VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ THỊ HOÀNG OANH

GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN,

TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2021

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ THỊ HOÀNG OANH

GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính : 838.01.02

Chuyên ngành Mã số NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. NGUYỄN VĂN QUÂN

HÀ NỘI, năm 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ

Luật Hiến pháp và Luật Hành chính về “Giám sát của Hội đồng nhân cấp xã từ

thực tiễn huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam” là hoàn toàn trung thực và không trùng

lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Ngô Thị Hoàng Oanh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN

DÂN CẤP XÃ ............................................................................................................ 7

1.1. Khái quát chung về Hội đồng nhân dân cấp xã.................................................... 7

1.2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã ........................................... 12

1.3. Các yếu tố tác động đến giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã ..................... 20

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

CẤP XÃ TẠI HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM .................................. 24

2.1. Các đặc điểm tự nhiên, kinh tế và xã hội tác động đến hoạt động giám sát

của Hội đồng nhân dân cấp xã ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam ......................... 24

2.2. Tình hình giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã ở huyện Quế Sơn, Quảng

Nam ........................................................................................................................... 25

2.3. Đánh giá chung về thực trạng giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã ở

huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam .............................................................................. 42

CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN

HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM ........................................................... 49

3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân

cấp xã......................................................................................................................... 49

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã

từ thực tiễn Huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam ......................................................... 53

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 73

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt Viết đầy đủ

HĐND Hội đồng nhân dân

HTCT Hệ thống chính trị

KT-XH Kinh tế xã hội

TT HĐND Thường trực Hội đồng nhân dân

UBND Ủy ban nhân dân

UBMTTQVN Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam

VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Bảng thống kê số lượng ban hành quyết định chương trình giám sát

của HĐND cấp xã tại huyện Quế Sơn năm 2016 -2020 ........................................... 18

Bảng 2.2. Cơ cấu, số lượng đại biểu HĐND cấp xã ở huyện Quế Sơn đầu nhiệm

kỳ 2016-2021 ............................................................................................................ 27

Bảng 2.3. Trình độ chuyên môn, lý luận chính trị của đại biểu HĐND cấp xã ở

huyện Quế Sơn nhiệm kỳ 2016-2021 ....................................................................... 27

Bảng 2.4. Độ tuổi đại biểu HĐND cấp xã ở huyện Quế Sơn nhiệm kỳ 2016-

2021 ........................................................................................................................... 27

Bảng 2.5. Lĩnh vực công tác của đại biểu HĐND cấp xã ở huyện Quế Sơn

nhiệm kỳ 2016-2021 ................................................................................................. 28

Bảng 2.6. Bảng thống kế số lượng giám sát chuyên đề của 02 Ban thuộc 11 xã,

02 thị trấn tại huyện Quế Sơn từ năm 2016 đến năm 2020....................................... 38

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cấp cơ sở (cấp xã), là cấp chính quyền địa phương thấp nhất trong hệ thống

phân cấp từ Trung ương đến địa phương ở Việt Nam nhưng có vai trò quan trọng

trong cơ cấu chính quyền địa phương, là cầu nối giữa Nhà nước và Nhân dân, là nơi

nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình, đồng thời là cấp trực tiếp tổ chức thực

hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước. Hiến pháp nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định tại điều 113: “HĐND là

cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và

quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm

trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”. [35, tr.49]. HĐND

cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng trong

việc bảo đảm quyền của nhân dân, phát huy dân chủ, đảm bảo hiệu lực hiệu quả

hoạt động của bộ máy Nhà nước. Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm

2015 tại Điều 33 về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã: “HĐND xã có nhiệm vụ,

quyền hạn là giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực

hiện nghị quyết của HĐND xã, giám sát hoạt động của TT HĐND xã, UBND cùng

cấp, Ban của HĐND cấp mình, giám sát VBQPPL của UBND cùng cấp”. Giám sát

là chức năng quan trọng của HĐND. Giám sát có một vị trí, vai trò rất quan trọng,

bảo đảm HĐND thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân

dân; là công cụ quan trọng, nhằm giúp các cơ quan Nhà nước, các tổ chức thấy

được những sai sót, bất cập trong quản lý và hoạt động của mình. Do vậy, hoạt động

giám sát của HĐND đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm cho hoạt

động của bộ máy Nhà nước được thực hiện chất lượng, hiệu quả.

Hoạt động giám sát của HĐND cấp xã trong thười gian qua có nhiều chuyển

biến tích cực. Hàng năm đã xây dựng chương trình kế hoạch giám sát, tổ chức các

đoàn giám sát khi cần thiết, trong giám sát có sự phối hợp với các cấp, các ngành.

Thay mặt cho Nhân dân địa phương giám sát và quyết định những vấn đề quan

trọng về kinh tế - văn hóa xã hội, quốc phòng - an ninh..., bước đầu góp phần khắc

1

phục tính hình thức trong hoạt động của HĐND cấp xã nói chung và hoạt động

giám sát nói riêng, đem lại nhiều kết quả khả quan.

Tuy nhiên trong thực tiễn, theo đánh giá của nhiều nhà khoa học, nhiều báo

cáo chính thức và qua trải nghiệm thực tế của bản thân tại địa phương, hoạt động

giám sát của HĐND nói chung và hoạt động của HĐND cấp xã nói riêng còn nhiều

hạn chế như: Một số cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể chưa quan

tâm đúng mức, toàn diện, chưa làm tốt công tác phối hợp trong giám sát, quy định

của pháp luật vẫn còn nhiều bất cập chưa phù hợp với thực tiễn ở một số địa

phương, việc xây dựng chương trình, cách thức tổ chức giám sát chưa thật sự khoa

học, chưa phát huy và đáp ứng được vị trí, vai trò, chức năng theo quy định của

Hiến pháp và Luật, một số cơ quan đơn vị, tổ chức và cá nhân chịu sự giám sát chưa

thật sự coi trọng hoạt động giám sát của HĐND, các kết luận sau khi giám sát

thường chung chung, thiếu đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận đó nên vẫn còn

hiện tượng sau giám sát đâu lại vào đấy, một số vụ việc của các tổ chức cá nhân

chưa được phát hiện kịp thời, trình độ năng lực của một số đại biểu chưa tương

xứng đáp ứng kịp với yêu cầu nhiệm vụ giám sát trong tình hình mới, kỹ năng giám

sát của một số đại biểu HĐND xã còn nhiều hạn chế, còn hình thức, qua loa, chưa

đi vào chiều sâu, chưa kịp thời phát hiện và giám sát những vấn đề nổi cộm, bức

xúc mà cử tri và Nhân dân quan tâm, các chức danh chủ chốt trong HĐND lại kiêm

nhiệm, cơ sở vật chất, điều kiện tổ chức giám sát chưa đáp ứng.

Từ những thực trạng nêu trên cho thấy rằng việc nghiên cứu lý luận và thực

tiễn về hoạt động giám sát của HĐND cấp xã trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh

Quảng Nam theo pháp luật hiện hành được đặt ra nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả

hoạt động giám sát của HĐND nói chung và hoạt động giám sát của HĐND cấp xã

nói riêng với mục tiêu xây dựng HĐND xã thực sự là cơ quan đại diện, cơ quan

quyền lực nhà nước ở địa phương, là cơ quan dân cử xứng đáng với niềm tin của

Nhân dân.

Xuất phát từ những lý do trên tác giả lựa chọn đề tài: “Giám sát của Hội

đồng nhân dân cấp xã từ thực tiễn huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài

2

luận văn Thạc sĩ Luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân là đề tài nghiên cứu đã được

nhiều học giả, nhà nghiên cứu thực hiện ở các cấp độ khác nhau như:

- TS Nguyễn Sĩ Dũng và PGS.TS. Vũ Công Giao đồng chủ biên, Hoạt động

giám sát của cơ quan dân cử ở Việt Nam: Vấn đề và giải pháp, 2015, Nxb Hồng

Đức.

- GS.TS Nguyễn Đăng Dung, Chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân,

2016, NXB Tư pháp.

- Trương Thị Hồng Hà, 2015, Hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam

trong cơ chế giám sát quyền lực nhà nước, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

- Phạm Ngọc Kỳ, 2007, Quyền giám sát của Hội đồng nhân dân và kỹ năng

giám sát cơ bản, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

- Bùi Xuân Đức, 2003, Tính chất của HĐND trong điều kiện cải cách bộ

máy nhà nước hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật.

- Lê Thị Thu Hòa, 2016, Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động giám sát của Hội

đồng nhân dân cấp tỉnh qua thực tiễn ở Thanh Hóa, thực hiện tại Khoa Luật;

- Phạm Thị Thảo, 2015, Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động giám sát của Hội đồng

nhân dân cấp tỉnh - qua thực tiễn ở tỉnh Hưng Yên, thực hiện tại Khoa Luật, Đại

học Quốc gia Hà Nội.

- Lê Thị Bình Tuyết, 2014, Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động giám sát của Hội

đồng nhân dân cấp huyện qua thực tiễn ở tỉnh Thanh Hóa, thực hiện tại Khoa Luật,

ĐHQG Hà Nội.

- Phan Thị Thu Hồng, 2017, Luận văn Thạc sỹ: Giám sát của Hội đồng nhân

dân cấp xã từ thực tiễn huyện Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng, thực hiện tại Học

Viện Khoa học xã hội.

- Phạm Thị Thảo 2015, Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động giám sát của Hội đồng

nhân dân cấp tỉnh - qua thực tiễn ở tỉnh Hưng Yên, thực hiện tại Khoa Luật, ĐHQG

3

Hà Nội.

- Lý Minh Vững, 2013, Luận văn Thạc sỹ: Vai trò của Hội đồng nhân dân

trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan tố tụng hình sự, thực hiện tại khoa

Luật, ĐHQG Hà Nội. Và nhiều đề tài nghiên cứu khác liên quan.

Có thể khẳng định, các nghiên cứu trên đã đề cập đầy đủ đến các vấn đề lý

luận và thực tiễn trong hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân như chủ thể giám

sát, đặc điểm hoạt động giám sát, đối tượng, nội dung, hình thức giám sát, ... Tuy

nhiên ở tỉnh Quảng Nam chưa có nhiều công trình nghiên cứu về giám sát của Hội

đồng nhân dân cấp xã, đặc biệt ở Huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam chưa có công

trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về giám sát của HĐND cấp xã

trên địa bàn huyện, với tính chất là một đề tài độc lập, đi sâu nghiên cứu thực tiễn

để đánh giá những mặt được, mặt chưa được, với mong muốn góp thêm luận cứ

khoa học cho việc đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả thiết thực

nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã trên

địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động giám sát của

HĐND cấp xã ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Qua đó tác giả luận văn đưa ra

những quan điểm và giải pháp đẩy mạnh hoạt động giám sát của HĐND cấp xã,

nhằm đảm bảo HĐND xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho

nguyện vọng, ý chí và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động giám sát của HĐND cấp

xã.

- Đánh giá thực trạng, những ưu điểm và hạn chế trong giám sát của HĐND

cấp xã từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam từ năm 2016 đến năm 2020.

- Đưa ra những quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND

cấp xã đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới ở huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam.

4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Những vấn đề lịch sử, lý luận về giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện.

- Thực tiễn về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã tại huyện

Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

- Quy định pháp luật liên quan đến giám sát của HĐND cấp xã.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi thời gian: Luận văn khảo sát, nghiên cứu thực tiễn giám sát của

HĐND cấp xã tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn từ năm 2016

đến 2020. Trên cơ sở đó đề ra phương hướng và giải pháp cho nhiệm kỳ 2021-2026

- Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu về giám sát của HĐND cấp xã từ

thực tiễn của 11 xã, 02 thị trấn trên địa bàn huyện Quế Sơn.

- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu vấn đề lý luận, pháp luật về hội đồng nhân

dân cấp xã, thực tiễn giám sát của HĐND cấp xã của huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng

Nam. Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của

HĐND cấp xã nói chung và HĐND cấp xã tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam nói

riêng.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học và các phương pháp

luận của triết học Mác - Lênin, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các quan

điểm của Đảng và Nhà nước ta về Hội đồng nhân dân, chức năng giám sát của Hội

đồng nhân dân.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu sử dụng trong Luận văn chủ yếu là phân tích,

tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tiễn, thu thập thông tin, phương pháp khảo cứu tài

liệu, lượng hóa các số liệu, phương pháp so sánh, đánh giá, phương pháp quan sát

để nghiên cứu.

5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa cho việc nâng cao nhận thức về

giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã qua thực tiễn huyện Quế Sơn tỉnh Quảng

Nam.

Những kiến nghị, đề xuất trong luận văn có thể sẽ được xem xét vận dụng góp

phần luận chứng về mặt lý luận cho việc nâng cao hiệu lực hiệu quả hoạt động của

HĐND nói chung và hoạt động của HĐND xã trong giai đoạn hiện nay.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn góp phần nâng cao nhận thức và hành động trong công tác lãnh chỉ

đạo, thực hiện giám sát của HĐND cấp xã ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, luận

văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong hoạt động nghiên cứu.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận

văn gồm ba chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã.

Chương 2: Thực trạng giám sát của HĐND cấp xã tại huyện Quế Sơn tỉnh

Quảng Nam.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND cấp

xã từ thực tiễn huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam.

6

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT CỦA

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ

1.1. Khái quát chung về Hội đồng nhân dân cấp xã

1.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng của Hội đồng nhân dân cấp xã

1.1.1.1. Khái niệm về giám sát của HĐND cấp xã

Trong ngôn ngữ tiếng Việt, “giám sát” được hiểu như một động từ chỉ “sự

theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không” [36,

tr.305]. Trong từ điển tiếng Việt, giám sát là “theo dõi, kiểm tra việc thực thi nhiệm

vụ” [14, tr.728]. Trong cuốn Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở Việt Nam

trong thời kỳ đổi mới, giám sát mang tính quyền lực nhà nước là “sự theo dõi, quan

sát hoạt động của một chủ thể quyền lực mang tính chủ động, liên tục, thường

xuyên và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để bắt buộc và hướng hoạt

động của các tổ chức quyền lực chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, đúng quy chế

nhằm giới hạn quyền lực, đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ nghiêm minh” [32,

tr.14,15].

Tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ “giám sát” có khác nhau

nhưng các quan niệm trên đều đề cập đến những nội dung cơ bản: Giám sát là việc

theo dõi, xem xét và kiểm tra một cơ quan, tổ chức, hay cá nhân nào đó trong việc

thực hiện một hoạt động nào đó, một công việc, hay thực hiện pháp luật có đúng với

những yêu cầu đã được xác định hay không, do đại diện cho quyền lực thực hiện

hay chủ thể có quyền lực. Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 có riêng một

chương quy định về hoạt động giám sát của HĐND (Chương III từ Điều 57 đến

Điều 81).

Từ những phân tích trên, dưới góc độ khoa học pháp lý, theo tác giả khái

niệm giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã được hiểu là: Giám sát của HĐND

cấp xã là tổng thể các hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của

HĐND và đại biểu HĐND xem xét, theo dõi, đánh giá hoạt động của các cơ quan tổ

7

chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh và

các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên và trong việc

thực hiện Nghị quyết của HĐND cấp xã. Từ đó đưa ra các kết luận và kiến nghị

phương án xử lý phù hợp theo thẩm quyền để khắc phục những tồn tại, hạn chế,

phát huy mọi tiềm năng của địa phương để phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc

phòng - an ninh, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước

mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.

Như vậy, giám sát của HĐND là hình thức thực hiện quyền giám sát của

nhân dân được thực hiện bằng pháp luật là thực hiện sự ủy quyền của nhân dân để

giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, thông qua cơ quan nhà nước là HĐND

các cấp. Trong quá trình giám sát, chủ thể giám sát có quyền tiếp cận mọi đối

tượng, mọi văn bản, hồ sơ theo yêu cầu giám sát. Giám sát chứa đựng những yếu tố

thuộc tính của công tác kiểm tra, kiểm soát và thanh tra. Hoạt động nhằm kiểm soát

thực thi quyền lực nhà nước.

1.1.1.2. Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân cấp xã

- HĐND xã có vai trò, vị trí quan trọng, là cơ quan quyền lực Nhà nước ở

cấp xã, đại diện cho nguyện vọng, ý chí và quyền làm chủ của Nhân dân trong xã,

do Nhân dân xã bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân và cơ quan Nhà nước cấp

trên.

HĐND xã thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của UBND cấp xã,

giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã

hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở cấp mình, giám sát việc thực hiện các

nghị quyết của HĐND, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã là hết sức

quan trọng trong hoạt động của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, là công

cụ đảm bảo giám sát thực hiện quyền lực của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa

phương. HĐND thay mặt Nhân dân thực thi quyền lực nhà nước bằng cách căn cứ

vào pháp luật, Hiến pháp, tình hình thực tế địa phương mà quyết định các biện pháp

tổ chức thực hiện pháp luật, Hiến pháp, Nghị quyết của HĐND, vừa mang tính đại

diện, vừa mang tính quyền lực Nhà nước, có giá trị bắt buộc chung đối với các tổ

8

chức và công dân, cơ quan, ở địa phương. Như vậy, ngoài chức năng quyết định

những vấn đề quan trọng của địa phương thì việc giám sát việc tuân theo Hiến pháp,

pháp luật, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã là một trong những biện pháp

cần thiết và không thể thiếu được, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm

quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân [2].

HĐND xã được lựa chọn từ các đại biểu ưu tú của các tầng lớp trong xã hội,

đại diện tiêu biểu nhất cho tiếng nói của các tầng lớp nhân dân trong xã, Hội đồng

nhân dân quyết định những biện pháp quan trọng, những chủ trương để xây dựng và

phát triển địa phương về KT-XH, củng cố QP-AN, phát triển tiềm năng của xã,

không ngừng cải thiện đời sống tinh thần, vật chất của Nhân dân, thực hiện tốt

nghĩa vụ của địa phương với cấp trên. HĐND xã là đơn vị gần dân nhất, hiểu rõ tâm

tư, nguyện vọng và yêu cầu của nhân dân, do đó đưa ra những quyết sách đúng đắn,

phù hợp với thực tiễn ở địa phương, góp phần xây dựng nền dân chủ xã hội chủ

nghĩa của dân, do dân, vì dân, bảo đảm quyền con nười, bảo đảm pháp chế và phát

huy dân chủ tại địa phương.

1.1.1.3. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp xã

Năm 2015 Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định chức năng của

chính quyền địa phương trong đó có Hội đồng nhân dân tại điều 31 gồm: Tổ chức

và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa bàn xã. Quyết định về các

vấn đề của địa phương trong phạm vi được phân cấp, phân quyền theo quy định của

Luật này và các quy định khác có liên quan. Quyết định và tổ chức thực hiện huy

động các nguồn lực xã hội để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc

phòng, an ninh trên địa bàn xã, thực hiện các biện pháp nhằm phát huy quyền làm

chủ của Nhân dân. Hội đồng nhân dân cấp xã có các chức năng trong tổ chức và

bảo đảm việc thi hành pháp luật, Hiến pháp và trong lĩnh vực xây dựng chính

quyền, an ninh, quốc phòng cụ thể: Ban hành nghị quyết về những vấn đề thuộc

nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cấp xã. Quyết định dự toán điều chỉnh dự toán

ngân sách xã, thu, chi ngân sách xã, điều chỉnh dự toán ngân sách xã trong trường

hợp cần thiết, phê chuẩn quyết toán ngân sách xã, dự toán thu ngân sách nhà nước

9

trên địa bàn. Quyết định biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong phạm

vi được phân quyền; bảo an toàn xã hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm, đảm bảo

trật tự và các hành vi vi phạm pháp luật khác, biện pháp bảo vệ tài sản của tổ chức,

cơ quan, bảo hộ tính mạng, danh dự, tự do, tài sản, nhân phẩm, các quyền, lợi ích

hợp pháp khác trên địa bàn xã của công dân. Quyết định chủ trương đầu tư dự án,

chương trình trong phạm vi được phân quyền của xã. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm

Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và các Ủy viên Ủy

ban nhân dân xã. Bãi nhiệm, bầu, miễn nhiệm đối với Chủ tịch Hội đồng nhân dân,

Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng ban, Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân

dân xã; Giám sát việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã; giám sát hoạt

động của Thường trực HĐND, UBND cùng cấp,việc tuân theo Hiến pháp và pháp

luật ở địa phương, Ban của Hội đồng nhân dân cấp mình; giám sát văn bản quy

phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp. Bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân

dân xã và chấp nhận việc đại biểu Hội đồng nhân dân xã xin thôi làm nhiệm vụ đại

biểu. Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của Ủy ban nhân dân,

Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Bỏ phiếu tín nhiệm, lấy phiếu tín nhiệm, đối với

người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân xã bầu theo quy định tại Điều 88 và Điều

89 của Luật này.

Có thể khẳng định rằng, chức năng của Hội đồng nhân dân cấp xã được quy

định cụ thể tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, là cơ sở để Hội

đồng nhân dân cấp xã thực hiện tốt chức năng của mình trong điều kiện nước ta đẩy

mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập sâu

rộng quốc tế. Bởi vì HĐND cấp xã giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng

nhân dân, Ủy ban nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân cấp mình; giám sát văn

bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp và văn bản của Hội đồng

nhân dân cấp xã theo quy định của pháp luật. Giám sát việc thực hiện Nghị quyết

của Hội đồng nhân dân xã; việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương.

10

1.1.2. Tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp xã

1.1.2.1. Thường trực Hội đồng nhân dân

Theo quy định của luật Tổ chức chính quyền địa phương Thường trực

HĐND là cơ quan thường trực của HĐND, thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ và các

quy định khác của pháp luật có liên quan, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác

trước HĐND.

Nhiệm kỳ của TT HĐND theo nhiệm kỳ của HĐND cùng cấp, khi HĐND

hết nhiệm kỳ, TT HĐND tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi HĐND khóa mới bầu

ra TT HĐND khóa mới.

Thường trực HĐND xã gồm chủ tịch HĐND và một phó chủ tịch HĐND.

Thành viên của thường trực Hội đồng nhân dân không thể đồng thời là thành

viên của UBND cùng cấp.

1.1.2.2. Các ban của Hội đồng nhân dân xã

Điều 109 luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 các ban của

HĐND có nhiệm vụ tham gia chuẩn bị nội dung kỳ họp của HĐND trên lĩnh vực

liên quan phụ trách. Giám sát hoạt động của UBND và các cơ quan chuyên môn

thuộc UBND cùng cấp trong các lĩnh vực phụ trách; giám sát văn bản quy phạm

pháp luật thuộc phạm vi phụ trách, thẩm tra dự thảo báo cáo, đề án, nghị quyết liên

quan đến lĩnh vực do HĐND hoặc Thường HĐND phân công phụ trách. HĐND

thành lập Ban Pháp chế, Ban KT-XH, ban này gồm trưởng ban, phó ban và các ủy

viên, số lượng ủy viên của ban do HĐND xã quyết định, trưởng, phó ban và các ủy

viên của các ban hoạt động kiêm nhiệm. Thường trực HĐND, Ban của HĐND chịu

trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND; Báo cáo kết quả hoạt động giám sát

với HĐND, trong thời gian HĐND không họp thì báo cáo công tác trước Thường

trực HĐND. Nhiệm kỳ của các ban theo nhiệm kỳ của HĐND cùng cấp, khi hết

nhiệm kỳ, các ban tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi HĐND khóa mới bầu ra các

ban của HĐND khóa mới. Đây là điểm mới về cơ cấu tổ chức của HĐND cấp xã

theo quy định của luật Tổ chức chính quyền địa phương.

11

1.1.2.3. Đại biểu Hội đồng nhân dân

Đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa

phương, chịu trách nhiệm trước trước HĐND và cử tri địa phương về việc tực hiện

quyền hạn, nhiệm vụ đại biểu của mình.

Nhiệm kỳ của đại biểu HĐND theo nhiệm kỳ của HĐND. Đại biểu HĐND

bình đẳng trong quyết định và thảo luận các vấn đề thuộc quyền hạn, nhiệm vụ của

HĐND. Đại biểu HĐND được bầu bổ sung bắt đầu làm nhiệm vụ đại biểu từ khi

khai mạc kỳ họp tiếp sau cuộc bầu cử bổ sung đến ngày khai mạc kỳ họp thứ nhất

của HĐND khóa sau.

1.2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã

1.2.1. Chủ thể giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã

Theo khoản 2, Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm

2015: “Chủ thể giám sát” bao gồm Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc Hội, Hội

đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, địa biểu Quốc hội

và HĐND, TT HĐND, các ban của HĐND, tổ đại biểu HĐND, đại biểu HĐND”.

Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 tại Khoản 6:

“Giám sát của HĐND bao gồm giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của

TTHĐND, các ban của HĐND, tổ đại biểu HĐND và các đại biểu HĐND”. Do đó,

chủ thể thực hiện quyền giám sát của HĐND cấp xã gồm:

Thứ nhất, Hội đồng nhân dân: Một tập thể các đại biểu HĐND tại phiên họp

hội đồng;

Thứ hai, Thường trực HĐND;

Thứ ba, Các ban của HĐND;

Thứ tư, Đại biểu HĐND.

Thường trực HĐND lúc này chưa phải là chủ thể của hoạt động giám sát, mà

mới chỉ là người đôn đốc kiểm tra các hoạt động của UBND cùng cấp cũng như vấn

đề giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ở địa phương theo luật Tổ chức HĐND

và UBND năm 1994 (sửa đổi). Nhưng theo quy định của pháp luật hiện hành, chủ

thể giám sát của HĐND ngày càng mở rộng và quy định chặt chẽ hơn.

12

1.2.2. Hình thức (cách thức) giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã

Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 tại Điều 87 và Luật

hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 tại Điều 57, thì HĐND cấp

xã thực hiện quyền giám sát thông qua các hình thức:

Một là, xem xét báo cáo. Đây là hình thức giám sát trực tiếp quan trọng của

HĐND cấp xã; xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND cùng

cấp, HĐND thực hiện việc xem xét các báo cáo hàng năm, báo cáo 6 tháng và báo

cáo chuyên đề của TT HĐND, UBND cùng cấp.

Hai là, xem xét việc ban hành văn bản của UBND. HĐND xem xét các văn

bản của UBND cùng cấp, HĐND có quyền hủy bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành các

văn bản trái với quy định của văn bản cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của

HĐND cùng cấp có dấu hiệu trái pháp luật hay không.

Ba là, xem xét báo cáo của UBND cùng cấp về tình hình thi hành Hiến pháp,

VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết HĐND cùng cấp. Thông qua

đó HĐND sẽ kiểm tra được việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của UBND trong

quá trình thực thi quyền hạn, nhiệm vụ được giao và kịp thời chấn chỉnh những sai

sót;

Bốn là, giám sát chuyên đề, khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây

thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì

thành lập đoàn giám sát về một vấn đề nhất định khi xét thấy cần thiết, đoàn giám

sát có quyền yêu cầu cá nhân, tổ chức, cơ quan có thẩm quyền xem xét, xử lý trách

nhiệm của tổ chức, cá nhân, cơ quan có hành vi vi phạm theo quy định của Pháp

luật.

Năm là, chất vấn và nghe trả lời chất vấn. Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng

định quyền chất vấn của đại biểu HĐND gồm chất vấn của đại biểu HĐND tại kỳ

họp HĐND và giữa hai kỳ họp HĐND, đối với chủ tịch UBND, phó chủ tịch

UBND, ủy viên ủy ban cùng cấp tại kỳ họp, thông qua việc trả lời của người bị chất

vấn, HĐND có thể giám sát được hoạt động của các cơ quan này. Hình thức chất

vấn thể hiện trực tiếp quyền giám sát của HĐND mang tính công khai, dân chủ

13

trong hoạt động của HĐND. Chất vấn là quyền của từng đại biểu, nhưng khi đại

biểu thực hiện quyền này thì có tính chất là một hoạt động giám sát của HĐND.

Sáu là, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do

HĐND bầu, quy định lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm theo pháp luật Việt

Nam chỉ áp dụng đối với cá nhân chứ không áp dụng đối với tập thể. Theo quy định

tại Điều 88, Điều 89 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, đây là hình

thức quan trọng nhằm tăng cường tính tích cực, phấn đấu của các chủ thể chịu sự

giám sát.

Trong quá trình giám sát, HĐND cấp xã có quyền yêu cầu bãi bỏ một phần

hoặc toàn bộ văn bản của UBND, chủ tịch UBND cùng cấp trái với Hiến pháp,

VBQPPL của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cấp xã, miễn

nhiệm, bãi nhiệm chủ tịch HĐND, phó chủ tịch HĐND, trưởng Ban, phó trưởng

Ban của HĐND, Chủ tịch, Phó chủ tịch và Ủy viên ủy ban cấp xã. HĐND cấp xã có

quyền yêu cầu UBND, chủ tịch UBND cùng cấp ban hành văn bản để thi hành

Hiến pháp, pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cấp

xã.

Ngoài ra, HĐND cấp xã còn giám sát thông qua việc theo dõi việc giải quyết

khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến HĐND xã, tiếp công dân và giám sát qua các

đợt tiếp xúc cử tri.

Như vậy, hiệu quả giám sát của HĐND cấp xã được bảo đảm bằng hiệu quả

giám sát tại kỳ họp HĐND, giám sát của TT HĐND, các ban của HĐND và các đại

biểu HĐND, hoạt động chất vấn và nghe trả lời chất vấn. Đồng thời HĐND xã có

trách nhiệm báo cáo về hoạt động giám sát trước cử tri của địa phương mình thông

qua hoạt động tiếp xúc cử tri và hệ thống đài truyền thanh của xã để đảm bảo tính

công khai minh bạch trong hoạt động giám sát.

1.2.3. Đối tượng giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã

Theo luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, đối tượng giám sát

của HĐND cấp xã rất phong phú và đa dạng, bao gồm tất cả các cơ quan, tổ chức,

cá nhân ở địa phương bao gồm:

14

- Thường trực HĐND, UBND cùng cấp, ban của HĐND.

- Chủ tịch HĐND.

- Chủ tịch UBND các thành viên khác của UBND và cơ quan chuyên môn

thuộc UBND.

- Các tổ chức cá nhân khác ở địa phương.

1.2.4. Nội dung giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã

HĐND quyết định nội dung giám sát theo đề nghị của Thường trực HĐND

trình trên cơ cở các kiến nghị của Ban Kinh tế, Ban Pháp chế, đại biểu HĐND,

UBMTTQVN xã và ý kiến kiến nghị của cử tri địa phương.

Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 tại Điều 5 và

luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 tại Điều 87, giám sát của HĐND xã

gồm:

- Giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân

Nghị quyết của HĐND cấp xã có vai trò rất quan trọng trong định hướng

phát triển KT-XH ở địa phương. Nghị quyết của HĐND cấp xã ban hành nhằm triển

khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, nghị quyết

của Đảng bộ xã, phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Trong quá trình giám

sát nếu phát hiện những sai sót trong quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết thì

HĐND cấp xã sẽ có những điều chỉnh kịp thời. Do đó việc giám sát đối với việc

thực hiện Nghị quyết của HĐND cấp xã là nội dung không thể thiếu nhằm kịp thời

gỡ bỏ những khó khăn, vướng mắt phát sinh trong quá trình thực hiện nghị quyết,

nhằm đảm bảo Nghị quyết đi vào thực tiễn. HĐND có quyền yêu cầu xem xét báo

cáo của UBND cùng cấp về tình hình thi hành nghị quyết của HĐND cấp xã đề ra.

Vì theo quy định mỗi năm HĐND xã họp ít nhất 02 kỳ, trong mỗi kỳ họp đều ban

hành các nghị quyết như: Nghị quyết phê chuẩn thu chi ngân sách của địa phương

hằng năm, nghị quyết phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, các

nghị quyết chuyên đề...

- HĐND giám sát hoạt động của TT HĐND, UBND cùng cấp và Ban của

HĐND cấp xã

15

Hằng năm HĐND thường có hai kỳ họp (6 tháng, 01 năm), trừ trường hợp

cần thiết có kỳ họp bất thường. Giám sát của HĐND được thực hiện thông qua việc:

Chất vấn trực tiếp tại kỳ họp, hình thức này mang lại hiệu quả cao, HĐND nghe và

xem xét việc trả lời chất vấn của chủ tịch HĐND, UBND các thành viên của

UBND, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND. Thông qua chất vấn, HĐND xem

xét trách nhiệm của các cá nhân của những người được chất vấn. Đây là phương

thức giám sát quan trọng giúp HĐND nhận thông tin chính thức từ phía cơ quan đó.

Tại các kỳ họp HĐND, thường trực HĐND, Ban Kinh tế - xã hội, Ban Pháp

chế HĐND, UBND phải báo cáo bằng văn bản trước HĐND, HĐND xem xét các

báo cáo tại kỳ họp. Thông qua việc xem xét, thảo luận các báo cáo công tác, HĐND

nắm bắt thông tin một cách đầy đủ, toàn diện về hoạt động của các cơ quan này, khi

xem xét các báo cáo, HĐND phải tập trung làm sáng tỏ tính chính xác và thực tiễn

của các báo cáo nhằm xác định đúng các vấn đề cần tập trung giải quyết, kết quả đạt

được và những khó khăn, tồn tại hạn chế. Từ đó đánh giá khách quan kết quả thực

hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật và

Nghị quyết của HĐND.

- Giám sát hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng

cấp

Hoạt động của UBND cấp xã là thực thi nghị quyết của HĐND cùng cấp và

các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Vì thế, việc giám sát hoạt động ban

hành văn bản QPPL của UBND cùng cấp là một nội dung vô cùng cần thiết, do đó

đòi hỏi hệ thống văn bản của UBND cấp xã ban hành phải đảm bảo tính chính xác

về hình thức, nội dung, thẩm quyền, đáp ứng được yêu cầu trong quá trình thực thi

công vụ. Nhằm kịp thời phát hiện những sai phạm trong ban hành văn bản, các chủ

thể có thẩm quyền giám sát trong lĩnh vực này thường theo dõi việc ban hành văn

bản của UBND cùng cấp, xem xét các báo cáo nhằm đình chỉ hoặc hủy bỏ thi hành

nếu phát hiện có sai phạm.

Hoạt động giám sát của HĐND cấp xã bao quát toàn bộ hoạt động quản lý

nhà nước trên tất cả các lĩnh vực QP-AN, KT-XH, xây dựng củng cố chính quyền

16

thực hiện pháp luật, bảo đảm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân tại địa phương

rất rộng. Hoạt động giám sát của HĐND cấp xã hiện nay tuân theo luật hoạt động

giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015. Đồng thời cũng khác với giám sát của

của các cá nhân công dân, giám sát của UBMTTQVN và đó là những hoạt động

không mang tính quyền lực. Tuy nhiên hoạt động giám sát của HĐND cấp xã có

một số nội dung khác so với giám sát của Quốc hội, HĐND cấp tỉnh, cấp huyện ở

phạm vi hẹp hơn.

- Giám sát việc tuân theo hiến pháp và pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá

nhân chịu sự giám sát

Trên thực tế pháp luật của nhà nước, nghị quyết của HĐND có đi vào cuộc

sống, trở thành hiện thực hay không, không chỉ thông qua hoạt động ban hành các

văn bản hướng dẫn, thi hành đảm bảo đúng đắn, kịp thời, phù hợp, mà còn phụ

thuộc vào quá trình tổ chức thực hiện có mang lại hiệu quả hay không? Có hợp

hiến, hợp pháp hay không? Vì vậy giám sát việc tuân thủ hiến pháp, pháp luật của

cơ quan Nhà nước của tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân

ở địa phương là một nội dung giám sát của HĐND, nhằm kịp thời phát hiện vi phạm

pháp luật trong hoạt động thực tiễn của các đối tượng này để có biện pháp ngăn

chặn đảm bảo, kịp thời cho pháp luật được thực hiện thống nhất nghiêm chỉnh. Đây

là quá trình HĐND xem xét việc áp dụng pháp luật trong tổ chức và hoạt động thực

tiễn của các tổ chức, cá nhân, cơ quan thuộc quyền giám sát, vì vậy phạm vi giám

sát của HĐND trong lĩnh vực này rất rộng.

- Việc ban hành Quyết định chương trình giám sát của Hội đồng nhân dân

cấp xã theo luật định

Quyết định ban hành chương trình giám sát được thông qua trong các kỳ họp

của HĐND cấp xã được thông qua trong các cuộc họp của TT HĐND cấp xã trên

cơ sở kiến nghị của UBMTTQVN cùng cấp và ý kiến của cử tri địa phương, của đại

biểu HĐND, hai Ban HĐND, HĐND cấp xã ban hành Quyết định chương trình

giám sát định kỳ, giám sát chuyên đề hoặc giám sát theo vụ việc được quyết định

theo đề nghị của TT HĐND trình.

17

Tại huyện Quế Sơn, có 13 xã, thị trấn trong đó có 01 xã và 02 thị trấn đạt xã

loại 1, 01 xã đạt xã loại 3, còn lại xã loại 02. Qua thực tiễn cho thấy, nếu như địa

phương nào xảy ra nhiều khiếu nại, tố cáo, tranh chấp, hay ý kiến của nhân dân địa

phương về một vấn đề đang xảy ra thì HĐND cấp xã ban hành Quyết định chương

trình giám sát chuyên đề hoặc giám sát theo vụ việc. Hàng năm HĐND cấp xã đều

ban hành Quyết định chương trình giám sát định kỳ, trong đó đề cập đến chương

trình, nội dung giám sát cũng như các hình thức giám sát tại địa phương.

Bảng 2.1. Bảng thống kê số lượng ban hành quyết định chương trình giám sát

của HĐND cấp xã tại huyện Quế Sơn năm 2016 -2020

Giám sát

Giám sát

STT

Các xã, thị trấn của huyện Quế Sơn

Định kỳ

chuyên đề

1. Thị Trấn Đông Phú 8 9

2. Thị Trấn Hương An 8 10

3. Xã Quế Xuân 1 8 8

4. Xã Quế Xuân 2 8 6

5. Xã Quế Phú 8 8

6. Xã Quế Mỹ 8 10

7. Xã Quế Thuận 8 8

8. Xã Quế Châu 8 8

9. Xã Quế Hiệp 8 6

10. Xã Quế Minh 8 6

11. Xã Quế Phong 8 7

12. Xã Quế Long 8 7

13. Xã Quế An 8 6

Nguồn: Báo cáo của UBND huyện Quế Sơn năm 2016-2020

1.2.5. Trình tự, thủ tục giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã

Để thực hiện chức năng giám sát chính xác, nhanh chóng và kịp thời thì quá

trình giám sát của HĐND cấp xã cần phải thực hiện theo đúng thủ tục, trình tự và

quy định cụ thể, vì giám sát là chức năng quan trọng của HĐND, đo đó trình tự, thủ

18

tục giám sát của HĐND như sau:

Thứ nhất, Hằng năm Ban Kinh tế và ban Pháp Chế HĐND xã, các đại biểu

HĐND xã, UBMTTQVN xã và cử tri địa phương gửi đề nghị, kiến nghị giám sát

đến TT HĐND xã, thời gian chậm nhất là 01 ngày của tháng 03 năm trước, đề nghị

kiến nghị giám sát phải nêu rõ nội dung, sự cần thiết, đối tượng, phạm vi giám sát,

văn phòng HĐND-UBND xã tổng hợp đề nghị, kiến nghị giám sát và báo cáo cho

TT HĐND xã, trên cơ sở đó TT HĐND xã thảo luận và dự kiến chương trình giám

sát của HĐND để trình HĐND xem xét quyết định, thời gian chậm nhất là 10 ngày

trước ngày khai mạc kỳ họp giữa năm của HĐND xã.

Thứ hai, cấp xã quyết định chương trình giám sát hằng năm của mình theo

trình tự sau:

TT HĐND xã trình bày tờ trình dự kiến chương trình giám sát tại kỳ họp

HĐND cấp xã;

HĐND cấp xã sẽ biểu quyết thông qua chương trình giám sát của HĐND xã

tại kỳ họp HĐND xã.

Thứ ba, TTHĐND cấp xã tổ chức thực hiện chương trình giám sát của

HĐND cấp xã, trừ trường hợp giám sát chuyên đề.

Thứ tư, TT HĐND cấp xã báo cáo kết quả thực hiện hoạt động giám sát hằng

năm của HĐND tại kỳ họp giữa năm sau của HĐND xã.

1.2.6. Hệ quả pháp lý của hoạt động giám sát của HĐND cấp xã

Hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã luôn

được thể hiện dưới hình thức văn bản (báo cáo hoặc thông báo), là sự thể hiện ý chí

của HĐND cấp xã đối với kết quả của hoạt động giám sát, đó là những nội dung,

kết quả hoạt động giám sát thường xuyên hoặc chuyên đề và những kiến nghị, đề

xuất với các cơ quan chức năng để nghị quyết của HĐND được thực hiện nghiêm

túc trong thực tiễn. Các biện pháp, chế tài thể hiện nội dung hậu quả pháp lý của

hoạt động giám sát, nghị quyết về việc bỏ phiếu tín nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm

Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng các Ban của Hội đồng nhân dân,

Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Ủy ban nhân dân cùng cấp. Tại

19

kỳ họp HĐND, báo cáo về hoạt động giám sát sẽ được các đại biểu HĐND xem xét

thông qua, trong đó có các biện pháp tác động đến đối tượng chịu sự giám sát của

HĐND.

1.3. Các yếu tố tác động đến giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã

1.3.1. Các quy định của pháp luật về giám sát của HĐND cấp xã

Pháp luật dù hiện đại nhưng nếu không phù hợp cũng khó đảm bảo hiệu quả

hoạt động giám sát của HĐND, cơ sở pháp lý quan trọng nhất là các quy định của

pháp luật bởi các quy định đó trao quyền và minh định cụ thể chủ thể, nguồn lực và

nghĩa vụ, quy trình, cơ chế để đảm bảo thực hiện các hình thức của giám sát.

Nếu Luật không quy định một cách cụ thể về hoạt động giám sát của HĐND

thì việc ghi nhận chức năng giám sát của HĐND trong Hiến pháp cũng chỉ là hình

thức [30]. Đây là yếu tố đầu tiên tác động lớn đến hiệu quả giám sát của HĐND nói

chung và HĐND cấp xã nói riêng. Điều này đã được minh chứng trong thực tiễn

phát triển của Luật Tổ chức HĐND & UBND năm 2003 với nhiều bất cập, chưa

phù hợp và được hoàn thiện bởi Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng

nhân dân năm 2015 và cùng với đó là Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm

2015.

1.3.2. Kế hoạch, chương trình, phương thức giám sát của HĐND cấp xã

Xây dựng chương trình, kế hoạch, lựa chọn phương thức giám sát phù hợp

tạo điều kiện đảm bảo thế chủ động cho HĐND khi thực hiện nhiệm vụ, chức năng

đồng thời là một trong những yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả giám sát. HĐND

xã cần ra nghị quyết tổ chức giám sát, xây dựng chương trình giám sát hàng năm, kế

hoạch giám sát hàng quý, hàng tháng của thường trực, các ban, các đại biểu và kế

hoạch giám sát cụ thể bằng nội dung cũng như những cuộc giám sát đột xuất theo

yêu cầu của cử tri, dư luận xã hội thông báo sớm về nội dung, thời gian và cách

thức tổ chức thực hiện, các thành viên của đoàn giám sát phải nắm vững mục đích

yêu cầu, phương pháp giám sát. Khi xây dựng chương trình giám sát nội dung giám

sát phải tập trung vào những vấn đề thiết thực, bức xúc và đang được đông đảo cử

tri ở địa phương quan tâm, cần phải có trọng điểm, trọng tâm. Cũng cần phải thấy

20

rằng mọi cố gắng trong việc xây dựng chương trình, lập kế hoạch và lựa chọn hình

thức giám sát có thể sẽ không đem lại một kết quả nào nếu HĐND thiếu kiểm tra,

đôn đốc các kết luận sau khi giám sát. Một trong những điều kiện nâng cao hiệu lực,

hiệu quả giám sát hiện nay đó là việc đôn đốc, kiểm tra các kết luận sau giám sát

buộc đối tượng bị giám sát phải kịp thời chấn chỉnh hoạt động của mình theo đúng

quy định của pháp luật và nghị quyết của HĐND.

1.3.3. Tổ chức, hoạt động của thường trực và các ban của Hội đồng nhân

dân cấp xã

HĐND ngày càng chú ý hoàn thiện về mặt tổ chức để thực hiện tốt chức

năng giám sát của mình. Từ khi HĐND không có thường trực, mới chỉ có một ban

thư ký đại biểu, đến nay HĐND đã thành lập các cơ quan của mình: Thường trực

HĐND, ban Kinh tế, ban Pháp chế HĐND, phần nào đáp ứng được nhu cầu công

việc trước mắt. Với đặc điểm đại biểu HĐND nói chung và đại biểu HĐND cấp xã

nói riêng làm việc theo chế độ kiêm nhiệm nên ảnh hưởng rất lớn, trực tiếp đến hiệu

quả hoạt động của HĐND nói chung và giám sát nói riêng. HĐND là một cơ quan

mang tính chất đại diện ở địa phương, nên về mặt tổ chức lâu nay vẫn chưa được

chú ý cả về lý luận và thực tiễn. Cần phải chú ý đến bộ phận giúp việc cho thường

trực HĐND, tập trung nghiên cứu đổi mới về mặt tổ chức bộ máy của Hội đồng.

Hơn nữa yếu tố này đòi hỏi phải có bộ máy HĐND hoạt động tốt đủ khả năng thực

hiện một cách tốt với chức năng giám sát quyền hạn của mình.

1.3.4. Bản lĩnh, năng lực và trách nhiệm thực hiện chức năng giám sát

của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã

Giám sát là một việc phức tạp và khó khăn, bên cạnh người đại biểu còn

phải có kỹ năng, trình độ, bản lĩnh và trách nhiệm khi tiến hành các hoạt động giám

sát, nắm vững các quy định pháp luật về vấn đề giám sát.. Cần đảm bảo về mặt số

lượng, năng lực của các đại biểu HĐND trong khi thực hiện chức năng giám sát có

vai trò rất lớn đến kết quả giám sát cũng như việc thực thi kết quả đó. Đại biểu

HĐND là nguồn gốc của mọi vấn đề liên quan đến hiệu quả và chất lượng giám sát

của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Muốn vậy, các đại biểu dân cử phải

21

luôn ý thức được đây là một trong những điều kiện chủ quan mà bất cứ một người

đại biểu nào cũng phải tự trau dồi nâng cao nghiệp vụ, phải có đủ tâm, tầm và đủ

tài, bởi người làm công tác giám sát, ngoài việc công nhận cái đúng, còn phải chỉ rõ

và đề ra những kiến nghị, những biện pháp hữu hiệu để loại bỏ cho được cái tiêu

cực, trái pháp luật. Người đại biểu nhân dân phải có bản lĩnh vững vàng, có trình

độ, quan điểm và phương pháp làm việc khoa học, hợp lý, hợp tình, có cách nhìn

sáng suốt, không nể nang né tránh, giám nói thẳng nói thật, phải vì lợi ích của dân

của Nhà nước để phát hiện sai trái của người khác của các ngành chức năng, [4,

tr.19].

1.3.5. Điều kiện vật chất, chi phí cho hoạt động giám sát của Hội đồng

nhân dân cấp xã

Điều kiện vật chất, kinh phí cũng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động

giám sát; cần phải đầu tư nhiều hơn nữa các trang thiết bị cần thiết, khắc phục tình

trạng khó khăn lâu nay trong công việc giám sát là thiếu nguồn thông tin cập nhật.

Nếu có đầu tư thoả đáng sẽ góp phần tích cực nâng cao hiệu quả giám sát của

HĐND, đầu tư chi phí cho hoạt động giám sát của HĐND theo yêu cầu của từng nội

dung hoạt động. Đối với các chức danh kiêm nhiệm của HĐND nên có quy định

được hưởng phụ cấp kiêm nhiệm phù hợp để họ nâng cao tinh thần trách nhiệm của

mình. Bởi nhiều khi chỉ với mức kinh phí hạn hẹp cũng có thể đem lại hiệu quả cao

nếu tìm ra những hình thức phương pháp thích hợp, tổ chức thực hiện tốt. Khi nói

tới hiệu quả của bất kỳ hoạt động nào thì đòi hỏi phải tính đến mức đầu tư, chi phí

hợp lý, tối ưu.

Tiểu kết Chương 1

Từ sự phân tích một cách sâu sắc, cụ thể về vai trò, vị trí, chức năng của Hội

đồng nhân dân, cho thấy Hội đồng nhân dân cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nước

ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, giữ

vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước. Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng

nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu

22

Hội đồng nhân dân cũng như các cơ quan nhà nước khác, tổ chức kinh tế, tổ chức

xã hội, người có thẩm quyền phải nhận thức đúng về hoạt động giám sát. Với chức

năng giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã, là cơ sở đảm bảo cho việc Hiến pháp,

pháp luật, các chính sách của cấp trên, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp

được thực hiện nghiêm túc trong thực tiễn cuộc sống. Có như vậy, hoạt động giám

sát của Hội đồng nhân dân nói chung và Hội đồng nhân dân cấp xã nói riêng mới

được nâng lên, khắc phục tính hình thức trong hoạt động của Hội đồng nhân dân,

tạo ra những chuyển biến tích cực nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong hoạt

động của bộ máy nhà nước ở địa phương, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn

minh.

23

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ

TẠI HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

2.1. Các đặc điểm tự nhiên, kinh tế và xã hội tác động đến hoạt động

giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên

Huyện Quế Sơn nằm ở vùng trung du bán sơn địa về phía Tây Bắc của tỉnh

Quảng Nam. Sau ngày chia tách huyện với Nông Sơn theo Nghị định số

42/2008/NĐ-CP ngày 08/4/2008 của Chính phủ, với vị trí địa lý:

Phía Bắc giáp huyện Duy Xuyên;

Phía Tây giáp huyện Nông Sơn;

Phía Nam giáp huyện Hiệp Đức;

Phía Đông giáp Huyện Thăng Bình.

Tổng diện tích đất tự nhiên 251,17 km2, dân số 84.952 người bao gồm 11 xã

(trong đó có 01 xã miền núi) và 02 thị trấn, mật độ dân số: 392,89 người/km2.

2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội

Huyện Quế Sơn có nền kinh tế phát triển. Năm 2019, giá trị sản xuất đạt

1.069,165 tỷ đồng, tăng gấp 1,9 lần so với năm 2010. Đầu năm 2020 cơ cấu này là

25,69% - 74,31%. Toàn huyện hiện có 458 trang trại được xây dựng theo tiêu chí

liên bộ quy định và phát huy hiệu quả. Giá trị kinh tế rừng ước khoảng 50 triệu

đồng/ha, góp phần cải thiện đời sống Nhân dân. Hoạt động thương mại, dịch vụ

ngày càng phong phú, đa dạng, rộng khắp đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất và đời

sống nhân dân. Khuyến khích phát triển Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp, sản

xuất Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp được tập trung trên cơ sở khai thác nguồn

lực tại chỗ, tích cực tranh thủ các nguồn vốn huy động, nhất là việc đầu tư xây dựng

và phát triển khu công nghiệp Đông Quế Sơn, thu hút đầu tư, cụm công nghiệp Quế

Mỹ, Hương An, Đông Phú, tạo bước đột phá trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và

đời sống nông thôn. Đến nay góp phần đưa tốc độ tăng trưởng Công nghiệp - Tiểu

24

thủ công nghiệp bình quân hằng năm đạt trên 23% toàn huyện phát triển trên 700 cơ

sở sản xuất Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp. Tổng thu ngân sách nhà nước trên

địa bàn hằng năm đều vượt chỉ tiêu giao, thu phát sinh kinh tế tăng bình quân

15%/năm. Toàn huyện có trên 2.301 cơ sở dịch vụ, thương mại hoạt động có hiệu

quả, các ngành bưu chính viễn thông, vận tải, bảo hiểm, ngân hàng có tốc độ phát

triển tốt; giá trị Thương mại - Dịch vụ tăng bình quân hằng năm trên 14%. Hệ thống

điện chiếu sáng công cộng được xây dựng tại một số khu vực trung tâm, trọng điểm

của các xã, thị trấn và huyện. Từ năm 2016 đến nay đã xây dựng và đưa vào sử

dụng trên 52 công trình xây dựng cơ bản, trong đó có các công trình trọng điểm

như: Công viên Văn hóa, Đền Liệt sĩ huyện, các tuyến đường nội thị và nhiều tuyến

đường liên xã (ĐX), hồ thủy lợi Suối Tiên, có gần 200 km đường giao thông nông

thôn, đường dân sinh được bê-tông hóa, 77,9 km đường huyện được thâm nhập

nhựa và bê-tông xi-măng, tạo mạng lưới giao thông liên thông giữa các thôn, xã

trên địa bàn huyện.

2.2. Tình hình giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã ở huyện Quế Sơn,

Quảng Nam

2.2.1. Cơ cấu, tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp xã ở huyện Quế Sơn

Cơ cấu, tổ chức của HĐND nói chung và HĐND cấp xã nói riêng có tác

động rất lớn đến chất lượng, hiệu quả của hoạt động giám sát, nhất là phụ thuộc vào

số lượng, cơ cấu thành phần của thành viên các Ban của Hội đồng nhân dân; số

lượng đại biểu Hội đồng nhân dân và đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tham

mưu giúp việc. Vì vậy, trước khi đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của Hội

đồng nhân dân cấp xã ở Huyện Quế Sơn, chúng ta cần tìm hiểu về cơ cấu, tổ chức

của Hội đồng nhân dân cấp xã ở Huyện Quế Sơn, nhiệm kỳ nhiệm kỳ 2016-2021 để

làm cơ sở cho những đánh giá, phân tích về hoạt động giám sát của thiết chế này ở

những phần sau của Luận văn.

Theo Điều 5 và Điều 52 luật Tổ chức HĐND& UBND năm 2003 thì HĐND

cấp xã nhiệm kỳ 2011-2016 chỉ có thường trực HĐND, không có các ban chuyên

môn như HĐND cấp huyện. Thường trực HĐND cấp xã cũng chỉ có 02 người là

25

chủ tịch và phó chủ tịch, không có ủy viên, chủ tịch HĐND cấp xã hoạt động kiêm

nhiệm hoặc không kiêm nhiệm và phó chủ tịch hoạt động chuyên trách, các chức

danh này do HĐND cấp xã bầu ra tại kỳ họp đầu tiên của mỗi khóa trong số các đại

biểu HĐND cấp mình theo sự giới thiệu của chủ tịch HĐND khóa trước.

Theo khoản 3 Điều 32 luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 thì

Hội đồng nhân dân xã được thành lập 02 ban đó là Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã

hội gồm có Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và các Ủy viên. Số lượng Ủy viên của

các Ban của Hội đồng nhân dân xã do Hội đồng nhân dân xã quyết định. Trưởng

ban, Phó Trưởng ban và các Ủy viên của các Ban của Hội đồng nhân dân xã hoạt

động kiêm nhiệm. Như vậy TT HĐND cấp xã gồm: Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND.

Chủ tịch HĐND thường kiêm nhiệm bí thư Đảng ủy cấp xã. Phó chủ tịch HĐND

hoạt động chuyên trách.

Theo nguyên tắc việc xác định tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân xã được

thực hiện như sau: Xã vùng cao, miền núi và hải đảo có trên hai nghìn dân đến ba

nghìn dân được bầu hai mươi lăm đại biểu; có trên ba nghìn dân thì cứ thêm một

nghìn dân được bầu thêm một đại biểu, xã vùng cao, miền núi, hải đảo có từ 1000

dân trở xuống được bầu mười lăm đại biểu; xã vùng cao, miền núi và hải đảo có

trên một nghìn dân đến hai nghìn dân được bầu hai mươi đại biểu; nhưng tổng số

không quá ba mươi lăm đại biểu; có trên bốn nghìn dân thì cứ thêm hai nghìn dân

được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá ba mươi lăm đại biểu, xã

không thuộc quy định tại các điểm a, b và c khoản này có từ bốn nghìn dân trở

xuống được bầu hai mươi lăm đại biểu.

Huyện Quế Sơn 84.952 nhân khẩu, được phân bổ khá đều trong toàn huyện,

các xã, thị trấn có từ 4.500 dân trở lên. Nhiệm kỳ 2016-2021, cử tri các xã, thị trấn ở

huyện Quế Sơn đã bầu được 336 đại biểu về cơ bản đáp ứng được nhu cầu nguyện

vọng của Nhân dân và và đúng với Hiến pháp và pháp luật. Trong đó:

26

Bảng 2.2. Cơ cấu, số lượng đại biểu HĐND cấp xã ở huyện Quế Sơn đầu nhiệm

kỳ 2016-2021

Nhiệm kỳ Số lượng Nữ Dân tộc Tôn giáo Ngoài đảng

71 0 0 29 2016-2021 336 21,13% 0 0 8,63%

Nguồn: Văn phòng HĐND và UNND huyện Quế Sơn

Bảng 2.3. Trình độ chuyên môn, lý luận chính trị của đại biểu HĐND cấp xã ở

huyện Quế Sơn nhiệm kỳ 2016-2021

Trình độ chuyên môn Trình độ lý luận chính trị

Nhiệm Số Trên Chưa Cao Dưới đại Trung kỳ lượng Đại học đại qua đào Sơ cấp cấp, cử học cấp nhân học tạo

172 159 40 224 12 05 60 2016- 336 2021 51,19% 47,32% 1,48% 17,85% 11,90% 66,66% 3,57%

Nguồn: Văn phòng HĐND và UNND huyện Quế Sơn

Bảng 2.4. Độ tuổi đại biểu HĐND cấp xã ở huyện Quế Sơn nhiệm kỳ 2016-

2021

Số Từ 55 đến Nhiệm kỳ Dưới 35 Từ 35-45 Từ 45-55 lượng dưới 60

64 101 133 38 2016-2021 336 19,04% 30,05% 39,58% 11,30%

Nguồn: Văn phòng HĐND và UNND huyện Quế Sơn

27

Bảng 2.5. Lĩnh vực công tác của đại biểu HĐND cấp xã ở huyện Quế Sơn

nhiệm kỳ 2016-2021

Về lĩnh vực công tác

Chuyên Số Chuyên Nhiệm kỳ Chính trách Mặt Doanh Nông lượng trách quyền trận đoàn nghiệp dân Đảng thể

68 72 164 03 29 2016-2021 336 21,42% 48,80% 20,23% 0,89% 8,63%

Nguồn: Văn phòng HĐND và UNND huyện Quế Sơn

Nhìn vào các bản trên ta thấy chất lượng đại biểu chưa cao, bản 2.2.2 cho

thấy chất lượng đại biểu chưa đảm bảo tiêu chuẩn về trình độ cả về chuyên môn và

lý luận chính trị, số đại biểu chưa qua đào tạo chiếm 17,85%, mặc dù vậy nhưng đa

số các đại biểu đều là những người có uy tín (nhiều đại biểu là bí thư chi bộ, thôn

trưởng, trưởng ban công tác mặt trận, cán bộ chi, tổ nhiều năm) có phẩm chất đạo

đức tốt được nhân dân tín nhiệm, có những người trước khi là đại biểu HĐND chỉ là

những người dân bình thường sau thời gian ngắn được bố trí vào làm cán bộ thôn,

xã, dẫn đến chất lượng của đại biểu chưa tương xứng, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt

động của Đại biểu HĐND xã.

Các tổ đại biểu HĐND cấp xã được thành lập ở các thôn trên địa bàn 11 xã và

02 thị trấn, để phối hợp công tác giữa hai kỳ họp HĐND, TT HĐND giữ vai trò

phối hợp, điều hòa hoạt động của các tổ đại biểu HĐND.

2.2.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã ở

huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

2.2.2.1. Giám sát tại kỳ họp của Hội đồng nhân dân cấp xã

Kỳ họp là một trong những hình thức hoạt động chủ yếu của HĐND các cấp.

Đặc điểm trong hoạt động giám sát tại kỳ họp là có sự tham gia của toàn thể đại

biểu HĐND xã, đồng thời cũng là môi trường để tập trung phát huy trí tuệ tập thể

và tính dân chủ. Nhờ xác định đúng tầm quan trọng của kỳ họp hội đồng, việc giám

28

sát của HĐND cấp xã tại huyện Quế Sơn trong thời gian qua tại các kỳ họp đã có

chuyển biến tích cực: HĐND xã đã chuẩn bị chu đáo về nội dung, chương trình kỳ

họp, phong cách làm việc của HĐND xã ngày càng thể hiện tính dân chủ, đổi mới,

trí tuệ tập thể, đoàn kết, thống nhất và tập trung cao, đại biểu tham gia tương đối

đầy đủ các kỳ họp đồng thời phát huy trách nhiệm của mình. Nhìn chung so với các

nhiệm kỳ trước chất lượng hiệu quả của các kỳ họp nhiệm kỳ này ngày càng được

nâng lên.

Theo luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và luật Tổ chức chính quyền

địa phương năm 2015 quy định, hoạt động giám sát của HĐND tại kỳ họp thông

qua các hình thức dưới đây:

Thứ nhất, xem xét các báo cáo công tác của TT HĐND, UBND.

Tại HĐND cấp xã, thời gian tổ chức kỳ họp thường là một ngày làm việc,

mỗi kỳ họp thường thông qua 05-06 báo cáo, còn thời gian tập trung thảo luận. Đây

là hình thức giám sát trực tiếp rất quan trọng của HĐND, tại các kỳ họp Hội đồng

nhân dân cấp xã xem xét báo cáo công tác của Thường trực Hội đồng nhân dân, các

Ban của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân (báo cáo tình hình kinh tế - xã hội,

quốc phòng - an ninh, xây dựng chính quyền và các báo cáo chuyên đề...). Mục đích

của việc xem xét báo cáo của TT HĐND, UBND và các tài liệu khác được trình bày

trong kỳ họp làm cơ sở để đại biểu HĐND tham gia vào việc quyết định các vấn đề

quan trọng nhất của địa phương thuộc chức năng, nhiệm vụ của HĐND, cụ thể nhất

là việc đại biểu HĐND biểu quyết thông qua nghị quyết của HĐND trong kỳ họp,

các quyết định của HĐND được thể hiện dưới hình thức nghị quyết, nghị quyết phải

được quá nữa tổng số đại biểu HĐND biểu quyết tán thành. Theo thống kê trung

bình mỗi kỳ họp HĐND xã, mỗi xã, thị trấn có từ 09-12 đại biểu thảo luận góp ý,

càng ngày số đại biểu tham gia đóng góp ý kiến, tham gia tranh luận càng nhiều và

thiết thực hơn, dần khắc phục được tính hình thức, qua loa trong kỳ họp.

Tuy nhiên, qua giám sát các báo cáo tại các kỳ họp cho thấy cũng còn những

hạn chế đó là: một số báo cáo số liệu chưa chính xác, rõ ràng như về tăng trưởng

kinh tế, sản lượng lương thực, số liệu thu chi ngân sách chưa nêu rõ đến các nội

29

dung chi tiết mà chỉ để số liệu chung chung trong báo cáo, nhiều báo cáo viết dài

dòng không thể hiện cụ thể, chưa nêu được ưu điểm, hạn chế của ngành mình,

phương hướng còn chung chung chưa đưa ra chỉ tiêu mục tiêu cụ thể.

Thứ hai, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn

Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn là một hình thức giám sát khá chặt chẽ

của HĐND, hoạt giám sát của HĐND xã hiệu quả có được nâng lên hay không, có

mạnh hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc chất vấn và trả lời chất vấn, đây là

hoạt động quan trọng thường xuyên trong chương trình giám sát của HĐND.

Nội dung câu hỏi chất vấn đã phỏng vấn được hoạt động giám sát của đa số

đại biểu. Các đại biểu HĐND xã đã có nhiều ý kiến UBND và các ngành liên quan

về những vấn đề bức xúc nổi cộm mà cử tri quan tâm, nội dung chất vấn có địa chỉ

rõ ràng không còn chung chung như trước nữa. Các tập thể, cá nhân khi bị chất vấn

phần lớn đã nghiên cứu kỷ lưỡng nêu cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân và

trả lời nghiêm túc đáp ứng yêu cầu của cử tri và đại biểu. Đối với việc trả lời chất

vấn người bị chất vấn phải trả lời trực tiếp, đầy đủ về các nội dung mà đại biểu hội

đồng đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm, biện pháp khắc phục. Đại biểu hội

đồng không hài lòng với câu trả lời của người bị chất vấn thì có quyền yêu cầu hội

đồng thảo luận và xem xét trách nhiệm đối với người đó. Chất vấn của đại biểu

HĐND xã tại các kỳ họp ngày có càng nhiều và có chiều sâu hơn.

Từ đầu nhiệm kỳ 2016 đến nay HĐND cấp xã của huyện Quế Sơn đã có

nhiều đổi mới về nội dung hoạt động chất vấn và hình thức chất vấn, trong đó đổi

mới về công tác chuẩn bị nội dung chất vấn tạo điều kiện thuận lợi cho đại biểu

thực hiện quyền chất vấn tại kỳ họp. Chính vì thế hoạt động chất vấn đã làm sáng tỏ

được nhiều vấn đề mà cử tri và nhân dân quan tâm do các cơ quan chức năng giải

quyết kéo dài gây bất bình trong dư luận, nhất là các vấn đề đầu tư kém hiệu quả

gây thất thoát lãng phí, các vấn đề về tranh chấp đất đai, đền bù giải phóng mặt

bằng, môi trường, khiếu nại tố cáo, …

Xuất phát từ lợi ích của nhân dân thì việc giải quyết những mâu thuẩn tồn tại

vướng mắc góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy về sự phát triển kinh tế xã hội

30

của địa phương. Khi mối quan hệ chất vấn và trả lời chất vấn được đặt đúng lúc,

đúng chỗ để xem xét giải quyết trên cơ sở khách quan.Thông qua hoạt động chất

vấn người đại biểu HĐND thể hiện được bản lĩnh chính trị và năng lực của bản

thân. Qua thực tế ta thấy kỳ họp nào có nhiều ý kiến chất vấn của đại biểu và trả lời

chất vấn tốt thì không khí của kỳ họp dân chủ và thẳng thắn. Tuy nhiên việc chất

vấn sẽ tập trung vào một số đại biểu, cả nhiệm kỳ có đại biểu chưa thực hiện lần

nào, chất lượng chất vấn và trả lời chất vấn chưa cao, một số văn bản trả lời chất

vấn còn chung chung chưa đi vào thẳng vấn đề còn né tránh trách nhiệm. Khi mối

quan hệ chất vấn và trả lời chất vấn khách quan, đặt lợi ích của nhân dân lên trên thì

có tác dụng giải quyết các vướng mắc tồn tại góp phần lớn vào việc thúc đẩy kinh tế

của địa phương.

Thứ 3, hoạt động giám sát thông qua hình thức bỏ phiếu tín nhiệm đối với

người được giữ chức vụ do HĐND bầu

Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND xã bầu là hoạt động

giám sát mới của HĐND các cấp, nhất là HĐND các xã ít được tổ chức thực hiện.

Theo Nghị quyết số: 561/2013/UBTVQH13, Nghị quyết số: 35/12/QH13, về việc

hướng dẫn lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do quốc hội HĐND các

cấp bầu hoặc phê chuẩn thì những năm qua HĐND cấp xã tại huyện Quế Sơn, tỉnh

Quảng Nam đã tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh chủ chốt do

HĐND xã bầu ra như: Phó CT HĐND, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, Phó chủ

tịch UBND, ủy viên UBND xã theo quy định mỗi năm một lần. Nhưng thực tế các

xã tại huyện Quế Sơn việc lấy phiếu tín nhiện không được thường xuyên, có xã mỗi

năm lấy phiếu tín nhiệm một lần có xã hai năm tổ chức một lần. Thực tiễn kết quả

bỏ phiếu tín nhiệm các xã thị trấn cho thấy không có đại biểu nào có phiếu tín

nhiệm thấp trên 50% để phải đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm.

Thông qua việc lấy phiếu tín nhiệm giúp cho người được lấy tín nhiệm rõ

hơn mức độ trách nhiệm của mình để phấn đấu rèn luyện nâng cao hiệu quả công

việc, nâng cao hiệu quả hiệu lực giám sát của HĐND, thể hiện rõ hơn vai trò giám

sát của HĐND. Việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu

31

mặc dù được quy định lần đầu tiên trong Luật Tổ chức HĐND và UBND nhưng thể

hiện là một công cụ giám sát rất hữu hiệu “Nếu HĐND sử dụng tốt hình thức giám

sát này sẻ có cơ sở để quy kết hệ quả, tức là tiền đề để đi đến việc áp dụng các biện

pháp chế tài giám sát” [3, tr.51].

2.2.2.2. Giám sát của thường trực HĐND cấp xã

- Theo Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 hoạt động gám sát của TT

HĐND gồm:

+ Tổ chức đoàn giám sát;

+ Giải quyết việc khiếu nại tố cáo của công dân;

+ Xem xét trả lời chất vấn trong trường hợp người bị chất vấn được HĐND

cho phép trả lời bằng văn bản gửi đến Thường trực HĐND;

+ Xem xét kết quả giám sát của các Ban HĐND; tổng hợp kết quả của giám

sát trình HĐND;

+ Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của UBND xã có dấu hiệu trái với

Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội, Nghị quyết

của HĐND cùng cấp để trình HĐND, Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật cơ

quan nhà nước cấp trên.

Hoạt động giám sát của TTHDND cấp xã thể hiện trước hết ở việc phối hợp

chuẩn bị kế hoạch, tài liệu, triệu tập và điều hành kỳ họp của HĐND có nội dung

giám sát; kiểm tra đôn đốc UBND cùng cấp thực hiện Nghị quyết của HĐND xã,

điều hòa, phối hợp hoạt động giữa ban Pháp chế và ban Kinh tế HĐND xã, là chủ

thể giám sát việc tuân thủ Hiến Pháp và Pháp luật tại địa phương. Định kỳ hằng

tháng TT HĐND xã tổ chức giao ban với hai ban HĐND và UBND xã để nắm

thông tin, đôn đốc nắc nhở bàn biện pháp giải quyết các vấn đề phát hiện qua giám

sát, kiến nghị, yêu cầu UBND, các ban ngành liên quan có thẩm quyền giải quyết

kịp thời. Đồng thời TTHĐND còn phối hợp với tổ Đại biểu HĐND huyện được bầu

tại địa phương, UBKT đảng ủy, UBMTTQVN, các đoàn thể của xã giám sát các

vấn đề của địa phương.

So với Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND 2015 hiện hành thì

32

quy định Hoạt động giám sát của Thường trực HĐND được bổ sung thêm nội dung

giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri, qua đó mở rộng phạm vi giám sát của

HĐND xã.

Thường trực HĐND chủ động tổ chức các cuộc giám sát, chủ yếu là giám sát

chuyên đề; giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri, giám sát việc giải quyết

khiếu nại tố cáo của công dân và xem xét văn bản quy phạm pháp luật của UBND

cùng cấp. Nhiệm kỳ 2016-2021, trung bình HĐND mỗi xã mỗi năm tổ chức được

03-06 cuộc giám sát, điểm mới ở đây là các cuộc giám sát đều vừa tổ chức giám sát

trên văn bản vừa dành thời gian đi thực tế, đồng thời quan tâm theo dõi việc thực

hiện kiến nghị giám sát đến cùng, có yêu cầu, kiến nghị trọng lượng trong việc giải

quyết đối với các đơn vị, cá nhân, tổ chức chịu sự giám sát, vì thế kết quả giám sát

luôn có chất lượng cao.Tình hình này thể hiện sự chuyển biến rõ nét so với việc TT

HĐND cấp xã thuần túy thực hiện nhiệm vụ tiếp nhận và chuyển đến cơ quan hữu

quan có trách nhiệm giải quyết như trước đây.

Hiện nay chương trình giám sát của TT HĐND cấp xã tại huyện Quế Sơn

căn cứ vào chương trình giám sát của HĐND xã và ý kiến của thành viên TT

HĐND, đề nghị của ban Pháp chế và ban Kinh tế HĐND, đại biểu HĐND,

UBMTTQVN xã và ý kiến kiến nghị của cử tri địa phương, chương trình giám sát

của TTHĐND xã hằng năm quyết định chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày bế mạc kỳ

họp cuối năm của HĐND.

Đối với HĐND cấp xã tại huyện Quế Sơn đã xây dựng quy chế tiếp công dân

theo quy định của pháp luật, có phân lịch, phân công bố trí con người cụ thể để tiếp

công dân, có công khai số điện thoại, địa chỉ cụ thể của lãnh đạo, mỗi tuần trung

bình mỗi xã tiếp công dân từ 01-03 ngày như: HĐND xã Quế Mỹ, Quế Phú, mỗi

tuần tiếp công dân 02 ngày, HĐND xã Quế Hiệp, Quế Phong, mỗi tuần tiếp công

dân 01 ngày, HĐND Thị trấn Đông Phú, thị trấn Hương An mỗi tuần tiếp công dân

03 ngày ... Hằng năm mỗi đơn vị tiếp nhận khoản từ 10-15 đơn thư, kiến nghị, ý

kiến phản ảnh, những đơn thư đều được tiếp nhận, giải thích, hướng dẫn đầy đủ,

đúng luật và được chuyển đến cơ quan chức năng kiểm tra, đôn đốc giải quyết kịp

33

thời để trả lời cho công dân theo quy định của pháp luật. Hình thức này luôn được

nhân dân đồng tình và quan tâm vì đây là hình thức có cơ sở pháp lý đầy đủ minh

bạch, đúng thẩm quyền, được hướng dẫn cụ thể, thời gian giải quyết nhanh gọn.

Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc giám sát của TT HĐND cấp xã tại huyện

Quế Sơn vẫn còn những bất cập, khó khăn, hạn chế như: TT HĐND 02 người, trong

đó chủ tịch HĐND đa số là kiêm nhiệm bí thư Đảng bộ, chỉ có 01 đ/c chuyên trách,

vì thế việc tổ chức giám sát chưa được toàn diện, việc giám sát các ý kiến của cử tri

chưa được thường xuyên chủ yếu là giám sát qua văn bản, thời gian đi thực tế ít,

việc kiểm tra, nhắc nhở, đôn đốc UBND xã và các ngành chức năng giải quyết ý

kiến kiến nghị của cử tri chưa được kịp thời, việc tiếp công dân chưa được thường

xuyên theo quy chế, còn hình thức.

Thứ nhất, về tổ chức hoạt động của đoàn giám sát

Từ năm 2016 đến nay các xã trên địa bàn huyện Quế Sơn căn cứ vào chương

trình giám sát của HĐND, theo yêu cầu của TT HĐND và Đại biểu HĐND tổ chức

được 238 cuộc giám sát với các cơ quan ở địa phương chủ yếu tập trung vào các

vấn đề như: xây dựng nông thôn mới, vệ sinh môi trường, giải tỏa đền bù, việc thực

hiện các chế độ chính sách... đã đưa ra 1901 ý kiến kiến nghị, đôn đốc việc thực

hiện nghị quyết HĐND xã và các quy định pháp luật liên quan, qua đó đã có

1919/2008 ý kiến đã được giải quyết kịp thời đạt 95,56% cụ thể ở một số xã sau:

Trong nhiệm kỳ 2016-2021 HĐND xã Quế Mỹ đã tổ chức được 26 cuộc giám

sát về chế độ nghĩ dưỡng cho người có công; việc cấp phát tiền tiết cho hộ nghèo;

việc thu các khoản thu đóng góp của phụ huynh ở các trường học tại địa phương; cho

vay vốn ưu đãi đối với hộ nghèo, cận nghèo, khó khăn; xây dựng bê tông hóa giao

thông nông thôn, kênh mương nội đồng; quỹ vì người nghèo; cấp thuốc bảo hiểm y tế

cho nhân dân; thu phí thủy lợi phí... Qua giám sát các đoàn giám sát đã đưa ra 181 ý

kiến, kiến nghị với cơ quan ban ngành liên quan, nhất là vấn đề môi trường các trang

trại chăn nuôi heo; môi trường xung quanh khu sản suất đá bột; nhà máy sản xuất tinh

bột sắn...được nhiều đại biểu đoàn giám sát đưa ra ý kiến, kiến nghị với 107 ý kiến.

HĐND xã Quế Phú đã tổ chức được 25 cuộc giám sát đối với việc cấp giấy

34

phép xây dựng trên địa bàn xã; công tác khám chữa bệnh của trạm y tế; việc thực

hiện chương trình nông thôn mới trên địa bàn xã; công tác thu chi “Quỹ vì người

nghèo” của xã; việc xử phạt vi phạm hành chính của công an xã; hoạt động nuôi ăn

bán trú ở trường mẫu giáo tại địa phương; việc dồn điền đổi thửa... Qua đó đã đưa

ra 128 ý kiến, kiến nghị tập trung vào việc thực hiện chương trình mục tiêu nông

thôn mới với 75 ý kiến, kiến nghị của địa biểu đoàn.

HĐND Thị trấn Đông Phú đã tổ chức được 23 cuộc giám sát đối với tình

hình thu chi ngân sách tại địa phương; việc thu các khoản thu đóng góp của phụ

huynh ở các trường học tại địa phương; tình hình quản lý các cơ sở sản xuất kinh

doanh trên địa bàn; công tác quản lý nhân hộ khẩu thường trú tại địa phương; việc

thu chi ngân sách; vệ sinh môi trường, việc thu chi quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ vì

người nghèo, công tác giải phóng mặt bằng tái định cư;...Qua đó đoàn giám sát đã

đưa ra 131 ý kiến, kiến nghị đến các cơ quan liên quan, trong đó công tác quản lý và

sử dụng đất đai được nhiều đại biểu đoàn đưa ra ý kiến, kiến nghị nhiều nhất với 46

ý kiến, kiến nghị.

Từ thực tế các địa phương cho thấy trong những năm qua, nhiều HĐND xã

đã chủ động áp dụng các hình thức giám sát phù hợp với thực tế, từ việc xem xét

báo cáo, chất vấn, trả lời chất vấn, việc tổ chức các đoàn đi giám sát, kiểm tra,

xuống tận nơi để thu thập ý kiến của cử tri giúp HĐNH nắm được tình hình, có

nhiều ý kiến và nhiều vấn đề bức xúc cần được giải quyết kịp thời.

Thứ hai, xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân

Xác định việc tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân

phải gắn với hoạt động giám sát của HĐND. Thường trực HĐND nghiên cứu kỹ

từng vụ việc đối với đơn thư gửi trực tiếp phân loại và thực hiện việc chuyển giao

bằng văn bản cho các cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết. Hoạt động này

giúp TT HĐND có điều kiện nghiên cứu nắm bắt bản chất sự việc giúp công tác xử

lý đơn thư khiếu nại, tố cáo đúng thủ tục, trình tự, có lý có tình.

Đối với những vụ việc phức tạp thì tổ chức giám sát trực tiếp, qua giám sát

TTHĐND mới có cơ sở giải thích cho công dân và kiến nghị những vấn đề cần giải

35

quyết đảm bảo đúng pháp luật.

Đối với đơn thư của công dân đã gửi nhiều lần chưa giải quyết thể hiện sự bức

xúc thì lập danh sách theo dõi, đôn đốc kết quả giải quyết của các cơ quan.

Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Thường trực hội đồng nhân dân các xã, thị trấn đã

tiếp nhận và chuyển các cơ quan chuyên môn giải quyết được 306 đơn thư các loại

(trong đó: 116 đơn khiếu nại, 158 đơn kiến nghị, 32 đơn tố cáo) của công dân với

nội dung chủ yếu liên quan đến đất đai, môi trường, giải tỏa đền bù. Đa số đơn thư

đều được chuyển đúng địa chỉ, đúng người và cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Qua khảo sát có 85% đơn thư được nhân dân đồng tình qua trả lời của các cơ quan

chức năng, cụ thể:

Nhiệm kỳ 2016-2021, thường trực HĐND xã Quế Mỹ đã nhận được 06 đơn

của cá nhân, tổ chức với nội dung chủ yếu liên quan đến đất đai, môi trường, đã giải

quyết 06/06 đơn; thường trực HĐND Thị trấn Hương An đã nhận được 05 đơn của

tổ chức, cá nhân với nội dung chủ yếu liên quan quy hoạch đến đất đai, giải tỏa đền

bù khu phố chợ, quy hoạch xây dựng nông thôn mới, đã giải quyết được 04/05 đơn;

có 01 đơn kiến nghị liên quan đến điều chỉnh quy hoạch xây dựng Nông thôn mới

đã được tiếp thu và gửi các cấp xem xét giải quyết; thường trực HĐND xã Quế

Thuận đã nhận được 04 đơn của tổ chức, cá nhân với nội dung chủ yếu liên quan

quy hoạch đến đất đai, quy hoạch xây dựng nông thôn mới, đã giải quyết được

04/05 đơn.

Nhờ có sự phối hợp thường xuyên của thường trực HĐND trong công tác

tiếp dân, giải quyết các đơn thư khiếu nại của công nên phần lớn các đơn thư khiếu

nại, tố cáo, kiến nghị được các nghành chức năng giải quyết kịp thời, giảm tình

trạng đơn thư vượt cấp tồn đọng đáng kể, góp phần rất lớn vào việc đảm bảo quyền

và lợi ích hợp pháp của công dân tạo niềm tin cho cử tri đối với hoạt động của

HĐND.

Thứ ba, xem xét văn bản quy phạm của UBND cùng cấp.

Để thực hiện tính hợp hiến hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật

của UBND cùng cấp tại các kỳ họp HĐND cũng như giữa hai kỳ họp, thường trực

36

HĐND và đại biểu HĐND phải thường xuyên thực hiện việc giám sát các văn bản

thuộc thẩm quyền của mình nhằm có những đề xuất kiến nghị kịp thời.

Tuy nhiên đối với UBND cấp xã hiện nay không còn chức năng ban hành

các văn bản quy phạm pháp luật nên HĐND không tiến hành xem xét văn bản quy

phạm pháp luật của UBND cùng cấp.

2.2.2.3. Giám sát của các ban của HĐND xã

Theo Luật tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 tại Điều 32 và Luật

hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015, cơ cấu tổ chức HĐND cấp

xã và hoạt động giám sát của Ban HĐND được quy định như sau:

HĐND xã thành lập Ban Kinh tế - xã hội, Ban Pháp chế, mỗi ban gồm có

trưởng ban, một phó ban và các ủy viên, tất cả đều hoạt động kiêm nhiệm, số lượng

ủy viên của ban Ban Kinh tế - xã hội, Ban Pháp chế HĐND xã do HĐND xã quyết

định. Cơ quan tham mưu giúp việc của HĐND là Ban Kinh tế và Ban Pháp chế của

HĐND. Căn cứ vào chương trình kế hoạch hoạt động cụ thể của HĐND và Nghị

quyết HĐND. Theo lĩnh vực phụ trách của mình hằng năm các Ban đã xây dựng

chương trình hoạt động, kế hoạch giám sát cụ thể phù hợp với tình hình thực tế của

địa phương. Về hình thức giám sát ban Ban Kinh tế - xã hội, Ban Pháp chế HĐND xã

có thể tiến hành giám sát thường xuyên theo định kỳ hay giám sát đột xuất các vấn đề

bức xúc, nổi cộm mà nhân dân và cử tri quan tâm.

Theo báo cáo tổng kết hoạt động của HĐND các xã tại huyện Quế Sơn và

báo cáo hoạt động các Ban HĐND năm 2016 đến nay hoạt động giám sát của các

Ban đã có nhiều sự tiến bộ như: Hằng năm ban Kinh tế - xã hội và Ban Pháp chế

HĐND xã xây dựng kế hoạch giám sát cụ thể, xác định rõ phạm vi, đối tượng, nội

dung giám sát, thống nhất chương trình, thời gian giám sát, thành phần tham dự,

đồng thời yêu cầu đơn vị được giám sát phải chuẩn bị báo cáo bằng văn bản (có đề

cương báo cáo gửi kèm). Từ đó đã tạo được bước chuyển biến tích cực trong hoạt

động kiểm tra giám sát của HĐND, khắc phục được tình trạng chung chung, tràn

lan, mất nhiều thời gian nhưng không đem lại hiện quả thực tế.

37

Bảng 2.6. Bảng thống kế số lượng giám sát chuyên đề của 02 Ban thuộc 11 xã,

02 thị trấn tại huyện Quế Sơn từ năm 2016 đến năm 2020

Các xã, thị trấn của huyện Số lượng chuyên đề giám sát của hai Ban

STT

Quế Sơn từ năm 2016 đến 2020

1 Xã Quế Xuân 1 8

2 Xã Quế Xuân 2 8

3 Xã Quế Phú 9

4 Thị Trấn Hương An 9

5 Xã Quế Mỹ 12

6 Xã Quế Thuận 8

7 Xã Quế Hiệp 8

8 Xã Quế Châu 8

9 Xã Quế Minh 7

10 Thị Trấn Đông Phú 8

11 Xã Quế Long 7

12 Xã Quế Phong 8

13 Xã Quế An 6

Tổng: 106

Nguồn: Báo cáo của HĐND huyện Quế Sơn từ năm 2016 đến năm 2020

Qua bảng số liệu trên cho thấy từ năm 2016 đến nay ngoài việc giám sát tại

các kỳ họp, hai Ban của HĐND xã tại huyện Quế Sơn đã tổ chức được 106 cuộc

giám sát chuyên đề, chủ yếu tập trung vào những vấn đề quan trọng như: Giải tỏa

đền bù, xây dựng nông thôn mới, xây dựng cơ sở hạ tầng, chế độ chính sách, môi

trường, đất đai các vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của

nhân dân địa phương. Qua giám sát, không những phát hiện những sai sót của các

cơ quan chức năng mà các Ban của HĐND xã còn đưa ra những đề xuất, kiến nghị

các giải pháp giúp các đối tượng bị giám sát kịp thời chấn chỉnh những thiếu sót

trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng chính sách, pháp luật của Nhà

nước.

38

2.2.2.4. Giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã

Các đại biểu Hội đồng nhân dân xã thực hiện việc giám sát thông qua các

hoạt động như sau: Chất vấn những người bị chất vấn tại kỳ họp, giám sát các quyết

định của UBND cùng cấp, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương, giám sát

việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân. Các đại biểu dự kỳ họp

tích cực và đầy đủ hơn tham gia thảo luận các báo cáo. Trung bình các kỳ họp

HĐND mỗi xã có khoản 15-20 ý kiến phát biểu tại hội trường và các ý kiến phát

biểu ngày càng chất lượng, tập trung vào các vấn đề Nhân dân và xã hội quan tâm.

Các đại biểu đã thực hiện quyền của mình trên cơ sở pháp luật cho phép, phù hợp

với tình hình thực tế ở địa phương để phân tích đánh giá các báo cáo cụ thể khách

quan, đồng thời đã có nhiều ý kiến phát biểu thảo luận một cách dân chủ, thiết thực

hơn. Từ đó đã giúp cho HĐND xã ban hành các Nghị quyết phù hợp, sát với thực

tiễn tại địa phương, tạo sự chuyển biến rõ nét trong hoạt động giám sát, tạo niềm tin

cho nhân dân và cử tri. Qua đó cũng giúp cho các cơ cáo nâng cao hơn nữa tinh thần

trách nhiệm trước HĐND xã.

Đối với vấn đề chất vấn, thường là những vấn đề bức xúc của đời sống kinh

tế xã hội mà cử tri yêu cầu phải giải quyết, nội dung chất vấn của các đại biểu đã cụ

thể rõ ràng hơn, các đại biểu cũng đã mạnh dạn nói thật, nói thẳng vấn đề không né

tránh nể nang, thảo luận sôi nổi, nếu thấy việc trả lời chất vấn chưa thỏa đáng đại

biểu tiếp tục chất vấn. Từ đó chất lượng chất vấn của đại biểu HĐND xã tại kỳ họp

đã được tăng lên góp phần nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND.

Đối với việc tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp, các vị đại biểu HĐND xã

từng khu vực tiến hành tổ chức tiếp xúc cử tri, việc tiếp xúc cử tri được các đại biểu

thực hiện nghiêm túc với nhiều hình thức và nội dung phong phú, do đó hầu hết

những kiến nghị chính đáng của cử tri đều được các đại biểu tổng hợp phản ánh kịp

thời đầy đủ tại kỳ họp HĐND. Sau mỗi kỳ họp, các đại biểu báo cáo nội dung, kết

quả của kỳ họp đồng thời trả lời những kiến nghị mà cử tri quan tâm, phần lớn khắc

phục được tình trạng hứa suông ghi nhận suông như trước đây, tuy nhiên vẫn có

những nội dung ghi nhận nhiều lần nhưng chưa trả lời được do nhiều yếu tố như

39

kinh phí, chờ ý kiến của cấp trên... Đa số Đại biểu HĐND đều hoạt động kiêm

nhiệm, nhiều đại biểu là bí thư chi bộ, thôn trưởng, lớn tuổi trình độ thấp, một số

đại biểu ngại va chạm, sợ mất lòng, có đại biểu còn lúng túng khi tiếp cận, trả lời ý

kiến kiến nghị của cử tri, có đại biểu trong cả nhiệm kỳ không phát biểu ý kiến nào.

Đó là những vấn đề cần khắc phục để mỗi đại biểu phát huy hết nhiệm vụ, khả năng

của mình góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND nhất là hoạt động giám

sát tạo niền tin ở cử tri và nhân dân.

2.2.3. Điều chỉnh, bổ sung nội dung và chương trình giám sát của HĐND

cấp xã

Chương trình giám sát hằng năm của HĐND cấp xã được ban hành trên cơ

sở đề nghị của Ban Pháp chế và Ban Kinh tế - xã hội, đại biểu HĐND xã, thường

trực UBMTTQVN xã và kiến nghị của cử tri trình HĐND xã xem xét, quyết định

tại kỳ họp giữa năm của năm trước.

Chương trình giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân hàng năm căn cứ

vào đề nghị của hai Ban, ý kiến của thành viên thường trực HĐND, đại biểu HĐND

xã, thường trực UBMTTQVN xã, kiến nghị của cử tri và chương trình giám sát của

HĐND cấp xã.

Chương trình giám sát của Ban Pháp chế và Ban Kinh tế- xã hội xã hàng

năm căn cứ vào chương trình giám sát của HĐND cấp xã, TTHĐND và ý kiến của

thành viên của Ban.

Chương trình giám sát của đại biểu HĐND hàng năm căn cứ vào chương

trình giám sát của HĐND cấp xã, tất cả chương trình, nội dung giám sát được thống

nhất tại các kỳ họp và các lần giao ban của TT HĐND cấp xã.

Từ năm 2016 đến nay, HĐND 11 xã 02 thị trấn tại huyện Quế Sơn đã điều

chỉnh bổ sung một số chương trình, nội dung giám sát đã được ban hành có hiệu

lực, vì nhiệm vụ chính trị tại địa phương luôn có sự thay đổi cho phù hợp với nhiệm

vụ của cấp trên giao, đồng thời có một số ý kiến kiến nghị của cử tri về những vấn

đề nổi cộm bức xúc cần quan tâm do đó cần phải bổ sung cho phù hợp chương trình

giám sát.

40

2.2.4. Theo dõi đôn đốc, kiểm tra việc giám sát của HĐND cấp xã

Hoạt động giám sát của HĐND cấp xã tại Huyện Quế Sơn trong thời gian

qua luôn nhận được sự quan tâm theo dõi, kiểm tra, đôn đốc từ HĐND cấp huyện và

Đảng ủy xã, UBND, UBMTTQVN, các đoàn thể của xã, cũng như có sự tương tác

tham gia, kiểm tra, đôn đốc lẫn nhau giữa các chủ thể giám sát của HĐND cấp xã.

Qua đó, giúp cho HĐND cấp xã tại huyện Quế Sơn thực hiện việc giám sát của

mình được đảm bảo mục đích, kịp thời hơn về yêu cầu và nội dung giám sát đã đề

ra. Hoạt động này được diễn ra tại các cuộc họp giao ban của thường trực HĐND

xã, đại biểu của HĐND cấp xã, Ban Kinh tế và Ban Pháp chế. Bên cạnh công tác

kiểm tra, đôn đốc việc giám sát còn được thể hiện qua các văn bản chỉ đạo điều

hành của Ban thường vụ Đảng ủy và của Hội đồng nhân dân cấp trên, văn bản đề

xuất của UBMTTQVN và các hội đoàn thể của xã.

Cụ thể như trong cuộc họp giao ban của thường trực HĐND xã Quế Mỹ

thành phần tham dự bao gồm các đại biểu HĐND của Huyện, thường trực Đảng ủy,

thường trực UBMTTQVN xã, các đoàn thể của xã ...

Nội dung: Căn cứ vào Nghị quyết của HĐND xã về chương trình giám sát

trong năm, sau khi nghe Hội đồng nhân dân xã Quế Mỹ báo cáo kết quả giám sát

theo chương trình đã đề ra trong kỳ họp, các thành phần tham dự cuộc họp nhất là

cấp ủy Đảng đề nghị tiếp tục tăng cường giám sát các nội dung chưa được thực hiện

mà đã đề ra trong Nghị quyết, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát đã đề ra trong

năm của HĐND xã Quế Mỹ.

2.2.5. Đánh giá, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm hoạt động giám sát của

HĐND cấp xã

Qua thực tiễn hoạt động giám sát của HĐND cấp xã ở huyện Quế Sơn cho

thấy, sau khi kết thúc các cuộc giám sát thì các chủ thể giám sát như: Thường trực

HĐND, các Ban, các đoàn giám sát đều có văn bản gửi sau khi có sự tham luận

nghiêm túc, thẳng thắng giữa các bên để có kết luận chính thức về cuộc giám sát,

trong đó chỉ ra những ưu điểm, những tồn tại cần khắc phục,đồng thời có những đề

xuất, kiến nghị đối với các cấp, các ngành liên quan, cần tập trung, xử lý, tháo gỡ

41

những vướn mắc của cơ quan đơn vị, đối tượng được giám sát. Ngoài ra, HĐND xã

ở huyện Quế Sơn còn tổ chức các cuộc họp rút kinh nghiệm để khắc phục những

tồn tại hạn chế và đánh giá hoạt động về công tác giám sát.

Tuy nhiên, sau khi kết thúc hoạt động giám sát vẫn còn một số cá nhân, đơn

vị chịu sự giám sát vẫn không thực hiện đúng kết luận, hoặc thực hiện không

nghiêm túc các kết luận nhưng vẫn chưa có cơ chế để giải quyết.

2.3. Đánh giá chung về thực trạng giám sát của Hội đồng nhân dân cấp

xã ở huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam

2.3.1. Ưu điểm và nguyên nhân

* Ưu điểm

- Về xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát

Hàng năm, tại kỳ họp cuối năm Thường trực Hội đồng nhân dân và các Ban

của HĐND cấp xã đã chủ động xây dựng trình chương trình, kế hoạch giám sát cho

kế hoạch năm sau và được HĐND thông qua bằng Nghị quyết tại kỳ họp cuối năm.

Nhìn chung việc xây dựng chương trình, nội dung giám sát đã được các đại biểu căn

cứ vào yêu cầu thực tiễn của địa phương.

- Về tổ chức thực hiện chương trình giám sát

Trên cơ sở kế hoạch năm của mình, Thường trực HĐND, Ban Kinh tế- xã

hội và Ban Pháp chế phân bổ các đợt giám sát cho phù hợp với từng thời điểm trong

năm.

Ví dụ: Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản thì phải giám sát vào mùa khô; giám

sát đột xuất thường tập trung vào các vấn đề nóng phát sinh trong đơn tố cáo, khiếu

nại, tranh chấp; giám sát lĩnh vực thu ngân sách thường giữa năm hay cuối năm.

Khi thành lập đoàn giám sát, để tranh thủ các ý kiến và tăng cường tính dân chủ

trong hoạt động giám sát HĐND, các Ban đã mời các thành viên trong hệ thống

chính trị như UBMTTQVN, các đoàn thể chính trị, các ngành liên quan am hiểu về

các lĩnh vực cần giám sát cùng tham gia vào đoàn giám sát.

Để các cuộc giám sát mang lại hiệu quả thiết thực cũng như đảm bảo quy

trình, đoàn giám sát đã chủ động xây dựng nội dung yêu cầu, đề cương gửi trước

42

cho đơn vị chịu sự giám sát trước 15 ngày.

Kết thúc cuộc giám sát, sau khi có sự thảo luận trao đổi thẳng thắn, nghiêm

túc giữa các bên, đoàn gám sát luôn có văn bản kết luận chính thức nội dung giám

sát gửi cho đối tượng chịu sự giám sát, trong kết luận chỉ ra những ưu điểm, tồn tại

cần khắc phục, đồng thời có những kiến nghị đề xuất cho các cấp, các ngành liên

quan cần tập trung xử lý, tháo gỡ những vướn mắc của đối tượng, đơn vị được giám

sát.

Sau giám sát Thường trực HĐND và các Ban HĐND thường xuyên theo dõi

đôn đốc các cơ quan, đơn vị, những nội dung mà đoàn giám sát kiến nghị đồng thời

có báo cáo việc thực hiện sau giám sát của các đơn vị đó trong kỳ họp HĐND cuối

năm. Trong thực tiễn thời gian qua, về cơ bản các nội dung kiến nghị được các cơ

quan liên quan tiềm biện pháp tháo gỡ khắc phục những tồn tại mà các đoàn giám

sát đã nêu.

- Việc phối hợp trong công tác giám sát

Thời gian qua, HĐND cấp xã ở huyện Quế Sơn thực hiện tốt công tác phối

hợp, một cuộc giám sát có đạt hiệu quả hay không ngoài việc chuẩn bị nội dung

chương trình kế hoạch, công tác phối hợp đóng một vai trò hết sức quan trọng trong

công tác giám sát. Do đó HĐND đã chú trọng rất lớn đến sự phối hợp đồng bộ giữa

các Ban, các cấp, các ngành, đoàn thể liên quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi về mọi

mặt nhất là thông tin nội dung, cũng như giúp HĐND xã đánh giá khách quan,

chính xác, khoa học các vấn đề được giám sát.

Nội dung giám sát chuyên đề của Thường trược HĐND được chọn lọc kỹ

hơn, tập trung vào những vấn đề lớn được đông đảo nhân dân, cử tri quan tâm và

ủng hộ. Các báo cáo kết quả giám sát đánh giá được thực tế, tương đối chính xác,

đưa ra nhiều kiến nghị chính đáng, được đơn vị chịu sự giám sát tiếp thu, có hướng

khắc phục. Thông qua hoạt động giám sát các Ban có thêm cơ sở để xem xét, thẩm

tra các Nghị quyết, báo cáo, tờ trình giúp HĐND quyết định những vấn đề quan

trọng tại địa phương. Hoạt động giám sát của TT HĐND và các Ban ngày càng ổn

định, thực chất, nhất là giám sát chuyên đề và giám sát tại kỳ họp. Giám sát chuyên

43

đề do các đoàn thực hiện thời gian qua phần nào phát huy hiệu quả góp phần nâng

cao hiệu quả công tác quản lý trên các mặt đời sống xã hội nâng cao hiệu quả hoạt

động của HĐND cấp xã.

* Nguyên nhân của ưu điểm

- Luật hoạt động giám sát của Quốc Hội và HĐND năm 2015 quy định rõ

ràng; quy chế hoạt động của HĐND quy định về hoạt động giám sát của HĐND, TT

HĐND, các Ban HĐND và đại biểu HĐND là cơ sở pháp lý quan trọng giúp

HĐND cấp xã ở huyện Quế Sơn triển khai thực hiện hoạt động giám sát đạt kết quả.

- Nhờ sự quan tâm của HĐND cấp trên, lãnh đạo Ban thường vụ Đảng ủy

như hiện nay một số xã chủ tịch hội đồng riêng không kiêm nhiệm, một số xã Phó

chủ tịch HĐND xã là ủy viên Ban thường vụ, Ủy viên thườn trực HĐND là cấp ủy

viên, trưởng ban Kinh tế-xã hội và Ban Pháp chế là cấp ủy viên trưởng đầu ngành

nên các cuộc họp quan trọng hầu hết được mời dự nên nắm bắt kịp thời các nhiệm

vụ chính trị của địa phương, giúp hoạt động giám sát có hiệu quả sát thực với nhiệm

vụ phát triển kinh tế xã hội ở địa phương hơn. Hằng năm TT HĐND, các Ban

HĐND, địa biểu HĐND xã được HĐND huyện thường xuyên tổ chức tập huấn kỹ

năng giám sát, hàng năm TT HĐND huyện đều tổ chức giao ban TT HĐND các xã

để rút kinh nghiệm, trao đổi những cách làm hay hiệu quả. Nguồn lực ngân sách

phân bổ cho HĐND nói chung và công tác giám sát nói riêng tương đối đảm bảo

thực hiện nhiệm vụ.

- Làm tốt công tác phối hợp giữa TT và các Ban HĐND huyện với TT và các

Ban HĐND cấp xã khi tiến hành giám sát tại địa phương. Qua đó giúp HĐND cấp

xã giám sát việc chấp hành pháp luật của các tổ chức, cơ quan, đồng thời cũng học

hỏi những kinh nghiệm giám sát của HĐND cấp trên của mình.

- Nhờ sự nổ lực hết mình của tập thể HĐND, TT HĐND, các Ban HĐND,

các vị đại biểu HĐND phát huy hết vai trò trách nhiệm, chức năng của mình, sự

đồng tình của cả hệ thống chính trị và nhân dân cũng như cử tri địa phương nhất là

công tác giám sát phù hợp với thực tiễn.

44

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

* Hạn chế

- Đội ngũ giúp việc cho TTHĐND một số đơn vị còn yếu, khi có yêu cầu

của đoàn giám sát, một số đơn vị cử cán bộ tham gia đoàn giám sát cho đủ thành

phần mà không đủ năng lực, kinh nghiệm chưa đáp ứng được yêu cầu giám sát.

- Trong các đợt giám sát của HĐND cấp xã chưa có nhiều cuộc giám sát đột

xuất các vấn đề mà cử tri và nhân dân quan tâm mà vẫn còn thường tập trung vào

giám sát định kỳ.

- Công tác phối kết hợp giữa các cấp, các ngành nhất là ngành có hoạt động

kiểm tra, thanh tra, giám sát của HĐND chưa được đồng bộ, còn chồng chéo.

- Việc ban hành kết luận sau giám sát một số đơn vị còn chậm, các ý kiến

nêu ra chưa phù hợp với thực trạng của đơn vị chịu sự giám sát. Việc kiểm tra đôn

đốc thực hiện các kiến nghị đề xuất sau giám sát thiếu quyết liệt, chưa thực hiện

giám sát đến cùng cho nên vẫn còn một số hiện tượng sau giám sát đâu lại vào đấy.

Các đơn vị có trách nhiệm chưa thật sự nghiêm túc thực hiện các đề xuất kiến nghị

nhưng HĐND vẫn chưa có các chế tài buộc phải có trách nhiệm khắc phục những

tồn tại hạn chế.

- Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã ở huyện Quế Sơn trong

những năm qua đã mang lại nhiều kết quả đáng kể, giải quyết tốt những đơn thư,

khiếu nại, những bức xúc của công dân, phải nói rằng khi có sự giám sát của HĐND

cấp xã trên địa bàn đã góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ công

chức trong thực thi công vụ, thông qua hoạt động giám sát đã phát hiện một số vấn

đề sai sót và vi phạm luật cũng như những vấn đề cần phải làm nhưng chưa làm

được của các cơ quan, ban, ngành và đơn vị ở địa phương. Tuy nhiên Hoạt động

giám sát của HĐND ở một số xã tại huyện Quế Sơn trong thời gian qua đã vẫn còn

mang tính hình thức. Các công cụ giám sát được quy định trong văn bản pháp luật

hiện hành đều được sử dụng, nhưng thực chất chưa phát huy hết mục đích, tác dụng

của nó, do đó kết quả giám sát chỉ dừng lại ở các con số như nội dung chất vấn qua

các kỳ họp, sự việc được giám sát hay số lượng đoàn giám sát... còn sự ảnh hưởng

45

của nó chưa được HĐND quan tâm đúng mức, dẫn đến đạt chỉ tiêu kế hoạch giám

sát nhưng hiệu quả, chất lượng giám sát sẽ không cao. Nhiều ý kiến của cử tri đã

kiến nghị nhiều lần nhưng chưa giải quyết được.

- Trình độ, năng lực, kinh nghiệm của một số đại biểu HĐND xã còn hạn

chế, chưa nắm luật và chưa nắm được cách thức tiến hành giám sát, hoạt động giám

sát của đại biểu còn lúng túng, đôi khi làm qua loa cho xong việc.

- Hoạt động chất vấn có đôi lúc nội dung còn dàn trải, còn chưa thực chất,

chất vấn không đúng đối tượng, hỏi chỉ để lấy thông tin. Việc trả lời chất vấn còn

chung chung, còn lảng tránh trách nhiệm, thiếu giải pháp cụ thể để thực hiện, chưa

đối chất đến cùng một vấn đề cụ thể. Việc chất vấn chỉ tập trung vào một số đại

biểu, có khi cả nhiệm kỳ có đại biểu chưa chất vấn lần nào do tình trạng nể nang,

ngại va chạm trong hoạt động chất vấn vẫn còn.

- Tài liệu gửi đến các đại biểu còn chậm, theo quy định gửi trước 5 ngày

nhưng có xã đến ngày họp mới gửi tài liệu, thời gian họp của mỗi kỳ họp HĐND xã

thường trong vòng một ngày, có xã chỉ gói gọn trong một buổi, trong đó thông qua

các báo cáo chiếm niều thời gian như: Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh

tế - xã hội, an ninh- quốc phòng, báo cáo thu - chi ngân sách, báo cáo hoạt động của

TT HĐND, báo cáo của hai Ban, UBMTTQVN xã báo cáo tham gia xây dựng chính

quyền, do đó ít có thời gian bàn luận và quyết những vấn đề kiến nghị của cử tri,

việc chuẩn bị nội dung để thảo luận và quyết định tại kỳ họp còn hạn chế. Số lượng

đại biểu tham gia thảo luận, chất vấn ít, chủ yếu là đại biểu khác mời của thôn như

bí thư chi bộ, thôn trưởng, trưởng ban công tác mặt trận thôn tham gia ý kiến nhiều

hơn là đại biểu HĐND xã.

* Nguyên nhân hạn chế

- Tính chất, đặc điểm cũng như cơ cấu tổ chức của HĐND cấp xã có nhiều

điểm khác biệt so với HĐND cấp huyện, cơ cấu tổ chức của HĐND các xã chưa

tương xứng với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của HĐND, các công việc cần

giải quyết nhiều hơn nhưng HĐND xã lại không có ủy viên thường trực chỉ có chủ

tịch và phó chủ tịch trong đó chủ tịch là bí thư Đảng bộ kiêm nhiệm chủ tịch

46

HĐND, các ban đều là kiêm nhiệm.

- Cơ cấu tỷ lệ đại biểu HĐND xã là cán bộ, công chức như hiện nay là vấn đề

bất cập, vì đại biểu cần có thời gian để thực hiện nhiệm vụ của người đại biểu

HĐND nhưng họ lại phải thực hiện nhiệm vụ của một người cán bộ, công chức. Họ

vừa là đối tượng chịu sự giám sát vừa là chủ thể thực hiện quyền giám sát, chất vấn

lãnh đạo cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên của mình hay cơ quan Nhà nước, vì thế

không đảm bảo tính chủ động và khách quan trong giám sát của HĐND xã. Nhiều ý

kiến kiến nghị còn phải chờ xin ý kiến chủ trương của cấp trên nên vẫn chưa giải

quyết được.

- Trình độ, năng lực của một số TT HĐND và đại biểu HĐND còn hạn chế,

một số cơ quan, đơn vị được giám sát chưa tôn trọng và chấp hành chưa nghiêm các

kết luận của HĐND. Hoạt động chất vấn còn mời nhạt. Sinh hoạt của các tổ đại biểu

rất ít.

- Nội dung giám sát một số đơn vị còn dàn trải, chưa nêu được cơ quan đơn

vị chịu trách nhiệm chính, một số kiến nghi còn chung chung, chưa quy định rõ thời

gian giải quyết kiến nghị, chưa thực sự quan tâm đến việc đôn đốc, kiểm tra thực

hiện kiến nghị sau giám sát.

- Cơ chế chính sách pháp luật đối với giám sát chưa đảm bảo, chưa có chế tài

trong kết luận giám sát, việc không cung cấp thông tin cho đại biểu hay việc không

chấp hành yêu cầu. Mức phụ cấp cho các đại biểu còn thấp (hệ số 0,3 mức lương tối

thiểu) phần nào cũng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động giám sát.

Tiểu kết Chương 2

Từ thực trạng giám sát của HĐND cấp xã tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng

Nam như đã nêu trên có thể khẳng định rằng, việc giám sát của HĐND cấp xã thời

gian qua đã đạt một số kết quả đang kể, đã dần khẳng định được vai trò, vị trí là cơ

quan quyền lực nhà nước ở địa phương, quyết định nhiều vấn đề quan trọng ở địa

phương, là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương. Hoạt động giám sát của của

HĐND đã đi vào thực chất hơn, hiệu quả giám sát được nâng lên, đem lại niềm tin

47

cho cử tri và nhân dân. Về cơ bản các tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát đã tiếp thu

tốt kiến nghị của chủ thể giám sát. Tuy nhiên hiện nay hiệu quả họa động giám sát

của HĐND xã vẫn chưa cao. Vì vẫn còn những tồn tại hạn chế bất cập, vì vậy chúng

ta cần phải nghiên cứu tìm ra những nguyên nhân và giải pháp phù hợp để khắc

phục hạn chế như đã nêu trên. Đồng thời đưa ra những quan điểm, những giải pháp

chung, đặc biệt là nhóm giải pháp cụ thể cần phải phù hợp để điều chỉnh một cách

đúng thực trạng, vì nó có ý nghĩa thực sự đối với việc tăng cường hiệu quả giám sát

của HĐND cấp xã của huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.

48

CHƯƠNG 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁM SÁT

CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN

QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng

nhân dân cấp xã

3.1.1. Giám sát của HĐND cấp xã phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với

hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng, Ủy ban mặt trận tổ quốc, các cơ quan

nhà nước khác và toàn xã hội

Trong điều kiện hiện nay, hoạt động giám sát của HĐND cần có sự phối hợp

hài hòa giữa hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của tổ chức Đảng, cơ quan nhà

nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội khác nhằm tránh sự mâu thuẫn,

chồng chéo hoạt động giữa các cơ quan với nhau gây cản trở cho hoạt động bình

thường của các cơ quan chịu sự giám sát. Hoạt động giám sát muốn đạt hiệu quả

cao thì một trong những yếu tố quan trọng là phải có hệ thống pháp luật hoàn thiện

và đồng bộ về giám sát. Hiện nay hoạt động giám sát chưa có chế tài xử lý, vì vậy

chất lượng giám sát vẫn còn thấp. Các đối tượng và chủ thể bị giám sát cần nhận

thức đầy đủ và đúng đắn như là động lực để phát triển về yêu cầu, vai trò của hoạt

động giám sát của Hội đồng nhân dân, nhằm ngăn chặn tình trạng vi phạm pháp luật

đang diễn ra tại các đơn vị bị giám sát chứ không phải tìm tòi bới móc mặt yếu kém.

Trên cơ sở đó để xác định, nhiệm vụ, mục tiêu của hoạt động giám sát.

3.1.2. Giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã phải mạng lại hiệu quả

thực tế, đảm bảo lợi ích chung của đất nước

Việc xem xét báo cáo của TT HĐND, UBND cùng cấp không phải chỉ dừng

lại ở việc nghe báo cáo, ý kiến chung chung xuôi chiều, mà cần phải bày tỏ quan

điểm, rõ ràng chính đáng đối với những vấn đề không nhất trí hay nhất trí với

những nội dung mà báo cáo đã nêu. Hiệu quả giám sát còn thể hiện ở việc HĐND

phát hiện ra những quy định của chính sách pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm

49

quyền ban hành chưa sát đúng với thực tế để đề xuất, kiến nghị với cơ quan nhà

nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung kịp thời. Do đó hoạt động giám sát các kỳ họp

phải mang lại hiệu quả thiết thực. Pháp luật ban hành thể hiện ý chí và bảo vệ đa số

quyền và lợi ích của đa số các tầng lớp Nhân dân trong xã hội. Hoạt động giám sát

của HĐND cấp xã trên địa bàn huyện nhằm theo dõi, xem xét việc thi hành pháp

luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và công dân. Nếu phát hiện những sai phạm

HĐND xã sẽ kiến nghị với các chủ thể chịu sự giám sát phải sửa đổi cho phù hợp

với quy định của pháp luật hiện hành. Sự tuân thủ nghiêm pháp luật của các chủ thể

chịu sự giám sát chính là đảm bảo lợi ích của Nhân dân. Tuy nhiên việc đưa ra các

kiến nghị sau giám sát không đồng nghĩa với việc điều chỉnh những giải pháp nào

đó nhằm bảo vệ lợi ích cục bộ của địa phương. Tính thống nhất về chính sách được

thể hiện ở việc cụ thể hóa chủ trương, đường lối nhất quán từ trung ương đến địa

phương. Chính vì thế, hoạt động giám sát của HĐND cấp xã phải đảm bảo lợi ích

chung của đất nước, lợi ích chung của địa phương phù hợp với lợi ích của quốc gia.

3.1.3. Giám sát của Hội đồng nhân dân xã phải đảm bảo đưa ra các kiến

nghị hoàn thiện cơ chế chính sách, nâng cao vai trò quản lý của chính quyền cấp

Trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, mặc dù các nhà

làm luật, các nhà hoạch định chính sách đã tuân thủ quy trình rất nghiêm ngặt, khoa

học, nhưng khi áp dụng vào thực tiễn vẫn bộc lộ những điểm chưa phù hợp, chưa

đáp ứng được nhu cầu của xã hội mà cần thiết phải bổ sung cho kịp thời. Vì thế, chỉ

có thể thông qua hoạt động giám sát thực tiễn, mới phát hiện ra những lỗ hổng,

những mặt trái hay tính không khả thi, đồng bộ của chính sách. Yêu cầu đó đặt ra

cho hoạt động giám sát của HĐND nhiều vấn đề cần phải đổi mới, nâng cao chất

lượng xây dựng chương trình, kế hoạch xác định mục tiêu giám sát, xây dựng đội

ngũ có đủ trình độ, năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ, sử dụng phương pháp khoa

học. Vì quá trình giám sát thực chất là quá trình kiểm nghiệm tính đúng đắn của

chính sách, pháp luật được triển khai trên thực tế.

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã nhấn mạnh “Đối với chính quyền địa

50

phương, tên cơ sở phân công, phân cấp, chính quyền địa phương nâng cao tính chủ

động, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành, lãnh thổ theo đúng nguyên tắc tập trung dân

chủ, tổ chức hợp lý HĐND...” [12, tr.133]. Từ đó cho thấy, Đảng và Nhà nước ta rất

quan tâm đến vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung

và bộ máy chính quyền địa phương nói riêng, trong đó cấp xã, phường dần tăng

thêm thẩm quyền trách nhiệm cho chính quyền địa phương, đảm bảo cho việc phân

cấp giữa Trung ương và địa phương. Cơ sở là cấp cuối cùng của bốn cấp là nơi tiếp

xúc trực tiếp với Nhân dân, là nơi đáp ứng nhu cầu nguyện vọng chính đáng và hợp

pháp của Nhân dân, trong đó có HĐND xã. Chính vì thế, vai trò quản lý Nhà nước

gắn việc nâng cao tính chủ động, sáng tạo, xây dựng bộ máy chính quyền cấp xã

thật sự trong sạch vững mạnh là một yêu cầu tất yếu đặt ra.

Cải cách hành chính nhằm xây dựng nền hành chính nhà nước vững mạnh,

trong sạch, chuyên nghiệp, dân chủ, hiện đại, phục vụ doanh nghiệp và công dân là

nhiệm vụ trung tâm đối với việc hoàn thiện và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, đáp ứng yêu cầu về phát triển kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế. Chính vì thế, quy trình cải cách hành

chính diễn ra trên tất cả các quá trình quản lý, mà cải cách thủ tục hành chính là

khâu đầu tiên làm giảm bớt các khâu trung gian nhằm làm cho cải cách các khâu

khác được thực hiện nhanh chóng, giảm bớt chi phí về của cải, con người và thời

gian. Việc cải cách hành chính nhằm mục đích nâng cao chất lượng hệ thống các

quy định hành chính không chỉ là nhiệm vụ của từng đơn vị, cơ quan mà cần phải

có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, là trách nhiệm của tất cả

mọi người của toàn thể cán bộ công chức và người dân. Kiểm soát thủ tục hành

chính nhằm để thực hiện tốt mục tiêu cải cách thủ tục hành chính. Hoạt động giám

sát của HĐND cấp xã cũng tất yếu nằm trong yêu cầu đó.

3.1.4. Giám sát của Hội đồng nhân dân xã phải đưa ra được những kết

luận xác đáng bảo đảm việc tuân thủ nghiêm chỉnh của các đối tượng chịu sự

giám sát, ổn định xã hội, duy trì hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước

Để thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật, Nhà nước đã phân công,

51

phân cấp cho các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện những chức năng,

quyền hạn, nhiệm vụ trong thực thi quyền lực nhà nước. Nhiệm vụ của những cơ

quan này phải tuyệt đối chấp hành và tuân theo những quy định của Hiến pháp và

pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình. Tuy nhiên do tác

động và ảnh hưởng bởi những tổ chức, cá nhân có xu hướng lạm dụng quyền hạn,

quy phạm những quy định của pháp luật vì cục bộ hay lợi ích cá nhân. Do đó, trong

hoạt động quản lý Nhà nước đều phải có những quy định của pháp luật, đặt các cơ

quan Nhà nước luôn nằm trong sự kiểm giám sát, kiểm tra của Nhà nước và của

Nhân dân, nhằm chống lại những hành vi vi phạm Hiến pháp pháp luật, sự lạm dụng

quyền lực của Nhà nước. Muốn vậy, kết quả hoạt động giám sát của HNND phải là

cơ sở vững chắc, tạo tiền đề cho việc tuân thủ pháp luật của các đối tượng chịu sự

giám sát của HĐND. Hoạt động giám sát của HĐND cấp xã không được gây cản trở

đến hoạt động bình thường của các đối tượng chịu sự giám sát, đồng thời đảm bảo

cho các cơ quan này vẫn giữ được tính độc lập và chủ động khi thực hiện nhiệm vụ,

chức năng của mình.

HĐND cấp xã là cơ quan tiếp xúc hằng ngày, hằng giờ với Nhân dân, liên

quan trực tiếp đến việc đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích chính đáng hợp pháp

của Nhân dân, đồng thời cũng có thể xâm hại trực tiếp đến quyền và lợi ích của

Nhân dân nếu như cơ quan này vi phạm pháp luật trong khi thực hiện nhiệm vụ,

chức năng của mình chưa đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân có thể gây mất

ổn định xã hội. Do đó yê cầu đặt ra là trong hoạt động giám sát của HĐND cấp xã

phải thực hiện đảm bảo giám sát đúng đúng trình tự nội dung, thủ tục, mục đích,

yêu cầu, quy định của Hiến pháp và Pháp luật, trên cơ sở phối hợp đồng bộ giữa chủ

thể giám sát và chủ thể chịu sự giám sát một cách chặt chẽ mà không gây khó khăn

cho cá nhân, tổ chức chịu sự giám sát. Hoạt động giám sát của HĐND xã cần được

tiến hành cùng với sự phối hợp chặt chẽ của cả hệ thống cính trị ở cơ sở, bảo đảm

sự đoàn kết, hợp tác vì mục tiêu chung, duy trì hoạt động bình thường của bộ máy

Đảng, chính quyền cấp xã hoạt động.

52

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân

cấp xã từ thực tiễn Huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

Để đảm bảo chất lượng cho hoạt động giám sát của HĐND, Quốc hội đã

thông qua Luật giám sát của Quốc Hội và HĐND (Có hiệu lực thi hành từ ngày

01/7/2016), đây là công cụ pháp lý quan trọng, là bảo đảm cần thiết để HĐND thực

hiện tốt quyền giám sát, đảm bảo tính pháp lý cao. Hoạt động kiểm tra, giám sát vừa

là quá trình xem xét các quyết định, các nghị quyết được triển khai thực hiện trên cơ

sở thực tế như thế nào, cũng là quá trình để thực tiễn cung cấp những thông tin làm

căn cứ cho HĐND xã xem xét, thảo luận, quyết định kịp thời, chính xác các vấn đề

quan trọng ở địa phương. Do đó cần phải có những quy định chặt chẽ về thủ tục,

trình tự và các chế tài giám sát, xử lý sau giám sát.

Thông qua hoạt động giám sát HĐND có thể nắm bắt được tình hình thực tế

tại địa phương. Hoạt động giám sát có vai trò hỗ trợ cho việc thực hiện chức năng

quyết định của HĐND. Qua đó HĐND nâng cao tính đúng đắn trong các quyết định

của mình, kịp thời phát hiện chấn chỉnh những hoạt động chưa phù hợp với đường

lối, thúc đẩy việc thực hiện các nghị quyết của HĐND giúp nâng cao hiệu quả việc

thực thi chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước tại địa

phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND.

Chất lượng hiệu quả giám sát có ý nghĩa vai trò quan trọng trong việc nâng

cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của HĐND. Để nâng cao hiệu quả giám sát

chính quyền địa phương cần tập trung vào một số giải pháp sau:

3.2.1. Nhóm giải pháp chung nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của

Hội đồng nhân dân xã

3.2.1.1. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, nâng cao nhận thức về vị trí, vai

trò giám sát của hội đồng nhân dân xã,

Từ khi có Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015, Luật

Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 ra đời đã làm cho chất lượng hoạt động

của HĐND các cấp nói chung và HĐND xã nói riêng khẳng định được vai trò là cơ

quan quyền lực nhà nước ở địa phương nông thôn. Để đảm bảo chất lượng hoạt

53

động giám sát của HĐND theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

trong giai đoạn tới cần phải có những giải pháp cơ bản phù hợp với luật Hoạt động

giám sát của Quốc Hội và HĐND, luật Tổ chức chính quyền địa phương. Muốn

đảm bảo chức năng giám sát của HĐND cấp xã nói chung và cấp xã tại huyện Quế

Sơn nói riêng, thì việc hoàn thiện cơ sở pháp lý hay nói đúng hơn việc hoàn thiện

pháp luật về giám sát của HĐND cấp xã phải được quan tâm, mặc dù hiện nay có

luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND quy định khá rõ ràng nhưng cần

phải có hướng dẫn cụ thể và triển khai thi hành hiệu quả đối với luật này. Tuy nhiên

vấn đề đặt ra là lý luận và thực tiễn phải xác định rõ trách nhiệm giám sát của các

chủ thể thực hiện quyền giám sát và mức độ tham gia đến đâu của cá nhâm tổ chức

khác, do đó trong Luật giám sát của HĐND cần bổ sung thêm. Vì vậy, tác giải luận

văn đề xuất:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND cấp

xã ở một số nội dung sau:

- Quy định rõ chế tài tổ chức không thực hiện, thực hiện không đúng với các

kiến nghị, kết luận sau giám sát đối với cá nhân;

- Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND cần quy định thêm hình

thức giám sát lại nhằm kiểm tra việc thực hiện theo kết luận, kiến nghị của đối

tượng chịu sự giám sát, chứ không phải là hoạt động báo cáo bằng văn bản mang

tính hình thức như hiện nay. Nếu qua hoạt động giám sát mà thấy đối tượng chịu sự

giám sát không thực hiện hoặc thực hiện không đúng theo kết luận, kiến nghị của

mình sẽ bị áp dụng các biện pháp chế tài nghiêm khắc tùy theo mức độ, tính chất

phạm vi vi phạm;

- Nhằm tránh tình trạng trùng lặp, bỏ sót trong giám sát cần phân định rõ

thẩm quyền, nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn giữa hoạt động gám sát của HĐND

các cấp với hoạt động kiểm tra, thanh tra của các cơ quan Nhà nước; thẩm quyền,

nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn giữa hoạt động gám sát của hội đồng nhân dân xã

với hoạt động giám sát của thường trực HĐND xã; hoạt động giám sát của Ban kinh

tế - xã hội và Ban Pháp chế HĐND xã;

54

- Luật cần quy định rõ nhiệm vụ cụ thể của từng Ban trong hoạt động giám

sát chứ không chỉ quy định nhiệm vụ chung của các Ban như hiện nay còn nhiệm vụ

cụ thể nên để quy chế hoạt động của HĐND các cấp quy định. Nếu luật quy định cụ

thể như thế thì tính pháp lý sẽ cao hơn, việc tổ chức thực hiện cũng sẽ được đảm

bảo tốt hơn và cũng tạo điều kiện cho địa phương trong quá trình thực hiện giái trị

pháp lý của văn bản luật;

- Xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá trong hoạt động giám sát làm

chuẩn mực chung thống nhất đánh giá hiệu quả giám sát của từng Ban trong từng kỳ

họp, từng năm, từng nhiệm kỳ;

- Ban hành thủ tục, trình tự áp dụng chế tài đối với đối tượng không tuân thủ

hoạt động giám sát của HĐND. Theo Điều 89 Luật hoạt động giám sát của Quốc

hội và HĐND năm 2015 cũng quy định: “Trường hợp cơ quan, tổ chức cá nhân

chịu sự giám sát không thực hiện hoặc thực hiện không đúng yêu cầu trong Nghị

quyết, kết luận, kiến nghị giám sát thì xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan

có thẩm quyền xử lý”. Tuy nhiên cần phải có hướng dẫn cụ thể về mức độ xử lý nội

dung, hình thức xử lý để làm căn cứ là hết sức cần thiết. Chẳng hạn, như đối tượng

chịu sự giám sát không chịu tiếp thu hoặc không có phản hồi về đề xuất, kiến nghị

sau hoạt động giám sát thì chủ thể tiến hành giám sát có quyền đề nghị, các nhân, tổ

chức, cơ quan cấp trên có thẩm quyền của đối tượng chịu sự giám sát xem xét buộc

thi hành hoặc áp dụng chế tài đối với đối tượng chịu sự giám sát; trong trường hợp

các nhân, tổ chức, cơ quan cấp trên không xem xét hoặc xét thấy kết quả giải quyết

không đúng thì trình HĐND xem xét, ra nghị quyết theo thẩm quyền tức là bãi

nhiệm, miễm nhiệm các nhân, người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó.

- Với từng hình thức giám sát và sự tuân thủ của các đối tượng bị giám sát

cần ban hành nhiều mức chế tài phù hợp, chẳng hạn như qua hoạt động giám sát của

mình cho thấy việc làm của chủ tịch UBND và các thành viên UBND xã làm ảnh

hưởng trực tiếp đến quyền lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân, của địa

phương, HĐND có thể đưa ra hình thức khiển trách đối với chủ tịch UBND xã và

các thành viên UBND xã, sau ba lần khiển trách thì HĐND sẽ miễn nhiệm, bãi

55

nhiệm hoặc đề nghị lên cấp trên có thẩm quyền xem xét cách chức.

Thứ hai, cần xác định lại một cách đúng đắn vị trí, vai trò của HĐND cấp xã.

- Giám sát đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động quản lý Nhà nước

nhưng là hoạt động rất khó khăn, phức tạp, đo đó trước hết phải nhận thức đúng đắn

vị trí, vai trò của hoạt động giám sát để nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND.

Theo quy định của Hiến pháp, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND

năm 2015 và Luật tổ chức Chính quyền địa phương năm 2015 thì HĐND cấp xã là

cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí và quyền làm chủ của

nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân và cơ

quan nhà nước cấp trên.

- Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò giám sát, đại biểu HĐND mới xác định

đúng hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của hoạt động giám sát. Điều đó sẽ giúp HĐND

xây dựng được niềm tin với Nnhân dân với cử tri, là động lực phát huy hết tinh thần

trách nhiệm, khả năng làm việc của mình trong hoạt động giám sát. Mặc khác có

nhận thức đúng đắn vai trò của hoạt động giám sát sẽ giúp HĐND, TTHĐND, Ban

Kinh tế - xã hội, Ban Pháp chế HĐND, các tổ chức kinh tế, xã hội, các cơ quan nhà

nước chịu sự giám sát của HĐND xây dựng mối quan hệ được nghiêm túc hơn, phối

hợp kiểm tra trên nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân và nếu ngược

lại thiếu sự nhận thức đúng đắn thì nổ lực về đổi mới hoạt động giám sát của

HĐND cấp xã tại huyện Quế Sơn sẽ không có ý nghĩa.

- Để nâng cao được hiệu quả giám sát của HĐND xã thì cấp ủy Đảng cơ sở

cần đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động của HĐND tại địa

phương. Cần phải quán triệt, tuyên truyền sâu rộng cả hệ thống chính trị, cán bộ,

đảng viên và Nhân dân về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của

HĐND cấp xã đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

hiện nay. Đây là một trong những yếu tố quyết định để HĐND xã có được thực

quyền tại địa phương. HĐND xã cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của

cấp ủy bằng nghị quyết tại các kỳ họp HĐND, HĐND là cầu nối giữa Đảng với

nhân dân, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Để HĐND đưa ra được các nghị

56

quyết phù hợp với thực tiễn, đúng pháp luật, thì một chức năng rất quan trọng của

HĐND cần được chú trọng là chức năng giám sát. Có giám sát tốt thì mới thúc đẩy,

kiểm tra để Nghị quyết của HĐND được thực hiện tốt và thông qua hoạt động giám

sát có những kiến nghị, đề xuất để HĐND ban hành nghị quyết.

- Giám sát của HĐND xã không chỉ giúp cho chức năng quyết định của

HĐND mà còn giúp cho các cơ quan tổ chức chịu sự giám sát nhận thấy vấn đề tồn

tại cần khắc phục, phát hiện những hoạt động tốt, kinh nghiệm tốt nhằm phát huy

những kết quả đạt được để hoàn thành tốt công tác của mình. Chứ không phải chỉ đi

tìm tòi những vấn đề sai trái của các cơ quan, cá nhân, tổ chức.

- Có nhận thức đúng vai trò, vi trí của HĐND cấp xã trong bộ máy nhà nước

cũng như chức năng giám sát của HĐND cấp xã mới có thể đưa ra các giải pháp

giúp nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động giám sát của HĐND cấp xã cũng như

tạo điều kiện để HDND giám sát của mình. Đồng thời bản thân của HĐND cũng

thấy được tầm quan trọng của hoạt động giám sát từ đó thấy rõ trách nhiệm, tự nâng

cao năng, hiệu lực, tự đổi mới, tăng cường hơn nữa hoạt động giám sát, do đó cần

thực hiện một số biện pháp sau:

+ Đối với HĐND xã không ngừng đổi mới tổ chức hoạt động, tự hoàn thiện

mình hoạt động chất lượng và hiệu quả.

+ Đối với đại biểu HĐND xã phải luôn ghi nhớ mình là người đại diện cho ý

chí và nguyện vọng của nhân nhân, hoạt động vì lợi của nhân dân chứ không phải

tách rời đứng trên nhân dân, luôn tôn trọng nhân dân, tin dân; bản thân không

ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống,

bản lĩnh chính trị để hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của mình.

+ Đối với các cơ quan Nhà nước cấp trên và UBND xã phải thực sự coi

trọng vai trò của HĐND, đồng thời không cho rằng hoạt động của HĐND là hình

thức không cần thiết vì những hạn chế của HĐND trong thời gian qua.

+ Đối với Nhân dân phải thường xuyên tuyên truyền giáo dục để Nhân dân

hiểu được vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND xã trong việc đảm bảo các

quyền và lợi ích của mình, nhất là đối với vai trò bảo đảm việc thực hiện, phát huy

57

quyền làm chủ của Nhân dân ở địa phương.

3.2.1.2. Bảo đảm chất lượng cơ cấu của hội đồng nhân dân xã

Một là, về cơ cấu chất lượng đại biểu HĐND, cần phải tăng số lượng đại

biểu có uy tín, có trình độ, có kinh nghiệm hoạt động HĐND cấp xã; giảm bớt số

lượng đại biểu công tác ở các cơ quan chuyên môn của UBND, các cơ quan hành

chính; tăng số lượng đại biểu các cơ qua Đảng, đoàn thể các tổ chức xã hội, đại biểu

ngoài Đảng, đặc biệt chú ý đến tỷ lệ đại biểu nữ, đại biểu trẻ tuổi bởi vì lực lượng

trẻ tuổi thường là những người được đào tạo bài bản, chính quy, có trình độ, chuyên

môn cao có hướng phấn đấu, cộng với những người đã trải nghiệm qua thực tế,

nhiều kinh nghiệm, bản lĩnh vững vàng sẽ giúp đội ngũ đại biểu HĐND năng động

sáng tạo hơn trong quá trình triển khai các hoạt động của HĐNH, phải bảo đảo tính

kế thừa giữa các thế hệ, phát huy tốt sức mạnh. Độ tuổi đại biểu dưới 40 tăng ít nhất

5%, giảm đại biểu HĐND có độ tuổi trên 50.

Hai là, một trong những nguyên nhân khách quan dẫn đến bất cập về tiêu

chuẩn - cơ cấu đại biểu HĐND là: Do HĐND không tự quy hoạch đại biểu HĐND

cho khóa tiếp theo, bởi HĐND hoạt động theo nhiệm kỳ. Quyền quyết định lựa

chọn đại biểu HĐND thuộc về những người không làm công tác HĐND, không am

hiểu về HĐND. Vì thế đề nghị các cấp ủy Đảng cần nghiên cứu việc quy hoạch đại

biểu HĐND, đặc biệt là quy hoạch đại biểu HĐND làm công tác chuyên trách

HĐND. Quan tâm đến cơ cấu đại biểu nhưng phải cú trọng đến chất lượng đại biểu.

Ba là, cần có những quy định cụ thể việc HĐND có quyền bỏ phiếu tín

nhiệm đối với thành viên của UBND.

Bốn là, Thường xuyên đổi mới phương thức hoạt động của HĐND và đại

biểu HĐND, thực hiện đầy đủ việc tiếp xúc cử tri, kết hợp với dân chủ trực tiếp và

dân chủ đại diện.

Năm là, Xây dựng quy chế làm việc của HĐND vào đầu nhiệm kỳ HĐND,

trong đó xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của mỗi tổ chức và đại biểu HĐND,

xây dựng quy chế phối hợp cụ thể giữa Đảng ủy với TT HĐND, các tổ đại biểu;

giữa cấp ủy Đảng với thường trực HĐND, UBND, các đoàn thể chính trị của xã

58

trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, yêu cầu, kiến nghị của cử tri.

Sáu là: Xây dựng cơ chế khuyến khích đại biểu tham gia phát biểu, tham gia

tranh luận tại các kỳ họp. Hình thành cơ chế xin từ chức nếu như đại biểu đó không

còn đủ tư cách đại biểu HĐND, không xứng đáng với sự tín nhiệm của cử tri địa

phương. Hằng năm nên tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của cử tri đối với đại biểu, kết

hợp với việc đánh giá của các tổ chức để có biện pháp khen thưởng, xử lý các đại

biểu khi không còn đủ tư cách người đại biểu phải bãi nhiệm người đó ra khỏi

HĐND.

3.2.1.3. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giám sát giữa các cấp các ngành

và các tổ chức đoàn thể

Hoạt động giám sát của HĐND cấp xã là hoạt động quan trọng trong cơ chế

giám sát giống như một mắt xích nối các cơ liên quan với nhau. Chính vì thế để

tránh sự chồng chéo và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giám sát, HĐND xã cần

chú trọng phối hợp với các cấp các ngành, các chủ thể khác cũng như các chuyên

gia cụ thể:

- Tăng cường phối hợp với UBMTTQVN, các thành viên của mặt trận. Ví dụ

như TT HĐND mời UBMTTQVN xã tham gia hoạt động giám sát cùng với để tăng

thêm giá trị của kết luận giám sát, từ đó nội dung giám sát có thể không phải đưa ra

kỳ họp HĐND nhưng vẫn được các cơ quan nghiêm chỉnh chấp hành.

- Tăng cường sự phối hợp giữa HĐND - UBND xã để tạo điều kiện thuận lợi

về cơ sơ vật chất cũng như các nội dung phục vụ giám sát. Khi báo cáo yêu cầu đối

tượng chịu sự giám sát phải trình bày một cách khác quan, đúng thực trạng hoạt

động của đơn vị mình. Tuy nhiên trong quá trình phối hợp, HĐND phải chỉ rõ cho

các đối tượng chị sự giám sát thấy rằng: Giám sát là để ngăn chặn khắc phục những

tồn tại, hạn chế, cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ chứ không phải vạch lá tìm sâu,

gây cản trở hoạt động của nhau.

- Tăng cường sự phối hợp đồng bộ với các cơ quan ban ngành liên quan

nhằm cung cấp thêm thông tin để phục vụ hoạt động giám sát. Chẳng hạn như: TT

HĐND, Ban kinh tế - xã hội, Ban Pháp chế HĐND xã phải tham gia các cuộc họp

59

của UBND, đồng thời yêu cầu UBND, các cơ quan chuyên môn phải cung cấp đầy

đủ thông tin, hoạt động của cơ quan đơn vị mình cho HĐND hằng tháng, hằng quý.

Cùng với các nguồn thông tin khác như: ý kiến của cử tri, do nhân dân phản

ánh,...HĐND mới có đủ căn cứ xác định đối tượng và nội dung cần tập trung giám

sát.

- Tăng cường cùng với đoàn giám sát của cấp trên như đoàn giám sát của

Huyện Quế Sơn, đoàn giám sát của tỉnh, vừa có thể học hỏi, vừa tranh thủ được trí

tuệ của các đại biểu cấp trên trong việc tháo gỡ những vướn mắc cho địa phương,

vừa tránh việc chồng chéo, đồng thời giảm bớt phiền hà cho đơn vị bị giám sát.

3.2.1.4. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật về giám sát, về sự cần

thiết giám sát của HĐND cấp xã

Hằng năm, tại các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Quế Sơn công tác tuyên

truyền, phổ biến pháp luật về giám sát và sự cần thiết của HĐND cấp xã được thực

hiện dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng, đúng luật được kịp thời và sâu rộng

đến với mọi tầng lớp nhân dân qua các cuộc tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp,

tuyên truyền trên hệ thống đại truyền thanh của xã, pano, áp phích, thông qua các

cuộc họp quân dân chính mở rộng, các cuộc họp dân, họp giao ban đại biểu HĐND.

Vì để các quy định của pháp luật được thực thi trên thực tế thì trước hết cần phải

tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và sự cần thiết của HĐND cấp

xã như: Tuyên truyền Hiến pháp, chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp

luật của Nhà nước; pháp luật về giám sát và sự cần thiết của HĐND cấp xã; tuyên

truyền các quy định mới của pháp luật để Nhân dân địa phương có thể nắm bắt; các

nhiệm vụ phát sinh trong năm do cấp trên giao, tuyên truyền nghị quyết hàng năm

của HĐND về nội dung giám sát, chương trình giám sát chuyên đề.

3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng

nhân dân cấp xã của huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam

Trên cơ sở sở đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động giám sát của HĐND

cấp xã trên địa bàn Huyện Quế Sơn cũng như những hạn chế và nguyên nhân đã

nêu, tác giả đưa ra một số giải pháp cụ thể sau:

60

3.2.2.1. Đảm bảo tôn trọng sự thật khách quan và tuân thủ đúng Hiến Pháp,

Pháp luật trong hoạt động giám sát của HĐND cấp xã

Để đưa ra các đánh giá, nhận xét, kiến nghị, kết luận hay ra nghị quyết đối

với hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát phải tiến hành một cách khách

quan và có căn cứ khoa học, căn cứ thực tế cho HĐND xã. Trước hết phải căn cứ

vào các quy định của pháp luật và nghị quyết của HĐND xã cũng như thực tiễn hoạt

động của các cơ quan chứ không được lấy ý kiến chủ quan của một cá nhân hay tập

thể nào đó áp đặt cho thực tế hoạt động của cá nhân, tổ chức chịu sự giám sát để

đưa ra nhận định đúng hay sai về tình trạng hoạt động của các đơn vị đó.

Từ khi Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 ra đời quy dịnh về

hình thức, trình tự thủ tục giám sát của HĐND cụ thể, chi tiết hóa nhiệm vụ, quyền

hạn của cơ quan nhà nước chịu sự giám sát với các cơ quan của HĐND khi tiến

hành giám sát, đã khắc phục được những hạn chế, tránh được bệnh chủ quan, qua

loa, đại khái. Đây là cơ sở pháp lý đảm bảo cho hoạt động giám sát tiến hành một

cách khác quan, có nghĩa là hoạt động giám sát của HĐND cấp xã phải được tiến

hành theo quy trình cụ thể và các quy định do luật quy định, do trước đây pháp luật

quy định chưa rõ ràng nên mỗi địa phương tiến hành hoạt động giám sát khác nhau

theo kinh nghiệm của mình.

Những tài liệu, thông tin làm cơ sở đánh giá hoạt động giám sát cũng phải

mang tính khách quan. HĐND xã không những chỉ dựa vào báo cáo của đối tượng

bị giám sát mà còn phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như: Dư luận

xã hội, báo chí, ý kiến phản ảnh của cử tri, đài...Nếu HĐND không chủ động chuẩn

bị thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả giám sát, vì trên thực tế nếu cơ quan nào

trung thực báo cáo đúng thực trạng, đề xuất cụ thể thì HĐND mới có điều kiện

nghiên cứu sâu nội dung cần giám sát, để đưa ra kết luận kiến nghị chính xác.

3.2.2.2. Tăng cường trách nhiệm của chính quyền huyện Quế Sơn tỉnh

Quảng Nam đối với hội đồng nhân dân cấp xã

Theo kết quả tổng hợp đánh giá chung, một trong những nguyên nhân làm

hạn chế hiệu quả giám sát của HĐND cấp xã ở huyện Quế Sơn tỉnh Quảng Nam là

61

do hạn chế về trình độ, năng lực của đại biểu HĐND, TT HĐND và điều kiện làm

việc. Vì vậy cần tăng cường trách nhiệm của chính quyền huyện Quế Sơn trong việc

đẩy mạnh hoạt động giám sát của HĐND cấp xã là rất quan trọng. Cụ thể là:

- Cần tăng cường hướng dẫn kỷ năng, nghiệp vụ cho đại biểu HĐND và TT

HĐND xã:

HĐND huyện cần thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng,

nghiệp vụ hoạt động cho TT HĐND, đại biểu HĐND, các Ban của HĐND nhất là

kiến thức về pháp luật, kỹ năng nghiên cứu tài liệu, kỹ năng thu thập thông tin, kỹ

năng giám sát tại kỳ họp, chất vấn, kỹ năng thẩm tra báo cáo, kỹ năng tiếp xúc cử

tri, giám sát thường xuyên, giám sát công tác xây dựng, quy hoạch, dự toán, quản lý

thu chi ... Các đợt tập huấn về các chế độ chính sách, pháp luật của các ngành nên

có thêm thành phần là đại biểu HĐND để nắm vấn đề sâu phục vụ công tác giám sát

khi cần.

- Tăng cường chế độ chính sách và điều kiện làm việc cho HĐND và Đại

biểu HĐND.

Hoạt động của HĐND cấp xã vẫn còn nhiều khó khăn, mặc dù nhiều năm

qua mặc dù được Đảng, Nhà nước quan tâm tạo điều kiện cho HĐND các cấp nói

chung hoạt động. Về kinh phí và sở vật chất còn phụ thuộc nhiều vào UBND, TT

HĐND, các Ban HĐND đều kiêm nhiệm nên nơi làm việc gắn với việc kiêm nhiệm

hầu hết không có phòng riêng cho HĐND. Vì vậy cần quan tâm đầu tư kinh phí và

điều kiện vật chất cho HĐND như: bố trí phòng làm việc riêng có trang bị đầy đủ

trang thiết bị như máy vi tính, điện thoại, bàn làm việc, tài liệu, tủ sách ... tương

xứng với trách nhiệm của mình để có thể vừa làm việc vừa tiếp cử tri khi cần bày tỏ

tâm tư, nguyện vọng của mình với cơ quan dân cử.

Các chức danh kiêm nhiệm nên có chế độ thỏa đáng để tạo điều kiện khuyến

khích, động viên họ nâng cao tinh thần trách nhiệm với công việc.

Ngoài ra đối với bản thân người đại biểu HĐND cần phải cố gắng nổ lực

phấn đấu rèn luyện để nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức, các kỹ

năng hoạt động của người đại biểu, cần chủ động, sáng tạo, phát huy hết khả năng

62

trách nhiệm, vai trò đại biểu của mình, góp phần xây dựng xã hội chủ nghĩa, dân

giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

3.2.2.3. Đảm bảo tính thường xuyên, liên tục, có kế hoạch cụ thể trong hoạt

động giám sát của HĐND cấp xã

Một trong hai chức năng cơ bản của HĐND được Hiến pháp và pháp luật ghi

nhận đó là chức năng giám sát. Là những đơn vị hoạt động thường xuyên liên tục

đối với các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát của HĐND, do đó hoạt động giám

sát của HĐND cũng phải đảm bảo tính liên tục, thường xuyên mới có thể kịp thời

phát hiện những vi phạm. Hơn nữa thường xuyên tiến hành hoạt đông giám sát là

điều kiện thực tế giúp phát hiện những điểm bất hợp lý, lỗi thời trong Hiến pháp,

luật và nghị quyết của HĐND cấp xã, từ đó nhanh chóng đề xuất sửa đổi, bổ sung

cho phù hợp với thực tiễn. Đây là một trong những yếu tố đảm bảo cho pháp luật

được chấp hành nghiêm chỉnh, tránh được những sai phạm do thiếu kiểm tra giám

sát hay những lỗ hổng của pháp luật, những quy định không còn phù hợp lỗi thời

gây cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Bên cạnh, hoạt động giám sát thường xuyên, liên tục giúp cho đại biểu

HĐND sẽ có cơ hội để tích lũy kinh nghiệm, nâng cao kỷ năng giám sát, trình độ

năng lực, đồng thời các chủ thể chịu sự giám sát cũng như các thành phần liên quan

sẽ luôn nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình khi thực hiện nhiệm vụ được giao.

Hoạt động giám sát cần được thực hiện một cách có kế hoạch, trong kế

hoạch lớn cần có các kế hoạch nhỏ cho tiết, kế hoạch càng cụ thể càng chi tiết càng

dễ thực hiện, kế hoạch giám sát phải căn cứ vào tình hình mục tiêu phát triển kinh

tế, xã hội của địa phương, căn cứ vào các kiến nghị của cử tri và Nhân dân, các báo

cáo hằng năm. Điều đó thể hiện tính chủ động sáng tạo và kết quả công việc có mối

quan hệ gắn bó với nhau.

Đối tượng giám sát của HĐND cấp xã gồm nhiều nội dung hoạt động của

các đối tượng chịu sự giám sát rất đa dạng và phức tạp gồm nhiều nhiều lĩnh vực

như: kinh tế, văn hóa, xã hội... Do đó, cùng một lúc HĐND xã không thể tập trung

hoạt động giám sát tất cả các lĩnh vực, cho nên phải lực chọn lĩnh vực, vấn đề ưu

63

tiên để giám sát trước.

3.2.2.4. Đổi mới phương pháp và cách thức giám sát của Hội đồng nhân

dân cấp xã

Thời gian qua, mặc dù hoạt động giám sát của Nhân dân được tăng cường,

song qua đánh giá của dư luận và báo cáo các năm của HĐND các xã tại huyện Quế

Sơn cho thấy hiệu quả giám sát chưa cao. Một trong những nguyên nhân dẫn đến

tồn tại nêu trên vì HĐND xã vẫn chưa thực hiện tốt phương pháp và các hình thức

giám sát, chưa có cơ chế đảm bảo cho HĐND thực hiện chức năng của mình. Vì thế

đòi hỏi HĐND phải thực hiện có chất lượng các phương pháp và hình thức giám sát

để thực hiện chức năng giám sát của mình, cụ thể:

- Đổi mới hình thức xem xét báo cáo:

+ Xem xét báo cáo, đây là hoạt động giám sát quan trọng, đây là hình thức

HĐND xem xét tình hình hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc đánh

giá các báo cáo đó. Do đó trong luật cần quy định rõ về chế độ báo cáo, nhất là phải

quy định trách nhiệm, nếu báo cáo không phản ánh đúng thực trạng hoạt động của

cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân, đưa nhiều thông tin sai lệch, thiếu thông tin.

+ Đối với các cá nhân lập báo cáo yêu cầu thông tin trong báo cáo phải đầy

đủ, phản ánh trung thực, khách quan đúng đầy đủ hoạt động những vấn đề trọng tâm

cần giải quyết. Nêu những kết quả đạt được, những khó khăn, tồn tại, đề ra các biện

pháp khắc phục giải quyết, đồng thời đưa ra những kiến nghị, đề xuất việc giải

quyết vấn đề đó.

+ Phương pháp thực hiện hình thức này phải đảm bảo quy trình khép kín.

Khi nhận báo cáo cơ quan hay người có thẩm quyền xem, đọc góp ý cho báo cáo.

Người được phân công thẩm tra các báo cáo có thể trao đổi thẳng thắn với cá nhân

hay cơ quan báo cáo, trong trường hợp cần thiết phải đi thực tế, thực địa để kiểm tra

những vấn đề mà báo cáo nêu chưa rõ chưa cụ thể hay có mâu thuẩn về thông tin

với những nguồn thông tin thu thập được.

+ Theo quy định của pháp luật để đảm bảo tính công khai, khách quan, các

báo cáo phải phải được đang tải tên các phương tiện thông tin đại chúng trước kỳ

64

họp và được gửi trước tới đại biểu HĐND.

+ Các đại biểu HĐND cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, khi báo cáo thẩm

tra được trình ra HĐND, đóng góp các ý kiến và nêu vấn đề chất vấn xác đáng để

các cơ quan báo cáo giải trình trước HĐND. Kết luận bằng nghị quyết của HĐND

mới thực sự là kết quả của việc sử dụng hình thức xem xét báo cáo một cách có chất

lượng. Việc ra Nghị quyết riêng đối với vấn đề đó thảo luận và thông qua báo cáo

tại kỳ họp phải thể hiện trình độc độc lập của HĐND.

- Đổi mới hình thức chất vấn và trả lời chất vấn

Đây là hình thức quan trọng nhất trong giám sát của HĐND. Nhưng thực tiễn

hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn mới chỉ mang tính chất gợi mở các vấn đề

chưa đảm bảo hiệu lực thực sự, người chất vấn chưa đủ các thông tin cần thiết còn

người trả lời chất vấn còn chung chung chưa trả lời một cách rõ ràng, thỏa đáng, cụ

thể. Chính vì thế trong phiên họp chủ tọa kỳ họp phải tạo ra không khí dân chủ, nên

gợi ý tham gia khuyến khích đại biểu tham gia chất vấn nhiều hơn, có sự lựa chọn

nội dung chất vấn mà nhiều cử tri, nhiều đại biểu quan tâm đến để đưa ra chất vấn

trong kỳ họp. Đại biểu HĐND đặt câu hỏi phải ngắn gọn, đúng đối tượng, có trọng

tâm, trọng điểm, tránh tình trạng chất vấn mang tính tìm hiểu, do đó từng đại biểu

HĐND không những nắm đầy đủ thông tin, mà còn phân tích thông tin một cách

khoa học, thấu tình đạt lý để chất vấn. Việc trả lời chất vấn cũng cần có sự đổi mới

theo hướng nâng cao tinh thần trách nhiệm của người trả lời chất vấn, tránh diễn đạt

vòng vo, báo cáo thành tích, phân tích nhiều về tình hình, trả lời một cách công khai

tại kỳ họp, nếu những vấn đề cần thời gian để tìm hiểu, điều tra, nghiên cứu thì cần

phải đưa vào nội dung chất vấn tại kỳ họp HĐND kế tiếp. Trong chất vấn quan

trọng là người bị chất vấn phải xác định rõ trách nhiệm và các biện pháp khắc phục

sai trái của mình, vấn đề đặt ra hiện nay không chỉ là người trả lời chất vấn phải trả

lời đầy đủ, trực tiếp về các nội dung mà đại biểu chất vấn. Từng câu trả lời nội dung

chất vấn HĐND xã phải nhận xét, kết luận, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đối tượng

được chất vấn và giao thời gian nhất định để hoàn thành. Nên xây dựng cơ chế đánh

giá những biện pháp khắc phục bằng việc bỏ phiếu tín nhiệm, bãi nhiệm, miễm

65

nhiệm đối với người đứng đầu.

+ Cần xây dựng quy chế chất vấn: Theo Điều 60, Luật hoạt động giám sát

của Quốc Hội và HĐND năm 2015, đã quy định cụ thể, nhưng cần hướng dẫn chi

tiết hơn, nhất là về hậu quả pháp lý của chất vấn, sự tham gia của cử tri, trong phiên

họp chất vấn và trả lời chất vấn nên phát thanh trực tiếp trên đài truyền thanh của xã

vì thực tế khảo sát ở một số xã khi tiến hành họp HĐND chỉ tổ chức phát thanh trực

tiếp trong quá trình thông qua các báo cáo đến phiên chất vấn thì không truyền

thanh trực tiếp nữa, bởi vì qua kênh này, cử tri sẽ nhận thấy được trách nhiệm của

ĐBHĐ đối với những vấn đề mà cử tri quan tâm kiến nghị.

+ Về phương pháp giám sát: Tùy thuộc vào từng đối tượng có thể lựa chọn

phương pháp, hình thức khác nhau, nhưng tất cả đều phải tuân thủ Hiến pháp và

pháp luật, bảo đảm tính minh bạch, khách quan, dân chủ, đem lại hiệu quả thiết

thực, không gây cản trở đến hoạt động của cá nhân, tổ chức, cơ quan chịu sự giám

sát.

+ Về hình thức giám sát của các đoàn giám sát HĐND cấp xã trong thời gian

qua đã áp dụng nhiều hình thức giám sát, nhưng vẫn thể hiện sự bất cập, tồn tại về

phương pháp, chương trình, thành viên tham gia đoàn giám sát, có khi không đủ số

lượng, một số ngành, đoàn thể cử cấp phó đi thay cho đủ thành phần dẫn đến hiệu

quả đôi lúc vẫn còn thấp. Về chương trình giám sát, ngoài việc xây dựng chương

trình giám sát định kỳ cần phải dự báo những vấn đề phát sinh phải giám sát đột

xuất, tăng cường giám sát chuyên đề, giám sát các nội dung trong chương trình mục

tiêu xây dựng nông thôn mới như: Việc xây dựng kênh mương nội đồng, bê tông

hóa GTNT, xây dựng khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu... hoạt động giám sát

phải có trọng tâm, trọng điểm. Thành viên đoàn giám sát cấp xã đa số ít có chuyên

môn sâu vì chủ yếu là TT HĐND, Ban kinh tế - xã hội và Ban Pháp chế HĐND xã,

đại biểu HĐND theo khu vực có liên quan, mời một số thành viên khác, do đó để

đáp ứng được yêu cầu, HĐND cần mời thêm chuyên gia trên các lĩnh vực giám sát

để được tư vấn chuyên môn sâu hơn, đồng thời cần quán triệt rõ trách nhiệm của

từng thành viên đoàn giám sát trước khi tiến hành giám sát để đảm bảo số lượng

66

chất lượng và chính kiến khi tham gia giám sát như: tham gia đoàn giám sát mời

đích danh chủ tịch UBMTTQVN, chủ tịch các đoàn thể thì không được cử cấp phó

đi thay cho đủ thành phần.

- Đổi mới hình thức đi giám sát thực tế

Trong thời gian qua, hình thức tổ chức các đoàn đi giám sát được TT HĐND,

các Ban HĐND cấp xã ở huyện Quế Sơn sử dụng rất nhiều và triển khai rộng rãi

trên địa bàn các xã của huyện. Tuy nhiên trên thực tế, hình thức này còn bất cập, tồn

tại về thành viên, về chương trình, phương pháp giám sát. Vì thế, cho dù HĐND có

tổ chức được nhiều cuộc giám sát, nhưng hiệu quả vẫn chưa cao. Muốn hình thức

giám sát ở địa phương đem lại hiệu quả cao cần thực hiện những giải pháp đồng bộ

đó là:

+ Về chương trình giám sát: Ngoài việc xây dựng chương trình giám sát định

kỳ hằng năm, HĐND xã cần phải dự báo những vấn đề nổi cộm cần giám sát đột

xuất phát sinh. Từ đó TT HĐND, các Ban HĐND xây dựng chương trình giám sát

của mình theo kế hoạch cụ thể của từng kỳ họp, từng tháng, từng quý nhưng phải

đúng trọng tâm, trọng điểm.

+ Về phương pháp giám sát: Tùy thuộc vào đối tượng giám sát có thể lựa

chọn phương pháp, hình thức khác nhau để giám sát. Dù là phương pháp, hình thức

nào thì cũng phải đảm bảo tính chính xác, khách quan và kiên quyết.

Vì vậy, để cuộc giám sát đạt hiệu quả chúng ta phải kết hợp nhiều yếu tố

khác nhau song hiệu quả giám sát không chỉ dừng lại ở việc chỉ ra những ưu, khuyết

điểm, đề ra những biện pháp khắc phục đối với đơn vị, cơ quan chịu sự giám sát mà

quan trọng hơn là cơ quan, đơn vị được giám sát có khắc phục những tồn tại, khuyết

điểm đó ra sao, những kiến nghị, đề xuất của HĐND có được cơ quan, đơn vị chịu

sự giám sát nghiêm túc tiếp thu, tổ chức thực hiện một cách triệt để hay không.

HĐND cần kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận của đoàn giám sát. Do đó Pháp

luật cần phải quy định cho HĐND có những chế tài cụ thể đối với cơ quan, đơn vị

chịu sự giám sát nếu họ không thực hiện tốt các kiến nghị, đề xuất của HĐND,

tránh tình trạng sau giám sát đâu lại vào đó.

67

3.2.2.5. Nâng cao kỷ năng hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân xã

Việc nâng cao kỹ năng hoạt động của đại biểu HĐND dù ở cương vị nào

cũng cần nắm vững yêu cầu về nghiệp vụ, chuyên môn, kỹ năng và nghệ thuật lãnh

đạo, quản lý, nhất là thực hiện hoạt động của HĐND của người đại biểu là vô cùng

cần thiết. Khả năng vận dụng của người đại biểu HĐND không chỉ là năng lực mà

còn phải có trách nhiệm, tâm huyết trước các hoạt động của đại biểu HĐND. Kỹ

năng hoạt động của người đại biểu HĐND được hiểu đó là khả năng vận dụng thành

thạo, khéo léo những kiến thức, kinh nghiệm thu được trên một số các lĩnh vực hoạt

động của đại biểu HĐND.

Do đặc điểm hoạt động của đại biểu HĐND là hoạt động không chuyên

nghiệp, thường biến động sau mỗi nhiệm kỳ bầu cử, đồng thời được hình thành từ

nhiều nguồn khác nhau, trình độ cũng khác nhau, điều kiện tham gia vào hoạt động

HĐND cũng không giống nhau. Những đặc điểm trên đòi hỏi đại biểu HĐND cần

phải được bồi dưỡng nâng cao kiến thức đặc biệt là bồi dưỡng kỹ năng hoạt động

của mình mới đem lại hiệu quả, chất lượng cao. Để nâng cao kỹ năng hoạt động của

người đại biểu HĐND, cần phải thực hiện tốt các giải pháp sau:

Một là, nâng cao kỹ năng tiếp xúc với cử tri

Kỹ năng này đòi hỏi, người đại biểu HĐND phải có kỷ năng giao tiếp, thích

ứng với từng tầng lớp cử tri, chọn địa bàn tiếp xúc, phải có kỷ năng lắng nghe, tổng

hợp và phân loại ý kiến phải ánh của cử tri qua tiếp xúc. Trong quá trình tiếp xúc

với cử tri cần phải phân biệt hình thức tiếp xúc, thực hiện tốt các quy trình tiếp xúc

và cách thức lựa chọn phương pháp trả lời cử tri cho phù hợp chẳng hạn như: Tổ đại

biểu khu vực có 03 đại biểu ở 03 lĩnh vực chuyên môn khác nhau thì cần phân loại ý

kiến của cử tri, đồng thời tổ trưởng phân công cho các đồng chí nắm chuyên môn

hoặc phụ trách mãng đó để trả lời, còn những ý kiến không liên quan đến lĩnh vực

chuyên môn của đại biểu nếu không biết thì ghi nhận về báo cáo lãnh đạo kỳ họp kế

tiếp sẽ giải trình ý kiến của cử tri.

Hai là, kỹ năng thu thập và xử lý thông tin của đại biểu HĐND

Kỹ năng thu thập và xử lý thông tin bao gồm kỹ năng thu thập, kỹ năng sắp

68

xếp, kỹ năng phân loại thông tin, kỹ năng phân tích, kỹ năng chọn lọc thông tin, kỹ

năng kiểm tra độ chính xác của thông tin… để đại biểu HĐND tham gia ý kiến vào

các đề án, báo cáo, nội dung của kỳ họp HĐND bảo đảm đúng chủ trương đường lối

của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước. Đồng thời cũng là sự lựa chọn hình

thức để thể hiện ý kiến của mình bằng văn bản hoặc phát biểu trực tiếp.

Ba là, nâng cao kỹ năng chất vấn của đại biểu HĐND

Kỹ năng chất vấn của người đại biểu HĐND đòi hỏi một trình độ nhất định

và nghệ thuật giao tiếp, lãnh đạo, quản lý của người đại biểu. Chất vấn là một trong

những công cụ hữu hiệu đã và đang thu hút được sự quan tâm của cử tri và nhân

dân trong các kỳ họp HĐND. Do đó cần chú ý câu hỏi chất vấn nhằm thực hiện

chức năng giám sát, bên cạnh cần đặt câu hỏi chất vấn khác với câu hỏi bình

thường, khi chất vấn với những bằng chứng hoặc dư luận phải có địa chỉ rõ ràng xác

thực, đúng với đối tượng chất vấn, vì vậy cần phải hết sức thận trọng. Đại biểu phải

nắm rõ quyền hạn, nhiệm vụ của các đối tượng nằm trong diện bị chất vấn của

HĐND, cần làm cho đại biểu hiểu rõ yêu cầu, mục đích của chất vấn. Qua hoạt

động chất vấn và trả lời chất vấn, cử tri có thể đánh giá được những đại biểu mà cử

tri đã tin tưởng bầu ra có thực sự là đại diện cho Nhân dân hay không, là những

“công bộc” của Nhân dân trả lời công khai trước công chúng có thực sự cầu thị,

dám nhận trách nhiệm, đưa ra cách giải quyết về những vấn đề bức xúc mà cử tri và

xã hội quan tâm hay chỉ là sự tự bào chữa, đổ lỗi, là những lời giải thích, cho sự

thiếu trách nhiệm của mình. Qua hoạt động chất vấn cũng đánh giá được trách

nhiệm chính trị của các cấp, các ngành. Để hoạt động chất vấn ngày càng đi vào

chiều sâu và phát huy có hiệu quả, phải nâng cao tinh thần trách nhiệm của các vị

đại biểu HĐND, đòi hỏi người đại biểu HĐND phải có bản lĩnh, am hiểu, dám nói,

dám làm. Chính vì vậy, trước khi chất vấn một vấn đề gì, đòi hỏi người đại biểu hội

đồng phải có kỹ năng khéo léo, phải tìm hiểu kỹ, thu thập thông tin và có bằng

chứng xác thực về vấn đề mình chất vấn. Câu hỏi chất vấn gắn với hậu quả pháp lý

nên buộc phải trả lời chất vấn phải giải trình rõ ràng, sai, đúng và xác định rõ trách

nhiệm thuộc về ai, về cơ quan đơn vị nào. Nếu việc trả lời chất vấn của các cơ quan

69

nhà nước chưa đảm bảo thì đại biểu có quyền đề nghị trả lời cụ thể hơn, đại biểu

chưa đồng tình có thể kiến nghị, đề xuất HĐND xem xét trách nhiệm của người

được chất vấn. Để nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động chất vấn và trả lời chất

vấn cần phải có sự thay đổi chuyển biến mạnh mẽ trong từng đại biểu HĐND, phải

nhận thức đúng tầm quan trọng của việc chất vấn và trả lời chất vấn, trong kỳ họp

cần phải dành nhiều thời gian cho việc chất vấn. Đại biểu HĐND phải được bồi

dưỡng những kiến thức cơ bản về quản lý nhà nước, tích lũy kinh nghiệm, kỹ năng

chất vấn, phương thức hoạt động trong lĩnh vực cơ quan dân cử, tham gia đầy đủ

các buổi tiếp xúc cử tri.

Đại biểu phải xác định được mục đích cuối cùng là xác định trách nhiệm của

người bị chất vấn trong thực hiện chất vấn, phải có khả năng chuẩn bị các câu hỏi rõ

ràng, nêu các vấn đề cụ thể. Không sử dụng chất vấn nhằm mục đích cá nhân “vạch

lá tìm sâu” hoặc xâm phạm đến các vấn đề riêng tư của người bị chất vấn. Để đạt

mục tiêu chất vấn, công tác bồi dưỡng phải làm cho đại biểu có được kỹ năng thu

thập, kỹ năng đặt câu hỏi, phân tích xử lý các thông tin có liên quan đến vấn đề chất

vấn, kỹ năng tuyên truyền, thuyết phục… Hậu trả lời chất vấn, những hứa hẹn phải

thật sự được chú trọng và tăng cường giám sát chặt chẽ thì chất vấn mới có hiệu

quả.

Bốn là, kỹ năng giám sát của người đại biểu HĐND.

Giám sát hoạt động của UBND theo định kỳ là một hoạt động quan trọng của

HĐND. Giám sát là việc theo dõi và xem xét tổ chức và cá nhân có thực hiện đúng

đắn những quy định. Có thể nói, kỹ năng giám sát là một kỹ năng khó và rất phức

tạp, vì nó liên quan đến nhiều chức năng khác rất khó phân biệt về ranh giới như:

Kiểm tra, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, kiểm soát, điều tra, thẩm định, giám định.

Đây là một trong những khâu yếu, chưa được tiến hành thường xuyên hiện nay.

Cuối cùng là phải quy định rõ chức năng, trách nhiệm, cơ chế giám sát của

các cơ quan và tổ chức phải xử lý các vấn đề nổi cộm, là một trong những giải pháp

cơ bản nhất để nâng cao hiệu quả cũng như kỹ năng giám sát.

70

3.2.2.6. Tạo lập các điều kiện đảm bảo hoạt động giám sát của HĐND cấp xã

Theo đánh giá chung từ thực tiễn hoạt động giám sát tại 13 xã, thị trấn của

huyện Quế Sơn cho thấy, một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả giám

sát của HĐND cấp xã tại huyện Quế Sơn là do thiếu điều kiện vật chất và phương

tiện thông tin cho các đại biểu. Các cơ quan của Hội đồng, các đại biểu HĐND

muốn thực hiện tốt chức năng của mình thì nhu cầu được đảm bảo về thông tin là

một yêu cầu lớn, cần phải được hỗ trợ một cách đầy đủ nhất là trong điều kiện như

hiện nay, nhu cầu được cung cấp thông tin là rất cần thiết.

Việc cung cấp thông tin phải phù hợp với kế hoạch giám sát của HĐND,

thông tin cần phải được cập nhật sâu rộng trong mọi lĩnh vực giám sát. Do đó để

làm tốt nội dung trên cần tăng cường hơn nữa công tác tư liệu, công tác thông tin

lưu trữ và đảm bảo phải phù hợp về nội dung trên mọi lĩnh vực giám sát của

HĐND. Tránh tình trạng gần đến kỳ họp HĐND hoặc trong kỳ họp mới gửi tài liệu

cho đại biểu nghiên cứu, không đủ thời gian đối chiếu thông tin, phân tích tài liệu

một cách kỹ lưỡng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng giám sát.

Nên ứng dụng khoa học, công nghệ vào hoạt động của HĐND xã, như thành

lập trang Web của HĐND xã, đó sẽ là địa chỉ tin cậy để các đại biểu HĐND, cử tri

và người dân nghiên cứu tham gia trao đổi, góp ý kiến cho Hội đồng hoạt động hiệu

quả hơn trên mạng internet.

Về chế độ đã ngộ: Nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ cho đại biểu HĐND

cấp xã, nhất là đại biểu cấp xã ở miền núi (Huyện Quế Sơn có 01 xã Quế Phong là xã

miền núi) và các chức danh kiêm nhiệm của HĐND về phụ cấp cho đại biểu.

Về cơ sở vật chất: Cần cung cấp đầy đủ các trang thiết bị cần thiết, tạo điều

kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ phát huy hết năng lực nhiệm vụ của mình, giúp

HĐND cấp xã hoàn thành nhiệm vụ.

3.2.2.7. Tăng cường phối hợp đi đôi với theo dõi, kiểm tra hoạt động giám

sát HĐND cấp xã

Cần tăng cường theo dõi, kiểm tra việc giám sát của HĐND cấp xã, để hiệu

quả giám sát của HĐND cấp xã được tốt hơn ngày càng đi vào chất lượng. Tăng

71

cường sự phối hợp một cách nhịp nhàng, đồng bộ giữa các cơ quan nhà nước và các

cơ quan của HĐND tại xã để hạn chế và tránh sự giám sát chồng chéo và mất tính

tự chủ trong việc giám sát.

Đặc biệt tăng cường phối hợp với UBMTTQVN xã và các tổ chức thành viên

trên tất cả các hoạt động giám sát của HĐND xã, phát huy tính dân chủ; phối hợp yêu

cầu phải được mời tham dự đầy đủ các cuộc họp do TT UBND, các ban ngành trực

thuộc UBND xã tổ chức và được cung cấp đầy đủ thông tin hoạt động, có như vậy

mới có đủ căn cứ để xác định các đối tượng và nội dung cần giám sát. Qua đó, có sự

bổ sung, điều chỉnh những nhiệm vụ, nội dung mới phát sinh để giám sát kịp thời.

Tiểu kết Chương 3

Trong giai đoạn hiện nay chất lượng hoạt động giám sát của HĐND cấp xã là

vấn đề bức thiết có ý nghĩa quan trọng đối với chất lượng hoạt động của HĐND và

sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Trên cơ sở thực trạng giám sát của HĐND cấp xã ở huyện Quế Sơn, tỉnh

Quảng Nam trong thời gian qua, đã đưa ra một số phương hướng, giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND cấp xã ở huyện Quế Sơn cho phù hợp với

nhiệm vụ, chức năng của mình để HĐND xã thực sự là cơ quan quyền lực Nhà nước

tại địa phương, thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí, quyền làm chủ và nguyện vọng

vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân địa phương. Tăng cường giám sát của

HĐND xã cần đứng trên các quan điểm: Hướng đến mục tiêu đảm bảo phát huy vai

trò của cả hệ thống chính trị, quyền lực Nhân dân, duy trì hoạt động bình thường của

bộ máy Đảng, nhà nước, ổn định trật tự xã hội, yêu cầu nâng cao vai trò quản lý của

chính quyền địa phương, phải đặt trong yêu cầu cải cách hành chính. Cần triển khai

hai nhóm giải pháp, các nhóm giải pháp tuy có thể chưa đầy đủ, nhưng rất cần thiết,

mỗi giải pháp có một vị trí, vai trò riêng đó là: Nhóm giải pháp chung và nhóm giải

pháp cụ thể để tăng cường hoạt động giám sát của HĐND cấp xã.Tuy nhiên, nếu

được tiến hành một cách đồng bộ, hợp lý và kiên quyết, với một tinh thần trách nhiệm

cao của toàn Đảng toàn dân thì chúng mới đem lại hiệu quả thực sự.

72

KẾT LUẬN

Trong bối hiện nay yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân là phương thức cơ bản

để phát huy dân chủ XHCN, có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, suy thoái

về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện cơ hội, thực dụng, chạy theo

danh lợi, tiền tài, tham ô, tham nhũng, lãnh phí gây thất thoát tiền tài của nhân dân.

Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp hướng tới mục tiêu cơ bản là

bảo đảm các chính sách, pháp luật khi đã được thông qua đều được tổ chức thi hành

nghiêm minh, tuân thủ nghiêm túc, kỷ cương, kỷ luật rong thi hành pháp luật phải

được tôn trọng và bảo đảm, nhất là cấp xã, phường, thị trấn. Do đó, việc nâng cao

hiệu quả giám sát của các chủ thể nói chung và của HĐND cấp xã của huyện Quế

Sơn nói riêng là một yêu cầu khách quan, cấp bách hiện nay. Vì vậy, giám sát việc

thực hiện quyền lực Nhà nước nhằm góp phần duy trì bản chất tốt đẹp của chế độ

XHCN, làm trong sạch bộ máy có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Hằng năm, HĐND cấp xã trên địa bàn huyện Quế Sơn đã chủ động xây dựng

kế hoạch, chương trình giám sát cụ thể trong việc ra nghị quyết trên cơ sở yêu cầu

thực tiễn trong cuộc sống và nhiệm vụ chính trị đề ra là phát triển KT - XH, giữ

vững QP - AN tại địa phương. Sau khi Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm

2015 ban hành, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND có hiệu lực từ

ngày 01 tháng 7 năm 2016, đây là cơ sở pháp lý, là động lực để cho hoạt động giám

sát có nhiều chuyển biến tích cực. Trên thực tế nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức đã

kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn hoạt động của mình phù hợp hơn với quy định của

pháp luật và Nghị quyết của HĐND xã. Việc giám sát của HĐND cấp xã không

những hướng tới mục tiêu làm rõ thực trạng việc thực hiện chính sách, pháp luật

trong lĩnh vực giám sát, đối tượng, nội dung giám sát mà còn phải làm rõ trách

nhiệm của từng cá nhân, tổ chức cụ thể đối với các sai sót, các vi phạm được phát

hiện trong quá trình giám sát, làm cơ sở để đề nghị truy cứu trách nhiệm nghiêm

minh và công bằng.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hiệu quả giám sát của HĐND

73

cấp xã tại huyện Quế Sơn thật sự chưa đáp ứng kịp thời với sự phát triển nhanh

chóng của xã hội và nhiệm vụ phát sinh thường xuyên ở tại địa phương như hiện

nay, chưa phát huy hết vai trò, vị trí của mình. Hệ thống pháp luật về giám sát có

phần chưa có hướng dẫn cụ thể hơn cho cấp xã thực hiện, chưa hoàn thiện và đến

hiệu quả giám sát chưa cao. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thành tựu và hạn chế

trong việc giám sát của HĐND cấp xã tại huyện Quế Sơn trong thời gian qua, luận

văn đã nêu lên một số quan điểm chỉ đạo, những giải pháp chung và giải pháp cụ

thể nhằm tập trung nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND cấp xã huyện Quế Sơn

trong thời gian tới, xứng đáng là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại

diện cho nguyện vọng, ý chí và quyền làm chủ của Nhân dân. Các giải pháp phải

được thực hiện một cách đồng bộ, có sự phối hợp một cách kịp thời, nhằm phát huy

hết sức mạnh của việc giám sát, góp phần trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực

thuộc về Nhân dân.

Với những hiểu biết bước đầu thu nhận được về việc giám sát của HĐND

cấp xã ở huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, tác giải hy vọng luận văn sẽ góp phần

nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả, chất lượng giám sát của HĐND cấp xã ở huyện

Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.

74

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Đăng Dung (chủ biên, 2016), Chức năng giám sát của Hội đồng nhân

dân, Nxb Tư pháp.

2. Nguyễn Đăng Dung (1998), HĐND trong hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước,

Nxb Pháp lý, Hà Nội.

3. Nguyễn Sỹ Dũng, Vũ Công Giao (đồng chủ biên) (2015), Hoạt động giám sát

của cơ quan dân cử ở Việt Nam: Vấn đề và giả pháp, Nxb Hồng Đức.

4. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,

Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Hội đồng nhân dân huyện Quế Sơn, Nghị quyết về ban hành nội quy kỳ họp.

6. Hội đồng nhân dân huyện Quế Sơn (2016), Báo cáo số 67/BC-HĐND về thực

hiện Nghị quyết số 35/2012/NQ-QH 13 của Quốc Hội về việc lấy phiếu tín

nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc Hội, Hội đồng

nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, Quế Sơn.

7. Hội đồng nhân dân huyện Quế Sơn khóa (2017), Báo cáo tình hình hoạt động

của Hội đồng nhân dân huyện năm 2016, phương hướng nhiệm vụ năm 2017.

8. Hội đồng nhân dân huyện Quế Sơn khóa (2018), Báo cáo tình hình hoạt động

của Hội đồng nhân dân huyện năm 2018, phương hướng nhiệm vụ năm 2019.

9. Hội đồng nhân dân huyện Quế Sơn khóa (2019), Báo cáo tình hình hoạt động

của Hội đồng nhân dân huyện năm 2019, phương hướng nhiệm vụ năm 2020.

10. Hội đồng nhân dân xã Quế Xuân 1 (2016), Các báo cáo tổ chức và hoạt động

của HĐND xã Quế Xuân 1, huyện Quế Sơn nhiệm kỳ 2016-2021.

11. Hội đồng nhân dân xã Quế Xuân 2 (2016), Các báo cáo tổ chức và hoạt động

của HĐND xã Quế Xuân 2, huyện Quế Sơn nhiệm kỳ 2016-2021.

12. Hội đồng nhân dân xã Quế Phú (2016), Các báo cáo tổ chức và hoạt động của

HĐND xã Quế Phú, huyện Quế Sơn nhiệm kỳ 2016-2021.

13. Hội đồng nhân dân thị trấn Hương An (2016), Các báo cáo tổ chức và hoạt

động của HĐND thị trấn Hương An, huyện Quế Sơn nhiệm kỳ 2016-2021.

14. Hội đồng nhân dân xã Quế Mỹ (2016), Các báo cáo tổ chức và hoạt động của

HĐND xã Quế Mỹ, huyện Quế Sơn nhiệm kỳ 2016-2021.

15. Hội đồng nhân dân xã Quế Thuận (2016), Các báo cáo tổ chức và hoạt động

của HĐND xã Quế Thuận, huyện Quế Sơn nhiệm kỳ 2016-2021.

16. Hội đồng nhân dân xã Quế Hiệp (2016), Các báo cáo tổ chức và hoạt động của

HĐND xã Quế Hiệp, huyện Quế Sơn nhiệm kỳ 2016-2021.

17. Hội đồng nhân dân xã Quế Châu (2016), Các báo cáo tổ chức và hoạt động của

HĐND xã Quế Châu, huyện Quế Sơn nhiệm kỳ 2016-2021.

18. Hội đồng nhân dân thị trấn Đông Phú (2016), Các báo cáo tổ chức và hoạt động

của HĐND thị trấn Đông Phú, huyện Quế Sơn nhiệm kỳ 2016-2021.

19. Hội đồng nhân dân xã Quế Long (2016), Các báo cáo tổ chức và hoạt động của

HĐND xã Quế Long, huyện Quế Sơn nhiệm kỳ 2016-2021.

20. Hội đồng nhân dân xã Quế Phong (2016), Các báo cáo tổ chức và hoạt động

của HĐND xã Quế Phong, huyện Quế Sơn nhiệm kỳ 2016-2021.

21. Hội đồng nhân dân xã Quế An (2016), Các báo cáo tổ chức và hoạt động của

HĐND xã Quế An, huyện Quế Sơn nhiệm kỳ 2016-2021.

22. Hội đồng nhân dân xã Quế Minh (2016), Các báo cáo tổ chức và hoạt động của

HĐND xã Quế Minh, huyện Quế Sơn nhiệm kỳ 2016-2021.

23. Trần Đình Huề (2001), Mấy vấn đề về vai trò hoạt động giám sát của HĐND và

bước đầu xây dựng quy trình một cuộc giám sát, kỷ yếu nâng cao năng lực và

hiệu quả giám sát của HĐND, văn phòng Quốc Hội.

24. Phạm Ngọc Kỳ, Quyền giám sát của HĐND và kỷ năng giám sát cơ bản (2001),

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

25. Nguyễn Đức Lam, Nguyễn Đăng Dung “Kinh nghiệm hoạt động giám sát của

cơ quan dân cử địa phương ở một số quốc gia”.

26. Nguyễn Hải Long (2010) “Bàn về đối tượng giám sát của Hội đồng nhân dân”,

nhà nước và pháp luật.

27. Nguyễn Hải Long (2012), Hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của Hội

đồng nhân dân, luận án Tiến sỹ Luật học, khoa luật-Đại học Quốc gia Hà Nội.

28. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân về việc ban hành quy chế hoạt động của

HĐND huyện nhiệm kỳ 2016-2021.

29. Quốc hội (2005), Nghị quyết số 753/2005/UBTVQH12 của Ủy ban Thường vụ

Quốc Hội ban hành quy chế hoạt động của HĐND, Hà Nội.

30. Quốc Hội (2014), Nghị quyết số 58/2014/NQ/QH 13 của Quốc Hội về việc lấy

phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc Hội,

HĐND bầu hoặc phê chuẩn, Hà Nội.

31. Quốc Hội Việt Nam (1992), Hiến pháp 1992.

32. Quốc Hội Việt Nam (2003), Luật bầu cử đại biểu HĐND.

33. Quốc Hội Việt Nam (2003), Luật tổ chức HĐND và UBND.

34. Quốc Hội Việt Nam (2013), Hiến pháp 2013.

35. Quốc Hội Việt Nam (2015), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

36. Quốc hội Việt Nam (2015), Luật Bầu cử Đại biểu Quốc Hội và Hội đồng nhân dân.

37. Quốc Hội Việt Nam (2015), Luật Hoạt động giám sát của Quốc Hội và Hội

đồng nhân dân.

38. Quốc Hội Việt Nam (2015), Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

39. Đinh Ngọc Quang, Về đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp nhiệm

kỳ 2004-2009, Tạp chí nhà nước số 02/2005.

40. Từ điển Hán Việt (1996), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

41. Từ điển luật học (1971) Nxb Giáo dục, Hà Nội.

42. UBTVQH (2005), Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân, Nxb chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

43. Võ Khánh Vinh (2003), Một số vấn đề chung về hiệu quả và việc nâng cao hiệu

quả giám sát việc tực hiện quyền lực nhà nước, Trong sách: “Giám sát và cơ chế

giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước”, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

44. Bùi Thế Vĩnh (chủ biên) (2000), Phương thức và kỹ năng hoạt động của Đại

biểu HĐND trong chương trình tập huấn đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ

1999-2004, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.

45. Viện ngôn ngữ học (2005), Những điểm mới trong quy chế hoạt động của Hội

đồng nhân dân 2005, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.