưa. Kết quả xác
minh tại Chi cục THADS quận Lê Chân cho thấy, Ngọc chưa chấp hành hình phạt bổ
sung. Tuy nhiên Nam Linh không bỏ vào hồ sơ vụ án. Trong quá trình điều tra, Nam
Linh tự lập biên bản khống ghi lời khai chị của Ngọc là đã nộp tiền bồi thường (hình
phạt bổ sung theo quyết định của bản án số 285/HSST ngày 07/7/2000 của TAND
thành phố Hải Phòng) cho bị hại là anh Dương Minh Hoàng. Tiếp đến, Nam Linh tiếp
tục lập biên bản khống ghi lời khai của anh Dương Minh Hoàng xác nhận có việc nhận
bồi thường như trên. Với các tài liệu này, bị can Ngọc đã được xóa án tích và được
giảm nhẹ tội từ Khoản 2 Điều 194 xuống Khoản 1 Điều 194 (BLHS năm 1999).
- Đặc điểm về thủ đoạn che giấu tội phạm: Trong suốt quá trình thực hiện tội
phạm LSLHSVAVV, người phạm tội luôn tìm cách che giấu hành vi phạm tội của
mình. Tùy từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà họ sử dụng cách đối phó và che giấu
hành vi phạm tội khác nhau như: Cung cấp sai các số liệu báo cáo thống kê; báo cáo
sai bản chất vụ việc, đưa ra những chứng cứ giả tạo để đối phó với các hoạt động quản
lý, kiểm tra nghiệp vụ; tìm cách mua chuộc, lấy lòng cán bộ lãnh đạo, cấp trên, đồng
nghiệp bằng mọi hình thức để gây cảm tình, từ đó làm giảm sự chú ý của những người
này đối với hành vi sai phạm của đôi tượng; tìm mọi cách để cất giấu, tiêu hủy giấy tờ,
tài liệu; tìm cách trốn tránh trách nhiệm bằng cách đổ lỗi cho các nguyên nhân khách
quan và chủ quan như: Do thi hành mệnh lệnh của cấp trên; do áp lực công việc; trình
độ nhận thức và chuyên môn nghiệp vụ kém; do cơ sở vật chất thiếu thốn...
2.1.3. Tình hình tổ chức lực lượng và phương tiện của Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao trong động điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc
2.1.2.1. Tình hình tổ chức lực lượng
Xuất phát từ những nét riêng biệt về thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND
tối cao mà cơ cấu tổ chức của CQĐT VKSND tối cao có một số đặc điểm khác biệt so
với cơ cấu tổ chức của các CQĐT khác trong lực lượng Công an nhân dân và Quân đội
nhân dân. Cụ thể: (1) CQĐT VKSND tối cao là một CQĐT chuyên trách trong hệ
thống các CQĐT nhưng đồng thời còn là đơn vị trực thuộc bộ máy làm việc của
VKDND tối cao. Căn cứ vào Điều 4, Điều 20 Luật TCCQĐTHS năm 2015 thì CQĐT
VKSND tối cao là một trong những CQĐT chuyên trách trong hệ thống các CQĐT, có
thẩm quyền điều tra một số loại tội xâm phạm HĐTP mà người phạm tội là cán bộ
38
thuộc các CQTP; (2) CQĐT VKSND tối cao chỉ được tổ chức ở VKSND tối cao mà
không có ở cấp cơ sở nên không có hệ thống CQĐT VKSND ở địa phương. Ngoài ra,
trong bộ máy của CQĐT VKSND tối cao cũng không có tổ chức lực lượng điều tra
trinh sát và lực lượng hỗ trợ tư pháp.
Những đặc điểm riêng biệt nêu trên về tổ chức bộ máy được thể hiện rất rõ qua
thực trạng cơ cấu tổ chức và lực lượng của CQĐT VKSND tối cao hiện nay. Cụ thể là:
- Về cơ cấu tổ chức: Tổ chức bộ máy của CQĐT VKSND tối cao được quy
định trong Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và theo Quy chế tổ chức và hoạt động của
cơ quan điều tra viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành kèm theo Quyết định số
208/QĐ-VKSTC-C1 ngày 28/5/2019 của Viện trưởng VKSND dân tối cao (trước đó
là: Quy chế tổ chức và hoạt động của CQĐT VKSND tối cao ban hành kèm theo quyết
định số 18/QĐ-VKSTC-C1 ngày 20/11/2015 của Viện trưởng VKSND tối cao). Theo
đó, cơ cấu bộ máy của CQĐT VKSND tối cao gồm: Phòng tiếp nhận và thu thập thông
tin tội phạm (phòng 1), Phòng Tham mưu tổng hợp (Phòng 2), Phòng điều tra tội phạm
xảy ra tại các tỉnh phía Bắc (Phòng 3), Phòng điều tra tội phạm xảy ra tại các tỉnh miền
Trung - Tây Nguyên, đặt tại TP Đà Nẵng (Phòng 4), Phòng điều tra tội phạm xảy ra tại
các tỉnh miền Nam, đặt tại TP Hồ Chí Minh (Phòng 5), Phòng điều tra tội phạm tham
nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp (Phòng 6), Phòng kỹ thuật hình sự
(Phòng 7), Phòng điều tra tội phạm xảy ra tại các tỉnh miền núi phía Bắc, đặt tại tỉnh
Yên Bái (Phòng 8), Phòng điều tra tội phạm xảy ra tại các tỉnh Tây Nguyên, đặt tại
tỉnh Đắk Lắk (Phòng 9), Phòng điều tra tội phạm xảy ra tại các tỉnh miềm Tây Nam
bộ, đặt tại TP Cần Thơ (Phòng 10). Trong các phòng có các đội nghiệp vụ do Thủ
trưởng CQĐT VKSND tối cao quyết định.
- Về lực lượng: Hiện tại có tổng số 173 biên chế, trong đó có 01 thủ trưởng, và
05 Phó Thủ trưởng; 10 Trưởng phòng; 20 Phó Trưởng phòng. Cụ thể:
+ Trình độ chuyên môn: Có 02 Tiến sĩ Luật (1,15%); 44 Thạc sĩ Luật (25,46%);
105 Cử nhân (60,69%); 22 Trung cấp chuyên nghiệp (12,68%).
+ Trình độ lý luận chính trị: Cao cấp có 56 người (32,36%); Trung cấp có 72
người (41,61%); sơ cấp có 45 người (26,01%).
39
+ Chức danh tư pháp: Tổng số có 96 ĐTV, chiếm 55,49% biên chế, trong đó có
22 ĐTV Cao cấp (chiếm 22,92% tổng số ĐTV), 60 ĐTV Trung cấp (chiếm 62,5%
tổng số ĐTV) và 14 ĐTV Sơ cấp (chiếm 14,58% tổng số ĐTV).
(xem Bảng 2.5 - Phụ lục)
Như vậy, về lực lượng của CQĐT VKSND tối cao có 87,32% có trình độ Cử
nhân trở lên, lực lượng này về cơ bản đáp ứng yêu cầu của công tác điều tra gắn với
thẩm quyền của CQĐT VKSND tối cao. Tuy vậy, với thẩm quyền là điều tra các vụ án
xâm phạm HĐTP nói chung, vụ án LSLHSVAVV do cán bộ của các CQTP thực hiện
nói riêng trên 63 tỉnh, thành phố của cả nước, thì lực lượng cán bộ, ĐTV của CQĐT
VKSND tối cao hiện nay vẫn còn mỏng (ĐTV chiếm 55,49% biên chế). Mặt khác, đối
tượng điều tra của CQĐT VKSND tối cao hầu hết là những người có trình độ hiểu biết
pháp luật và nghiệp vụ điều tra, thậm chí có người còn là chuyên gia trong các lĩnh
vực điều tra, truy tố, xét xử… nên đòi hỏi lực lượng điều tra phải là những người có
trình độ cao, kinh nghiệm công tác phòng phú. Do đó, hiện nay còn 22 cán bộ có trình
độ Trung cấp chuyên nghiệp (12,68%) cũng là vấn đề bất cập trong tổ chức lực lượng
của CQĐT VKSND tối cao.
2.1.2.2. Trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện, cơ sở vật chất
- Về trang thìết bị kỹ thuật: CQĐT VKSND tối cao không được trang bị vũ khí.
Hiện tại, các thiết bị kỹ thuật, công cụ hỗ trợ được trang bị để phục vụ hoạt động
nghiệp vụ của CQĐT VKSND tối cao gồm có: 15 còng số tám; 05 máy bộ đàm; 06
máy ghi âm mini; 05 máy ảnh; 03 va ly khám nghiệm (xem Bảng 2.6 – Phụ lục).
- Về phương tiện làm việc và phương tiện đi lại: Tổng cộng cỏ 42 máy tỉnh để
bàn, 35 máy laptop; 25 máy in và 7 máy photocopy; 12 xe ô tô từ 04 chỗ ngồi đến 16
chỗ ngồi, không có xe ô tô đặc chủng (xem Bảng 2.6 - Phụ lục).
- Về cơ sở vật chất: Hiện tại mới có trụ sở của CQĐT VKSND tối cao ở Hà Nội
còn 02 Đại diện Thường trực của CQĐT VKSND tối cao ở miền Trung - Tây Nguyên
và miền Nam chưa cỏ trụ sở riêng mà vẫn phải làm việc chung tại trụ sở của Viện
Phúc thẩm 2 của VKSND tối cao ở Đà Nẵng và Văn phòng Đại diện của VKSND tối
cao ở Thành phố Hồ Chi Mình nên chưa có phòng tiếp công dân, phòng hỏi cung, kho
tang vật; không có hệ thống Nhà tạm giữ, Trại tạm giam, Trại giam riêng.
40
Từ số liệu cho thấy: Các trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện đi lại, cơ sở vật
chất còn thiếu thốn, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ công tác. Đây là một khó
khăn lớn cho công tác của CQĐT VKSND tối cao, đòi hỏi cần phải có giải pháp khắc
phục kịp thời để nâng cao chất lượng hoạt động của CQĐT này.
2.2. Thực trạng điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc của Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
2.2.1. Thực trạng tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm
Theo thống kê của CQĐT VKSND tối cao, từ năm 2016 đến 6/2020, CQĐT
VKSND tối cao đã tiếp nhận được tổng số 2.366 tin báo, tố giác tội phạm xâm phạm
HĐTP. Qua xác minh, phân loại đã xác định được 1.101 tin báo, tố giác tội phạm
thuộc thẩm quyền. Nguồn tin báo, tổ giác tội phạm chủ yếu là: Đơn tố cáo của công
dân được chuyên đến qua đường bưu điện là 434 tin báo, tố giác (chiếm 39,44%); từ
các đơn vị nghiệp vụ và VKSND địa phương chuyển đến là 293 tin báo, tố giác (chiếm
26,63%); số tin báo, tổ giác còn lại do các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ
quan, tổ chức khác chuyển đến. Với 1.101 tin báo, tố giác tội phạm thuộc thẩm quyền
giải quyết của CQĐT VKSND tối cao có 87 tin báo, tố giác về tội phạm
LSLHSVAVV, chiếm 7,9% (xem Bảng 2.7, 2.8, 2.9 - Phụ lục).
Do có những đặc điểm riêng biệt về tổ chức và hoạt động nên khi xác minh tin
báo, tổ giác tội phạm, CQĐT VKSND tối cao chỉ tiến hành các biện pháp tố tụng do
Bộ luật TTHS quy định, không thực hiện các hoạt động nghiệp vụ trinh sát bí mật như
CQĐT trong lực lượng CAND. Trên thực tế, sau khi tiếp nhận thông tin, lãnh đạo
CQĐT VKSND tối cao đã phân công ĐTV tiến hành xác minh, phân loại sơ bộ ban
đầu. Khi xác định thông tin đó là tố giác, tin báo tội phạm thuộc thẩm quyền thì ĐTV
sử dụng các hoạt động như: Lấy lời khai của cá nhân hoặc đại diện cơ quan, tổ chức đã
cung cấp tin; làm việc với lãnh đạo CQTP nơi có cán bộ bị tố cáo; lấy lời khai của
những người có nhiệm vụ, quyền hạn trong HĐTP để làm rõ trách nhiệm của họ; tiến
hành phát động cán bộ, nhân viên của CQTP nơi xảy ra vụ việc cung cấp thông tin, tài
liệu về những hành vi tiêu cực xảy ra trong cơ quan, tiến hành khám xét, trưng cầu
giám định để thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm làm rõ có hay không có dấu hiệu tội
phạm LSLHSVAVV.
41
Sau khi đã xác minh, thu thập đẩy đủ thông tin, tài liệu về vụ việc, nếu có cơ sở
xác định có dấu hiệu của tội LSLHSVAVV thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT
VKSND tối cao thì ĐTV báo cáo Thủ trưởng CQĐT để ra quyết định xử lý. Trong
truờng hợp vụ việc LSLHSVAVV có nhiều tình tiết phức tạp, liên quan đến nhiều cán
bộ của CQTP thì tổ chức họp với cấp ủy, chính quyền địa phương, đại diện CQTP,
lãnh đạo Vụ 6 để thống nhất phương hướng giải quyết vụ án.
Nhìn chung, trong công tác tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
XPHĐTP nói chung, tội LSLHSVAVV nói riêng, CQĐT VKSND tối cao đã thực hiện
tương đối tốt, việc tiến hành thẩm tra xác minh các nguồn thông tin đều có kế hoạch và
theo đúng quy định, có sự phối hợp tốt với các cấp, ngành có liên quan. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp do chủ quan không thẩm tra xác minh kỹ hoặc khi tiến hành
xác minh để lộ mục đích dẫn đến việc đối tượng biết đã tìm cách đối phó gây khó khăn
cho hoạt động điều tra.
2.2.2. Thực trạng tiến hành hoạt động khởi tố
Theo thống kê, trong giai đoạn từ 2016 đến 6/2020, CQĐT VKSND tối cao đã
khởi tố 15 vụ án - 16 bị can về tội LSLHSVAVV (xem Bảng 2.2 - Phụ lục). Qua
nghiên cứu các hồ sơ vụ án LSLHSVAVV của CQDT VKSND tối cao và trực tiếp
trao đổi với một số ĐTV trực tiếp điều tra vụ án LSLHSVAVV cho thấy, để xác định
chính xác căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì ĐTV phải tập hợp đẩy đủ các tài liệu,
chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội LSLHSVAVV và người phạm tội là cán bộ
thuộc CQTP từ các nguồn như: Từ hồ sơ vụ án bị người phạm tội làm sai lệch, từ các
báo cáo của CQTP nơi người phạm tội làm việc; từ biên bản làm việc, biên bản ghi lời
khai của những người biết việc; các tài liệu, vật chứng thu được từ hoạt động khám xét...
Trong nhiều trường hợp, trước khi ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can,
CQĐT đã chủ động bàn bạc, tổ chức họp với cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và
lãnh đạo CQTP nơi có cán bộ phạm tội để tranh thủ sự nhất trí, ủng hộ của các cơ
quan, tổ chức này. Trong một số trường hợp phải đề xuất với cấp ủy, cơ quan quản lý
người phạm tội ra các quyết định khai trừ Đảng, tạm đình chỉ chức vụ, tạm đình chỉ
công tác đối với những đối tượng có liên quan đến vụ án để phục vụ cho hoạt động
điều tra tiếp theo được thuận lợi. Việc báo cáo cấp ủy và họp liên ngành để thống nhất
chủ trương ban đầu về việc xử lý đối với những vụ án phức tạp là để bảo đảm nguyên
42
tắc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các cơ quan tiến hành tố tụng trong đấu
tranh phòng chống tội phạm. Trên thực tế, CQĐT VKSND tối cao chỉ quyết định khởi
tố vụ án LSLHSVAVV khi xác định đã có dấu hiệu tội phạm, khởi tố bị can phạm tội
LSLHSVAVV khi có đủ căn cứ xác định một người cụ thể phạm tội LSLHSVAVV và
thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can phạm tội LSLHSVAVV được tiến hành theo quy
định của Bộ luật TTHS, ngoài ra không có bất cứ một ngoại lệ nào khác.
Việc ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong các vụ án LSLHSVAVV
mà người phạm tội là cán bộ thuộc các CQTP được tuân thủ chặt chẽ theo quy định
của Điều 154, Điều 179 BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của tội
phạm LSLHSVAVV thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND tối cao là do cán
bộ của các CQTP thực hiện là “án trong án” nên còn có một số trường hợp CQĐT
VKSND tối cao đã xác định không đúng bản chất, tính chất, mức độ của hành vi phạm
tội do đó đã khởi tố sai tội danh hoặc khởi tố thiếu hành vi phạm tội.
2.2.3. Thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong điều tra tội phạm LSLHSVAVV
được CQĐT VKSND tối cao tiến hành rất thận trọng, khách quan để vừa đảm bảo các
căn cứ pháp lý, vừa đảm bảo uy tín và hoạt động bình thường của các CQTP. Nghiên
cứu hồ sơ vụ án LSLHSVAVV trong những năm qua cho thấy, CQĐT VKSND tối cao
đã áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt bị can để tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú.
Một trong những đặc điểm phổ biến nhất của các vụ án thuộc thẩm quyền điều
tra của CQĐT VKSND tối cao là đối tượng thường phạm tội trong quá trình thực hiện
chức trách, nhiệm vụ và có thể tội phạm đã kết thúc từ rất lâu nhưng sau đó mới bị
phát hiện nên đối tượng thường tìm cách mọi cách để chối tội, trốn tránh TNHS. Chính
vì vậy, CQĐT thường phải áp dụng biện pháp ngăn chặn là bắt, tạm giam bị can sau
khi khởi tố nhằm ngăn chặn việc bị can tiếp tục phạm tội, tiêu hủy chứng cứ hoặc có
những hành vi trả thù, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của người tố cáo; chống việc
thông cung, liên lạc hay chạy trốn, chạy án của bị can.
Trong số 16 bị can bị khởi tố, điều tra thời gian qua, CQĐT VKSND tối cao đã
tiến hành bắt, tạm giam 11 bị can (chiếm tỉ lệ 68,75% trên tổng số bị can). Nghiên cứu
hồ sơ vụ án và trực tiếp trao đổi thấy với các ĐTV trực tiếp điều tra vụ án cho thấy:
43
- Khi tiến hành bắt đối tượng, ĐTV luôn tính toán, lựa chọn thời gian, địa điểm
bắt và chiến thuật bắt phù hợp, đảm bảo yếu tố bí mật, bất ngờ, đồng thời có kế hoạch
đối phó với các hành vi chống trả. Nghiên cứu các hồ sơ bắt, tạm giam bị can thấy, các
ĐTV ít khi chọn địa điểm bắt tại cơ quan nơi đối tượng làm việc mà thường tạo ra
những lý do để điều đối tượng đến một địa điểm khác để bất ngờ, nhanh chóng bắt
hoặc tiến hành bắt đối tượng tại nhà riêng, tránh ồn ào, ảnh hưởng đến hoạt động
chung của CQTP nơi có cán bộ phạm tội. Quá trình bắt thường có sự phối hợp, hỗ trợ
của đội ngũ Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp trong lực lượng Công an nhân dân.
Quá trình bắt đều chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Đảng, của pháp
luật có liên quan đến bắt các đối tượng là đảng viên. Bên cạnh đó ĐTV đều có báo cáo
các có thẩm quyền trong khi thi hành lệnh bắt, làm tốt công tác bảo vệ Đảng, đảm bảo
thực hiện tốt yêu cầu chính trị trong công tác bắt. Trong quá trình bắt, ĐTV luôn chấp
hành nghiêm chỉnh các quy định của Bộ luật TTHS về trình tự, thủ tục bắt; tôn trọng
và thực hiện nghiêm túc quyền của người bị bắt cũng như danh dự, nhân phẩm của họ.
Nhìn chung, các đối tượng bị bắt đều không có tư tưởng và hành vi chống đối, chấp
hành tốt các yêu cầu của CQĐT, chưa có trường hợp bắt oan, bắt sai để xảy ra tình
trạng khiếu nại, tố cáo.
- Sau khi bắt đối tượng, do CQĐT VKSND tối cao chưa có hệ thống nhà tạm
giữ, trại tạm giam riêng nên các bị can thường được dẫn giải ngay về các trại tạm giam
của CQĐT hình sự cấp Quân khu hoặc trại tạm giam của Bộ Quốc phòng. Việc tạm
giam và thực hiện các chế độ tạm giam, nuôi dưỡng đối với những bị can trong vụ án,
nhất là các bị can có chức vụ, quyền hạn và có uy tín trong quần chúng... luôn đảm bảo
đúng các quy định của luật Hình sự và TTHS về chế độ, thời gian tạm giam, đảm bảo
các điều kiện giam giữ, không để kẻ xấu lợi dụng vu cáo, xuyên tạc.
2.2.4. Thực trạng tiến hành các biện pháp điều tra thu thập chứng cứ
2.2.4.1. Khám xét, thu giữ tài liệu, vật chứng
Trong điều tra vụ án LSLHSVAVV giai đoạn 2016 đến 6/2020, CQĐT
VKSND tối cao chủ yếu tiến hành hoạt động khám xét tại nơi làm việc, nơi ở của đối
tượng. Cụ thể là, đã tiến hành 21 lần khám xét nơi ở, nơi làm việc của người phạm tội,
việc khám người, thư tín, điện tín của đối tượng rất ít khi thực hiện. Điều này xuất phát
từ đặc trưng của loại tội phạm này là chứng cứ của vụ án thường tập trung vào các
44
giấy tờ, hồ sơ liên quan đến HĐTP, được lưu giữ tại CQTP - nơi người phạm tội làm
việc. Vì vậy, trước khi tiến hành khám xét, các ĐTV thường nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ
án, đánh giá những yếu tố có liên quan đến hành vi phạm tội của đối tượng, xác định
những giấy tờ, tài liệu, vật chứng cần phải thu giữ, lập kế hoạch khám xét để thu giữ
tài liệu, vật chứng đó. Khi có căn cứ để khám xét thì CQĐT VKSND tối cao tiến hành
khám xét ngay không để cho đối tượng hoặc người khác tẩu tán, cất giấu tài liệu, tiêu
hủy chứng cứ.
Nhìn chung, CQĐT VKSND tối cao đã áp dụng biện pháp khám xét đúng theo
quy định của pháp luật. Quá trình khám xét được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục
TTHS, lực lượng tiến hành khám xét đều tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của
công dân, nội quy làm việc của cơ quan có liên quan đến công tác khám xét. Khi khám
xét, cán bộ khám xét đã chú ý áp dụng các biện pháp và chiến thuật khám xét phù hợp
để phát hiện và thu thập các tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm và người thực
hiện hành vi phạm tội. Quá trình khám xét được mô tả trong biên bản khám xét một
cách cụ thể, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Trong những năm qua,
chưa có đơn thư khiếu nại, tố cáo nào liên quan đến công tác khám xét để điều tra loại
tội phạm này.
2.2.4.2. Trưng cầu giám định
Trong thời gian qua, CQĐT VKSND tối cao đã ra quyết định trưng cầu giám
định đối với 27 trường hợp. Nội dung trưng cầu chủ yếu là: Yêu cầu giám định tài liệu,
chữ viết, chữ ký (xác định tài liệu bị chỉnh sửa, thêm bớt, giả chữ ký…); giám định
hình ảnh, dịch các tin nhắn, các cuộc hội thoại, thư điện tử lưu trong các thiết bị kỹ
thuật số là vật chứng của vụ án...
Để quyết định thực hiện trưng cầu giám định, ĐTV đã chú ý xác định những
vấn đề cần giám định thông qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và bám vào những vấn đề phải
chứng minh trong vụ án. Trước khi trưng cầu giám định, ĐTV thường báo cáo cụ thể
với Thủ trưởng CQĐT VKSND tối cao về sự cần thiết, mục đích và dạng giám định
cần trưng cầu, cơ quan giám định và giám định viên cần trưng cầu. Việc trưng cầu
giám định được tuân thủ theo các quy định của pháp luật, từ khâu thu giữ, bảo quản,
niêm phong mẫu vật đến việc lựa chọn cơ quan giám định và người giám định phù
hợp. ĐTV cũng duy trì mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với cơ quan giám định và giám
45
định viên để cung cấp những tài liệu bổ sung, làm rõ những tình tiết có liên quan đến
đối tượng giám định theo yêu cầu của giám định viên. Kết luận giám định được ĐTV
nghiên cứu đánh giá thận trọng, khai thác sử dụng triệt để trong quá trình điều tra.
2.2.4.3. Lấy lời khai của người làm chứng, người có liên
- Lấy lời khai của người làm chứng: Người làm chứng trong vụ án
LSLHSVAVV thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND tối cao rất đa dạng. Họ có
thể là cấp trên, cấp dưới của bị can hoặc là người bị hại, người làm chứng, người biết
việc và những người khác liên quan trong vụ án, vụ việc mà bị can đã làm sai lệch hồ sơ,
cũng có khi họ là đối tượng phạm tội trong vụ án mà chính bị can là người điều tra.
Thực tiễn điều tra cho thấy, người làm chứng là đồng nghiệp của bị can thường
có tâm lý sợ bị coi là “phản bội” bạn bè; người làm chứng là cấp trên của bị can thì có
thể bị chi phối bởi yếu tố tình cảm, giữ uy tín cho cơ quan; người làm chứng là đối
tượng phạm tội hoặc người bị hại… trong vụ án mà bị can làm sai lệch hồ sơ thì
thường sợ bị liên lụy, sợ bị trả thù…. Chính vì vậy, họ thường ngại làm chứng trong
vụ án LSLHSVAVV của cán bộ tư pháp, có trường hợp còn khai báo có tính “bao
che”. Do đó, trước khi lấy lời khai, các ĐTV thường tìm hiểu về nhân thân của người
làm chứng, lý do, điều kiện, hoàn cảnh mà họ biết được những tinh tiết của vụ án và
yêu cầu họ viết bản tự khai nhiều lần, ở những thời điểm khác nhau để xác định sự
mâu thuẫn hay thống nhất trong những lời tự khai đó. Khi tiến hành lấy lời khai, ĐTV
tuân thủ đúng các quy định của các Điều 135, 136 Bộ luật TTHS và có những tác động
tâm lý, giải thích, động viên người làm chứng nhận thức đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ
của họ, thấy được chân lý, lẽ phải mà tự giác khai báo đúng sự thật.
- Lấy lời khai của người liên quan:
Người có liên quan trong các vụ án này thường là những người đại diện hợp
pháp của CQTP nơi xảy ra tội phạm, người có chức năng, quản lý theo dõi hoạt động
tố tụng, hoạt động giải quyết vụ việc của người phạm tội hoặc là người cùng thực hiện
nhiệm vụ với người phạm tội. Thông thường, họ có tâm lý sợ bị liên đới trách nhiệm
nên luôn tìm cách từ chối khai báo. Vì vậy, khi lấy lời khai, ĐTV sử dụng biện pháp
thuyết phục kết hợp với các yêu cầu của pháp luật để hỏi người liên quan về vị trí, vai
trò của người phạm tội; thủ đoạn phạm tội và che dấu tội phạm; tinh thần, thái độ của
46
người phạm tội trước, trong và sau khi gây án; yêu cầu họ cung cấp những tài liệu,
chứng cứ chứng minh cho lời khai.
Với việc xác định chính xác người làm chứng, người liên quan, xác định đúng
những vấn đề cần làm rõ và sử dụng các phương pháp, chiến thuật phù hợp, trong
những năm qua, công tác lấy lời khai đã phát huy hiệu quả, các tài liệu, chứng cứ thu
thập được từ hoạt động lấy lời khai đã góp phần quan trọng vào chứng minh trong vụ
án LSLHSVAVV. Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác lấy lời khai
vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế sau:
- Công tác lấy lời khai còn thiếu khẩn trương, không phục vụ kịp thời cho quá trình
điều tra. Đặc biệt, có vụ án người làm chứng thay đổi lời khai nhiều lần do tác động của
nhiều yếu tố trong đó có yếu tố bao che, tình cảm hoặc bị tác động từ cấp trên...
- Trong quá trình lấy lời khai, ĐTV chưa quan tâm tới việc bảo vệ người làm
chứng và chưa khéo léo tác động tâm lý nhằm giúp cho người làm chứng yên tâm, tin
tưởng vào sự an toàn khi khai báo. Qua trao đổi với ĐTV, chúng tôi được biết, hầu hết
người làm chứng trong vụ án LSLHSVAVV thường do dự trong khai báo vì sợ ảnh
hưởng đến công việc, sợ cấp trên, sợ bị trả thù...
- Trong quá trình lấy lời khai những người có trách nhiệm liên quan, có trường
hợp ĐTV có thái độ và cách xử sự như đối với bị can nên một số trường hợp đối tượng
lấy lời khai phản đối, gây khó khăn cho công tác lấy lời khai.
2.2.4.4. Hỏi cung bị can
Bị can trong các vụ án LSLHSVAVV do CQĐT VKSND tối cao điều tra chủ
yếu là người có chức vụ, quyền hạn nên thường dựa vào địa vị, nhiệm vụ được giao để
tìm cách bao biện, phủ nhận hành vi phạm tội và trốn tránh trách nhiệm theo kiểu
“năm không" (Không nghe - Không thấy - Không biết - Không làm - Không chịu trách
nhiệm). Đối với một số bị can đã có thành tích trong công tác hay có mối quan hệ với
những nguời có chức vụ, quyền hạn khác thì còn có tâm lý tự mãn, kiêu ngạo. Vì vậy,
khi hỏi cung những đối tượng này, lãnh đạo CQĐT VKSND tối cao thường phân công
những ĐTV có kinh nghiệm xét hỏi, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và có thời gian
công tác tương đương hoặc lâu năm hơn bị can, có khả năng giao tiếp và nắm bắt tâm
lý tốt để tiến hành hỏi cung bị can.
47
Qua nghiên cứu hoạt động hỏi cung bị can trong các vụ án LSLHSVAVV thấy
đa số ban đầu bị can không nhận tội, thậm chí một số bị can còn từ chối khai báo. Vì
vậy, để hoạt động hỏi cung có hiệu quả, ngoài việc nghiên cứu những tài liệu, chứng
cứ đã thu thập được để nắm chắc nội dung, diễn biến vụ án, các ĐTV còn nghiên cứu
kỹ các đặc điểm nhân thân, tâm lý, tính cách của bị can và những động cơ chi phối tinh
thần, thái độ và nội dung khai báo của bị can. Từ đó, ĐTV xây dựng kế hoạch hỏi
cung đối với từng đối tượng cụ thể. Khi hỏi cung bị can, ĐTV luôn chú ý đảm bảo các
quy định của Bộ luật TTHS để bảo đảm tính pháp lý của kết quả hỏi cung. Đồng thời
sử dụng linh hoạt các chiến thuật hỏi cung, kết hợp với các biện pháp tác động tâm lý
đối với từng trường hợp cụ thể để đạt được mục đích của việc hỏi cung.
- Đối với các bị can có chức vụ cao, có kinh nghiệm sống và trình độ chuyên
môn pháp lý vững vàng, luôn có thái độ tự mãn, kiêu ngạo và phủ nhận mọi tội lỗi thì
ĐTV vận dụng chiến thuật hỏi cung từng bước, làm rõ từng vụ việc, từng chỉ tiết, củng
cố chắc từng vấn đề rồi mới mở rộng ra các vẫn đề khác có liên quan trong vụ án. Kết
hợp phương pháp tấn công chính diện bằng những tài liệu, chứng cứ xác thực đã có
trong hồ sơ vụ án để bị can thấy được tội lỗi của mình và sử dụng phương pháp ám thị
gián tiếp làm cho bị can hoang mang không còn tin vào nhận thức của mình nữa và tự
rút ra nhận xét: ĐTV đã biết rõ hành vi phạm tội của mình nên không thể giấu diếm.
Nếu bị can còn trông chờ, hy vọng vào sự giúp đỡ từ bên ngoài thì ĐTV có biện
pháp giữ bí mật các thông tin, không để bị can liên lạc được với bên ngoài. Mặt khác,
thuyết phục họ nhận thức rằng không nên ảo tưởng, trông chờ vào sự giúp đỡ của các
thế lực ở bên ngoài mà chỉ có thành khẩn khai báo mới có thể cứu được mình. Đồng
thời, khơi dậy những nhu cầu tinh cảm, khát về cuộc sống, về lương tâm và trách
nhiệm của họ đối với gia đình, công việc và xã hội để họ nhận ra sai lầm của mình, tự
nguyện hợp tác trong khai báo.
- Đối với những bị can phạm tội do “bốc đồng", do mắc bệnh “thành tích",
chứng cứ rõ ràng thì ĐTV thường cho bị can viết các bản tự khai, sau đó áp dụng
chiến thuật hỏi tuần tự, đặt các câu hỏi thẳng, trực tiếp làm rõ từng hành vi phạm tội.
Trong những năm qua, chất lượng hỏi cung bị can của ĐTV CQĐT VKSND tối cao đã
từng bước được nâng lên, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động điều tra các vụ án
thuộc thẩm quyền.
48
2.2.5. Giai đoạn kết thúc điều tra
Nhìn chung, trong giai đoạn kết thúc điều tra các vụ án LSLHSVAVV thuộc
thẩm quyền, CQĐT VKSND tối cao đã thực hiện tốt việc củng cố hồ sơ, kiểm tra,
đánh giá các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được để hoàn chỉnh hồ sơ đề nghị truy tố
hoặc ra quyết định đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra vụ án và bị can theo quy
định của Bộ luật TTHS. Theo thống kê của VKSND tối cao, trong giai đoạn 2016 –
6/2020, thực hiện nhiệm vụ, thẩm quyền được giao, CQĐT VKSND tối cao đã tiến
hành khởi tố điều tra 15 vụ án - 16 bị can. Đã kết thúc điều tra,đề nghị truy tố 11 vụ
với 12 bị can, chiếm 73,33% số vụ và 75% bị can; tạm đình chỉ 01 vụ (chiếm 6,67%)
với 01 bị can (chiếm 6,25%) (xem Bảng 2.3 – Phụ lục).
Đối với những trường hợp đề nghị truy tố, CQĐT VKSND tối cao đã ra bản kết
luận điều tra và hoàn chỉnh hồ sơ chuyển Vụ 6 nghiên cứu, giải quyết theo đúng quy
định của Bộ luật TTHS và Quy chế tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra viện
kiểm sát nhân dân tối cao ban hành kèm theo Quyết định số 208/QĐ-VKSTC-C1 ngày
28/5/2019 của Viện trưởng VKSND dân tối cao (trước đó là: Quy chế tổ chức và hoạt
động của CQĐT VKSND tối cao ban hành kèm theo quyết định số 18/QĐ-VKSTC-C1
ngày 20/11/2015 của Viện trưởng VKSND tối cao). Sau đó, nếu có đủ căn cứ truy tố
bị can, Vụ 6 ra bản cáo trạng và chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cùng cáo trạng đến
VKSND địa phương được Vụ 6 ủy quyền tham gia xét xử vụ án. Các trường hợp tạm
đình chỉ điều tra đều đảm bảo căn cứ theo quy định của pháp luật.
2.3. Thực trạng công tác lãnh đạo, chỉ đạo và quan hệ phối hợp của Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong điều tra vụ án làm sai lệch hồ
sơ vụ án, vụ việc
2.3.1. Thực trạng công tác lãnh đạo, chỉ đạo
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và tọa đàm, trao đổi với lực lượng ĐTV, Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT VKSND tối cao, thấy rằng trong điều tra vụ án
LSLHSVAVV, Thủ trưởng CQĐT VKSND tối cao rất quan tâm chỉ đạo hoạt động
điều tra vụ án. Bên cạnh đó, có nhiều vụ án được các Tỉnh ủy trực tiếp cho ý kiến chỉ
đạo. Sự chỉ đạo này đảm bảo cho sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng trong quá
trình điều tra vụ án, củng cố thêm niềm tin và tăng cường sức mạnh cho ĐTV vượt qua
những áp lực, những khó khăn trở ngại để hoàn thành tốt nhiệm vụ điều tra.
49
Trong thực tế, sự chỉ đạo của các cấp hữu quan bắt đầu từ lúc khởi tố vụ án,
phân công lực lượng điều tra cho đến thời điểm kết thúc hoạt động điều tra. Sự chỉ đạo
này đã góp phần cho hoạt động điều tra các vụ án LSLHSVAVV được tiến hành đúng
hướng, huy động được sức mạnh và sự ủng hộ của các ngành, các cấp. Công tác thông
tin, báo cáo trong điều tra vụ án được thực hiện một cách nghiêm túc, đảm bảo cho các
cấp lãnh đạo kịp thời nắm được tình hình và cho ý kiến giải quyết những vấn đề cụ
thể, đặc biệt là những khó khăn, vướng mắc nảy sinh. Tuy nhiên, công tác chi đạo hoạt
động điều tra vụ án vẫn còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót cơ bản sau:
- Bị can trong vụ án LSLHSVAVV thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT
VKSND là cán bộ tư pháp có chức vụ, quyền hạn trong HĐTP. Do đó, trong một số vụ
án phải phải báo cáo giải trình nhiều cấp, dẫn đến kéo dài thời gian điều tra.
- Trong chỉ đạo điều tra vụ án, vẫn còn tình trạng chưa có sự kết hợp hài hòa
giữa các yêu cầu chính trị, pháp luật và nghiệp vụ dẫn đến quá trình giải quyết vụ án
gặp nhiều khó khăn.
2.3.2. Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao với các đơn vị trong toàn ngành Kiểm sát
- Quan hệ với Vụ 6: Hình thức phối hợp chủ yếu là trao đổi thông tin, ra các yêu
cầu, đề nghị điều tra, thống nhất đường lối giải quyết vụ án, thực hiện các biện pháp
thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của từng đơn vị... Ngoài ra, CQĐT VKSND tối cao và Vụ
6 đã phối hợp khá chặt chẽ, làm tốt công tác phân loại, cá thể hóa trách nhiệm của đối
tượng phạm tội để đưa vào khởi tổ bị can, đảm bảo việc khởi tố đúng người, đúng tội.
Đồng thời, Vụ 6 đã phối hợp chặt chẽ với CQĐT VKSND tối cao trong việc áp dụng,
hủy bỏ hoặc thay đổi các biện pháp ngăn chặn, đảm bảo việc bắt, tạm giam các đối
tượng có căn cứ, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai. Đáng chú ý, quan hệ phối
hợp còn thể hiện trong việc định hướng thu thập tài liệu, chứng cứ.
- Quan hệ với các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc VKSND tối cao và VKSND các
địa phương: Mối quan hệ này là quan hệ phối hợp giữa các đơn vị trong ngành và
được thực hiện theo Quy chế tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra viện kiểm sát
nhân dân tối cao ban hành kèm theo Quyết định số 208/QĐ-VKSTC-C1 ngày
28/5/2019 của Viện trưởng VKSND dân tối cao (trước đó là: Quy chế tổ chức và hoạt
động của CQĐT VKSND tối cao ban hành kèm theo quyết định số 18/QĐ-VKSTC-C1
50
ngày 20/11/2015 của Viện trưởng VKSND tối cao). Theo đó, các Vụ nghiệp vụ thuộc
VKSND tối cao và VKSND các địa phương đã phối hợp với CQĐT VKSND tối cao
trong việc tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác tội phạm thuộc thẩm quyền của
CQĐT VKSND tối cao, trong đó có tội phạm LSLHSVAVV, tạo điều kiện cho
VKSND tối cao hoàn thành nhiệm vụ. CQĐT VKSND tối cao cũng đã tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và thông báo kết quả giải quyết cho các đơn vị đã
chuyển tố giác, tin báo về tội phạm. Đồng thời có trách nhiệm tham mưu cho các đơn
vị này thực hiện các biện pháp phòng ngừa tội phạm xâm phạm HĐTP của cán bộ,
Kiểm sát viên trong toàn ngành Kiểm sát.
Thực tiễn, từ năm 2016 đến 6/2020, các Vụ nghiệp vụ và các VKSND địa
phương đã chuyển đến CQĐT VKSND tối cao 420 tin báo thuộc thẩm quyền, trong đó
có 33 tin về tội phạm LSLHSVAVV nên đã giúp cho cơ quan này nắm bắt và quản lý
tốt hơn tình hình tội phạm xâm phạm HĐTP nói chung, tội phạm LSLHSVAVV nói
riêng trên địa bàn cả nước (xem Bảng 2.8, 2.9 - Phụ lục).
2.3.3. Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
với các Cơ quan điều tra khác và lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp của Bộ
Công an
- Quan hệ phối hợp giữa CQĐT VKSND tối cao với CQĐT khác: Trong những
năm qua, CQĐT VKSND tối cao đã nhận được sự hỗ trợ của các CQĐT khác (nhất là
CQĐT của lực lượng Công an nhân dân) về lực lượng, công cụ, phương tiện trong quá
trình điều tra những vụ án xâm phạm HĐTP nói chung, vụ án LSLHSVAVV nói riêng,
nhất là những vụ có tính chất nghiêm trọng, phức tạp khi mà các điều kiện về con
người, trang thiết bị và cơ sở vật chất của CQĐT của VKSND tối cao chưa đáp ứng
được. Bên cạnh đó, giữa CQĐT VKSND tối cao với CQĐT của lực lượng Công an
nhân dân cũng đã phối hợp trong việc thực hiện hoạt động ủy thác điều tra theo quy
định của pháp luật. Tất cả sự phối hợp này cơ bản có sự chặt chẽ, đảm bảo tiến độ của
quá trình điều tra vụ án LSLHSVAVV.
- Phối hợp với các Trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an trong việc
tạm giam bị can: Thực tế, CQĐT VKSND tối cao thường liên hệ với Cục Điều tra
hình sự Bộ Quốc phòng để tạm giam bị can ở Trại tam giam của Cục Điều tra hình sự
hoặc liên hệ với Phòng Điều tra hình sự Quân khu 5, Quân khu 7 để tạm giam bị can
51
tại Trại tạm giam của Quân khu. Về cơ bản sự phối hợp này là chặt chẽ, đảm bảo các
quy định của pháp luật, tạo thuận lợi cho quá trình điều tra.
- Quan hệ phối hợp với lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp trong công
tác bắt, áp giải bị can và dẫn giải người làm chứng: Mối quan hệ này đã được thực
hiện theo đúng Quyết định số 1502/2008/QĐ - BCA (C11) về quy trình bắt, áp giải bị
can, bị cáo, dẫn giải người làm chứng của lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp,
CQĐT VKSND tối cao đã phối hợp với lực lượng này để thi hành lệnh bắt, áp giải bị
can về nơi tạm giam hoặc áp giải người làm chứng để tiến hành lấy lời khai trong quá
trình điều tra vụ.
2.4. Nhận xét, đánh giá
2.4.1. Những kết quả đạt được
- Trong giai đoạn 2016 – 6/2020, hoạt động điều tra các vụ án LSLHSVAVV
của CQĐT VKSND tối cao đã nhận được sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời của lãnh đạo
VKSND tối cao và lãnh đạo CQĐT VKSND tối cao; sự nỗ lực, quyết tâm của toàn thể
lực lượng cán bộ, ĐTV. Vì vậy, công tác điều tra các vụ án LSLHSVAVV thuộc thâm
quyền của CQĐT VKSND tối cao về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ công
tác, góp phần hỗ trợ tích cực cho việc thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp của ngành Kiểm sát.
- Kết quả tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và điều tra các vụ án
LSLHSVAVV thuộc thẩm quyền đã có những chuyển biến tích cực, có tính đột phá.
Chất lượng công tác điều tra được đảm bảo, biểu hiện cụ thể là: Trong giai đoạn 2016
– 6/2020, không có vụ án nào khởi tố oan, đồng thời đã giải quyết được nhiều vụ án
nghiêm trọng, phức tạp, được dư luận đồng tình.
- Các biện pháp và chiến thuật điều tra được các ĐTV áp dụng kịp thời, phù hợp
như: Chiến thuật bắt, tạm giam những người có chức vụ, quyền hạn; chiến thuật hỏi
cung kết hợp với việc tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can đã góp phần
mang lại hiệu quả cao cho công tác điều tra mà người phạm tội là cán bộ của các CQTP.
- Hoạt động điều tra các vụ án LSLHSVAVV đã chú ý chấp hành tốt các quy
định của pháp luật về trình tự, thủ tục, thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều tra;
luôn đảm bảo tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, đảm bảo quán triệt
52
các yêu cầu của công tác cải cách tư pháp, đó là tiến hành công tác tư pháp công khai,
minh bạch, dân chủ, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
- Mối quan phối hợp giữa CQĐT VKSND tối cao với các cơ quan, đơn vị hữu
quan trong công tác tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm và trong công tác bắt, giam,
giữ đối tượng phạm tội để phục vụ hoạt động điều tra được chú trọng thực hiện.
2.4.2. Những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân
2.4.2.1. Những hạn chế, thiếu sót
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV của
CQĐT VKSND tối cao còn có những hạn chế, thiếu sót sau đây:
Một là, việc nắm bắt, quản lý tình hình vi phạm, tội phạm về các tội xâm phạm
HĐTP nói chung, tội phạm LSLHSVAVV nói riêng thuộc thẩm quyền của CQĐT
VKSND tôi cao chưa đẩy đủ, kịp thời đã làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công
tác phát hiện và điều tra. Công tác thụ lý, phân loại, xác minh đơn, tin thuộc thẩm
quyền chưa sát, dẫn đến còn tình trạng xác minh tràn lan, xác minh nhiều nhưng khởi
tố vụ án chiếm tỉ lệ thấp. Đa số vụ việc còn kéo dài quá thời hạn xác minh, giải quyết;
chậm ra các quyết định, thông báo kết quả sau khi kết thúc xác mình (nhất là đối với
nhữmg trường hợp không khởi tố).
Hai là, chất lượng hoạt động khởi tố, điều tra cũng còn có những tồn tại sau:
- Trong một số trường hợp, CQĐT đã quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can
không đúng tội danh hoặc còn bỏ lọt hành vi phạm tội nên phải thay đổi hoặc phải bổ
sung quyết định khởi tố nhiều lần hoặc phải chuyển cho CQĐT khác tiến hành điều
tra; thời hạn điều tra của một số vụ án còn kéo dài.
- Vẫn còn có một số vụ án, công tác khởi tố và áp dụng các biện pháp ngăn
chặn, thực hiện khám xét không đảm bảo yêu cầu nhanh chóng, kịp thời. Do đó, đối
tượng có thời gian và các điều kiện để tẩu tán vật chứng, tiêu hủy các giấy tờ, tài liệu
hay hợp thức được hồ sơ vụ án có vi phạm; chuẩn bị đối phó, thiết lập “đường dây”
chạy án, chạy tội, gây khó khăn rất lớn cho việc chứng minh tội phạm và quá trình giải
quyết vụ án.
- Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế còn có những
trường hợp chậm trễ nên không đảm bảo được mục đích kịp thời ngăn chặn tội phạm;
có trường hợp do thiếu thận trọng, tỉ mỉ mà không phát hiện được những đồ vật, tài
53
liệu có liên quan đến vụ án; có trường hợp phán đoán không chính xác dẫn đến việc
khám xét không thu được kết quả mong muốn.
- Một số trường hợp hỏi cung bị can, còn có ĐTV đã chủ quan cho rằng việc
hỏi cung chỉ là thủ tục để hoàn chỉnh hổ sơ truy tố nên đã không chủ ý đấu tranh khai
thác làm rõ động cơ, mục đích phạm tội của bị can, do đó đã không thể mở rộng điều
tra vụ án khi có dấu hiệu của tội phạm khác hoặc do trình độ nghiệp vụ non yếu nên đã
không làm rõ được các mâu thuẫn trong lời khai của bị can dẫn đến khi xét xử, Tòa án
phải trả hồ sơ để điều tra bổ.
- Trong một số trường hợp, yêu cầu nêu ra trong quyết định trưng cầu giám
định của CQĐT còn chưa rõ ràng, không đúng bản chất của truy nguyên hình sự nên
cơ quan giám định, người giám định không thể trả lời được hoặc kết luận không đúng
vấn đề được yêu cầu giám định dẫn đến không thể sử dụng được kết quả giám định
hoặc phải tiến hành giám định lại. Vẫn còn trường hợp phải gia hạn thời hạn điều tra
vụ án hoặc phải tạm đình chi điều tra vì cơ quan giám định chậm trả kết quả giám
định. Một số trưởng hợp yêu cầu trưng cầu giám định kỹ thuật hình sự như: Yêu cầu
giải mã các thông tin lưu trong các thiết bị kỹ thuật số còn gặp khó khăn, chậm được
giải quyết.
Ba là, quan hệ phối hợp công tác giữa CQĐT VKSND tối cao với các cơ quan
hữu quan có lúc còn thiếu chặt chẽ, đồng bộ. Cụ thể là:
- Một số VKSND địa phương chưa chú ý đến việc chuyển các tin báo, tố giác
tội phạm về các hành vi LSLHSVAVV do cán bộ của CQTP địa phương thực hiện đến
CQĐT VKSND tối cao. Cá biệt, còn có một số VKSND địa phương chưa thực hiện
đúng chức năng, nhiệm vụ của mình nên đã để cho CQĐT địa phương khởi tố, điều tra
vụ án thuộc thẩm quyền của CQĐT VKSND tối cao mà không có ý kiến gì.
- Một số cơ quan có liên quan khi nhận được yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng
cứ do muốn bao che cho cán bộ vi phạm, muốn “xử lý nội bộ" nên đã tìm cách né
tránh, viện lý do để trì hoãn hoặc không thực hiện yêu cầu.
- Giữa CQĐT VKSND tối cao với các CQĐT chuyên trách khác vẫn còn xảy ra
tình trang tranh chấp về thẩm quyền điều tra.
Với những điểm hạn chế, thiếu sót nêu ra ở trên cũng là nguyên nhân dẫn tới
thực trạng số vụ án LSLHSVAVV được phát hiện, khởi tố, điều tra còn ít, có thể chưa
54
phản ánh đúng thực trạng của tình hình loại tội phạm này; tiến độ điều tra các vụ án
LSLHSVAVV còn chậm; kết quả công tác điều tra cũng chưa thực sự cao khi số vụ
kết thúc điều tra, đề nghị truy tố mới chỉ chiếm chiếm 64,7% số vụ án đã khởi tố.
2.4.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót
Thứ nhất, trong nhiều trường hợp công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động điều tra
vụ án LSLHSVAVV thuộc thẩm quyền của CQĐT VKSND tối cao chưa sâu sát, quyết
liệt. Do đối tượng phạm tội là cán bộ, đảng viên, người có chức vụ, quyền hạn trong
các CQTP nên nhiều khi phải trao đổi, báo cáo xin ý kiến của nhiều cấp, nhiều ngành.
Do đó, chưa đảm bảo tính độc lập của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT trong chỉ
đạo giải quyết vụ án. Bên cạnh đó, trong chỉ đạo điều tra một số vụ án còn có hiện
tượng thiếu kiên quyết theo kiểu “giơ cao đánh khẽ" hoặc do nhiều yếu tố chi phối dẫn
tới việc để lộ thông tin cho báo chí khai thác, ảnh hưởng đến quá trình điều tra, xử lý.
Một số vụ án còn có hiện tượng cán bộ lãnh đạo các CQTP, các cơ quan Đảng,
chính quyền can thiệp vào các quyết định của CQĐT, một số trường hợp còn bao che
cho hành vi phạm tội của đối tượng. Do đó, quá trình điều tra LSLHSVAVV của
CQĐT VKSND tối cao, ĐTV thường phải chịu nhiều sức ép tâm lý đến từ nhiều phía,
từ đồng nghiệp, từ các cơ quan báo chí, dư luận xã hội, từ cấp trên (Đảng, chính
quyền), Viện Kiểm sát, Tòa án, luật sư... Những điều đó nhiều khi làm giảm nhiệt tình
và ý chí quyết tâm của cán bộ điều tra trong quá trình điều tra.
Thứ hai, đối tượng phạm tội LSLHSVAVV thuộc thẩm quyền điều tra của
CQĐT VKSND tối cao là những cán bộ tư pháp - những người có trình độ và năng lực
pháp lý, có nhiều thủ đoạn tinh vi để thực hiện tội phạm, che dấu tội phạm và đối phó
trong quá trình bị điều tra. Đồng thời, là những người có địa vị xã hội nên đối tượng
phạm tội thường có những mối quan hệ rộng với những người có chức vụ, quyền hạn
khác, do đó thường tìm mọi cách để “chạy án”, tìm “ô dù” che chở, tác động vào quá
trình điều tra để làm giảm nhẹ trách nhiệm, hoặc không phải chịu TNHS về hành vi
phạm tội của mình, vì vậy, đã gây không ít khó khăn cho quá trình điều tra, xử lý
người phạm tội.
Thứ ba, do CQĐT VKSND tối cao chỉ được tổ chức ở VKSND tối cao, không
có đơn vị ở cơ sở ở các địa phương nên không có hệ thống “chân rết"; địa bàn xác
minh điều tra lại rộng (trên phạm vi toàn quốc) nhưng số lượng ĐTV còn thiếu nên
55
không đủ lực lượng để tiến hành điều tra, quản lý địa bàn (hiện tại chỉ có 96 ĐTV
nhưng địa bàn hoạt động là 63 tỉnh, thành phố của cả nước, thì trung bình chưa tới 02
ĐTV phải chịu trách nhiệm quản lý và tiến hành hoạt động điều tra trên địa bàn của
một tỉnh) dẫn đến tinh trạng bỏ lọt tội phạm. Mặt khác, trụ sở làm việc, phương tiện,
trang thiết bị, kinh phí phục vụ cho công tác điều tra còn thiếu thốn làm cho các hoạt
động kiểm tra, xác minh tin báo, hoạt động điều tra của ĐTV gặp nhiều khó khăn, tiến
độ giải quyết vụ án bị ảnh hưởng.
Thứ tư, năng lực công tác, trình độ chuyên môn nghiệp vụ điều tra, khả năng tư
duy và sự hiểu biết về xã hội, về các lĩnh vực HÐTP của một số cán bộ, ĐTV còn hạn
chế; tinh thần, ý thức trách nhiệm, sự chủ động tích cực của ĐTV trong một số công
việc cụ thể chưa cao; chế độ lương, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, ĐTV làm công
tác điêu tra trong ngành Kiểm sát còn thấp hơn nhiều so với cán bộ, ĐTV của các
CQĐT khác trong Công an nhân dân và Quân đội nhân dân… Tất cả những yêu tố này
đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng hoạt động điều tra của ĐTV và cán bộ
điều tra thuộc CQĐT VKSND tối cao.
Thứ năm, sự phối hợp hoạt động của các cơ quan hữu quan với CQĐT VKSND
tối cao nhiều lúc, nhiều nơi còn chiếu lệ, mang nặng tính cục bộ, “quyền anh - quyền
tôi”, gây khó khăn cho việc điều tra phá án. Bên cạnh đó, trong quá trình điều tra của
CQĐT VKSND tối cao, các cơ quan tư pháp ít nhiều đều có quan hệ phối hợp, chế ước
lẫn nhau trong hoạt động tư pháp nói chung, trong đó có hoạt động điều tra. Vì vậy,
không ít trường hợp họ có thể tác động, thậm chí gây trở ngại đến hoạt động điều tra,
xử lý vụ án. Điều này xuất phát từ nguyên nhân do lo sợ ảnh hưởng xấu đến uy tín,
thành tích của cơ quan tư pháp chủ quản, ảnh hưởng đến trách nhiệm của người lãnh
đạo cơ quan nếu có cán bộ trong cơ quan phạm tội, bởi vậy, “cơ quan tư pháp dễ này
sinh tâm lý muốn “gói kín” sự kiện phạm tội, để xử lý nội bộ. Người phạm tội cũng
muốn dựa vào cơ quan để lẩn tránh trách nhiệm, đối phó với Cơ quan điều tra” [16].
Thứ sáu, ngành Kiểm sát không có bộ phận lực lượng vũ trang làm công tác hỗ
trợ tư pháp. Điều này tất yếu dẫn đến việc hạn chế rất nhiều hoạt động trong công tác
điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền. Trong quá trình điều tra khi tiến hành các lệnh
bắt, khám xét, dẫn giải, áp giải hay các hoạt động thu thập chứng cứ khác phục vụ việc
chứng minh vụ án hình sự, khi cần thiết CQĐT VKSND tối cao bắt buộc phải đề nghị
56
bộ phận hỗ trợ tư pháp của các ngành khác mà chủ yếu là ngành công an để thực hiện
các hoạt động đó. Điều này vừa khiến hoạt động điều tra trở nên bị động, không đảm
bảo tính kịp thời, bất ngờ và đặc biệt là có khả năng làm lộ bí mật điều tra. Bên cạnh
đó, hiệu quả hoạt động của một cơ quan lại phụ thuộc vào sự tham gia của cơ quan
khác rõ ràng là điều không thuận lợi khi tiến hành thực hiện chức năng của mình.
Ngoài ra, ngành Kiểm sát cũng không có hệ thống nhà tạm giữ do mình quản
lý. Do đó trong quá trình điều tra, khi tiến hành tạm giữ, tạm giam các đối tượng phạm
tội, cơ quan này phải gửi các bị can ở trại giam, trại tạm giam của Bộ công an, Bộ
quốc phòng, điều này gây nhiều trở ngại trong việc tiến hành các hoạt động điều tra
như hỏi cung bị can, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, ít có điều kiện làm
việc đột xuất nếu bị can đề nghị được khai báo, không chủ động được trong việc đảm
bảo an toàn tuyệt đối cho các đối tượng phạm tội…
Thứ bảy, kết quả hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV của CQĐT VKSND
tối cao chưa được sơ kết, tổng kết, đánh giá một cách kịp thời, chính xác, hợp lý để rút
ra những bài học kinh nghiệm, khái quát thành lý luận làm cơ sở cho việc lãnh đạo, chỉ
đạo, tổ chức thực hiện tốt các hoạt động điều tra loại án này.
Kết luận chương 2
Bằng việc khảo sát thực tiễn và sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích,
so sánh, thống kê, điều tra điển hình, tham khảo ý kiến chuyên gia…. trong chương 2
của luận văn đã phân tích, làm sáng tỏ tình hình, đặc điểm có liên quan đến hoạt động
điều tra vụ án LSLHSVAVV thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND tối cao.
Đặc biệt trọng tâm của chương 2 đã đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động
điều tra vụ án LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao trong 5 năm (từ 2016 đến
tháng 6/2020), trên cơ sở đó đã rút ra những nhận xét, đánh giá về kết quả đạt được;
hạn chế, thiếu sót và làm rõ nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót.
Những vấn đề được tác giả luận văn trình bày ở chương 2 là cơ sở để tác giả đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV
của CQĐT VKSND tối cao ở Chương 3.
57
Chương 3
DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐIỀU TRA VỤ ÁN LÀM
SAI LỆCH HỒ SƠ VỤ ÁN, VỤ VIỆC CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Dự báo tình hình tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc và những yếu tố
tác động đến hoạt động điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc của Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời gian tới
Với kết quả nghiên cứu nêu trên, cùng với những chính sách phát triển kinh tế -
xã hội, cải cách tư pháp… luận văn đưa ra một số dự báo tình hình tội LSLHSVAVV
thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND tối cao và dự báo về những yếu tố
thuận lợi và khó khăn trong điều tra vụ án LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao
trong thời gian tới như sau:
3.1.1. Dự báo tình hình tội làm sai lệch hồ sợ vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời gian tới
Một là, trong những năm tới tội LSLHSVAVV không có xu hướng tăng, tuy vậy
cũng không giảm về số vụ và tính chất, mức độ thiệt hại do loại tội phạm này gây ra.
Hai là, phương thức, thủ đoạn gây án của tội phạm LSLHSVAVV trong những
năm tới cơ bản không có gì mới và khác hơn so với thủ đoạn gây án trong những năm
qua. Tuy nhiên, trước sự vào cuộc quyết liệt của các cơ quan chức năng, có thể các đối
tượng phạm tội sẽ tinh vi hơn trong các thủ đoạn gây án và che dấu tội phạm.
Ba là, nguyên nhân trực tiếp và chủ yếu của tình hình tội LSLHSVAVV là do
sự suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên có chức vụ quyền hạn, họ bị sa vào chủ nghĩa thực dụng, chạy theo lợi ích vật
chất mà quên đi chức trách, nhiệm vụ của mình và trong đó các cán bộ tư pháp cũng
không phải là ngoại lệ. Mặt khác, do chế độ chính sách như tiền lương, phụ cấp chưa
đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của đại đa số cán bộ tư pháp nên dễ nảy sinh nhu cầu
“kiếm tiền” bằng việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm trái pháp luật.
3.1.2. Dự báo về những yếu tố thuận lợi và khó khăn trong điều tra vụ án làm
sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
trong thời gian tới
Thứ nhất, những yếu tố thuận lợi:
58
- Sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với hoạt động điều tra tội phạm nói
chung, điều tra vụ án LSLHSVAVV nói riêng ngày càng quyết liệt.
Trong những năm vừa qua, Đảng ta đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết về
công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm như: Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010
của Bộ Chính trị “Về tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình
mới”; Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/6/2015 của Bộ Chính trị “Về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo trật tự trong tình hình mới”.
Những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo nêu trên thể hiện Đảng ta rất quan tâm đến
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, trong đó có tội phạm xâm phạm HĐTP nói
chung, tội phạm LSLHSVAVV nói riêng. Và trong thời gian tới, thực hiện những chủ
trương, đường lối của Trung ương Đảng, các cấp ủy Đảng, đặc biệt là trong hệ thống
CQĐT và VKSND sẽ tăng cường hơn nữa công tác lãnh đạo, chỉ đạo đối với việc thực
hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, tăng cường và nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, công
tác điều tra vụ án hình sự nói riêng. Sự lãnh đạo sâu sát, chặt chẽ và quyết liệt của các
cấp ủy Đảng sẽ là điều kiện thuận lợi cơ bản trong điều tra vụ án LSLHSVAVV trong
thời gian tới, một mặt có ý nghĩa tác động tới chính CQĐT VKSND tối cao trong việc
nâng cao hiệu quả công tác điều tra, mặt khác còn có ý nghĩa tạo ra sự đông thuận
trong các cơ quan Nhà nước nói chung, CQTP nói riêng và sự đồng thuận trong toàn
xã hội để công tác điều tra vụ án LSLHSVAVV được hiệu quả.
- Công tác chỉ đạo, điều hành của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
trong điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc tiếp tục được sâu sát và cụ thể.
Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, đặc
biệt là chủ trương“Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”và
chủ trương “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố
với hoạt động điều tra” đòi hỏi Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND, Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng CQĐT VKSTC phải tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành đối với
công tác điều tra vụ án LSLHSVAVV.
Thứ hai, những yếu tố khó khăn:
- Hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT
59
VKSND tối cao hết sức phức tạp, liên quan tới những người có chức vụ, quyền hạn
trong HĐTP, liên quan tới các CQTP; việc thu thập tài liệu, chứng cứ để chứng minh
hành vi phạm tội của các đối tượng là hết sức khó khăn. Trong khi đó, với lực lượng
ĐTV, cán bộ điều tra mỏng; trình độ, năng lực vẫn còn những bất cập nhất định; kinh
phí cho hoạt động điều tra vẫn còn hạn chế. Do đó, sẽ tiếp tục gây khó khăn cho các
hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV, tiến độ điều tra sẽ tiếp tục chậm, thậm chí có
thể kéo dài.
- Đối tượng trong vụ án LSLHSVAVV là những người có trình độ pháp luật,
nghiệp vụ điều tra và có quan hệ rộng; đối tượng sẽ tiếp tục tục tìm cách quan hệ với
những người có chức vụ, quyền hạn, có uy tín và địa vị xã hội để tạo ô dù che chắn.
Khi hành vi phạm tội bị phát hiện thì bản thân và gia đình họ sẽ tiếp tục có những
hành vi chạy án. Do lợi ích cục bộ mà một bộ phận cán bộ trong CQTP không đồng
tình với CQĐT VKSND tối cao, họ có những hành vi cản trở nhất định hoặc lợi dụng
chức vụ, quyền hạn, lợi dụng sự ảnh hưởng về địa vị và uy tín để bao che cho các đối
tượng phạm tội; gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với các đối
tượng trong vụ án LSLHSVAVV. Đây là một thách thức lớn cho CQĐT VKSND tối
cao trong đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra vụ án làm sai lệch hồ
sơ vụ án, vụ việc của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời
gian tới
3.2.1. Đổi mới tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực, trình độ, bản lĩnh cho đội
ngũ Điều tra viên, cán bộ điều tra và đảm bảo điều kiện về cơ sở vật chất, kinh phí
hoạt động cho Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Thứ nhất, đổi mới tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực, trình độ, bản lĩnh cho
đội ngũ Điều tra viên, cán bộ điều tra của CQĐT VKSND tối cao
Thực hiện các quy định của pháp luật và chủ trương của Đảng về việc hoàn
thiện tổ chức bộ máy các CQTP trong Chiến lược cải cách tư pháp được đề ra trong
Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, thực hiện theo quy định
của Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015, hiện nay Cơ quan điều tra thuộc
VKSND đã được thu gọn đầu mối và tổ chức ở VKSND tối cao theo mô hình: CQĐT
VKSND tối cao được tổ chức ở cấp Trung ương, có trụ sở chính đặt tại thành phố Hà
60
Nội, 02 Đại diện Thường trực đặt tại TP Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh và 10 phòng
nghiệp vụ. Về lực lượng CQĐT của VKSND tối cao có tổng số 173 biên chế. Với mô
hình này, những năm qua CQĐT VKSND tối cao đã đảm bảo được sự tập trung thống
nhất trong lãnh đạo, chỉ huy các hoạt động điều tra, tránh được tình trạng lệ thuộc vào
nhiều mối quan hệ ở địa phương (đặc biệt là mối quan hệ với những người có chức vụ,
quyền hạn trong các CQTP) trong quá trình điều tra, giải quyết các vụ án xâm phạm
HĐTP nói chung, vụ án LSLHSVAVV nói riêng.
Tuy nhiên, do không có các đầu mối và các cơ sở ở địa phương, số ĐTV chỉ có
96 ĐTV các cấp nhưng phải hoạt động trên địa bàn cả nước, phụ trách theo dõi thông
tin của các CQTP trung ương, các CQTP của 63 tỉnh, thành phố và các CQTP của 698
huyện, thị xã của cả nước nên CQĐT VKSND tối cao không thể kịp thời nắm bắt và
xử lý những tin báo, tố giác tội phạm thuộc thẩm quyền, trong khi loại tội phạm này
đang có xu hướng gia tăng. Trên thực tế, hoạt động của CQĐT của VKSND tối cao
không thể có hiệu quả cao khi khả năng nắm bắt các tin báo, tố giác tội phạm vốn là
“đầu vào” của hoạt động điều tra còn hạn chế như hiện nay. Đó là chưa kể đến việc
thực hiện thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện theo quy định của Bộ luật TTHS
năm 2015 và Bộ luật TTDS năm 2015, thì có đến 90% tổng số vụ, việc được thụ lý
giải quyết thuộc thẩm quyền của các CQTP cấp huyện. Vì vậy, tổ chức bộ máy của
CQĐT VKSND tối cao như hiện nay sẽ gặp nhiều khó khăn, bất cập trong việc phát
hiện, điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền.
Chính vì vậy, để Cơ quan điều tra VKSND tối cao có thể làm tốt nhiệm vụ phát
hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật trong điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án, kịp thời ngăn chặn sự lạm quyền, xâm phạm các quyền dân chủ của
công dân, đồng thời khắc phục tình trạng thiếu kiên quyết, bỏ lọt vi phạm, tội phạm
trong các HĐTP nhằm đáp ứng yêu cầu: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[3], góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ của VKSND được
ghi nhận trong khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 là: “...bảo vệ pháp luật, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cả nhân, góp phần bảo đảm pháp
61
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” , thì CQĐT VKSND tối cao cần
phải được đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động theo hướng:
- CQĐT VKSND tối cao về cơ bản vẫn được tổ chức như hiện nay nhưng cần
tăng cường thêm từ 05 - 07 đơn vị đại diện Thường trực của CQĐT ở những thành phố
trực thuộc trung ương và ở một số khu vực khác. Các Đại diện Thường trực của CQĐT
này có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND tối cao
dưới sự chỉ đạo thống nhất của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT. Có như vậy, hoạt
động của CQĐT VKSND tối cao mới bảo đảm việc phát hiện, phân loại, xử lý thông
tin tội phạm được kịp thời, chính xác, tiến độ điều tra sẽ không bị kéo dài, đồng thời
bảo đảm việc độc lập, chủ động tiến hành các hoạt động điều tra, sự chỉ huy thống nhất
của Thủ trưởng CQĐT và lãnh đạo của Viện trưởng VKSND tối cao theo nguyên tắc
tổ chức và hoạt động tập trung thống nhất của ngành Kiểm sát.
- Cùng với việc đổi mới tổ chức bộ máy, cần phải tăng cường lực lượng cán bộ,
ĐTV làm nhiệm vụ điều tra của CQĐT VKSND tối cao. Bởi vì: Với nhiệm vụ phải
tiến hành xác minh, xử lý các tin báo, tố giác về tội phạm và điều tra các vụ án thuộc
thẩm quyền trên địa bàn cả nước thì lực lượng ĐTV của CQĐT VKSND tối cao như
hiện nay vẫn còn mỏng (xem Bảng 2.8 - Phụ lục). Do vậy, cần phải bổ sung thêm lực
lượng cán bộ, ĐTV.
Theo Nghị quyết số 522e/NQ - ƯBTVQH13 ngày 16/8/2012 của ủy ban
Thường vụ Quốc hội khóa 13, cho phép bổ sung thêm biên chế và tăng số lượng ĐTV
của CQĐT VKSND tối cao lên 185 người, trong đó có 35 ĐTV cao cấp nhưng cho đến
nay, CQĐT mới chỉ có 173 biên chế, với 96 ĐTV, trong đó có 22 ĐTV cao cấp. Do
vậy, cần bổ sung thêm lực lượng ĐTV từ các nguồn, bằng các biện pháp khác nhau
như: Lựa chọn trong số cán bộ kiểm sát đã từng là ĐTV của VKSND các cấp trước
đây, có trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm trong hoạt động điều tra để chuyển về làm
công tác điều tra ở CQĐT của VKSND tối cao. Đồng thời, có thể đề nghị với Bộ Công
an cho phép điều động, tuyển dụng một số cán có năng lực, được đào tạo chính quy về
chuyên ngành điều tra trong các cơ sở đào tạo của Bộ Công an sang công tác tại
CQĐT của VKSND tối cao. Hoặc xây dựng Quy chế phối hợp trong công tác đào tạo
với Học viện An ninh nhân dân, Học viện Cảnh sát nhân dân, Trường Đại học Cảnh
sát nhân dân... để gửi một số cán bộ kiếm sát có năng lực và đã có trình độ chuyên
62
ngành Luật sang đào tạo văn bằng 2 về chuyên ngành điều tra nhằm chuẩn hóa “đầu
vào” của lực lượng cán bộ, ĐTV của Cơ quan điều tra VKSND tối cao.
- Song song với việc bổ sung thêm lực lượng thì cần phải nâng cao bản lĩnh
chính trị, trình độ, kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ ĐTV, cán bộ điều tra của Cơ quan
điều tra VKSND tối cao hiện nay bằng nhiều hình thức như:
+ Thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý
thức tự giác, tinh thần trách nhiệm nghề nghiệp cho cán bộ, ĐTV;
+ Thực hiện việc khen thưởng kịp thời đối với những cán bộ, ĐTV có thành
tích xuất sắc trong công tác, đồng thòi xử lý nghiêm minh đối với những sai phạm, vi
phạm pháp luật của cán bộ, ĐTV;
+ Liên kết, phối hợp với các cơ sở đào tạo của Bộ Công an tổ chức các lớp đào
tạo, bồi dưỡng lý luận về khoa học điều tra, nghiệp vụ điều tra tố tụng tại các cơ sở đào
tạo của ngành Kiểm sát.
Trong việc bồi dưỡng nghiệp vụ điều tra cho ĐTV, trước hết căn phải bồi
dưỡng cho họ nhận thức về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự. Đối với
kiến thức về chứng cứ trong điều tra tội phạm LSLHSVAVV, cán bộ điều tra, ĐTV
phải nắm được những chứng cứ phổ biến trong vụ án LSLHSVAVV và những quy
luật hình thành chứng cứ trong từng tình huống cụ thể. Hiểu biết sâu vấn đè này sẽ
nâng cao năng lực phát hiện, thu thập tài liệu, chứng cứ của cán bộ điều tra, ĐTV
trong điều tra các vụ án LSLHSVAVV. Đối với kiến thức về lý luận chứng minh trong
điều tra vụ án LSLHSVAVV, cần bồi dưỡng cho cán bộ điều tra, ĐTV năng lực xác
định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án, từng vấn đề đó căn chứng minh bằng
những liệu, chửng cứ nào? Thu thập các chứng cứ đó như thế nào? Những phương tiện
nào sẽ tham gia vào quá trình chứng minh vụ án LSLHSVAVV… Bên cạnh đó, cần
thường xuyên bồi dưỡng cho ĐTV về các hoạt động nghiệp vụ cụ thể như chiến thuật
bắt, khám xét, lấy lời khai, hỏi cung…
Thứ hai, đảm bảo điều kiện về cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động cho Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Trong những năm qua những hạn chế về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc
phần nào tác động không tốt tới tư tưởng, tinh thần làm việc và tác động tới hiệu quả
của một số nội dung trong hoạt động điều tra các vụ án xâm phạm HĐTP nói chung,
vụ án LSLHSVAVV nói riêng. Trên cơ sở định hướng chung về cơ sở vật chất cho các
63
cơ quan tư pháp được các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp đề cập là: Tăng
cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho các cơ quan, cán bộ tư pháp, bổ trợ tư
pháp theo hướng hiện đại, không để lạc hậu hơn so với phương tiện hoạt động của bọn
tội phạm. Trong những năm tới, VKSND tối cao cần hoạch định những bước đi phù
hợp để bảo đảm cơ sở vật chất về trụ sở, trang thiết bị phục vụ hoạt động điều tra của
CQĐT VKSND tối cao theo hướng sau:
- Xác định kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động điều tra của
CQĐT VKSND tối cao như đối với các CQĐT thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và
có tính đến đặc thù riêng của CQĐT này.
- Đảm bảo cấp đủ kinh phí cho hoạt động điều tra, hoạt động thu thập thông tin
về tội phạm từ cơ sở, hoạt động phối hợp trong công tác điều tra của CQĐT VKSND
tối cao với các cơ quan, đơn vị có liên quan.
- Đầu tư kinh phí xây dựng trụ sở làm việc với đầy đủ trang thiết bị văn phòng
cho các đơn vị trực thuộc CQĐT VKSND tối cao ở các khu vực.
- Trang bị đầy đủ phương tiện, thiết bị kỹ thuật hiện đại cần thiết cho hoạt động
nghiệp vụ của CQĐT, ĐTV VKSND tối cao theo kế hoạch dài hạn (3 năm; 5 năm; 10
năm) và theo từng năm công tác.
- Đảm bảo chế độ chính sách phù hợp đối với ĐTV của CQĐT VKSND tối cao.
Xuất phát từ nét đặc thù trong công tác của ĐTV của CQĐT VKSND tối cao: Công
việc vừa phức tạp, nguy hiểm, vừa đòi hỏi năng lực trình độ cao, áp lực công việc lớn,
đặc biệt là đa số cán bộ, ĐTV phải sống xa nhà vì trụ sở cơ quan, nơi làm việc không
gắn liền với địa phương huyện, tỉnh như các CQĐT khác. Do đó, cần có chế độ, chính
sách phù họp đối với đội ngũ cán bộ, ĐTV của CQĐT VKSTC để thu hút được người
có năng lực, đồng thời đảm bảo cho cán bộ, ĐTV an tâm công tác, không vi phạm, tiêu
cực, cần phải đảm bảo thực hiện một số vấn đề cơ bản như: Xây dựng chế độ lương,
phụ cấp của cán bộ, ĐTV phù hợp với công tác (như chế độ của cán bộ, ĐTV các
CQĐT chuyên trách khác); thực hiện chế độ nhà công vụ; ưu tiên phương tiện giao
thông; có chế độ công tác phí phù hợp với đặc thù công việc…
3.2.2. Tăng cường công tác tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm làm
sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc
Thứ nhất, tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tiếp nhận tố
giác, tin báo về tội phạm LSLHSVAVV.
64
Trước hết, lãnh đạo, cán bộ, ĐTV trong CQĐT VKSND tối cao cần nhận thức
đầy đủ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác thông tin về tội phạm thuộc thẩm
quyền điều tra nói chung, thông tin tội phạm LSLHSVAVV nói riêng. Công tác này
phải được xác định là một trong những hoạt động nghiệp vụ quan trọng, mọi quyết
định về hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV đều phải dựa vào kết quả của công tác
thông tin (kết quả phân tích, đánh giá, xử lý các thông tin, tài liệu liên quan).
Khi tiếp nhận thông tin ban đầu phản ánh về vụ việc LSLHSVAVV, dù tin đó
từ nguồn nào, bí mật hay công khai đều đòi hỏi ở người tiếp nhận tin khả năng khai
thác thông tin. Trước hết phải có thái độ ứng xử, giao tiếp đúng mực đối với người
cung cấp tin, để người cung cấp tin bình tĩnh và thấy rõ được trách nhiệm của mình đối
với nội dung tin báo và cố gắng trình bày rõ sự việc. Cán bộ tiếp nhận đã chú ý ghi
nhận các thông tin cần thiết về cá nhân, tổ chức cung cấp tin báo; thời gian, địa điểm
và diễn biến của sự việc đã xảy ra; lập biên bản tiếp nhận tài liệu, hồ sơ liên quan và
thụ lý đẩy đủ vào “Sổ quản lý tố giác, tin báo về tội phạm” theo quy định.
Để thực hiện tốt hoạt động tiếp nhận, xử lý thông tin phản ánh về vụ việc
LSLHSVAVV phải đổi mới hoạt động thu thập thông tin về tội phạm bằng việc đa
dạng hóa các nguồn thu thập thông tin như:
- Xây dựng các Quy chế phối hợp với các CQTP khác, cơ quan Thanh tra nhà
nước để tạo cơ sở pháp lý, tăng cường mối quan hệ phối hợp với các Cơ quan này
trong việc tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ
quan điều tra VKSND tối cao.
- Tập trung xây dựng mạng lưới cơ sở cung cấp thông tin, cộng tác viên để chủ
động theo dõi, nắm bắt thông tin về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp xảy ra trên
toàn quốc; nâng cao trách nhiệm cung cấp thông tin về tội phạm trong nội bộ ngành
Kiểm sát và có cơ chế khuyến khích, động viên bằng nhiều hình thức để có được thông
tin về tội phạm từ các nguồn khác. Bên cạnh đó cần chủ động trong việc huy động sức
mạnh của nhân dân và các cơ quan báo chí trong việc tố giác, phát hiện tội phạm, tiếp
tục duy trì hòm thư tố giác tội phạm ở các trụ sở CQĐT, Viện kiểm sát các cấp, đổi
mới hình thức nội dung website, hộp thư điện tử, số điện thoại đường dây nóng… để
tiếp nhận các thông tin về tội phạm.
65
- Ngoài việc duy trì các hòm thư tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm ở các trụ
sở của CQĐT VKSND tối cao và VKSND các cấp, cần xây dựng trang web, hộp thư
điện tử, đường dây “nóng” điện thoại để tiếp nhận thông tin tội phạm. Đồng thời, đa
dạng hóa các hình thức lấy thông tin như: Qua báo cáo bằng văn bản, điện thoại, tin,
bài trang web.. . của cơ quan, tổ chức khác.
- Mở rộng các hình thức tuyên truyền, phổ biến những thông tin về chức năng,
nhiệm vụ và hoạt động của Cơ quan điều tra VKSND tối cao để nhiều người dân được
biết; đẩy mạnh phong trào quần chúng tham gia phát hiện tố giác tội phạm nói chung và
các tội phạm XPHĐTP thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT của VKSND nói riêng.
Thứ hai, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác phân loại, giải quyết tin
báo, tố giác về tội phạm LSLHSVAVV bằng các biện pháp như:
- Phân công những ĐTV có tinh thần trách nhiệm cao, có kiến thức pháp luật
vững vàng, có trình độ nghiệp vụ điều tra, có lập trường chính trị vững vàng, phẩm
chất đạo đức trong sáng, dũng cảm, không sợ uy lực để làm công tác tiếp nhận, xác
minh, phân loại tin báo, tố giác tội phạm.
- Hiện nay, VKSND tối cao đã ban hành Quyết định số 565/QĐ-VKSTC ngày
29/12/2017 ban hành Quy chế tiếp nhận, thu thập, quản lý, xử lý và giải quyết nguồn
tin về tội phạm thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Do đó, CQĐT VKSND tối cao cần quán triệt và thực hiện tốt theo quy trình này.
- Tập trung lực lượng và tiến hành các biện pháp cần thiết để xác minh, giải
quyết các tin báo, tố giác tội phạm thuộc thẩm quyền, tránh để dây dưa, kéo dài quá
thời hạn luật định.
3.2.3. Tổ chức hợp lý các hoạt động điều tra thu thập chứng cứ chứng minh
tội phạm làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc
Trong thời gian qua, hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ để xử lý các tội
phạm xâm phạm HĐTP nói chung, tội phạm LSLHSVAVV nói riêng thuộc thẩm
quyền của CQĐT VKSND tối cao đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận nhưng
cũng bộc lộ những tồn tại, hạn chế nhất định. Do vậy, để nâng cao chất lượng hiệu
quả, hoạt động điều tra, trong thời gian tới, ngoài việc duy trì chất lượng các hoạt động
điều tra như trước đây, CQĐT VKSND tối cao cũng cần phải khắc phục những điểm
hạn chế còn tồn tại trong các hoạt động điều tra như sau:
66
Thứ nhất, trong hoạt động khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
- Việc xác định tội danh để khởi tố với tư cách là bị can hết sức quan trọng, tác
động lớn đến thái độ khai báo của bị can sau này. Nếu khởi tố đúng tội danh, thì bị can
có thể dễ dàng khai nhận hành vi phạm tội, nếu khởi tố không đúng tội danh thì sẽ tạo
điều kiện cho bị can vốn là những người am hiểu pháp luật, nghiệp vụ điều tra có điều
kiện chối tội hoặc khai báo gian dối. Vì vậy, để có cơ sở khởi tố được chính xác,
CQĐT VKSND tối cao phải áp dụng tất cả các biện pháp nghiệp vụ cần thiết để thu
thập tài liệu, chứng cứ làm căn cứ để khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Các tài liệu, chứng
cứ này phải được kiểm tra, xác minh thận trọng, đánh giá một cách khách quan, toàn
diện và đầy đủ. Cần phải quán triệt phương châm: Đã khởi tố bị can là phải có đầy đủ
chứng cứ để đề nghị truy tố bị can trước pháp luật sau khi kết thúc điều tra. Tuyệt đối
không có tư tưởng là cứ khởi tố bị can, sau đó sẽ tiếp tục điều tra xác minh thu thập
thêm các tài liệu để chứng minh hành vi phạm tội. Tư tưởng này rất dễ dẫn đến tình
trạng sau khi khởi tố, quá trình điều tra thu thập chứng cứ gặp trở ngại, khó khăn,
không thu thập đầy đủ chứng cứ nên phải đình chỉ điều tra.
- ĐTV phải nghiên cứu thật kỹ hồ sơ vụ án, vụ việc mà đối tượng đã có hành vi
làm sai lệch, để phát hiện các dấu hiệu không bình thường, các vi phạm pháp luật
trong quá trình giải quyết vụ án, vụ việc. Khi thực hiện hành vi phạm tội, đối tượng
phạm tội thường vi phạm về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án, vụ việc mà họ thụ lý để
đạt được mục đích phạm tội, do vậy hoạt động này sẽ để lại dấu vết trên các tài liệu,
biên bản giải quyết vụ án, vụ việc... Hồ sơ vụ án, vụ việc chính là “hiện trường” xảy ra
tội phạm, nên cần phải nghiên cứu cẩn thận, tỉ mỉ để phát hiện các dấu hiệu, tình tiết
bất bình thường, thu thập tài liệu, chứng cứ làm cơ sở khởi tố bị can và đấu tranh với
bị can sau này. Việc đầu tiên ĐTV cần tiến hành khi bắt đầu điều tra, xác minh là thu
thập toàn bộ hồ sơ vụ án, vụ việc bị nghi vấn làm sai lệch; tiến hành lập biên bản,
thống kê chi tiết các tài liệu có trong hồ sơ; yêu cầu người cung cấp xác thực rõ đã
cung cấp tất cả hồ sơ tài liệu có liên quan đến vụ việc, để tránh việc hợp thức hoá vi
phạm.
- ĐTV phải nghiên cứu, tính toán kỹ để đề xuất khởi tố vụ án, khởi tố bị can
vào thời điểm nào là thuận lợi nhất, đạt kết quả cao nhất, đảm bảo yêu cầu chính trị,
pháp luật và nghiệp vụ. Do đó, trước khi đưa ra các quyết định, ĐTV phải tính toán,
67
cân nhắc đến bối cảnh tình hình chính trị, xã hội của đất nước, của từng địa phương,
từng ngành để xác định thời điểm được chính xác. Nếu xác định đúng thời điểm, sẽ
tranh thủ được sự quan tâm chỉ đạo, sự đồng tình ủng hộ của các cấp ủy Đảng, chính
quyền các cấp, lãnh đạo các cơ quan tư pháp, tạo ra không khí đồng thuận, thuận lợi
cho toàn cuộc quá trình điều tra.
Thứ hai, đối với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn.
- Trong áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đặc biệt là biện pháp bắt, CQĐT
VKSND tối cao cần xác định: Người có hành vi phạm tội đáng bắt thì kiên quyết bắt,
người có hành vi phạm tội bắt cũng được, không bắt cũng được thì kiên quyết không
bắt. Cần hạn chế và thận trọng áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp trong hoạt động điều
tra tội phạm LSLHSVAVV vì đối tượng phạm tội loại này chủ yếu là những người có
chức vụ, quyền hạn, có địa vị xã hội và thường có mối quan hệ xã hội rộng rãi. Cho
nên trước khi bắt, cần phải tính toán cẩn trọng. Đối với những đối tượng có đủ căn cứ
bắt thì phải chớp thòi cơ, nhanh chóng, khẩn trương, quyết đoán tiến hành bắt ngay,
khám xét, thu giữ tài liệu, vật chứng, máy vi tính, điện thoại di động... Không để các
đối tượng kịp trở tay, tiêu hủy chứng cứ, chạy án...
- Chú ý xây dựng kế hoạch bắt riêng đối với từng đối tượng cụ thể; lên các
phương án cho việc bắt đối tượng và dự kiến những tình huống bất trắc có thể xảy ra;
kết hợp giữa việc bắt và hoạt động khám xét thu giữ vật chứng;
- Thực hiện tốt quan hệ phối hợp với các lực lượng hỗ trợ khi tiến hành bắt đối
tượng; chú ý khi bắt không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan chủ
quản của đối tượng, đồng thời cũng chú ý đến tình huống cơ quan chủ quản có biểu
hiện cản trở việc điều tra, bao che cho người phạm tội;
- Khi giam, giữ đối tượng phải tăng cường các biện pháp chống thông cung,
liên lạc bằng việc phối hợp với các cơ sở giam, giữ (nơi CQĐT gửi người bị, giam,
giữ), phối hợp với cơ quan chủ quản và đề nghị sử dụng đặc tình trại giam để kịp thời
nắm bắt diễn biến tư tưởng của đối tượng bị giam, giữ và ngăn chặn việc đối tượng
liên lạc với bên ngoài, tìm cách đối phó với việc điều tra, xử lý vụ án.
- Đối với các đối tượng xét thấy không cần thiết phải áp dụng các biện pháp bắt,
tạm giữ, tạm giam thì có thể áp dụng các biện pháp: Cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lãnh;
đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Điều này thể hiện tính nhân đạo của pháp
68
luật, có tác dụng phân hóa đối tượng, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thu thập
chứng cứ để chứng minh tội phạm.
Thứ ba, đối với việc áp dụng biện pháp khám xét, thu giữ vật chứng.
- Cùng với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, CQĐT VKSND tối cao phải
khẩn trương tiến hành khám xét người, chỗ ở, chỗ làm việc, đồng thời phải đảm bảo
yếu tố bí mật, tránh trường hợp đối tượng tiêu hủy vật chứng, chứng cứ trong các thiết
bị điện tử, hợp thức hóa hồ sơ, tài liệu có dấu hiệu vi phạm, các sổ sách ghi chép cá
nhân liên quan đến việc phạm tội;
- Tập hợp đầy đủ lực lượng và phương tiện phục vụ việc khám xét. Phải khám
xét một cách tỉ mỉ, thận trọng để không bỏ sót những tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa đối
với việc xử lý vụ án. Trong quá trình khám xét, đặc biệt chú ý phát hiện, thu giữ: Các
văn bản, giấy tờ, tài liệu, vật chứng có dấu hiệu, có nội dung liên quan tới hồ sơ vụ án,
vụ việc bị làm sai lệch; các tài liệu, vật chứng, chứng cứ được sử dụng vào việc che
dấu tội phạm… Tuy vậy, không được lạm dụng việc khám xét để thu giữ những giấy
tờ, tài liệu không liên quan và làm ảnh hưởng đến HĐTP của CQTP nơi tội phạm xảy
ra hay làm ảnh hưởng đến đời sống riêng tư của người phạm tội và gia đình họ.
- Quá trình khám xét phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Bộ luật TTHS
về việc thu giữ, bảo quản, niêm phong, quản lý và xử lý vật chứng.
Thứ tư,đối với hoạt động hỏi cung bị can.
Để hoạt động hỏi cung bị can có hiệu quả, lãnh đạo và ĐTV của CQĐT
VKSND tối cao cần thực hiện tốt các vấn đề sau đây:
- Chú ý phân công những ĐTV có kinh nghiệm xét hỏi, có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, có thời gian công tác lâu hơn hoặc tương đương với bị can, có khả năng
giao tiếp và nắm bắt tâm lý tốt để tiến hành hỏi cung bị can;
- Trong giai đoạn chuẩn bị hỏi cung bị can phạm tội LSLHSVAVV, ĐTV cần
phải làm tốt việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, nghiên cứu nhân thân bị can, xây dựng kế
hoạch hỏi cung thật cụ thể, chi tiết, phù hợp.
+ Trong nghiên cứu hồ sơ vụ án cần làm rõ các tài liệu chứng cứ chứng minh
hành vi phạm tội của bị can. Bên cạnh đó, ĐTV cần nghiên cứu tìm hiểu và nắm chắc
các nguyên tắc, quy trình xử lý các vụ án, vụ việc mà bị can có trách nhiệm giải quyết,
nội dung của vụ án, vụ việc mà bị can đã có hành vi làm sai lệch.
69
+ Đối với nghiên cứu nhân thân, cần nắm được: Những đặc điểm về phẩm chất
đạo đức, lối sống, tâm lý của bị can; quá trình học tập và hoạt động công tác của bị
can; trình độ chuyên môn, chính trị, nghiệp vụ, quá trình hoạt động chính trị xã hội,
địa vị, chức vụ, uy tín, các mối quan hệ của bị can. Đặc biệt lưu ý nghiên cứu về
truyền thống gia đình, những cống hiến của bị can trong công tác để ĐTV có thể vận
dụng linh hoạt các biện pháp tác động tâm lý phù hợp.
+ Lập kế hoạch hỏi cung bị can với các nội dung cơ bản như: Thời gian, địa
điểm hỏi cung; những vấn đề cần phải làm rõ trong quá trình hỏi cung bị can; dự kiến
những câu hỏi cần đưa ra trong buổi hỏi cung; dự kiến chiến thuật cần áp dụng trong
quá trình hỏi cung; những tài liệu, chứng cứ có thể sử dụng để chứng minh hành vi
phạm tội của bị can trong khi hỏi cung;
- Trong giai đoạn tiến hành hỏi cung:
+ ĐTV phải tính toán, lựa chọn và áp dụng linh hoạt các chiến thuật hỏi cung bị
can. Để lựa chọn và áp dụng chiến thuật hỏi cung bị can, ĐTV phải căn cứ vào: Số
lượng và đặc điểm tài liệu, chứng cứ đã thu được trong vụ án; đặc điểm tâm lý và diễn
biến tư tưởng và quá trình khai báo của bị can… Trên cơ sở đó, ĐTV có thể vận dụng
sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của từng bị can. Cụ thể là: Việc sử dụng chiến thuật
hỏi thẳng; hỏi vòng quanh; hỏi bất ngờ vào điểm yếu... hoặc sử dụng kết hợp hai hoặc
nhiều chiến thuật phải phù họp với đặc điểm của từng bị can. Sử dụng các chiến thuật
hỏi cung phải kết họp với cảm hóa, giáo dục, giải quyết tư tưởng của bị can...
+ ĐTV cần thực hiện một cách sáng tạo tất cả các khâu theo trình tự chung và
phù họp với đặc điểm của bị can. Cụ thể là phải làm tốt các khâu: Triệu tập bị can đến
buồng hỏi cung, giải thích quyền và trách nhiệm của bị can; thiết lập giao tiếp tâm lý;
cho bị can tự trình bày; đặt các câu hỏi cụ thể hoặc cho bị can viết tự khai; ghi nhận
kết quả hỏi cung bị can.
Trong hỏi cung, ĐTV lưu ý, trước tiên phải làm rõ nguyên tắc, thủ tục, lề lối
làm việc chung để giải quyết vụ việc tư pháp mà đối tượng phải thực hiện; yêu cầu đối
tượng khai rõ, tự đánh giá về khả năng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình
trước, sau đó mới hỏi về việc vi phạm cụ thể, đấu tranh với họ tại sao lại làm không
đúng quy định. Có như vậy mới làm rõ lỗi của họ là cố ý hay vô ý. Nếu ĐTV hỏi vi
70
phạm cụ thể trước, khi biết rõ ý đồ buộc tội của Điều tra viên, họ sẽ nhận là sai, nhưng
do hạn chế về trình độ, năng lực, không phải do tiêu cục.
+ ĐTV phải lưu ý phát hiện đầy đủ, kịp thời những động cơ kìm hãm bị can
khai báo thành khẩn, tính toán sử dụng tổng hợp các phương pháp hỏi cung để chuyển
đổi thái độ khai báo của bị can theo hướng tích cực.
Bị can trong các vụ án LSLHSVAVV thường có những động cơ kìm hãm khai
báo như: Bị can sợ mất chức vụ, mất việc làm, sợ mất hết danh dự với gia đình, bà
con, bạn bè, dòng họ; bị can cho rằng CQĐT không có chứng cứ, chưa biết hoặc biết
rất ít về hành vi phạm tội của mình; bị can tin rằng sẽ có ô dù bảo vệ, che chắn hoặc có
người chạy tội; bị can tin rằng đồng bọn không khai về mình hoặc có khai cũng khó
kết tội được mình…
Điều quan trọng là ĐTV phải áp dụng những phương pháp phù hợp để phát
hiện đúng, kịp thời, đầy đủ các động cơ đang kìm hãm bị can khai báo và có biện pháp
giải quyết đúng đắn. Để phát hiện động cơ cản trở bị can khai báo, ĐTV cần phải áp
dụng các phương pháp như: Phát hiện qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và các tình hình
khác có liên quan đến bị can; qua quan sát bị can trong quá trình hỏi cung và phân tích
lời khai của bị can và phát hiện qua đặc tình trại tạm giam…
Trong giải quyết những động cơ kìm hãm bị can khai báo, đòi hỏi ĐTV phải
vận dụng tổng hợp các phương pháp cảm hóa giáo dục, sử dụng chứng cứ, sử dụng
mâu thuẫn để giải quyết động cơ cản trở bị can khai báo thành khẩn. Trong đó, ĐTV
cần chú ý khơi gợi lòng tự trọng còn lại trong họ, động viên họ là người nhất thời sa
ngã, gặp tai nạn nghề nghiệp, cần trung thực khai báo để hưởng khoan hồng của pháp
luật. Trái lại, nếu xúc phạm họ, coi họ giống như đối tượng lưu manh, côn đồ, phạm
tội chuyên nghiệp sẽ đẩy họ tới chỗ có thái độ ngoan cố, lì lợm, chống đối đến cùng.
Bên cạnh đó, cần phải sử dụng hiệu quả các hồ sơ, chứng cứ đã thu thập được
làm công cụ đấu tranh với bị can. Chứng cứ của hành vi phạm tội LSLHSVAVV
thường là tài liệu, hồ sơ vụ án có vi phạm, đó có thể là những tài liệu bị sửa chữa, tẩy
xóa, được đưa thêm vào hồ sơ hoặc bị bỏ ra ngoài hồ sơ, những sổ sách có sai sót do bị
sửa chữa, tẩy xóa, lập ngoài quy định…. Khi đã nắm chắc giá trị chứng minh của từng
chứng cứ, ĐTV cần chủ động đưa ra những tình tiết thực tế để vạch trần tội lỗi của bị
71
can, làm cho bị can trở nên hoang mang cho rằng ĐTV đã biết hết rồi nên không thể
mãi che dấu hành vi phạm tội mà phải thành khẩn khai báo.
+ Đối với những lời nhận tội của bị can, cần củng cố ngay chứng cứ đề phòng
bị can phản cung bằng cách như: Triệt để thu giữ tài liệu, chứng cứ vụ án bị bỏ ra
ngoài hồ sơ (bị làm sai lệch); ghi lời cung thật chi tiết, củng cố chặt chẽ biên bản hỏi
cung; mời luật sư tham gia hỏi cung bị can; cho viết tự khai; sử dụng máy ghi âm, ghi
hình; tổ chức xác minh lời khai bị can, tìm chứng cứ mới chứng minh...
Thứ năm, đối với hoạt động lấy lời khai của người làm chứng, đại diện cơ quan
của người phạm tội.
CQĐT và lãnh đạo CQĐT cần xác định cho ĐTV thấy rõ lấy lời khai là một
biện pháp điều tra rất quan trọng và hiệu quả trong điều tra vụ án LSLHSVAVV. Công
tác lấy lời khai người làm chứng, người đại diện cơ quan của người phạm tội cần được
tiến hành khẩn trương sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm. Tổng hợp những
lời khai này sẽ tạo thành hệ thống những tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa rất quan trọng
để xác định phương hướng của hoạt động điều tra và chứng minh sự thật khách quan
của vụ án.
Trước khi lấy lời khai của người làm chứng hoặc người đại diện cơ quan chủ
quản của người phạm tội, ĐTV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án và tìm hiểu đặc điểm
nhân thân của người làm chứng (nhất là mối quan hệ giữa người làm chứng với đối
tượng phạm tội), tìm hiểu thông tin về người đại diện; vị thế, các mối quan hệ giữa
người đại diện với người phạm tội; quan điểm của cơ quan chủ quản đối với việc xử lý
người phạm tội (bao che hay yêu cầu xử lý nghiêm khắc đối với người phạm tội), từ
đó quyết định lựa chọn địa điểm và phương pháp, chiến thuật lấy lời khai phù hợp.
Để người khai khó có điều kiện thay đổi lời khai của mình, ĐTV cần chú trọng
công tác lập kế hoạch lấy lời khai thật cụ thể, chi tiết, đồng thời chú trọng chuẩn bị các
công cụ, phương tiện cần thiết như máy ghi âm, ghi hình. Trong quá trình lấy lời khai,
nếu lời khai không chính xác là do người khai nhầm lẫn thì ĐTV cần giúp đỡ để họ
sửa chữa, khắc phục những nhầm lẫn đó.
Trong trường hợp người khai vì sợ bị liên lụy, vì nể nang hoặc sợ ảnh hưởng
đến thành tích, uy tín của đơn vị hay do mâu thuẫn cá nhân mà khai báo gian dối, khai
báo không đầy đủ, bao che cho người phạm tội thì ĐTV phải kiên trì và có những biện
72
pháp tác động, loại bỏ những rào cản tâm lý, gợi mở để người khai xác định đúng
nghĩa vụ khai báo và khai báo đúng sự thật.
Kết thúc cuộc lấy lời khai, Điều tra viên chú ý lập biên bản ghi lời khai đúng
quy định của pháp luật. Trong một số trường hợp, để phòng ngừa người khai có thể
thay đổi lời khai, ĐTV phải yêu cầu họ tiếp tục viết bản tự khai, trong bản tự khai yêu
cầu họ viết rõ về những tình tiết đó.
Thứ sau, đối với hoạt động trưng cầu giám định.
Trong điều tra vụ án LSLHSVAVV, xuất phát từ sự cần thiết phục vụ cho hoạt
động điều tra mà CQĐT VKSND tối cao thường trưng cầu giám định để xác định các
tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, vụ việc có bị thêm bớt, tẩy xóa, viết thêm, chèn
thêm, sửa chữa, đánh tráo, hủy hoại… Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động trưng cầu
giám định, đảm bảo cho cơ quan giám định trả lời đúng yêu cầu, đúng tiến độ thì khi
tiến hành trưng cầu giám định, CQĐT của VKSND tối cao cần chú ý một số vấn đề
như sau:
- Lựa chọn cơ quan, người giám định phù họp với yêu cầu giám định;
- Phải cung cấp đầy, bảo đảm về số lượng, chất lượng tài liệu, mẫu vật cần thiết
cho yêu cầu giám định để cung cấp cho cơ quan, người giám định;
- Các quyết định trưng cầu giám định phải thực hiện đúng hình thức, nội dung
theo quy định Bộ luật TTHS và Luật giám định tư pháp. Những yêu cầu trưng cầu
giám định được đưa ra phải rõ ràng, khách quan, đúng với bản chất về truy nguyên
hình sự.
- Phối hợp chặt chẽ với cơ quan giám định để kịp thời bổ sung những tài liệu
cần thiết và nắm bắt các thông tin về quá trình giám định; yêu cầu cơ quan giám định
trả kết quả đúng thời hạn hoặc phối hợp đề giải quyết những khó khăn, vướng mắc nảy
sinh trong quá trình giám định.
- Khi nhận được kết luận giám định, cần nghiên cứu kỳ để đánh giá tính hợp
pháp, khách quan, khoa học của kết quả giám định; nội dung kết luận giám định cỏ
vấn đề nào cầm giám định bổ sung hoặc giám định lại không? Từ đó xác định giá trị sử
dụng của bản kết luận gi ám định và quyết định việc sử dụng kết luận giám định một
cách hợp lý.
73
3.2.4. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao hiệu quả quan hệ
phối hợp giữa Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao với các cơ quan,
đơn vị hữu quan trong quá trình điều tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án vụ việc
thuộc thẩm quyền
3.2.4.1. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động điều tra vụ án làm sai
lệch hồ sơ vụ án vụ việc thuộc thẩm quyền
Trong điều tra vụ án LSLHSVAVV thì công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động điều
tra là một yếu tố có vai trò hết sức trọng. Để hoạt động điều tra LSLHSVAVV đạt kết quả
cao, trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt dộng điều tra cần lưu ý một số vấn đề sau đây:
- Trong tổ chức lực lượng điều tra, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT VKSND
tối cao cần phải lựa chọn và phân công những ĐTV trình độ pháp luật, nghiệp vụ cao, có
kinh nghiệm công tác điều tra lâu hơn so với đối tượng phạm tội. Luôn chỉ đạo ĐTV thận
trọng khi tiến hành các hoạt động điều tra, các bước tiến hành thủ tục tố tụng; luôn thấm
nhuần phương châm “Đánh chuột nhưng không làm vỡ bình quý” để giảm thiểu những tác
động xấu đến uy tín, hình ảnh của CQTP. ĐTV phải khiêm tốn, đúng mực, không dọa
dẫm, kiêu căng khi làm việc, tiếp xúc với người tham gia tố tụng thuộc cơ quan tư pháp
phải có thái độ tôn trọng, lắng nghe các ý kiến của họ. Đề nghị nào của họ đúng quy định
của pháp luật thì đáp ứng, nếu trái pháp luật thì giải thích cho họ và kiên quyết từ chối.
Khi đã thu thập được đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm, cần thuyết phục cơ
quan chủ quản của người phạm tội: Nếu không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội thì uy tín của cơ quan, đơn vị còn bị xấu đi nhiều hơn. Không nên khởi tố
vụ án, khởi tố bị can khi chứng cứ chưa thuyết phục, vì dễ gây dư luận không tốt về mối
quan hệ giữa Cơ quan điều tra và cơ quan chủ quản của người phạm tội.
- Để công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động điều tra vụ án được sâu sát, thường
xuyên, liên tục, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT VKSND tối cao cần phải căn cứ vào
kế hoạch điều tra trong từng giai đoạn và trong từng hoạt động điều tra cụ thể. Thông qua
các bản kế hoạch điều tra (bao gồm kế hoạch điều tra trong từng giai đoạn và kế hoạch đối
với từng hoạt động điều tra cụ thể như kế hoạch hỏi cung, lấy lời khai, kế hoạch bắt...),
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT VKSND tối cao có thể kiểm tra, theo dõi các hoạt
động điều tra, các giai đoạn điều tra để nắm được và chỉ đạo sát sao từng hoạt động
nghiệp vụ trong quá trình điều tra, đồng thời phát hiện những thiếu sót, bất cập, hạn chế
trong quá trình điều tra vụ án để chấn chỉnh, uốn nắn kịp thời.
74
- Công tác chỉ huy, chỉ đạo cần chú ý: Không được để lộ, lọt thông tin, tài liệu
trong quá trình điều tra. Tuyệt đối giữ bí mật tài liệu thu thập được. Nghiêm cấm cung cấp
thông tin cho báo chí và cho những người không có trách nhiệm. Khi có dấu hiệu lộ lọt
thông tin, cần phải xác minh và xử lý ngay, không để hậu quả xấu xảy ra.
3.2.4.2. Nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao với các cơ quan, đơn vị hữu quan
- Cần xây dựng quy chế phối hợp giữa CQĐT VKSND tối cao với các CQĐT khác
và với Lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng
Căn cứ vào quy định của pháp luật thì quan hệ giữa CQĐT VKSND tối cao với
các CQĐT khác của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và những cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra là mối quan hệ phối hợp trong công tác điều tra tội
phạm.
Tuy nhiên, CQĐT VKSND tối cao hoạt động điều tra trong điều kiện hoàn toàn
khác với các CQĐT khác, đó là, không có những điều kiện, phương tiện để đảm bảo cho
hoạt động điều tra có hiệu quả như: Không có đơn vị quản lý tàng thư, căn cước; không có
lực lượng điều tra trinh sát, các cơ quan bảo vệ và hỗ trợ tư pháp; không có hệ thống nhà
tạm giữ, trại tạm giam, trại giam... Do đó, mỗi khi tiến hành hoạt động tố tụng liên quan
đến công tác bắt, giữ, giam đối tượng, CQĐT VKSND tối cao đều phải dựa vào sự hỗ trợ
của các CQĐT của Bộ Công an hay cùa Bộ Quốc phòng.
Trên thực tế, những năm qua, trên cơ sở sự phối hợp, hỗ trợ của các CQĐT này mà
CQĐT VKSND tối cao mới có thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Nhưng cho đến
nay, Bộ Công an - VKSND tối cao - Bộ Quốc phòng vẫn chưa có thông tư liên tịch thống
nhất hướng dẫn thi hành quy định về mối quan hệ phối hợp này, giữa các CQĐT cũng
chưa xây dựng được các quy chế phối hợp nên sự phối hợp này có lúc, có nơi thiếu chặt
chẽ, thống nhất và còn xảy ra tình trạng “quyền anh - quyền tôi”. Vì vậy, CQĐT VKSND
tối cao cần phải nghiên cứu để xây dựng quy chế phối hợp với các CQĐT của Bộ Công
an, Bộ Quốc phòng. Nội dung của các quy chế này cần xác định rõ phạm vi điều chỉnh,
nội dung các hoạt động phối hợp (đặc biệt chú ý đến hoạt động phối hợp trong việc tiếp
nhận, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của mỗi CQĐT. Vì
đây là “đầu vào” của công tác điều tra tội phạm); trách nhiệm, quyền hạn của từng cơ
quan trong quá trình phối hợp.
75
Đối với các Lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp của Bộ Công an, Bộ
Quốc phòng thì cần phải xây dựng quy chế phối hợp trong hoạt động bắt, dẫn giải các đối
tượng, bị can phạm tội xâm phạm HĐTP thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND
tối cao và phối hợp trong công tác giam, giữ những người bị CQĐT VKSND tối cao áp
dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam trong quá trình điều tra.
- Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa VKSND tối cao với VKSND các địa phương
Trong điều kiện CQĐT VKSND tối cao không có cơ quan đại diện tại địa phương,
bộ máy tổ chức biên chế mỏng, lại phải tiến hành điều tra ở xa trụ sở cơ quan, nên rất cần
sự phối hợp, hỗ trợ của VKSND địa phương, nơi xảy ra tội phạm. Thông qua công tác
kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND địa phương nắm được nhiều thông tin liên quan đến
tội phạm, nắm được thái độ, quan điểm của cơ quan tư pháp chủ quản của người phạm tội.
Do vậy, VKSND địa phương có thể giúp CQĐT đánh giá, định hướng và có biện pháp
hữu hiệu để thu thập tài liệu, chứng cứ xử lý các mối quan hệ phức tạp phát sinh trong quá
trình giải quyết vụ án. Viện kiểm sát nhân dân địa phương nơi xảy ra tội phạm cũng
chính là đơn vị sẽ thực hành quyền công tố đối với vụ án trong giai đoạn truy tố, xét xử.
Do vậy, sự phối hợp chặt chẽ giữa CQĐT VKSND tối cao với VKSND địa phương nơi
xảy ra tội phạm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hiện, thu thập thông tin, xác minh,
điều tra và xử lý vụ án. Mặt khác, hoạt động điều tra của CQĐT VKSND tối cao tại địa
phương cũng góp phần giúp VKSND địa phương hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ pháp
chế XHCN trong phạm vi địa bàn quản lý, nâng cao vị thế của VKSND trong khối các cơ
quan tư pháp.
Trong mối quan hệ phối hợp này, CQĐT VKSND tối cao phải giữ vai trò chủ
động, tích cực; đồng thời, phải quan tâm đến việc góp phần bảo vệ, nâng cao uy tín của
VKSND địa phương khi điều tra, xử lý vụ án. Tuy nhiên, cũng cần cảnh giác việc đối
tượng phạm tội thông qua cán bộ của VKSND địa phương để tác động tiêu cực đến Điều
tra viên của CQĐT VKSND tối cao .
3.2.5. Tăng cường và thực hiện thật tốt công tác sơ kết, tổng kết hoạt động điều
tra vụ án làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao
Sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm là cách để CQĐT VKSND tối cao, ĐTV nhìn
nhận lại công tác của mình, trong đó có công tác điều tra các tội phạm thuộc thẩm
quyền điều tra nói chung, điều tra vụ án LSLHSVAVV nói riêng. Thông qua sơ kết,
76
tổng kết mà nhìn nhận lại được những việc đã làm được, những hạn chế, thiếu sót để
khắc phục, từ đó rút kinh nghiệm trong công tác. Thực tiễn trong những năm qua,
VKSND tối cao nói chung, CQĐT VKSND tối cao nói riêng chưa quan tâm tới công
tác sơ kết, tổng kết hoạt động điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra nói
chung, điều tra vụ án LSLHSVAVV nói riêng. Do đó, để góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV, trong những năm tới cần tăng cường công tác
sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm. Theo đó, việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm có
thể tiến hành như sau:
CQĐT VKSND tối cao có thể định kỳ tiến hành sơ kết hoạt động điều tra vụ án
LSLHSVAVV và tổng kết theo năm. Có thể tiến hành sơ kết, tổng kết theo chuyên đề
như khởi tố, điều tra, truy tố vụ án LSLHSVAVV. Ngoài ra, việc tiến hành sơ kết,
tổng kết, rút kinh nghiệm cũng cần được tổ chức sau khi kết thúc điều tra vụ án
LSLHSVAVV phức tạp. Từ mỗi vụ án cụ thể đó, CQĐT VKSND tối cao sẽ tập hợp
những vấn đề bất cập trong điều tra để hàng tháng, hàng quý, hàng năm tổ chức rút
kinh nghiệm chung.
Việc sơ kết, tổng kết phải hệ thống lại những kết quả đã đạt được, những hạn chế,
nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn hoạt động điều tra vụ án
LSLHSVAVV, đồng thời phải tìm ra và xây dựng những giải pháp cho thời gian tới.
Kết quả sơ kết, tổng kết được gửi cho lãnh đạo VKSND tối cao, Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng CQĐT VKSND tối cao để có những chỉ đạo, kiểm tra và quan tâm
hơn nữa tới công tác này. Đồng thời gửi tới các ĐTV, cán bộ điều tra cùng các phòng
ban có liên quan để học tập, rút kinh nghiệm.
Kết luận chương 3
Trong chương 3 của luận văn, trên cơ sở xác định những hạn chế, thiếu sót và
nguyên nhân trong thực tiễn hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV của CQĐT
VKSND tối cao ở chương 2, trên cơ sở những dự báo về tình hình tội phạm
LSLHSVAVV và những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến hoạt động điều tra vụ án vụ
án LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao trong thời gian tới, tác giả luận văn đã
xây dựng hệ thống gồm năm giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động điều tra vụ án LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao trong thời gian tới.
77
Các giải pháp được xây dựng và đề xuất trong chương 3 được dựa trên những
cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn gắn với quá trình nghiên cứu của tác giả luận văn. Tác
giả luận văn tin rằng nếu các giải pháp này được áp dụng một cách đồng bộ sẽ góp
phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra vụ án
LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao trong thời gian tới.
78
KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu, luận văn đã giải quyết một cách khoa học, bám sát
những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV của CQĐT
VKSND tối cao mà luận văn đã đặt ra. Trong đó, luận văn đã đi sâu tập trung giải
quyết những nội dung cơ bản sau đây:
1. Trên cơ sở nghiên cứu hệ thống lý luận về hoạt động điều tra, các quan điểm
về cải cách tư pháp, về đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm HĐTP của Đảng,
Nhà nước, của các nhà khoa học; nghiên cứu hệ thống pháp luật quy định về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐT VKSND tối cao; trên cơ sở kế thừa những
nghiên cứu trước đó có liên quan tới hoạt động điều tra các vụ án xâm phạm HĐTP
nói chung, vụ án LSLHSVAVV nói riêng của CQĐT VKSND tối cao, luận văn đã làm
rõ những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV của CQĐT
VKSND tối cao. Trong đó, có các vấn đề chủ yếu: Khái niệm, đặc điểm, nội dung hoạt
động điều tra vụ án LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao; công tác lãnh đạo, chỉ
đạo và quan hệ phối hợp trong hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV của CQĐT
VKSND tối cao.
2. Qua trực tiếp trao đổi, tọa đàm, phỏng vấn trực tiếp và kế thừa kết quả nghiên
cứu của các công trình có liên quan tới hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV của
CQĐT VKSND tối cao; qua nghiên cứu, phân tích các báo cáo tổng kết của CQĐT
VKSND tối cao, nghiên cứu hồ sơ các vụ án LSLHSVAVV giai đoạn từ năm 2016
đến 6/2020, tác giả luận văn đã đánh giá các vấn đề có liên quan và thực trạng hoạt
động điều tra vụ án LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao. Trên cơ sở đó luận văn
đã đưa ra những nhận xét, đánh giá về những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế
và làm rõ nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để làm cơ sở cho việc đề xuất các
giải pháp cụ thể nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV
của CQĐT VKSND tối cao trong thời gian tới.
3. Luận văn làm rõ những dự báo về tình hình tội phạm và các yếu tố ảnh
hưởng tới hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao trong
thời gian sắp tới trên cơ sở những phân tích khách quan, khoa học. Trong đó có chỉ rõ
những yếu tố thuận lợi, những yếu tố khó khăn.
79
4. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động điều tra vụ án
LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao giai đoạn từ năm 2016 đến 6/2020, trên cơ
sở dự báo về các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV của
CQĐT VKSND tối cao trong thời gian tới, tác giả luận văn đã xây dựng hệ thống giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra vụ án LSLHSVAVV của CQĐT
VKSND tối cao trong thời gian tới.
Với những kết luận trên, tác giả luận văn tin tưởng rằng kết quả nghiên cứu của
sẽ góp phần vào việc bổ sung, hoàn thiện lý luận về hoạt động điều tra vụ án
LSLHSVAVV của CQĐT VKSND tối cao và là tài liệu có giá trị tham khảo hữu hiệu
cho CQĐT VKSND tối cao, ĐTV, cán bộ điều tra của CQĐT VKSND tối cao trong
điều tra vụ án LSLHSVAVV nhằm nâng cao hiệu quả tiến hành hoạt động này.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thế Anh (2013), Tình hình tội phạm gia tăng về số vụ và tính chất nguy hiểm,
http: //www.Công an Backan.vn.
2. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản việt Nam (2007), Chỉ
thị số 15-CT/TW ngày 7/7/2007 của Bộ Chính trị về sự lãnh đạo của Đảng đối
với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điêu tra, xử lý các vụ án và
công tác bảo vệ Đảng, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam [2005],
Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Chỉ
thị số 46/CT-TW ngày 22/6/2015 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị “Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 Về tăng cường công tác
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”, Hà Nội.
6. Bộ Chính trị Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/6/2015 của Bộ Chính trị “Về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo trật tự trong tình hình
mới”, Hà Nội.
7. BCA-BQP-BTC-BNN&PTNN-VKSNDTC (2017), Thông tư liên tịch số
01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNN-VKSNDTC ngày 29/12/2017
quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện
một số quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Hà Nội.
8. Bộ Công an (2005), Từ điển bách khoa Công an nhân dân 2005, NXB CAND.
9. Cơ quan điều tra VKSND tối cao (2016, 2017, 2018, 2019), Báo cáo Tổng kết
công tác năm 2016, Hà Nội.
10. Cơ quan điều tra VKSND tối cao (2020), Báo cáo Sơ kết công tác 6 tháng đầu
năm 2020, Hà Nội.
81
11. Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Bắc Ninh (2013), Những vi phạm phổ biến và
những vướng mắc, khó khăn trong công tác thi hành án dân sự,
http://thabacninh.vn.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nhà xuất bản (Nxb) Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08 ngày 02 tháng 01 năm 2002
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49 ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Nguyễn Văn Hải (2012), Một số kinh nghiệm điều tra các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ cơ quan tư pháp, Tạp chí Kiểm sát
số 11, tháng 6/2012
17. Học viện Cảnh sát nhân dân (2003), Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam
(dành cho hệ đào tạo sau đại học), Hà Nội.
18. Học viện Cảnh sát nhân dân (2013), Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam,
Hà Nội.
19. Học viện Cảnh sát nhân dân (2010), Khoa học hình sự Việt Nam, Tập 4: Chiến
thuật điều tra, Hà Nội.
20. Nguyễn Ngọc Điệp, Hồ Thị Nệ (2001), Tìm hiểu các tội xâm phạm hoạt động
tư pháp trong Bộ luật hình sự năm 1999, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà
Nội.
21. Mai Văn Minh (2013), Sự cần thiết phải tiếp tục tổ chức Cơ quan điều của Viện
kiểm sát nhân dân theo yêu cầu Cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát, Số 19,
trang 18.
22. Nguyễn Tiến Nghĩa, Tham nhũng, Nguyên nhân và biện pháp phòng ngừa, http:
// www.tapchicongsan.org.vn. Tra
82
23. Đỗ Ngọc Quang (2008), Giáo trình Tội phạm học (Đào tạo cao học – chuyên
ngành Tội phạm học và điều tra tội phạm, Đại học Cảnh sát nhân dân, TP. Hồ
Chí Minh.
24. Đinh Văn Quế (2012), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, tập IV, Nxb Lao
động, Hà Nội.
25. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1985), Bộ luật hình sự,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ luật hình sự,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật tố tụng
hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018), Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018), Bộ luật hình sự
năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018), Luật tổi chức cơ
quan điều tra hình sự năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật tổ chức Tòa
án nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Quốc hội Khóa XIII (2014), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Quốc hội Khóa VII (1985), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
35. Quốc hội khóa X (2002), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
36. Quốc hội Khóa XIII (2012), Nghị quyết về công tác phòng chống vi phạm pháp
luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân của Tòa án nhân dân và
công tác Thi hành án năm 2013, Hà Nội.
83
37. Quốc hội khóa XIII (2013), Nghị quyết về tăng cường đấu tranh phòng chống
tội phạm, Hà Nội.
38. Quốc hội nước Khóa XI (2004), Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điền tra, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội. Nguồn: Văn
phòng VKSND tối cao - Báo cáo tổng kết.
40. Viện VKSND tối cao (2015), Quy chế tổ chức và hoạt động của CQĐT VKSND
tối cao ban hành kèm theo quyết định số 18/QĐ-VKSTC-C1 ngày
20/11/2015 của Viện trưởng VKSND tối cao, Hà Nội.
41. Viện VKSND tối cao (2019), Quy chế tổ chức và hoạt động của CQĐT VKSND
tối cao ban hành kèm theo quyết định số 208/QĐ-VKSTC-C1 ngày
28/5/2019 của Viện trưởng VKSND tối cao, Hà Nội.
42. Viện VKSND tối cao (2017), Quyết định số 565/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017
ban hành Quy chế tiếp nhận, thu thập, quản lý, xử lý và giải quyết nguồn tin về
tội phạm thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Hà Nội.
84
PHỤ LỤC
85