intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Tổ chức tự học ở nhà nhằm phát huy tính tích cực, tự lực học tập của học sinh trong dạy học chương “Các định luật bảo toàn” - SGK Vật lí 10

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:157

101
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Tổ chức tự học ở nhà nhằm phát huy tính tích cực, tự lực học tập của học sinh trong dạy học chương “Các định luật bảo toàn” - SGK Vật lí 10 nêu lên cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp nhằm tổ chức tự học ở nhà nhằm phát huy tính tích cực, tự lực học tập của học sinh trong dạy học chương “Các định luật bảo toàn”.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Tổ chức tự học ở nhà nhằm phát huy tính tích cực, tự lực học tập của học sinh trong dạy học chương “Các định luật bảo toàn” - SGK Vật lí 10

  1. THƯ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN TRÖÔØNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH Đinh Thị Bích Đào TỔ CHỨC TỰ HỌC Ở NHÀ NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ LỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG “CÁC ĐỊNH LUẬT BẢO TOÀN” - SGK VẬT LÍ 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
  2. DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐC Đối chứng GV Giáo viên HS Học sinh PHT Phiếu học tập SGK Sách giáo khoa THPT Trung học phổ thông TN Thực nghiệm PHT 1A PHT chuẩn bị bài mới của bài Động lượng. Định luật bảo toàn động lượng PHT 1B PHT củng cố bài của bài Động lượng. Định luật bảo toàn động lượng PHT 1C PHT hướng dẫn HS làm bài tập bài Động lượng. Định luật bảo toàn động lượng PHT D1 PHT hướng dẫn HS làm thí nghiệm vật lí bài Động lượng. Định luật bảo toàn động lượng (dạng 1) PHT D2 PHT hướng dẫn HS làm thí nghiệm vật lí bài Động lượng. Định luật bảo toàn động lượng (dạng 2) PHT D3 PHT hướng dẫn HS làm thí nghiệm vật lí bài Động lượng. Định luật bảo toàn động lượng (dạng 3) PHT E1 PHT hướng dẫn HS tìm hiểu ứng dụng của vật lí vào thực tiễn (ứng dụng của định luật bảo toàn động lượng vào thực tiễn) PHT 2A PHT chuẩn bị bài mới của bài Công và công suất PHT 2B PHT củng cố bài của bài Công và công suất PHT 2C PHT hướng dẫn HS làm bài tập bài Công và công suất PHT 3A PHT chuẩn bị bài mới của bài Động năng PHT 3B PHT củng cố bài của bài Động năng PHT 3C PHT hướng dẫn HS làm bài tập bài Động năng và bài Thế năng (bài Động năng và Thế năng chung) PHT E2 PHT hướng dẫn HS tìm hiểu ứng dụng của vật lí vào thực tiễn (ứng dụng của động năng, thế năng và sự biến đổi giữa chúng) PHT 4A PHT chuẩn bị bài mới bài Thế năng PHT 4B PHT củng cố bài của bài Thế năng PHT 5A PHT chuẩn bị bài mới bài Cơ năng PHT 5B PHT củng cố bài của bài Cơ năng PHT 4C PHT hướng dẫn HS giải bài tập bài Cơ năng PHT 6 PHT ôn tập chương
  3. LỜI CẢM ƠN Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn: Thầy hướng dẫn, TS. Phạm Thế Dân – người đã trực tiếp khuyến khích, động viên, hướng dẫn tôi thực hiện hoàn thành đề tài bằng tất cả sự tận tình và trách nhiệm. Quý thầy cô trong tổ Phương Pháp Giảng Dạy, khoa vật lí, thư viện, phòng Khoa Học Công Nghệ Sau Đại Học trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh, quý thầy cô trong thư viện Khoa Học Tổng Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh đã khuyến khích, quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong thời gian học tập và thực hiện đề tài. Ban Giám Hiệu, quý thầy cô trong bộ môn Vật lí trường THPT KrôngAna, gia đình và bạn bè đã giúp đỡ cho tôi hoàn thành đề tài. Tác giả Đinh Thị Bích Đào
  4. MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI “Kiến thức là cái gì còn lại khi người ta đã quên hết những điều đã học” (Selma Lagerlof). Quả đúng như vậy, chúng ta đang tiến tới nền văn minh thứ ba: nền văn minh trí tuệ - nền văn minh với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự phát triển vượt bậc của khoa học kĩ thuật. Lượng thông tin tích lũy được của nhân loại là khổng lồ và luôn được cập nhật, biến đổi từng giây, từng phút. Vòng đời của một công nghệ được rút ngắn lại còn từng ngày, từng tháng… Với lượng kiến thức vô tận đó, liệu chúng ta có thể nhồi nhét hết vào đầu óc của mình? Câu trả lời tất nhiên là không thể! Chúng ta chỉ có thể dạy cho học sinh cách học, cách xử lí những tình huống trong thực tế, rèn luyện cho học sinh kĩ năng sống…Tóm lại là dạy cho học sinh cách tự học suốt đời, dựa trên bốn trụ cột: học để biết, học để làm, học để cùng chung sống với nhau và học để làm người. Với mục đích đó, đất nước ta đã tiến hành đổi mới phương pháp dạy học từ nhiều năm qua và đã thu được một số kết quả đáng mừng. Nhưng nhìn chung vẫn chỉ dừng lại ở lí luận mà chưa chú trọng nhiều đến việc vận dụng vào thực tiễn dạy học. Đa số cách dạy của giáo viên vẫn chưa chú ý đến vấn đề dạy – tự học cho học sinh. Mặt khác, với sức ép của thi cử và tuyển sinh, giáo viên và học sinh không còn cách nào khác là phải ra sức rèn kĩ năng giải bài tập theo kiểu “nhồi nhét”, học tủ, học lệch. Điều này kéo theo tình trạng dạy thêm – học thêm tràn lan, ngoài thời gian học trên lớp, học sinh dành phần lớn thời gian cho việc học thêm bên ngoài. Và điều đương nhiên là còn rất ít thời gian để tự học ở nhà. Kiến thức mà học sinh tiếp thu được trên lớp và trong các buổi học thêm chỉ mới ở dạng “thô”, nếu không có thời gian tự học ở nhà thì học sinh biến những kiến thức dạng “thô” đó thành kiến thức của mình như thế nào? Cứ như vậy, những gì học được sẽ nhanh chóng bị quên lãng theo thời gian. Đó là chưa kể đến lối học “nhồi nhét” như vậy sẽ biến học sinh chúng ta thành những chú “gà công nghiệp” chỉ biết chờ đợi thức ăn người ta mang tới mà không biết tự tìm kiếm thức ăn cho riêng mình, từ đó mà tư duy phân tích, tổng hợp, sáng tạo cũng bị thui chột đi. Như vậy, hướng dẫn học sinh tự học là cần thiết, hướng dẫn học sinh tự học ở nhà còn cần thiết hơn, vì nó là cơ sở để học sinh có thể tự học suốt đời. Thế nhưng việc dạy học sinh tự học ở nhà hiện nay chưa được quan tâm đúng mực. Giáo viên lên lớp cũng chỉ dành vài phút cuối giờ dạy để dặn dò một cách hình thức là các em về học cái này, cái kia mà chưa hướng dẫn cụ thể là các em phải làm như thế nào. Vì thế, với lòng yêu nghề và với trách nhiệm của bản thân, tôi chọn đề tài “Tổ chức tự học ở nhà nhằm phát huy tính tích cực, tự lực học tập của học sinh trong dạy học chương “Các định luật bảo toàn” – SGK Vật lí 10” với mong muốn góp một phần sức lực rất nhỏ bé của mình trong công cuộc đổi mới giáo dục của đất nước. Tôi chọn chương “Các định luật bảo toàn” sách giáo khoa vật lí 10 vì nội dung chương này khá trừu tượng và khá khó đối với học sinh so với
  5. những chương khác, đồng thời cũng có nhiều ứng dụng trong thực tế hiện đại mà học sinh cần thiết phải nắm được. Có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề phát huy tính tích cực, tự lực học tập của học sinh như: Nghiên cứu xây dựng và sử dụng bài tập thí nghiệm nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học vật lí ở trường phổ thông (luận văn thạc sĩ giáo dục học của Nguyễn Tiến Dũng, năm 2006); Thiết kế và sử dụng website trong dạy học phần “Dao động điện – dòng điện xoay chiều, dao động điện từ - sóng điện từ” lớp 12 THPT nhằm phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo của học sinh (luận văn thạc sĩ giáo dục học của Mai Hoàng Phương, năm 2007); Sử dụng câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhằm phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh trong quá trình dạy học chương “Chất khí” lớp 10 ban KHTN (luận văn thạc sĩ giáo dục học của Lê Phú Đăng Khoa, năm 2008)… Về vấn đề tự học, có các nghiên cứu như: Xây dựng hệ thống bài tập chương “Các định luật bảo toàn” lớp 10 THPT nhằm phát triển năng lực tư duy độc lập và nâng cao hiệu quả tự học của học sinh (luận văn thạc sĩ giáo dục học của Nguyễn Xuân Phượng, năm 2007); Tổ chức hoạt động học tập tự lực – sáng tạo của học sinh trong dạy học chương “Các định luật bảo toàn” lớp 10 THPT ban cơ bản (luận văn thạc sĩ giáo dục học của Võ Thị Tuyết Mai, năm 2008); Bồi dưỡng năng lực tự học và liên hệ thực tế của học sinh trong dạy học chương “Dòng điện xoay chiều” lớp 12 THPT (luận văn thạc sĩ giáo dục học của Nguyễn Kim Dũ, năm 2007)… Riêng về vấn đề hướng dẫn học sinh tự học ở nhà, có một số bài báo đề cập đến như: Tổ chức hoạt động tự học ở nhà về môn vật lí cho học sinh (TS. Tạ Tri Phương, Tạp chí Giáo dục số 64, 2003); Thí nghiệm vật lí ở nhà của học sinh: ý nghĩa và các phương án tiến hành (TS. Nguyễn Ngọc Hưng, Tạp chí Giáo dục số 27, 2002). Những bài báo này đề cập đến tầm quan trọng và một số vấn đề lí thuyết của việc hướng dẫn học sinh tự học ở nhà. Tiếp tục nghiên cứu sâu và khai thác nhiều khía cạnh khác của vấn đề tự học ở nhà của học sinh, tôi thực hiện đề tài “Tổ chức tự học ở nhà nhằm phát huy tính tích cực, tự lực học tập của học sinh trong dạy học chương “Các định luật bảo toàn” – SGK Vật lí 10”. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 1. Xây dựng hệ thống phiếu học tập hướng dẫn học sinh tự học ở nhà chương “Các định luật bảo toàn” vật lí lớp 10 THPT ban cơ bản. 2. Tổ chức cho học sinh tự học ở nhà nhằm phát huy tính tích cực, tự lực học tập của học sinh. 3. Kiểm tra, đánh giá kết quả của hoạt động tự học ở nhà; Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh; Đánh giá mức độ tích cực, tự lực của học sinh trong giờ học trên lớp. Từ đó so sánh mức độ tích cực, tự lực của học sinh khi có hướng dẫn tự học ở nhà với khi không có hướng dẫn tự học ở nhà. III. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
  6. Trong quá trình dạy học, nếu giáo viên tổ chức cho học sinh tự học ở nhà một cách phù hợp thì sẽ phát huy được tính tích cực, tự lực học tập của học sinh. IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về tính tích cực, tự lực học tập của học sinh. 2. Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc tổ chức cho học sinh tự học ở nhà. 3. Nghiên cứu nội dung chương “Các định luật bảo toàn” và các mục tiêu cần đạt được của học sinh khi học chương này. 4. Tìm hiểu thực trạng việc tự học ở nhà môn vật lí của học sinh trường THPT KrôngAna để phát hiện những khó khăn và nguyên nhân những khó khăn đó trong quá trình tự học ở nhà. 5. Xây dựng hệ thống phiếu học tập chương “Các định luật bảo toàn”, bao gồm phiếu học tập dùng cho việc chuẩn bị bài mới, phiếu học tập dùng cho việc vận dụng, củng cố bài cũ, phiếu học tập hướng dẫn làm bài tập vật lí, phiếu học tập hướng dẫn làm thí nghiệm vật lí, phiếu học tập hướng dẫn tìm hiểu ứng dụng của vật lí trong thực tiễn. 6. Soạn thảo tiến trình dạy học 5 bài của chương “Các định luật bảo toàn” theo hướng phù hợp với quá trình tổ chức tự học ở nhà. 7. Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở trường THPT nhằm xác định mức độ phù hợp, đánh giá tính khả thi và hiệu quả của việc tổ chức cho học sinh tự học ở nhà. Rút kinh nghiệm để việc tổ chức tự học có hiệu quả cao hơn. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Nghiên cứu lí luận - Nghiên cứu cơ sở lí luận về tính tích cực, tự lực học tập của học sinh. - Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc tổ chức cho học sinh tự học ở nhà. - Nghiên cứu chương trình, nội dung SGK, sách giáo viên và các tài liệu liên quan đến chương “Các định luật bảo toàn”. 2. Điều tra và khảo sát - Tìm hiểu thực tế việc học bài ở nhà của học sinh thông qua dự giờ, trao đổi với giáo viên và học sinh trường THPT, lập phiếu điều tra khảo sát. Phân tích kết quả nhằm đánh giá sơ bộ tình hình tự học ở nhà của học sinh. - Quan sát việc học của học sinh ở trên lớp, lập bảng thống kê về các biểu hiện của tính tích cực, tự lực của học sinh. Phân tích kết quả nhằm đánh giá hiệu quả của việc tổ chức cho học sinh tự học ở nhà đối với việc phát huy tính tích cực, tự lực học tập của học sinh.
  7. 3. Thực nghiệm sư phạm Tổ chức cho học sinh tự học ở nhà theo kế hoạch đã vạch ra, so sánh kết quả giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng nhằm khẳng định tính khả thi của việc phát huy tính tích cực, tự lực học tập thông qua việc hướng dẫn học sinh tự học ở nhà. Đưa ra kết luận và kiến nghị. VI. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 1. Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 10 THPT trong quá trình học chương “Các định luật bảo toàn”. 2. Đối tượng nghiên cứu - Quá trình dạy – học vật lí ở trên lớp chương “Các định luật bảo toàn”. - Quá trình tự học vật lí ở nhà của học sinh chương “Các định luật bảo toàn”. VII. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Nghiên cứu việc tổ chức tự học ở nhà và thực nghiệm trên đối tượng học sinh lớp 10 ban cơ bản trường THPT KrôngAna - huyện KrôngAna - tỉnh ĐăkLăk.
  8. Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC TỔ CHỨC TỰ HỌC Ở NHÀ NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ LỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH 1.1. Phát huy tính tích cực học tập của học sinh 1.1.1. Khái niệm tính tích cực học tập - Tính tích cực Theo tác giả Thái Duy Tuyên, “Tính tích cực là khái niệm biểu thị sự nỗ lực của chủ thể khi tương tác với đối tượng. Tính tích cực cũng là khái niệm biểu thị cường độ vận động của chủ thể khi thực hiện một nhiệm vụ, giải quyết một vấn đề nào đấy”. [59, tr.463]. Theo tác giả Trần Bá Hoành, “Tính tích cực của con người biểu hiện trong hoạt động. Tính tích cực của trẻ biểu hiện trong những hoạt động khác nhau: học tập, lao động, thể dục thể thao, vui chơi giải trí,…trong đó học tập là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học đường”. [18, tr.46]. - Tính tích cực học tập Tính tích cực học tập của học sinh là một hiện tượng sư phạm biểu hiện ở sự gắng sức cao về nhiều mặt trong hoạt động học tập của trẻ. Học tập là một trường hợp riêng của sự nhận thức, “một sự nhận thức đã được làm cho dễ dàng đi, và được thực hiện dưới sự chỉ đạo của giáo viên”. Vì vậy, tính tích cực học tập thực chất là tính tích cực nhận thức. Có nhiều cách định nghĩa về tính tích cực nhận thức. Tính tích cực nhận thức biểu thị sự nỗ lực của chủ thể khi tương tác với đối tượng trong quá trình học tập, nghiên cứu; thể hiện ở sự nỗ lực hoạt động trí tuệ, sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lí (như hứng thú, chú ý, ý chí,…) nhằm đạt được mục đích đặt ra với chất lượng cao. [58]. Tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động của học sinh đặc trưng ở khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức. [25]. Tính tích cực nhận thức được hiểu là “thái độ cải tạo của chủ thể đối với khách thể thông qua sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lí nhằm giải quyết những vấn đề học tập nhận thức”. Dưới góc độ tâm lí học, hoạt động nhận thức được tiến hành trên cơ sở huy động các chức năng nhận thức, tình cảm và ý chí; trong đó chức năng nhận thức đóng vai trò chủ yếu, các chức năng tâm lí khác đóng vai trò hỗ trợ. Các yếu tố của chúng kết hợp với nhau một cách hữu cơ, tác động và thúc đẩy lẫn nhau tạo nên một cái gọi là mô hình tâm lí của hoạt động nhận thức. [47]. Cả ba khái niệm trên đều trực tiếp hoặc gián tiếp thừa nhận mô hình tâm lí của tính tích cực nhận thức bao gồm nhận thức, tình cảm và ý chí. Theo tác giả Ngô Đình Qua, định nghĩa tiêu biểu cho khái niệm tính tích cực nhận thức là định nghĩa thứ ba: Tính tích cực nhận thức được hiểu là thái độ cải tạo của chủ thể đối với khách thể thông qua sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lí nhằm giải quyết những vấn đề học tập nhận thức. Các định nghĩa khác góp phần mở rộng nội hàm của khái niệm. - Các mức độ của tính tích cực nhận thức
  9. + Tính tích cực tái hiện: Chủ yếu dựa vào trí nhớ để tái hiện những điều đã học được. + Tính tích cực sử dụng: Vận dụng kĩ năng giải thích, phân tích, tổng hợp… để giải quyết một vấn đề. + Tính tích cực sáng tạo: Tạo ra cái mới có giá trị. 1.1.2. Những biểu hiện của tính tích cực nhận thức Muốn phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh, trước hết phải nắm được những biểu hiện cụ thể của tính tích cực. Có thể nhận biết tính tích cực nhận thức của học sinh bằng các dấu hiệu sau: - Thứ nhất là những dấu hiệu bề ngoài qua thái độ, hành vi và hứng thú Nhu cầu, hứng thú nhận thức của học sinh được thể hiện bằng những dấu hiệu cụ thể sau: + Thích thú, chủ động tiếp xúc với đối tượng Thể hiện ở chỗ các em hay nêu những thắc mắc, đặt những câu hỏi nhằm hiểu biết nhiều hơn, sâu hơn về những đối tượng mà các em tiếp xúc. Những câu hỏi dạng: Đây là cái gì? Dùng để làm gì? Có thể…được không? Tại sao? Như thế nào? Từ đâu mà có?... Học tập thụ động, không hứng thú sẽ không có câu hỏi và cũng sẽ không có phản ứng nếu câu hỏi không được trả lời. + Chú ý quan sát, chăm chú lắng nghe và theo dõi những gì thầy cô làm + Giơ tay phát biểu, nhiệt tình hưởng ứng, bổ sung ý kiến vào câu trả lời của bạn và thích tham gia vào các hoạt động. Vui sướng, hài lòng khi được người khác giải đáp những câu hỏi, những thắc mắc hoặc khi tự mình tìm ra câu trả lời đúng. Bực mình, thất vọng nếu trí tò mò không được thỏa mãn hoặc khi không thành công trong hoạt động học tập. Có thể cụ thể hóa dấu hiệu bên ngoài qua một số câu hỏi sau đây:  Các em có chú ý, tập trung tư tưởng học tập không?  Có hăng hái tham gia vào mọi hình thức của hoạt động học tập không? (Thể hiện ở chỗ giơ tay phát biểu ý kiến, ghi chép…).  Có đọc thêm, làm thêm các bài tập khác không?  Tốc độ học tập có nhanh không?  Có thường xuyên hỏi thầy cô, trao đổi với bạn bè, tích cực tham gia học nhóm, học tổ không?  Có hay lui tới thư viện, cửa hàng sách không?  Thân hình có gầy gò tiều tụy đi không? Sức khỏe có bị giảm sút không? Có thì giờ vui chơi giải trí không?
  10. Có thì giờ thăm hỏi bạn bè, bà con, tham gia các hoạt động xã hội không? - Thứ hai là những dấu hiệu bên trong như sự căng thẳng trí tuệ, sự nỗ lực hoạt động, sự phát triển của tư duy, ý chí và xúc cảm…Những dấu hiệu bên trong này cũng chỉ có thể phát hiện được qua những biểu hiện bên ngoài, nhưng phải tích lũy một lượng thông tin đủ lớn và phải qua một quá trình xử lí thông tin mới thấy được, cụ thể là: + Các em tích cực sử dụng các thao tác nhận thức, đặc biệt là các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa…vào việc giải quyết các nhiệm vụ nhận thức. + Tích cực vận dụng vốn kiến thức và kĩ năng đã tích lũy được vào việc giải quyết các tình huống và các bài tập khác nhau, đặc biệt là vào việc xử lí các tình huống mới. +Phát hiện nhanh chóng, chính xác những nội dung được quan sát. + Hiểu lời người khác và diễn đạt cho người khác hiểu ý của mình. + Có những biểu hiện của tính độc lập, sáng tạo trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ nhận thức như tự tin khi trả lời câu hỏi, có sáng kiến, tự tìm ra một vài cách giải quyết khác nhau cho các bài tập và tình huống, biết lựa chọn cách giải quyết hay nhất. + Có những biểu hiện của ý chí trong quá trình nhận thức, như sự nỗ lực, cố gắng vượt qua các tác động nhiễu bên ngoài và các khó khăn để thực hiện đến cùng những nhiệm vụ được giao, sự phản ứng khi có tín hiệu thông báo hết giờ. Có thể cụ thể hóa dấu hiệu bên trong qua các câu hỏi sau:  Có biểu hiện hứng thú, say mê, có hoài bão học tập không?  Có ý chí vượt khó khăn trong học tập không?  Có sự phát triển về năng lực phân tích, tổng hợp…năng lực tư duy nói chung không?  Có biểu hiện sự sáng tạo trong học tập không? - Thứ ba là kết quả học tập. Kết quả học tập là một dấu hiệu quan trọng và có tính chất khái quát của tính tích cực nhận thức. Chỉ tích cực học tập một cách thường xuyên, liên tục, tự giác mới có kết quả học tập tốt. Một số câu hỏi cụ thể hóa dấu hiệu này: + Có hoàn thành nhiệm vụ học tập được giao không? + Có ghi nhớ tốt những điều đã học không? + Có vận dụng được kiến thức đã học vào thực tế không? + Có phát triển tính năng động, sáng tạo không? + Kết quả kiểm tra, thi cử có cao không? Trên đây là những biểu hiện tính tích cực nhận thức của học sinh. Tuy nhiên mức độ tích cực của học sinh trong quá trình học tập không giống nhau. Giáo viên có thể phát hiện được điều đó nhờ
  11. dựa vào một số dấu hiệu như: Tự giác học tập hay bị bắt buộc bởi những tác động bên ngoài (gia đình, bạn bè, xã hội,…); Thực hiện nhiệm vụ của thầy giáo theo yêu cầu tối thiểu hay tối đa; Tích cực nhất thời hay thường xuyên, liên tục; Tích cực tăng lên hay giảm dần; Có kiên trì vượt khó hay không? Ta có thể lượng hóa mức độ tích cực của học sinh qua một số tiêu chí sau: - Mức độ hoạt động của học sinh trong giờ học (bốn mức độ) + Mức độ 1: Thụ động hoàn toàn (đơn thuần ghi chép). + Mức độ 2: Nhận biết không chủ định (giáo viên nói gì ghi đó, không phân biệt đúng - sai). + Mức độ 3: Nhận biết có chủ định (tiếp thu có chọn lọc, ghi theo ý riêng của mình). + Mức độ 4: Tích cực suy nghĩ, tìm tòi, tham gia giải quyết vấn đề (được lượng hóa bằng số % số học sinh phát biểu xây dựng bài…). - Sự tập trung chú ý của học sinh trong tiến trình bài học (bốn mức độ) + Mức độ 1: Hoàn toàn không chú ý (làm việc riêng, nói chuyện, không tập trung). + Mức độ 2: Chú ý giả tạo (ngồi nghiêm chỉnh nhưng đầu óc trống rỗng). + Mức độ 3: Chăm chú theo dõi, quan sát. + Mức độ 4: Tập trung chú ý cao độ (tập trung, hăng say phát biểu xây dựng bài…). - Hứng thú nhận thức của học sinh (bốn mức độ) + Mức độ 1: Không thích. + Mức độ 2: Bình thường (không biểu hiện thích hay không). + Mức độ 3: Thích. + Mức độ 4: Rất thích. - Kết quả học tập sau một giờ học, một quá trình dạy học. Có thể đo kết quả học tập bằng hai phương án: Đánh giá kết quả nhận thức dựa vào điểm số Đánh giá mức độ nắm vững kiến thức, kĩ năng (theo bốn mức độ) + Mức độ 1: Sự ghi nhớ (nhớ lại, tái hiện, nhận biết). + Mức độ 2: Hiểu bài (hiểu vấn đề, có thể trình bày lại các luận điểm của bài học bằng ngôn ngữ riêng của mình). + Mức độ 3: Có khả năng vận dụng (vận dụng tri thức vào các tình huống quen thuộc và không quen thuộc; giải quyết những vấn đề do thực tế đặt ra). + Mức độ 4: Sáng tạo (có cách giải quyết độc đáo, nghĩ ra những cách làm mới).[17], [47],[58], [59]. 1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến tính tích cực nhận thức
  12. Tính tích cực nhận thức của học sinh tuy nảy sinh trong quá trình học tập nhưng lại chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố và là hậu quả của nhiều nguyên nhân: có những nguyên nhân phát sinh lúc học tập, có những nguyên nhân được hình thành từ quá khứ, thậm chí từ lịch sử lâu dài của nhân cách. Nhìn chung, tính tích cực nhận thức phụ thuộc vào những nhân tố sau đây: - Bản thân học sinh, tính tích cực nhận thức phụ thuộc vào: + Đặc điểm hoạt động trí tuệ: tái hiện, sáng tạo… + Năng lực: hệ thống tri thức, kĩ năng, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo, sự trải nghiệm cuộc sống. + Tình trạng sức khỏe. + Trạng thái tâm lí: hứng thú, chú ý, nhu cầu, động cơ, ý chí, xúc cảm… + Phẩm chất: các giá trị đạo đức, thẩm mĩ, lòng yêu khoa học, tinh thần trách nhiệm… - Nhà trường + Chất lượng quá trình dạy học: Mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức kiểm tra đánh giá. + Quan hệ thầy trò. + Không khí đạo đức trong nhà trường. - Gia đình: Gia đình có ảnh hưởng cực kì quan trọng không những đến tính tích cực nhận thức mà còn đến nhân cách và toàn bộ cuộc đời các em. Trước hết là yếu tố di truyền. Tuy nhiên, di truyền không phải là yếu tố quyết định đến sự thành đạt của mỗi con người, mà nó có thể được cải tạo và bù đắp bằng những khả năng khác mà bản thân các em và gia đình có thể tạo ra. Tiếp theo là truyền thống gia đình. Truyền thống gia đình ảnh hưởng rất lớn đến các em thông qua tấm gương của bố mẹ và không khí đạo đức chung của gia đình. Gia đình cũng là cái nôi nuôi dưỡng bản sắc văn hóa dân tộc và nhờ đó mà ảnh hưởng đến các em. Việc tham gia trực tiếp giáo dục con cái, sự quan tâm theo dõi, động viên, nhắc nhở thường xuyên của bố mẹ có ý nghĩa vô cùng quan trọng và ảnh hưởng hết sức to lớn đối với tinh thần học tập, việc rèn luyện đạo đức và kết quả học tập của các em. - Xã hội: Xã hội hiện đại với đặc điểm là khoa học kĩ thuật phát triển nhanh và cạnh tranh quyết liệt ở quy mô toàn cầu, việc đào tạo những con người tích cực, năng động, sáng tạo đã trở thành chiến lược, là lẽ sống của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Vì vậy, nhà trường luôn phải thay đổi, cải cách quá trình giáo dục cho phù hợp với yêu cầu xã hội. Quy mô, mạng lưới cũng như các loại hình nhà trường…cũng luôn phải thay đổi cho phù hợp với nhu cầu học tập của người dân. Xã hội
  13. có trách nhiệm xác định mục tiêu, chương trình, nội dung dạy học giáo dục để đào tạo nên những công dân có trách nhiệm và hòa nhập tốt. Các tổ chức xã hội trong nhà trường như các nhóm bạn, đoàn thanh niên, tập thể lớp… là những động lực xã hội rất quan trọng của tính tích cực học tập. Như vậy, tính tích cực nhận thức của học sinh chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố. Nhưng nhà trường, đặc biệt là người thầy giáo khi đứng lớp giữ vai trò quan trọng nhất trong việc tích cực hóa hoạt động của học sinh. Nhà trường cần tổ chức phối hợp các nhân tố trên để phát huy tinh thần tích cực học tập của các em nhằm nâng cao hiệu quả học tập. Trong những nhân tố trên đây, có những nhân tố có thể hình thành ngay, nhưng có những nhân tố chỉ được hình thành qua một quá trình dài lâu, dưới ảnh hưởng của rất nhiều tác động. Vì thế việc tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh đòi hỏi một kế hoạch dài lâu và toàn diện khi phối hợp hoạt động của gia đình, nhà trường và xã hội. 1.1.4. Các biện pháp phát huy tính tích cực nhận thức Phát huy tính tích cực nhận thức là một vấn đề đã được quan tâm từ lâu. Từ thời cổ đại, các nhà sư phạm như Khổng Tử, Aristot,…đã từng nói đến tầm quan trọng to lớn của việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh và đã đề cập nhiều biện pháp phát huy tính tích cực nhận thức. J. A. Komenski, nhà sư phạm lỗi lạc của thế kỉ XVII đã đưa ra những biện pháp dạy học bắt học sinh phải tìm tòi, suy nghĩ để nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng. J. J Ruxo cũng cho rằng phải hướng học sinh tích cực tự giành kiến thức bằng cách tìm hiểu, khám phá và sáng tạo. A. Distecvec thì cho rằng người giáo viên tồi là người cung cấp cho học sinh chân lí, người giáo viên giỏi là người dạy cho họ cách tìm ra chân lí. K. D. Usinski nhấn mạnh tầm quan trọng của việc điều khiển, dẫn dắt học sinh của giáo viên. Trong thế kỉ XX, các nhà giáo dục Đông, Tây tìm kiếm con đường phát huy tính tích cực trong hoạt động dạy học phải kể đến B. P. Exipop, M. A. Danilov, M. N Scatkin, I. F. Khalamov, I. I. Samova, Okon, Skiner,… Ở Việt Nam, các nhà lí luận dạy học quan tâm nhiều đến tính tích cực nhận thức trong dạy học như GS. Hà Thế Ngữ, GS. Nguyễn Ngọc Quang, GS. Đặng Vũ Hoạt,… Gần đây, tư tưởng dạy học tích cực sáng tạo đã là một chủ trương quan trọng của Đảng, nhà nước và của ngành giáo dục nước ta, đã được giới thiệu rộng rãi trên các báo cáo và tạp chí khoa học chuyên ngành. Các nhà nghiên cứu đã tiếp cận vấn đề này dưới nhiều góc độ khác nhau: Nhận thức luận, điều khiển học, xã hội học, tâm lí học… Nhưng các thầy giáo thì quan tâm nhất là vấn đề nâng cao
  14. tính tích cực nhận thức trong giờ lên lớp và phần lớn các luận án tiến sĩ, các luận văn thạc sĩ đều hướng đến vấn đề này. Các biện pháp nhằm nâng cao tính tích cực nhận thức của học sinh rất đa dạng, có thể tóm tắt thành các nhóm sau: - Nhóm biện pháp cho các thầy giáo đứng lớp - Nhóm biện pháp phát huy tính tích cực nhận thức thông qua các hoạt động giáo dục - Nhóm biện pháp thông qua tác động của gia đình - Nhóm biện pháp do xã hội tác động Trong luận văn này, tôi đi sâu phân tích nhóm biện pháp cho các thầy giáo đứng lớp. Nhóm biện pháp này rất quan trọng vì nó tác động trực tiếp đến học sinh và về thời gian thì dạy học chiếm hơn 80% hoạt động của nhà trường. Nó rất phong phú, đa dạng bao gồm một số vấn đề sau: + Giác ngộ ý thức học tập, kích thích tinh thần trách nhiệm và hứng thú học tập của các em bằng cách nói lên ý nghĩa lí thuyết và thực tiễn, tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu. + Kích thích hứng thú qua nội dung: Đây là biện pháp mà các thầy giáo hay làm nhất. Tùy thế mạnh của từng môn học mà cách kích thích hứng thú sẽ khác nhau. Nhưng nhìn chung, muốn kích thích được hứng thú của học sinh thì nội dung phải mới và gắn liền với những kiến thức và kinh nghiệm mà các em đã có, gắn liền với cuộc sống hiện tại và sự phát triển tương lai của các em. Kiến thức phải có tính thực tiễn, gần gũi với sinh hoạt và suy nghĩ hàng ngày, phải thỏa mãn nhu cầu nhận thức và thực tiễn của các em. + Kích thích hứng thú qua phương pháp dạy học: Để tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh phải phối hợp nhiều phương pháp với nhau, những phương pháp có tác dụng tốt nhất trong việc tích cực hóa hoạt động nhận thức là: dạy học nêu vấn đề, thí nghiệm, thực hành, sử dụng các phương tiện hiện đại, thảo luận, tự học, trò chơi học tập… + Sử dụng các phương tiện dạy học, đặc biệt là những phương tiện kĩ thuật dạy học hiện đại. Đây là biện pháp hết sức quan trọng nhằm nâng cao tính tích cực của học sinh và giúp nhà trường đưa chất lượng dạy học lên một tầm cao mới. + Sử dụng các hình thức tổ chức dạy học khác nhau: Cá nhân, nhóm, tập thể lớp…; Làm việc trong vườn trường, xưởng trường, phòng thí nghiệm…, tổ chức tham quan, các hoạt động nội khóa, ngoại khóa đa dạng. Việc tổ chức cho các em xâm nhập thực tế, tham gia các hoạt động xã hội là hết sức quan trọng, có tác dụng rất tốt trong việc tạo nên những động lực học tập lành mạnh và tính tích cực học tập. Ngoài ra, có thể tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh qua nhiều biện pháp khác như: + Thầy giáo, bạn bè động viên, khen thưởng khi có thành tích học tập tốt.
  15. + Luyện tập dưới các hình thức khác nhau, vận dụng kiến thức vào thực tiễn các tình huống mới. + Kích thích tính tích cực qua thái độ, cách ứng xử giữa thầy giáo và học sinh. + Phát triển kinh nghiệm sống của học sinh trong học tập. + Kiểm tra, đánh giá có tác dụng rất quan trọng đến việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh. 1.2. Phát huy tính tự lực học tập của học sinh 1.2.1. Khái niệm và ý nghĩa của tính tự lực học tập - Tự lực học tập Theo từ điển tiếng việt, tự lực nghĩa là tự sức mình làm lấy, không dựa dẫm nhờ vả người khác. Như vậy có thể hiểu tự lực học tập nghĩa là tự sức mình học lấy, không dựa dẫm nhờ vả người khác. Cũng theo từ điển tiếng việt, tự học nghĩa là tự mình học lấy, không cần ai dạy. Với ý nghĩa như trên, theo từ điển tiếng việt, tự lực học tập chính là tự học. Theo tác giả Thái Duy Tuyên, tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo,…và kinh nghiệm lịch sử - xã hội loài người nói chung của chính bản thân người học.[57]. Theo tác giả Nguyễn Cảnh Toàn, tự học là tự mình dùng các giác quan để thu nhận thông tin rồi tự mình động não, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh cho được một lĩnh vực hiểu biết nào đó, một số kĩ năng nào đó...[61]. Theo tác giả Nguyễn Hiến Lê, tự học là không ai bắt buộc mà tự mình tìm tòi, học hỏi để hiểu biết thêm. Có thầy hay không, ta không cần biết. Người tự học hoàn toàn làm chủ mình, muốn học môn nào tùy ý, muốn học lúc nào cũng được: đó mới là điều kiện quan trọng.[28]. Các định nghĩa tuy có khác nhau về cách diễn đạt nhưng về nội dung cơ bản là giống nhau. Ta có thể hiểu theo cách định nghĩa của tác giả Thái Duy Tuyên: tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo,…và kinh nghiệm lịch sử - xã hội loài người nói chung của chính bản thân người học. - Các kiểu tự học Tác giả Thái Duy Tuyên cho rằng tự học gồm các kiểu sau: + Tự học dưới sự hướng dẫn của thầy như tự học của học sinh, sinh viên, thực tập sinh, nghiên cứu sinh… + Tự học không có sự hướng dẫn của thầy: trường hợp này thường liên quan đến những người đã trưởng thành, những nhà khoa học.
  16. + Tự học trong cuộc sống: thường gặp ở các nhà văn, các nhà văn hóa, các nhà kinh tế, các nhà chính trị xã hội…[59]. Khi hiểu từ “thầy” theo nghĩa rộng, tác giả Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng khi đã học thì bao giờ cũng có thầy. Bởi học là kế thừa vốn văn hóa, khoa học của nhân loại, vốn này được đúc kết trong sách giáo khoa, và phải nhiều thầy, thậm chí nhiều thế hệ thầy mới có thể viết được những sách giáo khoa đó. Khi đã có hệ thống sách giáo khoa thì việc học có thể diễn ra theo ba cách: + Có sách giáo khoa rồi người học tự đọc lấy mà hiểu, tự rút kinh nghiệm về tư duy, tự phê bình về tính cách (như thiếu kiên trì, thiếu tư tưởng tiến công, dễ thỏa mãn…). Đó là tự học ở mức cao. Tác giả sách giáo khoa, nếu là thầy giỏi thì có thể giúp nhiều không những cho việc tiếp thu kiến thức mà còn cho cả việc rèn luyện tư duy và tính cách. + Có sách giáo khoa và có thêm những ông thầy ở xa hướng dẫn tự học bằng tài liệu hoặc bằng các phương tiện thông tin viễn thông khác. Hướng dẫn tự học chủ yếu là hướng dẫn tư duy trong việc chiếm lĩnh kiến thức, hướng dẫn tự phê bình về tính cách trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức. Đó là tự học có hướng dẫn. + Có sách và có thầy giáp mặt một số tiết trong ngày, trong tuần. Bằng những hình thức thông tin trực tiếp không qua máy móc hoặc ít nhiều có sự hỗ trợ của máy móc đặt ngay trên lớp. Đó là học giáp mặt trên lớp và về nhà tự học có hướng dẫn.[53] - Tự học của học sinh ở trường phổ thông Tự học trong nhà trường phổ thông trong thực tế vẫn còn là một vấn đề mới, mặc dù giáo dục hiện đại đã đề cập đến hàng mấy thập kỉ nay. Mục đích tự học của học sinh thường là hoàn thành tốt những phần nào đó trong nhiệm vụ học tập của mình. Tự học của học sinh THPT luôn gắn liền với năng lực chủ động tích cực của từng học sinh. Học sinh phải huy động toàn bộ tư duy, sự chủ động, tính tự giác, lòng say mê để nghiên cứu tài liệu, tự mình tìm tòi những tài liệu có liên quan đến bài học để có sự so sánh, đối chiếu, tự mình vận dụng, chuyển hóa kiến thức bài học dưới sự định hướng và dẫn dắt của giáo viên. Tự học của học sinh mới dừng lại ở cấp độ thấp nhưng đây lại là cơ sở vô cùng quan trọng cho việc hình thành năng lực tự học, tự nghiên cứu thuần thục của một nhà khoa học sau này. Đối với học sinh, tự học, tự nghiên cứu dựa trên cơ sở của việc học và nắm vững hệ thống kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa và hệ thống phương pháp học, kĩ năng học, tiến tới có kĩ xảo và thói quen tự học, tự nghiên cứu. Vì vậy, ở đây, vai trò của giáo viên vô cùng cần thiết. Người thầy là người hướng dẫn tổ chức cho trò tự nghiên cứu, tìm ra kiến thức và tự thể hiện mình trong lớp học. Thầy cũng là trọng tài cố vấn, kết luận trong các cuộc tranh luận đối thoại (trò – trò, thầy – trò) để khẳng định kiến thức do trò tự tìm ra và cũng là người kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của trò. - Ý nghĩa của tự học
  17. Tự học là một trong những yếu tố quyết định chất lượng giáo dục. Chất lượng giáo dục của mọi nhà trường chính là chất lượng giáo dục học tập và rèn luyện của học sinh. Để tạo ra chất lượng này, cần có sự tham gia của nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là vấn đề tự học, tự giáo dục của học sinh. Người dạy dù cố gắng đến đâu nhưng người học không động não, không tự tìm tòi, suy nghĩ trong quá trình lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo thì kết quả dạy học không thể tốt được. Cũng như bất kì một người nào, học sinh không bao giờ nắm vững thật sự những kiến thức, nếu người ta đem đến cho các em dưới dạng đã “chuẩn bị sẵn”. L.N. Tolxtoi đã viết “Kiến thức chỉ thực sự là kiến thức khi nào nó là thành quả của những cố gắng của tư duy chứ không phải của trí nhớ”. A. Đixtervec viết: “Người giáo viên tồi cung cấp chân lý, còn người giáo viên tốt thì dạy người ta tìm ra chân lý”. + Tự học hình thành nên những con người năng động, sáng tạo. Tự học là quá trình học sinh vận động trí tuệ để chiếm lĩnh tri thức, tự mình luyện tập các thao tác, hành động để hình thành kĩ năng, kĩ xảo. Vì thế, tự học giúp người học tự tìm ra tri thức mới, cách thức hành động mới bằng chính sự nỗ lực của bản thân mình. + Tự học tạo nền xuất hiện các nhà nghiên cứu khoa học. Tự học và nghiên cứu khoa học đều hướng vào mục đích chung là phát hiện tri thức mới, cho dù tri thức mới do nhà khoa học và học sinh tìm ra có khác nhau về ý nghĩa (mới đối với cả nhân loại và mới đối với từng cá nhân). Phương pháp tự học rất gần gũi với phương pháp nghiên cứu khoa học. Do đó, quá trình học sinh tự học cũng chính là quá trình các em được tiếp xúc, làm quen với hoạt động nghiên cứu khoa học. + Tự học là một yêu cầu cấp thiết của việc đổi mới phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học hiện đang là vấn đề rất được quan tâm của tất cả các nhà trường. Định hướng cơ bản trong đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, lấy người học làm trung tâm. Để thực hiện được định hướng đó, đòi hỏi học sinh phải nghiên cứu trước bài học, đọc thêm các tài liệu có liên quan, đề xuất vấn đề,…Hàng loạt công việc độc lập trên chỉ có thể được giải quyết bằng con đường tự học.[37]. 1.2.2. Nội dung hoạt động tự lực học tập Để tự học có hiệu quả cần phải làm gì? Theo quy trình nào? Đó là những vấn đề, những câu hỏi đặt ra cho người tự học, cho các giáo viên là những người đang hướng dẫn học sinh tự học. Nội dung tự học phụ thuộc vào từng đối tượng cụ thể, nhưng ta có thể nêu lên những nội dung cơ bản, cần thiết cho mọi đối tượng như sau: - Chuẩn bị cho hoạt động tự học, gồm những bước cơ bản sau: + Xác định nhu cầu và động cơ, kích thích hứng thú học tập. Việc làm đầu tiên nhằm khởi phát hoạt động tự học là người học phải làm sao tự kích thích, động viên mình, làm cho mình tự cảm thấy cần thiết và hứng thú bắt tay vào việc học, qua việc xác
  18. định ý nghĩa quan trọng của vấn đề nghiên cứu, tinh thần trách nhiệm đối với công việc, qua cảm giác hứng thú đối với nội dung vấn đề và phương pháp làm việc. + Xác định mục đích và nhiệm vụ tự học Khi đã có động cơ và hứng thú thì người học phải trả lời câu hỏi học để làm gì? Học cái gì? Đối với đa số học sinh, sinh viên,…nói chung học tập là nhiệm vụ chính và thời gian làm việc tương đối tập trung, lại có sự hướng dẫn của giáo viên, nên việc xác định mục đích, nhiệm vụ học tập thường chỉ là việc cụ thể hóa những bài tập, nhiệm vụ mà giáo viên đã giao. Để việc tự học có hiệu quả, mục đích và nhiệm vụ tự học phải có tính chất thiết thực, vừa sức, có tính định hướng cao và cố gắng tập trung dứt điểm từng vấn đề trong thời kì nhất định. + Xây dựng kế hoạch Để việc học tập có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải chọn đúng trọng tâm công việc, phải xác định học cái gì là chính, là quan trọng nhất, có tác động trực tiếp đến mục đích. Bởi vì nội dung cần phải học thì nhiều, mà sức lực và thời gian thì có hạn, nếu việc học tập dàn trải, phân tán thì việc học sẽ không có hiệu quả. Điều này rất quan trọng nhưng trong thực tế lại ít được chú ý nên có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả tự học. Sau khi đã xác định được trọng tâm, phải sắp xếp công việc cho hợp lí về logic nội dung cũng như về thời gian. Điều đó sẽ giúp cho công việc được trôi chảy và tiết kiệm thời gian cũng như sức lực. - Tự lực nắm nội dung học vấn Đây là giai đoạn quan trọng nhất và chiếm nhiều thời gian nhất, là giai đoạn quyết định khối lượng kiến thức, kĩ năng tích lũy được cũng như sự phát triển của con người, nghĩa là quyết định sự thành công của tự học. Giai đoạn này gồm nhiều bước + Lựa chọn tài liệu và hình thức tự học như + Sách vở, báo chí, tranh ảnh, số liệu thống kê, kỉ yếu hội thảo, báo cáo tổng kết, các văn kiện,… + Nghiên cứu lí luận, dự giờ, tham gia hội thảo, seminar, đi thực tế,… Đây là bước đi ban đầu cần thiết, vì nếu không chọn được sách vở, tài liệu tốt thì việc tích lũy tài liệu sẽ hết sức chậm trễ và nhiều khi sai lệch. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều người không thấy hết tầm quan trọng của vấn đề này, thấy tài liệu nào cũng đọc, đọc không có hệ thống, làm lãng phí thời gian và chất lượng đọc thấp. + Tiếp cận thông tin Quá trình tự nhận thức thực sự được bắt đầu từ đây và thường diễn ra dưới các dạng chủ yếu sau: đọc sách; nghe giảng; seminar, hội thảo; làm thí nghiệm; tham quan, điều tra, khảo sát thực tiễn,… Đối với học sinh thì nghe giảng là dạng thường được sử dụng nhất, nhưng nghe giảng ở đây cũng phải tiến hành theo tinh thần chủ động, độc lập.
  19. + Xử lí thông tin Thông tin đã được tiếp nhận cần phải có sự gia công, xử lí mới có thể sử dụng được. Việc xử lí có nhiều giai đoạn, những giai đoạn đầu thường tập trung vào việc làm cho thông tin gọn lại và có hệ thống để dễ lưu giữ, bao gồm các khâu: tóm tắt; xây dựng sơ đồ graph; phân loại. Tiếp đó có thể: phân tích – tổng hợp; so sánh; trừu tượng hóa – khái quát hóa;…để bước đầu đề xuất cái mới. + Vận dụng thông tin để giải quyết vấn đề: đây là giai đoạn khó khăn nhất của quá trình tự học. Các vấn đề thường gặp đối với người học là: làm bài tập; làm thí nghiệm; viết báo cáo; xử lí các tình huống;… Điều đáng lưu ý là nhiều lúc người học đã tập hợp được một khối lượng thông tin khá lớn, nhưng vẫn không giải quyết được vấn đề. Trong trường hợp này nên chú ý:  Phạm vi giải quyết vấn đề nên vừa phải, không quá rộng để có thể tập trung đào sâu vào một số vấn đề nhằm phát hiện ra cái mới.  Lựa chọn đúng những vấn đề then chốt, nhằm giải quyết được những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu đang cản trở sự phát triển của hệ thống cần nghiên cứu.  Thay đổi các yếu tố tạo nên hệ thống cũng là một biện pháp để giải quyết vấn đề.  Thay đổi mối liên hệ giữa các yếu tố. + Phổ biến thông tin Các kết quả học tập, nghiên cứu cần được phổ biến để mở rộng tác dụng xã hội của nó. Các hình thức phổ biến thông dụng hiện nay là: qua sách, báo; qua các seminar, hội thảo, báo cáo khoa học; qua phim ảnh; qua phát thanh và vô tuyến truyền hình; qua mạng Internet. - Kiểm tra và đánh giá Kết quả tự học phải được kiểm tra và đánh giá. Tự kiểm tra và đánh giá thế nào cho có hiệu quả cũng là một loại vấn đề đặt ra cho công tác tự học.[57],[59]. 1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tự lực học tập Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học của người học. Phải điều khiển, phối hợp những nhân tố ấy trong quá trình tổ chức tự học mới đạt được chất lượng và hiệu quả mong muốn. Sau đây là những nhân tố chính: - Bản thân người học: động lực (động cơ, nhu cầu) học tập; tố chất, năng khiếu bẩm sinh; trình độ lí luận và sự trải nghiệm thực tiễn; kĩ năng tự học; phẩm chất, ý chí, xúc cảm;… Để có thể tự học tốt, cần có sự say mê học tập, chủ động, tự giác, tích cực trong việc đọc sách giáo khoa, tìm ra kiến thức bài học. Tìm tòi tài liệu có liên quan đến bài học, sau đó đọc, ghi chép, kết hợp trao đổi cùng bạn bè. So sánh, đối chiếu giữa kiến thức trong sách giáo khoa và tài liệu tham khảo để rút ra kiến thức tổng hợp, khái quát nhất. Dựa trên những kết luận của giáo viên, tự kiểm
  20. tra, đánh giá, tự điều chỉnh để hoàn thiện kiến thức và biết ứng dụng vào từng tình huống cụ thể; rút ra được kinh nghiệm về cách học tự học. - Giáo viên, cha mẹ, bạn bè và xã hội: Giáo viên ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng tới quá trình tự học qua nội dung, phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học. Ngoài ra, thái độ, mối quan hệ giáo viên -học sinh sẽ có ảnh hưởng nhiều đến chất lượng dạy học nói chung cũng như chất lượng tự học. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh tự đọc sách giáo khoa và tài liệu học tập (từ địa chỉ tài liệu đến cách đọc, cách ghi chép,…). Hướng dẫn học sinh tự nắm bắt tri thức bằng cách đưa ra được những tình huống học tập có vấn đề, kích thích hứng thú học tập để học sinh có điều kiện tự thể hiện mình, nhằm phát triển tư duy sáng tạo, tính chủ động và lòng say mê học tập ở các em. Giáo viên là người tổ chức, vừa là trọng tài, vừa là người điều chỉnh kiến thức mà học sinh thu nhận được, nhằm cung cấp cho học sinh hệ thống kiến thức chuẩn mực mang tính bao quát, tổng hợp. Cha mẹ, anh em trong gia đình, họ hàng,…là nguồn động viên tinh thần quý giá và liên tục, đồng thời cũng là nơi kiểm tra, đánh giá chặt chẽ và nghiêm khắc, là nguồn cung cấp tài chính và phương tiện,…cho người học. Bạn bè, nhất là các nhóm nhỏ có tác dụng rất quan trọng trong việc trao đổi, tranh luận, giúp đỡ nhau trong học tập nhằm vượt qua những khó khăn, làm nảy nở các tư tưởng khoa học mới, phát triển lòng yêu khoa học và củng cố niềm tin ở bản thân và cộng đồng. - Các điều kiện vật chất và tinh thần như: sách vở, thời gian, tài chính, môi trường đạo đức lành mạnh của gia đình, nhà trường và xã hội là những nhân tố rất quan trọng làm nền cho sự phát triển nhân cách nói chung. Nhà trường cần tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh tự học tốt bằng cách trang bị cho họ tài liệu học tập đầy đủ thông qua thư viện học tập hoặc máy tính nối mạng, hoặc soạn thảo những trang web riêng cho từng môn học. Tổ chức những hoạt động ngoại khóa phong phú gắn với những chủ đề học tập để giáo viên, học sinh có điều kiện trao đổi, tranh luận, phát huy tối đa tính năng động, chủ động ở học sinh, kích thích hứng thú học tập ở cả học sinh và giáo viên. Tất cả những nhân tố trên cần được xem xét dưới một dạng tổng thể khi giải quyết vấn đề tự học và phải phát hiện kịp thời những lỗ hổng, những điểm yếu để bổ sung, khắc phục, nhằm tạo ra một sự phát triển hài hòa, cân đối. Đồng thời phải tìm được điểm chính yếu nhằm tạo ra động lực để thúc đẩy quá trình tự học.[57], [59], [61]. 1.2.4. Kĩ năng tự học môn vật lí và hình thành kĩ năng tự học môn vật lí cho học sinh - Kĩ năng tự học môn vật lí Kĩ năng tự học môn vật lí là khả năng học sinh tiến hành hoạt động tự học theo những mục đích, yêu cầu nhất định, hướng vào việc giải quyết các nhiệm vụ học tập khác nhau mà môn học vật lí đề ra.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2