ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ HOA
GIÁO DỤC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN CHỢ ĐỒN TỈNH BẮC KẠN (1997 – 2013)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Thị Thu Thủy
Thái Nguyên, năm 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc.tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, kết quả
nghiên cứu trong Luận văn là trung thực, chưa được công bố trong một công
trình nào khác.
Người thực hiện
i
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Nguyễn Thị Hoa
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên tác giả Luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS.
Hà Thị Thu Thủy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tác giả trong quá
trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thành đề tài.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy, cô giáo trong
Khoa Lịch sử Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã chỉ bảo
tận tình, động viên khích lệ tác giả trong suốt quá trình học tập và hoàn
thành Luận văn này.
Trong thời gian thực hiện Luận văn, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ tận
tình của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Kạn, Huyện ủy, UBND huyện Chợ Đồn, Sở
Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn, Trường THPT Chợ Đồn, Trường THPT Bình
Trung cùng các phòng, ban, đoàn thể trong tỉnh Bắc Kạn và huyện Chợ Đồn đã
cung cấp tư liệu để tác giả hoàn thành Luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn những nhận xét, đánh giá, góp ý quý báu
của Hội đồng khoa học đánh giá luận văn.
Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và hoàn
thành Luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 3 năm 2015
Tác giả
ii
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Nguyễn Thị Hoa
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
Danh mục các bảng, biểu đồ ............................................................................... iv
Danh mục các kí hiệu, chữ viết tắt ...................................................................... v
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN CHỢ ĐỒN VÀ GIÁO DỤC THPT
HUYỆN CHỢ ĐỒN TỈNH BẮC KẠN TRƢỚC NĂM 1997 ....................... 10
1.1. Vài nét về huyện Chợ Đồn ..................................................................... 10
1.1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên ......................................................... 10
1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội .................................................................... 14
1.2. Khái quát giáo dục THPT huyện Chợ Đồn trước năm 1997 .................. 18
1.2.1. Giai đoạn 1945 - 1954 ......................................................................... 18
1.2.2. Giai đoạn 1954 – 1975 ........................................................................ 20
1.2.3. Giai đoạn 1976 – 1996 ........................................................................ 24
Chƣơng 2. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC THPT HUYỆN CHỢ ĐỒN TỈNH
BẮC KẠN GIAI ĐOẠN 1997 - 2013 .............................................................. 30
2.1. Giáo dục THPT huyện Chợ Đồn giai đoạn 1997 – 2006 ....................... 30
2.1.1. Hoàn cảnh và chủ trương phát triển giáo dục THPT huyện Chợ Đồn 30
2.1.2. Giáo dục THPT huyện Chợ Đồn ......................................................... 34
2.2. Giáo dục THPT huyện Chợ Đồn giai đoạn 2006 – 2013 ....................... 43
2.2.1. Hoàn cảnh và chủ trương phát triển giáo dục THPT huyện Chợ Đồn 43
2.2.2. Giáo dục THPT huyện Chợ Đồn ......................................................... 48
Chƣơng 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ GIÁO DỤC THPT HUYỆN CHỢ
ĐỒN TỈNH BẮC KẠN (1997 – 2013) ............................................................ 63
iii
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
3.1. Quy mô trường lớp và số lượng học sinh được mở rộng ....................... 63
3.2. Đội ngũ cán bộ, giáo viên có sự chuyển biến về số lượng và chất lượng ...... 65
3.3. Cơ sở vật chất trường học được đầu tư xây dựng và phát triển ............. 66
3.4. Chất lượng dạy học có sự chuyển biến ................................................... 68
3.5. Còn tồn tại một số khó khăn và hạn chế ................................................. 71
3.6. Một số bài học kinh nghiệm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục THPT huyện Chợ Đồn ............................................................................ 72
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 81
iv
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1: Quy mô trường lớp, học sinh Trường THPT Chợ Đồn
(1997 – 2006) .................................................................................... 35
Bảng 2.2: Kết quả giáo dục hai mặt Trường THPT Chợ Đồn (1997 – 2006) .. 41
Bảng 2.3: Quy mô trường lớp, học sinh THPT Chợ Đồn (2006 – 2013) ......... 49
Bảng 2.4: Số lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên THPT huyện Chợ Đồn
(2006 – 2013) .................................................................................... 50
Bảng 2.5: Kết quả giáo dục hai mặt Trường THPT Chợ Đồn (2006 - 2013) ... 58
Bảng 2.6: Kết quả giáo dục hai mặt Trường THPT Bình Trung
(2006 - 2013) .................................................................................... 60
Bảng 3.1: Quy mô trường, lớp, học sinh bậc THPT huyện Chợ Đồn, tỉnh
Bắc Kạn trong những năm 1997 – 2013 ........................................... 64
Bảng 3.2: Kết quả hai mặt giáo dục THPT huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn
iv
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
trong những năm 1997 – 2013 .......................................................... 69
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ CÁI VIẾT TẮT NỘI DUNG
CNH - HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nxb Nhà xuất bản
THPT Trung học phổ thông
TW Trung ương
UBND Ủy ban nhân dân
v
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
XHCN Xã hội chủ nghĩa
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC KẠN
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo có vị trí và vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát
triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhiều quốc gia trên thế giới đã đạt được những
thành tựu to lớn trong quá trình phát triển do sớm coi trọng vai trò của giáo dục
như Nhật Bản, Singapore... Đặc biệt, trong xã hội hiện đại ngày nay, loài người
đang bước vào cuộc cách mạng của nền kinh tế tri thức, giáo dục ngày càng có
vai trò quan trọng, trở thành nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển của
kinh tế - xã hội. Cố Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu, người đã đưa
Singapore trở thành một trong bốn “con Rồng châu Á” bằng con đường giáo
dục, đã có một tổng kết vô cùng sâu sắc: Thắng trong cuộc đua về giáo dục sẽ
thắng trong cuộc đua về phát triển kinh tế.
Nắm bắt được vai trò phát triển của giáo dục, từ khi nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra đời, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến phát triển
giáo dục, coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Sau thành công của
Cách mạng tháng Tám, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm
thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đưa ra sáu nhiệm vụ cấp bách của đất nước lúc bấy giờ, trong đó có nhiệm
vụ “diệt giặc dốt”.
Trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước ta lại
càng coi trọng hơn nữa đến sự nghiệp giáo dục. Đảng ta xác định để thúc đẩy
tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, hoàn thành công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước thì vấn đề nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài là vấn đề có tính then chốt. Đảng ta đã khẳng định trong Nghị quyết Trung
ương 3 (khóa VII): đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển.
Trong hệ thống giáo dục và đào tạo của nước ta, giáo dục trung học phổ
1
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
thông giữ vai trò quan trọng. Trung học phổ thông là bậc cuối cùng của hệ
thống giáo dục phổ thông, gồm 3 năm học từ lớp 10 đến lớp 12. Đây là bậc học
có nhiệm vụ hoàn thiện vốn học vấn phổ thông và đào tạo nguồn phục vụ cho
yêu cầu đào tạo sau trung học của xã hội, chuẩn bị cho thế hệ trẻ đi vào cuộc
sống xã hội, lao động sản xuất, thực hành nghĩa vụ công dân và có điều kiện để
tiếp tục học thêm. Đồng thời, bậc học này cũng góp phần nâng cao dân trí.
Nước ta đang ngày càng tiến hành hội nhập quốc tế sâu rộng, sự nghiệp
giáo dục cũng đòi hỏi phải có sự đổi mới để phù hợp với yêu cầu mới của đất
nước. Vì thế, ngày 4/11/2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành
Nghị quyết số 29-NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Trong đó, đối với
giáo dục trung học phổ thông, Nghị quyết nêu rõ mục tiêu là phải tập trung phát
triển trí tuệ, thể chất hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi
dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối
sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức
vào thực tiễn. Đồng thời, chuẩn bị cho giáo dục sau phổ thông có chất lượng.
Chợ Đồn là một huyện miền núi cao của tỉnh Bắc Kạn. Thực hiện chủ
trương của Đảng và chính sách phát triển của tỉnh, trong những năm 1997 –
2013, giáo dục trung học phổ thông huyện Chợ Đồn đã đạt được những thành
tựu đáng kể về cả số lượng và chất lượng. Đó là chất lượng giáo dục hai mặt
cho học sinh có bước chuyển biến tiến bộ, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học
phổ thông và học sinh thi đỗ vào các trường chuyên nghiệp dần được nâng lên,
chất lượng giảng dạy từng bước được nâng cao... Song, là một huyện miền núi
cao, kinh tế còn nghèo nên giáo dục trung học phổ thông huyện Chợ Đồn còn
gặp nhiều khó khăn như hệ thống cơ sở vật chất, trường lớp phục vụ cho việc
dạy học còn nhiều thiếu thốn, vẫn còn học sinh bỏ học, tỷ lệ học sinh đạt giải
2
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
trong các kỳ thi học sinh giỏi còn ít...
Là một người con của quê hương Chợ Đồn, lại là một giáo viên giảng
dạy bộ môn lịch sử ở trường trung học phổ thông, tôi nhận thức rõ việc nghiên
cứu giáo dục trung học phổ thông ở huyện Chợ Đồn từ năm 1997 đến năm
2013 vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn bởi nó không chỉ góp
phần vào việc nghiên cứu lịch sử phát triển của ngành giáo dục trung học phổ
thông ở địa phương mà qua đó còn có thể rút ra những bài học kinh nghiệm để
tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp giáo dục cũng như đẩy mạnh sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương.
Từ những nhận thức nêu trên, tôi quyết định chọn vấn đề “Giáo dục
trung học phổ thông huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn (1997 – 2013)” làm đề tài
luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề giáo dục tỉnh Bắc Kạn nói chung và giáo dục THPT huyện Chợ
Đồn (1997 – 2013) nói riêng đã có nhiều sách, báo, công trình nghiên cứu của
các tổ chức, cá nhân, các học giả đề cập đến với nội dung và các khía cạnh,
góc độ khác nhau.
Năm 1993, Huyện ủy Chợ Đồn cho xuất bản cuốn “Lịch sử Đảng bộ
huyện Chợ Đồn, (1930 – 1945)” [48]. Cuốn sách đã nêu ra những nét khái quát
về lịch sử hình thành, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của huyện Chợ Đồn. Đồng
thời, nêu ra quá trình phát triển của huyện Chợ Đồn trong những năm 1930 –
1945, trong đó có vấn đề giáo dục.
Năm 2000, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Chợ Đồn tiếp tục cho xuất
bản cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Chợ Đồn, tập II (1954 – 1975)” [2]. Cuốn
sách đã trình bày một cách khái quát tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
của huyện Chợ Đồn trong những năm 1954 – 1975, trong đó đã nêu ra những
thành tựu, hạn chế của giáo dục huyện Chợ Đồn nói chung và giáo dục THPT
3
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
nói riêng trong thời gian này.
Năm 2000, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn cho xuất bản cuốn
“Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, tập I” [4]. Cuốn sách đã tái hiện chặng đường
phát triển của lịch sử Bắc Kạn từ năm 1943 đến năm 1975 dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn. Trong đó có đề cập đến sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Bắc Kạn đối với công tác giáo dục và đào tạo của tỉnh nhà, đồng thời nêu ra
ngắn gọn sự phát triển nền giáo dục của địa phương những năm 1943 – 1975.
Năm 2001, Đảng ủy – Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Kạn xuất bản cuốn
“Bắc Kạn lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954)” [39].
Cuốn sách đã đề cập đến tình hình giáo dục tỉnh Bắc Kạn trong thời kỳ tiến
hành cuộc kháng chiến chống Pháp. Đến năm 2004, Đảng ủy – Bộ chỉ huy
quân sự tỉnh Bắc Kạn tiếp tục xuất bản cuốn “Bắc Kạn lịch sử kháng chiến
chống Mĩ cứu nước (1954 – 1975)” [40], cuốn sách cũng đã đề cập đến tình
hình giáo dục tỉnh Bắc Kạn trong thời kỳ tiến hành cuộc kháng chiến chống
Mỹ ở địa phương.
Năm 2006, Đảng ủy – Ban Chỉ huy quân sự Chợ Đồn cho xuất bản cuốn
“Chợ Đồn lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ (1945 –
1975)” [38]. Cuốn sách đã dựng lại tương đối đầy đủ những đóng góp của quân
và dân Chợ Đồn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ cứu nước. Vấn đề giáo dục, trong đó có giáo dục THPT cũng được đề cập
ngắn gọn trong cuốn sách này.
Gần đây nhất, năm 2010, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Chợ Đồn đã
xuất bản cuốn “Lịch sử Đảng bộ huyện Chợ Đồn, tập III (1975 – 2005)” [3].
Cuốn sách đã khái quát lại chặng đường 30 năm (1975 – 2005) Đảng bộ huyện
Chợ Đồn lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong huyện thực hiện nhiệm vụ chính
trị của địa phương, trong đó có nêu về quá trình phát triển nền giáo dục của
huyện. Những thành tựu, tiến bộ cũng như những hạn chế, yếu kém của giáo
dục trung học phổ thông của huyện trong những năm 1975 – 2005 đã được đề
4
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
cập ngắn gọn trong cuốn sách này.
Tình hình giáo dục Bắc Kạn nói chung và giáo dục THPT huyện Chợ
Đồn nói riêng còn được đề cập trong các công trình nghiên cứu của các học giả.
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Âu Thị Hồng Thắm: Bắc Kạn trong cuộc
kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954) [74], đã khái quát tình hình của Bắc
Kạn trong thời gian tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp, trong đó có đề cập
đến tình hình giáo dục nói chung và giáo dục THPT của tỉnh nói riêng.
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Hà Văn Tiềm: Giáo dục phổ thông tỉnh Bắc
Kạn từ 1997 đến 2004 [76], có đề cập đến những thành tựu mà ngành giáo dục
và đào tạo Bắc Kạn đã đạt được trong thời gian này, trong đó có những đóng
góp của giáo dục THPT huyện Chợ Đồn.
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Trần Thế Anh: Huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc
Kạn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1954 – 1975) [1], đã trình
bày ngắn gọn về nhiệm vụ xây dựng hậu phương của huyện Chợ Đồn trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trong đó có công tác giáo dục.
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Đức Quế: Hậu phương Bắc Kạn
trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954) [53], đã trình bày một
cách có hệ thống và toàn diện của hậu phương Bắc Kạn trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, trong đó có đề cập đến sự phát triển của giáo dục tỉnh
Bắc Kạn trong giai đoạn này.
Luận án Tiến sĩ của tác giả Âu Thị Hồng Thắm: Tỉnh Bắc Kạn trong căn
cứ địa Việt Bắc từ năm 1942 đến năm 1954 [75], đã làm rõ quá trình hình
thành, phát triển của căn cứ địa Bắc Kạn trong những năm 1942 – 1954. Luận
văn đã đề cập đến tình hình phát triển kinh tế, văn hóa (trong đó có giáo dục),
xã hội của tỉnh Bắc Kạn trong thời gian này.
Ngoài ra, tình hình giáo dục THPT huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn từ năm
1997 đến năm 2013 còn được đề cập trong văn kiện của Đại hội Đảng bộ tỉnh
5
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Bắc Kạn lần thứ VIII, IX, X và văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Chợ Đồn lần
thứ XVII, XVIII, XIX; trong các báo cáo tổng kết hằng năm và báo cáo đánh
giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 – 2000,
2001 – 2005, 2006 – 2010 và 2011 – 2015 của Huyện ủy Chợ Đồn; các báo cáo
tổng kết, đánh giá của ngành giáo dục và đào tạo Bắc Kạn đối với sự nghiệp
giáo dục trung học phổ thông của tỉnh.
Nhìn chung, những nguồn tư liệu trên dưới các góc độ khía cạnh khác
nhau đã phản ánh ít nhiều về quá trình phát triển giáo dục THPT huyện Chợ
Đồn nói chung và thời kỳ 1997 - 2013 nói riêng. Tuy nhiên, đến nay chưa có
một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu có hệ thống về giáo dục trung học
phổ thông huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn trong giai đoạn này. Song đó là những
tư liệu quý giúp tôi phương hướng đi sâu nghiên cứu và hoàn thành đề tài:
“Giáo dục trung học phổ thông huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn (1997 – 2013)”.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về giáo dục trung học phổ thông huyện Chợ Đồn, tỉnh
Bắc Kạn trong những năm 1997 – 2013.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: đề tài nghiên cứu về giáo dục trung học phổ thông thuộc
phạm vi huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
Thời gian: đề tài nghiên cứu về giáo dục trung học phổ thông huyện Chợ
Đồn, tỉnh Bắc Kạn từ năm 1997 (từ khi Bắc Kạn tái lập tỉnh) đến năm 2013 (cụ
thể là từ năm học 1997 – 1998 đến hết năm học 2012 – 2013).
3.3. Nhiệm vụ của đề tài
Khái quát vài nét về địa lý hành chính, điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh
tế – xã hội của huyện Chợ Đồn và tình hình giáo dục trung học phổ thông
6
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
huyện Chợ Đồn trước năm 1997.
Khôi phục lại quá trình phát triển của giáo dục trung học phổ thông
huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn trong những năm 1997 – 2013. Qua đó nêu rõ
những thành tựu và hạn chế của giáo dục trung học phổ thông huyện Chợ Đồn
trong thời gian này.
Rút ra những bài học kinh nghiệm cho sự phát triển của giáo dục trung
học phổ thông huyện Chợ Đồn cho những năm tiếp theo.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả Luận văn đã sử dụng các
nguồn tư liệu:
Tài liệu văn kiện Đảng, các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của các cấp ủy
Đảng, chính quyền về giáo dục nói chung và giáo dục trung học phổ thông
nói riêng.
Các báo cáo tổng kết hằng năm của tỉnh Bắc Kạn, huyện Chợ Đồn; các
báo cáo tổng kết, đánh giá của ngành giáo dục và đào tạo Bắc Kạn; hệ thống
Niên giám thống kê của Cục Thống kê tỉnh Bắc Kạn, Phòng Thống kê huyện
Chợ Đồn về những vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài. Đặc biệt là báo
cáo tổng kết và phương hướng năm học của các trường trung học phổ thông
trong huyện Chợ Đồn trong những năm 1997 - 2013.
Các công trình nghiên cứu, sách có liên quan đến giáo dục trung học
phổ thông huyện Chợ Đồn như các cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ huyện Chợ
Đồn, tập I (1930 – 1945)”, “Lịch sử Đảng bộ huyện Chợ Đồn, tập II (1954 –
1975)” , “Chợ Đồn lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ
(1945 – 1975)”, Luận văn Thạc sĩ “Giáo dục phổ thông tỉnh Bắc Kạn từ
1997 đến 2004”...
Hồi kí của các thế hệ học sinh, giáo viên, lãnh đạo nhà trường.
7
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó, chủ yếu là phương pháp lịch sử
và phương pháp logic, thông qua việc sử dụng các phương pháp chuyên ngành
(diễn tiễn theo tiến trình từng giai đoạn) để tái hiện lại quá trình phát triển của
giáo dục THPT huyện Chợ Đồn giai đoạn 1997 - 2013.
Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh để rút ra
nhận xét, đánh giá khái quát.
Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng phương pháp điều tra xã hội, khảo sát
thực địa, phỏng vấn các thế hệ học sinh, giáo viên, lãnh đạo các trường
THPT trên địa bàn huyện để có thêm căn cứ thẩm định cho các nguồn tư liệu
đã lưu trữ.
5. Đóng góp của luận văn
Tái hiện lại một cách sinh động, có hệ thống quá trình phát triển của giáo
dục trung học phổ thông huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn trong những năm 1997
– 2013. Qua đó nêu rõ được những thành tựu và hạn chế của giáo dục trung học
phổ thông huyện Chợ Đồn trong thời gian này.
Đề xuất một số giải pháp để Đảng bộ, chính quyền huyện nhà có thể
tham khảo, bổ sung hoàn thiện chủ trương kế hoạch nhằm thúc đẩy sự phát
triển của giáo dục trung học phổ thông những năm tiếp theo.
Có thể dùng làm tài liệu tham khảo để phục vụ cho công tác giảng dạy
lịch sử địa phương và là nguồn tư liệu xác đáng, tin cậy để các nhà nghiên cứu
tham khảo mở rộng nghiên cứu.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
8
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
của luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Khái quát về huyện Chợ Đồn và giáo dục THPT huyện Chợ
Đồn tỉnh Bắc Kạn trước năm 1997.
Chương 2: Tình hình giáo dục THPT huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn giai
đoạn 1997 – 2013.
Chương 3: Một số nhận xét về giáo dục THPT huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc
9
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Kạn (1997 – 2013)
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN CHỢ ĐỒN VÀ GIÁO DỤC THPT
HUYỆN CHỢ ĐỒN TỈNH BẮC KẠN TRƢỚC NĂM 1997
1.1. Vài nét về huyện Chợ Đồn
1.1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên
Chợ Đồn là một huyện miền núi cao nằm ở phía Tây của tỉnh Bắc Kạn,
có 1 thị trấn (Bằng Lũng) và 21 xã. Chợ Đồn có ranh giới tiếp giáp: phía Bắc
giáp huyện Ba Bể; phía Nam giáp huyện Định Hóa của tỉnh Thái Nguyên; phía
Đông giáp huyện Bạch Thông, huyện Chợ Mới; phía Tây giáp các huyện
Chiêm Hóa, Yên Sơn và Na Hang của tỉnh Tuyên Quang.
Theo sử cũ, từ đời nhà Trần trở về trước, địa phận huyện Chợ Đồn ngày
nay là một phần đất của huyện Vĩnh Thông, thuộc phủ Thái Nguyên; thời thuộc
Minh (1407 - 1427) vẫn theo như thế. Đến thời nhà Lê, huyện Vĩnh Thông
được đổi tên thành châu Bạch Thông, thuộc phủ Thông Hóa, do phiên thần họ
Hoàng nối đời cai trị. Từ đó trở đi, Chợ Đồn vẫn thuộc châu Bạch Thông.
Năm 1884, sau khi chiếm được thành Thái Nguyên, thực dân Pháp bắt
đầu mở rộng cuộc xâm lược lên các huyện phía Bắc nước ta. Vấp phải sự phản
kháng quyết liệt của nhân dân các dân tộc cho nên sau 10 năm, thực dân Pháp
mới đến được phủ lỵ Thông Hóa. Đến năm 1895, một đạo quân Pháp tiến lên
vùng thượng lưu sông Cầu, đánh chiếm các vùng rẻo cao của phủ Thông Hóa,
trong đó có phần đất của huyện Chợ Đồn ngày nay.
Đầu năm 1900, theo nghị định của Toàn quyền Đông Dương Paul
Doumer, thực dân Pháp tách phủ Thông Hóa đặt thành tỉnh Bắc Kạn, gồm 4
châu (sau đổi thành huyện) là Bạch Thông, Chợ Rã, Thông Hóa (sau đổi thành
Na Rì), Cảm Hóa (sau đổi thành Ngân Sơn). Năm 1911, châu Chợ Đồn được
10
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
thành lập, gồm hai tổng: Đông Viên (gồm các xã hiện nay là Đông Viên,
Phương Viên, Rã Bản, Đại Sảo, Ngọc Phái, Bằng Lãng, Yên Thịnh, Yên
Thượng, Bản Thi) và Nhu Viễn (gồm các xã hiện nay là Quảng Bạch, Tân Lập,
Đồng Lạc, Nam Cường, Xuân Lạc). Đến năm 1914, chính quyền thực dân cắt
tổng Nghĩa Tá (gồm các xã hiện nay là Lương Bằng, Nghĩa Tá, Bình Trung,
Phong Huân, Yên Nhuận, Yên Mỹ) thuộc Thái Nguyên nhập vào châu Chợ
Đồn thuộc tỉnh Bắc Kạn. Kể từ đó, châu Chợ Đồn có 3 tổng với 16 xã.
Ngày 21/4/1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra quyết định số
103-NQ-TVQH thành lập tỉnh Bắc Thái trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Thái
Nguyên và Bắc Kạn. Chợ Đồn lúc này trở thành một huyện của tỉnh Bắc Thái.
Đến ngày 6/11/1996, để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và nguyện vọng của nhân dân các dân tộc, Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ 10 đã phê chuẩn việc
chia tỉnh Bắc Thái thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Ngày 01/01/1997,
tỉnh Bắc Kạn chính thức được tái lập. Chợ Đồn lại trở thành một huyện của tỉnh
Bắc Kạn từ đó đến nay.
Về địa hình, Chợ Đồn là một huyện miền núi cao của tỉnh Bắc Kạn, có
độ cao giảm dần từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây với ba dạng địa hình
phổ biến: địa hình núi đá vôi ở phía Bắc thuộc cao nguyên đá vôi Lang-ca-phu
kéo dài từ huyện Ba Bể đến thị trấn Bằng Lũng, địa hình chia cắt phức tạp bởi
những dãy núi đá vôi với độ cao trên 1000m (núi Phia Khao xã Bản Thi) xen giữa các thung lũng hẹp, độ dốc bình quân từ 250 đến 300, đây là nơi đầu nguồn
của các sông chảy về hồ Ba Bể; địa hình núi đất ở phía Nam thị trấn Bằng Lũng, có độ cao phổ biến 400m đến trên 600m, độ dốc bình quân từ 200 đến 250, địa hình chia cắt mạnh bởi hệ thống sông suối khá dày đặc; địa hình thung
lũng phân bố dọc theo các sông, suối xen giữa các dãy núi cao. Các điều kiện tự
nhiên nhìn chung khá thuận lợi cho phát triển canh tác nông - lâm nghiệp kết
11
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
hợp, cây ăn quả, cây đặc sản.
g đặc trưng chung của khí hậu miền Bắc Việt
Nam, chia thành bốn mùa (xuân, hạ, thu, đông) trong năm nhưng có hai mùa
nóng và lạnh rõ rệt. Đặc biệt, Chợ Đồn là vùng núi cao nên mùa đông thường
kéo dài (bắt đầu từ tháng 10 và kết thúc vào tháng 4 năm sau), giá lạnh, nhiệt
độ không khí thấp, khô hanh, có sương muối. Mùa hè kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9, nóng ẩm, mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình năm là 23,2oC. Ngoài ra, khí
hậu Chợ Đồn còn có đặc trưng khác như sương mù, nhất là vào các tháng 10,
11 số ngày sương mù thường cao. Vào khoảng tháng 12 và tháng 1, các xã
vùng núi đá vôi còn xuất hiện sương muối. Mùa đông lạnh, kéo dài lại kèm
theo sương mù, sương muối đã gây khó khăn không nhỏ cho đời sống sinh hoạt
và sản xuất của con người nơi đây.
Lượng mưa thuộc loại thấp, bình quân 1.115mm/năm. Các tháng có
lượng mưa lớn là tháng 6 và 7 có ngày mưa tới 340mm/ngày; thấp nhất là vào
tháng 12 và tháng 1 năm sau 1,5mm/ngày. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và
chiếm tới 75-80% lượng mưa cả năm. Độ ẩm không khí trung bình 82%, thấp
nhất vào tháng 2 với 79% và cao nhất vào tháng 7 tới 88%. Chế độ gió thịnh
hành là gió mùa Đông Bắc kèm theo không khí lạnh và gió mùa Đông Nam
mang theo hơi nước từ biển Đông, tạo ra những trận mưa lớn vào mùa hè.
Những đặc điểm về khí hậu nêu trên rất thích hợp cho các loại cây trồng
nhiệt đới và á nhiệt đới, là điều kiện để đa dạng hóa cây trồng, tăng vụ cho
ngành kinh tế nông – lâm nghiệp của huyện Chợ Đồn.
Chợ Đồn có hệ thống sông suối khá dày đặc, trong đó có ba nhánh
thượng nguồn của các con sông là sông Cầu, sông Năng, sông Phó Đáy (còn
gọi là sông Bình Trung). Đặc điểm chung của hệ thống sông suối nơi đây là đầu
nguồn, lòng sông ngắn, dốc, thuỷ chế thất thường. Giao thông đường sông ít
phát triển do sông suối dốc, lắm thác ghềnh. Vào mùa khô, phần lớn các dòng
sông suối đều cạn; nhưng vào mùa mưa, nước dồn nhanh có thể xảy ra lũ quét
12
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
ảnh hưởng xấu đến đời sống nhân dân.
Chợ Đồn có diện tích tự nhiên 91.115 ha (chiếm 18,75 % diện tích tự
nhiên của tỉnh Bắc Kạn), trong đó diện tích đất nông nghiệp không đáng kể -
5.005,85 héc-ta (chiếm 5,49% tổng diện tích tự nhiên toàn huyện), đất lâm
nghiệp có 64.731,22 ha, chiếm 71,04% so với tổng diện tích tự nhiên toàn
huyện. Diện tích rừng của huyện Chợ Đồn khá nhiều, độ che phủ đạt trên 57%,
phân bố trên tất cả các xã, thị trấn. Tập đoàn cây rừng hiện có chủ yếu là cây gỗ
tạp, tre, nứa, keo, mỡ... Rừng nguyên sinh còn ít, tập trung ở một số địa bàn
khu vực hiểm trở, song lại giàu các loại gỗ quý có giá trị kinh tế cao như đinh,
lim, sến, táu, nghiến, lát... Động vật rừng cũng rất phong phú gồm nhiều loại
chim, thú quý như voọc đen má trắng, lợn rừng, hươu xạ, cầy vằn bắc, hoẵng,
vạc hoa... Có thể nói, rừng vừa là tài nguyên, vừa là lợi thế tuyệt đối của huyện
Chợ Đồn, vì thế, khai thác hợp lý rừng sẽ không chỉ là nguồn nguyên liệu nhằm
phát triển công nghiệp chế biến cho thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu
mà còn là nền tảng vững chắc cho giai đoạn phát triển bền vững sau này.
Không chỉ “giàu” về rừng, Chợ Đồn còn là một trong hai khu vực tập
trung tài nguyên khoáng sản của tỉnh Bắc Kạn (Chợ Đồn và Ngân Sơn – Na
Rì). Những khoáng sản có tiềm năng hơn cả là sắt, chì, kẽm và vật liệu xây
dựng có trữ lượng lớn. Những mỏ đã được thăm dò và có trữ lượng lớn là mỏ
quặng sắt Bằng Lũng; mỏ kẽm Chợ Điền thuộc xã Bản Thi (đã được thực dân
Pháp cho khai thác từ năm 1909). Bên cạnh đó, tại vùng Bản Khắt (xã Quảng
Bạch), thôn Phiêng Liềng (xã Ngọc Phái), bản Nà Lược còn có một khối lượng
lớn đá vôi là nguồn nguyên liệu lớn để sản xuất vật liệu xây dựng. Nguồn
khoáng sản với trữ lượng lớn là lợi thế để Chợ Đồn có thể phát triển các ngành
công nghiệp khai khoáng, công nghiệp vật liệu xây dựng, từng bước tích luỹ và
xây dựng các ngành công nghiệp khác sau này.
Là một huyện miền núi cao, phần lớn là rừng và đồi núi, việc xây dựng
và phát triển giao thông trong huyện gặp nhiều khó khăn. Thời thuộc Pháp, Chợ
13
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Đồn mới chỉ có một đoạn đường cái dài khoảng 10 ki-lô-mét, từ xã Đông Viên
đến xã Phương Viên, nối liền con đường đi từ thị xã Bắc Kạn vào tới đồn quan
Châu [48;10]. Còn lại là những con đường mòn nhỏ hẹp chỉ vừa đủ cho người
và ngựa đi lại, nối liền từ xã này đến xã khác. Từ sau ngày hòa bình lập lại,
cùng với sự phát triển kinh tế, mạng lưới giao thông trong huyện được mở
mang thêm nhiều. Hai tuyến đường nhựa lớn xuất phát từ Bằng Lũng: một
tuyến đi qua Bản Cậu sang Tuyên Quang; một tuyến xuống Bình Trung, thông
với huyện Định Hóa. Từ trung tâm huyện, các con đường đất cũng được mở
rộng, xe ô tô có thể đi về hầu hết các xã. Hiện nay, được sự đầu tư của trung
ương và của tỉnh, các tuyến đường giao thông liên xã đều đã được rải nhựa,
tuyến đường tỉnh lộ 257 đã được mở rộng và rải asphalt. Hệ thống giao thông
tương đối hoàn thiện tạo thuận lợi cho huyện Chợ Đồn trong việc giao lưu
thương mại và phát triển kinh tế - xã hội.
Có thể nói, điều kiện tự nhiên ở Chợ Đồn có phần khắc nghiệt hơn
những địa phương khác trong địa bàn tỉnh Bắc Kạn, nơi đây thường xảy ra
những trận lũ lớn, những trận sương muối làm thiệt hại không nhỏ đến mùa
màng và đời sống con người. Song, huyện Chợ Đồn lại có những nguồn tài
nguyên thiên nhiên là tiềm năng để có thể đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, nhất
là với các ngành lâm nghiệp, công nghiệp khai khoáng và công nghiệp vật liệu
xây dựng. Kinh tế phát triển chính là điều kiện để thúc đẩy nền giáo dục của
huyện phát triển.
1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Chợ Đồn có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi để phát triển nền kinh tế
nhiều ngành nghề.
Ngành kinh tế chính của Chợ Đồn là nông nghiệp, trong đó chủ yếu là
trồng lúa nước. Nhiều xã trong huyện có cánh đồng rộng lớn như Đông Viên,
Phương Viên, Đồng Lạc, Nam Cường... Đồng bào nơi đây còn biết làm guồng
đưa nước từ thấp lên cao, xây dựng các ruộng bậc thang để trồng cây lúa nước.
14
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Đồng bào các dân tộc ở vùng núi cao còn có truyền thống trồng lúa nương.
Ngoài trồng lúa, đồng bào còn trồng ngô, khoai, sắn, các cây thực phẩm khác
(rau, đậu...) và các cây ăn quả (cam, quýt...). Những năm gần đây, huyện Chợ
Đồn đã và đang tập trung phát triển, mở rộng diện tích, nâng cao năng suất,
chất lượng các loại cây đặc sản có giá trị kinh tế cao. Đến nay, nhiều loại nông
sản địa phương đã trở thành sản phẩm uy tín trên thị trường, trong đó tiêu biểu
là chè tuyết san Bằng Phúc, hồng không hạt, gạo bao thai. Bên cạnh trồng trọt,
chăn nuôi gia súc, gia cầm (trâu, bòn, lợn, gà, vịt...) cũng được phát triển theo
quy mô hộ gia đình.
Chợ Đồn là huyện miền núi cao, rừng chiếm phần lớn diện tích tự nhiên
nên lâm nghiệp là ngành kinh tế phát triển của huyện. Việc khai thác hợp lý
rừng với nhiều loại cây gỗ như mỡ, keo, tre, nứa và một số loại cây gỗ quý
cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến từ lâu đã được chính
quyền huyện quan tâm, phát triển. Để phát triển được quỹ rừng, được sự hỗ trợ
của Trung ương, tỉnh và các tổ chức quốc tế, huyện Chợ Đồn đã thực hiện
nhiều chương trình, dự án như Chương trình 135, 134, Dự án PAM 5322, Dự
án Hợp tác lâm nghiệp Việt Nam - Hà Lan..., nhờ đó không chỉ khai thác nguồn
tài nguyên rừng hợp lý, phát triển bền vững mà còn giúp người dân nâng cao
thu nhập từ việc trồng rừng.
Kinh tế công nghiệp và thủ công nghiệp cũng tương đối phát triển. Nhờ
được tự nhiên ưu đãi về nguồn tài nguyên khoáng sản (sắt, chì, kẽm, đá vôi)
nên Chợ Đồn có điều kiện phát triển ngành công nghiệp khai khoáng và công
nghiệp vật liệu xây dựng. Các mỏ khai thác khoáng sản có hiệu quả và mang lại
hiệu quả kinh tế cao hiện nay là mỏ quặng sắt Bằng Lũng và mỏ kẽm Chợ Điền
ở Bản Thi. Về thủ công nghiệp, đồng bào các dân tộc nơi đây rất khéo tay trong
nghề thủ công đan lát. Cả nam lẫn nữ đều biết đan và thường xuyên đan đồ
dùng các loại như: cót, dậu, bồ, rổ rá, nơm, đó… Phụ nữ rất giỏi nghề trồng
15
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
bông, kéo sợi, dệt vải; giỏi thêu thùa, may vá, làm thêm những bộ quần áo độc
đáo, đậm đà màu sắc dân tộc. Hầu hết đàn ông đều sử dụng thành thạo các loại
vũ khí cầm tay và các dụng cụ chài lưới dùng để săn bắt và đánh cá.
Cùng với sự phát triển sản xuất, hoạt động thương mại cũng được mở
rộng. Hệ thống các chợ (chợ xã, chợ huyện) được xây dựng tạo điều kiện đẩy
mạnh giao lưu giữa các địa phương trong huyện, trong đó một số chợ đã được
hình thành từ khá lâu như chợ Phương Viên (tên là Chợ Đồn), chợ Bằng Lũng,
chợ Quảng Bạch. Giao thương buôn bán giữa Chợ Đồn với các vùng miền xuôi
cũng được tiến hành từ lâu.
Bên cạnh sự phát triển của các ngành kinh tế, Chợ Đồn còn có một
truyền thống văn hóa phong phú của nhiều đồng bào dân tộc anh em cùng sinh
sống trên mảnh đất này.
Theo dấu tích lịch sử, từ thời xa xưa, Chợ Đồn là mảnh đất sinh sống của
người thượng cổ. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy những chiếc rìu đá, những chiếc
búa, gáo múc bằng đồng tại khu vực các xã Xuân Lạc, Tân Lập, Bản Thi… Bên
cạnh đó, dấu vết các công trình thủy lợi như mương, phai, ao, đập còn để lại ở
nhiều nơi cũng là bằng chứng cho việc từng có người tiền cổ sinh sống và sản
xuất nông nghiệp (trồng lúa nước) tại nơi đây.
Trải qua thời gian dài hình thành và phát triển, ngày nay, dân số của Chợ
Đồn đã lên tới khoảng 50.000 người, với 6 dân tộc cùng sinh sống: Tày, Nùng,
Mông, Dao, Kinh, Hoa. Chiếm số đông nhất trong huyện là dân tộc Tày
(khoảng 70%). Người Tày có mặt sớm hơn cả và là chủ thể của vùng đất này.
Dân tộc Nùng chỉ chiếm một bộ phận nhỏ trong dân số (khoảng 1,7%) và có
mặt tại đây gần như cùng với thời của người Tày. Dân tộc Dao (chiếm 8,6%)
đến sau một thời gian và thường sống ở vùng núi cao. Dân tộc Kinh (khoảng
19,4%) có mặt ở vùng này vào khoảng thế kỷ XVII (theo triều Mạc chạy lên
đây trước cuộc tấn công của nghĩa quân Tây Sơn) và tăng lên vào đầu thế kỷ
XX, khi thực dân Pháp mở cuộc khai thác nguồn tài nguyên khoáng sản nơi
16
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
đây. Từ năm 1960 trở đi, thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ, đồng
bào miền xuôi tình nguyện lên khai hoang, phát triển kinh tế. Cũng từ đó, số
lượng người Kinh tiếp tục tăng lên. Dân tộc Mông và dân tộc Hoa chỉ chiếm
một tỉ lệ rất nhỏ trong dân số huyện Chợ Đồn.
Giữa các dân tộc cư trú trên quê hương Chợ Đồn có mối quan hệ gần gũi
lâu đời. Ngoài tình họ hàng và tình đồng tộc, các dân tộc còn gắn bó với nhau
bằng tình làng nghĩa xóm. Họ sống trong sự cưu mang và đùm bọc lẫn nhau.
Từ những việc cưới xin, ma chay, những ngày lễ, tết, cho đến việc làm nhà...
đều có sự quan tâm thăm hỏi và giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc trong vùng.
Từ sau Cách mạng tháng Tám, nhất là trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, dưới chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước, nhân dân các dân
tộc huyện Chợ Đồn ngày càng nâng cao tình đoàn kết và cả sự nhất trí về chính
trị và tinh thần.
Mỗi dân tộc sinh sống trên địa bàn huyện đều có những nét văn hóa đặc
trưng riêng, những thiết chế văn hóa xã hội truyền thống của từng dân tộc, góp
phần tạo cho Chợ Đồn một kho tàng văn hóa phong phú và hấp dẫn. Đồng bào
các dân tộc Chợ Đồn còn có một đời sống tinh thần rất phong phú, đa dạng.
Những bài văn vần, thơ, cùng với các điệu si-lượn, bài then… đều được sáng
tác trong quá trình lao động sản xuất, rất giàu tính trữ tình và tính giáo dục cao
với nội dung ca ngợi cảnh đẹp quê hương, đất nước; ngợi ca mối tình chung
thủy lứa đôi, sự hồn nhiên giản dị, cũng như đức tính cần cù, dũng cảm của
người dân lao động; đồng thời đả kích những sự bất công, thối nát trong xã hội
và những đồi phong bại tục của giai cấp thống trị. Một số truyền thuyết, truyện
cổ tích như truyện “Trăm trứng”, “Thánh Gióng”… của người Kinh, truyện
“Quả Bầu”, “Phú Luông - Già Cải”, “Vua Giống”… của người Tày, đều ghi lại
các sự kiện lịch sử, biết ơn những người có công xây dựng quê hương và giáo
dục tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc. Những giá trị tinh hoa văn hóa đó
không ngừng được giữ gìn và phát huy trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ
17
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
quê hương của nhân dân các dân tộc huyện Chợ Đồn. Trong những năm gần
đây, thực hiện chủ trương và chính sách của Đảng và nhà nước, nhân dân
huyện Chợ Đồn đang cùng nhau nỗ lực xây dựng đời sống văn hóa mới, tiên
tiến, hiện đại nhưng vẫn mang trong mình những yếu tố truyền thống văn hóa
tốt đẹp của cha ông.
Một điểm nữa cần phải đề cập là các dân tộc anh em trên địa bàn huyện
Chợ Đồn cùng chung sống đoàn kết trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước.
Chợ Đồn còn là vùng đất truyền thống yêu nước và cách mạng. Chợ Đồn là
một phần của chiến khu Định Hoá, hiện còn nhiều di tích lịch sử về cuộc kháng
chiến chống Pháp cần được lưu giữ và tôn tạo như di tích Bản Ca và di tích Nà
Quân (xã Bình Trung), di tích Nà Pậu và di tích Khau Mạ (xã Lương Bằng), di
tích Khuổi Linh (xã Nghĩa Tá)... Với 10 xã thuộc ATK, nhiều danh lam thắng
cảnh, hệ thống sông suối với hệ sinh thái phong phú và mạng lưới giao thông
thuận lợi là những điều kiện thuận lợi để phát triển các hoạt động du lịch trên
địa bàn, từ du lịch văn hoá lịch sử đến du lịch sinh thái .v.v... Nhân dân các dân
tộc có tinh thần đoàn kết yêu quê hương, có đức tính cần cù, chăm chỉ, vượt
qua khó khăn, gian khổ về kinh tế, sự khắc nghiệt của thiên nhiên để từng bước
đi lên. Đó là những nhân tố cơ bản và sức mạnh tinh thần để hướng tới sự phát
triển kinh tế xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng
huyện Chợ Đồn giàu đẹp, văn minh.
Có thể nói, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đời sống nhân dân các dân tộc
Chợ Đồn ngày nay không ngừng được nâng cao về cả hai mặt vật chất và tinh
thần. Cùng với những bản sắc văn hóa được gìn giữ qua mỗi thế hệ, với truyền
thống cách mạng lâu đời của thủ đô kháng chiến, Chợ Đồn ngày nay đang từng
bước đi lên, hòa cùng sự phát triển của cả nước.
1.2. Khái quát giáo dục THPT huyện Chợ Đồn trƣớc năm 1997
1.2.1. Giai đoạn 1945 - 1954
Trước Cách mạng tháng Tám (1945), dưới ách cai trị thực dân – phong
18
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
kiến, hơn 90% dân số nước ta mù chữ. Để dễ bề thống trị dân ta, thực dân Pháp
chủ trương không mở trường học, thực hiện chính sách “ngu dân” nhằm kìm
hãm nhân dân ta trong vòng lạc hậu, dốt nát. Về sau, do nhu cầu đào tạo một
lớp người làm tay sai, chúng buộc phải mở một vài trường, lớp tại một số thị
xã, thị trấn, nhưng chỉ hạn chế ở bậc sơ học (tương đương với cấp I). Cho đến
năm 1922, cả hai tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên cũng chỉ có 6 trường cấp I
không toàn cấp [48;20]. Con em nhân dân lao động huyện Chợ Đồn không có
trường học, những gia đình khá giả, có tiền cho con em đi học cũng phải về tận
thị xã Bắc Kạn hoặc các địa phương khác. Năm 1939 là năm phát triển cao nhất
dưới thời thực dân, toàn tỉnh Bắc Kạn có 900 học sinh cấp I với 60 giáo viên
[4;50]. Trong số đó, học sinh chủ yếu là con em của các tầng lớp trên trong xã
hội, con em lao động hầu như không được học hành. Chính sách ngu dân của
thực dân Pháp dẫn đến hậu quả là ở nhiều vùng, nhiều dân tộc Chợ Đồn, tuyệt
đại đa số, có nơi 100% dân số mù chữ.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, cùng với việc tăng gia sản xuất
nhằm cải thiện đời sống nhân dân và cung cấp lương thực, thực phẩm cho
kháng chiến, Đảng bộ huyện Chợ Đồn đặc biệt quan tâm đến công tác phát
triển văn hóa giáo dục để không ngừng nâng cao dân trí cho nhân dân. Chợ
Đồn là một trong những địa phương có phong trào giáo dục phát triển mạnh
nhất trong khu Việt Bắc. Ngay từ sau khi thành lập (3/1945), chính quyền cách
mạng đã tổ chức được phong trào bình dân học vụ trong toàn huyện, ngành
giáo dục phổ thông cũng phát triển nhanh chóng. Khi thực dân Pháp mở cuộc
tấn công lên căn cứ địa Việt Bắc (thu – đông 1947), các trường, lớp tuy vẫn
được duy trì nhưng phong trào có phần lắng xuống. Hàng loạt cán bộ và học
viên tham gia chiến đấu trong các lực lượng vũ trang hoặc làm nhiệm vụ phá
hoại giao thông. Do vậy, số lớp và học viên giảm sút hẳn so với trước.
Sau ngày địch rút khỏi Chợ Đồn, nhất là từ sau khi Bắc Kạn được hoàn
toàn giải phóng (8/1949), các trường, lớp học tập văn hóa được tổ chức lại,
19
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
phong trào dần dần được hồi phục và phát triển. Năm 1950, với cuộc cải cách
giáo dục theo hệ phổ thống 9 năm, vị trí của nhà trường được xác định đúng
đắn trong xã hội. Những nọc độc văn hóa, giáo dục nô dịch, ngu dân bị xóa bỏ
tận gốc, nền giáo dục dân tộc và khoa học được xác lập vững chắc. Cũng từ
đó, bộ máy quản lý giáo dục các cấp được kiện toàn. Ban bình dân học vụ ở
huyện đổi thành Ban giáo dục và được bổ sung một số cán bộ có chuyên môn,
có năng lực. Các trường cấp I, cấp II được mở tại các xã, thu hút con em các
con em dân tộc ngày càng nhiều. Cùng với ngành giáo dục phổ thông, ngành bổ
túc văn hóa và bình dân học vụ cũng có nhiều bước tiến mới. Khẩu hiệu “Đi
học là yêu nước” trở thành nhận thức sâu sắc của mọi người dân. Đêm đêm,
mọi người hăng hái đốt đuốc đến lớp học; phong trào “dạy cho nhau” do Đảng
bộ phát động, được thực hiện. Đảng bộ huyện còn chủ trương mở các lớp bồi
dưỡng văn hóa và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ cơ sở, đồng thời tuyển chọn
những người có nhiệt tình, có khả năng đi học các lớp đào tạo do tỉnh mở riêng
cho các dân tộc ít người.
1.2.2. Giai đoạn 1954 – 1975
Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ đã kết thúc 9 năm kháng chiến
chống Pháp trường kỳ của quân và dân ta. Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết,
miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Bước vào thời kỳ cách mạng mới, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện
Chợ Đồn phấn khởi tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới. Trong những
năm 1954 – 1960, công tác giáo dục của huyện đã đạt được nhiều tiến bộ. Năm
1958, tổng số học sinh cấp I và cấp II là 2500 em, riêng cấp II là 150 em. Năm
1960, học sinh các cấp đều tăng, riêng cấp II tăng 10,3% so với năm 1958
[2;40]. Song, đến năm 1960, tại Chợ Đồn vẫn chưa có trường cấp III.
Tháng 9/1960, Đảng ta tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III.
Đại hội đã đề ra nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
20
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
(1961 – 1965) là ra sức phấn đấu thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
đồng thời hoàn thành cải tạo XHCN ở miền Bắc.
Về giáo dục, tiếp tục phát huy thành tích trong công tác giáo dục đã đạt
được, đồng thời được Ban Chấp hành Đảng bộ huyện quan tâm, trong kế hoạch
5 năm (1961 – 1965), hệ thống giáo dục phổ thông về quy mô đào tạo không
ngừng được mở rộng, số lượng học sinh, đội ngũ cán bộ giáo viên ngày càng
đông đảo, chất lượng giáo dục từng bước được nâng cao. Năm học 1960 –
1961, giáo dục phổ thông huyện Chợ Đồn có 58 lớp với 960 học sinh, so với
năm 1959 – 1960, số lượng học sinh tăng 33 em [2;69]. Bước sang năm học
1961 – 1962, dưới tác động của cuộc vận động văn hóa giáo dục đã động viên
đông đảo các con em dân tộc trong huyện cắp sách tới trường. Hệ thống phổ
thông cấp I có 17 trường hoàn chỉnh với 2123 học sinh (gấp hơn 2 lần so với
năm học 1960 – 1961). Hệ thống phổ thông cấp II có 3 trường với 522 học sinh
(tăng 137 em so với năm 1960 – 1961) [2;71]. Trường phổ thông cấp II Phương
Viên ở Pài Thẳng (xã Phương Viên) là trường lớn nhất. Được Ty giáo dục quan
tâm, trường có một phòng thí nghiệm khá hoàn chỉnh cho các bộ môn khoa học
tự nhiên đủ để đáp ứng yêu cầu cơ bản phục vụ học tập của học sinh. Thầy trò
trường phổ thông cấp II Phương Viên còn xây dựng một vườn trường dùng làm
nơi tham quan, học tập, thực hiện các thí nghiệm ngoài trời, góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục.
Trong năm học 1961 – 1962, lần đầu tiên huyện Chợ Đồn có một lớp 8
(lớp đầu cấp III của chương trình giáo dục phổ thông 10 năm) với 38 học sinh
[2;71]. Lớp học được đặt ghép trong Trường phổ thông cấp II Phương Viên.
Giáo viên lên lớp được lựa chọn ngay trong đội ngũ giáo viên cấp II, nhiều
người quê ở dưới xuôi như Nam Định, Hà Nội, có cả người từ trong Thanh Hóa
ra... Thế hệ học sinh cấp III đầu tiên này đến lớp cuối cấp (lớp 10) được học tại
trường phổ thông cấp III Bắc Kạn (ở Pá Deng). Sau khi tốt nghiệp lớp 10 phổ
21
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
thông (tương đương tốt nghiệp phổ thông trung học hiện nay), nhiều anh chị em
thi trúng tuyển vào các trường Đại học, Trung học chuyên nghiệp hoặc lên
đường tòng quân giết giặc. Nhiều người trưởng thành, có người sau này trở
thành phó tiến sĩ khoa học, cán bộ khoa học kĩ thuật, cán bộ quản lý các cấp,
các ngành ở địa phương, trong và ngoài tỉnh... có nhiều đóng góp cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Đến năm học 1963 – 1964, cấp
III (vẫn ghép trong Trường phổ thông cấp II Phương Viên) có hai lớp 8, một
lớp 9 với 81 em học sinh (trong đó có 15 học sinh nữ) [2;72]. Sang năm 1964 –
1965, nhìn chung quy mô trường lớp giáo dục phổ thông các cấp ít thay đổi.
Riêng cơ sở vật chất từ lớp học, bàn ghế, bảng đen cho tới sân chơi được củng
cố tốt hơn, cảnh quan môi trường giáo dục được cải thiện một bước.
Từ cuối năm 1964, đế quốc Mỹ đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược
miền Nam Việt Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không
quân và hải quân trên quy mô lớn đối với miền Bắc, nhằm phá hoại các cơ sở
kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục của nhân dân ta, ngăn chặn sự chi viện
của đồng bào miền Bắc đối với cách mạng miền Nam và làm nhụt ý chí chiến
đấu, tinh thần đoàn kết của nhân dân ta, ngăn cản việc xây dựng chủ nghĩa xã
hội và chi viện cho đồng bào miền Nam ruột thịt.
Về văn hóa giáo dục, ngay từ khi đế quốc Mỹ gây ra cuộc chiến tranh
phá hoại miền Bắc lần thứ nhất, các trường lớp ở huyện lỵ và trung tâm các xã
đều phải thực hiện phòng không sơ tán. Từ việc tổ chức trường lớp đến các
hoạt động giảng dạy của thầy và học tập của trò đều theo chế độ thời chiến.
Mặc dù có nhiều khó khăn trong việc tổ chức trường lớp và đời sống cán bộ (ký
túc xá của học sinh đối với cấp III) ở cơ sở mới, song các trường lớp vẫn đảm
bảo khai giảng năm học 1965 – 1966 đúng kế hoạch.
Trường cấp III Chợ Đồn (nay là Trường trung học phổ thông Chợ Đồn)
trước năm 1965 vốn ghép với Trường phổ thông cấp II Phương Viên tại Pài
Thẳng, được sự quan tâm của Ty giáo dục Bắc Kạn, của Huyện ủy và sự ủng
22
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
hộ của nhân dân, đến năm học 1965 – 1966, trường đã tách ra thành một đơn vị
độc lập đặt địa điểm tại Bằng Lũng. Trong năm học này, số học sinh trường cấp
III Chợ Đồn có 59 em. Đội ngũ giáo viên mới có 9 người, cơ sở vật chất,
phương tiện học tập còn rất thiếu thốn. Trường học được xây dựng bằng tranh
tre, nứa lá và do thầy, trò nhà trường cùng bỏ công sức xây dựng. Bàn ghế trong
lớp học là một tấm ván hoặc tre đặt trên bốn cọc tre. Năm học này cũng là năm
học đầu tiên nhà trường tổ chức kỳ thi tốt nghiệp cho lớp cuối cấp tại địa điểm sơ
tán ở Khuổi Loỏng (xã Ngọc Phái). Trong điều kiện chiến tranh, thầy và trò
Trường phổ thông cấp III Chợ Đồn đã nỗ lực khắc phục khó khăn thi đua dạy tốt
và học tốt. Nhà trường đã tổ chức thành công kỳ thi tốt nghiệp cho các em học
sinh cuối cấp. Nhiều em tốt nghiệp đã trúng tuyển vào các trường đại học và
trung học chuyên nghiệp, có em đã xung phong thực hiện nghĩa vụ quân sự, đem
sức trẻ góp phần vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc.
Trường sở phân tán gặp nhiều khó khăn trong việc tập trung nguồn kinh
phí xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ học tập, song được nhân dân
và chính quyền địa phương giúp đỡ, các trường đã bảo đảm được những nhu
cầu cơ bản của sự nghiệp giáo dục. Số học sinh qua các năm học từ 1965 đến
1968 tăng lên đáng kể. Phong trào thi đua “hai tốt” (dạy tốt và học tốt) trong
ngành giáo dục Chợ Đồn trong suốt bốn năm chiến tranh (1965 – 1968) diễn ra
sôi nổi. Mặc dù còn có những hạn chế, song trong điều kiện chiến tranh, Chợ
Đồn vẫn giữ vững và phát triển sự nghiệp đào tạo, giáo dục, đáp ứng được yêu
cầu học tập của con em các dân tộc, góp phần quan trọng vào công cuộc xây
dựng hậu phương và cùng cả nước đẩy mạnh chống Mỹ cứu nước, góp phần
cùng cả nước đánh thắng chiến tranh phá hoại miền Bắc của giặc Mỹ, giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Bước vào hoàn cảnh mới có nhiều thuận lợi hơn, trường lớp trở lại cơ sở
cũ hoặc đóng gần nơi trung tâm có điều kiện để đẩy mạnh các hoạt động giáo
dục, nhất là phong trào thi đua “hai tốt”, học tập các điển hình tiên tiến nhằm
23
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
nâng cao chất lượng giáo dục. Ngay từ năm học 1969 – 1970, nhiều trường di
chuyển địa điểm, xây dựng và củng cố lại trường sở, bảo đảm khai giảng đúng
thời gian. Được nhân dân và chính quyền địa phương giúp đỡ, cơ sở vật chất
của trường: trường lớp, phòng thí nghiệm, thư viện, sân chơi ngày càng được
cải thiện, góp phần đáng kể nâng cao chất lượng giáo dục. Tỷ lệ học sinh lên
lớp của trường cấp III Chợ Đồn từ năm 1970 đến năm 1975 qua mỗi năm học
có tiến bộ. Năm học 1970 – 1971 là 94,5%; đến năm học 1974 – 1975 là 86%
[2;165-166]. Kết quả này phần nào đã nói lên sự nỗ lực của đội ngũ giáo viên
trong sự nghiệp đào tạo, giáo dục con em các dân tộc trong huyện.
1.2.3. Giai đoạn 1976 – 1996
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước,
kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẻ vang của dân tộc Việt
Nam. Thắng lợi này cũng tạo ra một bước ngoặt trong lịch sử dân tộc nước ta,
đưa nước ta chuyển sang một thời kỳ mới – thời kỳ độc lập, thống nhất, cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tháng 12/1976, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng được tổ
chức tại thủ đô Hà Nội. Đại hội đã xác định nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch
Nhà nước 5 năm 1976 – 1980 nhằm hai mục tiêu cơ bản: một là xây dựng một
bước cơ sở - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế
mới trong cả nước mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công – nông nghiệp; hai là cải
thiện một bước đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động. Về giáo
dục, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng nêu rõ: “Ngày
nay, để phục vụ đắc lực việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa,
nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, hơn bao giờ hết, chúng ta phải đẩy mạnh sự
nghiệp giáo dục. Nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là tiến hành một cuộc cải cách
giáo dục rộng lớn trong cả nước, làm cho giáo dục quốc dân gắn chặt hơn nữa
24
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa” [30;116].
Thực hiện Nghị quyết Đại hội IV của Đảng, Đảng bộ huyện Chợ Đồn đã
tập trung lãnh đạo các cấp chính quyền và nhân dân khôi phục, phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội. Công tác giáo dục của huyện tiếp tục được củng cố và phát
triển. Năm học 1975 – 1976, số học sinh đến trường về cơ bản đạt số lượng đề
ra. Mặc dù cơ sở vật chất trường học còn nghèo nàn nhưng đội ngũ giáo viên
luôn cố gắng khắc phục khó khăn, tạo điều kiện giúp đỡ, động viên học sinh
học tập. Năm học 1974 – 1975, kết quả kỳ thi tốt nghiệp của Trường phổ
thông cấp III Chợ Đồn đạt 86% [3;18]. Dù đã có nhiều cố gắng nhưng ngành
giáo dục cấp III Chợ Đồn vẫn gặp không ít khó khăn như tỷ lệ học sinh đến
lớp chưa cao, bàn ghế, dụng cụ học tập thiếu thốn... Đến năm học 1978 –
1979, được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng và chính quyền, chất lượng giáo
dục của Trường phổ thông cấp III Chợ Đồn được nâng lên, số học sinh đến
lớp ngày càng đông. Trong năm học này, trường có 600 học sinh [3;27]. Nhờ
sự nỗ lực của đội ngũ giáo viên và học sinh, tỷ lệ học sinh lên lớp và tỷ lệ học
sinh tốt nghiệp đều cao.
Cuối những năm 70 – đầu những năm 80, nền kinh tế nước ta bắt đầu
lâm vào khủng hoảng, trì trệ do tư tưởng chủ quan, duy ý chí, cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, quan liêu, bao cấp kéo dài làm cho đời sống nhân dân vô cùng
khó khăn. Trên địa bàn huyện Chợ Đồn, tình hình kinh tế - xã hội vẫn còn
nhiều mặt chưa ổn định, lương thực thiếu nghiêm trọng, nhân dân thiếu ăn, dẫn
đến tình trạng không yên tâm sản xuất. Trong hoàn cảnh đó, mặc dù còn nhiều
khó khăn nhưng thực hiện Nghị quyết số 14 của Bộ chính trị, Nghị quyết số 06
của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đặc biệt là Nghị quyết số 19 ngày 6/11/1981 của
Ban Thường vụ Huyện ủy về thực hiện cải cách giáo dục, sự nghiệp giáo dục
của huyện vẫn có sự phát triển về số lượng và từng bước chuyển biến về chất
lượng theo mục tiêu cải cách giáo dục. Đến năm 1983, trường phổ thông cấp III
25
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Chợ Đồn có 13 lớp, 31 giáo viên, 587 học sinh. Chất lượng dạy và học tiến bộ
rõ rệt, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp năm học 1981 – 1982 đạt 80%; năm học 1982 –
1983 là 78% [3;44]. Đặc biệt, nhà trường đã bước đầu có chuyển biến về công
tác hướng nghiệp, thầy và trò nhà trường đã tham gia vào các chương trình thực
nghiệm trồng trọt, chăn nuôi và thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế, xã hội
(khai thác vầu, nứa và nguyên liệu giấy).
Mặc dù đã đạt được một số kết quả khá cao, song chất lượng giáo dục
của Trường phổ thông cấp III Chợ Đồn chưa vững chắc. Cụ thể, tỷ lệ tốt nghiệp
khá cao song tỷ lệ học sinh thi tuyển vào đại học chỉ có 0,5% đạt điểm chuẩn
[3;45]. Công tác hướng nghiệp chưa được quan tâm đúng mức, nội dung chưa
phong phú, chưa có kế hoạch sử dụng tốt những học sinh tốt nghiệp trung học
phổ thông vào chương trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Công tác
chăm lo đời sống cho giáo viên nói chung còn thấp và gặp nhiều khó khăn.
Tháng 12/1986, trước tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội do cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp đem lại, Đảng ta đã triệu tập Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật và đánh giá
đúng sự thật, tại đại hội, Đảng ta đã quyết định thực hiện đổi mới, mở ra thời
kỳ mới cho tiến trình phát triển đất nước. Mặc dù đã tiến hành đổi mới, song
tình hình kinh tế - xã hội của nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là đối với
một huyện miền núi cao như Chợ Đồn. Khó khăn về kinh tế - xã hội đã ảnh
hưởng tới ngành giáo dục. Do đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là
vấn đề lương thực đã tác động mạnh đến chất lượng dạy và học. Nhiều giáo
viên dao động, không thiết tha với nghề nghiệp. Tỷ lệ giáo viên, học sinh bỏ
lớp, bỏ trường gia tăng. Chỉ tính riêng kỳ I năm học 1988 – 1989 có tới 441 học
sinh bỏ học [3;91].
Bước vào thập niên 90, đường lối đổi mới của Đảng đã thực sự đi vào
cuộc sống và tạo nên sự chuyển biến về mặt kinh tế - xã hội. Tháng 6/1991, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp đã đề ra nhiệm vụ, mục tiêu
26
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
của kế hoạch Nhà nước 5 năm (1991 – 1995). Trong đó, về vấn đề giáo dục –
đào tạo, Đại hội đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ là tiếp tục đổi mới, ổn định, phát triển và
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo... Tăng cường đầu tư cho giáo dục ở
miền núi và vùng dân tộc thiểu số, mở rộng các trường nội trú, quy hoạch đào
tạo cán bộ và tri thức người dân tộc” [32;82].
Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng và của Đảng bộ tỉnh
về đổi mới sự nghiệp giáo dục, coi giáo dục là quốc sách, Đảng bộ huyện Chợ
Đồn chủ trương đầu tư ngân sách thích hợp cho ngành giáo dục như tu bổ lại hệ
thống trường lớp, tăng cường vận động con em các dân tộc đi học... Được chăm
lo hơn về đời sống nên đội ngũ giáo viên đã dần ổn định, từng bước tập trung
nâng cao trình độ chuyên môn. Nhờ đó, ngành giáo dục của huyện đã có những
chuyển biến đáng kể. Tình trạng học sinh bỏ học giảm dần, chất lượng giáo dục
ngày càng được nâng cao. Từ 1991 – 1995, tỷ lệ học sinh bỏ học giảm 170%.
Tỷ lệ học sinh lên lớp và tốt nghiệp cuối cấp tăng khá. Số học sinh lưu ban
không quá 10% [3;130]. Phong trào học ngoại ngữ, học nghề phát triển mạnh.
Tiểu kết chƣơng 1
Chợ Đồn là một huyện vùng núi cao nằm ở phía Tây của tỉnh Bắc Kạn.
Điều kiện tự nhiên huyện Chợ Đồn vừa mang đến những ưu đãi (“giàu” rừng,
nhiều tài nguyên khoáng sản), vừa mang lại những khó khăn (khí hậu khắc
nghiệt, sông suối dốc và lắm thác ghềnh dễ gây lũ lụt). Trên mảnh đất Chợ Đồn
có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống là Tày, Nùng, Mông, Dao, Kinh, Hoa.
Tận dụng các điều kiện tự nhiên thuận lợi, nhân dân các dân tộc huyện Chợ
Đồn đã phát triển một nền kinh tế nhiều ngành nghề gồm nông nghiệp (là
ngành kinh tế chính), lâm nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại.
Cùng với sự phát triển kinh tế, nhân dân Chợ Đồn còn có một truyền thống văn
hóa lâu đời với nhiều nét đặc sắc cả về văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Đó là những điều kiện thuận lợi giúp đồng bào nơi đây gây dựng cuộc sống,
27
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
phát triển kinh tế - xã hội để từ đó thúc đẩy sự nghiệp giáo dục của địa phương.
Trước năm 1945, dưới chế độ thực dân phong kiến, do thực dân Pháp
thực hiện chính sách “ngu dân” nên đồng bào các dân tộc huyện Chợ Đồn gần
như mù chữ hoàn toàn. Từ sau Cách mạng tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, ngành giáo dục của huyện Chợ Đồn từng bước được xây dựng và phát
triển. Song tính đến năm học 1960 – 1961, trong hệ thống giáo dục phổ thông
của huyện Chợ Đồn vẫn chưa có lớp học bậc trung học phổ thông.
Tới năm học 1961 – 1962, tại huyện Chợ Đồn mới mở được một lớp học
đầu bậc trung học phổ thông đặt ghép trong Trường phổ thông cấp II Phương
Viên. Từ năm học 1965 – 1966, Trường phổ thông cấp III Chợ Đồn tách ra
thành một đơn vị độc lập. Từ đó cho đến năm 1975, trong điều kiện khó khăn
vừa xây dựng CNXH, vừa kháng chiến chiến chống Mĩ cứu nước, nhưng được
sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, sự quan tâm của các ngành, các cấp và sự cố
gắng của ngành giáo dục – đào tạo huyện Chợ Đồn, giáo dục THPT huyện Chợ
Đồn vẫn tiếp tục được xây dựng và đạt được nhiều chuyển biến tiến bộ. Phong
trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” vẫn diễn ra sôi nổi. Số lượng lớp học ngày càng
được mở rộng. Các thầy cô giáo với tinh thần “hết lòng vì học sinh thân yêu”
đã cố gắng tìm mọi biện pháp để giữ vững và nâng cao chất lượng giáo dục,
nhờ đó chất lượng giáo dục cũng dần được nâng lên.
Sau ngày thống nhất đất nước, phát huy những thành tựu đạt được trước
đó, giáo dục trung học phổ thông huyện Chợ Đồn tiếp tục được củng cố và phát
triển. Nhờ sự nỗ lực của giáo viên và học sinh, tỷ lệ học sinh lên lớp và tỷ lệ
học sinh tốt nghiệp đều cao. Trường lớp cũng được kiên cố hóa hơn.
Trong thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới đất nước, do tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế - xã hội, chất lượng giáo dục trung học phổ thông huyện
Chợ Đồn có chiều hướng đi xuống. Tỷ lệ giáo viên, học sinh bỏ lớp, bỏ trường
gia tăng qua các năm.
Bước sang những năm 90, giáo dục trung học phổ thông huyện Chợ Đồn
đã có nhiều tiến bộ hơn do đường lối đổi mới của Đảng đã thực sự đi vào cuộc
28
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
sống, đời sống kinh tế - xã hội đã có sự chuyển biến. Hệ thống trường lớp được
tu bổ lại, tình trạng học sinh bỏ học giảm dần, chất lượng giáo dục ngày càng
được nâng cao. Những thành tựu đó đã tạo ra những tiền đề cho sự phát triển của
29
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
giáo dục trung học phổ thông Chợ Đồn trong giai đoạn tiếp theo (1997 – 2013).
Chƣơng 2
TÌNH HÌNH GIÁO DỤC THPT HUYỆN CHỢ ĐỒN
TỈNH BẮC KẠN GIAI ĐOẠN 1997 - 2013
2.1. Giáo dục THPT huyện Chợ Đồn giai đoạn 1997 – 2006
2.1.1. Hoàn cảnh và chủ trương phát triển giáo dục THPT huyện Chợ Đồn
Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo (1986 –
1996), đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các mặt kinh tế,
văn hóa, xã hội. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế, song về cơ bản nước ta đã
thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Từ ngày 28/6/1996 đến ngày 01/7/1996, Đảng họp Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII. Đại hội đã tổng kết 10 năm đất nước thực hiện đường lối đổi
mới, đồng thời, vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 – 2000. Đại hội VIII của Đảng
khẳng định nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ là
chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa cơ bản hoàn thành, nước ta chuyển sang
thời kì phát triển mới, thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục
tiêu xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, công bằng, văn
minh, vững bước tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về vấn đề giáo dục và đào tạo, bước vào thời kì cách mạng mới, Đảng ta
vẫn tiếp tục coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng nêu rõ: “Giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu
quả” [33;107].
Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ hai
30
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Ban Chấp hành Trung ương Đảng VIII đã thông qua “Định hướng chiến lược
phát triển giáo dục – đào tạo trong thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa và
nhiệm vụ đến năm 2000”. Hội nghị nêu rõ: “Tiếp tục coi giáo dục – đào tạo là
quốc sách hàng đầu, coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Giáo dục
– đào tạo là sự ngiệp của toàn Đảng, của Nhà nước, của toàn dân. Phát triển
giáo dục – đào tạo gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa
học và củng cố quốc phòng. Thực hiện công bằng trong giáo dục, tạo điều kiện
để ai cũng được học hành, giữ vững vai trò nòng cốt của các trường công lập,
đi đôi với đa dạng hóa các loại hình giáo dục – đào tạo, trên cơ sở Nhà nước
thống nhất quản lý từ nội dung chương trình, quy chế thi cử” [34;9]. Nghị
quyết Trung ương 2 khóa VIII của Đảng có ý nghĩa hết sức quan trọng, là định
hướng đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng và phát triển giáo dục – đào tạo trên
phạm vi cả nước trong thời gian tiếp theo.
Ngày 6/11/1996, để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và nguyện vọng của nhân dân các dân tộc, Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ X đã phê
chuẩn việc chia tỉnh Bắc Thái thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Ngày
1/1/1997, tỉnh Bắc Kạn chính thức được tái lập. Bộ máy chính quyền của tỉnh
nhanh chóng được kiện toàn. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn được thành
lập, dần đi vào hoạt động, quản lý và chỉ đạo có hiệu quả sự nghiệp giáo dục
của tỉnh. Song, khi vừa tách tỉnh, Bắc Kạn vẫn là một tỉnh nghèo, kinh tế - xã
hội chậm phát triển, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Trong hoàn cảnh
đó, ngành giáo dục – đào tạo Bắc Kạn, trong đó có giáo dục THPT Chợ Đồn,
còn nhiều khó khăn.
Đứng trước tình hình trên, quán triệt chủ trương của Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII và Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về giáo dục và đào
tạo, ngày 13/9/1997, Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần thứ VII đã họp và nhấn
mạnh: coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, điều
31
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
kiện cơ bản để đảm bảo thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội ở địa phương,
xóa đói giảm nghèo, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để phát triển
ngành giáo dục – đào tạo của địa phương, Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn cũng đề ra
giải pháp thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục, huy động các nguồn lực để
đầu tư cho giáo dục – đào tạo, xây dựng cơ sở vật chất trường học, bồi dưỡng
chuẩn hóa đội ngũ giáo viên.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần thứ VII, ngành giáo dục – đào tạo Bắc Kạn đã đề ra
các chương trình hành động và các đề án nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục –
đào tạo của tỉnh, trong đó có giáo dục THPT huyện Chợ Đồn.
Bước vào những năm 2000, giáo dục THPT huyện Chợ Đồn được phát
triển trong những điều kiện thuận lợi. Sau 4 năm phát triển từ ngày tách tỉnh,
với tinh thần phấn đấu vượt qua khó khăn, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc
huyện Chợ Đồn đã giành được những kết quả quan trọng trên các mặt của đời
sống xã hội. Nền kinh tế phát triển tương đối ổn định, văn hóa – xã hội có
nhiều tiến bộ, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, sau 4 năm, giáo dục THPT huyện Chợ Đồn
đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Số lượng học sinh đến trường ngày
một tăng. Chất lượng giáo dục có sự chuyển biến tiến bộ.
Tháng 4/2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp. Đây
là thời điểm mà thế kỉ XX – thế kỉ của những biến đổi to lớn đã kết thúc, thế kỉ
XIX vừa mới bắt đầu. Toàn Đảng, toàn dân ta đã trải qua 5 năm (1996 – 2000)
thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng, 10 năm thực hiện “Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991 – 2000” và 15 năm thực hiện
công cuộc đổi mới (1986 – 2000). Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá tình hình đất
nước sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, 15 năm thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng, đồng thời đề ra mục tiêu cho thời kì mới là phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
32
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.
Đại hội IX của Đảng cũng đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 – 2005) và “Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 10 năm (2001 – 2010) đầu thế kỉ”. Về vấn đề giáo dục – đào tạo, Nghị
quyết Đại hổi Đảng IX tiếp tục nhấn mạnh: “Tiếp tục quán triệt quan điểm giáo
dục là quốc sách hàng đầu và tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện trong phát
triển giáo dục và đào tạo. Triển khai và thực hiện có kiệu quả Luật giáo dục.
Định hình quy mô giáo dục và đào tạo, điều chỉnh cơ cấu đào tạo, nhất là cơ
cấu cấp học, ngành nghề và cơ cấu theo lãnh thổ phù hợp với nhu cầu phát
triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao trình độ đội
ngũ giáo viên các cấp” [35;292].
Tiếp tục thực hiện chủ trương Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về
giáo dục và đào tạo, tháng 1/2001, Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần thứ VIII
đã đề ra phương hướng và giải pháp phát triển giáo dục – đào tạo của tỉnh giai
đoạn 2001 – 2005. Về phương hướng: “Quan tâm nâng cao dân trí, tích cực
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho con em các đồng bào dân tộc”
[77;40]. Về giải pháp: “Thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa giáo dục – đào
tạo, huy động các nguồn lực để đầu tư cho giáo dục – đào tạo, tiếp tục sử
dụng nguồn vốn thuộc chương trình 135 để xây dựng cơ sở vật chất trường
học. Tăng cường các trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập ở các
trường, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo. Phổ cập ngoại
ngữ cho tất cả các trường Trung học phổ thông, đưa tin học vào những nơi có
điều kiện...” [77;48].
Từ ngày 18 đến ngày 21/12/2005, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn
lần thứ IX. Đại hội đã đề ra phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Bắc Kạn giai đoạn 2005 – 2010. Trong đó, về vấn đề giáo dục – đào tạo, Đại
hội đã chỉ rõ: “Xây dựng chương trình phát triển giáo dục đến năm 2010, tăng
cường công tác quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Từng bước
33
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, xây dựng trường đạt chuẩn
quốc gia. Liên kết với các trường đại học, cao đẳng để đào tạo lại nhằm nâng
cao chất lượng chuyên môn cho cán bộ, giáo viên. Thực hiện chuẩn hóa giáo
viên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. Đẩy mạnh công tác xã hội
hóa giáo dục – đào tạo...” [28;80].
Phương hướng và giải pháp phát triển giáo dục - đào tạo mà Đảng bộ
tỉnh Bắc Kạn nêu ra chính là sự cụ thể hóa chủ trương phát triển giáo dục – đào
tạo của Trung ương Đảng vào hoàn cảnh, điều kiện của tỉnh. Quán triệt Nghị
quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn đã
xây dựng đề án phát triển giáo dục – đào tạo tỉnh Bắc Kạn trong những năm
2002 – 2005, đồng thời vạch ra phương hướng, nhiệm vụ cụ thể cho từng năm
học trong giai đoạn này nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo của tỉnh.
Tiếp thu những chủ trương và giải pháp mà Trung ương Đảng và Đảng
bộ tỉnh Bắc Kạn đưa ra, Đại hội Đảng bộ huyện Chợ Đồn lần thứ XVII
(12/2000), lần thứ XVIII (10/2005) đã nhấn mạnh vai trò phát triển sự
nghiệp giáo dục của huyện, trong đó có giáo dục THPT, nêu ra các chỉ tiêu
phấn đấu cụ thể cho giáo dục THPT trong các giai đoạn 2000 – 2005, 2006 -
2010 như phấn đấu đến năm 2010 phổ cập giáo dục THPT, đạt tỷ lệ tốt
nghiệp THPT trên 80%.
2.1.2. Giáo dục THPT huyện Chợ Đồn
Năm 1997, tỉnh Bắc Kạn vừa mới được tái lập, trong sự khó khăn chung
của tỉnh về mọi mặt kinh tế - xã hội, ngành giáo dục – đào tạo Bắc Kạn cũng
gặp rất nhiều khó khăn. Đội ngũ giáo viên các bậc học còn thiếu, nhất là giáo
viên có tay nghề cao, thiếu trường lớp, chất lượng giáo dục còn thấp, chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đã tách tỉnh. Rất
nhiều vấn đề được đặt ra đòi hỏi ngành giáo dục – đào tào phải nhanh chóng
giải quyết.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, Đại hội IX của Đảng, đặc
34
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII về giáo dục – đào tạo,
dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, UBND các cấp, chính quyền địa
phương mà trực tiếp là Sở Giáo dục và Đào tạo, giáo dục THPT Chợ Đồn từng
bước vượt qua khó khăn, bắt đầu ổn định và có chuyển biến về số lượng và chất
lượng.
2.1.2.1. Quy mô trường lớp
Trong giai đoạn 1997 – 2006, bậc học THPT của huyện Chợ Đồn chỉ có
một Trường THPT Chợ Đồn được đặt tại Thị trấn Bằng Lũng.
Trong giai đoạn này, quy mô trường lớp của Trường THPT Chợ Đồn
ngày càng được mở rộng. Năm học 1997 – 1998, nhà trường mới có 19 lớp với
893 học sinh. Bước vào năm học 2001 – 2002 là 31 lớp với 1.465 học sinh
(tăng 12 lớp và 572 học sinh so với năm học 1997 – 1998). Đến năm học 2005
– 2006, tổng số lớp là 45 với 2.215 học sinh (tăng 14 lớp và 750 học sinh so với
năm học 2001 – 2002).
Bảng 2.1: Quy mô trƣờng lớp, học sinh Trƣờng THPT Chợ Đồn
(1997 – 2006)
Năm học Tổng số lớp Tổng số học sinh
1997 - 1998 19 893
1998 - 1999 21 987
1999 - 2000 23 1.073
2000 - 2001 28 1.273
2001 - 2002 31 1.465
2002 - 2003 36 1.786
2003 – 2004 38 1.891
2004 – 2005 42 2.046
2005 – 2006 45 2.215
35
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
“Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (1997 – 2006)”
Qua bảng số liệu cho ta thấy quy mô trường lớp và số lượng học sinh của
Trường THPT huyện Chợ Đồn trong giai đoạn 1997 – 2006 tăng dần theo từng
năm học. Đến năm học 2005 – 2006, tổng số lớp và tổng số học sinh tăng hơn
gấp đôi so với năm học 1997 – 1998.
Tuy nhiên, số học sinh bỏ học vẫn còn cao. Trong năm học 2005 – 2006,
số học sinh bỏ học so với đầu năm học là 70 học sinh (theo số liệu của Trường
THPT Chợ Đồn). Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này chủ yếu là do đời sống
vật chất của nhân dân còn khó khăn nên nhiều gia đình không có đủ điều kiện
để cho con em mình có thể tiếp tục theo học. Một nguyên nhân khác nữa là do
trình độ nhận thức về nhiệm vụ học tập của học sinh trong nhà trường chưa
thực sự được phụ huynh quan tâm, nhất là với những bậc phụ huynh dân tộc
thiểu số có trình độ dân trí thấp tại các xã vùng sâu, vùng xa trong huyện.
Để khắc phục tình trạng đó, Ban giám hiệu và các thầy, cô giáo trường
THPT Chợ Đồn đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động để nâng cao
nhận thức cho học sinh và phụ huynh của các em về ý nghĩa của sự nghiệp học
hành. Thực hiện giải pháp trên, số học sinh bỏ học ở các năm học sau tuy còn
khá cao song cũng không tăng thêm về số lượng.
2.1.2.2. Đội ngũ cán bộ, giáo viên
Sau khi tái lập tỉnh (1997), đội ngũ cán bộ, giáo viên của ngành giáo dục
– đào tạo Bắc Kạn thiếu nghiêm trọng về số lượng và yếu về chất lượng, chưa
đáp ứng được nhu cầu dạy và học của ngành. Sau khi tách tỉnh, phần lớn giáo
viên cốt cán của ngành giáo dục tỉnh Bắc Thái (trước khi tách tỉnh) tiếp tục
phục vụ cho công tác cho ngành giáo dục tỉnh Thái Nguyên. Số giáo viên trung
học phổ thông có bằng đại học không chính quy còn khá nhiều, chưa có giáo
viên được đào tạo ở trình độ sau đại học.
Đứng trước thực trạng đó, dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn,
ngành giáo dục và đào tạo Bắc Kạn đã thực hiện một loạt các biện pháp nhằm
36
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên như thường xuyên tổ
chức các lớp học bồi dưỡng về công tác quản lý giáo dục và chuyên môn cho
đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên; cho giáo viên đi học nhằm bồi
dưỡng chuẩn hóa và học lên bậc sau đại học nâng cao chất lượng chuyên môn;
đưa ra các chế độ đãi ngộ đối với giáo viên...
Tại Trường THPT Chợ Đồn, năm học 1997 – 1998 có 45 cán bộ, giáo
viên, trong đó có 41 giáo viên trực tiếp giảng dạy. Song số giáo viên chuẩn hóa
giảng dạy đúng chuyên ngành còn thiếu, vẫn còn tình trạng giáo viên phải giảng
dạy kiêm thêm môn học khác (giáo viên Văn dạy kiêm thêm môn Giáo dục công
dân, giáo viên Lý dạy kiêm thêm môn Kỹ thuật). Đến những năm học sau, cùng
với việc mở rộng quy mô trường lớp, học sinh, đồng thời nhờ những biện pháp
tích cực của ngành giáo dục – đào tạo Bắc Kạn, số lượng và chất lượng cán bộ,
giáo viên của Trường THPT Chợ Đồn cũng được tăng lên. Đến năm học 2001 –
2002, nhà trường có tổng số cán bộ, giáo viên là 59, trong đó có 54 giáo viên
trực tiếp giảng dạy. Đến năm học 2005 – 2006, tổng số cán bộ, giáo viên của nhà
trường là 74, trong đó có 68 giáo viên trực tiếp giảng dạy. Số giáo viên giảng dạy
đúng chuyên ngành cho từng môn học đã cơ bản được đảm bảo.
Bên cạnh việc tăng cường công tác đào tạo nhằm bổ sung đủ biên chế
giáo viên cho các đơn vị giáo dục trong tỉnh, ngành giáo dục – đào tạo Bắc Kạn
còn rất chú trọng đến việc nâng cao chất lượng cho đội ngũ giáo viên. Các kỳ
thi giáo viên dạy giỏi được tổ chức đều đặn đã góp phần nâng cao tay nghề cho
giáo viên. Đối với Trường THPT Chợ Đồn, đến năm học 2005 – 2006, nhà
trường đã có 28 giáo viên các môn học đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp
tỉnh. Cùng với đó, việc thực hiện chế độ, chính sách cho giáo viên cũng được
ngành giáo dục – đào tạo Bắc Kạn quan tâm. Chế độ tiền lương và các phụ cấp
khác được đáp ứng kịp thời. Đời sống vật chất của giáo viên nhờ đó được cải
thiện hơn. Chính sách hỗ trợ giáo viên đi đào tạo thạc sĩ cũng được thực hiện.
Đến năm học 2005 – 2006, trường THPT Chợ Đồn đã có 02 giáo viên có trình
37
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
độ thạc sĩ.
Như vậy, trong những năm 1997 – 2006, nhờ những chính sách và sự
quan tâm của tỉnh, ngành, đội ngũ cán bộ, giáo viên Trường THPT Chợ Đồn đã
phát triển hơn về số lượng và chất lượng. Nhiều giáo viên có tay nghề vững
(đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh), đã có giáo viên có trình độ thạc sĩ.
Song, so với yêu cầu phát triển chất lượng giáo dục của nhà trường thì đội ngũ
cán bộ, giáo viên vẫn chưa thực sự đáp ứng được.
2.1.2.3. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy và học
Để phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo, việc xây dựng cơ sở vật chất
và các trang thiết bị dạy học đóng một vai trò quan trọng. Năm 1997, Bắc Kạn
vừa tái lập tỉnh nên mọi điều kiện cơ sở vật chất kinh tế - xã hội, trong đó có cơ
sở vật chất của ngành giáo dục, còn nhiều thiếu thốn.
Năm học 1997 – 1998, về tổng quan, trường THPT Chợ Đồn bao gồm
hai khu: khu nhà hiệu bộ và khu lớp học. Khu lớp học của nhà trường lại chia
thành hai khu gồm một khu lớp học xây hai tầng kiên cố và một khu lớp học
xây dựng bằng gỗ, lợp ngói. Ngoài ra, trong khuôn viên nhà trường có một sân
rộng trước dãy lớp học xây hai tầng vừa dùng làm sân chơi, sân tập thể dục và
tổ chức các hoạt động bề nổi của nhà trường. Nhà trường có tất cả 27 phòng
học, trong đó số phòng dùng cho hoạt động dạy học là 19, nhưng chỉ có 10
phòng học kiên cố (nằm trong khu nhà xây hai tầng), còn lại là 9 phòng học xây
dựng bằng gỗ, lợp ngói. Nhà trường cũng đã có 01 phòng thiết bị và 01 phòng
máy tính. Thời điểm này, nhà trường chưa có phòng thí nghiệm thực hành.
Bảng và bàn ghế học sinh trong các lớp học đã cũ và hư hỏng nhiều. Thêm vào
đó, trường THPT Chợ Đồn được xây dựng liền kề với khu dân cư, nhà trường
lại chưa xây dựng được tường bao xung quanh, đường dân sinh đi xuyên qua
sân trường và qua cạnh một số lớp học, điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến
hoạt động giáo dục của nhà trường.
Đến năm học 2005 – 2006, nhờ sự quan tâm đầu tư của ngành, chính
38
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
quyền địa phương, đặc biệt là nhờ công tác xã hội hóa giáo dục, cơ sở trường
lớp của trường THPT Chợ Đồn đã có nhiều cải thiện đáng kể. Quy mô trường lớp
không được mở rộng hơn, song số lớp học gỗ đã được tu sửa cho chắc chắn hơn.
Nhà trường đã mua sắm thêm được bảng, bàn ghế mới cho các lớp học. Nhà
trường đã có thêm 01 phòng máy tính đáp ứng cho nhu cầu dạy và học của môn
Tin học. Máy chiếu đã được sử dụng vào công tác dạy học, song vẫn chưa có
phòng máy chiếu, các giáo viên sử dụng máy chiếu cơ động cho giờ học của mình.
Cùng với việc phát triển cơ sở vật chất trường lớp, để đảm bảo đầy đủ
cho hoạt động dạy học, việc đầu tư trang thiết bị dạy và học cho các trường học
cũng được ngành giáo dục - đào tạo Bắc Kạn quan tâm.
Trước tiên là sách giáo khoa phục vụ cho việc dạy học. Năm học 1997
– 1998, do vừa mới tách tỉnh, nguồn ngân sách của tỉnh còn hạn hẹp mà quy
mô trường lớp lại tăng nhanh nên kinh phí mua sắm sách giáo khoa và các
trang thiết bị phục vụ cho việc dạy học của ngành giáo dục – đào tạo Bắc Kạn
còn thiếu thốn. Vì thế số sách giáo khoa cấp phát cho các trường để cho học
sinh mượn phục vụ cho việc dạy học chưa được đáp ứng đủ. Trường THPT
Chợ Đồn cũng nằm trong tình trạng chung đó. Đa số các em học sinh đến
trường đều phải tự mua sắm sách giáo khoa. Có em đến trường không có sách
giáo khoa để học vì hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không mua được. Sách
giáo viên và các sách tham khảo chuyên môn khác có rất ít làm hạn chế đến
việc tự học nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên. Các thiết bị thí
nghiệm dùng cho các bộ môn khoa học tự nhiên còn nhiều thiếu thốn. Nhà
trường vẫn chưa có phòng thực hành thí nghiệm bộ môn. Đến năm học 2005 –
2006, cùng với sự trang bị của ngành, thông qua công tác xã hội hóa giáo dục,
trường THPT Chợ Đồn đã mua sắm được tương đối đầy đủ sách giáo khoa
cho giáo viên, học sinh và các trang thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt động
dạy và học của thầy và trò. Nhà trường đã xây dựng được 01 phòng thư viện
39
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
và 01 phòng thí nghiệm thực hành.
Như vậy, trong những năm 1997 – 2006, việc xây dựng trường lớp, trang
thiết bị dạy học trong những năm học đầu sau ngày tách tỉnh dù còn nhiều khó
khăn nhưng nhờ sự đầu tưu của trung ương và địa phương, của ngành giáo dục
– đào tạo tỉnh Bắc Kạn, hệ thống cơ sở trường lớp và trang thiết bị dạy học
trường THPT Chợ Đồn từng bước được tăng cường, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục của nhà trường trong giai đoạn này.
2.1.2.4. Chất lượng dạy và học
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, lần thứ IX, nhất là
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII của Đảng, đồng thời thực hiện Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần VIII, trong những năm 1997 – 2006, chất
lượng giáo dục THPT Chợ Đồn có những chuyển biến tích cực đáng ghi nhận.
Năm học 1997 – 1998, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng tỷ lệ học sinh
xếp loại văn hóa khá, giỏi của Trường THPT Chợ Đồn còn thấp (7,18%), tỷ lệ
học sinh yếu, kém còn nhiều (32,23%). Về kết quả xếp loại đạo đức, tỷ lệ học
sinh xếp loại đạo đức tốt cũng còn thấp (30,80%), còn nhiều học sinh xếp loại
đạo đức trung bình, yếu (34,55%).
Nguyên nhân dẫn đến kết quả trên là do năm học này Trường THPT Chợ
Đồn cùng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn chung của ngành giáo dục – đào
tạo Bắc Kạn khi vừa mới tách tỉnh. Trong đó, chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo
viên còn thấp, cơ sở vật chất và trang thiết bị giáo dục của nhà trường còn thiếu
thốn, nhiều học sinh chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của việc đi
học (nhất là những học sinh ở các xã vùng sâu, vùng xa) là những nguyên nhân
trực tiếp dẫn tới chất lượng giáo dục THPT Chợ Đồn chưa cao. Chế độ, chính
sách đối với giáo viên còn nhiều bất cập khiến họ không toàn tâm, toàn ý với sự
nghiệp giáo dục.
Sang những năm học sau, được sự quan tâm của các cấp, các ngành và
40
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
quan trọng hơn cả là sự cố gắng hết mình của đội ngũ cán bộ, giáo viên trường
THPT Chợ Đồn, chất lượng hai mặt giáo dục của nhà trường đã có những
chuyển biến nhất định.
Bảng 2.2: Kết quả giáo dục hai mặt Trƣờng THPT Chợ Đồn
(1997 – 2006)
Học lực
Hạnh kiểm
Năm
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Tốt
Khá
TB
Yếu
học
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
1997 -
0,36
6,82
60,59
30,97
1,26
30,80
34,64
33,87
0,68
1998
1998 -
0,44
7,56
60,00
30,67
1,33
36,00
36,45
26,39
1,17
1999
1999 -
0,38
7,77
55,57
35,12
1,16
29,17
36,08
34,75
0,00
2000
2000 -
0,86
13,51
64,73
20,7
0,16
40,20
42,00
17,10
0,70
2001
2001 -
1,1
16,8
59,3
22,7
0,1
40,1
37,7
21,6
0,6
2002
2002 -
0,90
18,36
62,60
18,08
0,06
44,40
38,30
16,24
1,06
2003
2003 –
1,06
14,70
51,18
32,73
0,33
44,36
37,75
17,30
0,59
2004
2004 –
0,85
14,15
48,52
35,52
0,95
40,59
34,77
22,48
2,16
2005
2005 -
0,77
14,90
49,09
35,02
0,22
43,76
33,53
21,39
1,32
2006
“Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (1997 – 2006)”
Đến năm học 2001 – 2002, sau 5 năm phấn đấu vươn lên, kết quả hai
mặt giáo dục của Trường THPT Chợ Đồn đã tốt hơn nhiều so với năm học
41
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
1997 – 1998. Về văn hóa, tỷ lệ học sinh khá, giỏi đã tăng lên nhiều: 17,9%
(tăng 10,72% so với năm học 1997 - 1998), tỷ lệ học sinh yếu, kém giảm đáng
kể: 22,8% (giảm 9,34% so với năm học 1997 – 1998). Về đạo đức, tỷ lệ học
sinh có đạo đức tốt cũng tăng: 40,1% (tăng 9,3% so với năm học 1997 – 1998),
tỷ lệ học sinh có đạo đức trung bình, yếu đã giảm: 22,2% (giảm 12,35%).
Trong những năm học này, đội ngũ cán bộ, giáo viên nhà trường đã cố
gắng thực hiện tốt công tác giảng dạy chuyên môn, vươn lên khắc phục những
khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất. Đồng thời với việc nâng cao chất lượng
giảng dạy văn hóa cho các em, nhà trường cũng đẩy mạnh công tác giáo dục
đạo đức, tư tưởng nhằm nâng cao ý thức học tập và rèn luyện cho các em học
sinh. Nhờ đó, học sinh đã xác định rõ hơn mục đích của việc học tập nên các
em đã chăm chỉ học tập hơn và có ý thức rèn luyện cả về đạo đức.
Đến năm học 2005 – 2006, mặc dù kết quả xếp loại hai mặt giáo dục của
trường THPT Chợ Đồn chưa thực sự cao, song so với những năm học đầu sau khi
tách tỉnh, chất lượng giáo dục của nhà trường về cơ bản đã tốt hơn. Tỷ lệ học sinh
giỏi, khá về văn hóa là 15,67%; học sinh giỏi, khá về đạo đức là 77,29%.
Chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao đưa đến kết quả thi đỗ tốt
nghiệp của Trường THPT Chợ Đồn cũng ngày càng tăng: từ 78,79% năm 2000
tăng lên 80,59% năm 2004 và tăng lên 93,59% năm 2006. Số học sinh đỗ thẳng
vào các trường đại học, cao đẳng ngày càng nhiều.
Cùng với việc đẩy mạnh chất lượng giáo dục hai mặt, Trường THPT Chợ
Đồn đã thực hiện và duy trì có hiệu quả công tác bồi dưỡng học sinh khá, giỏi
nhằm chọn ra những học sinh ưu tú nhất tham gia vào các kỳ thi chọn học sinh
giỏi của tỉnh và quốc gia. Trong số các trường trung học phổ thông của tỉnh
Bắc Kạn thì trường THPT Chợ Đồn luôn là một trong những trường có số
lượng học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh và cấp
quốc gia. Năm học 1999 – 2000, Trường THPT Chợ Đồn có 18 học sinh giỏi
42
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
cấp tỉnh. Đến năm học 2005 – 2006, nhà trường có 26 học sinh đạt giải trong
các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh và cấp quốc gia (trong đó có 25 em học sinh
giỏi cấp tỉnh và 01 em học sinh giỏi quốc gia).
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường, Trường
THPT Chợ Đồn còn đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật, kỹ năng sống, giáo
dục thể chất, quốc phòng an ninh cho học sinh. Bên cạnh đó, công tác giáo dục
lao động hướng nghiệp cũng được nhà trường coi trọng. Chương trình giáo dục
lao động hướng nghiệp được nhà trường đưa vào chương trình lớp 11. Sau khi
học xong, học sinh sẽ được cấp chứng nhận nghề, được cộng điểm thi tốt
nghiệp và có thể còn giúp định hướng nghề nghiệp cho các em đi vào xã hội
sau khi tốt nghiệp mà các em không thi đỗ vào các trường chuyên nghiệp.
Như vậy, giáo dục THPT Chợ Đồn trong những năm 1997 – 2006 có
nhiều tiến bộ, phát triển theo chiều hướng đi lên. Quy mô trường lớp, học sinh
ngày càng mở rộng: từ 19 lớp với gần 893 học sinh (năm học 1997 – 1998)
tăng lên 45 lớp với hơn 2.215 học sinh (năm học 2005 – 2006). Đội ngũ cán bộ,
giáo viên không ngừng được nâng cao vế số lượng và nhất là về chất lượng. Cơ
sở vật chất, trang thiết bị dạy học được bổ sung qua từng năm học, đáp ứng cơ
bản yêu cầu dạy và học của nhà trường. Chất lượng dạy và học của giáo viên và
học sinh ngày một được nâng lên.
Những kết quả trên của Trường THPT Chợ Đồn là tiến bộ, song nó vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục – đào tạo cũng
như yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nói riêng và toàn tỉnh nói
chung. Mặc dù vậy, đây vẫn là những thành tích đáng ghi nhận của thầy và trò
Trường THPT Chợ Đồn, là cơ sở để nhà trường tiếp tục phát huy để đạt được
kết quả tốt hơn trong giai đoạn tiếp theo.
2.2. Giáo dục THPT huyện Chợ Đồn giai đoạn 2006 – 2013
2.2.1. Hoàn cảnh và chủ trương phát triển giáo dục THPT huyện Chợ Đồn
Qua 20 năm thực hiện đổi mới (1986 – 2006), đất nước ta đã và đang đạt
43
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
được những thành tựu quan trọng và có bước phát triển to lớn. Đất nước đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đẩy mạnh; đời sống nhân dân được cải
thiện rõ rệt; vị thế của nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng
cao... Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã họp
tại Hà Nội (18 – 25/4/2006).
Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu
và cả những yếu kém, khuyết điểm và rút ra những bài học kinh nghiệm qua
việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2001 – 2005, “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm 2001 – 2010” và nhìn lại 20 năm đổi mới. Đại hội đã xác định nước ta đã
hoàn thành chặng đường đầu của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và hiện
ta đang ở chặng thứ hai – chặng đường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Mục tiêu mà Đảng đề ra là đến năm 2020, ta sẽ hoàn thành sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nước ta sẽ cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Bên cạnh đó, tại Đại hội X, Đảng còn định ra phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển đất nước cho 5 năm tiếp theo (2006 – 2010). Trong đó, về
vấn đề giáo dục – đào tạo, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Giáo dục và đào tạo
cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động
lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [36;94].
Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức để đến năm 2020 nước ta
trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại đặt ra cho giáo dục –
đào tạo nước ta những yêu cầu, nhiệm vụ và thách thức mới. Điều này đòi hỏi
phải có định hướng phát triển, tầm nhìn chiến lược cùng những hình thức, tổ
chức, quản lý giáo dục – đào tạo cho phù hợp.
Đến năm 2011, sau 25 năm tiến hành đổi mới, cùng với sự phát triển
44
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
chung về mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, lĩnh vực giáo dục – đào tạo tiếp tục
phát triển mạnh mẽ. Đầu tư cho giáo dục ngày càng tăng, trang thiết bị
trường học được tăng cường, quy mô đào tạo không ngừng được mở rộng,
đổi mới giáo dục – đào tạo đang được tiến hành ở mọi cấp học, việc xã hội
hóa giáo dục đã thu được kết quả bước đầu... Nhưng bên cạnh những thành
tựu đạt được, giáo dục – đào tạo nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập kéo
dài và chậm được khắc phục. Trong đó, đáng quan tâm nhất là chất lượng và
hiệu quả giáo – dục đào tạo còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Từ ngày 12 đến ngày 19/1/2011, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng họp tại Hà Nội. Đại hội đã tổng kết việc thực hiện “Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 – 2010”, đề ra phương hướng, nhiệm vụ 5
năm 2011 – 2015 và xác định “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2011 – 2020”. Riêng về vấn đề giáo dục – đào tạo, Đại hội XI xác định: “Giáo
dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn
hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển
khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo
là đầu tư cho phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo
theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc
lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [37;77].
Như vậy, Đại hội Đảng lần thứ XI đã nhấn mạnh nhiệm vụ đổi mới cơ
bản và toàn diện giáo dục – đào tạo nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trình độ
cao đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế tri thức, là chìa khóa để mở ra
tiềm năng cho sự phát triên bền vững của đất nước. Đó là định hướng đúng
đắn cho sự nghiệp phát triển giáo dục – đào tạo của nước ta trong thời kỳ
45
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
cách mạng mới.
Thực hiện đường lối của Đảng tại Đại hội X và Đại hội XI, để nâng cao
chất lượng giáo dục – đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đề ra và thực hiện
hàng loạt các quyết định, chỉ thị mới. Ngày 28/7/2006, Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo ra quyết định số 3859/QĐ-BGDĐT ban hành kế hoạch tổ chức cuộc
vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo
dục” (gọi tắt là cuộc vận động “Hai không”). Ngày 22/7/2008, Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo ra chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT về việc phát động
phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong
các trường phổ thông giai đoạn 2008 – 2013. Ngày 13/8/2008, Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo ra chỉ thị số 47/2008/CT-BGDĐT về nhiệm vụ trọng tâm
của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, giáo dục
chuyên nghiệp năm học 2008 – 2009 xác định tổ chức thực hiện cuộc vận động
“Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của ngành và trở thành một trong những chỉ tiêu thi
đua của ngành giáo dục ở các địa phương và đơn vị. Những quyết định, chỉ thị
của Bộ Giáo dục và Đào tạo nêu trên đã vạch ra một loạt việc làm cụ thể cho
các đơn vị giáo dục trên cả nước nhằm nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo
của đơn vị mình nói riêng, của toàn ngành giáo dục nói chung.
Tại Bắc Kạn, triển khai tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X,
trong các ngày từ 18 đến 20/10/2010, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn
lần thứ X được tổ chức. Với tinh thần tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt
được trong thời gian vừa qua, Đại hội đã đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm
2015 đưa tỉnh Bắc Kạn cơ bản thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Để đạt được
mục tiêu đó, nhiệm vụ then chốt, có vai trò quyết định chính là công tác đào
tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đại hội tiếp tục đưa ra chủ trương
huy động các nguồn lực đầu tư cho giáo dục – đào tạo, nhất là phải thực hiện
tốt hơn nữa công tác xã hội hóa giáo dục, tăng cường đầu tư trang thiết bị dạy
46
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
học cho các đơn vị giáo dục, nâng cao tay nghề đội ngũ giáo viên nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục cho tỉnh nhà. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc
Kạn đã định ra đường lối cụ thể cho sự phát triển ngành giáo dục – đào tạo của
tỉnh Bắc Kạn.
Quán triệt Nghị quyết của Đại hội X và Đại hội XI của Đảng, Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần thứ X về giáo dục – đào tạo, đồng thời thực
hiện đúng theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo về nhiệm vụ phát triển
giáo dục – đào tạo trong thời kỳ cách mạng mới, Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc
Kạn đã xây dựng đề án phát triển giáo dục – đào tạo tỉnh Bắc Kạn trong những
năm 2006 – 2010 và 2010 - 2015, đồng thời vạch ra phương hướng, nhiệm vụ
cụ thể cho từng năm học nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo của tỉnh.
Cũng trên tinh thần Đại hội Trung ương Đảng và Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc
Kạn, Đại hội Đảng bộ huyện Chợ Đồn lần thứ XIX (2010) đã nêu cao hơn nữa
nhiệm vụ phát triển sự nghiệp giáo dục của địa phương nói chung, giáo dục
THPT nói riêng nhằm hướng tới mục tiêu đến năm 2015 đưa Chợ Đồn thoát ra
tình trạng kém phát triển.
Đối với cấp học THPT của huyện Chợ Đồn, nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển hơn nữa về quy mô trường lớp của cấp học, đồng thời tạo điều kiện học
tập cho học sinh các con em đồng bào nhân dân các xã ở phía Nam của huyện
không phải đi học xa nhà, UBND tỉnh Bắc Kạn đã ra quyết định thành lập thêm
một trường THPT ở huyện Chợ Đồn.
Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003;
căn cứ Luật Giáo dục năm 2005; Căn cứ Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày
02/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Giáo dục; xét đề nghị của Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn tại Tờ
trình số: 1161/TTr-GD&ĐT ngày 29/8/2006 về việc xin thành lập trường Trung
học phổ thông Bình Trung, huyện Chợ Đồn và theo đề nghị của Sở Nội vụ Bắc
47
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Kạn tại Tờ trình số: 662/TTr-NV ngày 01/9/2006, ngày 01/9/2006, Ủy ban
nhân dân Tỉnh Bắc Kạn đã ra quyết định số: 1781/QĐ-UBND về việc thành lập
Trường Trung học cơ sở - Trung học phổ thông Bình Trung, huyện Chợ Đồn.
Địa điểm đặt trường là tại xã Bình Trung, huyện Chợ Đồn. Đến ngày
19/9/2006, căn cứ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày
26/11/2003; căn cứ quyết định số: 1781/QĐ-UBND của UBND Tỉnh Bắc Kạn
về việc thành lập Trường Trung học cơ sở - Trung học phổ thông Bình Trung,
huyện Chợ Đồn; xét đề nghị của Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn tại Công văn
số: 1194/GD&ĐT-TCĐT ngày 06/9/2006 về việc đặt tên trường, Ủy ban nhân
dân Tỉnh Bắc Kạn ra quyết định số: 1856/ QĐ-UBND về việc đổi tên Trường
Trung học cơ sở - Trung học phổ thông Bình Trung, huyện Chợ Đồn thành:
Trường Trung học phổ thông Bình Trung, huyện Chợ Đồn. Như vậy, với quyết
định của UBND Tỉnh Bắc Kạn, từ năm học 2006 – 2007, bậc học THPT huyện
Chợ Đồn bao gồm hai trường THPT: THPT Chợ Đồn và THPT Bình Trung.
Điều này đã tạo điều kiện mở rộng quy mô trường lớp cho bậc học THPT ở
Chợ Đồn, góp phần thúc đẩy sự phát triển của bậc học này cho huyện nhà.
2.2.2. Giáo dục THPT huyện Chợ Đồn
2.2.2.1. Quy mô trường lớp
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2006), lần
thứ X (2011) và tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX
và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Bắc Kạn mà trực tiếp là Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bắc Kạn, trong
những năm 2006 – 2013, giáo dục trung học phổ thông huyện Chợ Đồn đã đạt
được những kết quả to lớn.
Được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, các cấp, các ngành, quy mô
trường học bậc THPT huyện Chợ Đồn đã được mở rộng, từ 01 trường (giai
48
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
đoạn 1997 – 2006) tăng lên 02 trường (giai đoạn 2006 – 2013).
Bảng 2.3: Quy mô trƣờng lớp, học sinh THPT Chợ Đồn (2006 – 2013)
THPT Chợ Đồn THPT Bình Trung
Năm học Tổng số lớp Tổng số học Tổng số lớp Tổng số học
sinh sinh
2006 – 2007 44 2019 8 371
2007 – 2008 40 1810 7 307
2008 – 2009 38 1734 8 302
2009 – 2010 29 1164 9 311
2010 – 2011 29 1192 9 283
2011 – 2012 27 1137 9 308
2012 – 2013 28 1011 9 271
“Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2006 -2013)”
Bảng số liệu cho thấy đối với Trường THPT Chợ Đồn, trong những năm
2006 – 2013, số lớp học và số lượng học sinh có xu hướng giảm xuống. Năm
học 2006 – 2007, nhà trường có 44 lớp học với 2.019 học sinh. Đến năm học
2012 – 2013, con số này giảm xuống còn 28 lớp với 1.011 học sinh. Có tình
trạng này chủ yếu là do từ khi Trường THPT Bình Trung thành lập, Trường
THPT Chợ Đồn không còn nguồn tuyển học sinh là con em các dân tộc thuộc
các xã phía Nam của huyện.
Năm học 2006 – 2007 là năm học đầu tiên sau khi thành lập, Trường
THPT Bình Trung có 8 lớp với 371 học sinh. Nhìn vào bảng số liệu ta thấy ở
những năm học tiếp theo, số lượng lớp và số lượng học sinh của Trường THPT
Bình Trung không có sự chuyển biến nhiều. Từ năm học 2009 – 2012 đến năm
49
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
học 2012 – 2013, nhà trường duy trì 9 lớp học với khoảng hơn 300 học sinh.
2.2.2.2. Đội ngũ cán bộ, giáo viên
Trước yêu cầu phát triển về quy mô trường, lớp, đồng thời để thúc đẩy sự
nghiệp giáo dục phát triển hơn nữa, việc xây dựng và không ngừng nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên là hết sức cần thiết. Trong những năm 1997
– 2006, đội ngũ giáo viên trung học phổ thông Chợ Đồn đã trưởng thành hơn về
số lượng và chất lượng, song vẫn còn có những bất cập về cơ cấu, trình độ.
Trong những năm 2006 – 2013, công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, giáo viên được ngành giáo dục – đào tạo Bắc Kạn quan tâm,
chú trọng. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn đã xây dựng đề án đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ giáo viên giảng dạy cho các
cấp học, trong đó có cấp học trung học phổ thông. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ, giáo
viên trung học phổ thông Chợ Đồn được phát triển hơn về chất lượng và có sự
chuyển biến về số lượng.
Bảng 2.4: Số lƣợng đội ngũ cán bộ, giáo viên THPT huyện Chợ Đồn
(2006 – 2013)
THPT Bình Năm học THPT Chợ Đồn Tổng cộng Trung
2006 – 2007 78 37 115
2007 – 2008 83 38 121
2008 – 2009 80 37 117
2009 – 2010 81 39 120
2010 – 2011 79 40 119
2011 – 2012 79 38 117
2012 – 2013 75 37 112
50
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
“Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2006 – 2013)”
Bảng số liệu cho thấy trong những năm 2006 – 2013, số lượng đội ngũ
cán bộ, giáo viên THPT huyện Chợ Đồn có sự chuyển biến, tuy không nhiều.
Nhưng điểm ghi nhận ở đây là số lượng giáo viên dạy các bộ môn đúng chuyên
ngành đã được đảm bảo. Đây là một trong những điều kiện để chất lượng giáo
dục bậc học THPT huyện Chợ Đồn.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng của đội ngũ giáo viên trung học phổ
thông, trong đó có đội ngũ giáo viên THPT Chợ Đồn, Sở Giáo dục và Đào tạo
Bắc Kạn còn tạo điều kiện cho họ đi học để nâng cao trình độ. Trong thời gian
này, Trường THPT Chợ Đồn đã có thêm một số giáo viên đi học lên chương
trình đào tạo Thạc sĩ. Sau khi kết thúc chương trình đào tạo, có 02 giáo viên
tiếp tục công tác tại trường (còn một số giáo viên khác chuyển công tác). Hằng
năm, Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn còn mở các hội nghị, các buổi tập huấn
chuyên môn (tập huấn thay sách, tập huấn đổi mới phương pháp dạy học, đổi
mới kiểm tra, đánh giá học sinh...) để nâng cao tay nghề và chất lượng dạy học
của giáo viên THPT.
Nhằm tạo ra phong trào thi đua sôi nổi trong dạy học, hàng năm, Trường
THPT Chợ Đồn và Trường THPT Bình Trung còn tổ chức hội thi giáo viên dạy
giỏi cấp trường và cử giáo viên các bộ môn của trường đi dự thi hội thi giáo
viên dạy giỏi cấp tỉnh. Qua việc tham dự hội thi giáo viên dạy giỏi, các giáo
viên có điều kiện trau dồi, giao lưu, trao đổi và học hỏi lẫn nhau về chuyên
môn và phương pháp dạy học để từ đó có thể nâng cao hơn nữa tay nghề của
bản thân, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường cũng như
của ngành giáo dục – đào tạo của tỉnh. Đến năm học 2012 – 2013, Trường
THPT Chợ Đồn đã có 34 giáo viên đạt danh hiệu giáo viên giỏi cấp tỉnh. Với
Trường THPT Bình Trung, đến năm học 2012 – 2013, nhà trường mới có 02
giáo viên đạt danh hiệu giáo viên giỏi cấp tỉnh (do nhà trường được thành lập
chưa lâu, hơn nữa trong suốt những năm 2009 – 2012, Sở Giáo dục và Đào tạo
51
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Bắc Kạn không tổ chức thi giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh bậc THPT).
Đồng thời với việc nâng cao chất lượng dạy học, công tác chăm lo cho
đời sống của đội ngũ cán bộ, giáo viên cũng được ngành giáo dục – đào tạo tỉnh
và nhà trường hết mực quan tâm quan tâm. Đội ngũ cán bộ, giáo viên THPT
huyện Chợ Đồn luôn được đảm bảo chi trả đầy đủ và kịp thời các khoản thuộc
chế độ chính sách cho cán bộ, giáo viên. So với giáo viên của trường THPT
Chợ Đồn, giáo viên trường THPT Bình Trung được hưởng thêm lương thu hút
bằng 70% mức lương cơ bản. Ngoài ra, việc xét nâng bậc lương đúng thời hạn
hoặc nâng bậc lương sớm đối với những cán bộ, giáo viên có thành tích xuất
sắc cũng được thực hiện đều đặn hàng năm. Nhà ở tập thể cho giáo viên cũng
được xây dựng nhằm tạo điều kiện cho những giáo viên ở xa nhà có điều kiện
an tâm công tác. Nhờ sự quan tâm của ngành cũng như của nhà trường, đội ngũ
cán bộ, giáo viên luôn tâm huyết với nghề, vươn lên khắc phục khó khăn để
đóng góp sức mình cho sự nghiệp phát triển giáo dục bậc trung học phổ thông
của tỉnh nói riêng và cho toàn ngành giáo dục của tỉnh nói chung.
2.2.2.3. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy và học
Xây dựng trường, lớp:
Đối với trường THPT Chợ Đồn, năm học 2006 – 2007, quy mô trường
lớp không có gì khác so với năm học 2005 – 2006. Số lớp học của nhà trường
chưa đáp ứng đủ tổng số lớp học của cả ba khối nên nhà trường vẫn phải tổ
chức dạy học hai ca. Mặc dù nhà trường đã có các phòng chức năng: phòng
máy tính, phòng thiết bị phòng thí nghiệm thực hành, song số lượng chưa đáp
ứng đủ nhu cầu dạy và học của nhà trường. Nhằm tháo gỡ những khó khăn
trong công tác dạy và học ở trường THPT Chợ Đồn, năm 2010, UBND tỉnh
Bắc Kạn đã ra quyết định xây dựng mới Trường THPT Chợ Đồn tại địa điểm
mới thuộc Tổ 16 - Thị trấn Bằng Lũng. Từ năm học 2011 – 2012, Trường
THPT Chợ Đồn có hai địa điểm: trường cũ đặt tại Tổ 3 – Thị trấn Bằng Lũng,
trường mới đang được xây dựng đặt tại Tổ 16 - Thị trấn Bằng Lũng. Tại cơ sở
52
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
trường cũ, đến năm học này nhà trường có 19 phòng học, 01 phòng thư viện, 02
phòng máy tính, 03 phòng thiết bị và 02 phòng máy chiếu. Còn tại cơ sở trường
mới đang xây dựng, do nhiều khó khăn về nguồn vốn nên công trình mới chỉ
hoàn thành được một dãy lớp học 3 tầng. Nhà trường đã nhận bàn giao và đưa
vào sử dụng 9 lớp học dành cho học sinh khối 12, 01 phòng máy tính và 01
phòng chờ dành cho giáo viên.
Như vậy, đến năm học 2012 – 2013, quy mô trường lớp của trường
THPT Chợ Đồn đã được mở rộng và tiến bộ hơn so với năm học 2006 – 2007.
Tổng số lớp học là 28 (tăng 09 lớp so với năm 2006), số phòng học chức năng
cũng tăng lên (tăng thêm 01 phòng máy tính, 02 phòng thiết bị), đặc biệt nhà
trường đã xây dựng được 02 phòng máy chiếu. Bên cạnh đó, với việc đưa vào
sử dụng dãy lớp học mới trong khu trường học đang xây dựng, trường THPT
Chợ Đồn đã có đủ số lớp học cho cả ba khối, chấm dứt tình trạng học hai ca.
Nhưng việc học tại hai địa điểm lại gây khó khăn trong việc quản lý chuyên
môn và học sinh cho nhà trường.
Còn đối với Trường THPT Bình Trung, khi mới thành lập (năm 2006),
cơ sở trường, lớp của nhà trường còn rất nhiều khó khăn. Tổng số phòng học
đầu năm của trường là 14, đến cuối năm tăng lên 16, song số phòng học dùng
để phục vụ hoạt động dạy học chỉ là 10, còn 06 phòng học dùng làm các phòng
chức năng khác. Trong số 10 phòng học dạy học, có 08 phòng học cấp 4 và 02
phòng học cột gỗ. Còn trong số 06 phòng chức năng thì chưa có phòng thư viện
và cũng chưa có phòng thí nghiệm thực hành, vì thế việc thực hiện các tiết dạy
thực hành rất hạn chế.
Nhìn chung, khi mới thành lập, cơ sở vật chất của Trường THPT Bình
Trung nói chung và phòng học nói riêng chưa đủ và chưa đáp ứng được yêu
cầu hoạt động tối thiểu của nhà trường. Đấy là chưa kể các phòng học đều đã
xuống cấp, không đủ ánh sáng và không phù hợp với học sinh THPT. Vì
53
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Trường THPT Bình Trung là trường ghép hai bậc học (THPT và THCS), các
phòng học của nhà trường thích hợp hơn với bậc THCS, phòng chỉ có 2 gian
và rất hẹp.
Để giải quyết tình hình khó khăn về cơ sở trường lớp của Trường THPT
Bình Trung, năm 2008, UBND Tỉnh Bắc Kạn đã ra quyết định xây dựng cơ sở
mới cho nhà trường (vẫn đặt địa điểm tại xã Bình Trung). Sau một thời gian thi
công và xây dựng, đến tháng 10/2010, nhà trường đã được nhận bàn giao và
đưa vào sử dụng một dãy nhà xây 3 tầng. Toàn bộ số lớp học THPT đã chuyển
sang khu trường mới.
Đến năm học 2012 – 2013, cơ sở vật chất của Trường THPT Bình Trung
về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu dạy và học của giáo viên và học sinh. Tổng
số phòng học của nhà trường trong năm học này là 15, trong đó có 10 phòng
học kiên cố và 05 phòng học cấp 4. Số phòng học cấp THPT là 10. Nhà trường
cũng đã xây dựng được 01 phòng thư viện và 02 phòng học bộ môn để phục vụ
cho nhiệm vụ dạy và học.
Mặc dù đã vượt qua được những khó khăn thời kì đầu mới xây dựng,
song tính đến năm học 2012 – 2013, cơ sở vật chất của Trường THPT Bình
Trung nói chung vẫn còn nhiều khó khăn. Khuôn viên nhà trường hẹp, thiếu
sân chơi, bãi tập nên ảnh hưởng nhiều đến hoạt động bề nổi của nhà trường.
Nhà trường cũng chưa có đủ phòng thiết bị, thí nghiệm, phòng học bộ môn
thực hành. Thiếu nhà Hiệu bộ, các phòng chức năng khác gây ảnh hưởng đến
công tác quản lý, hoạt động giáo dục của các tổ chuyên môn và các tổ chức
đoàn thể trong nhà trường. Trường học mới vẫn đang trong quá trình xây dựng
và hoàn thiện.
Trang thiết bị dạy và học: Nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, đảm
bảo đầy đủ cho hoạt động dạy và học của thầy và trò, ngành giáo dục – đào tạo
Bắc Kạn luôn chú trọng đầu tư trang thiết bị cho các trường học.
Để đáp ứng được trang thiết bị dạy và học cho các trường học, hàng năm,
54
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
ngành giáo dục – đào tạo Bắc Kạn đều đầu tư mua sắm trang thiết bị dạy học và
sách giáo khoa. Ngoài ra, ngành còn phối hợp với Công ty cổ phần sách và thiết
bị trường học Bắc Kạn để lên kế hoạch cung ứng kịp thời sách giáo khoa, đồ
dùng học tập và trang thiết bị dạy học đến các trường học trong tỉnh, trong đó
có Trường THPT Chợ Đồn và Trường THPT Bình Trung.
Đến năm học 2012 – 2013, cả hai trường THPT Chợ Đồn và THPT Bình
Trung đều có trang thiết bị (máy chiếu, máy vi tính, đầu đĩa video, tivi, loa,
đài...), đồ dùng dạy học (kính hiển vi, kính lúp, ống nghiệm...) về cơ bản đáp
ứng được yêu cầu tối thiểu cho hoạt động dạy học. Thư viện trường học có đủ
sách giáo khoa cho học sinh và giáo viên, ngoài ra còn có thêm một số sách
tham khảo và sách bồi dưỡng nâng cao để giáo viên và học sinh nghiên cứu góp
phần nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học.
Mặc dù vậy, nhìn chung, trang thiết bị dạy và học tại hai trường THPT
Chợ Đồn và THPT Bình Trung vẫn còn nhiều thiếu thốn. Ở cả hai trường vẫn
chưa có đủ các phòng thí nghiệm, thực hành bộ môn (dành cho các môn có giờ
học thí nghiệm, thực hành như môn Sinh học, môn Vật lý, môn Hóa học) đạt
chuẩn, thiếu phòng máy chiếu... Sách tham khảo và tài liệu cho thầy và trò tự
học, bổ sung thêm kiến thức còn thiếu thốn, đa phần các giáo viên phải tự bỏ
tiền mua thêm. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ thư viện, thiết bị được đào tạo
đúng chuyên ngành cũng còn thiếu, chủ yếu là nhân viên văn phòng hoặc giáo
viên kiêm nhiệm nên hiệu quả sử dụng trang thiết bị dạy và học còn chưa cao.
2.2.2.4. Chất lượng dạy và học
Trên cơ sở quy mô trường lớp từng bước được mở rộng, điều kiện cơ cở
vật chất và trang thiết bị dạy học cũng từng bước được cải thiện, trong những
năm 2006 - 2013, chất lượng dạy và học của Trường THPT Chợ Đồn và THPT
Bình Trung dần dần được nâng lên.
Đối với Trường THPT Chợ Đồn, phát huy những thành tích đã đạt được
55
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
từ những năm học trước, từ năm học 2006 – 2007, nhà trường tiếp tục củng cố
và duy trì nề nếp dạy và học, cố gắng nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học của
thầy và trò.
Năm học 2006 – 2007, về văn hóa, tỷ lệ học sinh khá, giỏi của Trường
THPT Chợ Đồn là 14,03%, tỷ lệ học sinh yếu, kém là 37,47%; về đạo đức, tỷ lệ
học sinh có đạo đức tốt là 41,08%, tỷ lệ học sinh có đạo đức trung bình, yếu là
28,05%. Nếu so với năm học liền kề trước đó của nhà trường, kết quả hai mặt
giáo dục này có chiều hướng đi xuống. Có tình trạng này là vì năm học 2006 –
2007 là năm học đầu tiên thực hiện chương trình sách giáo khoa mới (do Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành), bắt đầu từ khối 10. Điều này gây khó khăn cho
công tác dạy và học của giáo viên và học sinh khi lần đầu được tiếp cận với
chương trình học mới, từ đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả dạy học của
nhà trường. Tỷ lệ thi tốt nghiệp năm học 2006 – 2007 của Trường THPT Chợ
Đồn cũng rất thấp, chỉ đạt 24,21%. Đây là năm học đầu tiên toàn ngành giáo
dục trên cả nước thực hiện cuộc vận động “Nói không với tiêu cực trong thi cử
và bệnh thành tích trong giáo dục” do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo ra
quyết định phát động.Thực hiện nghiêm túc quyết định của Bộ Giáo dục và
Đào tạo, ngành giáo dục và đào tạo Bắc Kạn đã tổ chức kỳ thi tốt nghiệp trung
học phổ thông năm học 2006 – 2007 một cách nghiêm túc đối với tất cả các
đơn vị trung học phổ thông trong tỉnh. Vì thế, cùng với các trường THPT khác
trong tỉnh, tỷ lệ tốt nghiệp của học sinh trường THPT Chợ Đồn trong năm học
này rất thấp.
Trong những năm học tiếp theo (2007 – 2008, 2008 – 2009, 2009 –
2010, 2010 – 2011), chất lượng giáo dục của Trường THPT Chợ Đồn không
có sự chuyển biến nhiều. Kết quả giáo dục hai mặt của học sinh về cơ bản giữ
vững như năm học 2006 – 2007. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp có tăng hơn so với
năm học 2006 – 2007, song nhìn chung vẫn còn thấp. Đáng chú ý là trong
56
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
năm học 2010 – 2011, mặc dù chất lượng hai mặt giáo dục của nhà trường
không tăng so với năm học trước đó, song tỷ lệ học sinh tốt nghiệp lại tăng lên
nhiều, đạt 95,33% (tăng 27,23% so với năm học 2009 – 2010). Đây là một
dấu hiệu đáng mừng, cho thấy chất lượng giáo dục của nhà trường bắt đầu có
sự chuyển biến.
Bước sang năm học 2011 – 2012, dưới sự chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà
trường, các thầy, cô giáo Trường THPT Chợ Đồn quyết tâm đẩy mạnh công tác
giáo dục: đảm bảo nề nếp dạy học, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, đổi
mới phương pháp kiểm tra, đánh giá học sinh, tăng cường phụ đạo cho học sinh
yếu kém, đẩy mạnh công tác giáo dục nâng cao ý thức học tập cho học sinh.
Nhờ sự nỗ lực của thầy và trò, chất lượng giáo dục của Trường THPT Chợ Đồn
trong năm học này đã được nâng lên một cách rõ rệt. Tỷ lệ học sinh khá, giỏi
về văn hóa đạt 16,81% (tăng 6,89% so với năm học 2010 – 2011), tỷ lệ học
sinh yếu, kém là 35,75% (giảm 6,99% so với năm học 2010 – 2011). Về mặt
đạo đức, tỷ lệ học sinh có đạo đức tốt tăng và tỷ lệ học sinh có đạc đức trung
bình, yếu giảm so với năm học trước. Đặc biệt, trong năm học này, nhà trường
đã đạt 100% tỷ lệ học sinh tốt nghiệp. Đấy là những thành tích đáng ghi nhận
cho sự nỗ lực của thầy và trò Trường THPT Chợ Đồn.
Năm học 2012 – 2013, kết quả hai mặt giáo dục của Trường THPT Chợ
Đồn tiếp tục có sự chuyển biến tiến bộ. Về văn hóa, tỷ lệ học sinh xếp loại khá,
giỏi tuy không tăng nhưng tỷ lệ học sinh xếp loại yếu, kém đã giảm đáng kể,
trong đó tỷ lệ học sinh xếp loại kém chỉ còn 0,1%. Kết quả giáo dục về văn hóa
không có tiến bộ nhiều nhưng kết quả giáo dục về mặt đạo đức của nhà trường
lại có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ học sinh xếp loại đạo đức tốt là 52,23% (tăng 6,64%
so với năm học 2011 – 2012), tỷ lệ học sinh xếp loại đạo đức yếu giảm hẳn, chỉ
còn 0,59%. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp năm học này không đạt tuyệt đối so với
57
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
năm học trước nhưng vẫn ở mức cao (98,08%).
Bảng 2.5: Kết quả giáo dục hai mặt Trƣờng THPT Chợ Đồn
(2006 - 2013)
Học lực
Hạnh kiểm
Năm
học
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Tốt
Khá
TB
Yếu
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
2006 –
0,69
13,34
48,50
37,28
0,19
41,08
30,86
25,12
2,93
2007
2007 –
0,59
10,42
44,97
43,07
0,95
34,63
36,39
26,41
2,57
2008
2008 –
0,75
12,19
40,55
46,51
0,00
40,87
34,54
22,23
2,36
2009
2009 –
0,26
10,14
44,85
43,56
1,20
43,38
36,08
19,24
1,29
2010
2010 –
0,36
9,56
35,44
42,11
0,63
43,64
36,70
18,94
0,72
2011
2011 –
0,56
16,25
47,45
35,38
0,37
45,59
36,12
16,81
1,49
2012
2012 –
0,49
16,22
55,69
27,50
0,10
52,23
34,03
13,16
0,59
2013
“Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2006 – 2013)”
Bảng số liệu trên cho thấy, kết quả chất lượng hai mặt giáo dục Trường
THPT Chợ Đồn trong những năm 2006 – 2013 đã có sự chuyển biến. Tỷ lệ học
sinh xếp loại văn hóa khá, giỏi và xếp loại đạo đức tốt tăng, tỷ lệ học sinh xếp
loại văn hóa yếu, kém và xếp loại đạo đức trung bình, yếu giảm. Tuy nhiên, sự
chuyển biến này không nhiều, tỷ lệ học sinh khá giỏi còn ít, tỷ lệ học sinh yếu,
kém còn cao.
Đối với Trường THPT Bình Trung, năm học 2006 – 2007 là năm học
đầu tiên nhà trường vừa mới được thành lập, còn rất nhiều khó khăn về điều
58
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
kiện trường lớp, trang thiết bị dạy học và chất lượng giáo viên. Đây cũng là
năm học đầu tiên Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa chương trình sách giáo khoa lớp
10 mới vào các trường học. Vì thế chất lượng giáo dục của nhà trường còn rất
thấp. Về văn hóa, tỷ lệ học sinh đạt loại khá mới có 4,04% (trong năm học này
nhà trường chưa có học sinh giỏi), còn tới 73,32% học sinh trung bình và
22,64% học sinh yếu; về đạo đức, có 49,33% học sinh xếp loại đạo đức tốt,
9,16% học sinh xếp loại đạo đức trung bình; tỷ lệ tốt nghiệp là 7,39% . Nhưng
điểm đáng ghi nhận trong năm học này là nhà trường không có học sinh xếp
loại văn hóa kém và cũng không có học sinh xếp loại đạo đức yếu.
Sang những năm học tiếp theo (2007 – 2008, 2008 – 2009, 2009 – 2010),
chất lượng dạy và học của nhà trường vẫn chưa có sự chuyển biến nhiều. Hai năm
học 2008 – 2009 và 2009 – 2010, nhà trường đã có học sinh xếp loại văn hóa giỏi,
song tỷ lệ này còn rất ít (0,33% và 0,32%). Nhìn chung, trong những năm học này,
tỷ lệ học sinh xếp loại văn hóa khá, giỏi còn thấp, tỷ lệ học sinh yếu, kém còn cao.
Tỷ lệ thi tốt nghiệp đã được nâng lên nhiều nhưng vẫn chưa thực sự cao.
Nguyên nhân của tình trạng này là do nhà trường vẫn chưa khắc phục
được những khó khăn của một trường học mới được thành lập. Trường được
thành lập ở một xã vùng sâu, vùng xa của huyện nên đội ngũ giáo viên về đây
không thực sự yên tâm công tác, ảnh hưởng đến chất lượng dạy học. Thêm vào
đó, học sinh của trường đều là những con em của các xã vùng sâu, vùng xa
thuộc các xã phía Nam của huyện Chợ Đồn, đa phần các em đều xuất thân từ
gia đình thuần nông. Ngoài thời gian học tập trung trên lớp, các em không có
nhiều thời gian học tập ở nhà vì còn phải lao động phụ giúp gia đình. Đây cũng
là một trong những nguyên nhân chính khiến cho chất lượng dạy học của nhà
trường chưa cao.
Đến năm học 2010 – 2011, sau 5 năm phấn đấu, được sự quan tâm của
cấc cấp, các ngành và chính quyền địa phương, cùng với tinh thần khắc phục
khó khăn của thầy và trò nhà trường, chất lượng dạy và học của Trường THPT
59
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Bình Trung đã có sự chuyển biến lớn. Trong năm học này, tuy nhà trường
không có học sinh xếp loại văn hóa giỏi nhưng học sinh xếp loại văn hóa khá
đã tăng lên (đạt 10,95% - tăng 6,91% so với năm học 2006 – 2007); tỷ lệ học
sinh yếu giảm xuống so với năm học liền kề trước đó và năm học này nhà
trường cũng không có học sinh xếp loại văn hóa kém. Tỷ lệ tốt nghiệp của nhà
trường cũng được nâng lên rõ rệt, đạt 90,74%.
Chất lượng dạy và học của nhà trường từ đó ngày một nâng lên. Đến
năm học 2012 – 2013, nếu so với năm học đầu tiên sau khi thành lập trường,
chất lượng dạy và học của Trường THPT Chợ Đồn có bước chuyển biến vượt
bậc hơn hẳn. Nhà trường đã đạt 20,20 % học sinh xếp loại văn hóa khá, giỏi
(tăng 16,16% so với năm học 2006 – 2007), 64,94% học sinh xếp loại đạo đức
tốt (tăng 15,61% so với năm học 2006 – 2007). Một kết quả to lớn nữa mà nhà
trường đã đạt được trong năm học này là tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt 100%.1
Bảng 2.6: Kết quả giáo dục hai mặt Trƣờng THPT Bình Trung
(2006 - 2013)
Học lực
Hạnh kiểm
Năm
học
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Tốt
Khá
TB
Yếu
2006 –
0,00
4,04
73,32
22,64
0,00
49,33
41,51
9,16
0,00
2007
2007 –
0,00
2,61
46,58
49,84
0,98
42,02
46,25
10,42
1,30
2008
2008 –
0,33
3,31
32,12
60,93
3,31
19,20
52,65
27,15
1,00
2009
2009 –
0,32
8,36
30,87
56,27
4,18
31,51
47,59
18,97
1,93
2010
2010 –
0,00
10,95
49,82
39,22
0,00
49,47
39,93
9,89
0,71
2011
2011 –
0,33
13,68
41,37
42,35
2,28
45,28
38,44
16,29
0,00
2012
2012 –
1,11
19,19
50,18
29,15
0,37
64,94
26,94
8,12
0,00
2013
60
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
“Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2006 – 2013)”
Bảng số liệu trên cho thấy kết quả chất lượng hai mặt giáo dục Trường
THPT Bình Trung trong những năm 2006 – 2013 đã có sự chuyển biến tiến bộ.
Tỷ lệ học sinh xếp loại văn hóa khá giỏi và xếp loại đạo đức tốt tăng lên theo
từng năm học, đồng thời với đó, tỷ lệ học sinh xếp loại văn hóa yếu, kém cũng
có chiều hướng giảm. Mặc dù kết quả đạt được này của Trường THPT Bình
Trung là chưa cao nhưng cũng rất đáng ghi nhận đối với một trường học mới
được thành lập, lại là một trường thuộc vùng sâu, vùng xa, điều kiện mọi mặt
còn nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Bên cạnh việc đẩy mạnh công tác chuyên môn, trong những năm 2006 –
2013, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Sở giáo dục và đào tạo Bắc Kạn, cả hai
Trường THPT Chợ Đồn và THPT Bình Trung đều nghiêm túc thực hiện các
chủ trương, các cuộc vận động đối với ngành giáo dục mà Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã đề ra. Đó là thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” và cuộc vận động
“Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”. Thầy và trò
cũng cố gắng thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
nhằm xây dựng một môi trường giáo dục tốt cho cả thầy và trò cùng phấn đấu.
Đội ngũ giáo viên của hai trường cũng không ngừng nỗ lực nâng cao tay nghề
chuyên môn nghiệp vụ, cố gắng nắm bắt kịp thời chương trình sách giáo khoa
mới, đổi mới phương pháp giảng dạy và phương pháp kiểm tra, đánh giá, qua
đó từng bước nâng cao công tác dạy học của bản thân và chất lượng giáo dục
của nhà trường nói chung.
Trong những năm học từ 2006 – 2013, Trường THPT Chợ Đồn và
Trường THPT Bình Trung tiếp tục đẩy mạnh công tác hướng nghiệp dạy nghề,
giáo dục thể chất, giáo dục quốc phòng an ninh cho các em học sinh. Hằng
năm, cả hai trường đều cử đoàn tham gia Hội khỏe thể dục thể thao cấp tỉnh và
đạt được kết quả cao ở một số bộ môn (bóng chuyền, đá cầu, chạy bền...). Công
tác giáo dục kỹ năng sống cũng được coi trọng thông qua việc lồng ghép với
nội dung bộ môn giáo dục công dân hoặc tổ chức các buổi ngoại khóa. Điều
này giúp các em có những kỹ năng cần thiết để có thể đi vào cuộc sống sau khi
61
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
ra trường.
Tiểu kết chƣơng 2
Nhìn chung, dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền
mà trực tiếp là Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn, qua một chặng đường khá dài
phấn đấu (1997 – 2013), giáo dục THPT Chợ Đồn đã nhanh chóng vượt qua
khó khăn ban đầu khi vừa tách tỉnh, từng bước vươn lên và đã đạt được những
thành tựu đáng ghi nhận.
Quy mô trường lớp được mở rộng. Từ một trường THPT (Trường THPT
Chợ Đồn) trong những năm 1997 – 2006 đã phát triển thành hai trường THPT
(thêm Trường THPT Bình Trung) trong những năm 2006 – 2013. Điều kiện cơ
sở vật chất trường lớp, các trang thiết bị dạy học cũng được bổ sung và hoàn
thiện phục vụ cho nhu cầu dạy và học. Đội ngũ cán bộ giáo viên dần trưởng
thành hơn, tay nghề vững vàng hơn, từng bước đáp ứng được yêu cầu và nhiệm
vụ của sự nghiệp giáo dục. Ý thức học tập của học sinh cũng không ngừng
được nâng cao. Nhờ đó, chất lượng giáo dục của nhà trường cũng từng bước
được cải thiện theo chiều hướng đi lên với tỷ lệ học sinh khá, giỏi ngày một
tăng và giảm tỷ lệ học sinh yếu, kém. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cũng
được chú trọng và đạt được những kết quả nhất định, góp phần nâng cao hơn
nữa chất lượng giáo dục.
Những thành tích mà bậc giáo dục THPT Chợ Đồn đã đạt được trong
những năm 1997 – 2013 đã góp phần to lớn vào sự nghiệp phát triển giáo dục
của địa phương nói riêng, của cả nước nói chung. Đồng thời, nó cũng góp một
phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Những thành
tích đó sẽ là cơ sở, động lực để giáo dục THPT Chợ Đồn phát triển hơn nữa
62
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
trong những giai đoạn tiếp theo.
Chƣơng 3
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ GIÁO DỤC THPT HUYỆN CHỢ
ĐỒN TỈNH BẮC KẠN (1997 – 2013)
3.1. Quy mô trƣờng lớp và số lƣợng học sinh đƣợc mở rộng
Trong giai đoạn 1997 – 2006, trên địa bàn huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn
chỉ có một trường THPT duy nhất - Trường THPT Chợ Đồn. Trường đã được
thành lập từ năm 1961, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân
tộc ta. Qua một chặng đường dài xây dựng và phát triển, đến năm học 2005 –
2006, Trường THPT Chợ Đồn đã được xây dựng tương đối kiên cố, song số
lượng lớp học chưa đáp ứng đủ tổng số lớp học của cả ba khối trong toàn
trường, nhà trường vẫn phải tổ chức dạy học hai ca. Trường đặt địa điểm tại
trung tâm của huyện, điều này gây khó khăn không nhỏ cho nhiều con em đồng
bào các dân tộc ở các xã vùng sâu, vùng xa trong điều kiện ăn ở để có thể tới
trường học tập.
Để đáp ứng nhu cầu học tập của các con em trong huyện, nhất là với
những con em thuộc các xã vùng sâu, vùng xa ở phía Nam của huyện Chợ Đồn,
năm 2006, UBND Tỉnh Bắc Kạn đã ra quyết định thành lập Trường Trung học
cơ sở - Trung học phổ thông Bình Trung (sau đổi tên thành Trường Trung học
phổ thông Bình Trung). Do đó, từ năm học 2006 – 2007 trở đi, bậc học THPT
của huyện Chợ Đồn đã có hai trường THPT, đó là Trường THPT Chợ Đồn và
Trường THPT Bình Trung.
Cùng với việc quy mô trường học đã được mở rộng từ một trường thành
hai trường, số lượng lớp học và học sinh bậc học THPT huyện Chợ Đồn cũng
63
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
có sự chuyển biến.
Bảng 3.1: Quy mô trƣờng, lớp, học sinh bậc THPT huyện Chợ Đồn, tỉnh
Bắc Kạn trong những năm 1997 – 2013
Năm học Tổng số lớp Tổng số học sinh
1997 - 1998 19 893
1998 - 1999 21 987
1999 - 2000 23 1.073
2000 - 2001 28 1.273
2001 - 2002 31 1.465
2002 - 2003 36 1.786
2003 – 2004 38 1.891
2004 – 2005 42 2.046
2005 – 2006 45 2.215
2006 – 2007 52 2.380
2007 – 2008 47 2.117
2008 – 2009 46 2.036
2009 – 2010 38 1.475
2010 – 2011 38 1.475
2011 – 2012 36 1.445
2012 – 2013 37 1.319
“Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (1997 – 2013)”
Bảng số liệu trên cho thấy từ năm học 1997 – 1998 đến năm học 2006 –
2007, số lượng lớp học và học sinh bậc học THPT huyện Chợ Đồn được mở
64
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
rộng dần (năm học 2006 – 2007 tăng 33 lớp học và 1.487 học sinh so với năm
học 1997 – 1998). Từ năm học 2007 – 2008, số lượng lớp học và học sinh có
xu hướng giảm dần cùng với sự suy giảm của độ tuổi con em đến trường. Từ
năm học 2009 – 2010 đến năm học 2012 – 2013, giáo dục THPT huyện Chợ
Đồn duy trì số lượng lớp học và học sinh tương đối ổn định với gần 40 lớp học
và hơn 1.300 học sinh.
Như vậy, qua 16 năm xây dựng (1997 – 2013), quy mô trường, lớp giáo
dục THPT huyện Chợ Đồn có sự chuyển biến: số trường học tăng lên gấp đôi;
số lượng lớp học và học sinh những năm 2007 – 2013 có xu hướng giảm dần
đến ổn định, song so với những năm học đầu (1997 – 2003) đã tăng hơn nhiều.
Điều đó đã góp phần đáp ứng tốt hơn yêu cầu học tập của con em nhân dân các
dân tộc trong huyện.
3.2. Đội ngũ cán bộ, giáo viên có sự chuyển biến về số lƣợng và chất lƣợng
Cùng với sự phát triển về quy mô trường lớp và số lượng học sinh, trong
những năm 1997 – 2013, đội ngũ cán bộ, giáo viên THPT huyện Chợ Đồn, tỉnh
Bắc Kạn cũng được tăng cường về số lượng, nâng cao về chất lượng, từng bước
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục bậc học.
Năm 1997, sau khi tái lập tỉnh, đội ngũ cán bộ, giáo viên của ngành giáo
dục – đào tạo Bắc Kạn nói chung còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng,
nhiều giáo viên được đào tạo không chính quy, chưa đáp ứng được yêu cầu sự
nghiệp giáo dục của tỉnh. Dưới dự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, ngành
giáo dục và đào tạo Bắc Kạn đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm phát triển số
lượng và nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ, giáo viên trong toàn tỉnh.
Các lớp học bồi dưỡng về công tác quản lý giáo dục và công tác chuyên môn
thường xuyên được tổ chức; các kỳ thi giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh cũng được tổ
chức đều đặn; có chính sách khuyến khích giáo viên đi học lên bậc sau đại học
để nâng cao chất lượng chuyên môn; thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách
65
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
và đưa ra các chế độ đãi ngộ đối với giáo viên.
Sau 16 năm xây dựng và phấn đấu, số lượng và chất lượng đội ngũ cán
bộ, giáo viên THPT huyện Chợ Đồn đã có những chuyển biến tích cực. Số
lượng cán bộ, giáo viên từ 45 cán bộ, giáo viên (năm học 1997 – 1998) tăng lên
74 cán bộ, giáo viên (năm học 2005 – 2006) và tiếp tục tăng lên 112 cán bộ,
giáo viên (năm học 2012 – 2013).
Không chỉ phát triển về số lượng, chất lượng giáo viên cũng không
ngừng được nâng lên. Những năm học đầu sau khi tách tỉnh, giáo viên THPT
Chợ Đồn còn yếu về trình độ chuyên môn, chưa có giáo viên có trình độ Thạc
sĩ. Qua các kỳ thi giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh và các lớp học bồi dưỡng thường
xuyên, hội nghị chuyên đề, đội ngũ giáo viên THPT huyện Chợ Đồn có điều
kiện giao lưu, trao đổi, học tập kinh nghiệm lẫn nhau, từ đó nâng cao trình độ
năng lực của bản thân. Đến năm học 2012 – 2013, giáo dục THPT Chợ Đồn đã
có hơn 36 giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh và 4 giáo viên có
trình độ Thạc sĩ (không kể các giáo viên có trình độ Thạc sĩ đã xin chuyển công
tác khác).
3.3. Cơ sở vật chất trƣờng học đƣợc đầu tƣ xây dựng và phát triển
Việc xây dựng cơ sở vật chất cho trường học là một trong những điều kiện
cơ bản nhất cho quá trình dạy học. Sau 16 năm tái lập tỉnh, nhờ sự đầu tư của
Trung ương, nguồn ngân sách của tỉnh và địa phương, cùng với sự đóng góp của
nhân dân, cơ sở trường, lớp bậc học THPT huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn đã
được tăng cường, góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục THPT phát triển.
Năm học 1997 – 1998, giáo dục THPT huyện Chợ Đồn mới có 19 phòng
học, trong đó số phòng học kiên cố là 10 (chiếm 52,6%), còn lại là 9 phòng
học gỗ (chiếm 47,4%). Đến năm học 2006 – 2007, tổng số phòng học của bậc
học THPT huyện Chợ Đồn nâng lên là 29, trong đó có 10 phòng học kiên cố
(chiếm 34,5%), 08 phòng học cấp 4 (chiếm 27,6%) và còn tới 11 phòng học gỗ
(37,9%). Để khắc phục những khó khăn về cơ sở trường lớp cho giáo dục
66
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
THPT huyện Chợ Đồn, nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục bậc học này,
UBND tỉnh Bắc Kạn đã ra quyết định xây dựng cơ sở mới hoàn toàn cho cả
hai nhà trường THPT Chợ Đồn và THPT Bình Trung. Năm 2008, cơ sở của
Trường THPT Bình Trung bắt đầu được xây dựng. Sau một thời gian xây dựng,
từ tháng 10/2010, nhà trường đã được đưa vào sử dụng một dãy nhà xây kiên
cố ba tầng. Từ năm 2010, cơ sở mới của Trường THPT Chợ Đồn cũng bắt đầu
được xây dựng và đến năm học 2011 – 2012, nhà trường cũng đã được đưa vào
sử dụng một dãy nhà xây ba tầng. Nhờ đó, tổng số phòng học của bậc THPT
huyện Chợ Đồn đã được nâng lên. Năm học 2012 – 2013, giáo dục THPT
huyện Chợ Đồn có tổng số 43 lớp học, trong đó số phòng học kiên cố đã tăng
lên 29 phòng học (chiếm 67,5%), 05 phòng học cấp 4 (chiếm 11,6%) và 9
phòng học gỗ (chiếm 20,9%). Với việc tăng cường đầu tư về cơ sở trường, lớp,
đẩy nhanh thực hiện kiên cố hóa trường học đã góp phần quyết định mở rộng
quy mô trường, lớp và nâng cao chất lượng dạy học cho giáo dục THPT huyện
Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
Đồng thời với việc đầu tư xây dựng cơ sở trường, lớp, việc đầu tư trang
thiết bị phục vụ dạy học cũng được chú trọng. Những năm đầu sau khi tách
tỉnh, trang thiết bị dạy học của giáo dục THPT huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn
còn rất thiếu thốn, từ sách giáo khoa, tài liệu tham khảo đến các thiết bị thí
nghiệm... đều chưa đáp ứng được nhu cầu dạy và học của thầy và trò. Để khắc
phục tình trạng đó, được sự quan tâm đầu tư của ngành giáo dục – đào tạo Bắc
Kạn (đặc biệt từ năm 2004, ngành giáo dục – đào tạo Bắc Kạn đã kết hợp với
Công ty Cổ phần sách thiết bị trường học Bắc Kạn thực hiện việc cung ứng
sách giáo khoa, thiết bị dạy học cho các trường học trong toàn tỉnh), kết hợp
với việc đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, đến năm học 2012 – 2013,
trang thiết bị dạy học bậc học THPT huyện Chợ Đồn đã được trang bị tương
đối đầy đủ. Số lượng sách giáo khoa cấp phát đã đủ phục vụ cho nhu cầu dạy
và học của giáo viên và học sinh. Cả hai nhà trường THPT Chợ Đồn và THPT
67
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Bình Trung đều đã có phòng thư viện. Các phòng chức năng: phòng tin học,
phòng thí nghiệm thực hành, phòng máy chiếu cũng được xây dựng phục vụ tốt
cho việc dạy học. Nhờ cơ sở vật chất trường học đã được đảm bảo tương đối
tốt, chất lượng dạy và học của giáo dục THPT huyện Chợ Đồn không ngừng
được nâng lên.
3.4. Chất lƣợng dạy học có sự chuyển biến
Cùng với sự mở rộng quy mô trướng lớp, sự phát triển về số lượng và
nâng cao về chất lượng của đội ngũ cán bộ, giáo viên, sự phát triển cơ sở vật
chất trường, lớp và trang thiết bị dạy học, chất lượng giáo dục của giáo dục
THPT huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn cũng có sự chuyển biến tiến bộ.
Sau khi Bắc Kạn tái lập tỉnh (1997), mặc dù còn nhiều khó khăn, song
giáo dục THPT huyện Chợ Đồn (lúc này chỉ có một trường) đã cố gắng khắc
phục hoàn cảnh, duy trì nền nếp học tập của nhà trường. Đến những năm học
sau, được sự quan tâm của các cấp, các ngành, nhất là sự cố gắng của các thế hệ
thầy và trò, giáo dục THPT huyện Chợ Đồn đã được mở rộng về quy mô
trường lớp và nâng cao hơn về chất lượng.
Ngay từ đầu, công tác giáo dục toàn diện cho học sinh được bậc giáo dục
THPT huyện Chợ Đồn rất chú trọng. Trước tiên là chất lượng giáo dục hai mặt
văn hóa và đạo đức cho học sinh. Xuất phát từ đặc điểm một huyện miền núi
cao, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, nhận thức của các đồng bào dân
tộc về tầm quan trọng của nhiệm vụ học tập còn thấp, giáo dục THPT huyện
Chợ Đồn rất quan tâm đến công tác giáo dục tư tưởng cho học sinh, giúp các
em hiểu ý nghĩa của việc học tập để các em nâng cao hơn nữa ý thức học tập;
đồng thời, tiến hành công tác tuyên truyền, vận động đối với phục huynh học
sinh tạo điều kiện tốt nhất cho con em mình đến trường. Nhờ đó, số học sinh
chăm ngoan, khá giỏi của giáo dục THPT Chợ Đồn những năm sau đã tăng hơn
68
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
năm trước.
Bảng 3.2: Kết quả hai mặt giáo dục THPT huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn
trong những năm 1997 – 2013
Năm học
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
Tốt
Khá
TB
Yếu
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
1997 - 1998
0,36
6,82
60,59
30,97
1,26
30,80
34,64
33,87
0,68
1998 - 1999
0,44
7,56
60,00
30,67
1,33
36,00
36,45
26,39
1,17
1999 - 2000
0,38
7,77
55,57
35,12
1,16
29,17
36,08
34,75
0,00
2000 - 2001
0,86
13,51
64,73
20,7
0,16
40,20
42,00
17,10
0,70
2001 - 2002
1,1
16,8
59,3
22,7
0,1
40,1
37,7
21,6
0,6
2002 - 2003
0,90
18,36
62,60
18,08
0,06
44,40
38,30
16,24
1,06
2003 – 2004
1,06
14,70
51,18
32,73
0,33
44,36
37,75
17,30
0,59
2004 – 2005
0,85
14,15
48,52
35,52
0,95
40,59
34,77
22,48
2,16
2005 - 2006
0,77
14,90
49,09
35,02
0,22
43,76
33,53
21,39
1,32
2006 – 2007
0,35
8,69
60,91
29,96
0,10
45,21
36,19
17,14
1,47
2007 – 2008
0,30
6,52
45,78
46,46
0,97
38,33
41,32
18,42
1,94
2008 – 2009
0,54
7,75
36,34
53,72
1,66
30,04
43,60
24,69
1,68
2009 – 2010
0,29
9,25
37,86
49,92
2,69
37,45
41,84
19,11
1,61
2010 – 2011
0,18
10,26
42,63
40,67
0,32
46,56
38,32
14,42
0,72
2011 – 2012
0,45
14,97
44,41
38,87
1,33
45,44
37,28
16,55
0,75
2012 – 2013
0,80
17,71
52,94
28,33
0,24
58,59
30,49
10,64
0,30
Qua bảng số liệu cho thấy, trong những năm 1997 – 2013, chất lượng hai
mặt giáo dục của giáo dục THPT huyện Chợ Đồn có sự chuyển biến. So với
năm học 1997 – 1998, kết quả giáo dục hai mặt năm học 2012 – 2013 đều tăng
lên: về văn hóa, tỷ lệ học sinh khá, giỏi tăng 11,33%, tỷ lệ học sinh yếu, kém
giảm 3,66%; về đạo đức, tỷ lệ học sinh có đạo đức tốt tăng 27,79%, tỷ lệ học
69
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
sinh có đạo đức yếu giảm0,38%.
Sự chuyển biến trong chất lượng giáo dục THPT huyện Chợ Đồn còn
được thể hiện qua tỷ lệ học sinh thi đỗ tốt nghiệp cuối cấp. Năm 2006, tỷ lệ
học sinh tốt nghiệp tăng 14,8% so với năm 2000. Trong những năm học tiếp
theo, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp bậc học THPT huyện Chợ Đồn có giảm xuống
hơn so với những năm đầu (do tác động của cuộc vận động “Hai không” và
chương trình sách giáo khoa mới mà Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành),
nhưng đến năm học 2010 – 2011, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp bậc THPT huyện
Chợ Đồn lại tăng lên nhanh chóng. Năm 2013, tỷ lệ này là 99,04% (tăng
5,45% so với năm 2006).
Nhằm phát triển giáo dục toàn diện cho học sinh, cùng với việc coi trọng
các tiết dạy chính khóa, các trường học thuộc bậc học THPT của huyện Chợ
Đồn cũng hết sức chú trọng đến công tác giáo dục sức khỏe, giáo dục kỹ năng
sống, giáo dục pháp luật, giáo dục thể chất và giáo dục quốc phòng an ninh cho
học sinh. Những nội dung giáo dục này đã được các nhà trường lồng ghép vào
chương trình giảng dạy chính khóa (thuộc các môn: Sinh học, Giáo dục công
dân, Thể dục và Quốc phòng an ninh) một cách có hiệu quả. Ngoài ra, hằng
năm, giáo dục THPT Chợ Đồn còn kết hợp với các sở, ban, ngành tổ chức các
cuộc thi như tìm hiểu sức khỏe sinh sản vị thành niên, tìm hiểu Luật an toàn
giao thông... nhằm nâng cao hiểu biết cho các em những kiến thức về sức khỏe,
giới tính, pháp luật...
Bên cạnh kết quả không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục hai mặt văn
hóa và đạo đức cho học sinh, chất lượng giáo dục mũi nhọn của bậc giáo dục
THPT huyện Chợ Đồn cũng đạt được kết quả đáng ghi nhận. Số lượng học sinh
tham gia và đạt giải tại các kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh và cấp quốc gia
dần được tăng lên, có em đạt giải cao được tuyển thẳng vào các trường đại học,
cao đẳng. Số học sinh đỗ thẳng vào các trường đại học, cao đẳng và trung học
70
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
chuyên nghiệp cũng ngày càng tăng.
3.5. Còn tồn tại một số khó khăn và hạn chế
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, trong những năm 1997 –
2013, giáo dục THPT huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn còn gặp không ít khó khăn
và hạn chế.
Chất lượng và hiệu quả dạy học còn thấp. Mặc dù kết quả hai mặt giáo
dục của bậc học THPT huyện Chợ Đồn qua từng năm đã có sự chuyển biến
tiến bộ, kết quả thi tốt nghiệp cũng đã dần được nâng lên, song nhìn chung
kết quả này vẫn còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành
giáo dục – đào tạo và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nói
riêng và của tỉnh nói chung. Chất lượng giáo dục mũi nhọn cũng chưa cao,
thể hiện ở số lượng học sinh tham gia và đạt giải trong các kỳ thi học sinh
giỏi cấp tỉnh và quốc gia chưa nhiều, trong đó số lượng học sinh đạt giải cao
(giải nhất, giải nhì) rất ít. Tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao
đẳng cũng còn thấp.
Đội ngũ cán bộ, giáo viên còn bất cập về số lượng và chất lượng. Ở
những năm học sau, nhờ được tăng cường bồi dưỡng, chất lượng đội ngũ giáo
viên THPT Chợ Đồn đã tiến bộ đáng kể, hiện tượng giáo viên phải dạy chéo
môn đã không còn. Song một bộ phận không nhỏ giáo viên còn hạn chế về
trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm, trình độ Ngoại ngữ và Tin học của
phần đông giáo viên còn yếu. Mặc dù Đảng và Nhà nước đã cải tiến rất nhiều
chế độ, chính sách cho giáo viên nhưng các chế độ, chính sách hiện hành đối
với giáo viên vẫn còn nhiều bất cập, dẫn đến việc nhiều giáo viên không toàn
tâm, toàn ý cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo.
Cơ sở vật chất cho trường học đã được đầu tư xây dựng nhưng chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục, trường học mới còn đang
trong quá trình xây dựng. Trang thiết bị dạy và học còn nhiều thiếu thốn, cả hai
71
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Trường THPT Chợ Đồn và THPT Bình Trung đều chưa có thư viện đạt chuẩn,
số phòng học chức năng còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu dạy và học của
thầy và trò.
Công tác xã hội hóa giáo dục chưa mang lại hiệu quả do Chợ Đồn là một
huyện vùng núi cao, đời sống của đông đảo các tầng lớp nhân dân còn nhiều
khó khăn.
Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn và hạn chế nêu trên chủ yếu là do
xuất phát điểm về kinh tế - xã hội của huyện Chợ Đồn rất thấp trong sự khó
khăn chung của một tỉnh miền núi, lại vừa được tách tỉnh. Đến năm 2013, Bắc
Kạn vẫn là một trong những tỉnh nghèo nhất cả nước, vì vậy nguồn ngân sách
của địa phương còn hạn hẹp, nguồn chi ngân sách cho giáo dục chưa nhiều.
Trong điều kiện khó khăn đó, giáo dục THPT huyện Chợ Đồn chưa có đủ
nguồn vốn đầu tư để phát triển. Thêm vào đó, do địa phương còn nghèo, đời
sống của nhân dân các dân tộc huyện Chợ Đồn còn rất khó khăn nên việc chi
phí cho con em đi học có nhiều hạn chế. Hơn nữa, phần đông đồng bào chưa
nhận thức được rõ vai trò quan trọng của việc học tập, nhất là với những đồng
bào dân tộc ít người có trình độ dân trí thấp, do đó tình trạng học sinh bỏ học
còn diễn ra nhiều, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục.
3.6. Một số bài học kinh nghiệm và giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng
giáo dục THPT huyện Chợ Đồn
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được trong quá trình phát triển của
giáo dục THPT Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 1997 – 2013, chúng tôi rút ra
những bài học kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách về giáo dục – đào
tạo của Đảng, Nhà nước, trên cơ sở đó vận dụng một cách linh hoạt cho phù
hợp với hoàn cảnh thực tế của địa phương.
Thứ hai, gắn nhiệm vụ phát triển giáo dục với nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội ở địa phương để đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể phù hợp với
72
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
mục tiêu, nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn.
Thứ ba, thực hiện tốt công tác bồi dưỡng nâng cao tay nghề, giáo dục tư
tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ giáo viên. Đồng thời,
quan tâm đến quyền lợi chính đáng và thực hiện tốt chế độ, chính sách ưu đãi
đối với cán bộ, giáo viên. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ, giáo viên yên tâm công tác
và cống hiến cho ngành.
Thứ tư, coi trọng việc giáo dục toàn diện, kết hợp giáo dục văn hóa, đạo
đức, thể chất, kỹ năng nhằm phát triển cả bốn nhân tố Đức – Trí – Thể - Mĩ cho
học sinh.
Thứ năm, thường xuyên phát động các phong trào thi đua cho đội ngũ
cán bộ, giáo viên và học sinh trong nhà trường nhằm tạo ra khí thế dạy và học
sôi nổi, đồng thời phát huy được mọi tiềm năng sáng tạo của cá nhân và tập thể
đóng góp cho sự nghiệp giáo dục.
Thứ sáu, thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa giáo dục, đưa sự nghiệp
giáo dục trở thành sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, qua đó huy động các cấp
chính quyền, các cơ quan, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tham gia đóng góp
vào quá trình phát triển sự nghiệp giáo dục.
Để phát huy những thành tích đã đạt được và khắc phục những khó khăn,
hạn chế của giáo dục THPT Chợ Đồn trong những năm 1997 – 2013 nhằm đưa
sự nghiệp giáo dục THPT Chợ Đồn nói riêng và sự nghiệp giáo dục Bắc Kạn
nói chung tiếp tục phát triển đi lên trong những giai đoạn tiếp theo, chúng tôi
xin đưa ra một số kiến nghị và giải pháp sau:
Tuyên truyền và thực hiện tốt các chủ trương về giáo dục – đào tạo mà
Đảng, Nhà nước đã đưa ra đối với đội ngũ cán bộ giáo viên và học sinh. Nâng
cao tư tưởng chính chị, lập trường vững vàng cho đội ngũ cán bộ giáo viên,
giúp họ gắn bó với nghề, yêu nghề, qua đó sẽ cống hiến trí lực nâng cao hơn
nữa chất lượng giáo dục. Còn đối với học sinh, đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, vận động, giúp các em nhận thức được vai trò quan trọng của giáo dục,
73
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
từ đó nâng cao ý thức học tập cho các em.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công tác đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục mà Đảng và Bộ giáo dục và đào tạo đã đề ra. Điều này đòi hỏi đội ngũ giáo
viên phải không ngừng đổi mới phương pháp dạy học, trong quá trình dạy học
phải kiên trì nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính chủ động,
tích cực và năng lực tự học trong học tập cho học sinh. Bên cạnh đó là đổi mới
kiểm tra, đánh giá học sinh, nâng cao mức độ đánh giá khả năng thông hiểu,
vận dụng và liên hệ của các em trong quá trình học tập. Trong bối cảnh hội
nhập như hiện nay, cần tăng cường mạnh mẽ hơn nữa công tác nghiên cứu khoa
học – công nghệ, ứng dụng tin học và sử dụng ngoại ngữ trong nhà trường.
Tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học theo
hướng chuẩn hóa và hiện đại hóa. Đối với vấn đề này, cần huy động mọi nguồn
vốn đẩy nhanh tiến độ xây dựng trường học mới theo dự án đã đề ra dành cho
bậc học THPT thuộc địa bàn huyện Chợ Đồn để sớm đưa trường học mới vào
sử dụng, phục vụ tốt hơn nữa cho nhu cầu của sự nghiệp giáo dục THPT. Đồng
thời, phải đảm bảo đủ các điều kiện về sách giáo khoa, thiết bị dạy và học cho
giáo viên và học sinh; xây dựng các phòng học chức năng (phòng thí nghiệm
thực hành, phòng máy tính, phòng máy chiếu) và thư viện đạt chuẩn. Nhanh
chóng thực hiện việc tách trường cấp II – III Bình Trung, xây dựng môi trường
học tập phù hợp với từng bậc học, thúc đẩy bậc học THPT phát triển.
Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Người thầy đóng vai trò quyết
định đối với thành bại của sự nghiệp giáo dục – đào tạo. Vì vậy, cần chủ động
xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, giáo viên đủ về số lượng và đảm bảo các
yêu cầu về phẩm chất, đạo đức, năng lực chuyên môn, đáp ứng được yêu cầu
của sự nghiệp giáo dục THPT trong thời kỳ mới. Thực hiện công tác tổ chức,
bố trí và sử dụng một cách hợp lý, tránh làm xáo trộn tình hình ổn định giáo
viên gây ảnh hưởng đến chất lượng dạy học của nhà trường. Tăng cường công
tác bồi dưỡng thường xuyên nhằm củng cố và nâng cao tay nghề hơn nữa cho
74
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
đội ngũ giáo viên. Động viên và có chính sách khuyến khích giáo viên đi học
tiếp lên bậc sau đại học để nâng cao trình độ. Đồng thời, giải quyết tốt các chế
độ, chính sách cho giáo viên giúp họ yên tâm công tác và gắn bó với nghề.
Thực hiện quy chế dân chủ trong trường học, duy trì củng cố kỷ cương,
nền nếp dạy và học trong nhà trường. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra,
ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, làm lành mạnh môi trường giáo dục.
Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, huy động tối đa mọi nguồn lực
trong nhân dân nhằm phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp giáo dục. Để làm được
điều này cần mở rộng và hoàn thiện các hình thức huy động cộng đồng tham
gia vào các hoạt động giáo dục trong nhà trường. Cùng với việc huy động sự
đóng góp của nhân dân là các gia đình có điều kiện, cần bổ sung hoàn chỉnh các
chính sách hỗ trợ đối với học sinh nghèo và con em gia đình chính sách, con
em gia đình nghèo học giỏi. Tiếp tục huy động các cấp bộ ngành tăng cường
đầu tư ngân sách cho giáo dục – đào tạo, trong đó dành ưu tiên cho đầu tư phát
triển giáo dục ở vùng khó khăn.
Tiểu kết chƣơng 3
Tóm lại, sau 16 tái lập tỉnh, thực hiện tinh thần các Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ IX, lần thứ X, lần thứ XI, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy tỉnh Bắc
Kạn và sự chỉ đạo trực tiếp của Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn, giáo dục
THPT huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn đã vươn lên khắc phục những khó khăn
ban đầu, từng bước phát triển và đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Quy
mô trường, lớp được mở rộng (từ năm học 1997 – 1998 đến năm học 2005 -
2006, huyện Chợ Đồn chỉ có một trường THPT duy nhất; từ năm học 2006 -
2007 trở đi, huyện đã có hai trường THPT), tạo điều kiện cho con em các xã
vùng sâu, vùng xa của huyện được đến trường, nhờ đó số học sinh cũng tăng.
Đội ngũ cán bộ, giáo viên được tăng cường về số lượng, ngày càng nâng cao về
trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm. Cơ sở vật chất trường, lớp được đầu
tư xây dựng kiên cố hóa, các trang thiết bị dạy và học từng bước được trang bị
75
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
đầy đủ. Chất lượng giáo dục toàn diện có những chuyển biến tiến bộ. Những
thành tựu đó của bậc giáo dục THPT huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn đã góp phần
quan trọng trong việc nâng cao trình độ dân trí, bồi dưỡng nhân tài và thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nói riêng và toàn tỉnh nói chung.
Song, bên cạnh những thành tích đã đạt được, trong những năm 1997 –
2013, giáo dục THPT huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn còn gặp nhiều khó khăn,
hạn chế. Đó là chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu đặt ra; chất lượng
giáo viên còn tương đối yếu kém; cơ sở vật chất trường, lớp và các trang thiết
bị dạy và học còn thiếu thốn; công tác xã hội hóa giáo dục chưa mang lại hiệu
quả cao. Để khắc phục những khó khăn và hạn chế nêu trên đòi hỏi sự chung
tay vào cuộc không chỉ của đội ngũ cán bộ, giáo viên THPT huyện Chợ Đồn
mà còn đòi hỏi cả sự nỗ lực cố gắng của các cấp chính quyền địa phương, toàn
ngành giáo dục và toàn xã hội. Chỉ có như vậy, giáo dục THPT huyện Chợ Đồn
mới có thể vượt qua được những khó khăn, hạn chế, vươn lên đạt được những
76
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
thành tích cao hơn trong giai đoạn cách mạng tiếp theo.
KẾT LUẬN
Trải qua 16 năm kể từ ngày tỉnh Bắc Kạn được tái lập (1997 – 2013),
giáo dục THPT huyện Chợ Đồn đã từng bước khắc phục khó khăn, vươn lên
đạt được những thành tựu quan trọng.
Quy mô trường lớp được mở rộng hơn, từ 1 trường (giai đoạn 1997 –
2006) tăng lên 2 trường (giai đoạn 2006 – 2013) với tổng số lớp năm học
2012 – 2013 là 36 lớp. Việc mở rộng quy mô trường lớp đã đáp ứng được nhu
cầu học tập của con em các dân tộc trong huyện Chợ Đồn. Từ đó, số lượng
học sinh cũng ngày càng tăng lên (năm học 2012 – 2013, số lượng học sinh
THPT huyện Chợ Đồn là 1.319 em, tăng gần gấp đôi so với năm học đầu khi
vừa tách tỉnh).
Chất lượng giáo dục từng bước được nâng cao, trước tiên thể hiện ở kết
quả hai mặt giáo dục học sinh. Tỷ lệ học sinh khá, giỏi về văn hóa và đạo đức
ngày càng tăng lên, tỷ lệ học sinh yếu, kém ngày càng giảm xuống. Tỷ lệ học
sinh tốt nghiệp tăng dần theo từng năm, đến năm học 2012 – 2013 đạt gần
100%. Bên cạnh giáo dục đại trà, công tác giáo dục mũi nhọn, bồi dưỡng nhân
tài cũng được quan tâm. Số lượng học sinh giỏi cấp tỉnh và học sinh giỏi quốc
gia ngày một nhiều hơn (tính đến năm 2013, giáo dục THPT huyện Chợ Đồn đã
có 284 học sinh giỏi cấp tỉnh và 13 học sinh giỏi quốc gia). Công tác giáo dục
toàn diện cho học sinh từng bước được nâng lên. Cùng với việc đẩy mạnh chất
lượng giáo dục hai mặt và giáo dục mũi nhọn, công tác giáo dục pháp luật, kỹ
năng sống, giáo dục thể chất, giáo dục quốc phòng an ninh và giáo dục hướng
nghiệp cũng được chú trọng.
Đội ngũ cán bộ, giáo viên không ngừng phát triển về số lượng và chất
lượng, chuẩn hóa về trình độ, từng bước đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
giáo dục THPT của huyện. Năm 1997, giáo dục THPT huyện Chợ Đồn có 45
77
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
cán bộ, giáo viên, đến năm 2013 con số này là 112. Năm 1997, giáo dục THPT
huyện Chợ Đồn chưa có giáo viên nào có trình độ Thạc sĩ thì đến năm 2013 đã
có 04 giáo viên có trình độ Thạc sĩ.
Cơ sở vật chất trường lớp được đầu tư xây dựng, kiên cố hóa. Thiết bị
dạy và học được trang bị tương đối đầy đủ, phục vụ ngày càng tốt hơn cho
nhiệm vụ dạy và học. Được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, các cấp chính
quyền cùng với sự chăm lo của nhân dân, cả hai trường thuộc bậc học THPT
của huyện Chợ Đồn (Trường THPT Chợ Đồn và Trường THPT Bình Trung)
đều đang được xây dựng mới hoàn toàn. Đây sẽ là điều kiện thuận lợi để giáo
dục THPT huyện Chợ Đồn có thể phát triển sự nghiệp giáo dục tốt hơn nữa
trong giai đoạn tiếp theo.
Những thành tựu mà giáo dục THPT huyện Chợ Đồn trong những năm
1997 – 2013 đạt được nêu trên là nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng ta,
được Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn vận dụng một cách sáng tạo vào tình hình cụ thể
của địa phương, qua đó cụ thể hóa thành các chủ trương, biện pháp cụ thể để
phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo của tỉnh, trong đó có giáo dục THPT
huyện Chợ Đồn.
Sau 10 năm tiến hành đổi mới (1986 – 1996), đất nước ta đã đạt những
thành tựu quan trọng trên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội. Về cơ bản, nước ta
đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và bước vào thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam
độc lập, dân chủ, giàu mạnh, văn minh, vững bước tiến lên theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Bước vào thời kỳ cách mạng mới, Đại hội Đảng lần thứ VIII
(1996), lần thứ IX (2001), lần thứ X (2006) vẫn coi giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; coi
đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển; coi giáo dục là nền tảng và động
lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nước ta cũng đang trong quá trình đẩy mạnh hội
nhập quốc tế, vì thế Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) xác định thêm nhiệm vụ
78
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã
hội, nâng cao chất lượng giáo dục theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế. Có thể thấy đường lối của Đảng đề ra đã
định hướng chiến lược đúng đắn cho sự nghiệp phát triển giáo dục – đào tạo
của cả nước. Trên cơ sở đó, các địa phương sẽ căn cứ vào điều kiện thực tế để
đề ra biện pháp cụ thể cho mình.
Quán triệt chủ trương của Đảng đề ra, Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn đã nhấn
mạnh coi giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, điều
kiện đảm bảo thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội ở địa phương, xóa đói
giảm nghèo, thực hiện mục tiêu phấn đấu đến năm 2015 đưa tỉnh Bắc Kạn thoát
ra khỏi tình trạng kém phát triển. Trong điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh còn
khó khăn, nguồn vốn đầu tư còn nhiều thiếu thốn, Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn đề ra
chủ trương thực hiện xã hội hóa giáo dục, huy động các nguồn lực đầu tư cho
giáo dục – đào tạo, nhất là nguồn vốn 135 để xây dựng cơ sở vật chất trường
học. Đảng bộ Bắc Kạn còn tiến hành liên kết với các trường đại học, cao đẳng
để đào tạo lại nhằm nâng cao chất lượng chuyên môn cho cán bộ, giáo viên,
thực hiện chuẩn hóa giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục cho tỉnh.
Nhờ những chủ trương và biện pháp nêu trên của Trung ương Đảng và
Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, giáo dục THPT huyện Chợ Đồn đã có nhiều chuyển
biến tích cực, đạt nhiều thành tựu, đóng góp vào sự nghiệp phát triển ngành
giáo dục đào tạo của địa phương nói riêng và của tỉnh Bắc Kạn nói chung.
Đồng thời, góp phần đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, từng bước đưa Bắc Kạn thoát ra khỏi
tình trạng là một trong những tỉnh nghèo nhất cả nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, giáo dục THPT huyện Chợ Đồn
vẫn còn có những khó khăn, hạn chế. Chất lượng giáo dục nhìn chung còn thấp,
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển ngành giáo dục – đào tạo và yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương. Chất lượng giáo dục mũi nhọn cũng chưa
cao, tỷ lệ học sinh đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi chưa nhiều. Số học
sinh đỗ vào các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp còn ít.
79
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Đội ngũ cán bộ, giáo viên còn bất cập về số lượng và chất lượng. Cơ sở vật
chất cho trường học còn nhiều thiếu thốn. Nguyên nhân chủ yếu của những khó
khăn, hạn chế này là do Bắc Kạn là một tỉnh miền núi được tái lập chưa lâu,
kinh tế - xã hội của toàn tỉnh nói chung và huyện Chợ Đồn nói riêng còn khó
khăn nên nguồn ngân sách chi cho giáo dục còn hạn chế. Đời sống của các tầng
lớp nhân dân nơi đây còn rất khó khăn nên việc chi phí cho con em đi học còn
nhiều hạn chế.
Để khắc phục những khó khăn và hạn chế của giáo dục THPT huyện
Chợ Đồn, đưa sự nghiệp giáo dục THPT huyện Chợ Đồn tiếp tục phát triển đi
lên trong những giai đoạn tiếp theo cần thực hiện tốt một số giải pháp. Trước
tiên là tuyên truyền và thực hiện tốt hơn nữa các chủ trương về giáo dục – đào
tạo mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, nhất là đẩy mạnh công tác đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo đáp
ứng yêu cầu của thời kỳ cách mạng mới. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên thông qua công tác bồi dưỡng thường xuyên và có chính sách khuyến
khích giáo viên đi học tiếp lên bậc sau đại học để nâng cao trình độ. Đồng
thời, đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục để huy động được các nguồn lực
to lớn cả về vật chất và tinh thần của toàn xã hội cho sự nghiệp giáo dục,
trong đó chú trọng việc tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học
theo hướng chuẩn hóa và hiện đại hóa, đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu của sự
nghiệp giáo dục THPT.
Mặc dù vẫn còn tồn tại một số khó khăn, hạn chế song những thành tựu
mà giáo dục THPT huyện Chợ Đồn đạt được trong quá trình phát triển từ 1997
– 2013 có ý nghĩa rất to lớn trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài và góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Những
thành tựu đó sẽ là động lực, là tiền đề để giáo dục THPT huyện Chợ Đồn vươn
lên giành được những thành tựu to lớn hơn trong công cuộc công nghiệp hóa,
80
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
hiện đại hóa hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thế Anh (2007), Huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn trong kháng chiến
chống thực dân Pháp (1945 – 1954), Luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử, Đại
học Thái Nguyên – Đại học Sư phạm.
2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Chợ Đồn (2000), Lịch sử Đảng bộ huyện
Chợ Đồn, tập II (1954 – 1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Chợ Đồn (2010), Lịch sử Đảng bộ huyện
Chợ Đồn, tập III (1975 – 2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc
Kạn, tập I, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Ban khoa giáo Trung ương (2002), Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi
mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Ban khoa giáo Trung ương(2002), Một số văn bản của Đảng và Nhà nước
về Giáo dục và đào tạo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Ban tư tưởng Văn hóa Trung ương (2002), Vấn đề dân tộc và chính sách
dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. (2004), Bản sắc và truyền thống văn hóa các dân tộc tỉnh Bắc Kạn, Nxb
Văn hóa các dân tộc, Hà Nội.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Tài liệu quản lý giáo dục trung học, Nxb
Giáo dục.
10. Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn (2001), Niên giám thống kê năm 2000, Bắc Kạn,
Nxb Thống kê.
11. Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn (2002), Niên giám thống kê năm 2001, Bắc Kạn,
Nxb Thống kê.
12. Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn (2003), Niên giám thống kê năm 2002, Bắc Kạn,
Nxb Thống kê.
13. Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn (2004), Niên giám thống kê năm 2003, Bắc Kạn,
81
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Nxb Thống kê.
14. Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn (2005), Niên giám thống kê năm 2004, Bắc Kạn,
Nxb Thống kê.
15. Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn (2006), Niên giám thống kê năm 2005, Bắc Kạn,
Nxb Thống kê.
16. Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn (2007), Niên giám thống kê năm 2006, Bắc Kạn,
Nxb Thống kê.
17. Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn (2008), Niên giám thống kê năm 2007, Bắc Kạn,
Nxb Thống kê.
18. Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn (2009), Niên giám thống kê năm 2008, Bắc Kạn,
Nxb Thống kê.
19. Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn (2010), Niên giám thống kê năm 2009, Bắc Kạn,
Nxb Thống kê.
20. Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn (2011), Niên giám thống kê năm 2010, Bắc Kạn,
Nxb Thống kê.
21. Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn (2012), Niên giám thống kê năm 2011, Bắc Kạn,
Nxb Thống kê.
22. Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn (2013), Niên giám thống kê năm 2012, Bắc Kạn,
Nxb Thống kê.
23. Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn (2014), Niên giám thống kê năm 2013, Bắc Kạn,
Nxb Thống kê.
24. (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường, Nxb Đại học
Sư phạm.
25. Đảng bộ huyện Chợ Đồn (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện
Chợ Đồn lần thứ XVII nhiệm kỳ 2000 – 2005.
26. Đảng bộ huyện Chợ Đồn (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện
Chợ Đồn lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2005 – 2010.
27. Đảng bộ huyện Chợ Đồn (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện
82
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
Chợ Đồn lần thứ XIX nhiệm kỳ 2010 – 2015.
28. Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc
Kạn lần thứ IX nhiệm kỳ 2005 – 2010, Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Kạn.
29. Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc
Kạn lần thứ X nhiệm kỳ 2010 – 2015, Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Kạn.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (khóa
VIII), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng ủy – Bộ chỉ huy quân sự huyện Chợ Đồn (2006), Chợ Đồn lịch sử
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ 1945 – 1975.
39. Đảng ủy – Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Kạn (2001), Bắc Kạn lịch sử kháng
chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
40. Đảng ủy – Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bắc Kạn (2004), Bắc Kạn lịch sử kháng
chiến chống Mĩ cứu nước (1954 – 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
41. Trần Bá Đệ, Nguyễn Xuân Minh (2008), Giáo trình lịch sử Việt Nam, tập
83
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
VI (1945 – 1954), Nxb Đại học Sư phạm.
42. Trần Bá Đệ, Lê Cung (2010), Giáo trình lịch sử Việt Nam, tập VII (1954 –
1975), Nxb Đại học Sư phạm.
43. Trần Bá Đệ, Vũ Thị Hòa (2010), Giáo trình lịch sử Việt Nam, tập VIII
(1975 đến nay), Nxb Đại học Sư phạm.
44. Phạm Minh Hạc (1991), Góp phần đổi mới tư duy giáo dục, Nxb Giáo dục.
45. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế -
xã hội, Nxb Giáo dục.
46. Phạm Minh Hạc (2000), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỉ
XXI, Nxb Đại học Quốc gia.
47. (2001), Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật Ngành Giáo dục – Đào
tạo Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
48. Huyện ủy Chợ Đồn (1993), Lịch sử Đảng bộ huyện Chợ Đồn (1930 –
1954), Xí nghiệp in Bắc Thái.
49. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (2003), Phương pháp luận sử học, Nxb Đại học
Sư phạm, Hà Nội.
50. Nguyễn Cảnh Minh (1998), Lịch sử địa phương, Nxb Hà Nội.
51. Hoàng Đức Nhuận (1992), Những vấn đề cơ bản trong giáo dục trung học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
52. Lê Minh Quốc (2001), Hỏi đáp về vấn đề Giáo dục Việt Nam, Nxb Trẻ, Hà Nội.
53. Nguyễn Đức Quế (2007), Hậu phương Bắc Kạn trong kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945 – 1954), Luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử, Đại học
Thái Nguyên – Đại học Sư phạm.
54. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (1998), Báo cáo tổng kết năm học 1997 –
1998, Bắc Kạn.
55. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (1999), Báo cáo tổng kết năm học 1998 –
1999, Bắc Kạn.
56. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2000), Báo cáo tổng kết năm học 1999 –
84
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
2000, Bắc Kạn.
57. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2001), Báo cáo tổng kết năm học 2000 –
2001, Bắc Kạn.
58. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2002), Báo cáo tổng kết năm học 2001 –
2002, Bắc Kạn.
59. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2002), Đề án triển khai thực hiện Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần thứ 9 (khóa VIII)
về giáo dục đào tạo, Bắc Kạn.
60. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2002), Địa lý tỉnh Bắc Kạn, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
61. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2003), Báo cáo tổng kết năm học 2002 –
2003, Bắc Kạn.
62. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2004), Báo cáo tổng kết năm học 2003 –
2004, Bắc Kạn.
63. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2004), Báo cáo đánh giá kết quả sau 4
năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII, Bắc Kạn.
64. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2005), Báo cáo tổng kết năm học 2004 –
2005, Bắc Kạn.
65. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2006), Báo cáo tổng kết năm học 2005 –
2006, Bắc Kạn.
66. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2007), Báo cáo tổng kết năm học 2006 –
2007, Bắc Kạn.
67. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2008), Báo cáo tổng kết năm học 2007 –
2008, Bắc Kạn.
68. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2009), Báo cáo tổng kết năm học 2008 –
2009, Bắc Kạn.
69. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2010), Báo cáo tổng kết năm học 2009 –
85
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
2010, Bắc Kạn.
70. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2011), Báo cáo tổng kết năm học 2000 –
2001, Bắc Kạn.
71. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2012), Báo cáo tổng kết năm học 2010 –
2011, Bắc Kạn.
72. Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Kạn (2013), Báo cáo tổng kết năm học 2012 –
2013, Bắc Kạn.
73. (2012), Sổ tay hướng dẫn đổi mới phương pháp quản lý, giảng dạy câng
cao chất lượng dạy và học trong nhà trường, Nxb Lao động – Xã hội.
74. Âu Thị Hồng Thắm (2001), Bắc Kạn trong cuộc kháng chiến chống Pháp
(1946 – 1954), Luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử, Đại học Thái Nguyên –
Đại học Sư phạm.
75. Âu Thị Hồng Thắm (2013), Tỉnh Bắc Kạn trong căn cứ địa Việt Bắc từ năm
1942 đến năm 1954, Luận án Tiến sĩ lịch sử, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam – Học viện Khoa học xã hội.
76. Hà Văn Tiềm (2005), Giáo dục phổ thông tỉnh Bắc Kạn từ 1997 đến 2004,
Luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử, Đại học Thái Nguyên – Đại học Sư phạm.
77. Tỉnh ủy Bắc Kạn (2000), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn khóa VIII.
78. Tỉnh ủy Bắc Kạn (2002), Nghị quyết về phát triển Giáo dục – Đào tạo và
dạy nghề.
79. Phạm Viết Vượng (2000), Giáo dục học, Nxb Đại học Sư phạm.
86
http://www.lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
80. Vụ công tác lập pháp (2005), Luật Giáo dục năm 2005, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Cổng Trƣờng THPT Chợ Đồn
Dãy nhà hiệu bộ Trƣờng THPT Chợ Đồn
Dãy nhà học hai tầng Trƣờng THPT Chợ Đồn
Dãy nhà học bằng gỗ Trƣờng THPT Chợ Đồn
Cơ sở mới đang xây dựng của Trƣờng THPT Chợ Đồn
Dãy nhà học ba tầng tại cơ sở mới đã đƣợc đƣa vào sử dụng của Trƣờng
THPT Chợ Đồn
Lễ khai giảng năm học 2010 – 2011 tại Trƣờng THPT Chợ Đồn
Các em học sinh Trƣờng THPT Chợ Đồn nhận giấy khen trong lễ bế giảng
năm học 2010 – 2011
Các thế hệ giáo viên Trƣờng THPT Chợ Đồn chụp ảnh lƣu niệm trong Lễ
kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam
Cổng Trƣờng THPT Bình Trung (cơ sở cũ)
Dãy nhà hiệu bộ Trƣờng THPT Bình Trung (cơ sở cũ)
Dãy lớp học cấp 4 của Trƣờng THPT Bình Trung (cơ sở cũ)
Cổng trƣờng cơ sở mới đang xây dựng của Trƣờng THPT Bình Trung
Dãy nhà học hai tầng tại cơ sở mới đã đƣợc đƣa vào sử dụng của Trƣờng
THPT Bình Trung
Đội ngũ cán bộ, giáo viên Trƣờng THPT Bình Trung
Thầy Nông Văn Tuyền – Hiệu trƣởng Trƣờng THPT Bình Trung, đọc Báo
cáo tổng kết năm học trong buổi lễ bế giảng năm học 2011 – 2012