ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THÙY ĐỔI MỚI MÔ HÌNH QUẢN LÝ TÒA ÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP CỦA TÒA ÁN VÀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THÙY ĐỔI MỚI MÔ HÌNH QUẢN LÝ TÒA ÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP CỦA TÒA ÁN VÀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật

Mã số:

60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN QUÂN

HÀ NỘI – 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào

khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,

tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán

tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia

Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể

bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Học viên

Nguyễn Thị Thùy

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỂ CHUNG VỀ MÔ HÌNH QUẢN LÝ TÒA ÁN 7

1.1. Sự hình thành Tòa án và mô hình quản lý Toà án ............................ 7

1.1.2. Sự hình thành Toà án .................................................................... 7

1.1.2. Vị trí, vai trò của Tòa án ở Việt Nam ............................................ 7

1.2. Khái quát mô hình quản lý Toà án của Việt Nam giai đoạn 1945 - 2002 8

1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 .......................................... 8

1.2.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980 .......................................... 9

1.2.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 ........................................ 10

1.2.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002 ........................................ 12

1.3. Các điểm kế thừa từ mô hình quản lý Toà án trong giai đoạn 1945 - 2002 13

1.4. Mô hình quản lý Tòa án ở một số quốc gia trên thế giới ................. 15

1.4.1. Mô hình do Bộ Tư pháp quản lý tại Cộng hòa liên bang Đức ..... 16

1.4.2. Mô hình tự quản do một đơn vị “trực thuộc Tòa án” độc lập với

cơ quan lập pháp, hành pháp quản lý ................................................... 16

1.4.3. Mô hình kết hợp do đơn vi tự quản độc lập của Tòa án và Bộ Tư

pháp cùng thực hiện ở Cộng hòa Pháp ................................................. 28

1.4.4. Mô hình Tòa án phối hợp cùng cơ quan Đảng, chính quyền địa

phương cùng thực hiện ở Trung Quốc .................................................. 31

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................. 33

Chương 2: MÔ HÌNH QUẢN LÝ TÒA ÁN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

VỚI YÊU CẦU ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP CỦA TÒA

ÁN VÀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ .............................. 34

2.1. Mô hình quản lý Toà án của Việt Nam hiện nay ............................. 34

2.1.1. Hệ thống tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành ......................... 34

2.1.2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án ở nước ta hiện nay . 38

2.1.3. Sự cần thiết đổi mới mô hình quản lý Toà án ở Việt Nam ........... 40

2.2. Đánh giá mô hình quản lý Toà án hiện nay với yêu cầu đảm bảo thực

hiện quyền tư pháp của Toà án và sự độc lập của hoạt động xét xử ........ 44

2.2.1. Bảo đảm thực hiện quyền tư pháp và sự độc lập trong xét xử ..... 46

2.2.2. Các điểm đã đạt được và các điểm bất cập ................................. 54

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................. 66

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN LÝ

TÒA ÁN NHÂN DÂN NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN TƯ

PHÁP CỦA TÒA ÁN VÀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ . 67

3.1. Hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Toà án theo các cấp

xét xử ....................................................................................................... 67

3.2. Hoàn thiện các quy định về địa vị pháp lý của các chức danh tư pháp 70

3.3. Đổi mới chế định Hội thẩm .............................................................. 72

3.4. Đổi mới công tác quản lý cán bộ ...................................................... 73

3.4.1. Tiếp tục đổi mới cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán .......... 75

3.4.2. Về chế độ khen thưởng và kỷ luật ................................................ 78

3.4.3. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức ngành Tòa án 78

3.4.4. Đổi mới chế độ đãi ngộ ............................................................... 79

3.5. Đổi mới hệ thống các cơ quan xét xử gắn liền với việc đổi mới một số

cơ quan tiến hành tố tụng khác............................................................... 81

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ............................................................................. 83

KẾT LUẬN ................................................................................................. 84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 86

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Tòa án là một cơ quan thực thi pháp

luật quan trọng, đồng thời là một phương thức giải quyết tranh chấp. Từ sau

khi Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 có hiệu lực, cơ cấu tổ chức hệ

thống Tòa án Việt Nam đã có nhiều thay đổi cũng như về quyền hạn, trách

nhiệm của mỗi cấp Tòa án. Hiện nay, hệ thống Toà án nhân dân nước ta

gồm Toà án nhân dân tối cao, Tóa án nhân dân cấp cao, Toà án nhân dân

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi tắt là Toà án nhân dân cấp tỉnh)

và Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi tắt là

Toà án nhân dân cấp huyện). Bên cạnh những ưu điểm vốn có như gần dân,

sát với chính quyền và các cấp uỷ Đảng ở cơ sở thì hệ thống Toà án ở nước

ta cũng bộc lộ những bất cập về tổ chức và hoạt động. Nhìn chung, tổ chức

và hoạt động của các Toà án chưa theo kịp với sự phát triển và đòi hỏi của

đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. Toà án các cấp nhiều đầu mối; nguồn

nhân lực, cơ sở vật chất của các Tòa án còn thiếu hụt, chưa tương xứng với

yêu cầu nhiệm vụ, vị trí, vai trò của Tòa án. Bên cạnh đó, trong tình hình

hiện nay, hoạt động xét xử của Toà án đang đứng trước nhiều thách thức.

Đó là, tình hình phạm tội diễn biến phức tạp, với tính chất và hậu quả ngày

càng nghiêm trọng; các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự, kinh

tế, lao động, các loại khiếu kiện và tranh chấp có yếu tố nước ngoài có

chiều hướng tăng về số lượng và phức tạp, đa dạng hơn về tính chất và

hình thức biểu hiện. Với việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hội nhập quốc tế thì đòi hỏi của Nhà

nước và nhân dân đối với cơ quan Toà án ngày càng cao.

1

Mặt khác, Hiến pháp 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử

của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa

án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.

Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền

và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” (Điều 102). Để thực hiện tốt nhiệm

vụ của cơ quan thực hiện quyền tư pháp, một trong những yêu cầu quan trọng

đặt ra là cần tạo tạo cơ chế vận hành hệ thống tòa án một cách thông suốt, hợp

lý, trước hết là cơ chế quản lý tổ chức, con người với những nguyên tắc chung

về quản lý nhà nước và những nội dung, cách thức đặc thù phù hợp với tính

chất của cơ quan xét xử.

Trong nhà nước pháp quyền, tính độc lập của tư pháp là một trong những

đặc trưng cơ bản. Xét theo chiều ngang, đó là sự độc lập của quyền tư pháp

với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Xét theo chiều dọc, đó là sự độc lập

giữa các cấp tòa án khác, độc lập trong nội bộ một cấp tòa án. Mối quan hệ

giữa cơ quan lập pháp với cơ quan tư pháp chủ yếu thông qua việc ban hành

các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức, hoạt động tư pháp và

giám sát đối với hoạt động xét xử. Mối quan hệ giữa cơ quan hành pháp với

cơ quan tư pháp thông qua việc bảo đảm các điều kiện về nguồn lực cho tòa

án thực hiện tốt quyền tư pháp. Sự độc lập của tòa án theo chiều dọc được thế

hiện ở hai yếu tố: độc lập của các cấp tòa án, độc lập trong nội bộ một cấp tòa

án và độc lập của thẩm phán, hội thẩm trong hội đồng xét xử. Để độc lập, tòa

án phải được tổ chức theo cấp xét xử, quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ

tố tụng, không phải quan hệ mệnh lệnh, hành chính. Do đặc thù của đối tượng

quản lý (cơ quan xét xử thực hiện quyền tư pháp), quản lý tòa án là một lĩnh

vực quản lý đặc thù ở đa số các nước, tòa án không tổ chức và quản lý giống

như cơ quan quản lý hành chính nhà nước.

2

Ở nước ta, vấn đề quản lý các tòa án từ lâu là một nội dung gây tranh

luận kéo dài trong khoa học cũng như trong thực tiễn. Nhiều năm qua, Nhà

nước ta đã cố gắng tìm tòi và áp dụng nhiều mô hình quản lý tòa án nhưng

thực tiễn quản lý cho thấy các mô hình này đều chưa thật hoàn thiện.

Vì vậy, nhằm góp phần vào việc đổi mới hệ thống Toà án nhân dân

theo theo đúng tinh thần cải cách tư pháp đã được đề ra trong các Nghị

quyết của Đảng, học viên lựa chọn nghiên cứu Đề tài: “Đổi mới mô hình

quản lý Tòa án ở Việt Nam hiện nay nhằm đảm bảo thực hiện quyền tư

pháp của Tòa án và sự độc lập của hoạt động xét xử”.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Nhằm góp phần hoàn thiện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và

hoạt động của các cơ quan tư pháp, thời gian qua Tòa án nhân dân tối cao đã

có nhiều chương trình trao đổi và hợp tác với các cơ quan ở các nước Pháp,

Đức, Thụy Điển, Nhật Bản, Trung Quốc, Canada... và các tổ chức quốc tế như

SIDA, JICA, UNDP... về hoạt động tư pháp. Trong đó có nhiều Hội nghị, Hội

thảo, Tọa đàm... trong và ngoài nước đã cho chúng ta một bức tranh nhiều

màu sắc về tổ chức và hoạt động hệ thống cơ quan tư pháp của các nước.

Những định hướng lớn về cải cách tư pháp nói riêng và cải cách bộ máy nhà

nước nói chung liên tục được đề cập qua các kỳ Đại hội Đảng VI, VII, VIII và

IX là nền tảng tư tưởng vững chắc cho công cuộc đổi mới tổ chức và hoạt

động của hệ thống cơ quan tư pháp nước ta. Trong những năm gần đây đã có

một số công trình khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, các luận án tiến sĩ, sách

chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư pháp Việt Nam có liên quan đến cải

cách tư pháp như: Luận án Tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội: Đổi mới tổ

chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước

pháp quyền của tác giả Trần Huy Liệu năm 2003; Cơ sở lý luận và thực tiễn

đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp (góp phần sửa đổi Hiến

3

pháp năm 1992), Đề tài cấp Bộ, Chủ nhiệm đề tài: Hoàng Thế Liên; Sách

chuyên khảo Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam của GS.TSKH. Đào Trí Úc, NXB Tư pháp năm 2006;

Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy Nhà nước của GS.TS. Nguyễn Đăng

Dung, NXB Giao thông vận tải năm 2002; Hệ thống tư pháp và cải cách tư

pháp ở Việt Nam hiện nay của tập thể các tác giả do GS.TS. Đào Trí Úc chủ

biên, NXB Khoa học xã hội năm 2002; Những công trình khoa học nghiên

cứu về Tòa án nhân dân ở những góc độ khác nhau... Các công trình khoa học

nêu trên đã góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận và thực tiễn về mô hình tổ

chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp nước ta, phúc đáp những yêu

cầu bức xúc của cuộc sống. Tuy nhiên, vì các lý do khác nhau nên những

công trình nghiên cứu trên chưa giải quyết một cách đầy đủ, Toàn diện các

vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp

nói chung và Tòa án nhân dân nói riêng trong điều kiện cải cách tư pháp.

3. Mục tiêu nghiên cứu

- Nghiên cứu lý luận và thực tiễn mô hình quản lý Tòa án ở Việt Nam,

chỉ ra những kết quả đã đạt được, những bất cập, tồn tại và nguyên nhân của

những bất cập đó trong quản lý Tòa án của Việt Nam hiện nay.

- Đánh giá mô hình quản lý Tòa án hiện nay với yêu cầu đảm bảo thực

hiện quyền tư pháp của Tòa án và sự độc lập của hoạt động xét xử, nhằm đưa

ra những đổi mới phù hợp thực trạng việc quản lý Tòa án ở Việt Nam hiện nay.

- Đề ra các giải pháp hoàn thiện quản lý Tòa án nhân dân nhằm đảm bảo

thực hiện quyền tư pháp của Tòa án và sự độc lập của hoạt động xét xử.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ của một đề tài luận văn thạc sỹ, học viên xác định đối

tượng và phạm vi của đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề chung về mô

hình quản lý Tòa án, đưa ra thực trạng mô hình quản lý Tòa án của Việt Nam

4

hiện nay với yêu cầu bảo đảm tính độc lập và thực hiện quyền tư pháp (những

kết quả đã đạt được, những bất cập, tồn tại và nguyên nhân của những bất cập

đó), trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp góp phần đổi mới, hoàn thiện quản

lý Tòa án nhân dân nhằm đảm bảo thực hiện quyền tư pháp của Tòa án và sự

độc lập của hoạt động xét xử.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh về nhà nước và pháp luật; Các quan điểm của Đảng về từng bước

hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo yêu cầu cải cách

tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và

vì dân. Luận văn cũng được trình bày trên cơ sở nghiên cứu Hiến pháp, Luật

Tổ chức Tòa án nhân dân, và các văn bản pháp luật khác quy định về tổ chức

và hoạt động của Tòa án.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể của luật học như phương

pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê xã hội học, phương pháp

luật học so sánh và khảo sát thực tế để làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên

cứu của luận văn.

6. Tính mới và những đóng góp của đề tài

Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và luận cứ khoa

học về mô hình quản lý Tòa án của Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, luận

văn đó đưa ra một số phương hướng và giải pháp khoa học, phù hợp với điều

kiện thực tiễn, góp phần đổi mới, hoàn thiện quản lý Tòa án nhân dân nhằm

đảm bảo thực hiện quyền tư pháp của Tòa án và sự độc lập của hoạt động xét

xử, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước

5

pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, hi vọng rằng luận văn có thể

được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học, những người làm

thực tiễn và công tác nghiên cứu, giảng dạy.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được

chia làm 03 chương:

Chương 1: Một số vấn đề chung về mô hình quản lý Tòa án

Chương 2: Mô hình quản lý Tòa án của Việt Nam với yêu cầu đảm bảo

thực hiện quyền tư pháp của Tòa án và sự độc lập của hoạt

động xét xử

Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện mô hình quản lý Tòa án nhân

dân nhằm đảm bảo thực hiện quyền tư pháp của Tòa án và

sự độc lập của hoạt động xét xử

6

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỂ CHUNG VỀ MÔ HÌNH QUẢN LÝ TÒA ÁN

1.1. Sự hình thành Tòa án và mô hình quản lý Toà án

1.1.2. Sự hình thành Toà án

Nhà nước đã ban hành ra pháp luật thì phải có cơ chế để đảm bảo cho

pháp luật được thực thi, bởi lẽ pháp luật sẽ trở nên vô nghĩa, nếu nó không

được các giai cấp và tầng lớp khác tuân theo, pháp luật không đi vào đời

sống hàng ngày của dân cư. Mặt khác trong bất cứ xã hội nào, luôn luôn có

các cá nhân, tổ chức hoặc giai cấp đối lập tìm mọi cách để làm trái các điều

luật của nhà nước, đi ngược lại với lợi ích của giai cấp thống trị. Do vậy giai

cấp thống trị đã tổ chức ra một hệ thống các cơ quan chuyên làm nhiệm vụ

bảo vệ và bảo đảm cho pháp luật được thực thi như quân đội, cảnh sát...

Nhưng không thể sử dụng đội quân này có thể bắt bớ, giam cầm một cách

tùy tiện, bởi như thế sẽ tạo nên sự hỗn loạn trong xã hội. Bởi lẽ đó cần có

một cơ quan được lập ra để đảm nhiệm chức năng xét xử, xem xét hành vi

nào là đúng, là sai. Cơ quan đó chính là tòa án, luôn tồn tại trong bất kỳ chế

độ nhà nước nào.

Theo V.I. Lênin "… Tòa án là cơ quan quyền lực nhà nước, hoạt động

của tòa án là hình thức hoạt động của nhà nước... " [13, tr.197].

1.1.2. Vị trí, vai trò của Tòa án ở Việt Nam

Tòa án là biểu hiện tập trung của quyền tư pháp, là cơ quan thực hiện chức

năng xét xử. Ngay từ buổi đầu của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tòa

án đã chiếm một vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong việc xét xử những

hành vi vi phạm pháp luật, chống phá nhà nước ta. Cùng với quá trình phát triển

của cách mạng, ở mỗi một giai đoạn khác nhau, do những yêu cầu đặt ra khác

nhau, tổ chức, hoạt động của tòa án nhân dân cũng có những nhiệm vụ và mục

7

tiêu khác nhau. Tuy nhiên nó cũng chiếm một vị trí và vai trò hết sức quan

trọng, "...là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam...

Trong phạm vi chức năng của mình có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ

nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân ; bảo vệ

tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và

nhân phẩm của công dân…” [1,tr.71].

1.2. Khái quát mô hình quản lý Toà án của Việt Nam giai đoạn

1945 - 2002

Trong giai đoạn 1945 - 2002, mô hình quản lý Toà án nhân dân địa

phương được chia thành 4 giai đoạn tương ứng với các mô hình khác nhau, cụ

thể là:

1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959

Ngay sau khi cách mạng tháng tám thành công, Nhà nước Việt nam dân

chủ cộng hoà đã quan tâm đến công tác xét xử và xây dựng hệ thống Toà án.

Ngày 13/9/1945, Chính phủ lâm thời đã ra Sắc lệnh số 33/SL về việc thiết lập

các Tòa án quân sự ở các địa phương khác nhau trong cả nước. Theo Sắc lệnh

này, ở nước ta sẽ thiết lập các Tòa án quân sự ở Hà Nội, Hải Phòng, Thái

Nguyên, Ninh Bình, Vinh, Huế, Quảng Ngãi, Sài Gòn, Mỹ Tho. Các Tòa án

quân sự đã được thành lập với thẩm quyền xét xử sơ thẩm, đồng thời chung

thẩm tất cả những người phạm vào một việc gì có phương hại cho nền độc lập

của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Để giữ vững kỷ luật trong quân đội,

ngày 23/8/1945 Chính phủ đã ra sắc lệnh số 163/SL về việc thành lập tòa án

xét xử các quân nhân, sĩ quan phạm tội. Đây là những văn bản pháp lý đầu

tiên, là cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của tòa án sau này.

Tuy nhiên, vì yêu cầu của cách mạng lúc bấy giờ, Nhà nước Việt nam

dân chủ cộng hoà mới chỉ thiết lập các Tòa án quân sự mà chưa tổ chức hệ

thống Tòa án các cấp và các Tòa án quân sự cũng chỉ xét xử các vụ án hình sự

8

mà không xét xử các vụ án dân sự.

Ngày 24/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 13 về tổ chức

Tòa án và ngạch Thẩm phán. Đây là Sắc lệnh đầu tiên quy định một cách đầy

đủ, cụ thể tiêu chuẩn nhiệm vụ và quyền hạn của các ngạch thẩm phán. Theo

đó, các Toà án sơ cấp, đệ nhị cấp, Toà thượng thẩm đã được thành lập, Thẩm

phán ở Toà án thượng thẩm và Toà án đệ nhị cấp do Chủ tịch nước bổ nhiệm,

còn thẩm phán ở Toà án sơ cấp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm.

Ngày 29/4/1958, Quốc hội quyết định thành lập Tòa án nhân dân tối cao

và Viện công tố nhân dân trung ương, trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Có thể

nói đây là một bước quá độ rất cần thiết làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống

Tòa án nhân dân trong Bộ máy nhà nước một năm sau đó. Năm 1959, Hiến

pháp mới ban hành, Toà án tối cao, Viện công tố được thành lập lại thành Toà

án nhân dân tối cao và tách ra khỏi Chính phủ. Từ năm 1946 đến năm 1960 tất

cả các cơ quan Toà án đều đặt dưới sự quản lý của Bộ Tư pháp về mặt tài

chính, kinh phí, tổ chức chế độ làm việc và các công việc về nhân sự.

1.2.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980

Hiến pháp năm 1959 đã thể chế hoá các quan điểm của Nghị quyết Đại

hội lần thứ III của Đảng đã đề ra. Căn cứ vào các quy định của Hiến pháp

1959 về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, ngày 14/7/1960, Quốc hội

nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khoá II, kỳ họp thứ nhất đã thông qua

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân. Tiếp đó, để kiện Toàn Tòa án nhân dân các

cấp, tăng cường tính nhân dân của Tòa án nhân dân và bảo đảm cho việc xét

xử được chính xác và đúng pháp luật. Ngày 23/3/1961 Uỷ ban thường vụ

Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức Tòa án nhân dân

tối cao và tổ chức của Tòa án nhân dân địa phương. Ngoài các quy định trên,

theo Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ nước Việt nam dân chủ cộng hoà năm

1960, Bộ Tư pháp giải thể.

Về quản lý các Toà án nhân dân địa phương, Điều 23 Luật Tổ chức Toà

9

án nhân dân quy định: “... Bộ máy làm việc và biên chế của các Toà án nhân

dân địa phương các cấp do Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện

theo quy định chung về bộ máy làm việc và biên chế của Cơ quan Nhà nước”

và Điều 14 Pháp lệnh ngày 23/3/1961 quy định: “Tổ chức cụ thể của bộ máy

làm việc và biên chế cụ thể của các Toà án nhân dân địa phương các cấp do

Chánh án Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện theo những quy định

chung về bộ máy làm việc và biên chế của các cơ quan nhà nước. Tổng biên

chế của các Toà án nhân dân địa phương các cấp do Chánh án Toà án nhân

dân tối cao định và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn”.

Tuy nhiên, trên thực tế, các Toà án nhân dân địa phương được xem là

đơn vị xét xử của đơn vị hành chính của từng cấp địa phương việc quản lý

Toà án nhân dân địa phương chủ yếu do chính quyền địa phương đảm nhiệm

(hội đồng nhân dân cùng cấp bầu, bãi miễn Chánh án, Phó chánh án, Thẩm

phán; kinh phí và cơ sở vật chất cho hoạt động do Uỷ ban nhân dân địa

phương đảm nhiệm, chế độ tiền lương của cán bộ Toà án nhân dân các cấp do

Chính phủ đảm nhiệm.

1.2.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992

Ngày 13/12/1980, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

khoá VI, kỳ họp thứ 7, đã thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam thống

nhất - Hiến pháp 1980. Nhìn chung, các quy định về Tòa án nhân dân trong

Hiến pháp 1980 kế thừa và phát triển các quy định của Hiến pháp 1959.

Trong Tờ trình trước Quốc hội về Dự thảo Luật tổ chức Toà án nhân dân

tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá VII (tháng 7/1981) do Toà án nhân dân tối

cao chuẩn bị trước Quốc hội có viết: “Để bảo đảm cho các Tòa án nhân dân

thực hiện được tốt công tác xét xử, việc quản lý về biên chế, tổ chức và cán

bộ của Tòa án nhân dân các cấp là rất quan trọng. Trước đây, khi giải thể Bộ

Tư pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 đã giao nhiệm vụ này cho

10

Tòa án nhân dân tối cao. Nay, nếu Bộ Tư pháp được thành lập, chúng tôi đề

nghị Tòa án nhân dân tối cao quản lý tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao và

Bộ Tư pháp quản lý về tổ chức của Tòa án nhân dân địa phương”.

Đồng thời trong Tờ trình thành lập lại Bộ Tư pháp, Chủ tịch Hội đồng

Bộ trưởng đã báo cáo trường kỳ họp thứ 1 Quốc hội khoá VII đã khẳng định:

“Thực tiễn 20 năm qua (1960 - 1980) chứng minh rõ việc Hội đồng Chính

phủ, cơ quan chấp hành nhà nước cao nhất, cơ quan quản lý Toàn diện công

việc của Nhà nước không có Bộ Tư pháp là điều rất không hợp lý, Tòa án

nhân dân tối cao với tư cách là Toà án, một cơ quan xét xử của Hiến pháp lại

được giao chức năng, nhiệm vụ của Bộ, của Chính phủ mà theo pháp luật lại

không chịu trách nhiệm trước Chính phủ (chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc

hội), trong khi đó thì Hội đồng Chính phủ không nắm được tình hình thi hành

pháp luật, không gắn được việc chấp hành pháp luật trong việc xét xử với việc

điều hành công việc chung của chính phủ, từ đó không chỉ đạo được hoạt động

đấu tranh chống tội phạm loại trừ các nguyên nhân và điều kiện gây ra tội

phạm và các hành vi phạm pháp khác. Tình hình này kéo dài sẽ có hậu quả

không tốt. Hội đồng Chính phủ phải là người quản lý Toàn diện mọi hoạt động

của đời sống xã hội kể cả quản lý tư pháp. Hội đồng Chính phủ phải có Bộ Tư

pháp để giúp cho Hội đồng Chính phủ thống nhất quản lý công tác tư pháp”.

Chính vì vậy, theo Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 1980 (Điều 16) và

Nghị định số 143/HĐBT ngày 22/11/1981 về chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư

pháp thì “việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ

trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm. Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc thực hiện nhiệm vụ đó” (Điều

16) [3]. Về quản lý các Tòa án quân sự, thì Pháp lệnh năm 1985 đã giao “Bộ

trưởng Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong việc quản lý về mặt tổ chức các Tòa

11

án quân sự quân khu và cấp tương đương và các Tòa án quân sự khu vực”.

Về biên chế của các Tòa án nhân dân theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân

năm 1981 và Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 1985, thì biên chế của

Tòa án nhân dân tối cao do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định và trình

Hội đồng Nhà nước phê chuẩn. Tổng số biên chế của các Tòa án nhân dân địa

phương do Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định. Sau khi

đã được Hội đồng Bộ trưởng quyết định tổng số biên chế, việc quy định biên chế

cho từng Tòa án nhân dân địa phương đó Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định. Đối

với các Tòa án quân sự, thì bộ máy làm việc, biên chế của Tòa án quân sự cấp

cao do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định, sau khi đã thống nhất ý

kiến với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và trình Hội đồng Nhà nước phê chuẩn bộ

máy làm việc, biên chế của các Tòa án quân sự quân khu và cấp tương đương,

của các Tòa án quân sự khu vực do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định, sau khi

đã thống nhất ý kiến với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ

Quốc phòng. Về kinh phí, phương tiện hoạt động và trụ sở của các Tòa án quân

sự do Bộ Quốc phòng và các đơn vị quân đội bảo đảm.

Tóm lại, việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương trong giai đoạn

này do Bộ Tư pháp đảm nhiệm, nhưng chủ yếu là việc trình tổng số biên chế

và quy định biên chế cụ thể cho từng Tòa án nhân dân địa phương, còn về

kinh phí hoạt động vẫn do ngân sách địa phương cấp, về nhân sự như Chánh

án, Phó Chánh án, Thẩm phán do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu.

1.2.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002

Đường lối đổi mới được khởi xướng từ Đại hội lần thứ VI của Đảng năm

1986 và tiếp tục được khẳng định và phát triển trong Nghị quyết Đại hội lần

thứ VII của Đảng năm 1991 là cơ sở cho việc ban hành Hiến pháp năm 1992 -

Hiến pháp của thời kỳ đổi mới.

Trong quá trình xây dựng Hiến pháp 1992, Luật tổ chức Toà án nhân dân

12

năm 1992, Toà án nhân dân tối cao đã có văn bản đề nghị giao quản lý các

Toà án nhân địa phương về mặt tổ chức. Tuy nhiên, Hiến pháp 1992 cũng như

Luật tổ chức Tòa án nhân dân được ban hành tiếp tục kế thừa và phát triển các

quy định của Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981

theo đó, “Việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức do Bộ

trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án

nhân dân tối cao. Quy chế phối hợp giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh án

Toà án nhân dân tối cao trong việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương

về mặt tổ chức do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định”.

Xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp, ngày 02/1/2002, Bộ Chính trị đã

ban hành Nghị quyết số 08 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp

trong thời gian tới đã xác định Toà án nhân dân tối cao quản lý các Toà án địa

phương về mặt tổ chức. Thi hành Luật tổ chức Toà án nhân dân 2002, ngày

25/9/2002, tại Bộ Tư pháp, lễ bàn giao công tác quản lý Toà án nhân dân địa

phương, Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu vực

về mặt tổ chức từ Bộ Tư pháp sang Toà án nhân dân tối cao đã được tiến

hành.

1.3. Các điểm kế thừa từ mô hình quản lý Toà án trong giai đoạn

1945 - 2002

Một số điểm kế thừa từ các mô hình quản lý Toà án trong giai đoạn 1945

- 2002 như sau:

1) Tiếp tục thực hiện chế độ bổ nhiệm thẩm phán như đã được thực hiện từ

năm 1992 đến nay nhằm đảm bảo chọn được những người thực sự đủ tiêu chuẩn

làm thẩm phán và bảo đảm cho thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

2) Cần phải khẳng định Toà án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp,

không phải là cơ quan quản lý hành chính

13

Bởi lẽ, thứ nhất, xét về vi trí, vai trò của Toà án trong hệ thống tổ chức,

bộ máy Nhà nước thì Toà án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền xét xử, mà

không phải là cơ quan quản lý hành chính Nhà nước, cho nên trong cách thức

tổ chức các cơ quan xét xử có đặc thù riêng. Đó là, theo quy định của các Luật

tổ chức Toà án, thì các Toà án của nước ta được tổ chức theo địa giới hành

chính từ cấp huyện trở lên, hoạt động xét xử độc lập với nhau theo thẩm

quyền mà không thành một hệ thống như các cơ quan khác.

Hơn nữa, một trong những nguyên tắc quan trong trong hoạt động của

Toà án được ghi nhận trong tất cả các bản hiến pháp của nước ta đó là “khi

xét xử, thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Pháp luật

là mệnh lệnh tối cao đối với những người làm công tác xét xử. Muốn vậy, đối

với người Thẩm phán, đòi hỏi phải có điều kiện chủ quan và khách quan về

thực hiện quyền năng và nghĩa vụ của mình. Về chủ quan, muốn “độc lập” thì

người Thẩm phán phải nắm vững pháp luật, có bản lĩnh, đạo đức và như vậy

họ phải được đào tạo một cách chính quy, được bổ nhiệm theo các tiêu chuẩn

chặt chẽ và phải được hưởng chế độ lương bổng thoả đáng. Về khách quan,

để các Thẩm phán được “độc lập” trong hoạt động xét xử, cần thiết phải ngăn

chặn mọi sự can thiệp của cơ quan hoặc cá nhân vào việc xét xử các vụ án cụ

thể, ít nhiều ảnh hưởng đến sự nghiêm minh của pháp luật mà Thẩm phán là

người có sứ mệnh duy trì sự nghiêm minh đó. Do đó, trong cách thức tổ chức,

các Toà án cấp trên không có quan hệ hành chính, chỉ đạo điều hành Toà án

cấp dưới. Mối quan hệ giữa các Toà án này với nhau là quan hệ tố tụng theo

quy định của pháp luật. Việc quản lý hành chính có liên quan đến tổ chức, bộ

máy, đào tạo, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, bảo đảm trụ sở,

kinh phí phương tiện hoạt động của Toà án được giao cho cơ quan có chức

năng quản lý hành chính nằm ngoài tổ chức cơ quan xét xử nhằm tránh sự

điều hành, mệnh lệnh trong công tác xét xử.

14

3) Việc quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức nên do một

Hội đồng thuộc Chính phủ thực hiện.

Theo nguyên tắc tổ chức bộ máy của Nhà nước ta hiện nay thì quyền lực

Nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan lập pháp,

hành pháp, tư pháp, trong đó cơ quan hành pháp là cơ quan chấp hành, chịu

trách nhiệm thực hiện các vấn đề về quản lý hành chính Nhà nước và điều

hành đối với Toàn bộ hoạt động trong các lĩnh vực đời sống xã hội. Do vậy,

việc quản lý hành chính có liên quan đến tổ chức, bộ máy, đào tạo, bổ nhiệm,

khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, bảo đảm trụ sở, kinh phí phương tiện

hoạt động của Toà án là thuộc hoạt động quản lý của cơ quan hành pháp. Tuy

nhiên, việc quản lý này không nên giao cho một Bộ phối hợp với Toà án nhân

dân tối cao thực hiện mà nên do một Hội đồng thực hiện để có thế có đủ tầm

giải quyết nhanh việc cải tiến công tác này phải bảo đảm nguyên tắc tập trung

dân chủ, thống nhất quyền lực, có sự phân công, phân cấp, đồng thời đảm bảo

sự chỉ đạo thống nhất của rung ương trong tổ chức và hoạt động của các cơ

quan quản lý Toà án; hạn chế sự tối đa sự tác động của chính quyền địa

phương đối với hoạt động của Toà án.

1.4. Mô hình quản lý Tòa án ở một số quốc gia trên thế giới

Qua việc nghiên cứu mô hình quản lý Toà án ở một số quốc gia trên thế

giới, có thể thấy có 4 mô hình quản lý Tòa án, cụ thể như sau:

- Mô hình do Bộ Tư pháp quản lý: Mô hình này được áp dụng ở Cộng

hòa liên bang Đức.

- Mô hình tự quản do một đơn vi “trực thuộc Tòa án” độc lập với cơ

quan lập pháp, hành pháp quản lý: Mô hình này được áp dụng ở Hoa Kỳ, Úc,

Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia, Liên bang Nga, Bungary,

Hungary…

- Mô hình kết hợp do đơn vị tự quản độc lập của Tòa án và Bộ Tư pháp

cùng thực hiện: Mô hình này được áp dụng ở Cộng hòa Pháp.

15

- Mô hình Tòa án phối hợp cùng cơ quan Đảng, chính quyền địa phương

cùng thực hiện: Mô hình này được áp dụng ở Trung Quốc.

1.4.1. Mô hình do Bộ Tư pháp quản lý tại Cộng hòa liên bang Đức

1.4.1.1. Quản lý Tòa án Hiến pháp liên bang

Độc lập trong vấn đề quản lý nhân sự và ngân sách. Hội đồng Thẩm

phán Tòa án Hiến pháp liên bang chuẩn bị dự thảo ngân sách hàng năm và

chuyển cho Hạ nghị viện liên bang xem xét phê chuẩn.

1.4.1.2. Quản lý các Tòa án không phải là Toà án Hiến pháp

Nhìn chung, việc quản lý các Tòa án (trừ Tòa án Hiến pháp) ở Cộng hoà

liên bang Đức do Bộ Tư pháp liên bang và các Bộ Tư pháp bang thực hiện.

Toàn bộ các Thư ký Tòa án cũng như nhân viên hành chính của các Tòa án

đều do Bộ Tư pháp đào tạo, bổ nhiệm và thuyên chuyển. Biên chế các Thẩm

phán cũng được quyết định bởi sự chấp thuận của Bộ Tư pháp. Việc lập ngân

sách và phân bồ ngân sách cho các Tòa án cũng do Bộ Tư pháp liên bang và

các Bộ Tư pháp bang đảm nhiệm.

Tuy nhiên, các Tòa án thượng thẩm, cấp cao của các bang được phân cấp

quản lý các Tòa án thuộc hệ thống trong phạm vi lãnh thổ bang. Do đó, các Tòa

án cấp cao nhất của bang đóng vai trò là cơ quan hành chính trung gian giữa

các bộ và các Tòa án cấp dưới cùng hệ thống trong phạm vi lãnh thổ bang.

1.4.2. Mô hình tự quản do một đơn vị “trực thuộc Tòa án” độc lập với

cơ quan lập pháp, hành pháp quản lý

Mô hình này được áp dụng ở Hoa Kỳ, Úc, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc,

Thái Lan, Indonesia, Liên bang Nga, Bungary, Hungary...

1.4.2.1. Ở Nhật Bản

Việc quản lý Tòa án được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức Tòa

án. Theo những quy định này thì Tòa án tối cao có thẩm quyền cao nhất trong

quản lý Tòa án.

16

Tòa án tối cao giám sát nhân viên Tòa án tối cao và nhân viên Tòa án

cấp dưới; Tòa án cấp cao giám sát nhân viên Tòa án cấp cao đó và Tòa án cấp

dưới trong khu vực chủ quản và nhân viên của Tòa án đó; Toà án địa phương

cấp tỉnh giám sát nhân viên Tòa án địa phương cấp tỉnh đó và Tòa án đơn

giản trong khu vực chủ quản và nhân viên của Tòa án đó; các Tòa án gia đình

giám sát nhân viên của Tòa án gia đình đó; Thẩm phán Tòa án đơn giản giám

sát nhân viên không phải Thẩm phán của Tòa án gia đình đó.

Đối với ngân sách của ngành Tòa án, sau khi có Nghị quyết của Đại hội

đồng Thẩm phán (15 Thẩm phán Tòa án tối cao), Tòa án tối cao sẽ trình dự

toán ngân sách trực tiếp cho Nội các. Nếu Nội các cắt giảm dự toán của Tòa

án thì Tòa án tối cao có thể yêu cầu Nội các giữ nguyên. Nội các sẽ trình chi

tiết các khoản dự toán để Quốc hội xem xét quyết định.

Để thực hiện công việc quản lý hành chính, Tòa án tối cao có Tổng Ban

Thư ký là bộ phận nội bộ chịu trách nhiệm quản lý hành chính Tòa án. Các

cán bộ quan trọng của Tổng Ban Thư ký được chọn lựa từ các Thẩm phán

Tòa án cấp dưới, nếu họ đồng ý.

Như vậy, Tòa án tối cao quản lý Toàn bộ hệ thống Tòa án một cách độc

lập không có sự can thiệp của nhánh lập pháp hoặc hành pháp.

1.4.2.2. Ở Hàn Quốc

Bộ Quản lý hành chính Tòa án thuộc Tòa án tối cao Hàn Quốc chịu trách

nhiệm giúp Hội đồng Thẩm phán Tòa án tối cao quản lý hệ thống Tòa án về

tổ chức, nhân sự, ngân sách, cơ sở vật chất v.v…

Bộ trưởng Bộ Quản lý hành chính Tòa án do Chánh án Tòa án tối cao bổ

nhiệm trong sổ các Thẩm phán của Tòa án tối cao.

Bộ quản lý hành chính Tòa án bao gồm 05 Vụ, 04 Văn phòng và Tổng

Thanh tra: Vụ Kế hoạch và Điều phối có trách nhiệm lập kế hoạch và phối

hợp hoạt động với các Tòa án, xây dựng ngân sách tư pháp và quản lý ngân

sách, tiến hành các nghiên cứu về các văn bàn pháp luật và quy định pháp

17

luật, quản lý việc xử lý dữ liệu điện tử và mạng thông tin điện tử, và thống kê;

Vụ Nghiên cứu Chính sách Tư pháp tiến hành các nghiên cứu và tìm hiểu về

hệ thống và chính sách tư pháp, các vấn đề quốc tế; và Vụ Quản lý nhân sự

quản lý và đào tạo cán bộ, nhân viên tư pháp. Văn phòng Dịch vụ Tổng hợp

chịu trách nhiệm về các công việc lễ tân, quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật, và

kinh phí hoạt động; Văn phòng quản lý các vụ kiện có trách nhiệm tiếp nhận

các vụ án, quản lý hồ sơ Tòa án, tham gia vào các vụ kiện pháp lý, tiến hành

nghiên cứu và tìm hiểu các hệ thống/phương thức kiện tụng, và đưa ra các câu

trả lời cho các câu hỏi pháp lý của Tòa án các cấp; Văn phòng Đăng ký chịu

trách nhiệm ghi sổ đăng ký, đăng ký gia đình, và tiền gửi; Văn phòng Xây

dựng Tòa án chịu trách nhiệm xây dựng cơ sở vật chất Tòa án, quản lý việc sử

dụng và bảo dưỡng. Vụ Thông tin Công chúng có trách nhiệm quảng bá cho

hệ thống Tòa án; Tổng Thanh tra tiến hành kiểm tra và giám sát các công việc

của cán bộ tư pháp, cảnh sát trưởng và công chứng viên tư pháp; Vụ Kế hoạch

khẩn cấp tiến hành xây dựng các biện pháp ứng phó trong các trường hợp

khẩn cấp của quốc gia.

Về xây dựng ngân sách: Theo nguyên tắc, Tòa án tối cao xây dựng ngân

sách của hệ thống Tòa án sau khi tham khảo ý kiến của Chính phủ (Bộ Tài

chính và kinh tế), trình Quốc hội thông qua. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xây

dựng ngân sách của hệ thống Tòa án do Bộ Tài chính và kinh tế thực hiện trên

cơ sở số liệu thu chi ngân sách do Tòa án tối cao nộp. Nếu Chính phủ đề nghị

giảm mức ngân sách mà Tòa án tối cao đề xuất, Chính phủ phải trao đổi với

Tòa án tối cao.

1.4.2.3. Ở Thái Lan

Việc quản lý hệ thống Tòa án Công lý được thực hiện thông qua 3 Hội

đồng: Hội đồng Tư pháp, Hội đồng hành chính tư pháp và Hội đồng các vấn

đề công vụ tư pháp.

18

Hội đồng Tư pháp gồm 13 thành viên, Chánh án Tòa án tối cao là Chủ

tịch, các ủy viên Hội đồng được bầu trong số các Thẩm phán ở tất cả các cấp

của Tòa án Công lý, trong đó 4 thành viên được bầu trong số các Thẩm phán

Tòa án tối cao, 4 thành viên được bầu từ các Thẩm phán các Tòa phúc thẩm, 4

thành viên còn lại được bầu trong số 100 Thẩm phán bậc cao của các Tòa sơ

thẩm. Hội đồng thực hiện việc tuyền chọn Thẩm phán để Nhà Vua bổ nhiệm,

luân chuyển, đề bạt và kỷ luật các Thẩm phán.

Hội đồng các vấn đề công vụ tư pháp bao gồm Phó Chánh án lâu năm

nhất của Tòa án tối cao là Chủ tịch Hội đồng, các ủy viên Hội đồng do Hội

đồng Thẩm phán bầu trong số các Thẩm phán ở tất cả các cấp Tòa án và cả

các ủy viên Hội đồng được bầu trong số các cán bộ tư pháp cấp cao của Tòa

án. Hội đồng thực hiện việc bổ nhiệm, luân chuyển, đề bạt và kỷ luật các cán

bộ Tòa án.

Hội đồng hành chính tư pháp do Chánh án Tòa án tối cao làm Chủ tịch

và bao gồm các ủy viên Hội đồng được bầu trong số các Thẳm phán ở tất cả

các cấp của Tòa án Công lý. Hội đồng có trách nhiệm thông qua dự toán ngân

sách, quản lý tài chính, ban hành các quy định và thông báo liên quan đến

công việc hành chính và công việc Thư ký của Văn phòng Tòa án Công lý.

Luật pháp quy định mỗi Hội đồng phải có số lượng nhất định ủy viên

Hội đồng là những người có trình độ chuyên môn giỏi và không phải là Thẩm

phán nhằm đảm bảo tính giải trinh và minh bạch.

Văn phòng Toà án Công lý

Theo Hiến pháp năm 1997 và Hiến pháp hiện hành năm 2007, các Tòa

án Công lý có Văn phòng Tòa án Công lý do Chánh Văn phòng đứng đầu,

người sẽ báo cáo trực tiếp lên Chánh án Tòa án tối cao. Chánh Văn phòng

Tòa án Công lý được bổ nhiệm từ một Thẩm phán Tòa án tối cao. Việc bổ

nhiệm Chánh Văn phòng của Văn phòng Tòa án Công lý phải được sự chấp

thuận của Hội đồng Tư pháp. Chánh án Tòa án tối cao đệ trình lên Nhà Vua

19

bổ nhiệm. Văn phòng Tòa án Công lý có quyền tự chủ trong công tác nhân sự,

ngân sách và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật. Văn phòng Tòa

án Công lý có đội ngũ nhân viên riêng và được chia thành nhiều Vụ. Vụ Công

nghệ thông tin Vụ giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp thay thế, Vụ pháp

luật và tư pháp và Học viện đào tạo tư pháp. Vụ các vấn đề quốc tế thực hiện

các công việc liên quan đến hợp tác tư pháp quốc tế.

Theo Luật về Hành chính tư pháp của các Tòa án Công lý thì Văn phòng

Tòa án Công lý là một tổ chức hành chính độc lập có tư cách pháp nhân, có

các quyền và nghĩa vụ liên quan đến các công việc hành chính của các Tòa án

Công lý, các công việc tự pháp và các công việc kỹ thuật tư pháp để hỗ trợ và

tạo điều kiện để các Tòa án Công lý hoạt động thuận lợi, hiệu quả, nhanh

chóng. Văn phòng Tòa án công lý gồm:

Ở Trung ương: có 22 đơn vị. Những đơn vị này có nhiệm vụ phối hợp,

theo dõi, tham mưu, quyết định quy chế và các hướng dẫn thực tiễn.

Ở khu vực: có 9 đơn vị là các phòng là Văn phòng của Tòa án Công lý

của các Khu vực I - IX. Họ có nhiệm vụ hỗ trợ và thúc đẩy các công việc

hành chính và kỹ thuật tư pháp.

Có 265 Văn phòng hành chính của các Tòa án tỉnh và Văn phòng hành

chính khu vực của Tòa án Công lý. Các Văn phòng này có nhiệm vụ hỗ trợ

quá trình xét xử liên quan đến công việc hành chính, kỹ thuật tư pháp, trong

đó phối hợp với các cơ quan khác của Chính phủ.

1.4.2.4. Ở Hoa Kỳ

Tại Hoa Kỳ, tồn tại hai hệ thống Tòa án là Tòa án liên bang và Tòa án

bang. Mặc dù thẩm quyền của hai hệ thống Tòa án này là hoàn Toàn khác

nhau, nhưng mô hình tổ chức quản lý hành chính tư pháp lại có nhiều điểm

tương đồng. Thực chất, mô hình cơ quan quản lý hành chính Tòa án hiện tại

xuất phát từ những sáng kiến cài cách hành chính Tòa án trong hệ thống Tòa

20

án liên bang. Các hệ thống Tòa án bang học tập mô hình này và triển khai tại

bang mình.

Cơ quan quản lý hành chính Tòa án Hoạ Kỳ được thành lập năm 1939

theo quy định của Điều 601 Thiên 28 Bộ luật Mỹ, là cơ quan quản lý hành

chính hệ thống Tòa án liên bang, có vị trí độc lập, trực tiếp triển khai thực

hiện các chính sách mà Hội nghị tư pháp Hoa Kỳ đặt ra và chịu sự giám sát

trực tiếp của Hội nghị tư pháp.

Cơ quan quản lý hành chính Tòa án là cơ quan hỗ trợ chính trong nhánh

tư pháp liên bang. Cơ quan quản lý hành chính cung cấp các dịch vụ quản lý

hành chính, pháp lý, tài chính, quản trị, công nghệ thông tin… cho hệ thống

Tòa án liên bang. Cơ quan quản lý hành chính cũng hỗ trợ trao đổi thông tin

giữa hệ thống Tòa án và Quốc hội, nhánh hành pháp và công chúng nhân

danh Tòa án.

Nhiệm vụ của Cơ quan quản lý hành chính Tòa án Hoa Kỳ là thực hiện

các chức năng hỗ trợ cho hệ thống Tòa án liên bang như chuẩn bị và trình

ngân sách của hệ thống Tòa án lên Hội nghị tư pháp phê chuẩn để Quốc hội

thông qua, phân tích luật của Quốc hội ảnh hưởng đến hoạt động và nhân sự

của Tòa án, giải thích và áp dụng luật mới, cung cấp hỗ trợ quản lý hành

chính cho các Tòa án dưới hình thức cung cấp Thư ký, nhân viên thử thách và

nhân viên thực hiện dịch vụ trước phiên tòa, báo cáo viên, Luật sư công…

Chánh án Hoa Kỳ bổ nhiệm Giám đốc và Phó Giám đốc sau khi tham

vấn với Hội nghị tư pháp Hoa Kỳ. Cơ quan quản lý hành chính Tòa án có các

đơn vị trực thuộc như Văn phòng công việc chung, ngoại giao và Quốc hội;

Văn phòng Thư ký điều hành Hội nghị tư Pháp, Văn phòng các chương trình

Tòa án, Vụ dịch vụ quản lý hành chính, an ninh và trang thiết bị, Vụ ngân

sách và tài chính, Văn phòng nhân lực và thống kê, Văn phòng Công nghệ

thông tin, Văn phòng các chương trình dành cho Thẩm phán. Mỗi đơn vị này

21

tự chịu trách nhiệm về những lĩnh vực riêng của mình như về nhân sự, về hoạt

động của các Tòa án chuyên biệt, về phân tích ngân sách, về đào tạo nhân lực,

về đào tạo và hỗ trợ công nghệ thông tin.

1.4.2.5. Ở Canada

- Quản lý hành chính tư pháp tại Tòa án tối cao Canada

Văn phòng Tòa án tối cao thực hiện việc quản lý hành chính tư pháp tại

Tòa án tối cao. Chánh Văn phòng báo cáo trực tiếp lên Chánh án, chịu trách

nhiệm quản lý hành chính Tòa án và thực hiện các quyền bán tư pháp theo

quy định của Nguyên tắc hoạt động của Tòa án. Thẩm quyền quản lý của

Chánh Văn phòng bao gồm quyền bổ nhiệm và giám sát hoạt động của cán bộ

Tòa án, quản lý thư viện, quản lý bộ phận đăng ký và tiếp nhận hồ sơ, xuất

bản Báo cáo án lệ Tòa án tối cao Canada. Chánh Văn phòng và Phó Chánh

Văn phòng đều do Toàn quyền Canada bổ nhiệm. Văn phòng Tòa án tối cao

có khoảng 200 cán bộ, tất cả đều thuộc biên chế cán bộ công chức liên bang.

Mỗi Thẩm phán Tòa án tối cao đều có 3 Thư ký chuyên môn, thường là

các sinh viên luật mới tốt nghiệp có nhiệm vụ giúp Thẩm phán nghiên cứu,

tìm hiểu thông tin. Phần lớn các liên đoàn Luật sư tiều bang đều quy định các

Luật sư phải có ít nhất một năm kinh nghiệm làm Thư ký cho Thẩm phán mới

được chấp nhận tư cách thành viên và có thể hành nghề. Ngoài ra, mỗi Thẩm

phán có một chuyên viên và một cán bộ hành chính thực hiện các công việc

khác tại Văn phòng Thẩm phán. Riêng Văn phòng Chánh án có thêm một cố

vấn pháp luật cao cấp và một cố vấn pháp luật chịu trách nhiệm quản lý quan

hệ truyền thông đối với các vấn đề liên quan đến các Thẩm phán và cán bộ

Tòa án cũng như những vụ việc do Tòa án tối cao xét xử.

Ban quản lý hoạt động Tòa án gồm có Phòng Pháp luật, Phòng Xuất bản

tuyển tập án lệ, Phòng Thụ lý hồ sơ, Trung tâm thư viện và quản lý thông tin

chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch, định hướng, tư vấn pháp lý và hỗ trợ

22

hoạt động cho các Thẩm phán trong tất cả các quy trình quản lý án từ thụ lý

cho đến khi phán quyết cuối cùng được đưa ra. Chức năng này bao gồm việc

xử lý và ghi thông tin, lên lịch xét xử, hỗ trợ chuyên môn, dịch vụ thông tin

thư viện, biên tập và xuất bản Tuyển tập án lệ Tòa án tối cao. Ban quản lý

hoạt động Tòa án cũng thực hiện chức năng quản lý thông tin trong đó có

thông tin liên quan đến các vụ việc do Tòa án tối cao xét xử và thông tin về

hoạt động của Tòa án tối cao.

Ban thông tin truyền thông xây dựng và thực hiện các chiến lược, kế

hoạch và chương trình truyền thông nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết của

người dân về hoạt động của Tòa án tối cao cũng như nâng cao truyền thông

nội bộ trong Tòa án tối cao.

Ban dịch vụ hoạt động Tòa án có chức năng hỗ trợ hành chính và chuyên

môn cho tất cả các Thẩm phán và cán bộ Tòa án gồm có: xây dựng kế hoạch

hoạt động, kế hoạch chiến lược và nguồn lực, báo cáo hoạt động, quản lý

trách nhiệm giải trình, các phương pháp và công cụ quản lý hiện đại, quản lý

rủi ro, các vấn đề liên quan đến tài chính, mua sắm, điều kiện làm việc, hành

chính (truyền thông thông tin, thư từ, dịch vụ in ấn), nhân sự, an ninh, y tế và

an Toàn lao động, quản lý tình huống khẩn cấp, chiến lược phát triển, thực

hiện và quản lý các chính sách, kế hoạch và chiến lược công nghệ thông tin

cũng như kế hoạch phát triển hoạt động của Tòa án.

Ban lễ tân và hỗ trợ tư pháp chịu trách nhiệm thực hiện các hoạt động hỗ

trợ cho Chánh án và 8 Thẩm phán Tòa án tối cao, trong đó có các hoạt động lễ

tân và dịch vụ tại phòng ăn của các Thẩm phán, phát triển và thực hiện các

chương trình và hoạt động hỗ trợ tư pháp, quản lý hành chính tư pháp và thực

hiện Chương trình Thư ký Tòa án của các Thẩm phán.

Thụ lý hồ sơ

Hoạt động thụ lý hồ sơ đóng một vai trò nòng cốt trong hoạt động của

Tòa án, giữ vai trò trung tâm của tất cả các thủ tục tố tụng và hồ sơ của Tòa

án. Phòng thụ lý chịu trách nhiệm xử lý, ghi thông tin và chuyển hồ sơ của

23

đương sự cũng như ghi và lưu hồ sơ tất cả các quy trình, hoạt động trong quá

trình xét xử một vụ án. Những thông tin này sẽ được cung cấp cho người dân

tại Tòa án cũng như trên website. Phòng thụ lý còn có chức năng hỗ trợ hoạt

động lên lịch xét xử, các hoạt động hỗ trợ khác trong phiên tòa và hoàn thiện

hồ sơ án sau khi bản án được đưa ra.

Tuyển tập án lệ Tòa án tối cao Canada

Các quyết định của Tòa án tối cao được công bố bằng cả tiếng Anh và

tiếng Pháp trong Tuyển tập án lệ Tòa án tối cao Canada. Toàn văn bản án và

các quyết định bằng lời nói được in cùng với một phần tóm tắt lý do đưa ra

phán quyết. Vụ án đầu tiên được công bố và xuất bàn năm 1877 là một vụ xử

phúc thẩm quyết định của Tòa án tối cao Đảo Hoàng tử Edward vào năm

1876. Các tuyển tập ban đầu được đánh sổ thứ tự từ 1 đến 64, sau đó vào năm

1923 bắt đầu được đánh số theo năm xuất bản. Vào năm 1975, Tuyển tập án

lệ được xuất bàn hai số một năm và bắt đầu từ năm 1990, tăng lên 3 đến 4 số

một năm, mỗi số gồm có khoảng 4 đền 6 phần được xuất bản định kỳ, trong

mỗi tuyển tập đều có phụ lục các vụ án được công bố. Bản mềm phán quyết

của Tòa án được công bố vào cùng ngày phán quyết được đưa ra.

Thư viện

Với khoảng 300.000 đầu tài liệu, thư viện Tòa án tối cao Canada là cơ sở

dữ liệu quan trọng cho Tòa án tham khảo trong việc thực hiện chức năng xét

xử các vấn đề có tầm quan trọng đối với cộng đồng. Tài liệu tại thư viện gồm

có các đạo luật, tuyển tập án lệ, tạp chí và tài liệu chuyên ngành từ các quốc

gia thông luật và dân luật như Canada, Anh, Australia, New Zealand, Pháp và

Bỉ. Những tài liệu của thư viện đều có bản mềm được cập nhật trên những hệ

thống và cơ sở dữ liệu điện tử. Thư viện hiện lưu trữ rất nhiều sách quý được

in ấn từ thế kỷ 16, 17 và 18 của Anh và Pháp. Ngoài việc phục vụ cho hoạt

động của Tòa án tối cao, thư viện còn có các dịch vụ cho Luật sư tranh tiếng

tại Tòa án và các Luật sư thuộc các Liên đoàn, giảng viên và sinh viên luật, và

trong một số trường hợp cho phép, cho các nhà nghiên cứu và người dân có

24

quan tâm.

- Văn phòng ủy viên các vấn đề tư pháp liên bang

Văn phòng ủy viên các vấn đề tư pháp liên bang Canada (FJA) được

thành lập vào năm 1978 theo Luật Nghị Viện Canada nhằm bảo vệ tính độc

lập của hệ thống Tòa án và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ hành chính cho các

Thẩm phán cấp liên bang, hoàn Toàn độc lập với Bộ Tư pháp. Văn phòng

FJA có chức năng nâng cao chất lượng quản lý tư pháp và hỗ trợ cho hệ thống

Tòa án liên bang.

Chức năng và nhiệm vụ của Văn phòng gồm có: • Giám sát việc thực thi Phần I Đạo luật Thẩm phán liên quan đến điều

kiện bổ nhiệm, tuổi nghỉ hưu và lương của các Thẩm phán cấp liên bang;

• Xây dựng kế hoạch ngân sách, cung cấp cán bộ và hoạt động hỗ trợ

cho Hội đồng Tư pháp Canada;

• Quản lý hoạt động của Ban Thư ký bổ nhiệm tư pháp với 17 ủy ban tư

vấn có chức năng đánh giá năng lực ứng viên cho các chức danh tư pháp liên

bang. Gần đây, Bộ trưởng Tư pháp giao cho Văn phòng thẩm quyền giám sát

quá trình bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án tối cao Canada;

• Quản lý hoạt động của Bộ phận xuất bản và công bố án lệ, là đơn vi

chịu trách nhiệm chọn lựa và công bố các phán quyết của Tòa án liên bang và

Tòa phúc thẩm liên bang bằng cả hai ngôn ngữ, tiếng Anh và tiếng Pháp;

• Quản lý mạng nội bộ JUDICOM, cung cấp cho các Thẩm phán các tiện ích

như thư điện tử, hệ thống trao đổi thông tin nội bộ an Toàn và thư viện điện tử;

• Đào tạo ngoại ngữ cho Thẩm phán bằng cả tiếng Anh và tiếng Pháp; • Điều phối các hoạt động hợp tác quốc tế của hệ thống Tòa án Canada.

Văn phòng có Chủ nhiệm Văn phòng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng, 06 Vụ

trưởng và 70 cán bộ.

1.4.2.6. Ở Liên bang Nga

- Quản lý Tòa án ở Tòa án Hiến pháp liên bang

25

Công tác quản lý hành chính của Tòa án Hiến pháp Liên bang thuộc

trách nhiệm của Cơ quan Tòa án Hiến pháp. Cơ quan này bao gồm Ban Thư

ký và các bộ phận khác.

Ban Thư ký chịu trách nhiệm về tổ chức, phân tích khoa học, giúp các

Thẩm phán chuẩn bị hồ sơ xét xử và các vấn đề khác đề xem xét tại các phiên

họp và hội nghị, nghiên cứu và tổng hợp hoạt động của Tòa án Hiến pháp với

mục đích đảm bảo cho các quyết định của Tòa án được thi hành.

Các bộ phận khác của Cơ quan Tòa án Hiến pháp chịu trách nhiệm bảo

đảm về các mặt vật chất - kỹ thuật và các hoạt động nội bộ khác của Tòa án.

Tòa án Hiến pháp có Hội đồng cố vấn khoa học và Phòng báo chí.

- Quản lý Tòa án thẩm quyền chung ở Liên bang Nga

Quản lý Toà án tối cao

Ở Tòa án tối cao, Cơ quan Tòa án tối cao có chức năng bảo đảm cho

hoạt động của Tòa án tối cao. Cơ cấu và thành phần của Cơ quan Tòa án tối

cao được phê chuẩn theo quyết định của Chánh án Tòa án tối cao. Các Vụ,

Cục và các bộ phận khác thuộc cơ cấu Cơ quan Tòa án tối cao được thành lập

phù hợp với danh mục Quy định về danh mục chức vụ dân sự của nhà nước

liên bang. Cơ quan Tòa án tối cao gồm các đơn vị sau: Ban Thư ký của Chánh

án Tòa án tối cao; Ban Thư ký của Phó Chánh án thứ nhất; Vụ phân tích và

tổng kết thực tiễn xét xử; Vụ pháp luật; Văn phòng quản lý; Vụ Tổ chức cán

bộ và công vụ; Vụ kế hoạch tài chính; Vụ kinh tế; Phòng 1; Phòng thông tin

đại chúng; Phòng kiểm soát đặc biệt; Phòng xác thực bàn án xét xử theo thủ

tục giám đốc thẩm; Phòng thông tin pháp lý; Phòng pháp luật quốc tế và các

ban thư ký của Hội đồng Thẩm phán, của Đoàn Chủ tịch, của các Tòa chuyên

trách và Tòa phúc thẩm Tòa án tối cao.

Quản lý các Tòa án cấp dưới Tòa án tố cao

Trước 31/12/1996, việc quản lý về tổ chức các Tòa án cấp dưới Tòa án

26

tối cao được giao cho Bộ Tư pháp Liên bang Nga. Luật Hiến pháp Liên bang

Nga về hệ thống Tòa án Liên bang Nga ngày 31/12/1996 đã quy định việc

thành lập Tổng Cục tư pháp bên cạnh Tòa án tối cao Liên bang Nga (Điều 30

và Điều 31). Theo đó, Tổng Cục tư pháp đã được thành lập theo Luật liên

bang về Tổng Cục tư pháp bên cạnh Tòa án tối cao Liên bang Nga ngày

08/01/1998.

Tổng Cục tư pháp có chức năng bảo đảm về mặt tổ chức (cán bộ, tải

chính, cơ sở vật chất…) cho hoạt động của các Tòa án. Tổng Cục tư pháp và

các đơn vị của Tổng Cục tại các chủ thể của Liên bang Nga (gồm 83 đơn vị

hành chính) có tư cách pháp nhân.

Tổng Cục trưởng Tổng Cục tư pháp do Chánh án Toà án tối cao Liên

bang Nga bổ nhiệm và miễn nhiệm với sự đồng ý của Hội đồng Thẩm phán

Liên bang Nga.

Tổng Cục trưởng Tổng Cục tư pháp tương đương Bộ trưởng liên bang

(khoản 2 Điều 8 Luật về Tổng Cục tư pháp).

Cơ cấu của Tổng Cục tư pháp gồm các đơn vị sau (khoản 1 Điều 7):

- Cục bảo đảm tổ chức - pháp lý cho hoạt động của Tòa án;

- Cục bảo đảm hoạt động của Tòa án quân sự;

- Cục tài chính - kinh tế;

- Phòng đảm bảo công vụ và cán bộ;

- Phòng giám sát - thanh tra;

- Phòng theo dõi án;

- Phòng xây dựng cơ bản và sử dụng trụ sở, nhà cửa;

- Ban về đào tạo và các cơ sở giáo dục;

- Ban hợp tác pháp luật quốc tế.

Tổng Cục tư pháp có nhiệm vụ:

- Phụ trách việc lo kinh phí cho ngành Tòa án: sau khi thống nhất ý kiến

27

với Chánh án Tòa án tối cao Liên bang Nga và Hội đồng Thẩm phán Liên

bang Nga, Tổng Cục tư pháp đệ trình Chính phủ kiến nghị cấp kinh phí hàng

năm cho Tòa án trong thời hạn Chính phủ ấn định. Sau khi được phê duyệt,

Tổng Cục thực hiện cấp ngân sách cho ngành Tòa án từ kinh phí liên bang.

Ngân sách của Tổng Cục tư pháp là ngân sách riêng;

- Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Tòa án và đưa ra giải pháp

hoàn thiện các hoạt động đó; đề nghị Tòa án tối cao Liên bang Nga thành lập

hoặc giải thể Tòa án theo thủ tục luật định;

- Xác định nhu cầu nhân sự cho các Tòa án; bảo đảm việc lựa chọn và

đào tạo các ứng viên chức vụ Thẩm phán; phối hợp với các cơ sở đào tạo

trong việc đào tạo và nâng cao năng lực của Thẳm phán và nhân viên làm việc

trong bộ máy Tòa án;

- Thực hiện các công việc cụ thềể về quản lý hành chính ngành Tòa án

như điều động Thẩm phán, thống kê - tổng hợp, xây dựng trụ sở, cung cấp

trang thiết bị…

1.4.3. Mô hình kết hợp do đơn vi tự quản độc lập của Tòa án và Bộ Tư

pháp cùng thực hiện ở Cộng hòa Pháp

1.4.3.1. Quản lý hệ thống Tòa án tư pháp

a) Bộ Tư pháp có chức năng quản lý thống nhất hệ thống Tòa án: đề ra

những định hướng lớn, xây dựng những khuôn khổ chung cho hoạt động quản

lý Tòa án các cấp, quản lý nhân sự, xây dựng và cấp ngân sách cho Tòa án

các cấp.

Bộ Tư pháp có 5 vụ chức năng trực tiếp liên quan đến vấn đề quản lý

Tòa án, gồm: Vụ quản lý Tòa án, có nhiệm vụ quản lý đội ngũ Thẩm phán,

cán bộ Tòa án, xác định số lượng biên chế Thẩm phán cho Tòa án các cấp,

xây dựng các nguyên tắc chung trong việc quản lý Tòa án các cấp; Vụ dân sự

và ấn tín, có trách nhiệm xây dựng các dự thảo văn bản pháp luật và pháp quy

28

trong lĩnh vực luật tư pháp, thực hiện quản lý đối với các nghề luật và nghề bổ

trợ tư pháp, giải quyết các vấn đề về quốc tịch, thực hiện vai trò tư vấn đối

với các cơ quan chức năng khác, phối hợp với Vụ Hợp tác quốc tế giải quyết

các vấn đề đặt ra trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, xây dựng các văn bản áp

dụng các điều ước quốc tế trong lĩnh vực dân sự và thương mại vào nội địa;

Vụ hình sự và ân xá, có trách nhiệm theo dõi các hoạt động xét xử hình sự của

Tòa án các cấp hoạt động điều tra của cành sát tư pháp, đề xuất các dự án sửa

đổi, bổ sung các quy định pháp luật trong lĩnh vực hình sự, cảnh sát tư pháp,

xây dựng các thông tư hướng dẫn áp dụng các văn bản pháp luật trong lĩnh

vực này, quản lý hồ sơ, lý lịch tư pháp trên Toàn quốc; Vụ quản lý trại giam,

có trách nhiệm quản lý hệ thống các cơ sở giam giữ trên Toàn quốc, tham gia

xây dựng các văn bàn pháp luật trong lĩnh vực có liên quan, Vụ hành chính

tổng hợp và trang thiết bị là Vụ cuối cùng tham gia quản lý Tòa án. Vụ hành

chính tổng hợp có đặc thù là thành phần chỉ bao gồm các công chức Nhà

nước, chứ không có các Thẩm phán như các Vụ khác. Vụ hành chính tổng

hợp và trang thiết bị có trách nhiệm phối hợp với Vụ quản lý Tòa án chuẩn bị

dự án ngân sách cho hệ thống Tòa án, quản lý cơ sở vật chất của Tòa án các

cấp, điều phối thực hiện chính sách trang bị cơ sở vật chất, tin học hoá cho

Tòa án các cấp.

Bên cạnh 05 Vụ chức năng trên, còn có hai bộ phận độc lập khác: Vụ

quan hệ quốc tế, có chức năng phối hợp với Vụ dân sự và ấn tin giải quyết

những vấn đề trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, xây dựng các dự thảo văn bản

trong lĩnh vực có liên quan, thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế. Bộ phận

thứ hai là Vụ thanh tra Tòa án trực thuộc Bộ Tư pháp, có nhiệm vụ kiểm tra,

giám sát hoạt động của Toàn bộ hệ thống Tòa án, trừ Tòa phá án. Ngoài ra,

Vụ thanh tra Tòa án thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng giao, như

cung cấp thông tin, nghiên cứu các dự án cải cách đang tiến hành, tham gia

29

thủ tục xử lý kỷ luật đối với Thẩm phán.

Trong số các cơ quan chức năng trên, có hai cơ quan chính có liên quan

trực tiếp đến việc quản lý Tòa án đó là Vụ quản lý Toà án và Vụ hành chính

tổng hợp và trang thiết bị.

• Về quản lý nhân sự: Bộ Tư pháp quyết định số lượng Thẩm phán, số

lượng công chức làm việc trong các Tòa án và phân bổ công chức giữa các

Tòa án, trừ Tòa phá án. Toàn bộ công chức làm việc trong các Tòa án (như

lục sự) được đào tạo ở Trường lục sự quốc gia do Bộ Tư pháp quản lý.

• Về cấp ngân sách cho các Tòa án các cấp: Trước hết các Tòa án địa

phương (Tòa án sơ thẩm thẩm quyền rộng, Tòa án sơ thẩm thẩm quyền hẹp,

Tòa lao động sơ thẩm, Tòa thương mại sơ thẩm…) chuẩn bị các đề nghị cấp

ngân sách của mình. Sau đó, các Tòa án thuộc địa hạt tư pháp sẽ họp để cân

đối, hài hòa đề nghị cấp ngân sách giữa các Tòa. Tiếp theo, lãnh đạo Tòa án

sơ thẩm thẩm quyền rộng gửi đề nghị cấp ngân sách đó lên Tòa phúc thẩm.

Sau khi kiểm tra các yêu cầu cấp ngân sách, lãnh đạo Tòa phúc thẩm gửi đề

nghị cấp ngân sách lên Bộ Tư pháp. Trên cơ sở tập hợp đề nghị của các Tòa

án, Bộ Tư pháp đề nghị Chính phủ, cụ thể là Bộ Tài chính cấp ngân sách. Sau

khi được cấp ngân sách, Bộ Tư pháp cấp cho các Tòa phúc thẩm một khoản

ngân sách tổng thể, Tòa án phúc thẩm phân bổ cho Tòa án sơ thẩm thẩm

quyền rộng, cuối cùng Tòa án sơ thẩm thẩm quyền rộng phân bồ ngân sách

cho các Tòa án trong địa hạt tư pháp.

• Tòa phá án có ngân sách riêng. Tuy nhiên, việc cân đối, cấp ngân sách

cho Tòa phá án cũng thuộc thẳm quyền của Bộ Tư pháp, theo một chu trình

giống như đối với các Tòa án khác.

b) Các Tòa án phúc thẩm được Bộ Tư pháp phân cấp quản lý các Tòa án

địa phương. Để thực hiện chức năng này, lãnh đạo Tòa án phúc thẩm (Chánh

án và Viện trưởng Viện Công tố) có sự hỗ trợ của bộ máy hành chính giúp

30

việc và của các Thẩm phán được ủy quyền phụ trách một số lĩnh vực cụ thể:

Ban quản lý hành chính vùng gồm Lục sự trưởng, các công chức làm việc

trong bộ phận lục sự, có trách nhiệm thực hiện một số nhiệm vụ quản lý dưới

sự chỉ đạo và giám sát của lãnh đạo Tòa án phúc thẩm; các Thẩm phán được

ủy quyền bao gồm: Thẩm phán được ủy quyền phụ trách trang thiết bị, Thẩm

phán được ủy quyền phụ trách đào tạo.

Lãnh đạo Tòa án phúc thẩm có trách nhiệm xây dựng và thực hiện ngân

sách thuộc phạm vi quản hạt, quản lý nguồn nhân lực, tham gia xây dựng

chương trình trang bị cơ sở vật chất cho các Tòa án; quản lý hoạt động xét xử

của các Tòa án địa phương.

Ở cấp thấp hơn, theo sự ủy quyền của lãnh đạo Tòa án phúc thẩm, lãnh

đạo Tòa án sơ thẩm thẩm quyền rộng có trách nhiệm quản lý hoạt động của

các Tòa án nằm trong địa hạt tư pháp.

1.4.3.2. Quản lý hệ thống Tòa án hành chính

Ở Pháp, Tham chính viện (Toà án hành chính tối cao) do Thủ tướng làm

Chủ tịch, trong thực tế quyền hạn của Thủ tướng trong Tham chính viện được

Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện thay. Tuy nhiên, người có quyền điều hành

cao nhất đối với công việc hàng ngày của cơ quan này lại là Phó Chủ tịch duy

nhất của Tham chính viện.

Ngân sách của các Tòa án hành chính do Tổng Thư ký Tham chính viện

xây dựng và đề xuất, chức vụ này do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm sau khi

có ý kiến của Bộ Nội vụ. Đề xuất ngân sách này được chuyển tới Bộ trưởng

Bộ Tư pháp để trình Chính phủ.

1.4.4. Mô hình Tòa án phối hợp cùng cơ quan Đảng, chính quyền địa

phương cùng thực hiện ở Trung Quốc

Đảng Cộng sản Trung Quốc có vai trò quan trọng trong việc quản lý hệ

thống Tòa án ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Ở cấp trung ương có Ủy ban

31

chính pháp Đảng Cộng sản Trung Quốc do Ủy viên Bộ Chính trị đứng đầu. Ở

cấp tỉnh, cấp huyện đều có các Ủy ban chính pháp. Các ủy ban chính pháp

lãnh đạo giám sát, quản lý, chỉ đạo các Tòa án nhân dân thông qua hệ thống

Đảng, và qua các Hội đồng nhân dân.

Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc phối hợp với cơ quan Đảng và

chính quyền địa phương quản lý Tòa án nhân dân địa phương về mặt tổ chức.

Hội đồng nhân dân địa phương chịu trách nhiệm cấp kinh phí cho các

Tòa án địa phương tại Trung Quốc. Từng Tòa án địa phương chịu trách nhiệm

về ngân sách của mình, nhưng kinh phí của Tòa án lại phụ thuộc rất lớn vào

ngân sách do các cơ quan chính quyền địa phương phân bổ.

Như vậy, phần lớn các quốc gia áp dụng mô hình tự quản do một đơn vị

“trực thuộc Tòa án” độc lập với cơ quan lập pháp, hành pháp quản lý trong

việc quản lý hành chính Tòa án. Tuy nhiên, trong mô hình này cũng có sự

khác biệt giữa các quốc gia:

• Ở Hoa Kỳ, Canada, Liên bang Nga, cơ quan quản lý Tòa án là đơn vị

độc lập không nằm trong cơ cấu bộ máy của Tòa án tối cao nhưng có thể gọi

là “trực thuộc” Tòa án tối cao vì lãnh đạo cơ quan này do Chánh án Tòa án tối

cao bổ nhiệm theo sự tham vấn của Hội nghị tư Pháp hoặc Hội đồng Thẩm

phán. Cơ quan này hoạt động theo kế hoạch đã được Hội nghị tư pháp hoặc

Hội đồng Thẩm phán thông qua và chịu sự giám sát trực tiếp của Hội nghị

hoặc Hội đồng này.

• Ở Nhật Bản, Hàn Quốc, cơ quan quản lý Tòa án nằm trong cơ cấu bộ

máy của Tòa án tối cao.

Theo tác giả, Việt Nam nên nghiên cứu kinh nghiệm của một trong

những quốc gia thực hiện việc quản lý Tòa án theo mô hình này, đặc biệt là

kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn Quốc để đổi mới công tác quản lý Tòa án

trong tình hình mới.

32

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Như vậy, việc quản lý Toà án nhân dân về mặt tổ chức trong các giai

đoạn từ 1945 - 2002 chủ yếu do Bộ Tư pháp hoặc Toà án nhân dân tối cao

thực hiện. Tuy nhiên, theo quy định của các bản Hiến pháp và các Luật tổ

chức Toà án nhân dân thì Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa

phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác là những cơ quan xét xử của

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong phạm vi chức năng của

mình, các Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế

độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà

nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của

công dân; Khi thực hiện chức năng xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và

chỉ tuân theo pháp luật.

Đây chính là các vấn đề chủ yếu quyết định tính chất, tổ chức, hoạt động

và phương thức quản lý Nhà nước đối với các Toà án.

33

Chương 2

MÔ HÌNH QUẢN LÝ TÒA ÁN CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY VỚI YÊU

CẦU ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP

CỦA TÒA ÁN VÀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ

2.1. Mô hình quản lý Toà án của Việt Nam hiện nay

2.1.1. Hệ thống tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành

2.1.1.1. Về tổ chức tòa án nhân dân

Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 ở

nước ta có các tòa án sau: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao;

Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; Tòa án quân sự

[1,3]. Tổ chức bộ máy của các Toà án được quy định theo hướng chuyên môn

hoá nhưng linh hoạt, tránh cồng kềnh, gây tốn kém, lãng phí.

Thứ nhất, Tòa án nhân dân tối cao

Theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, việc đổi mới tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn với Hội

đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có từ 13 đến 17 Thẩm phán Tòa án

nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân tối cao không thực hiện nhiệm vụ xét xử

phúc thẩm mà chỉ thực hiện nhiệm vụ giám đốc việc xét xử của các Tòa án

khác; xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm 05 Thẩm

phán hoặc Hội đồng Toàn thể Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; tổng kết

thực tiễn xét xử; bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; quản lý

các Toà án về tổ chức; xây dựng pháp luật theo sự phân công của Quốc hội,

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; bổ sung nhiệm vụ đào tạo nhằm đáp ứng yêu

cầu nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm và các

chức danh khác của Tòa án; đồng thời, để cụ thể hóa quy định tại khoản 1

34

Điều 104 của Hiến pháp về việc “Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử

cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, tại khoản 4 Điều 22

của Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 quy định: “Quyết định giám đốc

thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao là quyết định cao

nhất, không bị kháng nghị”.

Bên cạnh đó, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ

“lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân

dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực

của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án

nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Việc bổ sung nhiệm vụ lựa chọn, phát

triển và ban hành án lệ của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao sẽ

đáp ứng yêu cầu phải kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong

công tác xét xử, khắc phục tình trạng quá tải và chậm ban hành văn bản

hướng dẫn áp dụng pháp luật. Hơn nữa, việc công bố án lệ sẽ giúp người dân

nắm rõ đường lối xét xử, dự báo được kết quả những vụ việc có liên quan đến

quyền và lợi ích của họ. Về phía Tòa án, tham khảo án lệ, phân tích thiếu sót

trong những vụ án xét xử trước đó cũng sẽ giúp Thẩm phán rút kinh nghiệm,

hạn chế việc kết án oan, sai. Với việc lựa chọn, ban hành án lệ, xác định trách

nhiệm của Thẩm phán và Hội đồng xét xử phải nghiên cứu, làm theo, chắc

chắn sẽ có hiệu quả rất lớn trong việc hạn chế đến mức thấp nhất các vụ việc

xét xử oan, sai, hạn chế việc “lách luật” do tiêu cực của những người tiến

hành tố tụng, luật sư và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải

quyết vụ án và do đó về mặt xã hội, việc xây dựng và phát triển án lệ là một

trong những phương thức hữu hiệu để bảo đảm công lý, góp phần duy trì, ổn

định trật tự pháp luật trong đời sống xã hội.

Thứ hai, Tòa án nhân dân cấp cao

35

Với sự xuất hiện của Toà án nhân dân cấp cao, hệ thống tòa án đã bước

đầu tách khỏi việc đặt tổ chức tòa án trong sự phụ thuộc vào địa giới hành

chính. Toà án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án,

quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; giám đốc thẩm, tái

thẩm các bản án, quyết định của Toà án thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh

thổ đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị bằng Hội đồng 03 Thẩm

phán hoặc Hội đồng Toàn thể Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao.

Về cơ cấu tổ chức, Toà án nhân dân cấp cao gồm Uỷ ban Thẩm phán

(gồm Chánh án, các Phó Chánh án là Thẩm phán cao cấp và một số Thẩm

phán cao cấp do Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị

của Chánh án Toà án nhân dân cấp cao), các Tòa chuyên trách và bộ máy

giúp việc. Trong đó, Uỷ ban Thẩm phán giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án,

quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương, Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

và tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị bằng

Hội đồng 3 Thẩm phán hoặc Hội đồng Toàn thể Uỷ ban Thẩm phán Toà án

nhân dân cấp cao theo quy định của pháp luật tố tụng. Các Toà chuyên trách

xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương chưa có hiệu lực pháp luật có kháng cáo,

kháng nghị. Bên cạnh các loại Tòa chuyên trách hiện có trong cơ cấu tổ chức

của Toà án nhân dân như Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh

tế, Tòa lao động, Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 bổ sung Tòa gia

đình và người chưa thành niên để giải quyết các vụ việc có liên quan đến

người chưa thành niên. Trường hợp do nhu cầu công tác, cần thành lập thêm

Tòa chuyên trách khác trong Toà án nhân dân cấp cao thì Chánh án Toà án

nhân dân tối cao đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.

36

Thứ ba, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xét xử phúc thẩm

các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân sơ thẩm có kháng cáo,

kháng nghị và xét xử sơ thẩm một số vụ án không thuộc thẩm quyền của Toà

án nhân dân sơ thẩm thuộc địa hạt của tỉnh; không thực hiện nhiệm vụ giám

đốc thẩm, tái thẩm.

Về cơ cấu tổ chức, tại mỗi đơn vị hành chính cấp tỉnh có một Toà án

nhân dân cấp tỉnh như hiện nay. Bên cạnh đó, tương tự như đối với tổ chức bộ

máy của Toà án nhân dân cấp cao, Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương có các Tòa chuyên trách bao gồm: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa

hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa gia đình và người chưa thành

niên. Việc thành lập các Tòa chuyên trách ở từng Toà án nhân dân cấp tỉnh do

Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết định. Trường hợp do nhu cầu công

tác, cần thành lập thêm Tòa chuyên trách khác trong Toà án nhân dân cấp tỉnh

thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội

xem xét, quyết định.

Thứ tư, Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và

tương đương

Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương

đương có nhiệm vụ, quyền hạn xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ, việc thuộc

thẩm quyền của Toà án (như hiện nay) và giải quyết các loại việc khác theo

quy định của pháp luật (như xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý

hành chính tại Toà án nhân dân).

Về cơ cấu tổ chức, tương tự như cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã,

thành phố thuộc tỉnh và tương đương có thể có các Tòa chuyên trách bao

37

gồm: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Toà xử

lý hành chính. Việc thành lập các Tòa chuyên trách ở Toà án nhân dân huyện,

quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương phải tùy thuộc vào quy mô

về công việc và đội ngũ Thẩm phán, công chức của từng đơn vị Tòa án; ở

những đơn vị có số lượng công việc lớn, biên chế nhiều thì có thể thành lập

Tòa chuyên trách. Việc thành lập Tòa chuyên trách cụ thể nào trong số các

Toà chuyên trách nêu trên ở mỗi Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành

phố thuộc tỉnh và tương đương do Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết

định.

Thứ năm, Tòa án quân sự

Theo quy định tại Điều 49 của Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014

thì các Toà án quân sự được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để

xét xử những vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ và những vụ án khác theo

quy định của luật. Về cơ bản, nội dung các quy định về tổ chức của Tòa án

quân sự được kế thừa từ các quy định hiện hành, nhưng được chỉnh lý và cơ

cấu lại để bảo đảm tính hợp lý và khoa học.

2.1.1.2. Về hoạt động của tòa án nhân dân

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức tòa án nhân dân

2014 thì tòa án xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh

doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy

định của pháp luật [1,3].

2.1.2. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án ở nước ta hiện nay

2.1.2.1. Nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Đây là nguyên tắc “... là tiền đề nền tảng của tư pháp trong Nhà nước

pháp quyền ...” [22,tr.32]. Nguyên tắc này bảo đảm cho tòa án ra những quyết

định, bản án đúng pháp luật, thật sự công bằng và khách quan. Theo nguyên

38

tắc này khi xét xử, thẩm phán không bị ràng buộc bởi bất cứ cơ quan hoặc cá

nhân nào để xét xử khách quan, công bằng và nghiêm minh. Thẩm phán phải

chịu trách nhiệm đối với quyết định của mình.

2.1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật

(Điều 52 - Hiến pháp 1992) Trong hoạt động xét xử người tiến hành tố

tụng phải tuân thủ pháp luật trong mọi hoạt động, xác minh điều tra, đánh giá

chứng cứ, áp dụng pháp luật phải đúng đắn, không vì bất cứ lý do gì mà thiên

vị bất cứ ai, bất cứ đương sự nào trong vụ án, không phân biệt địa vị, trình

độ, giới tính, đảng phái. Đảm bảo mọi hành vi vi phạm, gây thiệt hại đến

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và Nhà nước đều bị xử lý công bằng

nghiêm minh đúng pháp luật.

2.1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

Nguyên tắc này nhằm đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động xét xử của

tòa án, bảo đảm cho bị can, bị cáo không bị thiệt hại về quyền và những lợi

ích hợp pháp (Điều 132 Hiến pháp 1992 và Điều 9 Luật tổ chức Toà án nhân

dân 2014).

2.1.2.4. Nguyên tắc tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử

Nguyên tắc này một mặt đảm bảo sự kiểm tra, giám sát, khiếu nại của

chính các đương sự, bị cáo, người bị hại đối với bản án, quyết định sơ thẩm

của tòa án thông qua việc thực hiện quyền kháng cáo để bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của mình, mặt khác, tạo ra công cụ tự kiểm tra, giám sát của hệ

thống tư pháp - thông qua quyền kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân hoặc

của Tòa án cấp trên đối với quyết định, bản án sơ thẩm của tòa án cấp dưới

(Điều 11 Luật tổ chức Toà án nhân dân 2014).

2.1.2.5. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm

Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực

hiện quyền tranh tụng trong xét xử. Việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng

39

trong xét xứ theo quy định của luật tố tụng. (Điều 13 Luật Tổ chức tòa án

nhân dân 2014).

2.1.2.6. Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của tòa án

Công lý chỉ được khôi phục và duy trì, các quyền và lợi ích hợp pháp

của nhà nước, tổ chức, công dân chỉ được bảo đảm trên thực tế khi bản án,

quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật được thi hành.

2.1.3. Sự cần thiết đổi mới mô hình quản lý Toà án ở Việt Nam

2.1.3.1. Về tổ chức

Trước khi Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 ra đời, mặc dù tổ

chức hệ thống tòa án ở nước ta phần nào thể hiện được nội dung căn bản của

nguyên tắc hai cấp xét xử. Trên thực tế nguyên tắc hai cấp xét xử thường chỉ

được hiểu và áp dụng như nguyên tắc tố tụng, hơn là nguyên tắc tổ chức của

hệ thống tòa án. Chính nguyên tắc hành chính lãnh thổ mới là nguyên tắc nổi

bật hơn trong tổ chức hệ thống tòa án Việt Nam. Nguyên tắc này, chứ không

phải là nguyên tắc hai cấp xét xử, hiện đang là nhân tố chính quy định cấu

trúc của hệ thống tòa án Việt Nam. Do áp dụng nguyên tắc này, tòa án nhân

dân xuất hiện ở tất cả các đơn vị hành chính lãnh thổ từ cấp huyện trở lên. Hệ

thống tòa án, theo đó, bao gồm ba cấp theo cấp hành chính lãnh thổ: huyện,

tỉnh, trung ương.

Khi tổ chức tòa án theo mô hình này, vô hình trung, cấp hành chính lãnh

thổ đã được lấy để xác định nhu cầu xét xử. Ðiều này là không thật sự hợp lý,

bởi vì, cấp hành chính lãnh thổ được đặt ra để phục vụ nhu cầu quản lý hành

chính, chứ không phải là nhu cầu xét xử. Vì thế, tất yếu dẫn tới tình trạng có

tòa án phải giải quyết rất nhiều án và quá tải, trong khi những tòa án khác cho

dù ở cùng cấp nhưng lại nhàn rỗi do số lượng vụ án phân bố không đều giữa

các địa phương hành chính.

40

Mặt khác, tư duy theo hành chính lãnh thổ không cho phép tổ chức tòa

án ở cấp xã, tránh chuyện quá tốn kém về nguồn lực và làm cho bộ máy nhà

nước có vẻ quá nặng nề. Kết quả là hệ thống tòa án chỉ có ba cấp tòa, không

thể tổ chức theo bốn cấp như các hệ thống tòa án hiện đại. Ðiều này trực tiếp

dẫn tới hậu quả là trong hệ thống tòa án, không xác định được cấp tòa là "cỗ

máy" xét xử sơ thẩm chính riêng biệt với cấp tòa là "cỗ máy" xét xử phúc

thẩm chính. Theo cách thức tổ chức này, tăng thẩm quyền cho tòa án cấp

huyện đồng nghĩa với việc tòa án cấp tỉnh sẽ là cỗ máy xét xử phúc thẩm

chính. Ðối chiếu quy định của pháp luật tố tụng thì tòa án cấp tỉnh cũng là cỗ

máy xét xử sơ thẩm, bởi vì cơ quan này có thẩm quyền xét xử chung đối với

hầu hết các loại vụ việc. Chưa hết, tòa án cấp này cũng phải "gánh" cả thẩm

quyền giám đốc thẩm và tái thẩm. Với tình trạng này, việc tòa án cấp tỉnh bị

quá tải và hoạt động không được hiệu quả như mong muốn là tình trạng dễ

hiểu.

Như vậy, việc tổ chức tòa án theo cấp hành chính lãnh thổ gián tiếp tạo

ra tâm lý cho rằng, hệ thống tòa án được sắp xếp theo thứ bậc cao thấp giống

như thứ bậc trong hệ thống hành chính. Theo đó, tòa án sơ thẩm bị coi là tòa

án cấp dưới của tòa án phúc thẩm. Trong khi phải hiểu đúng rằng, hai cấp tòa

án này là độc lập với nhau, cấp tòa này không phải là cấp trên của cấp tòa án

kia và ngược lại.

Hệ thống cơ quan Toà án được thành lập theo địa giới hành chính - lãnh

thổ, giống như mọi cơ quan hành chính nhà nước khác mà chưa tính đến đặc

thù của hoạt động xét xử. Lý thuyết về tội phạm học, kinh tế học và thực tế

khách quan cho thấy, vi phạm pháp luật, tội phạm và tranh chấp dân sự, đặc

biệt là tranh chấp kinh tế, không phân bổ đồng đều theo đơn vị hành chính-

lãnh thổ mà phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như mức độ phát triển kinh tế

- xã hội, văn hoá; mật độ và chất lượng dân cư; các điều kiện kinh tế - địa lý

41

của từng loại địa bàn như thành phố, nông thôn, miền núi...“...Hầu hết các vụ

án thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án cấp huyện theo quy định của Bộ

luật Tố tụng hình sự và Bộ luật Tố tụng dân sự chủ yếu tập trung ở những

vùng, miền trọng điểm như các thành phố lớn, các địa phương có tốc độ phát

triển công nghiệp và đô thị hóa cao, trong đó không ít tòa án cấp huyện ở các

địa phương khác có số lượng án phải thụ lý giải quyết không nhiều, khoảng

trên dưới 70 vụ/năm, cá biệt có nơi chỉ có trên dưới 20 vụ/năm...”. Từ đó dẫn

đến hệ quả tất yếu là khối lượng công việc, khối lượng vụ án hình sự và khối

lượng tranh chấp các loại đưa đến Toà án xét xử cũng như quy mô, độ phức

tạp, mức nghiêm trọng của các vụ án sẽ rất khác biệt giữa các loại địa bàn.

Mô hình tổ chức Toà án theo địa giới hành chính - lãnh thổ là không phù hợp

nếu tính đến sự phát triển không đồng đều giữa các vùng miền hiện tại và

tương lai. Lịch sử Toà án Việt Nam thời kỳ 1945-1959 đã cho chúng ta một

kinh nghiệm tốt về tổ chức Toà án theo thẩm quyền xét xử kết hợp với địa

giới lãnh thổ, cho phép cơ quan có thẩm quyền thành lập các Toà án mới ở

từng địa bàn khi có nhu cầu.

Tòa án nhân dân cấp cao là một cấp tòa mới được quy định trong Luật tổ

chức tòa án nhân dân năm 2014. Theo đó, các tòa án cấp cao tiếp nhận nhiệm

vụ, thẩm quyền của 3 tòa phúc thẩm, 5 tòa chuyên trách của Tòa án tối cao và

Ủy ban Thẩm phán các tòa án cấp tỉnh.

2.1.3.2. Về hoạt động của tòa án

Hoạt động của tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay về cơ bản đã hoàn

thành tốt các mặt công tác. Tuy nhiên số lượng vụ việc mà các cấp tòa án phải

nghiên cứu giải quyết là rất lớn, ngày càng phức tạp đòi hỏi các cấp tòa án

phải nỗ lực hơn nữa để giải quyết nhanh chóng, kịp thời theo đúng các quy

định của pháp luật. Với cách tổ chức như hiện nay thì hiện tại rất khó khăn

cho việc xét xử, chúng ta đã biết trước đây khi chưa tăng thẩm quyền cho tòa

án cấp huyện thì việc xét xử sơ thẩm chủ yếu ở cấp tỉnh, kéo theo đó là Tòa án

42

nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm đã bị ách tắc khi mà lượng án giải quyết

quá nhiều, đồng thời với đó là vi phạm tố tụng (kéo dài thời gian giải quyết)

và hàng loạt các vấn đề khác phát sinh như gây khó khăn cho người dân do đi

lại đến tòa án, mất công mất sức cho việc khiếu kiện, hao tốn tiền của, gây

tâm lý bức xúc cho người dân. Hiện tại khi thẩm quyền xét xử của cấp huyện

được tăng thì tòa án cấp tỉnh lại cũng lặp lại tương tự như tòa án tối cao

trước đây, như vậy vấn đề đặt ra là không phải tăng thẩm quyền cho các

cấp tòa án mà vấn đề là tổ chức một cách khoa học, hợp lý của các cấp tòa án

chứ không như cách tổ chức như hiện nay.

Trong hoạt động xét xử: Chức năng chủ yếu của tòa án là xét xử, theo

luật tổ chức Tòa án nhân dân thì hiện nay có quá nhiều cấp xem xét theo trình

tự giám đốc thẩm, tái thẩm, đã ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động

của các Toà án.

2.1.3.3. Về hoạt động xét xử các loại án

Trong công tác xét xử các vụ án hình sự, “…Thẩm vấn, tranh luận tại

phiên tòa chưa đầy đủ, đánh giá chứng cứ thiếu khách quan, Toàn diện, dẫn

đến xác định tội danh không chính xác...” [29, tr.16], thủ tục tố tụng nặng về

thẩm vấn coi nhẹ tranh tụng, quyền bào chữa của bị can, bị cáo, đương sự

chưa thực sự được chú trọng. Trong công tác giải quyết các vụ việc dân sự và

các vụ án hành chính “...trong nhiều trường hợp còn vi phạm pháp luật tố

tụng về thụ lý vụ án, xác định sai tư cách hoặc thiếu người tham gia tố tụng,

xây dựng hồ sơ vụ án không đầy đủ, đánh giá chứng cứ thiếu khách quan

Toàn diện…” [29, tr.17]. Đối với các vụ án hành chính, khi xét xử thì không

mấy thuận lợi bởi lẽ còn phải đợi ý kiến phía người bị kiện, đa phần người bị

kiện là cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền, việc triệu tập đến tòa án là

rất khó khăn.

2.1.3.4. Nguyên nhân của những hạn chế

43

Nguyên nhân về nhận thức: trong một thời gian dài nhà nước và xã hội

đều chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của các cơ quan tư pháp, đặc biệt

là Toà án, trong hệ thống bộ máy nhà nước cũng như chưa thấy rõ những đặc

thù về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Công cuộc cải cách kinh

tế đã tạo ra những biến đổi khá sâu rộng trong các mối quan hệ kinh tế - xã

hội, nhưng phải gần 10 năm sau chúng ta mới bắt đầu nhận ra tính chất phức

tạp và nặng nề của việc phải xây dựng các thiết chế giải quyết tranh chấp mới

trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường

có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chậm và chưa

nhậy bén nhận thức về những thách thức mới đối với các cơ quan tư pháp

trong đấu tranh phòng chống các tội phạm mới hoặc các biến dạng, phát triển

mới của các loại tội phạm phát sinh trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý

kinh tế, nhất là đối với các tội về tham nhũng, buôn lậu.

Nguyên nhân về tổ chức: mặc dù về nguyên tắc Toà án thực hiện hai cấp

xét xử nhưng mỗi cấp xét xử lại có nhiều thẩm quyền. Tiếp nữa là chưa thực

sự bảo đảm được sự tham gia giám sát của nhân dân trong tổ chức và hoạt

động của Toà án: việc tham gia của Hội thẩm nhân dân vào hoạt động xét xử,

tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội luật gia vào quá trình tuyển

chọn Thẩm phán, bầu Hội thẩm nhân dân còn nặng về cơ cấu, hình thức, sự

lãnh đạo của một số cấp uỷ Đảng còn nhiều bất cập, hạn chế. Công tác kiểm

tra, đôn đốc việc triển khai các nghị quyết của Đảng đối với công tác tư pháp

của các cấp uỷ đảng chưa thực sự tích cực, thậm chí vẫn còn tình trạng một số

đảng viên né trách trách nhiệm tiên phong của mình. Đồng thời vẫn còn tình

trạng các cấp uỷ Đảng can thiệp quá sâu, trái pháp luật vào hoạt động xét xử

của Toà án.

2.2. Đánh giá mô hình quản lý Toà án hiện nay với yêu cầu đảm bảo

thực hiện quyền tư pháp của Toà án và sự độc lập của hoạt động xét xử

44

Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp 2013 đã chỉ rõ: "Tòa án nhân dân là cơ

quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền

tư pháp". Vấn đề đặt ra là: Cần phải bảo đảm những yếu tố nào để Tòa án

thực hiện được quyền tư pháp, đó cũng chính là sự độc lập tư pháp, sự độc lập

của Tòa án trong hoạt động xét xử nhằm thực hiện đúng đắn, đầy đủ quyền tư

pháp như nội dung Hiến định.

Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2013) đã quy định rõ

hơn các bản Hiến pháp trước đây về sự độc lập của Thẩm phán: “Thẩm phán,

hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ

chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm”. Chủ

thể Hội thẩm được đưa ngay vào trong Hiến pháp của nước ta nói lên tính đại

diện và quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử thực hiện quyền tư

pháp.

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ: "Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa

án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các

khiếu kiện hành chính tại Tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham

gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước

Tòa án". Để Tòa án nhân dân thực hiện đúng đắn quyền tư pháp theo Hiến

định, Tòa án nhân dân không chỉ là cơ quan áp dụng pháp luật để trừng trị các

hành vi vi phạm pháp luật của người dân, mà còn trở thành công cụ để người

dân bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước hành vi vi phạm của các cơ

quan công quyền.

Bảo đảm cho Tòa án được độc lập, Nghị quyết số 49-NQ/TW cũng đã

định hướng rõ: "Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ

thuộc vào đơn vị hành chính".

45

Triển khai thực hiện các nội dung của Nghị quyết số 49-NQ/TW của

Đảng về cải cách tư pháp đến năm 2020; thực hiện các nội dung mới của Hiến

pháp 2013 về các vấn đề liên quan đến Tòa án nhân dân... Tòa án nhân dân tối

cao đang khẩn trương hoàn thiện Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa

đổi) với nội dung kế thừa các quy định trước đây, sửa đổi, bổ sung cho phù

hợp với các điều kiện thực tiễn của đất nước, bảo đảm sự độc lập tư pháp, độc

lập của Tòa án, để Tòa án hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ

quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền và

lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc

Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, để thống nhất nhận thức trong Toàn xã hội về độc lập tư

pháp, độc lập của Tòa án trong thực hiện nhiệm vụ của mình, cần thiết phải

nghiên cứu, phân tích rõ các yếu tố bảo đảm cho sự độc lập tư pháp, độc lập

của Tòa án, trên cơ sở đó xây dựng các thể chế, quy định phù hợp, thuận lợi

trong triển khai thực hiện công tác Tòa án.

2.2.1. Bảo đảm thực hiện quyền tư pháp và sự độc lập trong xét xử

3.2.1.1. Yêu cầu của việc áp dụng pháp luật và thực hiện quyền tư pháp

Thực hiện quyền tư pháp và áp dụng pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ

với nhau. Các cơ quan tư pháp, các chức danh tư pháp chính là các chủ thể

được pháp luật trao các quyền năng rất lớn trong việc thực hiện quyền tư pháp

và áp dụng pháp luật để xét xử các hành vi vi phạm pháp luật, áp dụng trách

nhiệm pháp lý đối với các chủ thể để bảo vệ trật tự pháp luật, giải quyết các

tranh chấp, khôi phục các quyền lợi ích hợp pháp bị thay đổi, bị xâm hại, bảo

vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân.

Thực hiện quyền tư pháp được pháp luật trao, các chức danh tư pháp mà

trung tâm là các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân được quyền nhân danh Nhà

nước để ra các phán quyết đối với từng quan hệ pháp luật và giải quyết đối

46

với vụ việc cụ thể trong đời sống, liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ

cụ thể của từng cá nhân, từng chủ thể cụ thể tham gia vào các quan hệ pháp

luật. Các cơ quan các chức danh tư pháp này đã được trao quyền áp dụng các

chế tài là các biện pháp xử lý cửa Nhà nước được quy định trong các quy

phạm pháp luật đối với các chủ thể không thực hiện, thực hiện không đúng,

không đầy đủ, các xử sự đi ngược lại yêu cầu đòi hỏi của Nhà nước trong các

quy phạm pháp luật, hoặc lạm quyền, xâm hại trật tự Pháp luật, các quyền lợi

ích hợp pháp của công dân. Quyền tư pháp chính là quyền xét xử các hành vi,

ra các phán quyết nhân danh Nhà nước để bảo vệ pháp luật. Chính vì vậy,

trong điều bện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước quyền xã hội chủ nghĩa, việc

thực thi quyền tư pháp phải hướng tới việc đảm bảo, bảo vệ đúng đắn các

quyền và tự do, dân chủ, các quyền con người, quyền và các lợi ích hợp pháp

của công dân. Không ai bị coi là có tội khi chưa có một bản có hiệu lực pháp

luật kết tội hành vi của họ. Hành vi vi phạm nói chung, hành vi phạm tội nói

riêng phải được xét xử kịp thời, công bằng, được thực hiện quyền bào chữa và

đầy đủ các quyền tố tụng khác một cách minh bạch. Các tranh chấp trong đời

sống dân sự, kinh tế, đời sống quản lý hành chính nhà nước phải được giải

quyết nhanh chóng, triệt để, đúng pháp luật, đảm bảo cho các quan hệ này

phát triển lành mạnh, an Toàn, thông suốt. Các quyết định hành chính của các

cơ quan hành pháp phải đúng pháp luật, phục vụ nhân dân. Tất cả các quyết

định hành chính, hành vi hành chính không hợp pháp của các cơ quan, công

chức nhà nước xâm hại đến quyền công dân đều phải bi tuyên bố vô hiệu và

khôi phục lại các quyền công dân đã bị vi phạm. Tất các các yêu cầu trên đây

được ghi nhận trong Hiến pháp và các đạo luật cơ bản của Nhà nước ta, được

nêu trong các văn kiện quan trọng của Đảng. Tuy nhiên, việc thực hiện các

yêu cầu hợp pháp và chính đáng này đang là thách thức của đối với các cơ

quan tư pháp nói chung và các chức danh tư pháp nói riêng trong điều kiện

47

địa vị Pháp lý như hiện nay.

2.2.1.2. Điều kiện bảo đảm tính độc lập trong xét xử và thực hiện quyền

tư pháp

Một trong những mục tiêu của chiến lược cải cách tư pháp là tăng cường

tính độc lập của hệ thống tòa án. Tuy nhiên trên thực tế, cơ chế “thỉnh án” và

“báo cáo án” vẫn tiếp tục được xem là nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng

đến tính độc lập của thẩm phán và Hội đồng xét xử.

Kết quả khảo sát “Thực trạng quản lý hành chính tòa án địa phương tại

Việt Nam” do Tiểu dự án Văn phòng Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung

ương điều phối, giám sát thực hiện nhằm góp phần cung cấp thông tin một

cách khách quan, kịp thời, trung thực cho Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung

ương và các cơ quan có thẩm quyền tập trung vào khâu cải cách tổ chức và

hoạt động của hệ thống tòa án theo Nghị quyết 49-NQ/TW cho thấy, để tạo

được chuyển biến căn bản trong cải cách tư pháp, cần phải nghiên cứu tìm ra

được giải pháp đột phá, đó là phải tiến hành cải cách ở khâu then chốt nhất -

cải cách tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa án.

Chất lượng phán quyết, các bản án và quyết định của tòa án là kết quả

cuối cùng của cả một chuỗi hoạt động tố tụng của các cơ quan tư pháp thông

qua hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Một bản án được tòa án tuyên công

bằng, khách quan, đúng pháp luật luôn tạo ra sức mạnh, tính chân lý của cả hệ

thống cơ quan tư pháp và của cả bộ máy nhà nước, của chế độ.

Pháp luật không có quy định nào ràng buộc Thẩm phán chủ toạ phiên tòa

phải thực hiện việc xin ý kiến thỉnh thị đối với việc xét xử vụ án do mình phụ

trách. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng bắt buộc phải có ý kiến chỉ

đạo đường lối xét xử trước khi mở phiên Toà làm ảnh hưởng đến tính độc lập

của Hội đồng xét xử và Thẩm phán?

Thứ nhất, nguyên nhân chính là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ

48

thống Toà án hiện nay chưa hợp lý. Với hai nguyên tắc quản lý hành chính -

tư pháp và quản lý thống nhất chuyên môn và đường lối xét xử trong hệ thống

Toà án độc lập theo chu trình khép khi thì Thẩm phán chịu sự điều chỉnh của

cả hai quan hệ vừa chịu sự quản lý hành chính - tư pháp đồng thời chịu sự

lãnh đạo chuyên môn nghiệp vụ trong hoạt động xét xử. Hai áp lực này ngày

càng có xu hướng gia tăng, chi phối và kiểm soát chặt chẽ hoạt động của

Thẩm phán, đặc biệt trước áp lực trách nhiệm cá nhân vế bồi thường oan, sai.

Chính vì vậy, việc chỉ đạo đường lối xét xử của lãnh đạo Toà án có tính mệnh

lệnh hành chính là một thực tế. Sự can thiệp này làm cho tính độc lập và nói

chung địa vị Pháp lý của Thẩm phán giảm sút. Đôi khi, họ bị biến thành

người diễn vai "xử án" theo kịch bản đã có sẵn và được dàn dựng sẵn.

Xét về mặt tích cực, nếu thẩm phán còn có khó khăn, vướng mắc trong

việc xác định quan hệ pháp luật, xác định tội danh, lượng hình… trong các vụ

án phức tạp, có nhiều bị cáo, có nhiều quan hệ pháp luật đan xen cần phải gỡ

thì việc tham khảo ý kiến đồng nghiệp, các cơ quan hữu quan, xin ý kiến lãnh

đạo là cần thiết để chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết trước khi mở phiên

Toà. Tuy nhiên, đó là việc xin ý kiến, tham khảo ý kiến, khác với việc chỉ đạo

xử án chỉ đạo đường lối xét xử hiện nay. Nhân tố tích cực dưới sự chỉ đạo

quản lý hành chính đã bị biến dạng trong cách hiểu và vận dụng, thậm chí lợi

dụng để làm méo mó dẫn đến nhiều sai lầm trong hoạt động xét xử của Thẩm

phán trước cũng như trong và sau phiên Toà.

Thứ hai, nguyên nhân khách quan từ biên chế Thẩm phán của Toà án

nhân dân dẫn đến số lượng thẩm phán còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu

thực tế nhiệm vụ xét xử các vụ án hình sự, tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành

chính đang ngày một gia tăng. Tranh chấp, khiếu kiện là một tất yếu khách

quan trong nền kinh tế thị trường, Tội phạm gia tăng cũng là mặt trái của nền

kinh tế thị trường: Trong khi đó, số lượng thẩm phán không đủ, lại phân bố dàn

49

trải theo lãnh thổ hành chính cấp huyện tại tất cả các vùng trong cả nước, cơ

chế điều chuyển Thẩm phán còn gặp khó khăn càng làm gia tăng sự bất cập

trong việc nghiên cứu hồ sơ, xét xử đúng đắn vụ việc. Theo báo cáo của Tòa án

nhân dân tối cao thì hiện nay một số Tòa án địa phương còn thiếu cán bộ,

Thẩm phán so với yêu cầu công tác, tập trung chủ yếu tại các tỉnh vùng sâu

vùng xa, miền núi, hải đảo do thiếu nguồn cán bộ đủ tiêu chuẩn để tuyển dụng.

Từ chỗ thiếu thẩm phán nên các thẩm phán phải làm việc với công suất

cao hơn để hoàn thành kế hoạch xét xử do cấp lãnh đạo Toà án giao, dẫn đến

thẩm phán thiếu thời gian cần và đủ để học tập, nghiên cứu, đào sâu nghiên

cứu hồ sơ, xác minh đầy đủ các yếu tố liên quan đến nội dung vụ án và làm rõ

quan hệ pháp luật. Do vậy, họ cần có sự chỉ đạo của lãnh đạo trong đường lối

giải quyết vụ án từ Chánh án, Phó chánh án phụ trách là những người đi trước

thường là những người có bề dày kinh nghiệm, kỹ năng.

Thứ ba, nguyên nhân chủ quan từ các Thẩm phán. Ngoài các Thẩm phán

được đào tạo chính quy, có trình độ chuyên môn, kỹ năng xét xử và năng lực

thực tiễn, có đạo đức nghề nghiệp thì trong đội ngũ thẩm phán còn có một bộ

phận Thẩm phán không nhỏ chưa được đào tạo chính quy, bài bản, trình độ

chuyên môn còn hạn chế, chưa có đầy đủ kỹ năng nghiệp vụ và đạo đức nghề

nghiệp, do vậy khi tiếp cận vụ án họ chưa tự tin vào quan điểm của chính

mình và chưa chí công vô tư trong giải quyết vụ án. Mặc dù tỷ lệ cán bộ có

trình độ cử nhân luật là khá lớn, đặc biệt là Thẩm phán (100%), nhưng trên

thực tế mặt bằng trình độ đào tạo lại không đồng đều, trình độ quản lý của

một số cán bộ lãnh đạo Tòa án địa phương, cũng như trình độ hiểu biết về

pháp luật quốc tế, kiến thức xã hội và trình độ tin học, ngoại ngữ của Thẩm

phán, cán bộ, công chức Tòa án còn nhiều bất cập.

Chính vì vậy, có hiện tượng ỷ lại vào cấp trên, để cấp trên nghĩ thay,

quyết định thay cho mình và sau đó khi đã có ý kiến chỉ đạo của cấp trên, họ

50

yên tâm khi thực hiện phiên Toà và họ cũng yên tâm, bởi vì khi có những vấn

đề sai sót, oan sai liên quan đến bản án thì lãnh đạo cấp Toà sẽ không khiển

trách và truy cứu gì được họ, trong khi họ đã làm theo ý kiến chỉ đạo của lãnh

đạo Toà án.

Thứ tư, theo quan điểm của tác giả, có nguyên nhân do hệ thống pháp

luật, cơ sở duy nhất để tiến hành hoạt động xét xử. Trong những năm qua,

thực hiện đường lối đổi mới Toàn diện đất nước, xây dựng nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta đã luôn chú trọng, xây

dựng, sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật. Hệ thống pháp luật nước ta đã

được từng bước được bổ sung cho hoàn thiện để phù hợp với cơ chế kinh tế

mới. Tuy nhiên, các quy luật kinh tế thị trường ngày càng tác động, chi phối

tất cả các quan hệ tinh tế, xã hội trong khi sự dự liệu của nhà làm luật nước ta

còn chưa theo kịp với yêu cầu và diễn biến của tình hình. Hệ thống pháp luật

nước ta còn nhiều quy định thiếu cụ thể, thiếu thống nhất, còn mâu thuẫn,

chồng chéo, lại được quy định trong nhiều văn bản với các cấp độ hiệu lực

khác nhau. Khi áp dụng các quy định pháp luật, Thẩm phán thật sự gặp nhiều

khó khăn khi cần tìm ra quy phạm có hiệu lực điều chỉnh quan hệ đang tranh

chấp, khó khăn để tìm ra nội dung điều chỉnh, tức là các yêu cầu đòi hỏi đích

thực của nhà làm luật đối với nội dung dự liệu của pháp luật và quan hệ xã

hội diễn ra trong thực tế. Để giải quyết khó khăn này, Thẩm phán lại phải hỏi

ý kiến của Lãnh đạo Toà án và cấp trên để cho ý kiến chỉ đạo về việc áp dụng

quy phạm pháp luật.

Thứ năm, nguyên nhân còn nằm ở nhiệm kỳ Thẩm phán và các yếu tố có

liên quan đến việc tái bổ nhiệm chức danh này. Theo quy định của Luật tổ

chức Toà án nhân dân, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, thì

nhiệm kỳ của Thẩm phán Toà án nhân dân là 05 năm. Theo quan điểm của tác

giả, như vậy là quá ngắn. Thẩm phán là một nghề - nghề xét xử. Để nghề

51

nghiệp này trở thành chuyên nghiệp không bị chi phối bởi các tác động về

thời hạn và các yếu tố ngoại cảnh khác thì chức danh Thẩm phán cần được bổ

nhiệm theo nhiệm kỳ suốt đời hoặc chí ít cũng dài gấp đôi, bằng 10 năm. Quy

định nhiệm nhiệm kỳ như hiện tại, Thẩm phán luôn phải đối phó với nhiệm

kỳ bổ nhiệm tới. Trong quá trình đó, Thẩm phán luôn bị sức ép của các mối

quan hệ có liên quan đến việc tái bổ nhiệm dẫn đến việc thực thi nguyên tắc

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật bị giảm sút.

Thứ sáu, việc áp dụng công nghệ thông tin còn hạn chế. Nhìn chung, cơ

sở hạ tầng trang thiết bị công nghệ thông tin của ngành Tòa án nhân dân còn

lạc hậu; việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động quản lý,

chuyên môn nghiệp vụ của Tòa án còn chậm so với các Bộ, Ngành khác; kinh

phí đầu tư cho việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong Toàn

ngành Tòa án nhân dân còn rất hạn chế. Mặt khác, trình độ tin học của đội

ngũ cán bộ, Thẩm phán Tòa án các cấp cũng còn nhiều bất cập.

2.2.1.3. Các khía cạnh biểu hiện nguyên tắc độc lập của Toà án Việt

Nam hiện nay

Sự độc lập của Toà án trong hoạt động xét xử thể hiện ở nhiều khía cạnh:

sự bảo đảm hiến định về tính độc lập của Toà án, bảo đảm ở góc độ thiết chế

bên ngoài, bảo đảm ở góc độ thiết chế bên trong và bảo đảm sự độc lập của cá

nhân thẩm phán.

- Bảo đảm hiến định về tính độc lập của Toà án

Tính độc lập của Toà án cũng như của cả hệ thống tư pháp phải được

quy định trong đạo luật có hiệu lực cao nhất của mỗi quốc gia - Hiến pháp.

Ngoài việc được quy định trong Hiến pháp, nguyên tắc độc lập của Toà án

còn được quy định ở các đạo luật và các văn bản pháp luật khác. Đó là Luật

Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân

dân,… Tuy nhiên, những ghi nhận thành văn trên chủ yếu chỉ nằm ở mức độ

52

lý thuyết, khía cạnh thực tế của việc thực thi nguyên tắc này vẫn còn những

bất cập. Hiến pháp chỉ quy định ngắn gọn nguyên tắc mà không quy định các

biện pháp cơ bản để đảm bảo thực hiện. Nếu chỉ hiểu một cách máy móc,

trong thời gian tiến hành xét xử, thẩm phán và hội thẩm phải độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật, thì Toà án rất khó có thể độc lập được. Vì muốn độc lập

trong thời gian xét xử, thì ngoài thời gian xét xử Toà án, bao gồm thành phần

xét xử của các Toà án, các thẩm phán và hội thẩm phải độc lập. Sự độc lập ở

ngoài thời gian xét xử cũng ảnh hưởng rất nhiều đến sự độc lập trong thời

gian xét xử.

- Tính độc lập của thiết chế Toà án Việt Nam

Muốn Toà án độc lập về thể chế, thì bộ máy Nhà nước phải thực sự phân

quyền. Trong điều kiện đổi mới hiện nay, với chủ trương xây dựng nhà nước

pháp quyền, mà biểu hiện của nó là sự phân công rạch ròi giữa lập pháp, hành

pháp và tư pháp, đây là cơ sở căn bản bước đầu cho việc thực hiện nguyên tắc

độc lập trong tổ chức, hoạt động của Toà án.

Toà án phải có một hệ thống độc lập trong bộ máy nhà nước, không bị lệ

thuộc vào các cơ quan lập pháp và hành pháp. Nguyên tắc độc lập của Toà án

không chỉ được biểu hiện ở trung ương, mà còn phải thể hiện ở tầm địa

phương, giữa mối quan hệ của toà án với chính quyền địa phương. Đảm bảo

nguyên tắc này, hệ thống Toà án không được tổ chức theo lãnh thổ hành chính

địa phương, mà phải sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm. Mỗi cấp

xét xử có thủ tục tố tụng, chức năng và nhiệm vụ khác nhau, không có cấp

nào giống cấp nào, để có khả năng tìm ra công lý của mỗi một vụ việc. Giám

đốc thẩm và tái thẩm là cấp xét xử đặc biệt, không có sự tham gia của nhân

chứng và vật chứng. Mỗi vụ án có quyền hai cấp xét xử: một sơ thẩm và một

phúc thẩm.

- Độc lập thiết chế bên trong của Toà án

53

Sự lệ thuộc của toà án cấp dưới vào toà án cấp trên có thể gây ra những

trở ngại cho tính độc lập của các toà án, qua đó có thể ảnh hưởng tới việc thi

hành công lý.

Về tố tụng, toà án cấp trên có quyền rà soát các bản án của toà án cấp

dưới để nếu thấy sai thì tự mình kháng án và xử lại, cũng có quyền lấy những

vụ việc mà toà án cấp dưới đang giải quyết để xử, có nghĩa là tước bỏ quyền

giải quyết của toà án cấp dưới.

Về mặt tổ chức hành chính, việc tuyển dụng, bổ nhiệm, đánh giá khen

thưởng, kỷ luật của các nhân viên toà án cấp dưới do toà án cấp trên thực

hiện.

Ngoài ra, sự độc lập của Toà án rất khó được bảo đảm khi bản than Toà

án không có ngân sách chi tiêu riêng. Hiện nay, ngành toà án đã có những chủ

động hơn trong vấn đề quản lý ngân sách của mình, tự mình dự thảo ngân

sách theo nhu cầu và sau đó trực tiếp quản lý việc chi tiêu các khoản ngân

sách đó. Tuy nhiên, sự kiểm soát của Toà án đối với lĩnh vực này không phải

là tuyệt đối. Toà án nhân dân tối cao vẫn phải thông qua Chính phủ để nộp

ngân sách lên Quốc hội để phê duyệt.

2.2.2. Các điểm đã đạt được và các điểm bất cập

2.2.2.1. Các điểm đã đạt được

Cùng với việc hoàn thiện về thể chế, lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao

cũng đã chỉ đạo htriển khai xây dựng nhiều đề án liên quan tới tăng cường

năng lực về đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất, điều kiện phương tiện làm việc

cho các Tòa án (Đề án tăng cường cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ cho ngành

Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tự pháp trong tình hình mới; Đề án

về tạo nguồn cán bộ cho các Tòa án vùng sâu, vùng xa; Đề án đổi mới cơ chế

phân bổ kinh phí cho ngành Tòa án nhân dân), về tăng cường làm tốt công tác

đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức trong ngành

54

(Đề án nâng cao năng lực và quy mô của Trường cán bộ Tòa án; Đề án thành

lập Học viện Tòa án; Đề án về đạo tạo chuyên gia đầu ngành về pháp luật và

nghiệp vụ Tòa án; chiến lược về công tác đào tạo của ngành Tòa án nhân dân

đến năm 2020; đề xuất và được Bộ Chính trị quyết định giao cho Tòa án nhân

dân tối cao thực hiện chức năng đào tạo nghiệp vụ xét xử cho cán bộ, công

chức trong ngành, tiến tới đào tạo cử nhân chuyên ngành và đào tạo trên đại

học); về tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống cho

cán bộ, công chức (tổ chức và phát động các phong trào thi đua trong Toàn

ngành với chủ đề xuyên suốt là “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” với

phương châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”; ban hành Kế hoạch số

335/KH-TANDTC ngày 29/12/2011 về tiếp tục triển khai thực hiện cuộc vận

động học tập và làm theo tấm lòng đạo đức Hồ Chí Minh trong ngành Tòa án

nhân dân với chủ đề: “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối

sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân”);

về tăng cường kỷ luật công vụ, thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành vi vi

phạm của cán bộ, công chức (Công văn số 344/TANDTC-TCCB ngày

07/6/2010 về việc tăng cường kỷ luật công vụ và công tác xét xử; Quy tắc ứng

xử của cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân; Đề án về cơ chế giám sát

việc thực hiện công vụ của cán bộ, Thẩm phán); về tăng cường ứng dụng

công nghệ thông tin trong hoạt động của các Tòa án (Đề án tổng thể phát triển

và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành Tòa án nhân dân giai đoạn 2011

- 2015). Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả các mặt công tác mà trọng tâm là

công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án, tại Nghị quyết số 01 - NQ/BCS

ngày 03/01/2013 của Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao và Chỉ thị số

01/2013/CT-CA ngày 05/02/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về

lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác năm

2013 của ngành Tòa án nhân dân đã xác định 03 giải pháp cơ bản mang tính

55

đột phá, đó là: (1) tiếp tục đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa theo hướng

thực chất, đảm bảo dân chủ, công khai, đúng quy định của pháp luật; (2) đổi

mới và nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ

cho cán bộ, công chức; (3) đổi mới thủ tục hành chính tư pháp trong hoạt

động của Tòa án các cấp nhằm công khai, minh bạch các hoạt động của Tòa

án, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân khi có công việc liên quan đến

Tòa án và tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các

Tòa án. Đồng thời chỉ đạo các bộ phận chức năng xây dựng các đề án để cụ

thể hóa các giải pháp này nhằm áp dụng thống nhất trong Toàn ngành.

Như vậy có thể thấy rằng, bên cạnh việc nghiên cứu, thể chế hóa các

quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp trong các quy định của

Hiến pháp và pháp luật. Yêu cầu xây dựng ngành Tòa án nhân dân trong sạch

vững mạnh được thể hiện tập trung trong lãnh đạo, chỉ đạo của Ban cán sự

đảng lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao về tăng cường đội ngũ cán bộ, nhất là

cán bộ có chức danh tư pháp cho Tòa án các cấp, về tập trung làm tốt, công

tác đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ và giáo dục chính trị tư tưởng

đạo đức lối sống cho cán bộ, công chức trong Toàn ngành; về tăng cường kỷ

luật công vụ, thanh tra kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm của cán bộ, công

chức; về đề xuất sửa đổi, bổ sung chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ đối

với cán bộ công chức của ngành; về cơ chế giám sát hoạt động của cán bộ;

công chức, kết hợp giữa xử lý kỷ luật với biểu dương, khen thưởng và nhân

rộng các điển hình tiên tiến; về tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện phương

tiện làm việc và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các Tòa

án, đề ra và tổ chức thực hiện quyết liệt trong Toàn ngành những giải pháp cơ

bản, mang tính đột phá nhằm nâng cao hiệu quả các mặt hoạt động của Tòa án

mà trọng tâm là công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án.

56

Trong những năm qua, tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp; các

tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính vẫn có xu hướng gia tăng; thẩm

quyền của các Tòa án được mở rộng, làm cho số lượng các loại vụ án mà các

Tòa án phải thụ lý, giải quyết tăng hơn nhiều các năm trước, tính chất các vụ

việc thì ngày càng phức tạp. Đây cũng là thời điểm nhiều văn bản luật liên

quan tới tổ chức và hoạt động của các Tòa án được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở

thể chế hóa các chủ trương về cải cách tư pháp cũng như tinh thần Hiến pháp

năm 2013. Theo đó, vị trí, vai trò của Tòa án nói chung và Thẩm phán nói

riêng được đề cao, nhưng đồng thời các yêu cầu, đòi hỏi đặt ra cũng hết sức

nặng nề, đặc biệt các luật tố tụng tư pháp được sửa đổi, bổ sung với nhiều vấn

đề mới liên quan tới hoạt động của Tòa án cũng như cơ quan tư pháp theo

hướng quy định các thủ tục chặt chẽ hơn, nhằm đề cao việc đảm bảo các

quyền con người, quyền công dân. Bên cạnh đó, việc củng cố bộ máy tổ chức,

cán bộ của các Tòa án theo mô hình Tòa án bốn cấp được quy định tại Luật

Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, cùng với việc thực hiện tinh giản biên

chế theo tinh thần Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị cũng tạo ra

những áp lực nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn của Tòa

án trong giai đoạn này.

Mặc dù yêu cầu nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề và trong bối cảnh còn

nhiều khó khăn về đội ngũ cán bộ, Thẩm phán cũng như điều kiện cơ sở vật

chất, nhưng từ ngày 01/10/2014 đến 31/7/2017, các Tòa án đã giải quyết được

1.072.451 vụ án các loại trong tổng số 1.336.861 vụ án đã thụ lý. Nếu so với

cùng kỳ của 3 năm trước (2012-2014), số lượng các vụ án Tòa án phải giải

quyết tăng hơn 205.767 vụ; đã giải quyết tăng 188.081 vụ [29].

Mặc dù số lượng các vụ án phải thụ lý giải quyết tăng nhiều, nhưng hầu

hết đều được giải quyết trong thời hạn quy định của pháp luật; số lượng các

vụ án để quá hạn luật định do lỗi chủ quan của Tòa án đã giảm mạnh qua từng

57

năm, tính đến 31/7/2017 chỉ còn 195 vụ. Với việc chú trọng làm tốt hoạt động

tranh tụng, nên chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án tiếp tục được đảm bảo,

tỷ lệ các bản án quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan được hạn chế ở mức

thấp (dưới 1,5%), đáp ứng được yêu cầu mà Nghị quyết Quốc hội đề ra [29].

Việc xét xử các vụ án hình sự cơ bản đảm bảo đúng người, đúng tội,

đúng pháp luật. Các Tòa án đã hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp kết

án oan người không có tội, từ năm 2014 - 2017 chỉ có 02 trường hợp, giảm

hơn nhiều so với các năm trước. Đối với các vụ án lớn, trọng điểm, nhất là

các vụ án kinh tế, tham nhũng đều được các Toà án phối hợp chặt chẽ với các

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát để sớm hoàn tất hồ sơ vụ án và đưa ra xét xử

kịp thời, nghiêm minh, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị của các địa

phương, cũng như cả nước. Công tác giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự và

vụ án hành chính cũng có nhiều chuyển biến, tiến bộ cả về tiến độ và chất

lượng giải quyết, đặc biệt các Tòa án đã quan tâm làm tốt công hòa giải trong

quá trình giải quyết các vụ án dân sự cũng như công tác đối thoại trong giải

quyết các vụ án hành chính, nên tỷ lệ các vụ án được giải quyết bằng hòa giải

thành mỗi năm đều đạt khoảng 50% số vụ án phải giải quyết.

Một số giải pháp đã được tiến hành:

Trước hết là tăng cường công tác bảo đảm áp dụng thống nhất pháp

luật. Đây là một giải pháp đặc biệt quan trọng mà thời gian qua lãnh đạo Tòa

án nhân dân tối cao đã tập trung chỉ đạo thực hiện với nhiều đổi mới, tập

trung vào việc xây dựng các Nghị quyết, thông tư hướng dẫn áp dụng thống

nhất pháp luật, ban hành các Tập giải đáp vướng mắc nghiệp vụ. Đáng chú ý

là Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP

ngày 28/10/2015 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về quy trình lựa chọn,

công bố và áp dụng án lệ và Chỉ thị số 04/2016/CT-CA ngày 30/5/2016 của

58

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về tăng cường công tác phát triển công bố

áp dụng án lệ trong xét xử; khai trương Trang tin điện tử về án lệ; đã mở hộp

thư điện tử để tiếp nhận các vướng mắc trong thực tiễn xét xử do các Tòa án

nhân dân phản ánh.

Đổi mới tổ chức phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp là giải pháp

được đặt ra với yêu cầu Hội đồng xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;

thực hiện tốt nguyên tắc tranh tụng; tôn trọng quyền con người; Hội đồng xét

xử phải thực hiện hết thẩm quyền của mình theo quy định của pháp luật.

Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức các hội nghị quán triệt và thi hành

Hiến pháp năm 2013 cũng như quán triệt và triển khai thực hiện các quy định

của các đạo luật về tố tụng tư pháp mới được sửa đổi, bổ sung trong Toàn hệ

thống; chỉ đạo các Tòa án tổ chức các phiên tòa bảo đảm thực hiện tốt nguyên

tắc tranh tụng; ban hành Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC quy định về

phòng xử án; Thông tư 02/2017/TT-TANDTC về quy chế tổ chức phiên tòa.

Nâng cao chất lượng bản án, quyết định của Tòa án. Bản án là văn bản

tố tụng của Tòa án thể hiện các thông tin về nội dung vụ án, pháp luật áp

dụng, kết luận và quyết định của Tòa án về các vấn đề cần giải quyết trong

một vụ án cụ thể. Bản án là sản phẩm thể hiện kết quả Toàn bộ hoạt động tố

tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Các thông tin thể hiện trong bản án phải

bảo đảm tính chính xác; các lập luận, kết luận và các quyết định của Tòa án

(Hội đồng xét xử) về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án phải cụ thể, chặt

chẽ, logic có đầy đủ cơ sở thực tiễn và pháp luật. Trong thời gian qua, Tòa án

nhân dân tối cao đã thực hiện một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bản

án, quyết định của Tòa án như: Xây dựng Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP

ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành

một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự và Nghị quyết số 02/2017/NQ-HĐTP

59

ngày 13/01/2017 về một số biểu mẫu trong tố tụng hành chính; tổ chức Hội

nghị trực tuyến tập huấn viết bản án cho Thẩm phán và các chức danh tư pháp

khác của Tòa án nhân dân các cấp.

Công khai bản án, quyết định của Tòa án trên Cổng thông tin điện tử

Toà án nhân dân là giải pháp mang tính đột phá và được dư luận đánh giá

cao. Từ khi xây dựng và đưa Trang thông tin điện tử Công bố bản án, quyết

định của Tòa án vào hoạt động đến hết tháng 11 năm 2017, đã có gần 3.000

bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án được đăng tải,

tổng lượng truy cập gần 500.000 lượt và đã có 185 ý kiến bình luận, góp ý đối

với 302 bản án, quyết định. Họat động này sẽ tiếp tục được đầu tư cơ sở vật

chất và đôn đốc thực hiện một cách hiệu quả trong Toàn hệ thống [29].

Nâng cao hiệu quả công tác hòa giải, có một ý nghĩa rất quan trọng.

Thông qua hòa giải, vụ việc được giải quyết nhanh chóng, dứt điểm; góp phần

tạo sự thống nhất trong nội bộ nhân dân, nên đây là giải pháp được chú trọng.

Trong những năm gần đây, tỷ lệ hòa giải trong giải quyết các vụ án dân sự của

các Tòa án cũng đã có nhiều tiến bộ, trung bình hàng năm đều đạt 50% số vụ

án dân sự phải giải quyết và cá biệt có những Tòa án, tỷ lệ này đạt tới 60-70%.

Tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm là một giải pháp mới. Việc tổ

chức các phiên tòa rút kinh nghiệm là nhằm giúp các Thẩm phán nâng cao

tinh thần trách nhiệm trong quá trình chuẩn bị xét xử cũng như khi tổ chức

phiên tòa; thông qua hoạt động rút kinh nghiệm sau phiên tòa, các Thẩm phán

sẽ được học hỏi để nâng cao về kỹ năng xử lý các tình huống và điều hành

phiên tòa, cũng như nâng cao trình độ nhận thức và áp dụng pháp luật trong

công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án.

Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan có

liên quan trọng quá trình giải quyết các loại vụ án cũng là giải pháp được đặt

60

ra, nhằm đảm bảo sự thống nhất nhận thức về áp dụng pháp luật; khẩn trương

thu thập, bổ sung tài liệu, chứng cứ, hoàn thiện hồ sơ để nhanh chóng đưa vụ

án ra xét xử; phát hiện và kịp thời khắc phục những điểm chưa rõ ràng.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám đốc việc xét xử là một giải pháp

quan trọng, nhằm phát hiện kịp thời các sai sót trong hoạt động nghiệp vụ để

rút kinh nghiệm hoặc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với các bản

án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm nghiêm trọng.

Nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán là hoạt động thường xuyên,

liên tục nhưng được đặt ra là một giải pháp trong giai đoạn hiện nay vì nếu

không có đội ngũ Thẩm phán giỏi chuyên môn, nghiệp vụ và tư cách tốt thì

nhiệm vụ mà hệ thống Tòa án đặt ra khó có thể hoàn thành. Toà án nhân dân

tối cao đặt ra ba nhiệm vụ trọng tâm: Thực hiện nghiêm các quy định của

pháp luật về tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán để lựa chọn nhưng người thực

sự có đức, có tài để bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án các cấp; Đổi mới công

tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị và

bản lĩnh, đạo đức nghệ nghiệp cho đội ngũ Thẩm phán; Thực hiện nghiêm túc

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, đề cao kỷ cương, kỷ luật, tăng cường

kiểm tra giám sát việc thực thi công vụ và xử lý trách nhiệm đối với các Thẩm

phán có hành vi vi phạm.

Tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cũng là biện pháp đặt ra

trong giai đoạn hiện nay. Đây là một yêu cầu được đề cập nhiều tại nhiều

Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và được cụ thể hóa trong các Kế hoạch, Chỉ thị

của Ban cán sự đảng, lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao để lãnh đạo, chỉ đạo

việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ công tác của các Tòa án.

Đổi mới thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án là giải pháp đổi mới các

quy trình, thủ tục mang tính chất hành chính hỗ trợ cho hoạt động xét xử tại

61

Tòa án, giải quyết các yêu cầu của công dân trước và sau các phiên tòa xét xử

và các hoạt động quản lý, điều hành của lãnh đạo Tòa án các cấp. Trên cơ sở

tổng kết việc thực hiện nhiệm vụ này tại các Tòa án, ngày 04/4/2016, Chánh

án Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 03/2016/CT-CA về việc

tăng cường thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án [11].

Giải pháp tiếp theo là tập trung đầu tư xây dựng trụ sở, bỏ sung trang

thiết bị phương tiện làm việc và tăng cường nguồn lực tài chính cho việc ứng

dụng công nghệ thông tin vụ công tác của các Tòa án, từng bước đáp ứng yêu

cầu cải cách tư pháp. Bên cạnh đó, các địa phương cũng quan tâm hỗ trợ từ

nguồn ngân sách địa phương, nhất là việc giao đất, hỗ trợ kinh phí để xây

dựng mới, mở rộng trụ sở; hỗ trợ đầu tư trang thiết bị phương tiện làm việc và

ứng dụng công nghệ thông tin cho các Tòa án.

Trong thời gian qua, Tòa án nhân dân tối cao đã triển khai nhiều giải

pháp ứng dụng công nghệ thông tin, như triển khai xây dựng Hệ thống truyền

hình trực tuyến từ Toà án nhân dân tối cao đến các Toà án nhân dân cấp cao,

63 Toà án nhân dân cấp tỉnh và trên 700 Toà án nhân dân cấp huyện, Trang

tin điện tử về Án lệ; thiết lập hộp thư điện tử để tiếp nhận các vướng mắc về

nghiệp vụ của các Tòa án.

2.2.2.2. Những điểm bất cập

- Cơ chế tuyển chọn, kỷ luật Thẩm phán chưa hợp lý

Mặc dù cơ chế tuyển chọn Thẩm phán đã có nhiều đổi mới, bước đầu

khắc phục tình trạng khép kín, thu thập được thông tin, phản ánh của dư luận

xã hội thông qua đại diện của Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc. Tuy

nhiên, việc tuyển chọn chưa mang tính chuyên môn và vì vậy chưa đánh giá

được thực chất năng lực, tư cách của người được tuyển chọn.

- Còn tồn tại quan hệ quản lý hành chính trong tổ chức Tòa án nhân dân

62

Thẩm phán là người thực hiện công vụ xét xử nhưng nằm trong biên chế

của một Toà án nhất định, dưới sự quản lý trực tiếp hoặc gián tiếp của các

chức danh lãnh đạo. Tất nhiên các vị này cũng là các thẩm phán. Tuy nhiên,

với vị trí lãnh đạo của mình, với trách nhiệm rất lớn trong việc quản lý con

người, cơ sở vật chất, đảm bảo cho hoạt động xét xử, đảm bảo đường lối xét

xử thống nhất của ngành, tránh oan, sai cho nên họ đã phải chỉ đạo nghiệp vụ,

vô tình can thiệp chi phối hoạt động xét xử của Thẩm phán. Theo nguyên tắc

quản lý hành chính - tư pháp trong hệ thống Toà án hiện nay, một trong chức

năng quản lý nhà nước mà Toà án tiếp nhận từ Bộ Tư pháp thì Chánh án đồng

thời phải chịu trách nhiệm về hai chức năng quản lý hành chính - tư pháp và

quản lý lãnh đạo chuyên môn xử xử, đảm bảo cho việc xét xử và áp dụng

pháp luật đúng đắn và thống nhất, đúng kế hoạch nghiệp vụ đã đề ra. Một vụ

xét xử oan, sai đối với một con người, ở cấp Toà án của mình có một phần

trách nhiệm của các lãnh đạo cấp Toà án đó. Với trách nhiệm lớn lao đến vậy

cho nên trước khi một vụ án được đưa ra xét xử, một hoạt động không thể

thiếu đang diễn ra là Thẩm phán chủ toạ phiên Toà phải báo cáo và xin ý kiến

từ lãnh đạo Chánh án hoặc Phó Chánh án phụ trách. Ở một số Toà hoạt động

này còn nặng nề đến mức Lãnh đạo Toà án "duyệt án" trước khi thẩm phán

xét xử, có án được soạn thảo sẵn trước khi mở phiên Toà. Dẫn đến hệ quả là

tính độc lập của thẩm phán khi xét xử vụ án bị giảm, nhiệm vụ của họ tại

phiên Toà là phải bảo vệ quan điểm, đường lối đã được lãnh đạo Toà án phê

duyệt hơn là điều tra làm rõ sự thật khách quan theo diễn biến điều tra công

khai và kết quả tranh tụng tại phiên Toà.

- Cơ chế quản lý cán bộ còn bất cập

Theo đánh giá của Tòa án nhân dân tối cao thì đội ngũ cán bộ, công chức

của ngành cũng còn một số tồn tại, hạn chế; cụ thể là:

+ Cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức còn mất cân đối, thiếu đồng bộ,

chưa đáp ứng được yêu cầu trước mắt và lâu dài; tình trạng hẫng hụt giữa các

63

thế hệ cán bộ, công chức Tòa án các cấp còn phổ biến. Ngành Tòa án nhân

dân còn thiếu đội ngũ chuyên gia đầu ngành đủ sức giải quyết những vấn đề

pháp lý phức tạp; nhiều Tòa án thiếu đội ngũ cán bộ, công chức nòng cốt kế

cận có trình độ chuyên môn cao.

+ Việc bố trí cán bộ, công chức ở nhiều Tòa án chưa phù hợp với đặc

điểm, tính chất và yêu cầu công việc. Tiêu chuẩn chức danh chuyên môn

nghiệp vụ các ngạch công chức đã được chuẩn hóa, tuy nhiên vẫn còn chưa

đồng bộ, thực chất mà còn mang tính hình thức, việc ra soát, phân loại, đánh

giá cán bộ còn hạn chế; việc quy hoạch, luân chuyển cán bộ trong ngành tiến

hành còn chậm, chưa thực sự hiệu quả.

- Địa vị pháp lý của Hội thẩm chưa rõ ràng

Vấn đề được đặt ra liên quan đến địa vị Pháp lý của Hội thẩm nhân dân

là có nên “Thẩm phán hoá” các Hội thẩm nhân dân hay không, có nên để Hội

thẩm ngang quyền với Thẩm phán khi xét xử? Để rồi từ đó hậu quả tiếp theo

là Hội thẩm cũng phải có trình độ pháp lý, cũng phải có kỹ năng xét xử như

Thẩm phán. Nếu không thì không thể đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của

hoạt động xét xử. Nên chăng cần có sự nghiên cứu thấu đáo về vị trí, vai trò

của Hội thẩm trong hoạt động xét xử phù hợp với nguyên tắc của Nhà nước

pháp quyền, theo đó, mỗi chức danh tư pháp với tiêu chuẩn, quy trình bổ

nhiệm, bầu khác nhau sẽ có vị trí, vai trò khác nhau, tham gia với mức độ

khác nhau vào hoạt động tư pháp.

- Chế độ đãi ngộ chưa hợp lý

Chế độ chính sách, tiền lương là một trong những vấn đề bảo đảm tính

độc lập của đội ngũ cán bộ, công chức và Thẩm phán trong quá trình họ thực

hiện chức trách của mình. Chế độ tiến lương và chính sách đãi ngộ cần bảo

đảm cho cán bộ, công chức và Thẩm phán không phải lo mưu sinh, đảm bảo

để họ và gia đình có thể sống đầy đủ bằng chính đồng lương, không bị phụ

64

thuộc vào những tác động vật chất từ phía các cá nhân, tổ chức. Chế độ tiền

lương của cán bộ, công chức và Thẩm phán ở nước ta tuy đã được quan tâm

nhiều nhưng so với yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay thì còn nhiều bất cập, chưa

tính toán đầy đủ tới đặc thù của hoạt động Tòa án. Do khối lượng công việc

quá tải, trong đó do các quy định của pháp luật cán bộ trong cơ quan Tòa án

không được tham gia các hoạt động kinh doanh, phát triển kinh tế nên đời

sống của Thẩm phán, cán bộ, công chức gặp nhiều khó khăn. Không phải

ngẫu nhiên, trong thời gian gần đây tình trạng cán bộ, Thẩm phán xin nghỉ

việc hoặc xin chuyển công tác có xu hướng ngày càng gia tăng. Nếu không có

biện pháp tháo gỡ kịp thời, sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới việc thu hút cán bộ có

năng lực vào làm việc trong các cơ quan Tòa án, đây là yếu tố ảnh hưởng tới

chất lượng hoạt động của các Tòa án. Tất nhiên chế độ đãi ngộ phải đi liền

với cơ chế kiểm tra, giám sát trách nhiệm chặt chẽ, bảo đảm để mọi hành vi

sai phạm vì bất cứ lý do nào đều được phát hiện, xử lý nghiêm minh.

Ngoài ra, trong công tác giải quyết, xét xử các vụ án hình sự, vẫn còn

tình trạng vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn hoãn phiên tòa; vi phạm

thời hạn gửi bản án, quyết định cho Viện kiểm sát. Trong công tác giải quyết

các vụ việc dân sự, vẫn còn để xảy ra các vi phạm trong quá trình thụ lý đơn

khởi kiện; nhiều trường hợp tạm đình chỉ giải quyết vụ án thiếu căn cứ pháp

luật, vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử. Một số trường hợp Thẩm phán xác

định thiếu hoặc sai tư cách người tham gia tố tụng. Trong công tác xét xử các

vụ án hành chính, tiến độ giải quyết nhìn chung còn chậm; tỷ lệ các bản án bị

hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán còn cao. Còn có trường hợp trả lại

đơn khởi kiện không đúng, xác định sai đối tượng khởi kiện, giải quyết vụ án

không đúng thẩm quyền, bỏ sót yêu cầu khởi kiện. Việc xác minh, thu thập tài

liệu chứng cứ trong một số vụ án không đầy đủ; đánh giá chứng cứ và áp

dụng pháp luật không đúng dẫn đến giải quyết vụ án không chính xác [29].

65

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Tóm lại, ở nước ta, quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công

phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập

pháp, hành pháp và tư pháp. Trong mối quan hệ với các cơ quan thực hiện các

nhánh quyền lực khác, sự độc lập tư pháp được thể hiện rõ rệt nhất ở chỗ

không được can thiệp vào công việc của Tòa án, của Thẩm phán, nhất là hoạt

động xét xử của Thẩm phán. Thẩm phán xét xử chỉ dựa trên chứng cứ Toàn

diện của vụ án, xem xét đánh giá bản chất sự việc một cách khách quan, vô

tư, trung thực, tuân thủ pháp luật, không tuân theo ý chí của một ai khác.

Để làm được điều đó, cần phải xây dựng cho được những thể chế, quy

định chặt chẽ bảo đảm cho sự độc lập tư pháp, độc lập của Tòa án, tạo điều

kiện thuận lợi cho Toà án nhân dân thực hiện đúng đắn, đầy đủ quyền tư pháp

theo nội dung Hiến định, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo

vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền

và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong Nhà nước pháp quyền Việt

Nam xã hội chủ nghĩa.

66

Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN LÝ TÒA ÁN

NHÂN DÂN NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN TƯ PHÁP CỦA

TÒA ÁN VÀ SỰ ĐỘC LẬP CỦA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ

3.1. Hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Toà án theo các

cấp xét xử

Việc tổ chức bộ máy hệ thống Toà án nhân dân theo đơn vị hành chính

không còn phù hợp; chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các Toà án

còn nhiều bất hợp lý. Chất lượng xét xử chưa đáp ứng được yêu cầu và đòi

hỏi của xã hội; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội;

việc giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế, hành chính, lao động còn nhiều

thiếu sót, đặc biệt là các tranh chấp dân sự, xâm phạm đến quyền và lợi ích

hợp pháp của Nhà nước, của tổ chức và của công dân, làm giảm sút lòng tin

của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và đối với Toà án.

Một trong những nội dung cơ bản mà Nghị quyết số 49 đã đề ra, đó là:

“Tổ chức Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành

chính, gồm: Toà án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị

hành chính cấp huyện; Toà án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc

thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Toà thượng thẩm được tổ chức theo

khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ

tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát

triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”.

3.1.1. Đối với Toà án sơ thẩm khu vực

Toà án sơ thẩm khu vực là Toà án chỉ xét xử sơ thẩm các vụ án theo quy

định của pháp luật, được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp

67

huyện, tức là một đơn vị hành chính cấp huyện có thể tổ chức một Toà án sơ

thẩm nhưng không phải là Toà án cấp huyện như trước đây mà là Toà án sơ

thẩm khu vực. Tuy nhiên, số lượng Toà án sơ thẩm khu vực là bao nhiêu thì

vẫn là một vấn đề cần xem xét. Theo tác giả, số lượng Toà án sơ thẩm khu

vực là bao nhiêu không phải là vấn đề quan trọng, mà vấn đề quan trọng là ở

chỗ, Toà án sơ thẩm khu vực phải bảo đảm các tiêu chí: Đủ năng lực xét xử

sơ thẩm các vụ án theo quy định của pháp luật và thuận tiện cho người tham

gia tố tụng trong khu vực đó. Toà án sơ thẩm khu vực không bị chi phối (quản

lý) của bất cứ đơn vị hành chính của tỉnh nào. Có như vậy Toà án sơ thẩm khu

vực mới thật sự đúng với tinh thần mà Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị đã

đề ra.

3.1.2. Đối với Toà án phúc thẩm

Theo tinh thần Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị thì Toà án phúc thẩm

là Toà án xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án.

Gọi là “Toà án phúc thẩm” nhưng không chỉ xét xử phúc thẩm mà còn xét

xử cả sơ thẩm, tên gọi như vậy xét về ngữ nghĩa là không hợp lý, nhưng nếu

gọi là Toà án cấp tỉnh thì lại càng không được vì như vậy không đúng với tinh

thần Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp là tổ chức Toà án

theo thẩm quyền xét xử chứ không theo đơn vị hành chính. Để tránh xáo trộn

về tên gọi các cấp Toà án, có thể chỉ đổi tên gọi “Toà án phúc thẩm” thành

“Toà án trung cấp”, còn các Toà án khác vẫn gọi như tinh thần Nghị quyết số

49 của Bộ Chính trị. Như vậy, hệ thống Toà án ở nước ta gồm: Toà án sơ thẩm

khu vực, Toà án trung cấp, Toà thượng thẩm và Toà án tối cao.

Về thẩm quyền xét xử thì Toà án này vừa phải xét xử phúc thẩm những vụ

án mà bản án của Toà án sơ thẩm khu vực xét xử sơ thẩm có kháng cáo, kháng

nghị, vừa phải xét xử sơ thẩm một số vụ án theo quy định của pháp luật. Và,

68

nếu xét về thẩm quyền xét xử thì Toà án trung cấp (Toà án phúc thẩm) sau khi

được cải cách sẽ có thẩm quyền xét xử tương tự như Toà án cấp tỉnh hiện nay.

Vấn đề đặt ra là, việc tổ chức các Toà án trung cấp (Toà án phúc thẩm) như thế

nào cho phù hợp. Có bao nhiêu Toà án phúc thẩm trên phạm vi cả nước? Mỗi

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức một Toà án phúc thẩm hay có

thể 2 hoặc 3 tỉnh, thành phố tổ chức một Toà án phúc thẩm, hoặc ở các thành

phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh có thể tổ chức 2 hoặc 3 Toà án

phúc thẩm? Việc tổ chức Toà án trung cấp (Toà án phúc thẩm) cũng phải bảo

đảm nguyên tắc là không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Do đó, không nhất

thiết mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức một Toà án phúc thẩm,

mà tuỳ thuộc vào số lượng vụ án của Toà án sơ thẩm khu vực và phạm vi địa

bàn để tổ chức Toà án trung cấp (Toà án phúc thẩm); có thể tổ chức một Toà án

trung cấp (Toà án phúc thẩm) trên một địa bàn giáp ranh 2 hoặc 3 tỉnh để xét

xử phúc thẩm các vụ án của 7 hoặc 9 Toà án sơ thẩm khu vực đã xét xử sơ

thẩm nhưng có kháng cáo, kháng nghị và xét xử sơ thẩm một số vụ án theo

thẩm quyền được giao. Ví dụ: ở thành phố Bắc Ninh có thể tổ chức một Toà án

trung cấp (Toà án phúc thẩm) để xét xử phúc thẩm các vụ án của 7 Toà án sơ

thẩm khu vực, trong đó có Toà án sơ thẩm khu vực nằm trên địa bàn quận

Long Biên, huyện Gia Lâm, huyện Đông Anh của thành phố Hà Nội, chứ

không nhất thiết chỉ xét xử phúc thẩm các vụ án của Toà án sơ thẩm khu vực

nằm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

3.1.3. Đối với Toà thượng thẩm

Theo Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị thì Toà thượng thẩm được tổ

chức theo khu vực chỉ có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm. Về vị trí, vai trò và

thẩm quyền của Toà thượng thẩm cũng tương tự như Toà phúc thẩm Toà án

nhân dân tối cao hiện nay. Việc tổ chức các Toà thượng thẩm theo tinh thần

Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị không có gì vướng mắc.

69

3.1.4. Đối với Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao

Theo Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị thì Toà án nhân dân tối cao có

nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp

luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Thực tế trong thời

gian vừa qua, Toà án nhân dân tối cao đã bước đầu “phát triển án lệ” bằng

hình thức cho xuất bản ấn phẩm “quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án

nhân dân tối cao”.

Để thực hiện tốt vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Toà án nhân dân

tối cao theo tinh thần Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị trong chiến lược cải

cách tư pháp, thì vấn đề quan trọng bậc nhất là tổ chức lại các Toà chuyên trách

thuộc Toà án nhân dân tối cao và các đơn vị giúp việc. Hiện nay, nhiệm vụ

tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát

triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án do nhiều đơn vị đảm

nhiệm như: Các Toà chuyên trách (Toà hình sự, Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà

hành chính và Toà lao động), Ban Thanh tra, Ban Thư ký, Viện Khoa học xét

xử. Tuy nhiên, công tác giám đốc việc xét xử các vụ án mà bản án đã có hiệu

lực pháp luật và hướng dẫn Toà án các cấp áp dụng thống nhất pháp luật đối

với các vụ án cụ thể, chủ yếu do các Toà chuyên trách đảm nhiệm có sự phối

hợp với các đơn vị liên quan. Riêng đối với Toà hình sự Toà án nhân dân tối

cao có một đặc thù mà các Toà chuyên trách khác không có, đó là phải

thường xuyên phối hợp với Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ

Quốc phòng trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.

3.2. Hoàn thiện các quy định về địa vị pháp lý của các chức danh tư pháp

Xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước theo mô hình Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đặt ra yêu cầu cấp bách trong kiện Toàn

hệ thống các cơ quan nhà nước nói chung, trong đó có nhiệm vụ quan trọng là

70

hoàn thiện các cơ quan tư pháp và nâng cao địa vị Pháp lý của các chức danh

tư pháp, đặc biệt là Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án.

Trước hết, phải xác định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của

từng chức danh tư pháp, tách quan hệ hành chính ra khỏi quan hệ nghiệp vụ,

xác định rất rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của người lãnh đạo cơ quan

tư pháp về quản lý hành chính - tư pháp.

Đối với Thẩm phán và lãnh đạo Toà án nơi thẩm phán làm việc, việc

phân định rõ ràng quan hệ quản lý hành chính tư pháp và nghiệp vụ xét xử là

một đòi hỏi cấp bách hiện nay nhằm đảm bảo sự độc lập của Thẩm phán theo

nguyên tắc Hiến định đồng thời tăng cường địa vị Pháp lý của Thẩm phán.

Cần có quy định cụ thể xác định rõ ràng chức trách của Chánh án Toà án

nhân dân, Phó chánh án Toà án nhân dân, các Chánh, Phó Chánh Toà với tư

cách người thực hiện quyền quản lý hành chính tư pháp đối với hoạt động của

Toà án và tư cách thẩm phán về các phương diện: phân công thẩm phán, giải

quyết các khiếu nại, tố cáo về hành chính và tố tụng. Chức năng, nhiệm vụ

quyền hạn của Thẩm phán là độc lập trong hoạt động tố tụng đối với vụ án,

vụ việc được phân công.

- Về tiêu chuẩn Thẩm phán:

Cần thiết phải có quy định, người được bổ nhiệm làm Thẩm phán, ngoài

các tiêu chuẩn về chuyên môn, đạo đức, nhất thiết phải là người đã trúng

tuyển kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán quốc gia. Để thực hiện, cần thiết thành

lập Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia thay thế các Hội đồng

tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân

cấp tỉnh và Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện như hiện hành. Về thành

phần Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia, cần có đại diện

lãnh đạo Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ mới phù hợp. Đối với Thẩm phán Toà án

nhân dân tối cao, cần có điều kiện bổ nhiệm cụ thể, chặt chẽ theo đúng định

hướng Kết luận số 79 ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị, theo đó, Thẩm phán

71

Toà án nhân dân tối cao phải là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có

kinh nghiệm xét xử và uy tín cao trong xã hội [22].

- Đối với chức danh Thư ký Toà án nhân dân:

Với vai trò người tiến hành tố tụng, Thư ký Toà án là Lục sự, giúp việc

Thẩm phán và lãnh đạo Toà án trong một số công việc được giới hạn bởi bản

chất vị trí pháp lý thực thi tố tụng với tính chất kỹ thuật hơn là những hoạt

động tố tụng về nội dung. Chính vì thế, vai trò của họ là quản lý hồ sơ, ghi

chép trung thực các biên bản làm việc, biên bản phiên Toà, cung cấp hồ sơ để

những người tham gia tố tụng khác nghiên cứu, sao chụp các tài liệu, các văn

bản và gửi các tài liệu đó đến các địa chỉ cần thiết để chuẩn bị cho việc mở

phiên Toà…

3.3. Đổi mới chế định Hội thẩm

Vị trí, vai trò của Hội thẩm được quy định trong Hiến pháp năm 2013.

Việc đổi mới tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân đòi hỏi có sự đổi mới cơ

chế tổ chức, hoạt động của Hội thẩm nhân dân theo hướng tăng cường lựa

chọn và bầu Hội thẩm nhân dân trong số những người có uy tín trong cộng

đồng dân cư, hạn chế lựa chọn trong cán bộ, công chức, đề cao tính tự quản

của các Hội thẩm được bầu thông qua Đoàn Hội thẩm, đề cao trách nhiệm của

Mặt trận Tổ quốc phối hợp với Tòa án nhân dân trong việc khen thưởng, kỷ

luật Hội thẩm; không nên quy định Tòa án quản lý Hội thẩm nhân dân như

quản lý đối với Thẩm phán (như phân công Hội thẩm xét xử các vụ án, đề

nghị khen thưởng, kỷ luật, cấp trang phục, quản lý phương tiện làm việc...).

Đồng thời cần xác định lại thẩm quyền và trách nhiệm của Hội thẩm khi tham

gia xét xử cho phù hợp với quy định của Hiến pháp mới. Cần có giải pháp

nâng cao địa vị Pháp lý chính là nâng cao trách nhiệm của chủ thể này, trên

cơ sở đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng xét xử cho Hội thẩm.

72

3.4. Đổi mới công tác quản lý cán bộ

Tiếp tục hoàn chỉnh thể chế quản lý đội ngũ cán bộ, công chức và Thẩm

phán trên cơ sở tổng kết, đánh giá và căn cứ vào các quy định của Đảng, Nhà

nước về công tác cán bộ và đặc thù của ngành Tòa án nhân dân. Xây dựng cơ

cấu, vị trí việc làm đối với từng đơn vị, từng Tòa án gắn với việc xây dựng Bộ

tiêu chuẩn các loại chức danh công chức ngành Tòa án nhân dân (bao gồm:

công chức có chức danh tư pháp; công chức nghiên cứu và chuyên gia; các

chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành Toà án; cán bộ, công chức hành

chính tư pháp và cán bộ, công chức khác). Tăng cường xây dựng và thực hiện

nghiêm túc các Quy chế trong công tác cán bộ: về đánh giá cán bộ, về tuyển

chọn cán bộ, về bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ; về quy hoạch cán bộ; về luân

chuyển cán bộ; về chế độ học tập của cán bộ; về chế độ kiểm tra, về bảo vệ

chính trị nội bộ, về phân công, phân cấp, quản lý cán bộ;... bảo đảm sự gắn kết

giữa các khâu trong công tác cán bộ; đổi mới cơ chế, phương pháp, nội dung

và hình thức tuyển dụng, lựa chọn công chức phù hợp với việc kết hợp hệ

thống chức nghiệp (việc làm gắn với năng lực làm việc của cán bộ, công chức).

Xây dựng kế hoạch đảm bảo đủ số lượng cán bộ, công chức cho các Tòa

án trong đó cần tính đến các yếu tố đặc thù của từng vùng miền; xây dựng và

thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ, công chức ngành Tòa án. Theo đó, tổ

chức rà soát việc bố trí, sắp xếp, sử dụng công chức, đưa ra nhận định, đánh

giá về thực trạng cán bộ (Nội dung rà soát bao gồm các thông tin về thực

trạng đội ngũ cán bộ, đánh giá công chức: về độ tuổi, giới tính, dân tộc, trình

độ văn hóa, trình độ chuyên môn, thời gian công tác, nhu cầu đào tạo, bồi

dưỡng… Và định hướng bố trí, sử dụng những cán bộ không đáp ứng được

yêu cầu công việc trong thời gian tới) nhằm bảo đảm sự công tâm, khách

quan, phù hợp với năng lực, sở trường của công chức và vì mục đích chung

của ngành. Trên cơ sở đó, thực hiện cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức theo

73

yêu cầu tăng cường chất lượng, bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa các chức danh

lãnh đạo quản lý và các ngạch công chức, giữa các độ tuổi, địa bàn, lĩnh vực

công tác; tăng cường cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số, gia

đình có công với cách mạng; khắc phục tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ.

Chủ động bố trí, sắp xếp công chức có năng lực, triển vọng đảm nhiệm các

công việc để có điều kiện học tập, thử thách, rèn luyện, phấn đấu và tự khẳng

định, nhất là đối với diện quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ có

chức danh tư pháp; bảo đảm kết hợp kế tiếp các thế hệ, độ tuổi. Kiên quyết

thay thế những công chức lãnh đạo, nhất là đội ngũ Chánh án, Phó Chánh án

trì trệ yếu kém, thường xuyên để xảy ra tham nhũng, tiêu cực, mất đoàn kết

nội bộ cơ quan.

Tăng cường công tác quản lý cán bộ, bao gồm nắm chắc tư tưởng chính

trị phẩm chất, đạo đức, lối sống đối với đội ngũ cán bộ, công chức và Thẩm

phán Tòa án các cấp. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua thực hiện lời dạy

của Bác Hồ đối với cán bộ Tòa án “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư với

phương châm “Gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”. Tổ chức thực hiện tốt

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI gắn với việc học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh trong ngành Toà án nhân dân với chủ đề “Nâng

cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán,

cán bộ, công chức ngành Toà án nhân dân”.

Kết hợp tốt giữa các phương pháp và hình thức quản lý nhằm sử dụng có

hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức và Thẩm phán. Quán lý cán bộ là khâu

công tác giữ vai trò quyết định trong công tác cán bộ của Đảng, bao gồm hai

phần việc quan hệ chặt chẽ với nhau: quản lý Toàn bộ đội ngũ cán bộ và quản

lý ứng người cán bộ; quản lý cán bộ phải gắn với công tác kiểm tra, giám sát.

Do đó, cần xây dựng và thực hiện nghiêm túc chế độ trách nhiệm đối với cán

bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ, công vụ; đổi mới chế độ kỷ luật và xử

74

lý vi phạm đối với cán bộ, công chức; xây dựng chế độ thanh tra công vụ.

Hoàn chỉnh các quy định về quyền hạn, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng

và người đứng đầu các cấp trong giáo dục, quản lý cán bộ. Tăng cường công

tác kiểm tra của cấp ủy cấp trên đối với cấp dưới. Kịp thời kiểm tra, kết luận

các vụ việc có liên quan đến cán bộ; về cán bộ có vấn đề lịch sử chính trị

hoặc chính trị. Xử lý nghiêm minh những tập thể và cá nhân có sai phạm

trong quản lý, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ.

Từng đơn vị, từng cá nhân phải thấm nhuần, tu dưỡng, rèn luyện phẩm

chất, đạo đức, lối sống và tự xây dựng kế hoạch hành động cho đơn vị, cá

nhân, phát huy tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình; kiên quyết đấu

tranh với các hành vi tham nhũng, tiêu cực và thực hành tiết kiệm, chống lãng

phí; tích cực tham gia, hưởng ứng Cuộc vận động học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh do Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao

phát động trong Toàn ngành, với chủ đề “Nâng cao phẩm chất, năng lực đội

ngũ cán bộ, công chức và Thẩm phán ngành Tòa án nhân dân”.

3.4.1. Tiếp tục đổi mới cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán

3.4.1.1. Về thủ tục giới thiệu, phê chuẩn, bổ nhiệm Thẩm phán Toà án

nhân dân tối cao

Về nguyên tắc, thủ tục giới thiệu, phê chuẩn, bổ nhiệm Thẩm phán Toà

án nhân dân tối cao là vấn đề rất quan trọng, vì vậy cần phải được quy định

cụ thể trong Luật, nhất là cần làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng tuyển

chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia đối với việc tuyển chọn, giới thiệu, phê

chuẩn, bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Việc tuyển chọn người

đủ tiêu chuẩn, điều kiện làm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao để đề nghị

Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch nước bổ nhiệm theo Hiến pháp nhất thiết

phải qua Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia để bảo đảm

khách quan, chặt chẽ, thận trọng.

75

3.2.1.2. Đối với quy định về tuổi làm việc của Thẩm phán

Nghề Thẩm phán rất cần yếu tố kinh nghiệm nghề nghiệp. Vì vậy việc

đồng nhất tuổi nghỉ hưu bắt buộc của Thẩm phán như người lao động khác là

không hợp lý. Cần kéo dài thời làm việc của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối

cao, cụ thể đối với nam làm việc không quá 65 tuổi và nữ làm việc không quá

60 tuổi. Đồng thời, quy định rõ Thẩm phán được kéo dài tuổi nghỉ hưu nhưng

không đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo. Ở nhiều nước không quy định tuổi nghỉ

hưu đối với Thẩm phán, Thẩm phán có thể làm việc cho đến khi không còn

sức khỏe để đáp ứng nhu cầu công việc.

Điều 74 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 quy định: “Nhiệm kỳ

đầu của các Thẩm phán là 05 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được

bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm”. Có

thể hiểu nhiệm kỳ của Thẩm phán là khoảng thời gian từ khi quyết định bổ

nhiệm Thẩm phán có hiệu lực đến khi hết thời hạn bổ nhiệm theo quy định.

Thời hạn bổ nhiệm Thẩm phán theo quy định của Luật Tổ chức Toà án

nhân dân năm 2014 có hai loại: 05 năm và 10 năm. Thời hạn bổ nhiệm lần

đầu hay còn gọi là nhiệm kỳ đầu của Thẩm phán là 05 năm. Thời hạn bổ

nhiệm lần tiếp theo hay còn gọi tái bổ nhiệm là 10 năm. Đối với loại thời hạn

của nhiệm kỳ 10 năm còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Xung quanh vấn đề

này, hiện nay có 02 quan điểm:

Quan điểm thứ nhất: Nhiệm kỳ đầu của Thẩm phán được hiểu là nhiệm

kỳ đầu tiên được bổ nhiệm làm Thẩm phán. Trường hợp hết nhiệm kỳ và

được xem xét, bổ nhiệm lại (hay còn gọi là tái bổ nhiệm) vào ngạch Thẩm

phán cũ hoặc bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán mới (bất kể ngạch nào trong 04

ngạch Thẩm phán: Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao

cấp, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm.

Quan điểm thứ hai: Nhiệm kỳ đầu được hiểu là nhiệm kỳ của Thẩm phán

76

được bổ nhiệm vào một ngạch Thẩm phán nhất định (Thẩm phán sơ cấp,

Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp, Thẩm phán Toà án nhân dân tối

cao), là lần đầu tiên được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán này. Khi hết nhiệm

kỳ và được xem xét, bổ nhiệm lại vào ngạch Thẩm phán cũ thì nhiệm kỳ là 10

năm. Còn nếu được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ là 05

năm. Vì đây là ngạch Thẩm phán được bổ nhiệm lần đầu, coi như đã chuyển

sang ngạch Thẩm phán khác, là nhiệm kỳ đầu của Thẩm phán ở ngạch Thẩm

phán mới. Khi hết nhiệm kỳ của ngạch Thẩm phán này và được xem xét bổ

nhiệm lại vào chính ngạch Thẩm phán đó thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm.

Tác giả nghiêng về quan điểm thứ nhất. Bởi lẽ, nhiệm kỳ của Thẩm phán

được biểu là nhiệm kỳ gắn với một người cụ thể nào đó, chứ không phải gắn với

ngạch Thẩm phán. Không có văn bản nào quy định hoặc giải thích nhiệm kỳ của

Thẩm phán là nhiệm kỳ của ngạch Thẩm phán. Hiểu như vậy là không đúng với

tinh thần quy định tại Điều 74 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014.

Thiết nghĩ, để có cách hiểu thống nhất về nhiệm kỳ của Thẩm phán, cần

có văn bản giải thích của cơ quan có thẩm quyền. Việc giải thích có ý nghĩa

rất quan trọng, là cơ sở để thực hiện thống nhất trong cả nước quy định về

nhiệm kỳ của Thẩm phán. Nhất là trong điều kiện hiện nay, thi hành Luật Tổ

chức Toà án nhân dân năm 2014, có rất nhiều Thẩm phán được bổ nhiệm lần

đầu, bổ nhiệm lại, bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán mới. Song quyết định bổ

nhiệm Thẩm phán chỉ ghi “bổ nhiệm có thời hạn” mà không ghi thời hạn bổ

nhiệm đến ngày nào. Vì vậy, để biết khi nào một Thẩm phán hết nhiệm kỳ, có

được thực hiện nhiệm vụ xét xử nữa hay không, cần có văn bản giải thích

chính thức của cơ quan có thẩm quyền về nhiệm kỳ của Thẩm phán, làm cơ

sở pháp lý giúp cho công tác bổ nhiệm Thẩm phán được chặt chẽ, tránh tình

trạng một việc có nhiều cách hiểu khác nhau; đồng thời giúp các Thẩm phán

nắm bắt chính xác thời hạn bổ nhiệm để thực hiện nhiệm vụ xét xử. Bởi vì,

77

kết quả hoạt động xét xử của Thẩm phán có tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến

quyền cơ bản của con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,

cá nhân được quy định trong Hiến pháp và pháp luật.

3.2.1.3. Về quy trình nguồn tuyển chọn Thẩm phán

Nguồn tuyển chọn Thẩm phán các cấp nhất thiết phải theo trật tự nhằm

tạo cơ chế để Thẩm phán rèn luyện, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm xét xử.

Theo đó, đã là Thẩm phán cấp huyện mới được bổ nhiệm Thẩm phán cấp

tỉnh, đã là Thẩm phán cấp tỉnh mới bổ nhiệm Thẩm phán tối cao. Thành phần

Hội đồng tuyển chọn bổ nhiệm hiện nay cũng cần thay đổi cho phù hợp, nên

bổ sung thêm có đại diện cơ quan tổ chức Đảng - chính quyền và một số thẩm

phán, luật sư có kinh nghiệm, uy tín trong giới, trong xã hội. Người được bổ

nhiệm phải tuyên thệ trước Quốc kỳ, Quốc huy và trước mỗi phiên Toà khi

xét xử các vụ án.

3.4.2. Về chế độ khen thưởng và kỷ luật

Việc khen thưởng và kỷ luật đối với thẩm phán phải quy định thành chế

độ riêng cho phù hợp với nhiệm kỳ Thẩm phán cũng như đặc thù chức danh

nghề nghiệp. Cùng với chế độ khen thưởng là trách nhiệm pháp lý của Thẩm

phán cũng được quy định rõ ràng, xác định hệ thống các hành vi Thẩm phán

không được làm, các quan hệ mà Thẩm phán không được tham gia, kê khai

thu nhập của Thẩm phán và gia đình họ. Cùng với đó hình thức kỷ luật, cơ

chế xem xét kỷ luật cũng cần có những điểm đặc thù, khác với cán bộ, công

chức nói chung, với yêu cầu chung là công khai, minh bạch, không được khép

kín, mang tính nội bộ. Tóm lại, cần minh bạch hoá các barie để Thẩm phán

chỉ và được quyền thực hiện trong hành lang pháp lý an Toàn.

3.4.3. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức ngành

Tòa án

Nhằm đáp ứng với tiêu chuẩn chức danh và thực hiện có hiệu quả nhiệm

78

vụ được giao, phải thực sự có quyết tâm đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng

nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ngành Tòa án. Lựa

chọn, đào tạo phát triển nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức phải

trên cơ sở gắn với Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020 của Đảng, tập

trung đổi mới và hoàn thiện việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức ở trong nước và chú trọng việc đưa cán bộ, công chức trong diện quy

hoạch nguồn đi đào tạo ở các cơ sở đào tạo có uy tín của các quốc gia trên thế

giới nhằm tận dụng, khai thác thế mạnh về đào tạo bến thức chuyên môn sâu

với kỹ năng nghề nghiệp, sử dụng tốt ngoại ngữ, tin học. Thực hiện phân

công, phân cấp rõ ràng, rành mạch thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp Tòa

án đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng, giữa Tòa án với các cơ quan hữu quan

giữa cơ quan chủ trì với cơ quan phối hợp, bảo đảm phối hợp chặt chẽ, đồng

bộ giữa các cơ quan, giữa các cấp, giữa các chương trình xây dựng, nâng cao

chất lượng Toàn diện đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án.

Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng trang bị kiến thức phù hợp với yêu cầu

công việc, bảo đảm đảo tạo, bồi dưỡng vừa rộng, vừa chuyên sâu kết hợp

giữa lý thuyết với kỹ năng nghiệp vụ Tòa án và bám sát yêu cầu nhiệm vụ

chính trị của ngành đối với đội ngũ cán bộ, công chức. Trên cơ sở đó, đổi mới

mạnh mẽ về nội dung, chương trình, đội ngũ giảng viên, cơ chế tổ chức đào

tạo, bồi dưỡng và đầu tư có trọng tâm, trọng điểm về cơ sở vật chất, kinh phí

cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức. Đồng thời, cần

tăng cường sự quan tâm phối kết hợp giữa các cơ quan tòa án với chính quyền

địa phương trong đào tạo bồi dưỡng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức.

3.4.4. Đổi mới chế độ đãi ngộ

Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức ngành Tòa án là một trong những

khâu quan trọng để tạo dựng nên đội ngũ nhân lực chất lượng cao của ngành.

Có thể nói, chính sách tiền lương cao đối với cán bộ, công chức là một

79

vấn đề chính trị - kinh tế và xã hội của đất nước trong thời kỳ phát triển

nhanh và bền vững, đây là động lực cơ bản, khuyến khích sự làm việc tận tụy,

trung thành và hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức và là cơ sở nâng cao

chất lượng nền công vụ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

và hội nhập quốc tế của đất nước. Trên cơ sở kế thừa những ưu điểm của cải

cách tiền lương năm 1960, 1985, 1993 và các nhiệm vụ cải cách tư pháp “cần

có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động của cán

bộ tư pháp”. Do đó, những vấn đề đặt ra trong cải cách chế độ tiền lương và

chính sách đãi ngộ đặc thù đối với cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân

giai đoạn từ nay đến năm 2020, cần bảo đảm thể chế hóa đầy đủ, đúng tinh

thần trong các chủ trương, văn kiện của Đảng: “Coi việc trả lương đúng cho

người lao động là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực để phát triển

kinh tế và nâng cao chất lượng dịch vụ công, góp phần làm trong sạch và

nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước” và đáp ứng các

yêu cầu cải cách tư pháp về đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa

án nhân dân. Chế độ tiền lương của cán bộ, công chức hệ thống Tòa án phải

bảo đảm ở mức thu nhập khá trong xã hội.

Cùng với cải cách chính sách về tiền lương, căn cứ vào Chương trình cải

cách tổng thể hành chính nhà nước, ngành Tòa án nhân dân cần thực hiện tốt

Kế hoạch đẩy mạnh chế độ công vụ, công chức. Cần tập trung vào việc xây

dựng và tổ chức thực hiện các quy định, quy chế trong công tác tổ chức cán

bộ; xác định Danh mục vị trí việc làm và Bộ tiêu chuẩn các chức danh công

chức ngành Tòa án nhân dân; xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút,

trọng dụng, bồi dưỡng và đãi ngộ đối với công chức có tài năng trong hoạt

động công vụ… bảo đảm sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức và

thu hút người có tài năng vào cơ quan Toà án.

80

3.5. Đổi mới hệ thống các cơ quan xét xử gắn liền với việc đổi mới

một số cơ quan tiến hành tố tụng khác

Mục đích của việc đổi mới hệ thống Toà án là đảm bảo công lý cho các

quyết định xét xử của Toà án, những quyết định đơn giản không chỉ phụ

thược vào bản thân hệ thống các Toà án, mà còn phụ thuộc vào nhiều khâu

trong quá trình tố tụng cho các cơ quan, các tổ chức khác tiến hành, trước hết

là hoạt động buộc tội của cơ quan điều tra và buộc tội.

Cùng với việc tổ chức lại hệ thống Toà án các cấp, thì Nghị quyết số 49-

NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị cũng chỉ rõ: “Viện kiểm sát nhân

dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án. Nghiên cứu việc

chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công

tố trong hoạt động điều tra”. Tuy nhiên, khác với hệ thống Toà án, Nghị quyết

số 49 nêu cụ thể mô hình và tên gọi của Toà án các cấp, còn đối với Viện

kiểm sát, Nghị quyết số 49 chỉ nêu “được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ

chức của Toà án”. Như vậy, việc tổ chức Viện kiểm sát như thế nào cho phù

hợp với hệ thống Toà án là một vấn đề rất quan trọng.

Tính phù hợp giữa Viện kiểm sát với hệ thống tổ chức của Toà án không

có nghĩa là Toà án có mấy cấp thì Viện kiểm sát cũng có bấy nhiêu cấp, mà vấn

đề quan trọng là tổ chức Viện kiểm sát như thế nào để có thể đáp ứng được yêu

cầu của việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Một khi hệ thống Toà án đã được

tổ chức theo cấp xét xử, thì Viện Kiểm sát cũng phải được tổ chức và hoạt

động theo thẩm quyền truy tố song song với thẩm quyền xét xử của các Toà án.

Các cơ quan thi hành án thuộc nhánh quyền hành pháp, nhưng sẽ do Bộ

Công an, Bộ Tư pháp hay Chính phủ trực tiếp quản lý đang là vấn đề đặt ra

hiện nay. Theo tác giả, phương án tối ưu là vẫn nên để Bộ Công an quản lý. Thi

hành án là lĩnh vực có tính cưỡng chế bắt buộc, lực lượng vũ trang nhân dân là

ứng cử thích hợp cho hoạt động này. Thi hành án cũng là hoặc tương tự như

81

việc thực thi các đạo luật, vì bản thân bản án cũng có hiệu lực thực thi từ phía

các chủ thể lĩnh trách nhiệm thi hành, nhưng tổ chức việc thi hành vẫn là của

các cơ quan hành pháp. Việc bộ phận này hay bộ phận kia tổ chức thực thi cấc

bản án, phần nhiều do sự phân công của các cơ quan hành pháp. Vấn đề là ở

đâu trực thuộc bộ nào thì thuận tiện hơn cho công tác quản lý và thực thi, miễn

là nó không hoàn Toàn vượt ra khỏi lĩnh vực hành pháp [26,371].

Sự thành công trong hoạt động của các cơ quan tư pháp không chỉ phụ

thuộc vào bản thân các cơ quan tư pháp, mà còn liên quan phụ thuộc đến nhiều

cơ quan, tổ chức khác nhau, trước hết và nhất là đối với các cơ quan bổ trợ tư

pháp. Các hoạt động bổ trợ tư pháp cũng phải được cải cách và hoàn thiện góp

phần nâng cao hiệu quả xét xử của Toà án, đặc biệt là hoạt động luật sư trong

quá trình chuyển từ tố tụng xét hỏi sang tố tụng tranh tụng công khai tại phiên

Toà. Luật sư là một trong ba trụ cột cơ bản để duy trì nền pháp quyền và bảo

đảm việc bảo vệ có hiệu quả quyền con người. Để thực hiện các quyền và trách

nhiệm nghề nghiệp của minh, luật sư cũng phải độc lập, tự do không bị bất kỳ

áp lực chính trị hoặc các áp lực khác, không bị đe doạ, quấy rầy,... Luật sư

không buộc phải có giấy phép của các cơ quan hành chính để thực hiện các

nghĩa vụ nghề nghiệp của mình; được bảo đảm về thủ tục đúng đắn trong việc

tư vấn và hỗ trợ cho thân chủ để bảo vệ quyền lợi của họ.

Ngoài ra, việc đơn giản hoá các thủ tục pháp lý nhằm làm tăng hiệu quả

hoạt động xét xử, tăng khả năng người dân có thể tiếp cận Toà án hơn.

Cấu trúc hệ thống Toà án có thể được thay đổi bằng việc tạo ra các Toà án

chuyên trách. Các Toà án này được chuyên môn hoá theo từng vấn đề hoặc

theo quy mô của vụ kiện. Các vụ việc nhỏ và đơn giản có thể được xét xử theo

thủ tục rút gọn, Tất cả những hình thức này đều có khả năng cho việc tăng

cường sự tiếp cận tư pháp của người dân, mà không mất đi tính chính xác khi

thụ lý vụ việc [26,372].

82

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Tóm lại, mục đích cao nhất của việc xét xử vụ án là khách quan, đúng

pháp luật. Muốn vậy, hoạt động xét xử phải được định hướng, chỉ đạo bằng

những nguyên tắc hiến định, trong đó nguyên tắc đặc trưng nhất bảo đảm cho

việc xét xử khách quan, chính xác được ghi nhận trong hầu hết pháp luật các

nước trên thế giới là nguyên tắc “độc lập xét xử”. Theo đó, yêu cầu của

nguyên tắc là các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và những

người tham gia tố tụng phải tôn trọng, thực hiện. Để nâng cao hiệu quả của

việc thực hiện nguyên tắc cần có những giải pháp đồng bộ, khả thi nhằm đổi

mới tổ chức, hoạt động của Tòa án để thực hiện quyền tư pháp, nâng cao năng

lực xét xử, bảo đảm tính độc lập của Thẩm phán trong xét xử. Đây là một

trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu của công cuộc xây dựng, hoàn thiện

Nhà nước pháp quyền theo tinh thần của Hiến pháp. Việc đổi mới cơ chế

quản lý tòa án cần quán triệt các nguyên tắc, các quan điểm chỉ đạo việc cải

cách bộ máy nhà nước và các cơ quan tư pháp, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc

những thành tựu đã đạt được của Việt nam và thế giới. Đặc biệt là việc thực

hiện các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, nhất là Nghị quyết số 49-

NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020.

Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam là một nhiệm vụ cơ bản, quan trọng và lâu dài của hệ thống chính trị. Để

đạt được mục tiêu này yêu cầu phải nhận thức một cách Toàn diện về quyền

tư pháp, nâng cao vị thế của quyền tư pháp, của Tòa án, của Thẩm phán và

Hội thẩm. Có như vậy, nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật” mới có ý nghĩa và được bảo đảm một cách

đích thực.

83

KẾT LUẬN

Qua quá trình phát triển từ ngày thành lập đến nay, tổ chức, hoạt động

của ngành tòa án nhân dân đã không ngừng đổi mới, từng bước được hoàn

thiện củng cố, về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu thực hiện chức năng,

nhiệm vụ theo luật định. Từng bước hệ thống tổ chức, bộ máy cơ quan tòa án

các cấp đã đi vào ổn định, hoạt động theo một quy trình đồng bộ, thống nhất,

đạt hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi

ích hợp pháp của nhà nước cũng như các quyền, tự do dân chủ của công dân.

Tuy nhiên qua quá trình hoạt động và trước những yêu cầu nhiệm vụ mới

của việc xây dựng nhà nước pháp quyền, việc quản lý tổ chức và hoạt động

của tòa án nhân dân đã bộc lộ rõ một số điểm bất cập chưa hợp lý, đòi hỏi

phải được đổi mới, điều chỉnh cho phù hợp nhằm thực hiện các nhiệm vụ và

yêu cầu mới. Đổi mới mô hình quản lý tòa án là một vấn đề có ý nghĩa hết

sức đặc biệt quan trọng trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, đây không

chỉ là một đòi hỏi khách quan và cấp thiết để đáp ứng yêu cầu xây dựng nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế mà

còn là vấn đề đòi hỏi của việc đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức và

hoạt động của bộ máy nhà nước và công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa Việt nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, bảo

đảm một cách tốt nhất các quyền, tự do, dân chủ của công dân.

Đổi mới tổ chức, hoạt động của Tòa án để thực hiện quyền tư pháp, nâng

cao năng lực xét xử, bảo đảm tính độc lập của Thẩm phán trong xét xử là một

trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu của công cuộc xây dựng, hoàn

thiện Nhà nước pháp quyền theo tinh thần của Hiến pháp. Để thực hiện được

điều đó, đòi hỏi hàng loạt giải pháp mà giải pháp quan trọng nhất là đổi mới

mô hình quản lý Tòa án. Việc đổi mới mô hình quản lý tòa án cần quán triệt

các nguyên tắc, các quan điểm chỉ đạo việc cải cách bộ máy nhà nước và các

84

cơ quan tư pháp, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những thành tựu đã đạt được

của Việt nam và thế giới. Đặc biệt là việc thực hiện các Nghị quyết của Đảng

về cải cách tư pháp, nhất là Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ

chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Qua nghiên cứu luận

văn có thể rút ra những kết luận sau:

1. Tòa án là một bộ phận rất quan trọng không thể thiếu được trong bất

kỳ nhà nước nào.

2. Làm rõ một số vấn đề chung về mô hình quản lý Tòa án nhân dân. 3. Đưa ra những nhận xét, đánh giá về mô hình quản lý tòa án nhân dân

hiện nay với yêu cầu bảo đảm thực hiện quyền tư pháp và tính độc lập trong

xét xử.

4. Đưa ra một số giải pháp hoàn thiện quản lý Toà án nhân dân nhằm bảo

đảm thực hiện quyền tư pháp và tính độc lập trong xét xử.

Với những nội dung mà luận văn đề cập, hy vọng sẽ đóng góp một phần

vào việc thực hiện thành công đổi mới quản lý mô hình tòa án đáp ứng yêu

cầu của cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Đồng thời, hi vọng rằng luận văn

có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học, những

người làm thực tiễn và công tác nghiên cứu, giảng dạy.

85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (Sửa

đổi năm 2013), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

3. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 (Sửa đổi), Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

4. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002. 6. Pháp lệnh Tổ chức Tòa án quân sự 2002. 7. Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự của Hội đồng nhà nước số 19-

LCT/HĐNN7 ngày 21/12/1985.

8. Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2006), Tài liệu hội nghị cán bộ Toàn quốc

tổng kết nghị quyết 08/NQ-TW và triển khai thực hiên nghị quyết 49-

NQ/TW của bộ chính trị về công tác tư pháp.

9. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 Về một số

nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới.

10. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 Về chiến

lược cải cách tư pháp dến năm 2020.

11. Chỉ thị số 03/2016/CT-CA ngày 04/4/2016 của Chánh án Toà án nhân

dân tối cao về việc tăng cường thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư

pháp tại Tòa án.

12. Các Mác, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, tập 1. 13. V.I. Lê nin, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, tập 27. 14. Đào Trí Úc (2002), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam

hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

15. Đào Trí Úc (2015), Giáo trình nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc

gia Hà Nội.

86

16. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2005), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải

cách hệ thống Tòa án Việt nam theo định hướng xây dựng nhà nước

pháp quyền, Luận án tiến sỹ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội.

17. Hoàng Thị Kim Quế (2006), Nhận diện nhà nước pháp quyền - Khoa

luật 30 năm truyền thống, Nxb Công an nhân dân.

18. Lê Cảm (2006), Quyền tư pháp, hệ thống tư pháp, cơ quan tư pháp và

cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền - Khoa

luật 30 năm truyền thống, Nxb Công an nhân dân.

19. Hoàng Văn Hảo (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước và pháp luật.

20. Lê Cảm (2006), Những vấn đề chủ yếu của công cuộc cải cách tư pháp

trong giai đoạn xây dựng nhà nước Việt Nam, Tòa án nhân dân tối cao. 21. Lê Hồng Quang (2015), Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị, Luật

tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 - Những điểm mới và yêu cầu đặt ra

đối với việc thực thi, Tạp chí Pháp luật và Phát triển số tháng 3 năm

2015.

22. Lưu Tiến Dũng (2007), Toà án phải độc lập xét xử, Tia sáng (điện tử),

ngày 27 tháng 11 năm 2007.

23. Ngô Cường (2014), Mô hình quản lý Toà án ở một số quốc gia trên

thế giới.

24. Nguyễn Đức Giao (2014), Vụ các vấn đề chung về xây dựng pháp luật,

Bộ Tư pháp, Mô hình quản lý Toà án hiện nay của Việt Nam - những vấn

đề đặt ra trong việc bảo đảm tính độc lập trong xét xử và thực hiện

quyền tư pháp.

25. Nguyễn Đăng Dung (2002), Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy Nhà

nước, NXB Giao thông vận tải.

87

26. Nguyễn Đăng Dung (2012), Toà án Việt Nam trong bối cảnh xây dựng

nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

27. Nguyễn Mạnh Cường (2002), Yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp

quyền đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp,

Nghiên cứu lập pháp (10).

28. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2000), Chuyên đề: Tổng hợp các

kiến nghị khoa học góp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ

quan tư pháp, Thông tin khoa học pháp lý (10+11), Bộ tư pháp.

29. Tạp chí Toà án (2017), Hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu lực và

hiệu quả cao, ngày 17 tháng 11 năm 2017.

30. Uông Chu Lưu (chủ nhiệm đề tài) (2006), Đề tài khoa học cấp Nhà

nước: Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư

pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của tòa án trong nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Hà Nội.

88