ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

PHẠM THỊ THU HẰNG

ĐỀ TÀI GIAO DUYÊN TRONG HÁT ĐÚM

PHỤC LỄ - THỦY NGUYÊN – HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên – 2017

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

PHẠM THỊ THU HẰNG

ĐỀ TÀI GIAO DUYÊN TRONG HÁT ĐÚM

PHỤC LỄ - THỦY NGUYÊN – HẢI PHÒNG

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Huế

Thái Nguyên – 2017

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều

trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, 15 tháng 6 năm 2017

Tác giả luận văn

Phạm Thị Thu Hằng

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn

Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn – Xã hội, Trường Đại học Khoa

học – Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp

đỡ trong suốt quá trình học tập.

Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng

dẫn PGS.TS Nguyễn Thị Huế đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt

thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp

đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên,15 tháng 6 năm 2017

Tác giả luận văn

Phạm Thị Thu Hằng

iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ĐH : Đại học

GS: Giáo sư

Nxb: Nhà xuất bản

KHXH: Khoa học xã hội

TS : Tiến sĩ

TSKH: Tiến sĩ khoa học

TLTK: Tài liệu tham khảo

iv

LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................................i

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................. ii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................... iii

MỤC LỤC ......................................................................................................................iv

A. PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................................... 1

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ..................................................................................... 2

3. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................................... 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. .............................................................................. 3

4.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................. 3

5. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 4

5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................... 4

6. Đóng góp của luận văn ................................................................................................ 5

7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................................. 5

B. PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................... 6

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ HÁT ĐÚM PHỤC LỄ, THỦY NGUYÊN, HẢI PHÒNG ........................................................................................................................... 6

1.1. Khái niệm hát giao duyên, đề tài hát giao duyên và các loại hình hát giao duyên ........... 6

1.1.1. Khái niệm ............................................................................................................... 6

1.1.2. Các loại hình hát giao duyên................................................................................. 7

Hát Đúm là một loại hình thuộc dân ca giao duyên, phổ biến ở Bắc Bộ... ..................... 7

1.2. Hát Đúm Bắc Bộ và hát Đúm Phục Lễ, Hải Phòng ............................................................ 8

1.2.1. Hát Đúm Bắc Bộ .................................................................................................... 8

1.2.2. Hát Đúm Phục Lễ .................................................................................................. 9

1.3. Nguồn gốc, sự hình thành và phát triển của hát Đúm Phục Lễ, Thủy Nguyên, Hải Phòng ......................................................................................................................................... 10

1.3.1. Nguồn gốc, sự hình thành .................................................................................... 10

1.3.2. Quá trình phát triển ............................................................................................. 13

1.4. Môi trường tự nhiên, văn hóa xã hội xã Phục Lễ và môi trường diễn xướng trong mối quan hệ với Hát Đúm ............................................................................................................... 14

1.4.1. Môi trường tự nhiên............................................................................................. 14

1.4.2. Môi trường văn hóa xã hội .................................................................................. 15

1.4.3. Môi trường diễn xướng hát Đúm ........................................................................ 17

1.5. Hát Đúm Phục Lễ - Lễ hội khai xuân , Lễ hội Mở mặt ................................................ 18

v

1.5.1. Giới thiệu tục “Mở mặt” ..................................................................................... 18

1.5.2. Giới thiệu lễ hội ................................................................................................... 21

* Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................... 22

Chương 2: HÌNH THỨC DIỄN XƯỚNG GIAO DUYÊN CỦA HÁT ĐÚM PHỤC LỄ ....................................................................................................................................... 24

2.1. Hình thức tạo “ Đúm” trong hát Đúm Phục Lễ ................................................................. 24

2.1.1. Cách thức tổ chức hát . ........................................................................................ 24

2.1.2. Thể lệ hát ............................................................................................................. 26

2.1.3. Trang phục hát .................................................................................................... 26

2.1.4. Các bước hát........................................................................................................ 27

2.2. Lề lối diễn xướng của hát Đúm Phục Lễ ............................................................................ 35

2.2.1. Diễn xướng theo các chặng ................................................................................. 35

2.2.2. Diễn xướng theo hình thức hát đối đáp .............................................................. 37

2.2.3. Phương thức ứng tác trong quá trình diễn xướng ............................................... 38

2.3. Hình thức diễn xướng trong hát Đúm Phục Lễ ngày nay. ................................................ 39

2.3.1. Về hình thức tạo “Đúm” ..................................................................................... 39

2.3.2. Lề lối diễn xướng ................................................................................................. 40

* Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................... 42

Chương 3: NỘI DUNG GIAO DUYÊN CỦA HÁT ĐÚM PHỤC LỄ ......................... 42

3.1. Khát vọng tình yêu trong buổi đầu gặp gỡ giao duyên ..................................................... 43

3.1.1. Những cung bậc cảm xúc trong buổi đầu gặp gỡ ............................................... 43

3.1.2. Lời chào bắt duyên .............................................................................................. 45

3.1.3. Lời mời xe kết tình thắm duyên nồng .................................................................. 47

3.2. Những cung bậc tình cảm trong tình yêu đôi lứa ............................................................... 52

3.2.1. Bày tỏ tình cảm trai gái qua hát huê tình ............................................................ 52

3.2.2. Trai gái thử tài ứng đối qua hát đố, hát họa. ...................................................... 63

3.2.3 Mơ ước một cuộc sống lứa đôi hạnh phúc qua, hát cưới, hát sắm ...................... 66

3.2.4. Nỗi niềm tâm sự qua hát lính, hát thư ................................................................ 68

3.2.5. Bài ca tình yêu in dấu ấn vùng đất, nghề nghiệp, giai đoạn lịch sử ................... 73

3.2.6. Tình yêu quê hương, đất nước ............................................................................. 75

3.3. Trai gái chia tay nhau bịn rịn, quyến luyến ( Hát ra về ) ................................................. 77

* Tiểu kết chương 3 ....................................................................................................... 80

Chương 4: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN ĐỀ TÀI GIAO DUYÊN ................................ 80

VÀ BẢN SẮC, GIÁ TRỊ CỦA HÁT ĐÚM PHỤC LỄ ................................................ 80

4.1. Nghệ thuật thể hiện đề tài giao duyên của hát Đúm Phục Lễ ........................................... 80

vi

4.1.1. Một số yếu tố thi pháp nghệ thuật thể hiện đề tài giao duyên của hát Đúm Phục Lễ ............................................................................................................................ 81

4.1.2. Các thủ pháp nghệ thuật trong hát Đúm giao duyên .......................................... 97

4.2. Bản sắc, giá trị của hát Đúm Phục Lễ ............................................................................... 109

4.2.1. Bản sắc, giá trị của hát Đúm Phục Lễ .............................................................. 109

4.2.2. Thực trạng và giải pháp bảo tồn hát Đúm Phục Lễ hiện nay .......................... 110

* Tiểu kết chương 4 ..................................................................................................... 113

KẾT LUẬN ................................................................................................................. 114

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 116

PHỤ LỤC .................................................................................................................... 120

1

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1 Muốn ổn định và phát triển kinh tế, văn hóa lâu dài và vững chắc, các nước

không còn con đường nào khác là hội nhập kinh tế và văn hóa. Bên cạnh việc hội nhập

kinh tế, tiến trình hội nhập văn hóa là một tất yếu khách quan. Bên cạnh chiến lược phát

triển kinh tế với phương châm tích cực hội nhập quốc tế, chúng ta cũng có chiến lược

phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc bởi lẽ văn hóa là hồn cốt dân tộc.

Nhắc đến hát Đúm Hải Phòng, mấy ai không biết hát Đúm Phục Lễ! Cái tên hát

Đúm Phục Lễ (Thủy Nguyên - Hải Phòng) được nhiều người biết đến, nó đã trở thành

một “đặc sản” văn hóa dân gian truyền thống của Hải Phòng. Đây là một loại hình dân

ca giao duyên cổ của người Việt. Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử , dấu

ấn địa phương đã in đậm trong những lời ca, làn điệu, hình thức hát đối đáp giao duyên.

Chính điều này đã tạo nên ở hát Đúm Phục Lễ

(Thủy Nguyên - Hải Phòng ) nói riêng và hát Đúm ở Bắc Bộ nói chung nét sinh hoạt

văn hóa dân gian vô cùng đặc sắc. Năm 1989, tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hóa

của Liên hiệp quốc Unesco đề nghị tặng danh hiệu “Báu vật sống” (Living Human

Treasures) cho các nghệ nhân hát đúm tại Thủy Nguyên, Hải Phòng [33].

Hát Đúm Phục Lễ - Thủy Nguyên nói riêng và hát Đúm Hải Phòng nói chung là

một sinh hoạt văn hóa dân gian địa phương vô cùng độc đáo. Hiện nay do tác động của

nền kinh tế thị trường, trong thời đại mà toàn cầu hóa được nhìn nhận như một tất yếu

của sự phát triển xã hội loài người; cùng với sự phát triển của những loại hình văn hóa

giải trí hiện đại đã ít nhiều khiến văn hóa dân gian mất dần môi trường “sống”.

Tuy nhiên với những gì còn lưu giữ được cho tới thời điểm hiện tại, chúng ta có

thể khẳng định hát Đúm với làn điệu dân ca cổ là một sinh hoạt văn hóa dân gian mang

nét riêng vô cùng đặc sắc tiêu biểu, là “viên ngọc quý” mang giá trị văn hóa phi vật thể

tiềm ẩn trong đời sống dân gian của người dân miền biển Hải Phòng.

Chọn vấn đề nghiên cứu về “Đề tài giao duyên trong hát Đúm Phục Lễ - Thủy

nguyên- Hải Phòng”, chúng tôi muốn góp thêm một tiếng nói trong việc giữ gìn những

giá trị văn hóa dân gian đang dần bị mai một.

1.2 Qua thực tế tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu về Hát Đúm Phục

Lễ ,Thủy Nguyên, Hải Phòng nói riêng và Hát Đúm Hải Phòng nói chung đã góp phần

2

không nhỏ vào việc bảo tồn, lưu giữ những giá trị văn hóa phi vật thể của địa phương,

của dân tộc.

Xuất phát từ tính cấp thiết về mă ̣t lý luận và thực tiễn nói trên, chúng tôi chọn: “

Đề tài giao duyên trong Hát Đúm Phục Lễ, Thủy Nguyên, Hải Phòng” làm đề tài luận

văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam.

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Hát Đúm lưu giữ dấu ấn làn điệu giao duyên cổ của người Việt đã được ghi nhận

bởi nhiều công trình nghiên cứu từng bước được mở rộng và chuyên sâu, nghiên cứu

quy mô như:

Cuốn “ Hát Đúm Hải Phòng” của tác giả Đinh Tiếp – NXB Hải Phòng, năm 1987

đã khái quát về loại hình dân ca miền biển trên cơ sở nghiên cứu khá công phu về nội dung,

nguồn gốc, quá trình phát triển và hình thức biểu hiện của một cuộc hát Đúm.

Cuốn “Văn hóa văn nghệ dân gian Hải Phòng” của Hội liên hiệp văn học nghệ

thuật thành phố - NXB Hải Phòng 2001, sách giới thiệu về hát Đúm Thủy Nguyên với

hình thức lối hát giao duyên giữa một bên nam, một bên nữ qua đó nghiên cứu những

nét nổi bật về hát Đúm.

Cuốn Hát Đúm Phả Lễ - Thủy Nguyên - Hải Phòng (2001) của đồng tác giả TSKH

Phạm Lê Hòa, TS Đỗ Lan Phương, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật xuất bản.

Cuốn “ Tìm hiểu hội mở mặt Thủy Nguyên - Hội Hát Đúm hải Phòng”- NXB Văn

hóa thông tin Hà Nội, 2003 của nhóm tác giả Giang thu, Trần Sản, Phạm Thị Huyền ,

đi sâu sưu tầm những bài Hát Đúm cụ thể ở tất cả các bước hát.

Cuốn Hát Đúm Phục Lễ - Thủy Nguyên- Hải Phòng của đồng tác giả Nguyễn

Ngọc Hải và Nguyễn Đỗ Hiệp - NXB Hải Phòng, năm 2006 , đi sâu tìm hiểu Hát Đúm

thông qua đặc điểm âm nhạc, thanh điệu, nhịp điệu, diễn xướng…

Cũng có nhiều công trình, luận án, luận văn của nhiều tác giả quan tâm và có cái

nhìn mới mẻ về loại hình dân ca hát Đúm Thủy Nguyên này. Cụ thể như Luận án tiến sĩ

văn hóa học Hát Đúm của người Việt ở Bắc Bộ (2012) của Nguyễn Đỗ Hiệp - Học viện

Khoa học xã hội Hà Nội; Hát Đúm của các làng vùng cửa sông Bạch Đằng: lịch sử,

văn hóa và di sản (2014) của Trần Đức Tùng, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,

Hà Nội; Hát Đúm của người Thổ ở Việt Nam của Trịnh Hữu Anh - Tạp chí Khoa học

xã hội Việt Nam, số 1(98) - 2016 …

3

Ngoài ra cũng có một số bài viết về hát Đúm Phục Lễ đăng trên một số báo, tạp

chí, trên các diễn đàn văn học nghệ thuật. Tiêu biểu là bài viết Hát Đúm Thủy Nguyên

- Hải Phòng xưa và nay (2014 ) của Nguyễn Thế Hùng đăng trên nội san Trường Đại

học sư phạm Nghệ thuật trung ương.

Những công trình kể trên đều có cái nhìn cụ thể về hát Đúm ở nhiều phương diện,

góc độ khác nhau, song chưa có công trình nào đề cập riêng đến “Đề tài giao duyên

trong hát Đúm Phục Lễ, Thủy nguyên, Hải Phòng”. Và chúng tôi lựa chọn đây là đề tài

luận văn Thạc sĩ của mình.

3. Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau:

- Dựng lên bức tranh tổng quan về Hát Đúm Phục Lễ, Thủy Nguyên, Hải Phòng

trong quá khứ để thấy được ý nghĩa cũng như sức sống của loại hình ca hát dân gian này.

- Nghiên cứu hình thức diễn xướng giao duyên, nội dung giao duyên trong Hát

Đúm ở địa phương xã Phục Lễ, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng nhằm chỉ ra

đặc điểm và bản chất giao duyên trong Hát Đúm Phục Lễ.

- Tìm hiểu hoạt động diễn xướng dân gian Hát Đúm nhằm khẳng định những giá

trị văn hoá phi vật thể cần được bảo tồn và phát triển.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

4.1. Đối tượng nghiên cứu :

“ Đề tài giao duyên trong hát Đúm Phục Lễ, Thủy Nguyên, Hải Phòng”, đối

tượng nghiên cứu của chúng tôi là hát Đúm tại xã Phục Lễ, Thủy Nguyên, Hải Phòng

gắn với nội dung và hình thức diễn xướng giao duyên. Ngoài ra chúng tôi còn xem xét,

tìm hiểu hát Đúm ở các địa phương khác của Hải Phòng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

4.1.1 Về phạm vi địa danh

- Địa bàn nghiên cứu là một số thôn hát Đúm ở xã Phục Lễ , chủ yếu là thôn Nam,

thôn Trung, thôn Đông, thôn Bấc, thôn Sỏ…

- Ngoài ra chúng tôi còn điền dã ở các xã Phả Lễ, Lập Lễ, Tam Hưng, Ngũ Lão

của huyện Thủy Nguyên.

4.1.2. Về phạm vi tư liệu

+ Những tư liệu về hát Đúm do Sở văn hóa, phòng văn hóa thanh phố, huyện,

xã đã sưu tầm được về hát Đúm Phục Lễ , Thủy Nguyên, Hải Phòng.

4

+ Những công trình nghiên cứu nổi bật về hát Đúm một cách đầy đủ và công

phu là cuốn: “ Hát Đúm Hải Phòng” do tác giả Đinh Tiếp chủ biên – NXB Hải Phòng

1987; cuốn “ Tìm hiểu hội mở mặt Thủy Nguyên - Hội Hát Đúm hải Phòng”- NXB Văn

hóa thông tin Hà Nội, 2003 của nhóm tác giả Giang Thu, Trần Sản, Phạm Thị Huyền;

cuốn“ Hát Đúm Phục Lễ - Thủy Nguyên- Hải Phòng” của đồng tác giả Nguyễn Ngọc

Hải và Nguyễn Đỗ Hiệp - NXB Hải Phòng, năm 2006 .

+ Tài liệu về hát Đúm ở địa phương Phục Lễ do nghệ nhân và nhân dân ở địa

phương cung cấp. Trong đó có cuốn Hát Đúm cổ truyền Phục Lễ- Thủy Nguyên- Hải

Phòng do Ban văn hóa xã Phục Lễ, Câu lạc bộ hát Đúm Phục Lễ biên soạn ( 2005),

Lưu hành nội bộ.

5. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Giới thiệu Hát Đúm Phục Lễ - một loại hình dân ca cổ đặc sắc của địa phương

Phục Lễ, Thủy Nguyên, Hải Phòng.

- Khảo sát và tìm hiểu hình thức diễn xướng giao duyên, nội dung giao duyên, các

biện pháp nghệ thuật trong Hát Đúm Phục Lễ.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Khi thực hiện luận văn:“ Đề tài giao duyên trong hát Đúm Phục Lễ, Thủy

- Phương pháp điền dã: Phương pháp điền dã nhằm giúp khảo sát, sưu tầm tư liệu,

Nguyên, Hải Phòng” chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:

xem xét môi trường diễn xướng, hình thức diễn xướng hát Đúm (tại một số thôn của xã

Phục Lễ và một số xã thuộc huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng). Phương pháp này giúp

chúng tôi tìm hiểu rõ đối tượng nghiên cứu là đề tài giao duyên trong hát Đúm tại xã

Phục Lễ, Thủy Nguyên, Hải Phòng gắn với nội dung và nghệ thuật, hình thức diễn xướng

giao duyên.

- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phương pháp này được áp dụng nhằm tiếp cận các

nghệ nhân, những người dân tham gia thực hành hát Đúm với các thành phần lứa tuổi

khác nhau, cán bộ làm công tác văn hóa ở địa phương … để sưu tầm, khai thác văn bản

lời ca.

- Phương pháp phân tích ngữ văn: Phương pháp chủ đạo của luận văn nhằm chỉ ra

đặc điểm của nội dung giao duyên và nghệ thuật thể hiện của văn bản lời ca hát Đúm.

5

- Phương pháp so sánh: Phương pháp này nhằm đối chiếu so sánh hát Đúm từ

truyền thống đến hiện đại, hát Đúm của Phục Lễ với các địa bàn lân cận của các xã thuộc

Thủy Nguyên và Hải Phòng.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Sử dụng đồng thời các phương pháp nghiên

cứu của các ngành như phương pháp văn hóa học, xã hội học, dân tộc học, thống kê, …

để tìm hiểu, khám phá các bình diện và các giá trị phản ánh của hát Đúm Phục Lễ.

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn về “Đề tài giao duyên trong hát Đúm Phục Lễ, Thủy Nguyên, Hải

Phòng”, có những đóng góp sau:

- Là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu hát Đúm Phục Lễ, Thủy Nguyên ,

Hải Phòng dưới góc độ chuyên ngành văn học dân gian.

- Đề tài nhằm tìm hiểu đối tượng là sinh hoạt hát Đúm Phục Lễ, một nét sinh hoạt

văn hóa độc đáo của địa phương xã Phục Lễ, Thủy Nguyên, Hải Phòng với mục đích

góp phần vào việc bảo tồn những giá trị văn hóa tinh thần phi vật thể của dân tộc đang

dần mai một trong cuộc sống hiện đại.

- Giới thiệu về hình thức diễn xướng giao duyên, cũng như nội dung giao duyên

trong hát Đúm Phục Lễ với những nét đặc trưng đặc sắc mang đậm tính địa phương.

- Khẳng định giá trị của hát Đúm và đề xuất hướng bảo tồn, phát triển của hát

- Kết quả nghiên cứu đóng góp mới cho sự phát triển chuyên ngành, đóng góp

Đúm hiện nay

mới phục vụ sản xuất, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đời sống của một địa bàn

văn hóa tiêu biểu: Phục Lễ, Thủy Nguyên, Hải Phòng.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, Tài liệu tham khảo, phần nội dung

gồm có các chương sau:

Chương 1: Khái quát về hát Đúm Phục Lễ, Thủy Nguyên, Hải Phòng

Chương 2: Hình thức diễn xướng giao duyên của hát Đúm Phục Lễ

Chương 3: Nội dung giao duyên của hát Đúm Phục Lễ

Chương 4: Nghệ thuật thể hiện đề tài giao duyên và bản sắc, giá trị của

hát Đúm Phục Lễ

6

B. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

TỔNG QUAN VỀ HÁT ĐÚM PHỤC LỄ, THỦY NGUYÊN, HẢI PHÒNG

1.1. Khái niệm hát giao duyên, đề tài hát giao duyên và các loại hình hát giao duyên

1.1.1. Khái niệm

1.1.1.1. Hát giao duyên

Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 1992) định nghĩa: Giao duyên là động

từ chỉ sự Trao đổi tình cảm giữa hai bên trai gái trong ngày hội truyền thống [53, tr.

394]. Đây là một hình thức sinh hoạt dân gian.

Hát ở đây là hát đối đáp, do các kiểu hát tập thể như ghẹo, ví, trống quân, quan

họ… mà hình thành. “Đối đáp là nói chuyện bằng thơ giữa đôi trai gái, hai họ, hai

phường…”[10, tr. 39]

“Trai gái gặp gỡ tìm hiểu nhau, thổ lộ tình cảm với nhau trong lao động, hội hè

đình đám, vui xuân. Họ có thể thổ lộ tình cảm với nhau bằng câu ví, bằng hình thức giao

duyên trong những cuộc hát đối đáp nam nữ” [32, tr.19] .

Từ những nhận định của các nhà nghiên cứu nói trên, chúng tôi có thể đưa ra một

cách hiểu chung nhất về hát giao duyên như sau: Hát đối đáp giao duyên giữa trai gái

là hình thức diễn xướng dân gian dựa trên những lời thơ dân gian được hình thành, có

nội dung diễn tả tình cảm nam nữ và sử dụng trong các cuộc hát giao duyên để trao

tình. Hát giao duyên là tiếng hát tình yêu trai gái.

1.1.1.2. Đề tài hát giao duyên

Theo Từ điển tiếng Việt của Viện khoa học và xã hội Việt nam, Viện ngôn ngữ học

(Hoàng Phê chủ biên, 1992) :“Đề tài là đối tượng để nghiên cứu hoặc miêu tả thể hiện

trong tác phẩm khoa học hoặc văn học, nghệ thuật” [53, tr.314].

Căn cứ vào khái niệm trên, nếu đề tài là đối tượng để nghiên cứu thì: Đề tài là một

hình thức tổ chức NCKH do một người hoặc một nhóm người thực hiện. Còn đề tài là

đối tượng miêu tả thể hiện trong tác phẩm văn học thì: Đề tài là thuật ngữ chỉ phạm vi

các sự kiện tạo nên cơ sở chất liệu đời sống của tác phẩm; là phương diện khách quan

trong nội dung tác phẩm, nó là sự nhận thức, cảm nhận của người sáng tác về phạm vị

hiện thực cụ thể mà tác giả lựa chọn và phản ánh trong tác phẩm.

7

Đối chiếu với các khái niệm đã nêu, thì theo chúng tôi:“Đề tài giao duyên trong

hát Đúm Phục Lễ” là hiện tượng giao duyên được thể hiện qua miêu tả bằng lời thơ

thông qua diễn xướng dân gian, có nội dung diễn tả tình cảm của trai gái Phục Lễ trong

các cuộc hát để trao tình, nguyện ước”.

1.1.2. Các loại hình hát giao duyên

Hát Đúm là một loại hình thuộc dân ca giao duyên, phổ biến ở Bắc Bộ...

Bên cạnh hát Đúm, còn nhiều thể loại hát giao duyên khác như hát Ghẹo, hát

Quan họ, hát Ví …

Hát Ghẹo là loại hát giao duyên với tục lệ kết bạn như trong hát Ghẹo (Phú Thọ)

và Quan Họ (Bắc Ninh) chỉ có thể thấy ở miền Bắc mà thôi.

Hát Quan họ có nguồn gốc ở Bắc Ninh, là lối hát giao duyên rất phong phú về

lời ca và âm nhạc.

Hát Trống Quân là hình thức sinh hoạt ca hát giao duyên rất phổ biến ở các tỉnh

đồng bằng sông Hồng và trung du và miền núi phía Bắc của Việt Nam…

Hát Ví Giặm phổ biến ở Trung du Bắc bộ và vùng Nghệ Tĩnh. Đây là một hình

thức hát giao duyên. Hát Ví Giặm là loại hát có thể dùng lúc làm việc, nghỉ ngơi hay tụ

họp.

Hát Xoan là hình thức hát thờ thần, nhưng trong lễ hội cũng có phần hát giao

duyên là hình thức để nam nữ hát đối đáp, hát giao duyên giữa đào Xoan và trai làng.

Hò là thể loại phổ biến cả nước, đặc biệt là miền Trung và miền Nam. Hò thuộc

loại hát giao duyên. Hò Sông Mã, Hò Mái Nhì, Hò Mái Đẩy trên sông Hương, Hò Giã

gạo. Trong Nam, hò rất phong phú và đa dạng: Hò Đồng Tháp, Hò Cần Thơ, hò Bạc

liêu, hò Gò công, hò lơ, hò cấy…

Lý là những bài hát giao duyên phổ biến ở miền Trung và miền Nam như Lý

chuồn chuồn, Lý ngựa ô, Lý con sáo...

Nhìn chung hát giao duyên vô cùng phong phú về thể loại, nội dung và cả hình

thức. Đây là hình thức sinh hoạt ca hát của trai gái nông thôn xưa và phổ biến ở nhiều

vùng, nhiều địa phương nước ta. Đề tài giao duyên được khai thác từ các loại hình hát

giao duyên, trong đó có hát Đúm Phục Lễ giúp cho trai gái có dịp giãi bày, thổ lộ tình

cảm...

8

1.2. Hát Đúm Bắc Bộ và hát Đúm Phục Lễ, Hải Phòng

1.2.1. Hát Đúm Bắc Bộ

Hát Đúm là một hình thức ca hát mang tính cộng đồng, cộng cảm, một nét văn

hóa đặc trưng của cư dân Bắc Bộ.

Trên phương diện ngữ nghĩa, Đại từ điển tiếng Việt giải nghĩa: “Đúm là sự tập

trung nhiều người một chỗ để vui chơi hát hò” [54, tr.27] và “Hát Đúm là lối hát dân

gian trong dịp hội hè đầu xuân ở miền Bắc, Việt Nam, do nhiều thanh niên trai gái tham

gia, thường ở dạng đối đáp.”[54, tr.784]. Một số nhà nghiên cứu văn hóa xã hội cho

rằng Đúm đồng nghĩa với cụm từ “đàn đúm” chỉ sự tập hợp, tập trung đông người vui

chơi.. Trong cuốn Non nước Đồ Sơn, tác giả Trịnh Cao Tưởng viết: “Đúm như nguyên

nghĩa của nó, là một tập hợp không có số lượng chính xác, ví như đúm mạ, đàn đúm…

“Đúm” có liên hệ gần gũi với các từ như: túm, tụm, cụm… cho nên người ta cũng có

khi gọi hát Đúm là “hát Túm” hay “hát Đám”. Như vậy, hát Đúm có nghĩa là từng đám,

từng cụm trai gái tập hợp nhau lại để hát giao duyên…”.[50, tr 43]

Trong cuốn Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam, hát Đúm được giải nghĩa: “Hát

Đúm là lối hát dân gian có nhiều người tham gia.” [37, tr.312]

Trong cuốn Địa chí Thủy Nguyên có ghi “ Hát đúm còn gọi là hát đám, được

giải nghĩa như sau: Một đám nam và một đám nữ, mỗi đám có từ hai ba người trở lên.

Đám này hát với đám kia. Còn “đúm có nghĩa đàn đúm. Như thế, “đúm” và “đám” có

cùng chung một nghĩa là chỉ một nhóm người. [25, tr.784]

Có nhiều cách giải thích về loại hình hát Đúm và nguồn gốc tên gọi “hát Đúm”,

song theo chúng tôi, cách định nghĩa của tác giả Nguyễn Đỗ Hiệp trong Hát Đúm của

người Việt ở Bắc Bộ đã giải thích một cách cụ thể, đầy đủ, rõ ràng hơn cả : “ Hát Đúm

là một loại hình dân ca đối đáp nam nữ có một làn điệu; thường hát trong lễ hội và sinh

hoạt văn hóa cộng đồng vào mùa xuân, mùa thu; lời ca là những thể thơ dân gian phổ

biến như lục bát, song thất lục bát; kết cấu của lời thơ có mối quan hệ mật thiết với giai

điệu âm nhạc; ở trung du, khi diễn xướng, người hát còn sử dụng quả Đúm để tung đi

ném lại cho nhau”[16, tr.10].

Đồng quan điểm với tác giả Nguyễn Đỗ Hiệp, chúng tôi xin đưa ra khái niệm về

hát Đúm dựa trên một số đặc điểm cơ bản của hát Đúm và đối tượng nghiên cứu như:

Hát Đúm là một loại hình hát đối đáp nam nữ giao duyên dựa trên những lời ca được

9

sáng tạo từ những thể thơ dân gian phổ biến như thể lục bát và song thất lục bát; thường

được hát trong lễ hội hoặc sinh hoạt văn hóa cộng đồng vào mùa xuân; có hình thức

diễn xướng“ Đúm” độc đáo và lối “ứng tác” hấp dẫn.

1.2.2. Hát Đúm Phục Lễ

Hát Đúm Phục Lễ còn được gọi là hát Nói, hát Mở mặt và là một loại hình dân

ca với những làn điệu đối đáp do nhiều người tham gia, được thực hiện phổ biến trong

những dịp hội hè đầu xuân tại Phục lễ Thủy Nguyên và một số địa phương khác lân cận

của Hải Phòng.

Theo Phạm Lê Hòa và Đỗ Lan Phương thì hát Đúm còn là hình thức hát giao

duyên và có sử dụng lối hát ví bằng thơ song thất lục bát hay lục bát để biểu cảm.

Về mặt lịch sử xuất hiện và lưu truyền, hát Đúm Phục Lễ là loại hình di sản văn

hóa phi vật thể độc đáo của tổng Phục xưa nói riêng và huyện Thủy Nguyên nói chung.

Trước đây (giai đoạn những năm trước Cách mạng tháng Tám - 1945), hội xuân hát

Đúm tổng Phục lễ là một trong những lễ hội đón xuân tiêu biểu nhất của huyện Thủy

Đường (tên gọi cũ của huyện Thủy Nguyên), thường được tổ chức trong 09 ngày (từ

mùng 02 tết đến hết mùng 10 tết nguyên đán).

Cùng với những thăng trầm của lịch sử, với ý thức trân trọng những giá trị của

văn hóa gốc, người dân các xã thuộc tổng Phục xưa vẫn duy trì tổ chức lễ hội vào những

ngày đầu xuân nhưng thời gian rút ngắn còn 4-5 ngày (từ 02 đến 06 tháng giêng âm

lịch).

Hiện nay không gian văn hóa hát Đúm không chỉ bó hẹp trong phạm vi tổng Phục

xưa mà còn mở rộng tới các (tổng) lân cận như thị trấn Minh Đức [tổng Dưỡng Động],

xã Ngũ Lão [tổng Kênh (Kinh), Kinh Triều] và đồng thời xuất hiện nhiều trong lễ hội

của một số xã trên địa bàn huyện như Tân Dương, Gia Đức, Thủy Đường.

Hát Đúm của người dân tổng Phục Lễ xuất hiện và phát triển thành những giá

trị văn hóa phi vật thể từ khá lâu đời. Trải từ đời này sang đời khác, hát Đúm được trau

chuốt gọt dũa, tích tụ trở thành những giá trị chân thiện mỹ, góp phần làm phong phú,

đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Hát Đúm Phục Lễ có nhiều hình thức, làn điệu nhưng

chủ yếu là lối hát đối đáp giữa nam và nữ. Nam nữ cảm mến nhau qua những điệu hát

say lòng mà nên duyên vợ chồng, bằng không thì cũng giãi bày tâm sự bầu bạn cho khỏi

phụ lòng nhau. Hát giao duyên trở thành “phương tiện” đánh tiếng gọi nhau, giao lưu,

10

tâm tình trao đổi kinh nghiệm làm ăn. Hát Đúm với những khúc hát giao duyên say đắm

nhất không thể thiếu trong lúc lao động, khi nghỉ ngơi và tự lúc nào những điệu hát giao

duyên của hát Đúm đã trở thành nhu cầu không thể thiếu của người dân miền biển Thủy

Nguyên- Hải Phòng. Đặc biệt, vào những ngày lễ tết, ngày hội lời ca điệu hát làm xao

xuyến lòng người. Say đắm như lời hát sau đây:

Chàng trai:

Duyên kết bạn mình ơi

Bây giờ kì ngộ tương phùng

Bõ công ao ước trông mong xa gần

Gái trai sống ở cõi trần

Lẽ nào bỏ phí cái xuân cho đành

Người thương ơi

Cô gái:

Duyên kết bạn mình ơi

Đêm qua gió mát trăng thanh

Nhớ ai em những năm canh thở dài

Ước gì có được những ngày

Được gần người ấy lòng này mới yên.

Người thương ơi

Hát Đúm Phục lễ có lời ca hết sức phong phú, đủ các cung bậc, có khi kín đáo

duyên dáng lại có cả mê đắm suồng sã, có cả thủy chung chân thành, lại có cả giận hờn

ghen tuông. Có khép nép, nhún nhường lại có cả đanh đá chua ngoa...

1.3. Nguồn gốc, sự hình thành và phát triển của hát Đúm Phục Lễ, Thủy Nguyên,

Hải Phòng

1.3.1. Nguồn gốc, sự hình thành

Thủy Nguyên - mảnh đất sản sinh lời ca hát Đúm độc đáo , với ba xã Phục Lễ,

Phả Lễ, Lập Lễ thuộc tổng Phục trước đây, được coi là cái nôi hát Đúm của người Việt

ở vùng ven biển Bắc Bộ.

Xã Phục Lễ, huyện Thủy Nguyên là địa bàn của quê hương hát Đúm, đã một

thời nổi tiếng của huyện Thủy Đường xưa . Một mảnh đất giàu truyền thống văn hóa

11

với nhiều di tích lịch sử văn hóa có giá trị như chùa Phục Lễ ( Kiến Linh tự), miếu Thành

Hoàng thuộc di tích thành phố và đền Bạch Đằng ( Đền Bến Đò).

Ở những vùng khác nhau, hát Đúm lại có nguồn gốc ra đời và quá trình phát

triển khác nhau. Trong cuốn Hát đúm Hải Phòng, tác giả Đinh Tiếp đã chia hát Đúm

thành ba vùng nhỏ có nguồn gốc và mức độ phát triển khác nhau. Vùng thứ nhất: gồm

các đảo Cát Bà, Cát Hải và một số làng ven biển. vùng này dân cư chủ yếu sống bằng

nghề chài lưới, cuộc sống của họ chỉ quanh năm gắn bó với sông nước. Họ là những

người dân tứ xứ, phiêu bạt đến đảo. Trong lao động cực nhọc vất vả, họ đã sáng tạo

những câu hò kéo lưới, những bài hát chèo đò, những bài ca nghề nghiệp. Do nội dung

trữ tình của lời ca phát triển nên dần chuyển sang hát đối đáp giữa nam và nữ . Cũng từ

đây những cuộc hát đối đáp giữa phường của làng này với phường của làng khác hoặc

giữa các phường trong một làng, một đảo được hình thành và trở thành hình thức đầu

tiên của hát Đúm; Vùng thứ hai chủ yếu là địa bàn huyện Kiến Thụy và Đồ Sơn. Phần

đông cư dân ở vùng này sống bằng nghề đánh cá và làm muối. Những ngày nắng ráo

được xem như “Hội làm ăn” của dân làng, họ đổ ra đồng làm muối. Trong những ngày

này, mọi người, nhất là trai gái có dịp tập trung, gần gũi nhau hơn, họ cất lên tiếng hát

lời ca để công việc lao động vơi bớt mệt nhọc. Còn những ngày nước kém hàng trăm

con thuyền từ ngoài khơi xa đổ về bến. Trên những bãi biển, kẻ phơi lưới. sửa chài,

người khâu buồm, vá lưới, ... hoặc dưới ánh trăng, trên một khoảng sân rộng, người xe

chỉ, vuốt đay, người bện thừng đan lưới. Họ vừa làm, vừa cất lên tiếng hát của lòng

mình. Lúc đầu, chỉ có các bà các chị, hát những bài hát, những câu dân ca mà họ thuộc

từ nhỏ, nhưng dần dần chẳng những lôi cuốn được nhiều người hát mà người ta còn sáng

tác bài hát như: "Bài ca xuất quân ra biển", " Bài vịnh Đồ Sơn" (đến nay những bài hát

này vẫn còn lưu lại). Bước đầu, từ những bài ca dao cổ, những bài ca nghề nghiệp, những

bài ca ngợi cảnh đẹp quê hương sau dần phát triển với hình thức hát đối đáp, giữa nam

và nữ hoàn chỉnh thành tiếng hát Đúm ngày nay. Như vậy từ cuộc sống lao động trên

đồng muối, trên bãi biển,... người dân lao động đã sáng tác ra lời ca hát Đúm của mình;

Vùng thứ ba: gồm địa bàn huyện Thuỷ Nguyên và An Hải nhưng chủ yếu là Thủy

Nguyên. Vùng này đất đai và con người phát triển sớm. Hầu hết dân cư đều làm ruộng

( Chỉ có một số xã như Phả Lễ, Lập Lễ,... có nghề đánh cá biển) và hát Đúm được sinh

ra tập trung chủ yếu ở xã Phục Lễ, Phả lễ, Lập (Thuỷ Nguyên). Phục Lễ - Phả Lễ chính

12

là quê hương của hát Đúm. Hát Đúm ở đây chẳng những giàu về Số lượng mà đề tài,

nội dung, tư tưởng cũng rất phong phú, đa dạng.

Ở Phục Lễ, giai đoạn trước 1917 có nghề dệt vải cổ truyền ( Nhưng nó khác với

nghề dệt vải của Nghệ Tĩnh và các vùng khác là không tổ chức thành phường mà riêng

lẻ từng nhà, không làm quanh năm mà làm theo mùa) [48, tr.389]. Tiếng hát ban đầu

của những cô gái dệt vải cất lên với những bài hát ru quen thuộc, với những câu ca dao

quen thuộc để tạo không khí làm việc vui hơn, có hiệu quả hơn. Hết mùa bông, các cô

thơ dệt lại trở thành thợ cấy, thợ cày, thợ gặt thì những tiếng hát quen thuộc ấy lại véo

von trên đồng. Tiếng hát trữ tình trong trẻo cất lên từ những giọng rất ấm, rất thanh của

các cô thiếu nữ đã có sức lay động tận chiều sâu tâm hồn mỗi người, đặc biệt là các

chàng thanh niên mới lớn. Họ cũng muốn hát muốn đối đáp, muốn thổ lộ tâm tình nên

đã tìm cách học câu hát, học cách hát. Từ đây tiếng hát của phụ nữ không còn là tiếng

hát đơn lẻ nữa, mà đã có sự hưởng ứng, sự đối đáp của các chàng trai. Những buổi hát

ví von, đối đáp nhau như vậy dần dần được gọi là "hát ví". Sau này những cuộc hát với

lối hát đối đáp nam nữ giao duyên đó được gọi là "hát Đúm" (nay vẫn còn một số ít

người gọi là hát Ví).

Theo người dân vùng ven biển Thủy Nguyên - Hải Phòng thì hát Đúm có xuất xứ

từ hát ví ở đồng bằng châu thổ sông Hồng, cách ngày nay khoảng bảy, tám trăm năm

(khoảng TK XIII- Thời nhà Trần). Ở đồng bằng châu thổ sông Hồng, hát Đúm trải rộng

trên vùng ven biển Quảng Yên ( Quảng Ninh); Thủy Nguyên, Cát Hải, Cát Bà, Hải An,

Đồ Sơn, Kiến Thụy ( Hải Phòng) và ở một số địa phương Nam Sách, Gia Lộc (Hải

Dương). nhưng có lẽ phải tới TK XVI ( thời nhà Mạc), sau khi chùa Kiến Linh được tạo

dựng ở xã Phục Lễ thì nó mới thực sự được tổ chức hát trong lễ hội chùa.

Qua nghiên cứu và tìm hiểu một số quan điểm đã đưa ra giả thiết nguồn gốc

của hát Đúm, chúng tôi khẳng định: Hát Đúm là một hình thức diễn xướng dân gian,

nảy sinh từ trong lao động sản xuất, chiến đấu của nhân dân lao động. Hát Đúm Phục

Lễ ra đời từ những câu hò, câu vè mọi người sáng tạo trong lúc lao động như dệt vải,

cấy, cày, gặt... hay khi nghỉ ngơi, thư giãn… Câu ca lời hát trong hát Đúm Phục Lễ

chính là những câu hát đối đáp giao duyên của các chàng trai, cô gái. Lời ca hát Đúm

cất lên chứa đựng tình yêu, khát vọng, mong ước về một cuộc sống no đủ, hạnh phúc

của trai gái nơi đây.

13

1.3.2. Quá trình phát triển

Cũng giống như nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian khác, hát Đúm cũng

trải qua những biến cố, thăng trầm. Nhìn chung giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng

Tám 1945, hát Đúm gần như vắng bóng do điều kiện xã hội lịch sử, đời sống sinh hoạt

của nhân dân...đặc biệt công cuộc chiến tranh chống Pháp kéo dài chín năm ... mọi nỗ

lực tập trung cho tiền tuyến nên hát Đúm không có cơ may phục hồi.

Theo Nguyễn Đỗ Hiệp, hát Đúm từng phát triển ở tiểu vùng đất Tổ trung du, ở

tiểu vùng Kinh Bắc, ở tiểu vùng Thăng Long Hà Nội, ở tiểu vùng Hải Đông nhưng từ

đầu thế kỉ XX cho đến nay đã không còn tồn tại trong đời sống văn hóa cộng đồng hoặc

đã mai một .

Ngay sau khi Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng ( 10/1954) hát Đúm được sưu

tầm , nghiên cứu, khẳng định giá trị của nó về lịch sử, văn hóa, về nhân văn, về nghệ

thuật. Các nhà nghiên cứu : Đinh Tiếp, Phạm Lê Hòa,...và hiều nhà nghiên cứu khác đã

đã tham gia vào công việc lưu giữ, bảo tồn...để thế hệ đi sau có thêm tư liệu phục hồi và

nghiên cứu ( các công trình đã giới thiệu ở phần lịch sử vấn đề)

Ở Phục Lễ hát Đúm đã từng được coi như một nghề [22, tr.352], hát Đúm được tổ chức

và trình diễn ở nhiều nơi. Tuy nhiên có một khoảng thời gian hát Đúm gần như vắng bóng

trong đời sống sinh hoạt văn hóa của quần chúng . Một trong những nguyên nhân cơ bản

là từ 1975, nhất là từ 1980 trở đi văn hóa phẩm của nước ngoài du nhập vào nước ta bằng

nhiều con đường, trong đó phải kể đến các loại âm nhạc ngoại lai cũng góp một phần đáng

kể làm xáo trộn việc xây dựng và đưa loại hình hát Đúm vào cuộc sống. Bên cạnh đó như

đã nêu ở Tính cấp thiết của đề tài trong Phần mở đầu luận văn - do sự tác động của quá

trình đô thị hóa như một tất yếu mà giới trẻ đang bị cuốn vào cơn lốc xoáy của dòng nhạc

thị trường và ngày một quay lưng lại với nhạc truyền thống.

Hiện nay, trong đời sống hiện đại, hát Đúm cũng đã thu hẹp dần và chỉ còn duy

nhất ở Thủy Nguyên - Hải Phòng. Hát Đúm được sản sinh ra và tập trung chủ yếu ở

vùng nông nghiệp. Phục Lễ là nơi còn giữ được truyền thống hát Đúm cho đến ngày

nay. Hát Đúm nơi đây chẳng những giàu về số lượng bài ca mà đề tài, nội dung tư tưởng

cũng vô cùng phong phú đa dạng.

Từ năm 1990 trở lại đây, bên cạnh công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước,

mục tiêu của Đảng ta qua các kì đại hội đều chú trọng, quan tâm phát triển và xây dựng

14

nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc với “Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân

tộc và của từng vùng, miền được kế thừa”

Năm 2001, trong chương trình “Dư địa chí” Đài truyền hình VTV3 đã có những

thước phim tư liệu về hát Đúm Thủy Nguyên gây được sự chú ý trong khán giả xem

truyền hình, khơi dậy được lòng yêu thích những làn điệu dân ca của dân tộc.

Nhiều năm gần đây, chính quyền địa phương các cấp cùng nhân dân huyện Thủy

Nguyên đã tập trung khôi phục và phát triển loại hình văn hóa này. Hát Đúm được xuất

bản thành đĩa phục vụ nhân dân trong vùng, khách thập phương và bà con Việt kiều quê

Thủy Nguyên đang sinh sống tại Anh, Ca-na-đa, Trung Quốc, Hàn Quốc… Ở huyện

Thủy Nguyên, hát Đúm không chỉ có ở tổng Phục Lễ mà còn có ở Ngũ Lão, Tràng Kênh,

Gia Đước, Thủy Đường, Phù Ninh, Kiền Bái.

Trên địa bàn huyện Thủy Nguyên bên cạnh những câu lạc bộ hát Đúm tiêu biểu

của các xã Phục Lễ, Phả Lễ, Lập Lễ, Tam Hưng, Ngũ Lão được tổ chức thường niên

vào hội xuân; nhiều câu lạc bộ hát Đúm của các xã khác đã hình thành và hoạt động có

hiệu quả như: Câu lạc bộ hát Đúm thị trấn Minh Đức, xã Tân Dương, Thủy Đường,

Trung Hà, Gia Đức...

1.4. Môi trường tự nhiên, văn hóa xã hội xã Phục Lễ và môi trường diễn xướng

trong mối quan hệ với Hát Đúm

1.4.1. Môi trường tự nhiên

Huyện Thủy Nguyên - mảnh đất giáp biển, nơi đây đã ghi dấu chiến thắng Bạch

Đằng đánh tan quân xâm lược phương Bắc; ẩn chứa trong đó nhiều dấu tích văn hóa từ

thủa khai thiên, lập địa.

Thủy Nguyên thuộc thành phố Hải Phòng: Đông là thành phố Quảng Yên và

huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh, ranh giới là sông Bạch Đằng: Nam là huyện Cát Hải,

các quận Hải An, Ngô Quyền, Hồng Bàng và huyện An Dương - ranh giới là cửa Nam

Triệu, sông Cấm; Tây là huyện Kinh Môn tỉnh Hải Dương - ranh giới là Sông Kinh

Thày; Bắc là các huyện Đông Triều, thành phố Uông Bí tỉnh Quảng Ninh; diện tích là

250 km2, dân số là 324.569 người trong đó nữ là 163.059 người (tính đến 1-4-2015), 37

đơn Vị hành chính. [25, tr.16]

Ngày nay, phát huy lợi thế của vùng ven đô giáp hải cảng, Thủy Nguyên có điều

kiện phát triển du lịch, thương mại và du lịch với nhiều thắng cảnh đẹp như: hồ Sông

15

Giá, hang Lương, hang Vua, khu vực núi Tràng Kênh… và nhiều công trình kiến trúc

độc đáo, đền thờ, miếu mạo đã được nhà nước công nhận và xếp hạng cùng với những

lễ hội truyền thống độc đáo đậm đà bản sắc dân tộc.

Theo Địa chí Thủy Nguyên: Xã Phục Lễ nằm ở cực Đông huyện Thủy Nguyên,

bên sông Bạch Đằng lịch sử, cách huyện lỵ 10 km, diện tích tự nhiên là 245,37 ha, trong

dó đất trồng trọt là 180,11ha, rừng phòng hộ ven sông là 38,51ha, đất nuôi trồng thủy

sản là 26,76 ha; dân số là 6.952 người (2014). Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945,

tổng Phục Lễ chia làm 2 xã Phục Hưng và Tam Tỉnh. Phục Hưng gồm các làng Phục

Lễ, Phả Lễ, Lập Lễ. Trong kháng chiến chống Pháp, Phục Hưng và Tam Tỉnh hợp nhất

thành Tam Hưng, đầu năm 1957, tách thành Tam Hưng, Phục lễ, Phả Lễ, Lập Lễ. [25,

tr. 1046]

Môi trường tự nhiên đó đã tạo cho vùng đất nơi đây một sắc diện riêng làm nên

sự độc đáo của Lễ hội hát Đúm gắn với địa danh Tổng Phục xưa.

1.4.2. Môi trường văn hóa xã hội

Về phương diện văn hóa, Thủy Nguyên được coi là vùng có bản sắc văn hóa vùng

miền nổi trội. Ngay từ thời tiền sử, những người Việt cổ đã xác lập văn hóa bản địa khá

sâu đậm. Điều đó được thể hiện qua các đồ trang sức bằng đá quý, các hoa văn trên đồ

gốm, đồ đồng Tràng Kênh – Việt Khê. Dòng chảy ấy tiếp tục kết tinh, phát triển, hình

thành hát đúm, ca trù, các phong tục, tập quán và các công trình kiến trúc - nghệ thuật

vẫn được bảo tồn đến ngày nay. [25, tr.16]

Văn hóa dân gian ở Thủy Nguyên mang đậm truyền thống văn hóa dân tộc, phong

phú, đa dạng và độc đáo với hát đúm, hội mở mặt, thi võ, thể thao… đáng chú ý nhất là

hội mở mặt ở Phục Lễ ,Phả Lễ, Lập Lễ … thường tổ chức vào từ ngày mùng 2 đến

mùng 6 tháng giêng âm lịch hằng năm. [22, tr 404]

“Tháng giêng hội Phục Thủy Nguyên

Mùa xuân hát ví cho nên hẹn hò”

Xã Phục Lễ xưa (Trước 1813) thuộc địa bàn tổng Phục Lễ, huyện Thủy Nguyên,

phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương, do vậy hội mở mặt và hát Đúm Phục Lễ không chỉ là

lễ hội của một địa phương mà còn là lễ hội chung của của cả tổng…

Về văn hóa cổ truyền, phong tục, tập quán, tín ngưỡng: Tổng Phục xưa nổi tiếng

về hát Đúm và bơi lội. Loại hình ca hát dân gian này thu hút nhiều du khách tham gia

16

trong các hội Xuân từ mùng 2 đến mùng 10 tháng Giêng. Ngày hội làng của Phục lễ có

nhiều trò chơi: đu tiên, tổ tôm điếm, vật, hát đúm, đấu cờ. Phục Lễ vẫn giữ được truyền

thống bơi lội cho đến ngày nay.

Trong quá trình đấu tranh cách mạng và xây dựng quê hương, Phục Lễ có nhiều

người thành đạt. Tiêu biểu là ông Bùi Bá Ngôn (xem phần Nhân vật chí); Nhà văn Chu

Văn Mười, Vụ Trưởng Vụ Văn hóa, Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương; Giáo sư, tiến

sĩ y học Phạm Văn Thức, Hiệu trưởng Trường Đại học Y - Dược Hải Phòng; Phó Giáo

sư, TS. Phạm Văn Linh, Giám đốc Bệnh Viện Đại học Y – Dược Hải Phòng... [25, tr.

1046]

Dân ven biển nhưng phát âm khá chuẩn. Cố nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã đề nghị

dùng âm Phục Lễ làm chuẩn cho tiếng Việt. Dân quân du kích xã trong kháng chiến

chống Mỹ từng được công nhận là đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Xã Phục Lễ hết sức chú ý đến đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng bằng

việc trùng tu lại các đền chùa, miếu mạo … Tục truyền nhân dân xã Phục Lễ từ xưa đã

duy trì lệ thờ cúng bốn vị thành hoàng. Vị thứ nhất là Mai Đình Nghiễm, một vị tướng

thời Trần đã chỉ huy nhân dân tổng Phục Lễ vào vùng rừng ven sông Chanh (một chi

lưu của sông Bạch Đằng chảy xuyên qua thị xã Quảng Yên- Quảng Ninh rồi đổ ra biển

Đông) đốn gỗ, đẽo cọc chuẩn bị cho trận đại phục kích trên sông Bạch Đằng ngày

9/01/1288 ; ông còn chỉ huy một đội quân dũng cảm, có tài bới lặn đã lặn xuống sông

đục thuyền giặc và ông đã hi sinh khi đang làm nhiệm vụ. Nhân dân Phục Lễ đã chôn

cất ông trên địa bàn Phục Lễ và để tưởng nhớ công lao nhân dân xã Phục Lễ đã dựng

miếu thờ trước phần mộ của ông ; Vị thứ hai là Quý Minh Đại Vương, một tướng tâm

phúc của Hùng Duệ (Vua Hùng thứ 18); Vị thứ ba và thứ tư là Trần Hộ và Trần Độ hiệu

là Phổ Hộ, Phổ Độ (2 anh em ruột, người gốc châu Ái thuộc địa phận Thanh Hóa ngày

nay), là nhân vật lịch sử thời Trần có công phò Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tấn

đánh giặc Ô Mã Nhi trên sông Bạch Đằng. Đức thánh họ Mai được thờ tại đền Bạch

Đằng (miếu Bến Đò), lễ tế thần được tổ chức vào ngày 20 tháng Giêng, tháng Tám,

tháng Chạp âm lịch hàng năm. Mồng một tháng Chạp, làng cũng tổ chức lễ dâng hương

tế miếu thành hoàng để tưởng nhớ tam vị thành hoàng Quý Minh Đại Vương, Trần Hộ

và Trần Độ .[22,tr 351]

17

Chùa Phục Lễ (Kiến Linh tự) được khởi dựng từ thời Mạc, thế kỷ 16. Trong khu

Vườn bia của chùa hiện còn lưu giữ được tấm bia đá khắc năm Thuần Phúc thứ 2 (1563),

thứ 5 (1566), đời Mạc Mậu Hợp. Nội dung các bia đều nói về vùng đất Phục Lễ là nơi

địa linh nhân kiệt và có ghi chép rằng vua Lê Thái Tổ ( Lê Lợi) đã đến thăm chùa, đồng

thời nói về việc trùng tu tôn tạo lại chùa cổ. Chùa Phục Lễ hiện nay là công trình mới

được phục dựng. Tiền đường làm theo kiểu hai tầng tám mái, chồng diêm chéo đao tàu

góc. Lễ hội chùa được tổ chức theo các lễ tiết của nhà Phật. Đặc biệt, kể từ khi Hội hát

Đúm Phục Lễ được khôi phục, sân chùa Phục Lễ luôn là địa điểm tổ chức, thu hút đông

đảo du khách dự hội. Chùa được xếp hạng cấp thành phố, năm 2003. [25,tr 672]

Chùa Phục Lễ là ngôi chùa cổ đẹp có tiếng trong vùng. Lễ thượng nguyên chùa

Kiến Linh được tổ chức trong hai ngày mùng 8 và mùng 9 tháng Giêng cầu mưa thuận

gió hòa, Quốc thái dân an. Lễ cúng Thiên quan tích phúc được tổ chức vào ngày rằm

tháng Giêng để cầu trời ban phước lành đã thu hút đông đảo người dân với quan niêm

truyền thống của người Việt “ Lễ Phật cả năm không bằng rằm tháng Giêng”

Tóm lại, môi trường văn hóa xã hội huyện Thủy Nguyên cũng như môi trường

văn hóa, phong tục, tập quán, tín ngưỡng xã Phục Lễ là môi trường thuận lợi cho diễn

xướng giao duyên và phát triển lời ca hát Đúm.

1.4.3. Môi trường diễn xướng hát Đúm

Hội hát Đúm ngày xuân cũng còn là ngày hội mở mặt. Trong những ngày này,

các chàng trai, cô gái Tổng Phục (trước đây, ba xã Phục Lễ, Phả Lễ và Lập Lễ thuộc

Tổng Phục) thường tập trung để hát đúm tại đình Phục Lễ, một trong những ngôi đình

lớn. Hát Đúm cũng có thể diễn ra ở trên đường đi, ngoài cánh đồng khi các tốp trai

thanh, gái lịch trong những bộ quần áo truyền thống ngày hội gặp nhau. Họ nắm tay

nhau say sưa hát đối những làn điệu giao duyên thể hiện khát vọng về tình yêu đôi lứa

thông qua nhiều câu hát ví vốn mang đậm chất dân gian của vùng quê.

Ngày xưa khi các cụ hát Đúm thường đi từ nhà ra ngõ, ra đình, rồi ra chùa, ngày

nay hát đúm được trình diễn ngay tại cổng chùa Phục Lễ (Kiến Linh tự). Nội dung của

hát Đúm rất phong phú và đa dạng như: hát chào, hát thư, hát cưới, hát mời trầu, hát

họa, hát đố, hát gặp (huê tình), hát rượu, hát lính, hát ra về…

18

Ngày nay, hát Đúm vẫn được bảo lưu và duy trì trong đời sống văn hoá cộng

đồng, chủ yếu nó được hát trong không gian đình, chùa, miếu, còn hình thức hát trong

lao động sản xuất đã không còn.

Ở Phục Lễ, hằng năm, hát Đúm được tổ chức từ mồng ngày 02 đến mồng 06

tháng giêng ngay tại sân đình, chùa với sự tham gia của câu lạc bộ hát Đúm các xã Phục

Lễ, Phả Lễ, Lập Lễ… Đặc biệt ngày 04 tháng giêng có cuộc thi chung kết hát Đúm do

huyện Thủy Nguyên tổ chức tại sân nhà văn hóa các thôn hoặc xã. Trong cuộc thi, ban

giám khảo chính là các cụ của 3 xã, những nghệ nhân cao tuổi với nhiều kinh nghiệm

làm trọng tài.

Mùa xuân là mùa của lễ hội hát Đúm, bằng lời ca tiếng hát ngọt ngào, trai gái

làng quê Phục Lễ đã thể hiện tâm tư, nói lên tình cảm, mong ước trao duyên trao tình.

Chính môi trường diễn xướng này đã khơi nguồn cho những ước vọng về cuộc sống lứa

đôi hạnh phúc, ấm no, đủ đầy... Đặc biệt những khúc ca giao duyên cất lên không chỉ

náo nức lòng người trong cuộc mà còn làm say lòng du khách thập phương. Khách ra

về mà những câu ca “Duyên kết bạn tình ơi!” “Rằng người thương ơi!” còn mãi vấn

vương lòng người.

1.5. Hát Đúm Phục Lễ - Lễ hội khai xuân , Lễ hội Mở mặt

1.5.1. Giới thiệu tục “Mở mặt”

Một trong những hoạt động đặc sắc nhất của hội Xuân Phục Lễ chính là hội hát

Đúm gắn với tục “Mở mặt” của các cô gái.Trước khi nói về tục “Mở mặt”, cũng cần nói

về tục “Bịt mặt” của người dân Phục Lễ, Thủy Nguyên, Hải Phòng.

Về tục “Bịt mặt”: Tương truyền không biết có từ bao giờ, người dân Phục Lễ thì nói

rằng tục này có từ thời “xa xưa”…

Thực tế cho thấy, đến những năm 1950 – 1960 của thế kỷ XX, nữ giới các làng

Phục Lễ, Phả Lễ, Lập Lễ bất kể trời mưa hay nắng, ban ngày hay đêm họ đều đội khăn

đen mỏ quạ bịt kín mặt, chỉ hở đôi mắt. Nhờ đặc điểm này mà người dân Hải Phòng và

dân quanh vùng dễ dàng nhận biết được đâu là những cô gái Phục Lễ (cả Phả Lễ, Lập

Lễ). Những chiếc khăn che mặt chỉ được bỏ ra trong những ngày hội hát Đúm đã tạo

nên nét độc đáo có một không hai cho lễ hội hát Đúm vùng tổng Phục .

Hát Đúm liên quan mật thiết đến một phong tục tập quán có từ xa xưa của người

tổng Phục, đó là tục che mặt. Trong thực tế, con gái cả vùng Phục Lễ đẹp nổi tiếng đến

19

mức nhiều nơi biết tiếng. Phần lớn các cô có nước da trắng ngần rất đẹp, hoàn toàn

ngược với những suy đoán về nắng, gió, bùn đất thuần túy khoa học. Vì thế, ngay từ xa

xưa họ đã có ý thức giữ gìn nhan sắc, chủ yếu là giữ làn da trước sự xâm hại của nắng

gió. Cho nên họ bịt mặt. Rồi cứ thế thành thói quen của nhiều người, rồi cả làng, cả

vùng. Khi đã thành tập tục thì rất khó thay đổi. [25, tr.726]

Ngoài ra, lý giải cho tục che mặt ở đây, có nhiều truyền thuyết lưu truyền trong

dân gian.

Truyền thuyết thứ nhất kể rằng: Xưa trong các trận chiến trên sông Bạch Đằng,

quân xâm lược chết ngả rạ, linh hồn không siêu thoát, thường quấy phá các chị em phụ

nữ vùng tổng Phục; để tránh tà ma, những người con gái nơi đây che mặt ngay từ khi

tuổi đời còn rất trẻ.

Truyền thuyết thứ hai kể rằng: Khi xưa giặc Nguyên bị đánh bại trên bờ sông

Bạch Đằng của vùng đất này, xác giặc chết trôi đầy dòng sông trông thật thê thảm... Sau

chiến thắng, với lòng khoan dung nhân hậu, dân trong vùng đã nhờ pháp sư lập đàn bên

sông cúng cho các vong hồn lưu lạc đó. Khi “tiếp giao” với các vong hồn, thầy pháp sư

có hỏi “thế các vong hồn có cần gì không?”, các vong hồn lính bại trận mãi không trả

lời được, cuối cùng chỉ xin “gì cũng được”, một cụ già trong làng tức mà nói rằng: “thế

thì cho chúng mày ăn máu... (của đàn bà)!”. Lời nói lỡ đó đã trở thành như một lời

nguyền mà từ đó, sợ các vong hồn giặc hút máu, những phụ nữ Phả Lễ và phụ nữ cả

vùng sông này rất sợ ra khỏi nhà, đặc biệt là những phụ nữ mới sinh nở... Tất cả đàn bà,

con gái mỗi khi đi đâu, vào bất cứ lúc nào, ban ngày hay ban tối đều che mặt, chỉ còn

để hở đôi mắt. Cũng từ đó, gia đình nào có sản phụ cũng đều phải làm phép là hoà một

chậu nước màu đỏ đem ra sông đổ...

Truyền thuyết thứ ba kể rằng: Phạm Nhan sinh ra ở Đông Triều, tên thật là

Nguyễn Bá Linh. Mẹ người Việt, cha người gốc Hoa. Cha mất sớm, một mẹ một con

nên Phạm Nhan được mẹ nuông chiều. Được thể, hắn càng lớn càng hư hỏng, đánh chửi

lại cả mẹ, bị mẹ từ. Hắn lang thang trộm cướp rồi tìm về quê cha đất tổ, theo bọn lừa

đảo học phép tàng hình. Khi quân Nguyên tiến đánh nước ta, Phạm Nhan xin theo để

dẫn đường và làm thông dịch. Hắn luôn cặp kè bên tướng Ô Mã Nhi dẫn lối, chỉ đường.

Cậy thế có phép “chém đầu này mọc đầu khác”, Phạm Nhan gây ra rất nhiều tội ác với

nhân dân. Trong trận thủy chiến Bạch Đằng năm 1288, Phạm Nhan bị quân ta bắt sống,

20

hắn ngạo mạn thách thức đố ai chém rơi đầu hắn. Binh sĩ tâu lên, Hưng Đạo đại vương

Trần Quốc Tuấn bảo đem thanh gươm về Đông Triều, thắp hương nơi mộ mẹ hắn, xin

bà cho âm phép trừ khử tên giặc bất trung, bất hiếu, bất nghĩa. Thanh gươm đưa về,

Phạm Nhan biết mình hết phép, khi đem ra chém đầu, hắn xin được ăn uống một bữa no

say trước khi chết. Sẵn lòng căm thù, người lính thi hành án quát lớn: “Tội ác của mi

chỉ đáng cho ăn máu… (đàn bà)”. Nghe vậy, hắn la hét và thề rằng sau khi chết sẽ chuyên

đi hút máu thiên hạ. Đầu hắn rơi xuống, quân ta quẳng vào rừng cho thú ăn còn thây hắn

vứt xuống đàm cho cá rỉa, nào ngờ đầu hắn biến thành loài vắt còn thây hắn biến thành

loài đỉa chuyên đi hút máu người. Cũng từ đó, đàn bà con gái vùng sông Bạch Đằng cứ

đến kỳ hoặc khi sinh nở lại bị hồn ma Phạm Nhan dật dờ, đói khát quấy nhiễu. Đàn bà

con gái vùng cửa sông Bạch Đằng không dám ra khỏi nhà nếu chưa che kín mặt và mỗi

khi sinh nở đều phải giã cây vẹt hòa vào một chậu nước thành màu đỏ như máu để làm

phép trừ ma Phạm Nhan, đem ra sông đổ. Chị em phụ nữ bên huyện Yên Hưng đối phó

với tà ma Phạm Nhan bằng cách vá thật dầy đũng quần, nhất là đến kỳ kinh nguyệt lại

càng phải che giấu kín đáo hơn. Dân gian vùng này còn lưu truyền câu:

“Phục- Phả bịt má, Hà Nam vá trôn”

(Phục Lễ, Phả Lễ bịt khăn che kín mặt, Hà Nam vá đũng quần)

Trên đây là những truyền thuyết thực hư lí giải về tập tục bịt mặt của các cô gái

tổng Phục xưa đã trở thành huyền tích một thời về lễ hội. Có lẽ cả hai yếu tố địa lý và

tâm linh mới thành nguyên nhân của tục lệ này.

Ngày nay tục này đã mất, các cô gái Phục Lễ chỉ dùng khăn che mặt để bảo hộ

lao động, chống nắng gió làm hỏng da mỗi khi đi làm đồng hay chống bụi mỗi khi ra

đường; tuy nhiên người dân vẫn không quên tục bịt mặt độc đáo có một không hai ở

tổng Phục xưa.

Về tục “Mở mặt”: Một trong những hoạt động đặc sắc nhất của hội xuân Phục

Lễ là hội hát Đúm với tục “Mở mặt” của các cô gái. Như đã giới thiệu ở trên xã Phục

Lễ xưa thuộc địa bàn Phục Lễ, huyện Thủy Nguyên, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương,

do vậy hội “Mở mặt” và hát Đúm Phục Lễ, không chỉ là lễ hội của một địa phương mà

còn là lễ hội chung của cả tổng.

Ngày trước, các cô gái Phục Lễ cứ độ 15, 16 tuổi trở lên là bắt đầu dùng khăn bịt

mặt, chỉ để lộ đôi mắt lúng liếng làm say lòng bao chàng trai. Vào hội các cô vẫn không

21

bỏ khăn che mặt mà chỉ khi hát đối đáp với các chàng trai nếu họ cảm thấy tâm đầu ý

hợp thì mới chịu bỏ khăn che mặt để chàng trai được ngắm nhìn dung nhan của mình.

Cho nên muốn xem được mặt các cô gái thì các chàng trai phải mời được họ hát Đúm,

phải len được vào trong đám đúm để nghe được hát và nhìn được mặt mới biết được

đẹp, xấu. Còn nếu các cô chỉ đi chơi hội (không tham gia hát) thì vẫn bịt khăn kín mặt

chỉ hở đôi mắt… Hội xuân, du khách nơi nơi đổ về Phục Lễ một phần để tham gia các

lễ hội địa phương, để nghe những câu hát Đúm tình tứ, thơ mộng song cũng một phần

để thỏa mãn trí tò mò về dung nhan của các cô gái bịt mặt. Vì vậy, hội hát Đúm ngày

xuân còn gọi là hội “Mở mặt”.

Tập tục “bịt mặt” và “mở mặt” là một nét đặc sắc trong các lễ hội hát Đúm. Tuy

nhiên, lối hát “Mở mặt” ngày nay đã thất truyền.

Hiện nay được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, hát Đúm với nét đẹp văn hóa

dân gian của Thủy đang dần được khôi phục và phát triển. Dự kiến đến năm 2020 sẽ

khôi phục lại tục bịt mặt và mở mặt với hi vọng tìm lại bản sắc văn hóa vùng miền.

1.5.2. Giới thiệu lễ hội

Đến với hội xuân Phục Lễ, du khách sẽ được hòa mình vào không khí vui tươi

với nhiều hoạt động văn hóa dân gian đặc sắc như đấu vật, chơi đu, tổ tôm, cờ người...

đặc sắc và cuốn hút hơn cả là lễ hội hát Đúm với làn điệu ngọt ngào, sâu lắng... Đây là

một trong những lễ hội tiêu biểu mà người dân Thủy Nguyên mong chờ trong suốt một

năm và luôn thu hút lượng lớn khách thập phương.

Duyên kết bạn tình ơi

Quê anh Phục Lễ, Thủy Nguyên

Tục làng vẫn mở hội xuân chơi đùa

Một năm chỉ có một mùa

Tháng giêng vãn cảnh chơi chùa, hội xuân

Thật là tại bởi duyên giời

Xui nên ta gặp mình nơi hội này

Ông tơ cũng khéo xe dây

Nối cho mình mấy ta nay duyên lành. [2, tr.79-80

Rằng người thương ơi.

22

( Hát huê tình)

Hát Đúm là một loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian nằm trong hệ thống di sản

văn hóa phi vật thể của Việt Nam. Lễ hội hát Đúm có từ xa xưa và được duy trì đến ngày

nay bởi tâm huyết của các nghệ nhân cao tuổi. Hát Đúm là một trong những lễ hội xuân

tiêu biểu nhất của huyện Thủy Nguyên.

Trước năm 1954, Hội hát Đúm ở tổng Phục diễn ra từ ngày mồng 2 Tết nguyên

đán, kết thúc vào ngày mồng 10. Trong những ngày này, lễ hội không chỉ có hát đúm

mà có nhiều trò chơi được tổ chức: Thi dệt vải, thi làm bánh, thi vật, thi đánh đu... Đặc

biệt, hội hát đúm thu hút nhiều thanh niên nam nữ địa phương và khách thập phương

tham gia. . [25, tr. 726].

Hát Đúm xưa, là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian địa phương được nhiều

người yêu thích. Thông qua lời ca hát Đúm, trai gái Phục Lễ có cơ hội gửi gắm nỗi niềm,

tâm tư, tình cảm, nguyện ước... là dịp họ làm quen, tìm hiểu nhau, xe kết duyên tình.

Cuộc hát giao duyên qua những canh hát kéo dài, họ say sưa hát, nếu hai người thấy

“kết nhau” thì hò hẹn tâm tình. Chính những câu hát Đúm giao duyên mỗi độ xuân về

đã làm náo nức trái tim bao chàng trai, cô gái tổng Phục và nhiều đôi đã nên vợ nên

chồng sau những cuộc hát ấy.

Ngày nay hội xuân hát Đúm được tổ chức hàng năm từ mồng 2 đến mồng 6 Tết

âm lịch. Hội thi hát Đúm được tổ chức thường niên, luân phiên tại các xã thuộc tổng

Phục xưa (Phục Lễ, Phả Lễ, Lập Lễ ), huyện Thủy Nguyên - Hải Phòng. Ban giám khảo

cuộc thi là các cụ cao niên có kinh nghiệm và am hiểu về hát Đúm. Các phần thi kết

thúc, ban tổ chức công bố, trao tặng các giải xuất sắc, giải nhất, nhì và một số giải thưởng

chuyên đề cho các đoàn hát.

* Tiểu kết chương 1

Chương viết trình bày khái quát về hát Đúm Phục Lễ - Thủy Nguyên từ nguồn gốc,

sự hình thành và phát triển, môi trường tự nhiên, văn hóa xã hội xã Phục Lễ và môi

trường diễn xướng trong mối quan hệ với Hát Đúm, “ Lễ hội khai xuân ” với huyền tích

về “Lễ hội Mở mặt” vô cùng độc đáo. Hát Đúm là một loại hình dân ca cổ, loại hình hát

giao duyên bên cạnh hát Xoan, hát Quan Họ… Cùng với hát Đúm, hội hát Đúm là nét

đẹp văn hóa đặc sắc của người dân địa phương trong dịp đầu năm mới; hội hát Đúm

23

Phục Lễ xưa và nay đã trở thành điểm hẹn văn hóa cho những ai thực sự có tâm với

nghệ thuật hát Đúm.

Toàn bộ khung cảnh lễ hội được Chương viết tái hiện trên cơ sở các tài liệu đã

sưu tầm được của các nhà nghiên cứu địa phương trước đây và căn cứ vào những tài liệu

chúng tôi điền dã tại Phục Lễ , Phả Lễ, Lập Lễ (thuộc tổng Phục cũ) gặp gỡ các nghệ

nhân cao tuổi và người dân địa phương. Qua đó, Chương viết phần nào đã cố gắng mô

tả và phản ánh một cách sát thực về sinh hoạt hát Đúm Phục Lễ xưa và nay. Hát Đúm

chính là giá trị văn hóa dân gian phi vật thể, là món ăn “đặc sản” của Hải Phòng. Do vậy

thông qua đề tài, người viết mong góp một phần vào công tác bảo tồn, khai thác và phát

huy tích cực di sản văn hóa này, để có thể giúp địa phương đưa hình thức sinh hoạt hát

Đúm ngày càng đến gần với đông đảo công chúng hiện nay.

24

Chương 2

Thuộc loại hình hát giao duyên, hát Đúm nằm trong hệ thống sinh hoạt dân ca Việt

HÌNH THỨC DIỄN XƯỚNG GIAO DUYÊN CỦA HÁT ĐÚM PHỤC LỄ

Nam. Ngoài yếu tố lời, nhạc thì diễn xướng là khâu vô cùng quan trọng, diễn xướng là

sự liên kết, gắn bó tất cả mọi người tham gia, hình thành nên cộng đồng bền vững với ý

thức cùng chung sống. Cuộc sống đích thực của tác phẩm văn học dân gian là cuộc sống

trong môi trường diễn xướng và hình thức diễn xướng, chỉ ở dạng tồn tại này nó mới

bộc lộ hết vẻ đẹp thẩm mỹ một cách toàn diện, sâu sắc.

Nói về hình thức diễn xướng giao duyên của hát Đúm Phục Lễ thì đó là thuộc kiểu

"ca" trong số các phương thức biểu hiện của văn học dân gian là "ca, nói, kể, diễn". Có

nhiều kiểu “ca”, có thể chỉ là ca hát đơn thuần, có thể ca hát kết hợp với trống phách,

điệu bộ để minh hoạ (như hát Xoan) ca kết hợp với ngâm nói (như hát Nói), hát gồm

nhiều giọng đệm, nhị, hề, phách (hát Xẩm)... hát Đúm Phục Lễ thuộc kiểu ca hát đơn

thuần - tức là chỉ có hát, không có trống phách, nhị, hề hay những động tác nào phụ hoạ.

Tuy nhiên với những đặc trưng riêng về diễn xướng giao duyên, hát Đúm Phục Lễ đã

tạo được vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt của hình thức sinh hoạt cộng đồng, mang đậm bản

sắc văn hóa vùng miền.

2.1. Hình thức tạo “ Đúm” trong hát Đúm Phục Lễ

2.1.1. Cách thức tổ chức hát .

Hát Đúm Phục Lễ với lối diễn xướng đối đáp giao duyên nam nữ mang đậm nét

riêng của dân ca vùng miền. Diễn xướng đối đáp luôn gắn với Đúm ( chỉ một tập thể).

Do đó hát Đúm Phục Lễ, Thủy Nguyên, Hải Phòng là một chỉnh thể nguyên hợp của

sinh hoạt văn hóa nghệ thuật cộng đồng [12, tr 99]. Xưa kia hát Đúm được hát trên

đường ra đồng, lúc làm việc, khi nghỉ ngơi … (gọi là hình thức hát Đúm lẻ) ; còn có

hát Đúm diễn ra trong lễ hội đình, lễ hội chùa, những địa điểm sinh hoạt văn hóa cộng

đồng ( gọi là hình thức hát Đúm có “lề lối” còn gọi là “Đúm cuộc”).

Theo Nguyễn Ngọc Hải và Nguyễn Đỗ Hiệp thì “… hình thức diễn xướng Đúm

là hát đối đáp của một đội nam nữ giữa một Đúm ( đám người vây xung quanh). Trong

hội xưa có nhiều Đúm như vậy. Có Đúm ở giữa sân chùa, có Đúm ở góc sân, có Đúm ở

sau sân, có Đúm ở cổng chùa…[12, tr. 98]

25

Trước đây mỗi năm vào dịp đầu xuân, xã Phục Lễ thường tổ chức lễ hội xuân với

nhiều trò chơi dân gian như đấu vật, đánh đu, cờ người… Tại sân bãi trước cổng đình,

cổng chùa từng tốp nam thanh nữ tú tụ tập hát Đúm. Họ hát ở hội chùa, hội đình với

hình thức “đàn đúm”, trai gái tụ tập tạo “ Đúm” mà hát. Mỗi cuộc hát Đúm có thủ tục,

có quy cách riêng. Để tạo đúm hát, nhóm các chàng trai cử đại diện tiến về phía nhóm

các cô gái, cầm tay một cô ưng ý mặc dù chưa biết mặt (vì cô gái bịt khăn chỉ để hở đôi

mắt) và hát mấy câu mời cô tham gia hát trong hội. Nếu cô gái còn ngượng ngùng chưa

đồng ý thì chàng trai vẫn giữ tay cô gái hát mời tiếp đến khi cô gái đáp lời đồng ý vào

hát. Chàng trai và cô gái rất tự nhiên cất lời hát đối đáp, các bạn nam nữ của hai nhóm

cùng người đi xem hội không biết tự khi nào đã quây tròn lại mỗi lúc mỗi đông để nghe

hát. Lúc này cuộc hát đối đáp giao duyên so tài giữa chàng trai và cô gái mới thực sự

bắt đầu.

Hát Đúm cũng giống như hát quan họ Bắc Ninh, hát Xoan Phú Thọ, hát ví dặm

Nghệ Tĩnh, vào cuộc hát các chàng trai, cô gái tập trung theo nhóm, theo đoàn, vừa là

để có bạn thêm vững tin, vừa là để hát đỡ cho nhau mỗi khi bí lời ; thường là bên phía

các chàng trai chủ động tiến về phía các cô gái, tay cầm tay hát chào, hát mời…các vật

dụng thường xuất hiện cùng các chàng trai, cô gái là nón, khăn, ô, mũ … Và đặc biệt là

mỗi khi thua cuộc không kể bên nam hay bên nữ họ đều phải bỏ của chạy lấy người (

nam phải bỏ cả ô, mũ còn nữ phải bỏ cả nón, khăn); dĩ nhiên bên thắng cuộc sẽ nhận

được “vật làm tin” của bên thua cuộc để lại ( họ thỏa lòng bởi ước muốn có được cả ô

lẫn người). Và sau mỗi cuộc hát, tình cảm hai bên càng lúc càng thêm da diết, mặn

Hình thức diễn xướng tạo “Đúm” trong hát Đúm Phục Lễ hoàn toàn khác với

hình thức diễn xướng Đúm trong hát Xoan – Phú Thọ. Ở phần dân ca nghi lễ phong

tục của hát Xoan, có hát Đúm là tiết mục đặc sắc, hấp dẫn nhất với một trò ném quả

đúm (là một miếng vải nhỏ để trầu cau ở giữa và cuộn tròn lại) diễn ra giữa các cô

đào phường xoan với trai làng nơi phường xoan đến hát thờ vào dịp hội làng mùa

xuân. Nếu như hát Đúm trong hát Xoan ở Phú Thọ và hát Đúm của người Thổ ở Thanh

nồng, sâu sắc, nghĩa tình hơn qua từng câu hát.

Hóa với hai yếu tố hát đối đáp và diễn trò (ném quả đúm) là nét đặc sắc trong diễn xướng

giao duyên; thì Đúm( đám) người trong hát Đúm Phục Lễ và hát Đúm ở một số các địa

phương khác của huyện Thủy Nguyên như Phả Lễ, Lập Lễ, Tam Hưng ... với yếu tố đối

26

đáp và ứng tác đã tạo thành một tổng thể diễn xướng độc đáo, mang đậm tính nguyên

hợp. Ngoài hình thức diễn xướng tạo “ Đúm” của hát Đúm Phục Lễ, ở Hải Phòng còn

xuất hiện hình thức diễn xướng giữa thuyền nam hát đối đáp với thuyền nữ như trong

hội Giao thuyền ở đầm Cửa Phủ vùng ven biển thuộc Thụy Hương Kiến Thụy.

2.1.2. Thể lệ hát

Hội hát Đúm có qui định, thể lệ chặt chẽ và cụ thể. Trước hết nhóm hát phải đồng

giới (nhóm nam hoặc nhóm nữ) và xấp xỉ cùng lứa tuổi. Khi chọn bạn dẫn đầu nhóm

nhất thiết bên nam phải hát với nhóm nữ cùng tuổi hoặc ít tuổi hơn. Trai gái hát đối đáp

với nhau nhất thiết phải là người không cùng huyết thống.

Những người có vợ, có chồng vẫn được tham gia hội hát, nhưng những người

này sẽ hát với nhau. Những người có vợ hoặc chồng tham gia hát cấm không được ghen

tuông, gây rối trong hội hát (vì theo tập tục khi hát phải cầm tay nhau, đối đáp bằng

những lời ca mang nội dung giao duyên tỏ tình, hứa hẹn đầy tình tứ, thắm tình đôi lứa

). Trong suốt cuộc hát, đôi bạn phải cầm tay nhau khi nào hát xong mới bỏ tay nhau ra.

Chính điểm này đã tạo nét độc đáo khác biệt giữa hát Đúm Phục Lễ với các loại hình ca

hát giao duyên khác.

Vào cuộc hát Đúm còn có quy định nam giới phải hát trước mời nữ hát và nữ

được hát giao kèo đối với nam ( tránh tình trạng nam chọn các từ có nghĩa khó hiểu khi

hát để trêu chọc nữ hoặc phá bĩnh cuộc hát )

2.1.3. Trang phục hát

Cũng như các loại hình nghệ thuật dân gian khác bao giờ cũng có trang phục

riêng thì trong làn điệu hát Đúm các chàng trai cô gái cũng có những bộ trang phục riêng

thể hiện nét tính cách và phù hợp với các làn điệu hát Đúm.

Xưa kia, chàng trai cô gái khi tham gia hát đều sử dụng các sắc phục truyền thống.

Nam áo dài the thâm, hay áo dài phin màu đen, màu gụ, quần trắng, chân đi guốc, đầu

quấn khăn nhiễu hay đội khăn xếp, tay cầm ô hay quạt với dáng vẻ thư sinh, lịch thiệp

tao nhã. Nữ thường mặc váy lĩnh bằng lụa đen, khoác áo cánh nâu hoặc mặc áo tứ thân

mớ ba, mớ bảy, yếm trắng hay yếm hồng lưng thắt bao tượng sắc màu rực rỡ, đầu đội

khăn mỏ quạ hay vấn tóc bọc nhung đen để vắt đuôi gà vừa mềm mại, tinh nghịch, vừa

bay bướm dịu dàng trong khí trời tươi ấm.

27

Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cùng với trào lưu cách tân mở rộng,

trang phục hát Đúm truyền thống dần dần biến đổi. Sau ba ngày Tết Nguyên đán, trai

tài gái sắc các nơi nô nức đổ về tổng Phục vui hội. Trai thì áo lương khăn xếp, quần trúc

bâu trắng đi giày da láng, đầu che ô đen. Nữ thì áo dài tứ thân mớ ba, ngoài cùng là áo

dài thâm, trong là áo màu tím, vàng hoặc đỏ; lưng thắt bao lụa hồng hay màu hoa thiên

lý; lẳn trong bao lưng là dây xà tích bạc trắng. Cô nào cũng yếm màu hoặc yếm trắng ,

đội khăn mỏ quạ che kín mặt. [25, tr.786]

2.1.4. Các bước hát

Do bản chất là một hình thức giao duyên nam nữ nên yếu tố “mời gọi” trong hát

Đúm được thể hiện rõ ràng. Hát Đúm của người Kinh bao giờ cũng bắt đầu và kết thúc

bằng câu: “Duyên kết bạn mình ơi” hoặc “Rằng người thương ơi”; còn hát Đúm của

người Thổ mở đầu và kết thúc bằng một tiếng gọi dài “Ơ ơ... ơi... ới ới...”. Đó như một

báo hiệu để người hát bắt nhịp cho làn điệu cho mình và nó cũng giúp người nghe nhận

biết sắp kết thúc bài hát để chuẩn bị đối lại.[1, tr.85]

Qua thực tế nghe và nghiên cứu về lời ca hát Đúm, chúng tôi thấy hát Đúm Phục

Lễ giống như hát Đúm của người Kinh mà nhà nghiên cứu Trịnh Hữu Anh với công

trình Hát Đúm của người Thổ ở Việt Nam đã nhận xét như trên. Trong quá trình hát một

lời Đúm ( có thể là 4 câu hoặc hàng chục câu), dứt khoát phải có câu đệm mở và đệm

kết, ví dụ trước khi vào lời hát có câu “ Duyên kết bạn mình ơi” hoặc “ Duyên

kết bạn tình ơi” rồi hát và kết đệm bằng câu “ Người thương ơi”, “Rằng người thương

ơi”.

Nội dung lời ca của hát Đúm rất phong phú, trong lễ hội có nhiều cuộc hát Đúm

với nhiều nội dung diễn ra từ sáng đến tối, từ ngày này sang ngày khác. Mở đầu là những

câu hát chào, hát mừng khi gặp nhau (hát gặp, hát chào hỏi), tiếp theo là các phần hát

giao hẹn (giao kèo), hát hỏi, hát đố, hát mời (trầu, cơm, nước…), hát họa, hát huê tình

(giao duyên), hát thư, hát lính ... và kết thúc là hát ra về (hát tiễn).

Một cuộc hát Đúm sẽ tuân thủ các bước sau:

- Hát gặp hay còn gọi là hát chào hỏi

Trước khi vào cuộc hát, khi nam nữ mới gặp nhau, các chàng trai thường sẽ chủ

động hát trước để mời các cô gái. Hai người thường hát những câu chào, hỏi dò tên tuổi

28

họ hàng, quê quán, giao hẹn lối hát,…Nếu như thấy hợp ý thì mới hát tiếp sang các chủ

đề khác.

Nam:

Duyên kết bạn mình ơi

Chào quý trước nam nữ thanh tú

Đến hội xuân vạn sự bình yên

...

Gặp em anh hỏi đôi lời

Mùa xuân được mấy ngày vui thế này

Đôi ta phận đẹp duyên may

Hát cho tình thắm những ngày xa nhau. [2, tr.8]

Rằng người thương ơi

Nữ:

Duyên kết bạn mình ơi

Thoạt vào em chào hội xuân

Em chào Quý chức xa gần ngồi chơi ...

Đến hội em chẳng ngại gì

Cậu khoá mời hát em thì góp vui

Mỗi năm gặp một lần thôi

Ngày vui ca hát để rồi nhớ nhau. [2, tr.15]

Rằng người thương ơi - Hát giao hẹn( giao

kèo): thường sau hát chào là hát có giao hẹn để thử tài, thăm dò tình cảm đối phương.

Nữ:

Duyên kết bạn mình ơi

Chàng muốn hát em xin giao hẹn

Khách tài tình thề nguyện bóng giăng

Chàng hát vần trắc, em hát vần bằng

Hát mưa, hát gió, hát giăng trên giời

Gặp đây hỏi một đôi lời

Cầm kỳ, thi, họa, chàng thời hát không?

29

Hát sao như vợ, như chồng

Liệu chàng có hát được không hở chàng?... [2, tr.16]

Rằng người thương ơi

Nam:

Duyên kết bạn mình ơi

Nàng giao hẹn sao không hẹn trước

Để cho anh biết được yên lòng

Ngày xuân gặp bạn má hồng

Hát vậy nên vợ nên chồng mới hay

Cầm kì thi họa hội này

Duyên giời đã định xe dây cùng nàng

Hát bõ lúc ngày đêm ao ước

Hội tương phùng ta được gặp nhau

Hát cho nổi tiếng hoàn cầu

Để cho thiên hạ đâu đâu cũng tường. [2, tr.17]

Người thương ơi

Cũng có khi hát giao kèo là hát răn để xác định thái độ trước khi vào hát bởi lẽ

trong quá trình hát có nhiều chàng trai không biết vô tình hay hữu ý “ hát tục”, “hát

chua” để phách lối cuộc hát.

Ví dụ:

Duyên kết bạn mình ơi

Anh muốn vào hát với tôi

Thì tôi xin có mấy lời phân bua

Hát thì tôi cấm hát chua

Anh nào hát tục tôi xua ra ngoài

Hát thì một đối với hai

Nào tôi có dám cấm tài ai đâu.

Rằng người thương ơi

(Hát giao kèo – Sưu tầm )

- Hát mừng: Là hát những lời mừng tuổi nhau nhân ngày đầu xuân....

Nam :

30

Duyên kết bạn mình ơi

...Nay gặp em mừng em thêm tuổi

Cùng gia đình vui vẻ an khang... [2, tr.11]

Rằng người thương ơi

(Hát mừng)

Nữ:

Duyên kết bạn mình ơi

...Gặp nhau mừng tuổi cho nhau

Mừng cho loan phượng hát câu ân tình

...Hôm nay đến hội vui chơi

Hát sao cho xứng lời mời của anh. [2, tr.15]

Rằng người thương ơi

(Hát mừng)

- Hát giao duyên ( huê tình) : Là những câu hát tình tứ thổ lộ tình cảm yêu thương,

nhung nhớ, giận hờn... là chủ đề hát mang tính cao trào, cảm xúc say sưa .

Duyên kết bạn mình ơi

... Hôm qua vắng khách anh hùng

Một mình đốt ngọn đèn chong chờ chàng

Bây giờ gặp gỡ giữa đường

Tỏ tường bên ngọc bên vàng sánh đôi

Hôm qua hết đứng lại ngồi

Đứng ngồi tư tưởng ngậm ngùi tương tư

Hôm qua ngồi tựa án thư

Ngọn đèn mờ tỏ canh khuya bồi hồi

Bây giờ Đào Liễu sánh đôi

Buồn đâu không biết mà vui vô cùng” [2, tr.55-56]

Rằng người thương ơi

(Hát huê tình)

- Hát đố giảng: Là một bên hát đố, một bên hát giảng để trả lời.

Nam:

31

Duyên kết bạn mình ơi

Người khôn từ tuổi mười lăm

Giăng tròn có một đêm rằm mà thôi

Gặp em, anh đố một bài

Đố em giảng được một vài loài hoa

Hoa gì thoang thoảng bay xa

Mùi thơm dìu dịu thực là có hương

Hoa gì mỗi độ thu sang

Nở ra khoe sắc mùi hương đậm dà

Hoa gì mùa hạ nở ra

Gần bùn mà chẳng pha mùi bùn... [2, tr.106]

Rằng người thương ơi

Nữ:

Duyên kết bạn tình ơi

Ngày xuân may được gặp chàng

Em xin giảng hết tỏ tường về hoa

Hoa Nhài thoang thoảng bay xa

Mùi thơm khác hẳn thật là có hương

Hoa Cúc mỗi độ thu sang

Nở ra khoe sắc mùi hương đậm đà

Hoa Sen mùi hạ nở ra

Gần bùn mà lại không pha mùi bùn... [2, tr.107]

Rằng người thương ơi

- Hát họa : Là hát về các hiện tượng tự nhiên, các sản vật địa phương.

Nam: Hát Họa gió

Duyên kết bạn mình ơi.

Em vừa mới họa về mưa

Anh nay họa gió các mùa em coi

Gió Tây là gió mặt giời

Nóng ơi là nóng chẳng vui chút nà

....

Hội vui gióng hát càng sang

Họa mây – họa gió rõ ràng nên thơ

32

Phải duyên mình đợi ta chờ

Phải lòng mình ngẩn ta ngơ vì lòng

Mình còn họa nữa hay không?

Nếu còn họa tiếp mây hồng anh nghe. [2, tr.128]

Người thương ơi.

Nữ: Hát Họa mây

Duyên kết bạn mình ơi.

Gió thì anh đã họa rồi

Còn mây em họa anh thời nghe tinh

Mây hồng là buổi bình minh

Phía đông rực rỡ vô cùng sáng tươi

....

Mây và gió chúng mình đã họa

Tình gió mây dường đã keo sơn. [2, tr.129]

Người thương ơi.

- Hát lính: Trước kia, nam thanh niên trong làng thường lấy vợ rồi mới đi lính, nên

lời hát lính dùng để tiễn dặn người yêu trước khi lên đường, yên tâm chiến đấu bảo vệ

đất nước. Lời ca trong hát lính là lời tiễn biệt, dặn dò của đôi lứa trước khi xa nhau. Sau

đây là đoạn trích trong lời ca hát lính của nam, nữ Phục Lễ.

Nam:

Duyên kết bạn mình ơi

...Việc nhà cửa vậy thì bao nỗi

Cậy ơn nàng nuôi cái cùng con

Anh đi nam bắc tây đông

Bao giờ dẹp lũ giặc xong anh về. [2, tr.143]

Người thương ơi

Nữ :

Duyên kết bạn mình ơi

...Giặc tan chàng lại trở về

Cờ bay trống giục bạn bè mừng vui

Chàng đi góc biển chân giời

Khi về chàng thiếp ở đời bên nhau. [2, tr.144]

Người thương ơi.

33

- Hát thư: Khi người chồng đi lính, người vợ ở nhà nhớ thương, mong chờ, nên mọi

người đã nghĩ ra câu hát thư, gửi những cánh thư là sự nhớ nhung da diết, những lạnh

lẽo hắt hiu của người phụ nữ chờ chồng nơi tiền tuyến. Sau đây là lời ca hát đối trong

hát thư.

Nữ:

Duyên kết bạn mình ơi

...Đường xa cũng chẳng có xa

Thư đi thư lại chúng ta vẫn gần

Em nay thục nữ thanh tân

Phòng loan vẫn khóa chờ xuân ra vào

...

Cha mẹ thiếp có lời khuyên bảo

Mong thiếp – chàng nguyệt lão trăm năm. [2, tr.102]

Người thương ơi

Nam:

Duyên kết bạn mình ơi

...Thề bồi hai đứa chúng mình

Bây giờ đừng để duyên tình xa nhau

Muốn cho vẹn chữ hảo cầu

Thì nàng nhận thiếp – nhận giầu cho xong

Thực lòng anh cũng chờ mong

Nàng trao thư lại cho lòng anh hay. [2, tr.103]

Người thương ơi

- Hát cưới: Sau khi đôi bên đã phải lòng nhau thì họ tiến hành hát cưới, thách cưới, lễ

vật cưới, thể hiện cho tình yêu đôi lứa đã chín muồi, đôi bên kết tóc xe tơ. Sau đây là

đoạn trích trong lời ca Thách cưới:

Nữ:

Rằng người thương ơi!

...Xin chàng chín tấm lụa đào

Chín mươi hòn ngọc, chín mươi ông sao trên giời

Xin chàng chín nén vàng mười

Hoa tai chín chục, bạc thời chín trăm

34

...

Công việc thu xếp xong rồi

Thì chàng với thiếp nên đôi vợ chồng [2, tr.133]

Người thương ơi

Còn đây là bài Đi cưới:

Nam: Duyên kết bạn mình ơi!

...Nghèo thì bán núi bán sông

Cưới em cho bõ cái công ra vào

Cuới em chín vạn ngôi sao

Trăm tấm lụa đào, muời cót trầu cau

...

Tiễn xong ta trở vào nhà

Màn loan, gối đệm trướng hoa động phòng... [2, tr.139]

Nguời thương ơi!

- Hát ra về: Là những lời ca nói lên cảm xúc khi chia tay, tiếp theo hát để trao ô,

trao nón, hay hát xin lại mũ nón đã gửi nhau, cùng lời ca hẹn hò gặp lại, ước mong nên

nghĩa bạn đời, nên tình gia thất.

Nữ:

Duyên kết bạn mình ơi!

...Ra về Trúc nhớ thương Mai

Như thuyền nhớ bến, như ai nhớ mình

Ra về Tính lại nhớ Tình

Như kim nhớ chỉ, như mình nhớ ta

...

Ra về Tính nhớ, Tình thương

Xin chàng giữ trọn đá vàng thuỷ chung. [2, tr.166]

Nguời thương ơi!

Nam :

35

Duyên kết bạn mình ơi!

...Ra về riêng tưởng tưởng riêng

Riêng sao cứ tưởng, tưởng riêng một mình

Ra về nhớ đến xuân xanh

Xuân xanh nhớ đến nhời anh dặn dò

Ra về nhớ đến duyên do

Duyên do nhớ đến nhỏ to nhời nàng [2, tr.166 -167]

Nguời thương ơi!

Mỗi cuộc hát thông thường theo các bước như trên, nhưng không bắt buộc phải

theo thứ tự hát bước1, bước 2, bước 3, bước 4 mà có thể bước1, bước 3, bước 2, bước

4... Cũng có thể, tùy theo đối tượng mà người hát ứng vận tự do, thay đổi nội dung,

cung đoạn của lời ca hoặc bớt đi một vài nội dung nào đó (chẳng hạn không có hát đố

giảng mà có hát họa, không có hát lính mà có hát mời)... Còn riêng đối với hát chào khi

mới gặp nhau lúc vào hội, hay hát huê tình và hát ra về sẽ luôn giữ nguyên trong mỗi

cuộc hát.

2.2. Lề lối diễn xướng của hát Đúm Phục Lễ

2.2.1. Diễn xướng theo các chặng

Hát Đúm có thủ tục hẳn hoi.Trong cuốn Địa chí Thủy Nguyên, có giới thiệu trình

tự một cuộc hát Đúm theo nội dung, cơ bản có ba giai đoạn:

– Hát vào cuộc (còn gọi là hát dạm).

– Hát thi tài (phần chính).

– Hát giã đám.

Thông thường khi đã ổn định trật tự, bắt đầu vào cuộc hát là hát gặp, hát chào, hát

mừng. Vào cuộc hát, chàng trai hát trước mời cô gái hát ( hát mời đến khi cô gái đồng

ý mới thôi). Nếu cô gái đồng ý sẽ hát lời nhận hát. Trai gái hát chào nhau, mừng nhau.

Sau hát vào cuộc là hát giao duyên (còn gọi là hát huê tình). Đây là bước chính của hát

Đúm với nhiều bài theo lối đối đáp (hát đố, hát họa bộc lộ hiểu biết của mình về trời đất,

về con người và xã hội); với nhiều bài hát huê tình (có nội dung về tình yêu, ướm hỏi,

nhớ thương, đợi chờ bộc lộ tình cảm của mình với bạn hát ). Khi hát đã lâu, người thấm

mệt, chuyển sang hát mời: Mời ăn trầu, uống trà, rượu, hút thuốc và hẹn nhau đến chơi

nhà. Trước năm 1945, sau phần này là hát lính. Với nội dung ca ngợi các chàng trai theo

36

lệnh vua lên đường đánh giặc; người con gái ở nhà nuôi con, chung thủy chờ chồng,

chăm sóc mẹ cha (Hát lính là nét đặc biệt của hát Đúm Phục Lễ mà nơi khác không có).

Sau hát lính là hát thư. Hát thư để nói nỗi lòng nhớ nhung khi trai gái phải xa nhau bởi

hội đã hết. Quen nhau ở hội, khi xa ai cũng nhớ nên gửi nỗi niềm ấy vào thư. Rồi đến

hát cưới và sau cưới . Người hát tưởng tượng ra hai bên đã tâm đầu ý hợp nên bàn đến

chuyện cưới và tương lai sau cưới. Nội dung câu hát có thể là lễ vật thách cưới, sắm sửa

cho nhau hoặc vẽ ra viễn cảnh một gia đình hạnh phúc, no đủ, con cái đề huề. Nếu cuộc

hát dài, cảm thấy vốn đã sắp cạn, hai bên có thể chuyển sang hát chuyển làn (còn gọi là

hát giở giọng). Lúc này hát khá thoải mái với những làn điệu dân ca quan họ, cò lả, hát

ru, trống quân, sa mạc... [25, tr.786]

Cuối cùng là hát giã đám, hát giã bạn ( Hát ra về). Nội dung thường là tâm trạng

ra về nhớ nhung, lưu luyến...hẹn gặp nhau ở hội hát năm sau.

Chúng tôi đồng quan điểm với hai nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Hải và Nguyễn

Đỗ Hiệp, theo lề lối qui định một cuộc hát Đúm có ba chặng hát ứng với ba giai đoạn

đã nêu ở trên:

Chặng 1: Hát vào đầu, trai gái gặp nhau hát chào hỏi, giao tiếp.Gồm các bước hát:

- Hát chào mừng ( lời chào và làm quen)

- Hát thăm hỏi - mời ( hỏi gia cảnh, tình ý cha mẹ và mời đến chơi nhà)

Chặng 2: Chặng chính của cuộc hát, trai gái hát trao tình, thử tài nhau. Gồm các

bước hát:

- Hát Đố - giảng ( thường đó các hiện tượng thiên nhiên, cảnh vật, nghề

nghiệp...)

- Hát Họa ( ví – lấy môi trường thiên nhiên, tích truyện để ứng ví với tình cảm

- Hát Huê tình ( lời hát thể hiện các cung bậc tình cảm

- Hát Thư, hát Lính ( bày tỏ nỗi lòng nhớ thương khi xa cách)

- Hát Sắm, hát Cưới ( mơ ước một cuộc sống hạnh phúc).

Chặng 3: Chặng kết thúc cuộc hát, trai gái chia tay nhau bịn rịn, quyến luyến (

Hát ra về ) [12, tr.100 -101]

Hát Đúm Phục Lễ ( hát Đúm của người Kinh) giống với hát Đúm của người Thổ

ở Việt Nam. Một cuộc hát Đúm phát triển theo ba chặng, thông qua nội dung các bước

hát. Chặng hai là chặng trung tâm của cuộc hát, dài ngắn sẽ tùy thuộc vào cảm hứng của

37

người tham gia hát. Ở cả ba chặng của hát Đúm chỉ là một lối hát giao duyên. Tuy nhiên

hát Đúm Phục Lễ vẫn có điểm khác biệt với hát Đúm của người Thổ. Nếu như vật dụng

luôn bên cạnh người hát trong hát Đúm Phục Lễ là nón, ô thì vật dụng quan trọng trong

hát Đúm của người Thổ lại là quả đúm.

So với hát Quan họ, hát Xoan, hát Trống quân thì lề lối diễn xướng theo các

chặng ở hát Đúm đơn giản hơn vì hát Quan họ, hát Xoan, hát Trống quân ngoài lối hát

giao duyên còn phát triển thêm phần nghi lễ.

2.2.2. Diễn xướng theo hình thức hát đối đáp

Hát Đúm là một hoạt động sinh hoạt văn hóa dân gian. Hát đúm có nguồn gốc từ

hát đối giao duyên dân gian phát triển mà thành và tồn tại song hành với nhau [25,

tr.785]. Giống như hát Quan họ Bắc Ninh, hát Ghẹo Phú Thọ, hát Ví dặm Nghệ Tĩnh ,

hát Trống quân Đức Bác … các làn điệu hát Đúm đa số là hát giao duyên, trong đó nam

nữ phải hát đối đáp theo các bước: Làm quen, chào hỏi , xin phép, kết bạn, hẹn hò và

chia tay. Trong diễn xướng hát Đúm thì hình thức hát đối đáp nam nữ gắn với những

hành động trai gái thường đứng xích lại gần nhau hoặc cầm tay nhau khi hát.

Qua thực tế điền dã và gặp gỡ những nghệ nhân hát Đúm Phục Lễ, chúng tôi

được biết trước đây có ba hình thức diễn xướng hát Đúm trong xã hội cổ truyền:

+ Hát Đúm lẻ: Đây là hình thức hát ở mọi môi trường, mọi thời điểm, hát trên

đường đi chơi, hát trên cánh đồng, hát trên bến sông, có khi trong ngày hội ở sân đình,

sân chùa cũng có những đúm hát lẻ ...trai gái gặp nhau trao đổi tình cảm qua từng câu

hát; hình thức này mang tính tự do và phụ thuộc vào cảm xúc của người diễn xướng.

Mỗi nhóm có vài ba người ( chỉ có một giới nam hoặc nữ hát đối )

+ Hát Đúm hội: Là hình thức hát trong hội chùa làng ngày xuân với hình thức hát

đối nam nữ, thi thố tài năng giữa những người tham gia hát. Hát Đúm hội khuyến khích

sáng tạo nghệ thuật cho cả cộng đồng.

+ Hát Đúm hàng: Hình thức hát vòng ngoài của hội chùa, có đặc điểm khác so

với hát Đúm hội là mang tính trình diễn nghệ thuật hơn thi thố tài năng nghệ thuật. Theo

nhà nghiên cứu Đinh Tiếp thì hình thức này ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng thức

và tạo thú vui cho người dân, đặc biệt là tầng lớp thượng lưu thời Pháp.

Hát Đúm lẻ thuộc hình thức diễn xướng không theo lề lối, lời hát mang tính ngẫu

hứng của người diễn xướng. Trai gái gặp nhau, đối đáp một cách tự nhiên, hoàn toàn

38

không phụ thuộc vào không gian, thời gian, địa điểm. Họ có thể hát đối đáp bất kể khi

vui chơi, lúc lao động...

Hát Đúm hội và hát Đúm hàng thuộc hình thức diễn xướng có lề lối. Lối hát này

được thể hiện một cách bài bản qua mỗi cuộc hát, có những qui định chặt chẽ ở từng

chặng hát, bước hát.

2.2.3. Phương thức ứng tác trong quá trình diễn xướng

Ứng tác trong quá trình diễn xướng có vai trò hết sức quan trọng, nó quyết định

sự tồn tại và phát triển của nhiều loại hình dân ca giao duyên, trong đó có hát Đúm Phục

Lễ. Thường mỗi cuộc hát, người hát phải hát qua nhiều chặng . Mỗi chặng hát ít nhất từ

4-6 bài. Trong khi chuyển bước, bên nam hay bên nữ có những bài xướng ( hỏi hay đố)

mới lạ và thâm ý, khó giải. Nếu đại diện mỗi bên đang hát chưa tìm được lời đáp thì bạn

hát cùng nhóm có thể hát đỡ lời bằng lời ca vận dụng tài tình những câu thơ lục bát, thơ

bảy chữ, song thất lục bát… đầy cảm hứng sáng tạo. Đôi khi những ứng vận nhanh, xử

lí tình huống hay bằng những câu hát thông minh sẽ nhận được những tràng pháo tay

giòn giã của người xem hát, tăng tính hấp dẫn của cuộc hát.

Để hỗ trợ cho người hát, người có năng khiếu ứng tác câu hát cho người hát nên đúm

càng ngày càng đông, càng hấp dẫn, càng vui tươi. Hát mãi không chán. Có chàng bị thua

mất cả ô, áo... Có nàng không đáp lại được mất cả nón lại phải hát xin ô, xin nón. Trời tối rồi,

hẹn đến ngày mai hát tiếp. Tiếng đã quen, ánh mắt đã đưa tình mà chưa được thấy mặt hoa.

Cứ thế hết lễ hội, câu hát cứ níu chân người muốn ở lại. [ 25, tr.726]

Ứng tác thường mang tính ngẫu hứng, trong hát đối đáp khâu sáng tác và khâu

diễn xướng không tách rời nhau. Có những tình huống khi trai hoặc gái thua cuộc nhưng

không chịu để mất nón, mất ô nên họ đã ứng tác hát luôn bài hát xin nón, xin ô. Sau đây

là bài hát cô gái ứng tác xin nón:

Nón em chơi hội cầm tay

Chàng mà giữ mất buồn thay nỗi niềm

Nón em chẳng đáng đồng tiền

Sợ thầy mẹ mắng la liền đấy thôi

Nón này thầy mẹ mua nhôi

Xin chàng đưa nón em sẽ đền bồi mai sau.

( Sưu tầm )

39

Qua hình thức tạo Đúm và lề lối diễn xướng cho thấy hình thức diễn xướng giao

duyên trong hát Đúm Phục Lễ cổ truyền tuân theo qui định nghiêm ngặt thể hiện ở cách

tổ chức hát, thể lệ hát, trang phục hát, các bước hát thông qua ba chặng hát với hình

thức đối đáp, phương thức ứng tác. Tuy nhiên các bước hát có thể thay đổi vị trí hoặc

thêm bớt phụ thuộc vào nội dung cuộc hát và khả năng ứng vận của người hát theo hoàn

cảnh ( riêng hát chào, hát huê tình, hát ra về là các bước hát không thể thiếu trong hát

Đúm.)

2.3. Hình thức diễn xướng trong hát Đúm Phục Lễ ngày nay.

Hát Đúm Phục Lễ ngày nay về hình thức tạo đúm và lễ lối diễn xướng cơ bản

vẫn như hát Đúm Phục Lễ cổ truyền; Tuy nhiên có một số thay đổi cho phù hợp với

cuộc sống hiện đại.

2.3.1. Về hình thức tạo “Đúm”

2.3.1.1. Cách tổ chức hát

Ngày nay hình thức hát Đúm lẻ không còn nữa, chỉ còn tồn tại hình thức hát Đúm

cuộc. Vào cuộc hát trai gái vẫn phải tập trung theo đội, theo đoàn. Tuy nhiên cách thức

tạo đúm cũng có sự thay đổi, quá trình diễn ra một cuộc hát như sau: Tại sân chùa Phục

Lễ, ban tổ chức lễ hội xuân cho bày sẵn các bàn hát. Mỗi bàn có kê hai bộ tràng kỷ đối

diện nhau. Giữa bàn để hộp trầu và khăn tay thêu cành hồng làm tặng phẩm. Một bên

trai, một bên gái ngồi ở hai bên tràng kỷ, mặt đối mặt. Nếu chàng trai thích hát với cô

gái nào thì chủ động hỏi: “ anh hát với em?” hoặc “ tôi hát với cô?” . Nếu đồng ý thì cô

gái chìa tay cho bắt và cuộc hát bắt đầu, hai bên hát đối đáp. Bên nào không đối đáp

được là thua. Cứ như thế, hết đám này đến đám khác hát cho tận chiều tối.

2.3.1.2. Thể lệ hát

Về thể lệ, hát Đúm ngày nay cơ bản vẫn tuân thủ theo thể lệ cũ, nhóm hát phải đồng

giới ( nhóm nam hoặc nhóm nữ) và xấp xỉ cùng lứa tuổi... Trong khi hát đôi bạn phải cầm

tay nhau hát và hát xong mới bỏ tay nhau ra…

2.3.1.3. Trang phục hát

Ngày nay khi tham gia hát Đúm, nữ có thể thay trang phục cổ truyền bằng chiếc

áo dài thướt tha hay sự kết hợp của các trang phục truyền thống để tiện lợi, gọn gàng

hơn. Nam có thể cách tân trang phục cổ truyền với nhiều màu sắc hoặc thay bằng áo sơ

mi hay bộ com lê.

40

Tuy vậy, trang phục cổ truyền vẫn được những người nghệ nhân say mê hát Đúm

duy trì đến nay, để hội hát thực sự là một nét sinh hoạt văn hóa dân gian của cư dân

Thủy Nguyên.

2.3.1.4. Các bước hát:

Nếu như trước đây một cuộc hát Đúm có thể kéo dài từ sáng cho đến chiều, đến

tối và thậm chí có thể hát tiếp vào hôm sau thì hiện nay các bước hát trong mỗi cuộc hát

Đúm được rút ngắn do sự ấn định về thời gian ( nó bị chi phối bởi hình thức thi hát bốc

thăm chọn chủ đề trong hội thi và hình thức câu lạc bộ phát triển). Tuy nhiên người hát

vẫn phải chuẩn bị đủ các bước hát theo chặng hát vì khi tham gia thi người hát không

được biết trước chủ đề. Thứ tự các bước hát có thể thay đổi vị trí hoặc cắt bỏ cho phù

hợp phần nội dung thi song các bước hát chào, hát huê tình và hát ra về thì vẫn không

thay đổi giống như hát cổ truyền.

2.3.2. Lề lối diễn xướng

2.3.2.1. Diễn xướng theo các chặng

Trong xã hội hiện đại, một cuộc hát Đúm vẫn tuân thủ theo 3 chặng thông thường

của hát Đúm cổ truyền, ứng với 3 phần:

- Phần đầu là hát gặp ( có thể là lời chào hỏi, giới thiệu bản thân, làm quen giữa

các nhóm hát; còn trong hội thi hát Đúm hát gặp là lời chào hỏi, giới thiệu đoàn mình,

hỏi về đoàn bạn, làm quen, trình bày ước nguyện của mình và mừng cho nhau.)

- Phần giữa là hát theo chủ đề ( hát đố, hát họa, huê tình, hát ghẹo, hát thư, hát

lính, hát cưới...)

- Phần cuối cùng là hát ra về ( hát chia tay )

Ở cả ba chặng vẫn là một lối hát giao duyên theo trình tự diễn biến, phát triển

tâm lí của trai gái từ thăm dò, làm quen, khát vọng xe kết, mến yêu nhau, ước nguyện

gắn bó, tiến tới hôn nhân...

2.3.2.2 Diễn xướng theo hình thức đối đáp

Hiện nay hát Đúm chỉ còn tồn tại hình thức hát có lề lối “Đúm cuộc”( hình thức

hát lẻ không còn nữa). Trong hội chùa làng ngày xuân nam nữ hát đối, thi thố tài năng.

Ở nơi hát, người ta kê hai hàng ghế, một cho nam, một cho nữ (nữ chủ yếu là người làng

xã). Ai muốn hát thì xin phép ban tổ chức vào hát. Nam nữ ngồi đối diện, họ hát bằng

micrô và hát qua loa phóng thanh phát đi khắp các thôn trong xã. Trước khi hát có giao

41

kèo, bên nào thua thì phải mất cho bên thắng một vật gì đó, có thể là cái ô ,cái nón ,cái

áo...Ngoài không gian hát là sân đình, chùa thì không gian sân nhà văn hóa xã, nhà văn

hóa các thôn cũng là điểm hẹn thường niên của các câu lạc bộ và các cuộc thi hát Đúm.

2.3.2.3. Ứng tác trong quá trình diễn xướng

Trước đây, trong xã hội cổ truyền hát Đúm được tầng lớp trẻ yêu thích, say mê.

Trong quá trình hát, người hát với cảm xúc trào dâng, không ít lần đã xuất khẩu thành

thơ, đối đáp nhanh, ứng vận giỏi làm cho bạn hát cũng như du khách đến với hội xuân

phải trầm trồ thán phục.

Hiện nay ứng tác vẫn được coi là phương thức quan trọng, không thể thiếu trong

quá trình diễn xướng bởi nó quyết định sự duy trì và phát triển của hát Đúm Phục Lễ,

Thủy Nguyên, Hải Phòng nói riêng và hát Đúm Bắc Bộ nó chung. Trong xã hội hiện đại

khi hát Đúm ở nhiều nơi thuộc Bắc Bộ đã mai một hoặc thất truyền thì hát Đúm Phục

Lễ, Thủy Nguyên, Hải Phòng vẫn được lưu truyền và phát triển. Một trong những yếu

tố làm nên sức sống của hát Đúm Phục Lễ chính là lối ứng tác trong quá trình diễn

xướng. Lối ứng tác này làm cho nội dung hát Đúm giao duyên Phục Lễ ngày càng

phong phú và đa dạng hơn. Vào cuộc hát, trai gái say sưa hát đối đáp bằng những lời ca

giao duyên, trao tình. Cảm xúc càng lúc càng thăng hoa, cũng là lúc người hát bộc lộ

khả năng ứng vận giỏi của mình. Sau mỗi cuộc hát trai gái trong làng, ngoài làng học

thêm lẫn nhau nhiều bài hát mới, nhiều thuật ứng vận nhanh, tài tình và điều quan trọng

hơn những khúc hát giao duyên đã gắn kết tình cảm bạn bè, tình cảm lứa đôi.

Theo bà Phạm Thị Đáng ( Nghệ nhân hát Đúm Phục Lễ hiện nay), Hát Đúm

Phục Lễ được hình thành, phát triển cách đây mấy trăm năm và được duy trì đến ngày

nay cũng bởi phương thức ứng tác. Trong quá trình diễn xướng, hát đối đáp nam nữ, hai

bên liên tục bổ sung những yếu tố mới bằng lối ứng tác làm phong phú, đa dạng thêm

cho lời ca hát Đúm. Như vậy hát Đúm không chỉ dừng ở những lời ca bài bản có sẵn,

người hát thuộc lòng mà lời ca hát Đúm đã không ngừng được bổ sung làm mới bằng

những bài được ứng tác trong quá trình hát.

Hiện nay hát Đúm Phục Lễ ( hát Đúm tổng Phục xưa) đã có sự biến đổi, nó không

còn phổ biến như trong xã hội cổ truyền. Tuy nhiên, trên thực tế, hiện nay hát Đúm Phục

Lễ nói riêng và hát Đúm ở Thủy Nguyên - Hải Phòng nói chung vẫn tồn tại theo cách

riêng của nó.

42

* Tiểu kết chương 2

Chương viết đã trình bày về cách thức và phương pháp tiến hành của một cuộc hát

Đúm Phục Lễ truyền thống trong lễ hội và sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Chương viết

cũng đã tập trung giới thiệu, tìm hiểu về hình thức tạo “ Đúm” và lề lối diễn xướng của

hát Đúm cổ truyền, cung cấp cho người đọc một cái nhìn tổng thể về hình thức diễn xướng

của hát Đúm Phục Lễ xưa. Bên cạnh đó, hình thức diễn xướng của hát Đúm Phục Lễ trong

môi trường hiện đại cũng được đề cập tới với những tiếp thu và biến đổi cho phù hợp, đáp

ứng nhu cầu thưởng thức của người dân địa phương phục Lễ hiện nay, đồng thời hát Đúm

vẫn có sự tiếp nối không ngừng những nét đẹp truyền thống xưa.

Toàn bộ chương viết phần nào giúp người đọc tiếp cận và hiểu sâu, hiểu kỹ về

hát Đúm Phục Lễ - một loại hình dân ca giao duyên có lối diễn xướng độc đáo. Điểm

độc đáo của diễn xướng Phục Lễ thể hiện ở hình thức tạo “ Đúm”, tạo nên mối giao kết

nam nữ trong cuộc sống, thể hiện chủ đề giao duyên trong tình yêu. Ứng tác được coi

là yếu tố tạo nên giá trị nội dung phong phú, đa dạng của hát Đúm Phục Lễ. Diễn xướng

Đúm và lối ứng tác đã thực sự tạo nên bản sắc và sự bền vững cho hát Đúm Phục Lễ,

hát Đúm tổng Phục nói riêng và hát Đúm Hải Phòng nói chung

Chương 3

NỘI DUNG GIAO DUYÊN CỦA HÁT ĐÚM PHỤC LỄ

Trong tất cả các loại hình ca hát nam nữ truyền thống của dân tộc Việt Nam, phần

nội dung lời ca bao giờ cũng được qui định bởi lối hát giao duyên. Nhà nghiên cứu

Nguyễn Hữa Thu cho rằng “ Những bài hát giao duyên là do một bộ phận những bài hát

43

trữ tình tồn tại và phát triển trong một môi trường diễn xướng đặc biệt, lấy nội dung ca

ngợi tình yêu nam nữ làm cơ sở”[43, tr.233]. Đối với hát Đúm cũng vậy, có thể nói phần

lời hát chủ yếu trong hát Đúm Phục Lễ là hát giao duyên. Nội dung lời ca hát Đúm

phong phú, nhiều vẻ, phản ánh đa dạng đời sống tình cảm, hoàn cảnh lao động của con

người. Nó ghi lại tất cả các chặng đường tình yêu, các khía cạnh của tình yêu, các trạng

thái tình cảm của các chàng trai, cô gái Phục Lễ từ khi bắt quen, gặp gỡ, tâm sự tỏ tình,

hứa hẹn yêu đương chung tình, nguyện ước kết duyên chồng vợ... Cái hay của hát Đúm

được thể hiện trong ý tứ của lời ca. Nhiều câu hát Đúm mang tính chất chơi chữ và chất

“trạng” được hình thành trong quá trình hát để thử tài ứng đối của bạn hát.

Nội dung giao duyên của một cuộc hát Đúm có bài bản sẽ có những nội dung

chính sau được phản ánh thông qua các bước hát của từng chặng hát:

3.1. Khát vọng tình yêu trong buổi đầu gặp gỡ giao duyên

Mùa xuân, mùa của tình yêu, mùa của lễ hội và là mùa của những câu hát giao

duyên. Chính những câu hát giao duyên mời chào đầy quyến rũ, đã khiến trai gái Phục

Lễ háo hức, say mê trao nhau những lời ca ân tình trong buổi đầu gặp gỡ. Trong hát

Đúm cảm xúc buổi đầu gặp gỡ giao duyên được thể hiện rõ nét ở chặng một : Hát vào

đầu, trai gái gặp nhau hát chào hỏi, giao tiếp.

3.1.1. Những cung bậc cảm xúc trong buổi đầu gặp gỡ

Đến hẹn lại lên, trong lễ hội hát Đúm đầu xuân trai gái có dịp gặp gỡ nhau, đó là

môi trường để họ bày tỏ tình cảm, giao duyên. Khi gặp nhau các chàng trai thường hát

trước mời( Hát Mời) các cô gái tham gia vào cuộc hát giao duyên:

“... Tình cờ thấu nỗi tình cờ

Lòng đây lòng đấy biết cơ hội nào

Nên chăng “ý hợp tâm đầu”

Thì nàng cũng hát mấy câu cho tường.” [ 2, tr.9 ]

(Hát Mời)

Câu hát mời cất lên kín đáo thể hiện ý tình “lòng đây”,“ lòng đấy”, mong cho

anh và nàng“ý hợp tâm đầu”hiểu ý, cùng mong ước được gắn kết, cùng có chung tình

cảm với nhau . Đáp lại sự thiết tha, chân thành của chàng trai, cô gái nhận lời hát:

44

“Đêm qua sương gió lạnh lùng

Một mình đốt ngọn đèn chong đợi chàng

Hôm nay giữa đám hội làng

Gặp nhau bên ngọc bên vàng sánh đôi

....

Ví rằng duyên nợ ba sinh

Hỏi ai, ai có thấu tình chăng ai

Hôm nay đến hội vui chơi

Hát sao cho xứng lời mời của anh” [2, tr.14,15 ]

(Nhận hát)

Câu hát chân thành “ Hát sao cho xứng lời mời của anh” kết lại lời ca, song dư

âm buổi đầu gặp gỡ giao duyên với ước nguyện “ bên ngọc bên vàng sánh đôi”của cô

gái đang mở ra với bao hi vọng.

Hát gặp: Đến hội hát Đúm, trai gái Phục Lễ mong muốn gặp nhau .

Nam:

“...Hội tương phùng cùng nhau gặp gỡ

Cầm lấy tay than thở mấy nhời

Đi đâu vội thế nàng ơi

(Hát gặp)

Hay là ba chốn bốn nơi thế nào?...” [2, tr.10 ]

Nữ:

“...Hôm qua sớm đợi đêm chờ

Một mình ra ngẩn vào ngơ một mình

Hôm nay tình mới gặp tình

Duyên giời đưa lại chúng mình bên nhau

Gặp nhau mừng tuổi cho nhau

Mừng cho loan phượng hát câu ân tình...” [2, tr.15 ]

(Hát gặp)

Điều quan trọng sau mỗi câu hát là ý tình trai gái được bộc bạch. Trai gái làm

quen, ước mong gặp gỡ, gửi gắm tâm tình. Chỉ bằng một câu hỏi thăm dò đâu cần câu

trả lời, bằng cử chỉ cầm tay than thở đấy mà ước muốn đấy “ Hội tương phùng cùng

45

nhau gặp gỡ”. Lồng trong câu hát của buổi đầu gặp gỡ là ước vọng nhân duyên mỉm

cười. Gặp nhau, tình cảm trong lòng chi phối không buông nên những câu hát mới chỉ

là bắt đầu.

3.1.2. Lời chào bắt duyên

Tục ngữ có câu: “ Lời chào cao hơn mâm cỗ”, lời chào là một nét đẹp văn hóa,

nó thể hiện sự tôn trọng, quý mến và thuần phong mĩ tục của một dân tộc. Lời chào

không chỉ được thể hiện thông qua lời nói, cử chỉ, ánh mắt, nụ cười mà còn được thể

hiện thông qua lời ca, tiếng hát. Đặc biệt trong những ngày hội làng, sau khi trai gái đã

nhận lời hát đối đáp cùng nhau thì lời hát đầu tiên trong mỗi cuộc hát bao giờ cũng là

lời hát chào. Hát chào là bước không thể thiếu trong mỗi cuộc hát Đúm. Mỗi câu hát

chào cất lên đều thể hiện tấm lòng chân thành, giản dị mà nồng hậu của người hát.

Nam:

“ Chào quý chức nam nữ thanh tú

Đến hội xuân vạn sự bình yên

...

Đôi ta phận đẹp duyên may

(Hát chào)

Hát cho tình thắm những ngày xa nhau” [ 2, tr.8 ]

Nữ:

“ Thoạt vào em chào hội xuân

Em chào quý chức xa gần ngồi chơi

...

Mỗi năm gặp một lần thôi

Ngày vui ca hát để rồi nhớ nhau” [ 2, tr.15 ]

(Hát chào )

Lời hát chào cất lên tha thiết thể hiện niềm vui của người đến hội, đồng thời cũng

thế hiện tình cảm của người dân miền biển trong quan hệ gia đình, cộng đồng, xóm làng:

“ ... Hội nào bằng hội trưa nay

Bà già thong thả em đây chào bà

...

Chào các bác ngồi trên sau trước

46

Chữ tao khang tình ước bấy nay

Chào các bạn cùng đây dì bác

Ngồi thong dong êm ả mà chơi

Để em xin hát một bài

Xem rằng anh bạn thương tôi chăng là”

(Hát chào – sưu tầm)

Đằng sau lời hát chào của cả hai bên nam nữ không chỉ là tấm lòng họ gửi gắm

đến hội xuân mà còn là tình ý “Hát cho tình thắm”, là mong muốn “ Ngày vui ca hát để

rồi nhớ nhau”, là sự thăm dò ý tứ “Xem rằng anh bạn thương tôi chăng là”.

Hát mừng: Từ những lời chào gặp gỡ khi quen, họ dành cho nhau những lời chúc

mừng tốt đẹp trong dịp đầu xuân năm mới.

Nam:

“...Đã lòng tri kỉ cùng nhau

Gặp đây ta phải mừng nhau mấy nhời

Không thì già trẻ người cười

Mình ơi mừng lại mấy nhời cho may

Cũng là nguyệt lão xe dây

Xe cho mình đấy ta đây vuông tròn.” [2, tr.22]

(Hát mừng)

Nữ

“... Lưu thủy long vân nay hội ngộ

Ta gặp nhau mừng tuổi cho nhau

Trước mừng cha mẹ sống lâu

Một nhà hòe quế muôn màu tốt tươi

...

Em mừng hết cả mọi bên

Còn chàng mừng lại em thì cảm ơn

Bạn em rồi lại bạn chàng

Mừng sao cho vẹn cho tròn thì hơn” [2, tr.23 ]

( Hát mừng )

47

Ngày xuân gặp nhau, mừng tuổi nhau những lời chúc ý nghĩa không chỉ muốn

lưu giữ nét đẹp trong phong tục văn hóa truyền thống của người Việt mà lời hát mừng

còn là tiếng ca giao duyên thổ lộ tâm tình của trai gái. Lời hát mừng của trai gái Phục

Lễ gặp nhau cất lên sao mà tha thiết. Tha thiết không chỉ bởi tiếng xưng hô “ mình ơi”

đầy nhắn nhủ yêu thương của chàng trai, mà tha thiết còn bởi ý tình chàng trai với mong

muốn “nguyệt lão xe dây”, “Xe cho mình đấy ta đây vuông tròn”; cô gái cũng vậy, sau

những lời chúc mừng hết cả mọi bên đã không quên nhắn gửi “Còn chàng mừng lại em

thì cảm ơn” và “Mừng sao cho vẹn cho tròn thì hơn”. Chắc chắn chàng trai sẽ hiểu ý

tình và ước mong của cô gái “Lưu thủy long vân nay hội ngộ”, ước mong hòa hợp gắn

bó giữa đôi lứa trong tình yêu.

Trai gái gặp nhau trong hội hát, quen nhau, hát chào mừng bằng những lời chúc

tốt đẹp, thể hiện niềm vui gặp gỡ. Lời hát gặp, hát chào, hát mừng của trai gái trong

ngày hội làng không chỉ thể hiện tấm lòng tha thiết, nồng hậu của người hát gửi đến hội

hát, mà điều quan trọng là họ có cớ để gặp gỡ giao duyên, thổ lộ nỗi niềm, mong ước.

3.1.3. Lời mời xe kết tình thắm duyên nồng

3.1.3.1. Hát mời trầu

Với người Việt Nam, trầu cau là biểu hiện nét văn hóa độc đáo của dân tộc. Trong

mỗi cuộc hát giao duyên không thể thiếu miếng trầu bởi lẽ “ Miếng trầu là đầu câu

chuyện” “Xưa kia ai biết ai đâu / Chỉ vì điếu thuốc miếng trầu nên quen”. Trong những

câu hát quan họ giao duyên không thể thiếu “Mời trầu” :

“Trầu này trầu tính trầu tình

Ăn vào cho đỏ môi mình môi ta”

Miếng trầu cũng là điều kiện cho một cuộc hát Đúm giao duyên ở Phục Lễ :

“Không trầu em chắng hát đâu

Có trầu em hát vài câu tính tình”. [2, tr.27 ]

Việc mời trầu tưởng như đơn giản nhưng mời sao cho khéo, sao cho thể hiện

được sự chân thành tha thiết mà lại gửi gắm được cả ý nguyện của người mời qua miếng

trầu là điều mà trai gái Phục Lễ luôn để tâm :

Nam:

“ Miếng giầu mời khách tình xuân

An dăm ba miếng cho gần bên nhau

48

Giầu ăn có vỏ có cau

Có vôi có thuốc cho nhau vừa lòng

Giầu này kết mối tơ hồng

Xe cho nên vợ nên chồng thắm duyên

Miếng giầu ghi nhận lời nguyền

Để cho hai đứa bách niên một nhà” [2, tr.28 ]

(Hát mời trầu)

Nữ:

“... Miếng giầu là miếng giầu tình

Ăn vào biết nói với mình làm sao

Không ăn thì bảo làm cao

Ăn rồi lòng dạ nao nao nhớ chàng

Em xin nhận giầu vàng người đãi

Để nhớ chàng mãi mãi không quên...” [2, tr.31 ]

(Hát mời trầu)

Lời mời mộc mạc chân thành, da diết, chứa đựng bao ý, tình của người mời. Với

họ “Miếng giầu là miếng giầu tình”, thể hiện mong ước “kết mối tơ hồng”, “Xe cho nên

vợ nên chồng thắm duyên”, miếng trầu gắn với lời nguyện ước “hai đứa bách niên một

nhà”. Miếng trầu không bùa thuốc mà khiến lòng tương tư “dạ nao nao nhớ chàng”.

Đã ăn với nhau miếng trầu, phải chăng có sự ngầm bằng lòng hò hẹn . Qua hình tượng

miếng trầu, qua tư thế nâng niu trân trọng của người mời trầu, miếng trầu không chỉ mở

đầu câu chuyện mà ẩn chứa trong đó những tâm tình đầy ân ái. Lời mời trầu chính là lời

tỏ tình, giao duyên, lời giãi bày tình cảm:

“ Giầu này têm tối hôm qua

Quả cau sáu bổ thành ba rành rành

Miếng giầu cánh phượng xinh xinh

Ăn vào thắm đỏ môi mình môi ta

Có ăn thì dở giầu ra

Trước là mặn thuốc sau là nhạt vôi

Nhạt vôi ta lại thêm vôi

Ước gì ta được thành đôi vợ chồng...” [2, tr.34 ]

49

(Hát mời trầu)

Qua việc mời trầu, nhận trầu các cô gái thường bày tỏ tâm sự của mình, cũng như

để dò xét tấm lòng của chàng trai:

“...Không ăn thì sợ mất lòng

Ăn vào em biết đãi đằng làm sao

Những là rầy ước mai ao

Cầm giầu biết nói thế nào hôm nay

Không ăn thì bảo rằng cay

Ăn vào lại sợ giầu say chăng là

Giầu này tình nghĩa đôi ta

Chỉ mong tần tấn một nhà giao thông” [2, tr.35]

(Hát mời trầu)

Ăn trầu sẽ làm “thắm đỏ môi mình môi ta”, màu đỏ làm thắm duyên tình lứa đôi.

Hai tiếng xưng hô “mình”- “ta” ngọt ngào, lắng đọng chuyển thành “ta” (đôi ta) với

mong ước “thành đôi vợ chồng”, mong “ Tần Tấn một nhà giao thông”. Trong tục cưới

xin, hôn nhân thì “ Miếng trầu nên dâu nhà người”, miếng trầu là nguyên cớ bắt đầu

một tình yêu, một cuộc hôn nhân. Trầu cau là lễ vật để nhà trai chạm ngõ, đưa quà, xin

cưới, dẫn cưới... để tỏ tình cảm thuỷ chung. Trong mỗi câu hát giao duyên, đặc biệt giai

đoạn làm quen, tỏ tình thì miếng trầu là “bức thông điệp”, là “vật đưa tin” chứa đựng

nhiều tình cảm, nhiều ý nghĩa thiêng liêng để trai gái làng bày tỏ tình cảm, biểu đạt cách

đối nhân xử thế trọn nghĩa vẹn tình.

Trầu cau luôn tượng trưng cho tình yêu chung thủy, nồng thắm và hạnh phúc bền

chặt của lứa đôi. Trầu cau vừa mở ra, vừa kết nối sợi tơ lòng, thể hiện ngụ ý của bạn

hát gửi gắm lòng mình. Lời hát không dừng lại ở việc mời trầu đơn thuần, mời trầu còn

là cái cớ để người hát hướng đến ước vọng nhân duyên.

“...Giầu này nên rể nên dâu

Giầu này giao ước nên câu tính tình

Ta với mình giầu ăn một túi

Ta với mình chăn gối về sau

Gặp đây ăn một miếng giầu

Cho say lời hát thắm sâu tình đời...” [2, tr.35 ]

50

(Hát mời trầu)

Rõ ràng, miếng trầu không phải là miếng trầu bình thường mà là miếng giầu “nên

rể nên dâu”, “ giao ước nên câu tính tình” để “Ta với mình chăn gối về sau”. Câu hát

cất lên như khúc nhạc lòng ngân vang, tiếng hát giao duyên của đôi lứa hòa quyện kết

nên tình thắm duyên nồng, tình đôi lứa thêm đắm say ngọt ngào. Đó cũng là mơ ước

của bao chàng trai, cô gái khi đến với hội hát. Họ đâu có mặn vì thuốc, đâu có say vì

tình mà họ đã say vì lời mời thắm đượm ân tình.

“...Hữu tình ta gặp mình đây

Miếng trầu, điếu thuốc hẹn ngày sang chơi

Điếu xinh, giầu phượng nàng ơi

Cho duyên nhau thắm suốt đời yêu thương...” [2, tr.35 ]

( Hỏi điếu thuốc lào)

Bên cạnh hát mời trầu, còn hát mời thuốc, hát mời rượu...cũng là những câu hát

say duyên, say tình.

3.1.3.2. Hát mời thuốc

Nữ:

“...Điếu này đôi tay em bưng

Long vân nhật nguyệt vui lòng bạn loan

Điếu này chỉ có xiêm ban

Chờ người lịch sự thanh nhàn mới hay

Điếu này có cảnh rồng bay

Long vân hội ngộ, chàng say đứ đừ

Điều này tả cảnh tương tư

Lưng ong, thắt đáy y như nàng Kiều

Tài trai đức độ đáng yêu

Mời chàng xơi thuốc em chiều em thương” [2, tr.41 ]

(Hát mời thuốc)

Nam:

“...Ta say vì điếu mình xinh

Say vì vị thuốc của mình thương ta

Ước mong chung sống một nhà

51

Khi say khi tỉnh đều là có nhau...” [2, tr.42 ]

(Hát đối mời thuốc)

Đằng sau câu hát mời thuốc là tình cảm trai gái dành cho nhau. Cô gái thật tinh

tế trong việc thú nhận mình đang “tương tư”đang nhớ thương chàng. Chàng trai cũng

vậy, đâu có say vì vị thuốc mà say vì “mình thương ta”, muốn “chung sống một nhà”

và điều quan trọng là khi say khi tỉnh đều có mình bên ta.

3.1.3.3. Hát mời rượu

Nữ:

“...Hay là chàng ước rượu mơ

Để em kết chỉ se tơ cùng chàng

Yêu nhau nâng chén rượu hồng

Uống chung một chén cho lòng tỉnh say

Chén vui nhớ buổi hôm nay

Chén mừng xin cạn tỉnh say với tình...” [2, tr.43 ]

(Hát mời rượu)

Nam:

“ ... Cùng nhau nâng chén rượu đầy

Rượu thời chưa nhắp đã say tính tình

Say vì em đẹp em xinh

Say vì em có ý tình với anh

...

Uống cho hoa lá lung lay

Cho nàng cùng với anh say duyên tình...” [2, tr.35 ]

( Hát đối mời rượu)

Từ “tỉnh say với tình”, “say tính tình”, “có ý tình”, “say duyên tình” đến “kết chỉ

se tơ” mới là cái kết mong muốn của trai gái sau những câu hát say duyên, say tình.

Như vậy ở chặng một : hát chào ( bằng lời hát chào, hát gặp, hát mời trầu, mời

thuốc, mời rượu...) không đơn thuần là lời chào đầu xuân “mừng tuổi nhau”. Ẩn kín sau

lời chào ấy là ý tình, là ước nguyện bày tỏ tình cảm, lời mở đầu cho ước muốn giao kết

một mối tình, là mơ ước hạnh phúc lứa đôi...Điều chính là khát vọng tình yêu của các

chàng trai, cô gái Phục Lễ trong buổi đầu gặp gỡ giao duyên.

52

Có thể khẳng định nội dung “Khát vọng tình yêu trong buổi đầu gặp gỡ giao duyên”

là một đề tài chính yếu đóng vai trò mở đầu chủ đề giao duyên trong hát Đúm Phục Lễ. Ở

chặng một của cuộc hát, qua lời ca trai gái Phục Lễ đã nói lên Cảm xúc trong buổi đầu

gặp gỡ ; Mong ước gặp gỡ nên duyên; Khao khát tình thắm duyên nồng.

3.2. Những cung bậc tình cảm trong tình yêu đôi lứa

Nếu như hát chào, hát mừng xuân, mừng tuổi và hỏi thăm gia cảnh về nhau cùng

hát mời trầu, hát giao hẹn là các bước hát thuộc chặng một mở đầu cuộc hát thì chặng

hai mới là nội dung chính của cuộc hát thể hiện chủ đề giao duyên. Ở chặng hai là

chặng trai gái hát trao tình, thử tài nhau, bày tỏ tình cảm trong tình yêu đôi lứa (hát huê

tình), thử tài ứng đối qua hát đố, hát họa, mơ ước một cuộc sống hạnh phúc ( hát sắm,

hát cưới ), bày tỏ nỗi niềm tâm sự ( hát lính , hát thư),

3.2.1. Bày tỏ tình cảm trai gái qua hát huê tình

“ Gặp lúc trăng thanh gió mát

Thú vui nào bằng thú hát huê tình”

(Ca dao)

Hát Đúm hay nhất là phần hát huê tình, ở phần này lời ca phong phú, liên tục

được bổ sung. Đây là lúc trai làng, gái làng đã hiểu nhau hơn, những câu hát trao tình

say sưa, nồng nàn ngày càng sôi nổi, mê đắm. Trai gái thổ lộ tình cảm yêu thương, hờn

giận nhớ nhung và cả mơ ước hạnh phúc gia đình...câu hát huê tình là những câu hát dân

dã nói về tình yêu giữa trai và gái, giữa vợ và chồng, giữa những người yêu nhau mà

không lấy được nhau, nói về những hẹn hò, những gắn bó, những nhớ, những thương,

những hoài mong, những hi vọng được sống bên nhau cho đến lúc bạc đầu. Với những

câu hát huê tình thì tình yêu có muôn ngàn khía cạnh để phơi bày nguyện ước ...

Trong hát huê tình, câu hát tỏ tình và lời hứa hẹn yêu đương chung tình được coi

là những câu hát đẹp nhất, tiêu biểu nhất của lời hát tình yêu.

3.2.1.1. Tâm sự tỏ tình

Trong mỗi một cuộc tình, để đi đến một tình yêu đẹp, tình yêu được đơm hoa kết

trái như mộng ước của trai gái thì giai đoạn hò hẹn, tìm hiểu là không thể thiếu. Để rồi

mỗi khi nhớ về buổi đầu gặp gỡ giao duyên lòng người không khỏi bồi hồi xao xuyến

:“ Cái buổi ban đầu lưu luyến ấy / Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên”- ( Hồ Dzếnh)

53

Cao dao xưa có những câu dò hỏi nhau rất hay, rất tế nhị : “ - Đêm trăng thanh

anh mới hỏi nàng/ Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?/ - Đan sàng thiếp cũng xin vâng

/ Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?” Hay: “ Đường xa thì thật là xa,/ Mượn mình

làm mối cho ta một người./ Một người mười chín, đôi mươi,/ Một người vừa đẹp, vừa

tươi như mình”

Hát Đúm Phả Lễ cũng có những lời dò hỏi của chàng trai với cô gái thật chân tình:

“...Hôm nay nàng xuống đây chơi

Mời nàng ghé bộ vào chơi thăm nhà

Trước nữa thăm mẹ thăm cha

Sau nữa trò chuyện giữa ta cùng nàng

( Sưu tầm)

Trong lời ca hát Đúm Lập Lễ , lời tỏ tình cũng thật dí dỏm:

“...Tháng tròn như gửi cung mây

Trần trần một phận ấp cây cũng liều

Tiện đây xin hỏi một điều

Đài gương soi đến râu bèo này chăng”

( Sưu tầm)

Có muôn vàn cách tỏ tình khác nhau trong lời ca hát Đúm Phục Lễ. Trong những

khúc hát giao duyên ta bắt gặp những lời tỏ tình thông minh, khéo léo của trai gái Phục

Lễ ngay từ buổi đầu gặp gỡ :

Nam:

“...Một ngày là nghĩa tao khang

Gặp đây anh kết đá vàng làm ghi

Nhớ câu thiên tải nhất thì

Ái ân hai chữ phu thê cho thành

Có nhời hẹn mấy giăng thanh

Cho nên chỉ Tấn tơ Tần cùng nhau...”[2, tr.48]

(Hát huê tình)

Nữ:

“...Tình cờ chẳng hẹn mà nên

Gặp đây em muốn kết duyên giao hòa

54

Bướm đậu cành hoa lòng đà nhớ bướm

Hoa kia bướm lượn dạ thương chàng

Cho nên ghi tạc nhời vàng

Chữ tình chữ cảnh chữ duyên hảo cầu...” [2, tr.47]

(Hát huê tình)

Buổi đầu gặp gỡ nên quen, họ rất ý nhị trong việc bày tỏ mong muốn của lòng

mình. Chàng trai ước muốn “chỉ Tấn tơ Tần cùng nhau” còn cô gái rất tinh tế mượn

hình ảnh “ hoa, bướm” để thổ lộ “ dạ thương chàng” vì lẽ “em muốn kết duyên giao

hòa”. Đôi khi “ Tình trong như đã mặt ngoài còn e ” cô gái muốn “hẹn hò” yêu anh

nhưng vì còn e ngại nên “ chửa dám nói ra” thôi:

“...Gặp chàng ở hội hôm nay

Anh em thì vắng, mẹ thầy thì xa

Thẹn thùng, chửa dám nói ra

Chàng cầm tay hỏi, em đà mừng thay

Thực là cá nước, rồng mây

Cũng mong duyên bén đắm say vuông tròn...”[2, tr.74]

(Hát huê tình)

Câu hát cất lên, dường như người nghe đã cảm nhận được nỗi vui mừng “

mừng thay”, ước nguyện “mong duyên bén” của cô gái. Có lẽ cô gái đang thầm cảm ơn

cái “ cầm tay”chân tình , đúng lúc của chàng trai.

Qua những lời hát họ ướm hỏi nhau về gia đình, họ hàng, làng xóm giúp trai gái

gần gũi, hiểu và gắn kết với nhau:

“...Tuy rằng tay chửa cầm tay

Mối sầu trong dạ hồ đầy lại vơi

Biết bao nên chốn đứng ngồi

Cho em được biết khúc nhôi cửa nhà

Cho em biết mẹ biết cha

Sắt cầm sum họp một nhà tạo đoan

Bấy nay em dững thương chàng

Muốn xe chỉ thắm để vương tơ đào.” [2, tr.46]

(Hát huê tình)

55

Vì có tình ý nên cô gái mới dò hỏi “khúc nhôi cửa nhà”,“ Cho em biết mẹ biết

cha”, mới bày tỏ nỗi niềm “thương chàng”, ước muốn “ xe chỉ thắm để vương tơ đào”

đã bộc lộ . Và dĩ nhiên cô gái cũng không quên việc cho chàng “ biết ông biết bà”, “biết

cửa biết nhà”, “biết cậu biết cô” và lời dò hỏi thật thẳng thắn thể hiện bản tính bộc trực

của người miền biển “ta nổi cơ đồ nên chăng”

“...Cho chàng biết ông biết bà

Biết cửa biết nhà biết cậu biết cô

Gái tứ chiếng gặp khách giang hồ

Tiện đây ta nổi cơ đồ nên chăng.” [2, tr. 51]

(Hát huê tình)

Trong tình yêu, cần lắm lời tỏ tình và trao tình nghiêm túc, chân thành. Trai gái

Phục Lễ giãi bày tình yêu thông qua lời ca giản dị, mộc mạc đã phần nào bộc lộ bản chất

thẳng thắn, chất phác của con người lao động :

Nam:

“...Chưa có chồng thì nàng nói thật

Để cho anh định liệu sang chơi

Hai bên cha mẹ biết người

Cô dì chú bác càng vui nỗi niềm

Mừng cho rể thảo dâu hiền

Mừng cho hai đứa bách niên một nhà.” [2, tr.53]

(Hát Huê tình)

Nữ:

“...Chàng bao nhiêu tuổi xuân nay

Em vừa đôi tám, lông mày chưa sơ

Nếu chàng chửa có đâu chờ

Thì em sẽ lựa trao tơ cùng chàng

Trăm năm tình nghĩa đá vàng

Rằng em chỉ có yêu chàng từ đây” [2, tr.76]

(Hát huê tình)

Sự chân thành trong tình yêu, luôn là yếu tố cần thiết để trai gái tiến tới hôn nhân.

Điều mà các cô gái muốn biết về chàng trai khi yêu là “ Anh đà có vợ hay chưa/ Mà anh

56

ăn nói gió đưa ngọt ngào”- Ca dao. Trai gái Phục Lễ cũng vậy, họ muốn biết rõ ngọn

nguồn lạch sông về người mình đang muốn trao tình cảm “Chưa có chồng thì nàng nói

thật”,“Chàng bao nhiêu tuổi xuân nay” và điều quan trọng là đằng sau sự dò hỏi ấy là

hai bên họ hàng sẽ mừng cho “rể thảo dâu hiền”, “hai đứa bách niên một nhà”, cũng

như lời khẳng định “em chỉ có yêu chàng” của cô gái.

Cung bậc tình cảm qua mỗi câu hát tỏ tình trong hát Đúm Phục Lễ cũng khác

nhau, khi kín đáo rụt rè, tế nhị, khi lại thẳng thắn, bộc trực, mạnh mẽ, dứt khoát, táo bạo,

không úp mở, không quanh co thủ đoạn:

“...Em còn chờ đợi chàng đây

Như cá đợi nước như mây chờ rồng

Mây gặp rồng mây bay cuồn cuộn

Cá gặp nước con ngược con xuôi

Thủy chung có bấy nhiêu nhời

Sao chàng không lấy một người như em?.” [2, tr.52,53]

(Hát huê tình)

Em“chờ đợi chàng” với nỗi khát khao được so sánh như “cá đợi nước”, “mây

chờ rồng”. Cá không thể sống thiếu nước, mây không thể vắng rồng cũng như em không

thể sống nổi khi không có anh. Cá gặp nước sẽ tung tăng bơi lội, mây gặp rồng sẽ thêm

sức mạnh và em có anh sẽ có niềm vui, may mắn, hạnh phúc. Tâm trạng đợi chờ hối

thúc và cô gái đã không ngần ngại phát đi tín hiệu,“Sao chàng không lấy một người

như em?”. Một khi sóng lòng đã bắt được tần số của tình yêu thì chắc chắn được lời như

cởi tấm lòng, chàng trai sẽ thưa chuyện với cha với mẹ để anh rước nàng về dinh cho

thỏa lòng mong ước.

Thông thường trong quan niệm của người phương đông, người con trai luôn chủ

động trong tình yêu; song không phải vì thế mà người con gái luôn thụ động, phải giấu

kín tình cảm của mình bởi không gì có thể ngăn cấm được tiếng nói thổn thức của con

tim. Người con gái vùng biển đôi khi cũng mạnh dạn bày tỏ quyết tâm đến với tình yêu

một cách mãnh liệt, táo tạo, trào dâng như những con sóng:

“ Vợ chồng là nghĩa cố tri

Vậy nên em phải ra đi tìm chàng

...

57

Vợ chồng phận cải duyên Kim

Chốn gần chẳng hợp đi tìm chốn xa

Tìm về hội Phục quê nhà

Lòng giời đưa lại cho ta gặp mình

Trăm năm vì một chữ tình

Vậy nên ta phải tìm mình long đong.” [2, tr.87]

(Hát huê tình)

Cô gái trong câu hát trên thật mạnh mẽ, thật quyết tâm khi vượt qua rào cản của

lễ giáo phong kiến với định kiến “cọc đi tìm trâu” để đi tìm tình yêu đích thực của đời

mình. Mọi xa xôi, cách trở dường như không ngăn nổi quyết tâm để họ đến với người

mình yêu:

“...Bảy năm sông nước xa xôi

Khắp miền chưa gặp được người tình chung

May thay hạnh ngộ tương phùng

Rồng mây cá nước thỏa lòng ước ao

Tắm mát lên ngọn sông Đào

Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh...” [2, tr.73]

(Hát huê tình)

Khi gặp được người trong mộng, họ đã không ngần ngại bày tỏ suy nghĩ, tâm

trạng và chứng tỏ cho bạn tình biết mình đang chờ đợi, khắc khoải, mong ngóng tình

yêu biết chừng nào:

Nam:

“...Nhớ khi câu chuyện mở đầu

Bây giờ ta lại gặp nhau tự tình

Nhớ em giấc ngủ không thành

Mơ màng tưởng đến Châu Trần mà thương

Hôm nay ngày hội xuân sang

May sao anh lại gặp em chốn này

Cùng em trò chuyện dan tay

Giao ngôn cho bõ những ngày nhớ mong” [2, tr.67,68]

(Hát huê tình)

58

Nữ:

“...Từ khi mận bén đào tiên

Vắng chàng không lúc nào yên dạ này

Mấy khi hội ngộ rồng mây

Để mà tâm sự giãi bày cùng nhau

Sông Ngân Ô Thước bắc cầu

Muốn cho Tần Tấn với nhau một nhà...” [2, tr.57]

(Hát huê tình)

Sau những hẹn hò là những đêm thiếu ngủ với những giấc mơ hướng về nhau.

Họ mơ đến duyên Châu Trần với ước mong Tần Tấn được suốt đời bên nhau. Và những

tình cảm riêng tư được giãi bày qua câu hát:

“ Bóng giăng đã xế non đoài

Một mình luống những đứng ngồi chưa xong

...

Chưa đâu đẹp ý thanh tân

Chưa đâu chỉ Tấn tơ Tần nơi nao

Bây giờ gặp khách má đào

Gần xa chưa biết nơi nào bén duyên

May mà gặp khách thuyền quyên

Ngỏ ra lời ấy anh yên tấm lòng” [2, tr.47]

(Hát huê tình)

Trai gái Phục Lễ đã giãi bày nỗi tương tư qua lời ca hát Đúm. Tương tư làm cho

chàng trai “đứng ngồi chưa xong”, càng xa xôi “ non đoài” thì lòng càng nhớ thương.

Chàng trai mong ước kết duyên “chỉ Tấn tơ Tần”. Và đây nữa câu ca hát Đúm Phục Lễ

vẫn rất ý tình “Màn loan còn thiếu bạn hiền”đã tỏ bày nguyện ước của đôi ta “

chung sống suốt đời bên nhau”:

“...Màn loan còn thiếu bạn hiền

Gặp em chẳng khác gặp tiên đây rồi

Ví bằng có được như nhời

Thì ta chung sống suốt đời bên nhau.” [2, tr.75]

(Hát huê tình)

59

Còn cô gái “Tương tư nói chẳng nên lời”, đêm ngày “thương nhớ”,“chờ trông”

bóng chàng:

“...Thấy bóng chàng vào ra thấp thoáng

Mối sầu thêm ngao ngán ngẩn ngơ

Tình cờ khéo lẽ tình cờ

Lòng riêng đâu dám hững hờ với ai

Tương tư nói chẳng nên lời

Đêm thì thương nhớ ngày thời chờ trông...” [2, tr. 60 ]

(Hát huê tình)

Câu hát cất lên thể hiện nỗi niềm yêu của trai gái Phục Lễ, yêu nhau lòng luôn

hướng về nhau, thời gian đêm ngày với họ chỉ còn một “nhớ thương”, hai “mong đợi”,

ba“ chờ trông” khiến sầu tương tư càng thêm ngao ngán, ngẩn ngơ .

Yêu là nhớ, trong ca dao nhân vật trữ tình nhớ người đến quên ăn quên ngủ, nhớ

đến ra ngóng vào trông, đứng ngồi không yên: Nhớ ai bổi hổi bồi hồi / Như đứng đống

lửa như ngồi đống than thì trai gái Phục Lễ cũng đồng tâm trạng:

“Canh một ra đứng trông sao

Nhớ ai ngơ ngẩn biết bao nhiêu tình

...

Ngổn ngang tơ rối trong lòng

Năm canh ta chỉ nhớ mình cả năm”[2, tr. 80 ]

(Hát Ghẹo)

Đại từ phiếm chỉ “ai” kết hợp với điệp từ “nhớ” khiến câu hỏi nhớ ai càng thêm

day dứt. Bên cạnh đó các từ chỉ trạng thái như ra, vào, đứng, ngồi, nằm, ngóng, trông,

mong cũng diễn tả tâm trạng nhớ thương tới ngẩn ngơ, buồn bực, rối bời suốt năm canh

của nhân vật trữ tình.

3.2.1.2. Hứa hẹn yêu đương chung tình

Yêu nhau để rồi thương, rồi nhớ, rồi nguyện ước cùng nhau. Câu hát nghe như

một khúc tâm tình, lời thủ thỉ ân tình của đôi lứa đang yêu, lời thề nguyền “nguyện thề

ước hẹn” về một tình yêu thủy chung, bền chặt :

Xa xôi cách mấy dặm đường

Mỗi người một ngả ta thương nhau nhiều

60

Anh vẫn cứ thầm yêu trộm nhớ

Vẫn mong sao kim chỉ có đầu

Nguyện thề ước hẹn cùng nhau

Để cho hai đứa được hầu mẹ cha [2, tr.48]

(Hát huê tình)

Xa xôi cách trở không ngăn được nỗi nhớ niềm thương mà họ dành cho nhau “ta

thương nhau nhiều”. Yêu nhau, họ khao khát hướng tới một tình yêu thủy chung, gắn

bó keo sơn, một sự gắn kết bền vững giữa những trái tim yêu thương.

“Đôi ta chung một ước mơ

Thủy chung vàng đá hẹn hò cùng nhau.” [2, tr.72]

(Hát huê tình)

Khi đã trao gửi tình cảm cho nhau, trai gái nguyện gắn kết, thủy chung đến trọn đời:

“...Ngày xuân hây hẩy gió đưa

Duyên em vừa bén tận từ đào non

Có lời nguyện với nước non

Dẫu mà sông cạn đá mòn không tan...” [2, tr.58]

(Hát huê tình)

Đó là một cuộc tình duyên bền chặt, thủy chung, là lời thề với sông núi không gì

có thể lay chuyển tình đôi ta, dẫu “ sông cạn”, “đá mòn”. Xa nhau người ta không chỉ

nhớ nhung da diết mà còn lo lắng cho sự chung tình.

Nam:

“ ...Đôi ta nghĩa trọng tình thương

Mấy lời vàng đá nhắn nàng thủy chung” [2, tr.54]

(Hát huê tình)

Nữ:

“Xin chàng một dạ thủy chung

Chớ nghe bóng gió ngả lòng phai hoa.” [2, tr.67]

(Hát huê tình)

Thủy chung là phẩm chất tốt đẹp trong tình yêu. Khi yêu chàng trai cũng muốn

khẳng định sự chung tình:

“...Những mong tựa trúc kề mai

Để anh đèn sách văn bài sớm trưa

61

Xin đừng nghĩ ngợi nắng mưa

Để anh kết chỉ sớm trưa cùng nàng

Anh không phụ ngãi tham vàng

Xin đừng dạ bắc lòng nam như người

Suốt canh trường anh thời thổn thức

Anh cùng nàng kết tóc từ đây” [2, tr.45]

(Hát huê tình)

Yêu em “ Anh không phụ ngãi tham vàng” là lời thổn thức từ tâm can mà chàng

trai nhắn gửi tới người mình yêu cùng với nguyện ước “Anh cùng nàng kết tóc từ đây”.

Lời ca nguyện ước trong hát Đúm Phục Lễ đã ghi lòng tạc dạ bao đôi lứa yêu nhau và

họ cùng nhau hướng về tình chung:

“...Gặp đây xin dích lại đậy

Cùng nhau ta hát cho đầy tình chung

Trăm năm một dịp tương phùng

Ghi lòng, tạc dạ, ta cùng với nhau.” [2, tr.75 ]

(Hát huê tình)

Chỉ khi yêu nhau mà phải xa nhau thì nỗi nhớ mới càng cháy bỏng, đôi khi nó

mang hơi thở của sự khổ đau:

“...Trách chị nguyệt ra lòng độc địa

Xe nhân duyên mà để hững hờ

Bấy lâu kẻ đợi người chờ

Nhạn nam én bắc ngẩn ngơ sao đành...” [2, tr.55]

(Hát huê tình)

Hay:

“ ...Trót mượn thước bắc cầu sông vị

Có nên chăng chơi chị Hằng Nga

Duyên đôi ta vì đâu cách trở

Sổ nam tào biết thủa nào nhầm

Đã nguyền hai chữ đồng tâm

Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai” [2, tr.48]

62

(Hát huê tình)

Lại cũng có khi lời ca hát Đúm Phục Lễ thể hiện nỗi niềm thở than của người con

gái khi không vượt qua được lễ giáo phong kiến “ cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” để cho

“ lòng thiếp tủi thầm ”

“... Dù ai phụ ngãi quên công

Thì xin núi đổ cạn sông một giờ

Làm cho lòng thiếp ngẩn ngơ

Như chim lạc bạn bay khuya cõi ngoài

Trông ra bóng đã kề mai

Ngọn đèn thấp thoáng bóng người trí âm

Cho nên lòng thiếp tủi thầm

Trách cha trách mẹ còn cầm giá cao...” [2, tr.70]

(Hát huê tình)

Khi tình yêu đã đến, họ nguyện ước kết tóc xe tơ cùng nhau, sẵn sàng vượt qua

mọi thử thách trong tình yêu để khẳng định sự chung tình:

Mặn mà thiên lí hảo cầu

Tấm son thề với trên đầu xuân xanh

Dám đâu học thói yến anh

Mượn mầu giăng gió ra tình lửa thương

Gieo cầu nay đã vấn vương

Cùng chàng chọn đá thử vàng mà chơi [2, tr.68]

(Hát huê tình)

Yêu chàng trai, cô gái sẵn sàng vượt qua thử thách bởi “ Lửa thử vàng, gian nan

thử sức”, vẻ đẹp của lòng chung thủy càng ngời sáng hơn khi cô gái quyết tâm “Cùng

chàng chọn đá thử vàng”.

3.2.1.3.Ngợi ca tình yêu đôi lứa

Mùa xuân, mùa của những câu hát giao duyên, đến với lễ hội hát Đúm Phục Lễ,

không thể không đắm chìm vào những câu hát ấp ủ một tình yêu đẹp. Trai gái Phục Lễ

khéo léo mượn câu hát để tỏ bày tình cảm của mình, từ đây biết bao mối tình đẹp đẽ,

trong sáng đã nảy nở, đơm hoa thơm và kết trái ngọt.

“... Hội xuân ai đẹp như mình

63

Đã hay tiếng hát lại xinh miệng cưòi

Thực là tại bởi duyên giời

Xui nên ta gặp mình nơi hội này

Cũng là nguyệt lão xe dây

Xe cho mình đấy ta đây vuông tròn.” [2, tr.51 ]

(Hát huê tình)

Lời ca hát Đúm Phục Lễ chính là những câu hát ngợi ca tình yêu đôi lứa. Trai gái

Phục Lễ gặp gỡ, giao duyên, nguyện ước ... và tiến tới hôn nhân: họ mãn nguyện khi

gặp mối duyên tình như mong ước :

“...Nay mừng trúc đã sánh đào

Tơ hồng vấn vít buộc vào nên dây

Thực là rồng ấp lấy mây

Như chim Loan Phượng đậu cây ngô Đồng.” [2, tr.67 ]

(Hát huê tình)

Trai gái Phục Lễ khéo léo, thông minh, tế nhị trong việc mượn những hình ảnh

ẩn dụ “trúc”,“đào”,“rồng”,“ mây”,“loan phượng”,“ ngô đồng” để diễn tả nỗi vui

mừng, sự mãn nguyện, hạnh phúc khi họ gặp được mối duyên tình mong ước.

“...Tình cờ gặp được em đây

Như cá gặp nước như mây gặp rồng

Mây gặp rồng mây bay cuồn cuộn

Cá gặp nước, con ngược con xuôi...” [2, tr.73]

(Hát huê tình)

Đúng là có muôn ngàn khía cạnh đã được phơi bày qua hát huê tình; hát huê tình

là bước quan trọng và là trung tâm của cuộc hát. Hát huê tình là một chủ đề thuộc đề

tài giao duyên trong hát Đúm Phục Lễ. Ở đề tài Những cung bậc tình cảm trong tình

yêu đôi lứa, câu hát Huê tình được bộc lộ sâu sắc. Hát huê tình là khúc ca giao duyên

thấm đẫm nỗi niềm, nguyện ước, thủy chung...của đôi lứa yêu nhau. Khuôn mặt tình yêu

trong hát huê tình thật giống với khuôn mặt của người con gái tổng Phục khi xưa, dung

nhan của hát huê tình chỉ thực sự được chiêm ngưỡng khi muôn nốt nhạc giao duyên

hòa nhịp rung lên thổn thức.

3.2.2. Trai gái thử tài ứng đối qua hát đố, hát họa.

64

Nếu như hát giao duyên là những câu hát tình tứ thổ lộ tình cảm yêu thương, là

chủ đề hát mang tính cao trào, cảm xúc say sưa thì hát đố - giảng lại thể hiện sự hiểu

rộng, biết nhiều, tài ứng đối nhạy bén của người dân Phục Lễ, đồng thời đề cao tinh thần

học vấn.

Khi đối đáp giao duyên, trai gái còn thử tài nhau xem bạn hát với mình có thông

minh, nhanh trí hay không. Cô gái Đố chữ chàng trai:

Em là phận gái má đào

Gặp chàng em hỏi thấp cao sự tình

Sơn Sơn xuất,nhật nguyệt minh

Rằng những chữ ấy ở Kinh Pho nào ?

Chàng mà giảng được mới cao

Em xin kết nghĩa tương giao cùng chàng

Trót vì quân tử đa mang

Thì chàng hãy kể rõ ràng em nghe. [2, tr.114]

(Hát đố giảng)

Chàng trai Hát giải đố chữ như sau:

Bây giờ ta mới gặp mình

Thì ta sẽ kể sự tình gần xa

Sơn trên sơn dưới là chữ xuất gia

Chữ nhật chữ nguyệt gọi là chữ minh

Khen ai khéo bảo cho mình

Mà đi đố kể tài danh trên đời

Mình hỏi thì ta trả lời

Gọi là tình nghĩa ở đời có nhau. [2, tr.114]

(Hát đố giảng)

Giải đố chữ đấy nhưng chàng trai vẫn không quên nhắn lời ý tình “tình nghĩa ở

đời có nhau”. Mỗi câu hát là một hình thức thử tài văn chương, kiến thức của nhau, ướm

lời yêu đương "tìm hiểu" bằng nghệ thuật. Sau đây là câu hát Đố Kiều của cô gái:

Thấy chàng quân tử bao dung

Chàng đã thuộc tích trên sống Tiền Đường

Ví dù chàng có lòng thương

65

Xin chàng hãy kể tỏ tường thấp cao ?

Nàng Kiều ‘’định chết” nơi nao ?

Giác Duyên cứu được giờ nào biết không?

Hôm nay hội ngộ tương đồng

Mong chàng kể hết đục trong em tường

Một thương hai cũng rằng thương

Về sau thoát khỏi đoạn trường làm sao ?

Kiều- Kim tình nghĩa thế nào?

Thì chàng cũng ngỏ thấp cao em tường . [2, tr.115]

(Hát đố giảng)

Và đây là lời Hát giải đố Kiều của chàng trai:

Nửa đêm giờ tí nàng ơi

Mênh mang sống nước giữa trời Tiền Đường

Thúy Kiều phẫn uất khôn lường

Gieo mình xuống sóng Tiền Đường mênh mang

Giác Duyên vớt được rõ ràng

Đưa nàng tới chỗ thảo am tu hành

Về sau gặp được gia đình

Nhưng nàng thệ phát quyết tình xuất gia

Nàng hỏi thì anh nói ra

Đầu đôi câu chuyện để cho nàng tường

Ví dù nàng có lòng thương

Thì nàng đừng để tơ vương như Kiều. [2, tr.114- 115]

(Hát đố giảng)

Đố Kiều đấy mà lời cô gái sao thiết tha, gửi gắm nỗi niềm “ Một thương hai cũng

rằng thương”. Đáp lại yêu thương của cô gái, lời nhắn nhủ của chàng trai cũng không

kém phần da diết với mong muốn “nàng đừng để tơ vương như Kiều”.

Họ còn mượn câu hát để thể hiện trình độ hiểu biết của mình và thử tài bạn hát

trên nhiều lĩnh vực khác nhau về thiên nhiên, vũ trụ và những hiện tượng diễn ra trong

cuộc sống hàng ngày...Chủ đề ứng đối cứ như vậy thay đổi liên tục. Để ứng đối được

66

nhanh thì các bên đối đáp phải thuộc làu nhiều câu ca, lời hát, những câu tục ngữ cũng

như các tích truyện... Các chàng trai, cô gái “ứng vận nhanh”, “ trả lời khéo” sẽ được

mọi người cổ động bằng những tràng pháo tay giòn giã và lẽ dĩ nhiên họ sẽ dành được

cảm tình đặc biệt từ phía “người ấy”.

Qua mỗi lời hát đố, hát họa trai gái Phục Lễ đều khéo léo gửi gắm ý tình yêu

thương trong đó. Khi đố chữ cô gái đã hứa hẹn nếu chàng giải được thì “ Em xin kết

nghĩa tương giao cùng chàng” và khi gải đố chàng trai cũng gửi gắm mong muốn “

tình nghĩa ở đời có nhau”.

3.2.3 Mơ ước một cuộc sống lứa đôi hạnh phúc qua, hát cưới, hát sắm

Hát cưới: Sau khi đôi bên đã phải lòng nhau thì họ tiến hành hát cưới, thách cưới,

lễ vật cưới, thể hiện cho tình yêu đôi lứa đã chín muồi, đôi bên kết tóc xe tơ. Nội dung

hôn nhân với mơ ước về cuộc sống lứa đôi hạnh phúc được phản ánh rõ nét qua bước

hát cưới, hát sắm của cuộc hát.

Theo nhà nghiên cứu Đinh Tiếp: “ Hát cưới có thể xem như kết quả của cuộc

hát, của tình cảm. Trong loại này người ta cũng thường“ mỹ miều hóa” đám cưới của

mình hoặc nói một cách khoa trương hoặc đòi hỏi những thứ không thể nào có được”

[44, tr.24]

Lời ca hát cưới chính là kết quả của mối tình nồng thắm của trai gái. Họ luôn

khát vọng về một cuộc sống lứa đôi đầy đủ, hạnh phúc. Dù cuộc sống ruộng đồng có

nhiều khó khăn, thiếu thốn thì họ vẫn luôn sống lạc quan, yêu đời. Bằng cây bút thần kì

họ đã cường điệu hóa đám cưới của mình để dệt lên bức tranh cuộc sống đủ đầy mà trên

thực tế họ không thể có được:

Em là con gái nhà nghèo

Lấy chồng chẳng dám thách heo cùng gà

Chàng hỏi thì em nói ra

Chẳng trâu, chẳng lợn, chẳng gà chàng ơi!

Thách to, thiên hạ chê cười

Chàng mà hỏi đến, em thời làm cao

Xin chàng chín tấm lụa đào

Chín mươi hòn ngọc, chín mươi ông sao trên giời

Xin chàng chín nén vàng mười

67

Hoa tai chín chục, bạc thời chín trăm... [2, tr.133]

( Hát cưới)

Và chàng trai cũng đáp lại lời thách cưới của cô gái bằng những thứ chỉ có trong

giấc mơ bằng lời ca Đi cưới.

Nhà anh nghèo thật là nghèo

Đừng tưởng anh nghèo không cưới được em

Nghèo thì bán núi bán sông

Cưới em cho bõ cái công ra vào

Cuới em chín vạn ngôi sao

Trăm tấm lụa đào, muời cót trầu cau

Tàn quạt đủ che trên đầu

Xe ngựa người hầu đi đủ thì thôi

Cuới em chín trăm thúng xôi

Chín nghìn cót bạc, chín mươi “chum” vàng... [2, tr.139]

(Hát cưới)

Chàng trai hứa hẹn trong Hát sắm:

Lấy anh anh sắp sửa cho

Cần gì anh cũng sắp cho đủ đầy

Nàng về thưa với mẹ thầy

Cho anh đi cưới tháng này được chăng? [2, tr.140]

(Hát sắm)

Cô gái hình dung viễn cảnh sắm sửa đầy đủ cho chàng khi kết hôn:

Hỡi nguời đằng ấy kia ơi

Lấy em, em sắp đồ chơi cho chàng

Em sắm một bộ nhẫn vàng

Đồng hồ quả quýt vắt ngang bên mình

...

Ở đây phong cảnh nhà chùa

Không yêu, em cũng bỏ bùa cho yêu. [2, tr.141]

( Hát sắm)

68

Lời yêu của cô gái thật quyết liệt và ấn tượng “Không yêu, em cũng bỏ bùa cho

yêu” đầy mê hoặc.

3.2.4. Nỗi niềm tâm sự qua hát lính, hát thư

3.2.4.1. Tâm sự của đôi lứa qua hát lính

Trước kia, nam thanh niên trong làng thường lấy vợ rồi mới đi lính, nên lời hát

lính dùng để tiễn dặn người yêu trước khi lên đường, yên tâm chiến đấu thống nhất đất

nước là lời tiễn biệt, dặn dò của đôi lứa trước khi xa nhau.

Ngoài đề tài tình yêu nam nữ, hôn nhân và gia đình, nội dung lời ca hát Đúm còn

phản ánh dấu ấn lịch sử xã hội mà những đôi trai gái yêu nhau, những đôi vợ chồng trẻ

phải trải qua. Điển hình là nội dung lời ca hát lính trong hát Đúm Phục Lễ với những

bài hát nói về cuộc chiến tranh thời phong kiến, bày tỏ tâm sự của những người vợ phải

xa chồng, những cô gái đang thời xuân sắc phải sống trong cảnh loạn lạc chia ly:

Nam:

Đế Thành giục giã chư dinh

Chinh quân ngao ngán, khuê tình ngẩn ngơ

Lệnh tướng sĩ ngọn cờ tiếng trống

Nỗi thê noa này bỗng nhớ thương

Bóng cờ nhạc ngựa trên đường

Sầu kia nỗi nọ ngổn ngang trăm bề...” [2, tr.143 ]

( Hát lính)

Nữ :

Thủa trời đất nổi cơn gió bụi

Khách má hồng nhiều nỗi chuân chuyên

Xanh kia thăm thẳm từng trên

Vì ai gây dựng cho nên nỗi này

...

Xin chàng cứ thẳng đường mây

Mài gươm rèn chí thẳng tay diệt thù

Giặc tan chàng lại trở về

Cờ bay trống giục bạn bè mừng vui

69

Chàng đi góc biển chân giời

Khi về chàng thiếp ở đời bên nhau. [2, tr.144 ]

( Hát lính)

Nam:

Anh đi góc bể chân trời

Cửa nhà anh cậy có người tình xuân

Sớm hôm công việc tảo tần

Thờ cha kính mẹ thay anh cõi ngoài

Ngày mai lộc nước hương giời

Vưa ban sắc chỉ ta thời hiển vinh.” [2, tr.145 ]

( Hát lính)

Nữ:

Duyên kết bạn mình ơi

Ông tơ thật khéo đa đoan

Chàng lo việc nước thiếp toan việc nhà

...

Ước gì gần gũi tấc gang

Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay

Những mong cá nước vui vầy

Hàn huyên cho bõ những ngày xa nhau. [2, tr.146 ]

( Hát lính)

Tâm sự của trai gái trong hát lính là nỗi buồn sầu trong cảnh chia li, xa cách. Nỗi

buồn sầu từ hai phía “chinh quân ngao ngán”, “khuê tình ngẩn ngơ”và “Sầu kia nỗi nọ

ngổn ngang trăm bề”. Những câu hát mang hơi hướng của Chinh phụ ngâm, dằng dặc

nỗi sầu thương. Xa nhau, nhớ nhau, họ hướng về nhau bằng những lời hứa hẹn chung

tình “Khi về chàng thiếp ở đời bên nhau”, mong ước đươc gần nhau để “Hàn huyên cho

bõ những ngày xa nhau”. Mỗi câu hát Đúm cất lên đều thể hiện nỗi niềm nhớ nhung

da diết, những lạnh lẽo hắt hiu của người phụ nữ chờ chồng ra nơi tiền tuyến.

3.2.4.1. Nỗi nhớ niềm yêu qua hát thư

Sau khi đi lính, người vợ ở nhà nhớ thương, mong chờ, nên mọi người đã nghĩ

70

ra câu hát thư. Trong hát Đúm ta bắt gặp không ít lời ca thể hiện tâm trạng bồn chồn nhung

nhớ. Tâm trạng nhớ thương càng thêm khắc khoải khi xa cách:

“ Nước non cách mấy dặm khơi

Nhớ thương hết đứng lại ngồi không quên.” [2, tr. 78 ]

( Hát ghẹo)

Không gian sông núi như chất chứa nỗi niềm thương nhớ của đôi lứa xa nhau.

Có nỗi buồn nào lớn hơn nổi buồn xa cách trong tình yêu. Tâm trạng nhớ nhung da

diết đã được hát Đúm Phục Lễ diễn tả sâu sắc qua hát thư với những lời ca thấm đẫm

nỗi niềm:

Nam:

“...Mong thư đưa đến tay nàng

Để cho cha mẹ họ hang được hay

Rằng tần tấn từ ngày gặp gỡ

Chốn thư phòng thương nhớ biết bao

...

Ngày sáu khắc một chờ hai đợi

Đêm năm canh như gợi cơn sầu

Giấc hòe chẳng nhắp canh thâu

Giấc mê phút bỗng nằm lâu giật mình

Mấy ai xét tấm tình chăng nhé

Tấm lòng riêng như xẻ làm đôi.” [2, tr.90 ]

( Hát thư)

Nữ:

“...Thư em đưa đến tay chàng

Lòng càng thương nhớ dạ càng ngẩn ngơ

Đêm nằm chửa nhắp đã mơ

Biết rằng quân tử còn chờ em chăng

Trước rèm thấp thoáng bóng giăng

Duyên giời xe sợi xích thằng đôi ta

Chàng ở xa biết chàng có tỏ

71

Em bên này thương nhớ chàng thay.” [2, tr.89 ]

( Hát thư)

Lời ca hát Đúm mang nỗi niềm của trai gái xa cách trong chinh phụ ngâm với nỗi

niềm đau đáu nhớ thương, dằng dặc nỗi sầu quặn thắt trong tim khiến “lòng riêng như

xẻ làm đôi”. Thương nhớ hóa tương tư, tâm trạng chàng trai đang yêu say mê đến độ si

tình với tất cả sự bồn chồn, lo lắng, sầu thương chất chứa đầy vơi:

“... Những là trộm dấu thầm yêu

Giá đem lá thắm mà điều chim xanh

Lại e thương nhớ dùng dằng

Ngẩn ngơ trách lẫn ông giăng dọc đường

.....

Những là chin đợi mười chờ

Hẹn ngày chắp mối duyên tơ với mình

Nay anh cậy nhạn thư truyền

Để nàng thấu hết nỗi niềm tương tư.” [2, tr.88 ]

(Hát thư)

Sự xa cách về địa lí không ngăn được tình cảm họ dành cho nhau. Sự xa cách đó

như một động lực thôi thúc họ nhớ nhung, lo lắng và hướng về nhau:

“...Xa xôi cách mấy dặm đường

Mỗi người một ngả ta thương nhau nhiều

Anh vẫn cứ thầm yêu trộm nhớ

Vẫn mong sao kim chỉ có đầu

Nguyện thề ước hẹn cùng nhau

Để cho hai đứa được hầu mẹ cha...”[2, tr.99 ]

(Hát thư)

“Thầm yêu trộm nhớ” chàng trai đã khéo léo trong việc thăm hỏi cha mẹ, họ

hàng với lời chúc yên bình, khẳng định tình duyên ấp ủ đã lâu và không quên điều mình

đang quan tâm hàng đầu “ Hỏi nàng đã có duyên lành đâu chưa?”

“...Bút hoa anh tả bức thư

Nhạn hồng mang lại mà đưa cho nàng

72

Trước thăm thái nhạc ninh khang

Quý hương điền dã dọ dương yên bình

Tình duyên ấp ủ trăm năm

Hỏi nàng đã có duyên lành đâu chưa?...” [2, tr.101]

( Hát thư)

Trước sự chân thành của chàng trai, cô gái cũng thẳng thắn bày tỏ mong ước

được kết mối tơ duyên cùng chàng:

“...Ví dù chàng có lòng thương

Thì nhờ chim nhạn như sang bên này

Để em thưa với mẹ thầy

Tơ duyên ta sẽ chọn ngày kết giao.” [2, tr.99 ]

( Hát thư)

Yêu nhau, nhớ thương khôn nguôi, mong ước gần nhau, nỗi nhớ dường như đi

sâu vào tiềm thức với những đêm thao thức mất ngủ, chàng trai tưởng như người mình

yêu đang rất gần, mơ tưởng đang chung sống cùng nàng:

“...Nên chăng cũng quyết mấy thời

Không nên cũng tỏ khúc nhôi giãi lòng

Đừng để anh nay mong mai đợi

Nỗi tương tư bối rối gan vàng

Có đêm thao thức mơ màng

Tưởng rằng nàng đã bên màn bên chăn...” [2, tr.96 ]

(Hát thư)

Câu hát trực tiếp thể hiện trạng thái tình cảm của chàng trai bằng kết cấu trần

thuật, thông qua những ngôn từ bình dị, mộc mạc, gần gũi với chủ thể trữ tình. Câu

chuyện tình yêu được giãi bày cùng với lời nguyện ước:

“...Chàng ơi nhận bức thư này

Em đã tỏ hết niềm tây cho tường

Em nào có tơ vương chỗ khác

Ai ngả nghiêng tệ bạc mặc ai

Những lời trúc hứa với mai

73

Em còn ghi nhớ không sai dạ vàng.” [2, tr.89]

(Hát thư)

Họ không thôi mơ ước về một tương lai gắn kết tình duyên đôi lứa thủy chung,

bền vững:

“...Ngày mai chỉ thắm duyên xe

Tình ta gắn bó nguyện thề trăm năm...” [2, tr.99 ]

(Hát thư)

Cũng giống như nội dung hát huê tình, ở hát thư chúng ta thấy có đủ các cung

bậc tình cảm của trai gái yêu nhau. Có thể nói với những câu hát thư một lần nữa tình

yêu được thể hiện với muôn ngàn khuôn mặt. Nó góp phần làm cho đề tài giao duyên

trong hát Đúm Phục Lễ thêm phong phú, đa dạng.

Trong hát huê tình, hát thư, hát sắm, hát cưới, bằng những khúc hát yêu thương

trai gái thổ lộ tình cảm nhớ nhung, buồn sầu, giận hờn, lúc nồng nàn say đắm, khi sôi

nổi, mãnh liệt và dù trong hoàn cảnh nào thì tiếng hát ấy cũng thể hiện mơ ước về hạnh

phúc gia đình. Đây là điểm tương đồng với các loại hình hát giao duyên khác như hát

Ví dặm, hát Quan họ, hát Trống Quân, hát Xoan, hát Ghẹo... Tuy nhiên bên cạnh những

nét tương đồng đó, hát Đúm Phục Lễ nói riêng và hát Đúm Hải Phòng nói chung còn

mang những nét đặc trưng riêng của người dân vùng ven biển Hải Phòng.

3.2.5. Bài ca tình yêu in dấu ấn vùng đất, nghề nghiệp, giai đoạn lịch sử

Trong xã hội cổ truyền, lời ca hát Đúm Phục Lễ mang đậm dấu ấn văn hóa của

vùng đất ven biển, thuần nông, chủ yếu trồng trọt, chăn nuôi là chính, cây lúa là chủ

lực. Lời hát đối đáp giao duyên sau đây của trai gái Phục Lễ in rõ dấu ấn nghề nông:

Nam:

Duyên kết bạn tình ơi

Gặp em trên cánh đồng làng

Tay em thoăn thoắt thẳng hàng lúa khoai

Áo em ánh cúc khuy cài

Má em ửng đỏ thắm tươi dịu dàng

...

Nếu tình thắm đượm tơ duyên

74

Xe hoa anh sẽ rước nàng về dinh

Đẹp đôi hai đứa chúng mình

Như loan với phượng chung tình kết giao [2, tr.175]

( Hát huê tình)

Nữ:

Duyên kết bạn tình ơi

Gặp anh ở chốn đồng quê

Anh khen em giỏi tay nghề đảm đang

Trồng rau cấy lúa thẳng hàng

Nâu sồng nhuộm vải sao chàng quá khen

...

Mẹ cha đẹp ý chiều lòng

Thì em xin nhận lời anh hẹn hò

Nếu mà chỉ thắm xe tơ

Phượng loan ta định ngày giờ về dinh. [2, tr.176]

( Hát huê tình)

Ngoài cấy lúa, dân địa phương Phục Lễ còn có nghề dệt vải (nổi tiếng trong

vùng). Hình ảnh người phụ nữ cấy cày, quay tơ dệt vải đợi đợi chờ chồng đi chinh chiến

thấm đẫm nỗi niềm:

...Lửa thù rực cháy trong tim

Thực dân còn muốn chôn ghìm chân ta

Thì chàng còn phải xông pha

Em còn sản xuất tăng gia cấy cày

Quay - quay cho cán xa quay

Cho tơ óng chuốt em may áo chàng

Hẹn ngày chiến thắng vinh quang

Bõ công em đợi chờ chàng chàng ơi

Chàng đi góc biển chân trời

Hậu phương em phải là người đảm đang

Ngày mai thiếp lại cùng chàng

75

Sống vui như phượng với loan một nhà. [2, tr.155]

(Hát lính)

Và đây là lời ca mạnh mẽ, dí dỏm của chàng trai vùng ven biển quen nắng gió.

Anh nay là giai Hải Phòng

Chạy tầu “Phỉ hổ” vào trong Ninh Bình

Thấy em duyên dáng xinh xinh

Liệu cho anh kết duyên tình được chăng

Mười hai cửa bể, anh đã cắm đăng

Cửa nào sẵn cá, anh quăng chài vào...[2, tr.72]

( Hát huê tình)

Những câu hát lính được coi là bài ca tình yêu in đậm dấu ấn một giai đoạn lịch

sử của địa phương Phục Lễ:

Tiễn chàng lòng dặc – dặc buồn

Bộ khôn bằng ngựa – Thủy khôn bằng thuyền

Nước có chẩy, lòng phiền khôn rửa

Cỏ có thơm, dạ nhớ chẳng khuây

Xin chàng cứ thẳng đường mây

Mài gươm rèn chí thẳng tay diệt thù

Giặc tan chàng lại trở về

Cờ bay trống giục bạn bè mừng vui

Chàng đi góc biển chân giời

Khi về chàng thiếp ở đời bên nhau. [2, tr.166]

(Hát lính)

Hát lính góp phần làm nên nét riêng đặc biệt cho hát Đúm Phục Lễ mà ở những nơi

khác không có.

3.2.6. Tình yêu quê hương, đất nước

Trong hát Đúm, cảnh sắc thiên nhiên hiện lên thật rõ nét, vẻ đẹp thiên nhiên nơi

đây hòa quyện vẻ đẹp con người tạo nên một bức tranh chân thực, sinh động, nhiều màu

sắc.

“...Chùa làng mái uốn cong cong

Long ly quy phượng tứ linh rồng chầu

76

Về đây còn lắm anh hào

Ngắm xem địa lý đẹp sao một vùng

Nước thông thủy hai dòng chảy lại

Cửa chùa ta có lải chảy qua

Thật là phong phú tài hoa

Đinh đa rồi lại điền đa sang giầu...”[2, tr.22]

(Hát mừng)

Đến với các bài hát họa, hát đố chúng ta như lạc vào thế giới mênh mông của

sông nước mây trời (họa sông, họa núi, họa mây); như lạc vào thế giới cỏ cây, hoa lá;

như được thưởng thức mùi vị, hương sắc của hoa trái bốn mùa ( họa hoa, họa quả); như

được thả tâm hồn vào thế giới của những loài chim, loài cá ( họa chim, họa cá ).

Sau đây là một đoạn cô gái Hát họa mây:

“Gió thì anh đã họa rồi

Còn mây em họa anh thời nghe tinh

Mây hồng là buổi bình minh

Phía đông rực rỡ vô cùng sáng tươi

Hoàng hôn một áng mây trôi

Vàng hung lãng đãng đưa giời về đêm

Mây xanh giời chẳng có cơn

Mây cao lồng lộng xanh rờn càng xanh

...

Mây và gió chúng mình đã họa

Tình gió mây dường đã keo sơn.” [2, tr.129 ]

(Hát họa mây)

Chàng trai Hát họa quả:

“Có hoa, có quả mới hay

Hoa nàng đã họa, quả rầy để anh

...

Ngàn thứ quả ngọt chua đều có

Còn quả tình mình đó ta đây

Nếu mà cá nước rồng mây

77

Thì ta mua hết trái cây tặng nàng

Đời vui đũa ngọc mâm vàng

Hoa thơm quả ngọt ta càng thương nhau.” [2, tr.130 ]

( Hát họa quả)

Qua lời ca giao duyên trai gái thể hiện sự hiểu biết, gắn bó sâu sắc với thiên nhiên,

vẻ đẹp tâm hồn của người dân Phục Lễ, đồng thời thể hiện tình yêu quê hương, đất nước

tha thiết.

3.3. Trai gái chia tay nhau bịn rịn, quyến luyến ( Hát ra về )

Các đôi trai gái gặp nhau, hát chào hỏi, hát giao duyên…Giờ phải chia tay nhau,

họ vẫn còn lưu luyến nên đã dùng những câu hát để chào ra về, thông qua đó để thấy

được tình cảm hai bên quyến luyến không muốn rời nhau.

Hát ra về là những câu hát thuộc chặng kết thúc cuộc hát. Trai gái hát những câu hát

trữ tình day dứt được cất lên từ nỗi lòng sâu kín, những lời hát, bâng khuâng, lưu luyến, những

yêu đương, thương nhớ, những xa cách, chia ly, những hứa hẹn, đợi chờ, hy vọng và cả nỗi

đau:

“Nàng ơi đừng vội ra về

Hội đang vui thế ra về làm sao

Mận vừa mới tỏ lòng đào

Tình đang tha thiết dạt dào yêu thương

...

Ra về gió Sở - mây Tần

Ngựa Hồ - chim Việt biết làm sao đây

Dao vàng cắt ruột anh nay

Không bằng nàng vội chia tay ra về” [2, tr.161 ]

(Hát ra về )

Hát ra về cũng để nói lên cảm xúc khi chia tay nhau, tiếp theo hát trao ô, trao

mũ, trao khăn, trao nón, hay hát xin lại mũ nón, ô, khăn đã gửi nhau khi vào hội hát,

cùng lời ca hẹn hò gặp lại, dặn dò nhau với ước mong gặp lại nên nghĩa bạn đời, nên

tình gia thất, và gặp lại buổi hát ngày mai, hay hội hát mùa sau lại được say đắm trong

tiếng hát của nhau.

78

“...Mình về để dạ ta sầu

Để ô, đẻ nón, để giầu ở đây

Cùng ta, ăn miếng giầu cay

Giầu say vì thuốc, hay say vì tình

Mình ơi! Ta hỏi thật mình

Cho ta kết nghĩa chung tình được chăng

Thương mình quý giá vô chừng

Trèo non quên mệt, ngặm gừng quên cay

Ra về tình trúc, nghĩa mai

Thề rằng trúc chỉ yêu mai trọn đời

Mình ta đã hợp duyên rồi

Ra về xin chớ đứng ngồi cùng ai.” [2, tr.164]

(Hát ra về)

Điều làm cho người nghe day dứt nhất cũng chính là những lời hát khi trai gái

chia tay nhau. Còn gì buồn hơn khi phải chia tay người mình vừa mới gặp, làm quen,

vừa bén duyên nên khi họ quay chân lui bước cũng là lúc những giọt nước mắt luyến

tiếc bắt đầu rơi.

Nữ:

“... Ra về dạ những bồi hồi

Mai thời nhớ Trúc, Trúc thời thương Mai

Ra về kẻo tối chàng ơi

Dặn chàng từng có đứng ngồi với ai

Ra về, em dặn một hai

Dặn chàng đã thắm đừng phai trên đường

Ra về chân bước bên đường

Bước đi một bước, nửa thương, nửa sầu

Ra về chín khúc ruột đau

Chàng ơi, xin nhớ trước sau một nhời

Hai ta phận đẹp duyên hài

Đừng nghe những tiếng vẽ vời dèm pha

Hẹn mai mình lại gặp ta

Cùng nhau bàn chuyện thất gia – Châu – Trần”. [2, tr.164-165]

79

(Hát ra về)

Nam :

“Đương vui, nàng vội ra về

Làm anh bối hối trăm bề nàng ơi!

Tay bưng chén rượu tam khôi

Tay gạt nước mắt, nàng ơi, đừng về

Đương vui mình trở ra về

Tưởng thành gia thất, ai ngờ dở dương

Giầu ngon ai hái nửa sương

Cau ngon nửa chẽ, người thương nửa chừng

Yêu nhau quý giá vô cùng

Trèo non quên mệt, ngậm gừng quên cay

Dao vàng cắt ruột anh nay

Không bằng nàng vội đan tay ra về

Nàng về anh chửa cho về

Anh nắm vạt áo, anh đề câu thơ

Câu thơ ba chữ rành rành

Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Tình là ba

Chữ Hiếu thờ mẹ kính cha

Chữ Trung – làng nước đôi ta chữ Tình.” [2, tr.165 ]

(Hát ra về)

Chúng tôi thống kê có 17 bài hát ra về (trong tổng số 213 bài hát Đúm) được chia

làm 8 lượt đối đáp nam nữ . Điệp khúc “ ra về” lặp đi lặp lại tới 93 lần. Có những bài “

ra về” được nhắc tới 11 lần . Đúng là ra về nuối tiếc, ra về nhớ thương. Tiếng gọi chàng

ơi, nàng ơi nghe da diết khắc khoải, ra về có lưu luyến dùng dằng “ Bước đi một bước,

nửa thương, nửa sầu”, có nỗi đau “Ra về chín khúc ruột đau”, “Dao vàng cắt ruột”, có

nước mắt “tay gạt nước mắt”, có tiếng lòng thổn thức “nàng ơi đừng về”.

Qua nghiên cứu, tìm hiểu cũng như phân tích dưới góc độ văn học, chúng tôi thấy

đề tài giao duyên trong hát Đúm Phục Lễ vô cùng phong phú và đa dạng. Nếu coi mỗi

một đề tài giao duyên là một khuôn mặt, chúng tôi xin khẳng định hát Đúm giao duyên

Phục Lễ có nhiều khuôn mặt. Mỗi một khuôn mặt mang một vẻ đẹp riêng được thể hiện

ở nội dung từng đề tài; song điểm sáng hội tụ kết tạo nên giá trị hát Đúm Phục Lễ chính

80

là nội dung giao duyên với những giai điệu tình yêu rung lên thổn thức, gọi về nỗi niềm

riêng của trái tim hòa chung nhịp đập tình yêu đôi lứa.

* Tiểu kết chương 3

Chương viết đi sâu tìm hiểu những giá trị nội dung của chủ đề giao duyên trong hát

Đúm Phục Lễ - Thủy Nguyên- Hải Phòng. Giao duyên là một đề tài lớn trong dân ca trữ tình

của mọi dân tộc. Đề tài giao duyên trong hát Đúm Phục Lễ khá phong phú, được thể hiện bởi

nội dung lời ca đa dạng qua các bước hát. Đó là khát vọng tình yêu trong buổi đầu gặp gỡ

giao duyên được thể hiện thông qua sự phản ánh ở các nội dung: Cảm xúc trong buổi đầu gặp

gỡ; Lời chào bắt duyên; Lời mời xe kết tình thắm duyên nồng. Đề tài những cung bậc tình

cảm trong tình yêu đôi lứa thông qua các chủ đề : Bày tỏ tình cảm trai gái qua hát huê tình;

Trai gái thử tài ứng đối qua hát đố, hát họa; Mơ ước một cuộc sống lứa đôi hạnh phúc qua

hát cưới, hát sắm; Bài ca tình yêu in dấu ấn vùng đất, nghề nghiệp, giai đoạn lịch sử. Đề tài

trai gái chia tay nhau bịn rịn, quyến luyến.

Hát Đúm bao gồm phần lớn là những câu hát giao duyên được diễn xướng qua

sự thể hiện tinh tế, trữ tình của những chàng trai cô gái. Người dân Phục Lễ luôn tự hào

cất cao lời ca hát Đúm trong nhiều thế kỉ đã qua, bởi trong mỗi lời ca ấy chứa đựng niềm

vui nỗi buồn cùng bao ước vọng về hạnh phúc lứa đôi cũng như bao hoài bão về cuộc

sống ấm no của cư dân vùng biển nơi đây.

Qua tìm hiểu nội dung giao duyên của hát Đúm, chúng ta thấy được cái hay, cái

đẹp, cái bản sắc của loại hình ca hát này. Từ gặp gỡ giao duyên, thử tài, đến trao duyên

trao tình, nguyện ước và đi đến hôn nhân, chính những câu hát của các chàng trai cô gái

Phục Lễ đã góp phần tái hiện cuộc sống đời thường của chính họ và giúp cho cuộc sống

đó lên hương lên sắc.

Chương 4

NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN ĐỀ TÀI GIAO DUYÊN

VÀ BẢN SẮC, GIÁ TRỊ CỦA HÁT ĐÚM PHỤC LỄ

4.1. Nghệ thuật thể hiện đề tài giao duyên của hát Đúm Phục Lễ

Qua sơ bộ nghiên cứu về hát Đúm chúng ta phần nào thấy được giá trị nội dung

của hát Đúm; song một yếu tố không nhỏ đã góp phần làm nên giá trị đặc sắc của hát

Đúm, đó là nghệ thuật thể hiện chất giao duyên, đề tài giao duyên của hát Đúm. Ở bài

81

viết này chúng tôi đi vào nghiên cứu nghệ thuật thể hiện đề tài giao duyên của hát Đúm

Phục Lễ trên các phương diện sau:

4.1.1. Một số yếu tố thi pháp nghệ thuật thể hiện đề tài giao duyên của hát Đúm Phục Lễ

4.1.1.1. Kết cấu

Ca dao dân ca Việt Nam đặc biệt là loại dân ca giao duyên thường có kết cấu

mang đậm lối đối đáp nam nữ dù bài ca còn giữ nguyên được kết cấu đối đáp hay những

bài ca chỉ còn lưu lại trong hình thức một vế độc thoại thì dấu ấn của lối đối đáp vẫn in

khá rõ trong lối trò chuyện, cách xưng hô, giãi bày.

* Kết cấu đối đáp mang đậm chất giao duyên

Có nguồn gốc từ hát đối giao duyên dân gian phát triển mà thành, hát Đúm mang

hình thức kết cấu đặc trưng của thơ ca dân gian trữ tình. Do ra đời trong hoàn cảnh đối

đáp giao duyên nam nữ trong môi trường lao động, khi vui chơi hội hè nên lời ca hát

Đúm Phục Lễ phần lớn là lời đối đáp của nam và nữ. Hát Đúm Phục Lễ tồn tại hai hình

thức: kết cấu một vế ( một lượt lời ) và kết cấu hai vế ( đối thoại). Kết cấu hai vế kiểu

như câu ca dao sau rất ít gặp: ( Bây giờ mận mới hỏi đào/ Vườn hồng đã có ai vào hay

chưa/ Mận hỏi thì đào xin thưa/ Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào). Phần lớn là dạng

kết cấu một vế thông qua hình thức diễn xướng đối đáp giao duyên nam nữ (nam hát

một lượt lời và nữ đáp lại bằng một lượt lời).

Có khi câu hát cất lên là tiếng ca trao đổi, trò chuyện trực tiếp giãi bày, thổ lộ tâm

tình đôi lứa yêu đương:

Nam:

“...Giấu này có vỏ có cau

Có vôi có thuốc say lâu môi hồng

Một mai nên đạo vợ chổng

Ăn dăm ba miếng cho lòng nhớ thương...”[2, tr.32 ]

( Hát Giầu)

Nữ:

“...Nể lòng em nhận miếng giầu

Ăn vào biết nói thế nào mà ăn

Ở nhà thầy mẹ khuyên răn

Gái ngoan chớ có vội ăn giầu người..”. [2, tr.32 ]

(Hát Giầu)

82

Có khi là câu hỏi của bên này và câu đáp của bên kia:

Nam:

“...Hỡi người thục nữ kia ơi

Làm sao nhan sắc cho tôi mặn mà

...

Hỡi người đằng ấy kia ơi

Còn không hay đã có người tình chung?” [2, tr.58 ]

(Hát huê tình)

Nữ:

“...Có lời nguyện với cố nhân

Tình chung em chửa ân cần cùng ai

Đã lòng nguyện ước một hai

Yêu anh em chẳng để ai vin cành”. [2, tr.58-59 ]

(Hát huê tình)

Ngôi nhân xưng phổ biến là ngôi thứ nhất và thứ hai : Bên nữ xưng và gọi “ em,

tôi, thiếp - anh, mình, chàng” bên nam xưng và gọi “ ta, tôi, anh - mình, cô, em, nàng”.

Nam:

“...Phòng đào then khóa còn không

Thì nàng nói thật cho lòng anh hay...” [2, tr.66]

(Hát huê tình)

Nữ:

“Tay em rót chén rượu hoa

Mình ơi, uống cạn cùng ta chén này...” [2, tr.42]

(Hát mời rượu)

Có khi dùng từ tượng trưng để xưng hô: “ trúc – mai”, “rồng – mây”, “ bướm -

hoa”, “tấn - tần”...

“...Bây giờ Tấn hỏi thực Tần

Còn hay không đã có xuân ở nhà

Ước gì bướm được gần hoa

Kẻo còn thương nhớ thiết tha trong lòng...” [2, tr.66 ]

(Hát Huê Tình)

Từ ngữ xưng hô trong hát Đúm cũng rất phong phú, góp phần đắc lực trong việc

thể hiện sự gắn bó, yêu thương trong những câu hát giao duyên. Từ ngữ xưng hô trong

83

hát Đúm Phục Lễ luôn là ngôi thứ nhất và có sự đối xứng giữa nam với nữ: chàng -

nàng, anh - em, chàng - thiếp... Điều này rất khác với một số hình thức hát giao duyên

khác, như trong hát Quan họ thì bên nam luôn xưng em - gọi chị, bên nữ thì xưng em - gọi

anh; hay trong hát Trống quân thì chỉ có một cách xưng hô là anh - em.

Chính lối kết cấu đối đáp thông qua hệ thống từ xưng hô rất phong phú, đa dạng

đã làm cho hát Đúm Phục Lễ đạt đến chiều sâu tình cảm, cảm xúc, tạo được nét đặc

trưng riêng trong giao duyên nam – nữ của lối hát này.

* Kết cấu trần thuật với sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình

Ở hát Đúm số lượng những bài ca có kết cấu 2-4 (ngắn gọn, súc tích) giống ca

dao rất hiếm gặp, chủ yếu từ 10 – 30 dòng mang tính kể lể phô diễn đậm nét (tính tự sự

kết hợp với mạch trữ tình dàn trải), thể hiện tính hồn nhiên, bộc trực của người dân miền

biển. Khảo sát 213 bài hát Đúm trong cuốn Hát Đúm cổ truyền Phục Lễ - Thủy Nguyên-

Hải Phòng ( tài liệu lưu hành nội bộ của Ban văn hóa xã Phục Lễ), chúng tôi thống kê

được kết quả như sau: 5/213 bài có kết cấu từ 4-8 dòng; 208/213 bài có kết cấu từ 10 -

30 dòng trở lên.

Với lối kết cấu trần thuật nên mỗi lời ca hát Đúm thường dài hơn so với một số

làn điệu dân ca khác. Thể hiện nội dung giao duyên, lời mỗi bài ca trong hát Đúm thường

mang đậm lối giãi bày tình cảm trực tiếp, chậm rãi và thiết tha, đằm thắm. Các trạng

thái tình cảm nhớ nhung, tương tư, giận hờn, trách móc... của nhân vật trữ tình được bộc

lộ một cách dung dị, dễ hiểu, chân thành thể hiện tâm hồn thẳng thắn, hồn hậu của người

dân Phục Lễ. Nếu trong ca dao Việt, câu chuyện muôn đời yêu nhau không lấy được

nhau với những ước vọng an ủi được diễn tả ngắn gọn:“ Chẳng nên tình trước nghĩa

sau/ Có con ta gả cho nhau thiệt gì”. Thì ở các bài hát Đúm thường dùng cách nói giãi

bày, kể lể:

“ Hời người đàng ấy kia là

Xa nhau để nhớ gần mà để thương

Thưa rằng bồ liễu phận thường

Vì đem má phấn nên vương tơ đào

Vốn xưa cốt cách thanh cao

Tên Châu là hiệu Dáng Kiều là tên

Ba sinh đã nặng vì duyên

84

Đem thân liễu yếu kết nguyền đào tơ

Nhân duyên đã lỗi ngày xưa

Tơ giăng xe đến bây giờ mới thân…”[2, tr.62 ]

( Hát huê tình)

Hát Đúm đậm đà chất yêu đương nồng nàn và mãnh liệt. Bao nhiêu lời ca là bấy

nhiêu lời tỏ tình, nỗi nhớ nhung hờn giận, trách móc. Dường như họ không hát thì thôi,

nếu đã hát thì giãi bày hết cho thoả nỗi lòng mình. Ta bắt gặp trong hát Đúm những câu

hát tha thiết : "Mình ơi" - "Nàng ơi..."

- “ Nàng ơi thư thả hãy về

Để ta tỏ hết mọi bề cùng nhau

Bấy lâu lòng những ước ao

Đan tay vội vã, khát khao bồn chồn

...

Gần nhau chưa giập miếng giầu

Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi” [2, tr.162 ]

(Hát ra về)

-“Mình ơi! Hãy cùng ta đứng lại

Dẫu rằng trời sắp tối đường xa

...

Mình ơi! Ta hỏi thật mình

Cho ta kết nghĩa chung tình được chăng...” [2, tr.164 ]

(Hát ra về)

Sự giãi bày tình cảm kết hợp với chất tự sự tạo nên vẻ đẹp hồn nhiên, chân thành,

gây được sự đồng cảm với trái tim người đọc. Với hình thức kết cấu dài, các bài hát đúm

chủ yếu còn được làm theo kiểu kết cấu thu hẹp tầng bậc. Ở mô hình kết cấu thu hẹp

tầng bậc các hình ảnh trong các bài ca liên kết theo trình tự từ xa đến gần, từ rộng đến

hẹp, từ chung đến riêng.

“Kể từ lúc nhụy hồng xuân nở

Kể từ khi gặp gỡ đến nay

Kế từ một đấy một đây

Bóng giăng dưới nước bóng mây trên giời

...

85

Thấy chàng đạo lý cương thường

Văn thơ phú lục mọi đường mọi thông

Có nên thì quyết cho xong

Duyên trời chỉ định vợ chồng đôi ta”

(Hát huê tình)

Bằng cách "nói vòng vo" các cô gái đã dần bộc lộ tình ý ở điểm kết của bài ca

"Duyên trời chỉ định vợ chồng đôi ta", đó chính là mục đích và điểm kết mà người hát

muốn hướng tới. Chúng ta có thể bắt gặp kết cấu này trong các bài hát Họa quả, sau khi

đã kể ra “Ngàn thứ quả ngọt chua đều có”, chàng trai đã khéo léo kết lại “Còn quả tình

mình đó ta đây” với ước muốn “Hoa thơm quả ngọt ta càng thương nhau”.

“Có hoa, có quả mới hay

Hoa nàng đã họa, quả rầy để anh

...

Nếu mà cá nước rồng mây

Thì ta mua hết trái cây tặng nàng

Đời vui đũa ngọc mâm vàng

Hoa thơm quả ngọt ta càng thương nhau.” [2, tr.130]

(Họa quả)

4.1.1.2. Nhịp điệu lời ca với lối cách điệu thơ đơn giản (lối hát thơ)

Cùng với một số loại hình giao duyên như hát Ví Nghệ Tĩnh, hát Xoan , hát Ghẹo ở

Trung du Bắc Bộ thì hát Đúm nói chung và hát Đúm Phục Lễ nói riêng không mang nhịp

điệu gấp gáp mà chậm rãi, đều đều và lặp lại phù hợp với tâm trạng giãi bày, kể lể của

người hát trong những kết cấu lời ca mang đậm chất tự sự như đã nói ở trên .

Theo Nguyễn Đỗ Hiệp thì nhịp điệu của lời hát Đúm là kiểu vận dụng kết cấu của

lời thơ (thanh điệu và tiết tấu) để tạo thành các câu hát có hình thức cách điệu thơ đơn

giản trong nghệ thuật ca hát dân gian của người Việt, còn được gọi là hát thơ. [16, tr.84]

Lối hát này thực sự phù hợp cho việc thổ lộ mọi sắc thái tình cảm của những nhân vật

giao duyên trong hát Đúm với những nhớ nhung, yêu thương, trông ngóng, đợi chờ

“Tựa hiên mai việc nhà thong thả

Thấy thư sang lòng dạ mừng thay

Vậy nên gửi bức thư này

86

Nhớ câu bốn bể từ nay một nhà

...

Từ ngày chàng gửi thư về

Vắng chàng em biết nguyện thề cùng ai

Thư lai nhân bất hữu lai

Thề rằng em có yêu ai bằng chàng

Bỗng nhiên hồng điệp kim lang

Bây giờ nên nghĩa đá vàng chàng ơi

Khuyên chàng – chàng cứ sang chơi

Trước có phụ mẫu sau thời đệ huynh

Đoạn rồi phụ phú phu tình

Thừa loan ta lại cùng mình bên nhau.” [2, tr.95]

(Hát thư)

Như vậy, nhịp điệu lời ca trong hát Đúm Phục Lễ giống với hát Ví, hát Đúm, hát

Trống quân của vùng đồng bằng Bắc Bộ nói chung là mới thể hiện ở cấp độ đơn giản về

âm nhạc, có tiết tấu chậm, đều và gần gũi với hình thức hát thơ. Do đó các yếu tố như

giọng điệu, cách ngân nga, luyến láy trong hát Đúm tuy không phức tạp như ở hát Quan

họ, hát Xoan, nhưng đấy chính là phương tiện chuyển tải nội dung lời ca phục vụ mục

đích đối đáp giao duyên, thi tài của nam nữ thanh niên Phục Lễ. Khi hát, người hát phải

hát được nhiều làn điệu như cò lả, trống quân, quan họ, sa mạc... Làn điệu hát Đúm hấp

dẫn bởi những ca từ mộc mạc, sâu lắng, những câu hát tình tứ thơ mộng và mang đậm

chất thơ ca. Chính những đường nét, giai điệu đặc trưng của hát Đúm đã góp phần tạo

nên nét độc đáo cho loại hình ca hát giao duyên này.

4.1.1.3 Thể thơ lục bát và song thất lục bát

Có thể nói thể thơ là một trong những yếu tố quan trọng không thể thiếu khi xem

xét và nghiên cứu hát Đúm. Căn cứ vào số lượng 213 lời ca giao duyên trong hát Đúm

[2] mà chúng tôi khảo sát thì hầu hết được sáng tác theo thể lục bát và song thất lục

bát . Cụ thể chúng tôi thống kê được 113/ 213 bài làm theo thể thơ lục bát; 91/213 bài

làm theo thể song thất lục bát ; 9/ 213 làm theo thể hỗn hợp.

Thơ lục bát là một thể thơ dân tộc, được dân gian sử dụng để sáng tạo phần lời

cho nhiều hình thức ca hát dân gian trong đó có hát Đúm. Thể lục bát hoàn chỉnh là mỗi

87

câu có hai dòng thơ, một dòng sáu và một dòng tám. Trong thơ lục bát, phổ biến kiểu

gieo vần lưng ở tiếng thứ 6 dòng bát. Tức là, tiếng thứ 6 của dòng bát phải hợp vần và

hợp thanh (cùng thanh bằng) với tiếng thứ 6 của dòng lục. Ngoài ra, các tiếng 2, 4, 6

phải hợp thanh theo bằng hay trắc cố định. Riêng tiếng thứ 2 có thể cho phép linh động

bằng hoặc trắc. Nhịp điệu tự nhiên của nó là nhịp đôi: dòng 6 ngắt nhịp 2/2/2 ; dòng 8

ngắt nhịp 2/2/2/2.

Những lời ca giao duyên của hát Đúm đa phần đã sử dụng thể thơ lục bát, bởi thể

thơ này đã tạo ra sự uyển chuyển, nhịp nhàng của câu hát mang âm điệu tâm tình, thủ

thỉ, phù hợp với việc diễn tả tâm trạng, cảm xúc nội tâm của nhân vật giao duyên :

“...Thoạt nghe thấy tiếng má hồng

Phượng loan e lệ, ngô đồng cành cao

Rấp mong bẻ liễu vin đào

Cánh hồng luống những thấp cao thêm sầu...” [2, tr.47]

(Hát huê tình )

Khảo sát các văn bản lời ca, chúng tôi thấy, các câu thơ thể lục bát thường có

biểu hiện giữ nguyên niêm luật thơ truyền thống. Phổ biến là kiểu gieo vần lưng ở từ

thứ 6 dòng bát. Nguyên tắc hợp thanh (bằng hoặc trắc) ở các tiếng 2, 4, 6 cũng thường

được tuân thủ.

“ ... Mình về để dạ ta sầu

Để ô, để nón, để giầu ở đây

Cùng ta, ăn miếng giầu cay

Giầu say vì thuốc, hay say vì tình

Mình ơi! Ta hỏi thật mình

Cho ta kết nghĩa chung tình được chăng...” [2, tr.164]

(Hát ra về)

Thể thơ song thất lục bát là một tổ hợp gồm hai dòng thơ 7 từ và một cặp lục bát

(6/8). Về niêm luật phổ biến, thể song thất lục bát có niêm luật như sau: Trong hai dòng

thơ 7 từ: Ở dòng thất trên, tiếng thứ 7 (trắc) sẽ bắt vần xuống tiếng thứ 5 (trắc) của dòng

thất bên dưới; ở dòng thất dưới, tiếng thứ 7(bằng) sẽ bắt vần xuống tiếng thứ 6 của dòng

88

lục (bằng). Trong hát Đúm giao duyên ngoài những lời ca lục bát cũng có nhiều lời ca

thuộc thể thơ song thất lục bát:

“Chốn phòng loan đêm nằm nhớ bạn

Thảo bức thư mượn nhạn đưa sang

Mong thư đưa đến tay nàng

Để cho cha mẹ họ hang được hay

Rằng tần tấn từ ngày gặp gỡ

Chốn thư phòng thương nhớ biết bao

Thuyền quyên đợi khách anh hào

Biết rằng nàng có lòng nào hay không

Lòng vàng đá những mong cùng nhớ

Dạ sắt son như sẽ mối tơ

Những là ra ngẩn vào ngơ

Những là nay đợi, mai chờ nguyệt hoa

Đẹp nhân duyên dẫu xa không ngại

Phận miêng sơn thề hải cũng xong

...

Mấy ai xét tấm tình chăng nhé

Tấm lòng riêng như xẻ làm đôi

Nếu nàng quyết thực như lời

Thì anh xếp đặt sang chơi bên nhà ...” [2, tr.90]

(Hát thư)

Cái hay của hát Đúm được thể hiện trong ý tứ lời ca, những câu đồng dao hay

những bài ca dao thể thơ lục bát 6/8. Chủ đề về tình yêu nam nữ, sự đối đáp ứng biến

nhanh nhạy, hay họa lại một cách tinh tế, ý nhị. Những bài hát Huê tình, hát lính, hát

thư, hát họa ... thường gồm nhiều câu lục bát, khoảng trên dưới 20 câu là chủ yếu. Những

bài hát đố, hát chua thường ngắn hơn, khoảng trên dưới 10 câu lục bát. Nếu ta hiểu thơ

ca dân tộc bao gồm hai yếu tố dân gian và bác học luôn gắn với ngôn ngữ dân tộc thì

thể lục bát đi liền với song thất lục bát trong hát Đúm cũng phản ánh trình độ ngôn ngữ

tiếng Việt của nhân dân địa phương lúc bấy giờ. Đó là hình thức quá độ giữa lời nói có

vần và lời thơ trau chuốt, rất tiện lợi cho việc diễn tả được dễ dàng, nhanh chóng và

không gò bó nhiều tư tưởng, tình cảm của nhân dân.

89

Ngoài các bài làm theo thể lục bát, song thất lục bát, số lượng còn lại thường ta

gọi là thể hỗn hợp. Trong hát Đúm giao duyên, thể hỗn hợp chiếm không nhiều, đó là

những bài gồm có những câu lục bát hoặc những câu song thất lục bát xen kẽ những

câu biển thể của lục bát hoặc song thất lục bát.

“...Mười giờ dạo gót ra sân

Trời cao biển rộng trách thân giang hồ

Mười một giờ ra ngẩn vào ngơ

Nửa thương tích cũ- Nửa lo phận mình

Mười hai giờ ngồi một mình nghĩ một mình

Thà như một khối đôi tình cho xong...” [2, tr.74]

( Hát ghẹo)

Sự xen kẽ này có thể do trong hát Đúm, hai bên đối đáp nhau có một số bạn hát

giỏi ứng đối sáng tác thêm lời, cứ thế một số bài hát hàng năm giữa các cá nhân, tập thể,

các làng tự làm phong phú thêm lời ca của mình và truyền dạy cho các bạn cùng nhóm.

Dần dần những bài hát không qui định ít hay nhiều, trở thành những bài ca quen thuộc

của vùng này. Thể hỗn hợp được sử dụng trong hát Đúm giao duyên có lẽ nhằm đáp ứng

nhu cầu ứng tác tự do, tự biên tự diễn của những người tham gia cuộc hát giao duyên

này.

Nhìn chung, thể thơ trong hát Đúm giao duyên cũng như dân ca đối đáp nam nữ

nói chung thường xuất hiện ba thể thơ lục bát, song thất lục bát và thể hỗn hợp. Đó là

những thể thơ dân tộc do nhân dân ta sáng tác. Từ ca dao, dân ca đến văn học thành văn

( cụ thể là trong thơ ca bác học) là một quá trình kế thừa và phát triển khá mạnh mẽ của

hát Đúm Phục Lễ. Trong hát Đúm Phục Lễ những lời ca mang chủ đề tình yêu không

hề bị cứng nhắc với những niêm luật phức tạp như thơ cổ điển nên nó dễ đi sâu vào lòng

người và giúp trai gái cất lên thành những lời ca mộc mạc để bộc lộ tâm tình của mình.

4.1.1.4. Ngôn ngữ trong hát Đúm giao duyên

Hát Đúm là hình thức giao duyên phát triển mạnh về lời ca. Lời ca hát Đúm giao

duyên gần với ngôn ngữ ca dao dân ca người Việt nói chung. Hình thức đối đáp giao

duyên trong hát Đúm không chỉ bao gồm những lời nói hàng ngày mà còn là lời thơ dân

gian, mang dấu ấn ngôn ngữ nghệ thuật, mang giá trị thẩm mĩ rõ nét.

90

Tính chất giản dị là đặc điểm dễ nhận biết của hát Đúm giao duyên. Ngôn ngữ

mà người dân Phục Lễ sử dụng trong hát Đúm là ngôn ngữ bình dân, dễ hiểu, dễ nhớ.

Đó là lời ăn tiếng nói quen thuộc của người dân lao động:

“ Gặp nhau ở chốn hội này

Anh em thì vắng, mẹ thầy thì xa

Lấy ai định liệu cho ta

Mặt lại nhìn mặt, tay đà cầm tay

Cầm tay, anh nắm cổ tay

Ước mong duyên bén đắm say vuông tròn

Cầm tay, anh hỏi thực lòng

Đã chồng con chửa, hay còn giá cao

Cầm tay mận hỏi thực đào

Vườn hồng đã có ai vào hay chưa

Còn duyên, anh đợi, anh chờ

Hay là dã có nơi nhờ thì thôi” [2, tr.74]

(Hát huê tình)

Hát Đúm là sản phẩm của nền văn hóa thôn quê, với lối bày tỏ tình cảm trực tiếp,

hát Đúm mang vẻ đẹp giản dị, gần gũi, mộc mạc của ngôn ngữ đời thường. Những câu

hát, lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân Phục Lễ đã đi vào thơ ca, cất lên tiếng hát

thân thương gần gũi.

“...Thân em phận gái đương thì

Đi chơi đội nón sợ khi mưa rào

Nắng to rám má em sao?

Chàng mà thích nón em trao tay chàng

Hai ta chung ngõ chung đường

Chùng chung nón đội ta thương nhau nhiều” [2, tr.166]

(Hát nón)

Ngoài ngôn ngữ bình dân, hát Đúm giao duyên Phục Lễ còn chịu chi phối của ngôn

ngữ bác học. Trong lời ca hát Đúm Phục Lễ không ít bài sử dụng điển tích điển cố, sử

dụng từ ngữ mang tính biểu tượng cao. Không ít tài liệu đã cho rằng từ thế kỉ XVI khi

91

chùa Kiến Linh được xây dựng thì hát Đúm trở thành một sinh hoạt phong phú của người

dân Phục Lễ . Họ đã biết vận dụng lời ca trong văn thơ của văn học viết để làm phong phú

thêm lời ca hát Đúm ( Điều này được minh chứng qua nội dung hát lính).

* Biểu tượng trong hát Đúm giao duyên

Biểu tượng nghệ thuật trong thơ ca là những kí hiệu ngôn ngữ được lặp đi lặp lại

nhiều lần, có khả năng biểu hiện những ý nghĩa sâu xa. Biểu tượng là những hình ảnh

đã được dân gian chọn lọc trong sử dụng và được thử thách qua nhiều năm tháng, thể

hiện đậm nét những đặc trưng truyền thống của folklore. Cũng như trong ca dao, biểu

tượng được sử dụng khá nhiều trong hát Đúm giao duyên Phục Lễ:

Biểu tượng hoa – bướm: Theo truyền thuyết thì “bướm” tượng trưng cho sự gắn

bó bất diệt giữa những đôi tình nhân. Truyện kể rằng có hai người yêu nhau, một người

là thư sinh, một người là tiểu thư trong một gia đình quan lại giàu có. Hai người yêu

nhau nhưng bị cha mẹ của cô gái ngăn cấm. Họ hết sức đau khổ và tìm đến cái chết. Sau

khi chết, cả hai hóa thành bướm và mãi mãi bên nhau. Tin vào câu chuyện của đôi tình

nhân bất hạnh này, có người cho rằng bướm tượng trưng cho tình yêu bất diệt, không

phải tình yêu phù phiếm. Còn “ hoa” phần nhiều tượng trưng cho nhan sắc của người

phụ nữ. Kết hợp hoa - bướm là là cặp biểu tượng được dùng tương đối nhiều trong hát

Đúm giao duyên Phục Lễ để biểu đạt cho cuộc sống tình yêu đôi lứa:

“...Bướm đậu cành hoa lòng đà nhớ bướm

Hoa kia bướm nọ dạ thương chàng...” [2, tr.54]

(Hát huê tình)

Bướm - hoa, hoa - bướm được lặp lại theo lối đảo trật tự để diễn tả sự tiếp nối

không ngừng của cuộc sống tình yêu; cặp từ đồng nghĩa lòng- dạ, nhớ - thương đối xứng

trên dưới trong hai câu cho thấy nỗi nhớ, niềm thương của cô gái luôn hướng về chàng

trai dẫu có xa mặt cách lòng. Khi xa nhau, trai gái Phục Lễ luôn khao khát được gần

nhau:

“...Ước gì bướm được gần hoa

Kẻo còn thương nhớ thiết tha trong lòng...” [2, tr.66]

(Hát huê tình)

Họ khéo léo gửi gắm khát vọng tình yêu thông qua biểu tượng bướm - hoa với

bao nỗi niềm “thương nhớ thiết tha trong lòng”.

92

Biểu tượng Cá - nước, Rồng - mây: Cá - nước chỉ mối quan hệ theo kiểu cá không

có nước sẽ chịu khô và nước lên thì cá tung tăng bơi lội, hàm ý chỉ điều vui vẻ, may

mắn, gặp thời cơ.

Có thể nói “cá - nước”,“rồng - mây” đã trở thành biểu tượng quen thuộc trong

hát Đúm Phục Lễ:

-“...Mấy khi hội ngộ rồng mây

Để mà tâm sự giãi bày cùng nhau...” [2, tr.57]

-“...May thay cá nước duyên giời

Hôm nay lại gặp được người tình nhân” [2, tr.61]

-“...Thực là cá nước rồng mây

Cũng mong duyên bén đắm say vuông tròn...” [2, tr.74]

(Hát huê tình)

Bằng lời thơ hàm súc, mang ý nghĩa biểu đạt cao, biểu tượng “cá - nước”,“rồng

- mây” đã diễn tả niềm vui, mong muốn gặp gỡ “tâm sự giãi bày cùng nhau”, may mắn

“gặp được người cố tình nhân”, gắn kết tơ duyên “mong duyên bén”, mong muốn có

được tình yêu hạnh phúc “đắm say vuông tròn”

Biểu tượng loan - phượng: Loan ( chỉ chim phượng cái), phượng ( chỉ chim

phượng trống). Loan phượng biểu đạt cho sự sum họp - hạnh phúc lứa đôi. Biểu tượng

loan - phượng đi vào trong lời ca hát Đúm với biểu đạt thật hàm súc:

Canh ba tình dững thương tình

Chăn loan gối phượng đợi mình đắp chung [2, tr.77]

(Hát ghẹo)

Biểu tượng Mận – đào : Sự sóng đôi “mận - đào” chỉ sự xoắn xuýt bên nhau giữa

đào và mận, biểu đạt cho một tình yêu đoàn tụ, ấm áp, gắn bó bên nhau. Kết hợp “mận

- đào” được sử dụng trong hát Đúm Phục Lễ đưa người đọc đến những cuộc tình ngọt

ngào, thú vị:

Đường xa gặp chốn mận đào

Thuyền tình đậu bến còn sao thử lòng

Hoa đào vừa gặp gió đông

Nhị càng tươi thắm sắc hồng thanh cao

Những là rày ước mai ao

Vườn xuân bướm lượn mận đào lân la [2, tr.77]

93

(Hát huê tình)

Biểu tượng Trầu – cau: Quả cau và miếng trầu đã trở thành một hình tượng hết

sức quen thuộc trong hát Đúm giao duyên Phục Lễ. Cũng như trong ca dao, trầu cau

trong hát Đúm giao duyên Phục Lễ mang ý nghĩa biểu trưng cho mọi sắc thái đa dạng

tinh tế về tình cảm, tình yêu, đạo đức truyền thống của con người Việt Nam. Trong đối

đáp giao duyên nam nữ ở Phục Lễ không thể thiếu miếng trầu:

“...Miếng giầu mời khách tình xuân

Ăn dăm ba miếng cho gần bên nhau

...

Giầu này kết mối tơ hồng

Xe cho nên vợ nên chồng thắm duyên” [2, tr.28-29]

(Hát mời giầu)

Miếng trầu và quả cau là sứ giả của tình yêu, lời mời trầu ẩn chứa ước vọng giao

duyên được “gần bên nhau”, ước vọng có được nhân duyên “kết mối tơ hồng”và nên

duyên vợ chồng “nên vợ nên chồng thắm duyên”.

Biểu tượng Khăn, ô, nón : Trong ca dao giao duyên, khăn áo hay được nhắc đến bởi nó

là vật thể quen thuộc thường quấn quýt bên người, là kỉ vật thiêng liêng gợi hình bóng của

người thương. Trai gái trao tặng khăn, áo cho nhau kín đáo gửi gắm lời thề nguyền, ước

hẹn. Bên cạnh khăn, áo còn có cả nón, ô đã đi vào lời ca hát Đúm giao duyên Phục Lễ, nó

trở thành biểu tượng gắn liền với văn hóa giao duyên của người Phục Lễ. Từ xa xưa cho

đến nay, trong mỗi cuộc hát Đúm vật dụng không thể thiếu là khăn, ô, nón ; nó được coi là

vật làm tin mà trai gái muốn trao nhau với bao nhiêu ân tình:

“...Phu thê tình nghĩa đá vàng

Ra về em chỉ nhớ chàng từ đây

Hãy cùng ô, nón trao tay

Ra về kẻo tối, mẹ thầy chờ trông...” [2, tr.163]

(Hát ra về)

Cuộc hát kết thúc, giây phút chia tay là là giây phút day dứt bao luyến nhớ, bao

nuối tiếc trong lòng “ Ra về em chỉ nhớ chàng từ đây”. Khăn, ô, nón những vật dụng

thân thiết không rời xa trong mỗi cuộc hát nay xin trao lại cho người đàng xa. Ra về để

94

nhớ, để thương, trao khăn, trao ô, trao nón cùng nhau trao tình, trao nguyện ước “Phu

thê tình nghĩa đá vàng”.

“...Dừng chân chút nữa em ơi

Để anh giãi tỏ đôi lời đã nao

Thơ đề khăn, áo, nón trao

Chứng miên có cả núi cao, sông dài...” [2, tr.162]

(Hát ra về)

Biểu tượng khăn, áo, nón, ô đã đi vào lời ca hát Đúm giao duyên Phục Lễ, tạo nên

nét đặc trưng riêng cho loại hình ca hát giao duyên này!

Qua tìm hiểu chúng tôi thấy các biểu tượng trong hát Đúm giao duyên Phục Lễ

thường là biểu tượng sóng đôi. Những cặp sóng đôi được tạo nên trong sự kết hợp bền

vững của những sự vật hiện tượng thiên nhiên tương đồng với nhau về phẩm chất, thuộc

tính vì vậy trong hát Đúm nó là những hình tượng thích hợp biểu trưng cho sự hòa hợp

giữa nam và nữ.

Những biểu tượng được sử dụng trong lời ca hát Đúm giao duyên không những

có tác dụng tăng tính hàm súc, mang giá trị biểu cảm cao mà còn mang lại vẻ đẹp trau

chuốt cho ngôn từ. Điều đáng nói ở hát Đúm Phục Lễ là lời ca có sự kết hợp khéo léo

cả hai yếu tố ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật trữ tình ( giản dị, mộc mạc) và ngôn ngữ

mang tính khái quát biểu tượng cao ( hàm súc, trau chuốt). Chính sự kết hợp này đã tao

nên vẻ đẹp vừa khiêm nhường giản dị, vừa trau chuốt bóng bẩy cho lời ca hát Đúm Phục

Lễ.

4.1.1.5. Thời gian và không gian trong hát Đúm giao duyên Phục Lễ

Theo Nguyễn Xuân Kính: “Thời gian và không gian là những mặt của hiện thực

khách quan, được phản ánh trong tác phẩm tạo thành thế giới nghệ thuật của tác

phẩm.”[24,tr. 287].

* Thời gian nghệ thuật

Giống như ca dao, thời gian của hát Đúm giao duyên là thời gian hiện tại, thời

gian diễnxướng, thời gian ước lệ, tượng trưng, thời gian tâm lý. Lời ca trong hát Đúm

giao duyên sử dụng thời gian như là phương tiện để bộc lộ tình cảm. Thời gian là thời

điểm để giãi bày hoài niệm, để thổ lộ nhớ thương như một nỗi niềm da diết.

95

Thời gian nghệ thuật trong lời ca hát Đúm giao duyên vừa là thời gian hiện tại và

quá khứ. Thời gian hiện tại thường là “hôm nay” và “bây giờ”. Lời ca trong hát Đúm

Phục Lễ sử dụng thời gian hiện tại để nói về những hành động, những cảm xúc thực tại:

Hôm nay tình mới gặp tình

Duyên giời đưa lại chúng mình bên nhau[ 2, tr.15]

(Nhận hát)

Thời gian nghệ thuật có thể bị đảo ngược từ hiện tại hồi tưởng về quá khứ. Dấu

hiệu thời gian quá khứ (quá khứ gần ) thường gắn liền với mô típ “ hôm qua”, “đêm

qua”, “tối hôm qua”… thể hiện những tình cảm tư tưởng, trạng thái tâm hồn của nhân

vật trữ tình. Nhiều khi nó không mang tính chất chỉ dẫn thời gian cụ thể, xác thực, mà

chỉ là cái cớ để trai gái giã bày tâm trạng.

Hôm qua viễn vọng xa xôi

Dạ sầu tơ tưởng ngậm ngùi buồn tênh

Hôm nay ta lại gặp mình

Bút nghiên trễ nài sử kinh đứng nhìn

Bây giờ gặp khách văn nhân

Giải chăn Thúy vũ buông màn thuỳ Dung

...

Hôm qua ngồi tựa án thư

Ngọn đèn mờ tỏ canh khuya bồi hồi

Bây giờ Đào Liễu sánh đôi

Buồn đâu không biết mà vui vô cùng [ 2, tr.55]

(Hát Huê tình)

So với thời gian hiện tại bây giờ, thời gian hồi tưởng quá khứ hôm qua chỉ có

tính chất kể lể, liệt kê sự việc hôm qua viễn vọng xa xôi, vắng khách anh hùng, hết đứng

lại ngồi, ngồi tựa án thư và song hành với các sự việc đó là tâm trạng nhân vật trữ tình

được bộc lộ thông qua hàng loạt từ chỉ trạng thái Dạ sầu, buồn tênh, đứng ngồi, tơ tưởng,

ngậm ngùi... thường được đặt trong điểm nhìn hiện tại. Do đó, sự có mặt của thời gian

hồi tưởng chỉ là một phương tiện để làm nổi bật thời gian hiện tại hôm nay, bây giờ đồng

thời có tác dụng tạo nên cảm giác về sự vận động của thời gian, làm cho người nghe liên

tưởng đến sự đổi thay trong cuộc sống theo chiều hướng đối lập. Nếu hôm qua buồn thì

96

hôm nay vui Buồn đâu không biết mà vui vô cùng . Vậy thời gian được lặp đi lặp lại và

nó là cái cớ để phô diễn cái tâm trạng.

Nhưng cũng có rất nhiều bài hát Đúm giao duyên không có từ chỉ thời gian cụ

thể. Trong trường hợp này, theo Nguyễn Xuân Kính, “người bình dân hát (hoặc ngâm,

đọc) vào lúc nào (sáng, trưa, chiều, tối…) thì lúc đó chính là thời gian bộc lộ tâm trạng

của người diễn xướng” [31, tr.239] Trong trường hợp này, thời gian của tác giả và thời

gian của “người đọc” (người thưởng thức) hoà lẫn với thời gian của người diễn xướng.

Nhởn nhơ yếm thắm khăn đào

Tưởng rằng người ở chốn nào lại đây

Tàng tàng chén cúc dở say

Trông hoa vừa ý thẹn thay mầu hồng

Xưa còn lạ chưa thông phận cải

Này tơ đào kết ngãi duyên kim [ 2, tr.59]

(Hát huê tình)

* Không gian nghệ thuật trong hát Đúm giao duyên

Không gian nghệ thuật là phương tiện để tồn tại và triển khai thế giới nghệ thuật;

nó trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời sống. Nhiều khi không gian nghệ thuật mang ý

nghĩa biểu tượng và mang tính chủ quan. Không gian nghệ thuật trong lời ca hát Đúm

giao duyên vừa là không gian thực, cụ thể (không gian vật lí), vừa là không gian ảo

(không gian tâm lí)

Nếu như không gian vật lí trong các bài dân ca Việt gắn với cây đa, bến nước,

sân đình thì hát Đúm được coi là sản phẩm tinh thần của người dân miền biển nên không

gian của nó thường là sông nước, thuyền bè, bến bãi,... Đây là những không gian gần

gũi, thân quen để trai gái đang yêu “ tức cảnh sinh tình” trong lời ca đối đáp giao duyên.

Tang bồng phỉ chí nam nhi

Cách sông đâu bỗng thuyền kề tới nơi

Gặp đây chắc hẳn duyên rồi

Ông tơ bà mối xe rồi đừng buông[ 2, tr.69 ]

(Hát huê tình)

97

Ngoài không gian sông nước, trong các bài hát Đúm giao duyên còn gắn với tên

các địa danh cụ thể. Con người Phục Lễ hiện lên trong hát Đúm giao duyên thật gần gũi

thân quen

Gian nan anh chẳng ngại gì

Đường bộ tắc trở anh đi Phà Rừng

Tìm em khắp huyện Yên Hưng

Hà Nam, Phong Cốc đã từng đi qua

...

Tìm em nhơ thể tìm chim

Vào Nam ra Bắc anh tìm khắp nơi

Gần xa tìm hết cả rồi

Quay về hội Phục ta thời gặp nhau

Gặp nhau thắm thiết bên nhau

Để cho duyên đẹp tình sâu chẳng rời[ 2, tr.59]

(Hát ghẹo)

Không gian trong các bài hát Đúm giao duyên không chỉ là không gian vật lí “

cách sông”, “ thuyền”, “ phà” “cầu” mà còn là không gian tâm lý, không gian trong

tâm tưởng con người:

Ra về nhớ đến khách thơ

Khách thơ rằng có đợi chờ anh không

Cách sông rồi lại bắc thông nhịp cầu

Ra về xin nhớ nhời nhau

Điều hơn lẽ thiệt, trước sau anh đền. [2, tr.166]

(Hát ra về)

Không gian thể hiện tình cảm “ nhớ”, tâm tư “ có đợi chờ không”, ước nguyện

cháy bỏng khát khao “ duyên phận vợ chồng” của con người muốn vượt lên sự ngăn

cách của không gian vật lí:

“...Cũng vì duyên phận vợ chồng

Tìm nhau dù phải mất công cũng tìm...”[ 2, tr.59]

(Hát ghẹo)

4.1.2. Các thủ pháp nghệ thuật trong hát Đúm giao duyên

98

Giao duyên là đề tài rộng, bao trùm nội dung hát Đúm. Nội dung chủ yếu của hát

Đúm là phản ánh đời sống tâm tư tình cảm, tình yêu đôi lứa ...góp phần tích cực vào

việc thể hiện nội dung ấy là một số thủ pháp nghệ thuật. Nói đến thủ pháp nghệ thuật

là nói đến các tổ chức ngôn từ tạo nên lời ca, truyền đạt lời hát đến người nghe. Trong

ca dao dân ca nói chung và hát Đúm và hát Đúm giao duyên nói riêng có nhiều thủ pháp

làm nên giá trị của lời ca . Với giới hạn của một bài luận văn, chúng tôi xin đi vào phân

tích giá trị một số thủ pháp nghệ thuật cơ bản: lối biểu hiện trực tiếp tình cảm, thủ pháp

so sánh, thủ pháp nhân hóa, không gian và thời gian nghệ thuật.

4.1.2.1. So Sánh

Thủ pháp nghệ thuật mà hát Đúm giao duyên hay sử dụng là so sánh( còn gọi là

tỉ dụ). So sánh là việc đối chiếu sự vật này với sự vật khác dựa trên những đặc điểm

giống nha nào đó giữa hai sự vật nhằm tạo nên những hình ảnh ngệ thuật mới mẻ, tạo

những cảm xúc thẩm mĩ cho người nghe, người đọc. Lời ca hát Đúm giao duyên Phục

Lễ sử dụng biện pháp so sánh để lột tả những tình cảm trong sáng, cao đẹp hay những

trạng thái cảm xúc cụ thể nào đó của nhân vật trữ tình. Và nhờ có biện pháp so sánh mà

giá trị nhận thức, tạo hình, biểu cảm trong câu hát trở nên sâu sắc hơn.

Trong hát Đúm giao duyên Phục Lễ chẳng cần phải diễn tả nhiều lời chỉ cần dùng

hình ảnh so sánh này là đủ để nói sự mong đợi tình yêu của trai gái tới mức nào:

Cô gái:

“... Em còn chờ đợi chàng đây

Như cá đợi nước như mây chờ rồng

Mây gặp rồng mây bay cuồn cuộn

Cá gặp nước con ngược con xuôi...” [ 2, tr.52]

(Hát huê tình)

Chàng trai:

“...Tình cờ gặp được em đây

Như cá gặp nước như mây gặp rồng

Mây gặp rồng mây bay cuồn cuộn

Cá gặp nước con ngược con xuôi...” [ 2, tr.73]

(Hát huê tình)

99

Lời ca đã sử dụng thủ pháp so sánh với những hình ảnh ẩn dụ được kết theo cặp:

“ cá” - “ nước”, “mây”- “rồng”, thật khó có hình ảnh nào có thể diễn đạt hơn khao khát

được gặp gỡ người mình yêu của trai gái Phục Lễ, bởi lẽ cá không thể sống nếu thiếu

nước cũng như em, anh không thể sống thiếu anh, em.

Những kiểu so sánh dạng này ta bắt gặp nhiều trong lời ca hát Đúm giao duyên

giúp hình ảnh so sánh được linh hoạt :

“ Gặp đây chắc hẳn duyên rồi

Ông tơ bà mối se rồi đừng buông

....

Kẻo nữa anh nhớ anh mong

Anh mong nàng nhớ như rồng mong mưa

Cũng là cá nước duyên ưa

Lòng giời se lại bây giờ gặp em...” [ 2, tr.69]

(Hát huê tình)

Nỗi niềm mong nhớ của anh với nàng được so sánh như “ rồng mong mưa”, rồng

gặp mưa sẽ thỏa chí vẫy vùng, anh gặp được nàng sẽ thỏa nỗi nhớ mong. Và đây, nỗi

niềm tương tư đến sầu muộn thì nỗi mong nhớ càng khát khao.

“...Canh tư sương tuyết lạnh lùng

Ta mong mình đến như rồng mong mưa...” [ 2, tr.82]

( Hát ghẹo)

Khát khao yêu đương của trai gái Phục Lễ thật mãnh liệt. Trong ca dao dân ca về

tình yêu đôi lứa, nghệ thuật so sánh trở thành một phương tiện để các cặp trai gái thể

hiện tình cảm một cách kín đáo, tế nhị mà sâu sắc vô cùng. Và đây thêm một hình ảnh

so sánh nữa:

“...Nay mừng trúc đã sánh đào

Tơ hồng vấn vít buộc vào nên dây

Thực là rồng ấp lấy mây

Như chim loan phượng đậu cây ngô đồng...” [ 2, tr.67]

(Hát huê tình)

Hình ảnh “ trúc đã sánh đào” chỉ sự tương xứng nhân duyên đôi lứa được so

sánh với “rồng ấp lấy mây”, “chim loan phương đậu cây ngô đồng”. Đôi lứa gắn bó

với nhau trở thành mối nhân duyên đẹp đẽ. Thật khó có hình ảnh nào có thể diễn đạt

100

được tình yêu đẹp, thuỷ chung, gắn bó bền chặt của đôi lứa bằng những hình ảnh này. Có

thể nói so sánh là một biện pháp tu từ được sử dụng khá phổ biến trong những câu hát

giao duyên:

“...Đôi ta như lửa mới nhen

Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu

Đôi ta vụng nhớ, thầm yêu

Dặn chàng đừng có nghe điều nói ngang

Trăm năm tình nghĩa đá vàng

Ra về em chỉ nhớ chàng chàng ơi...” [ 2, tr.167]

(Hát ra về)

Lời ca hát Đúm giao duyên Phục Lễ đã mượn luôn hình ảnh so sánh trong ca dao

để biểu đạt cho tình yêu thủa ban đầu của trai gái . Đối tượng so sánh“đôi ta” được so

sánh đối chiếu với nhiều sự vật được liệt kê như “lửa mới nhen”, “trăng mới mọc”,

“đèn mới khêu” đã biểu đạt cho tình yêu vừa bắt đầu, háo hức, mãnh liệt như ngọn lửa

bùng cháy, như ánh trăng mới mọc tỏa ánh sáng trên bầu trời khuya và như ngọn đèn

mới khêu bùng lên ngọn lửa của tình yêu thương trong sáng. Tình yêu ban đầu bao giờ

cũng là tình yêu đẹp nhất. Tình yêu là ánh sáng của cuộc đời, là sự ấm nóng của con tim

rạo rực, mê say.

Nhờ có so sánh mà những câu ca trong hát Đúm giao duyên thật hàm súc, lời ít

mà ý nhiều. Bằng những hình ảnh so sánh mà nỗi niềm trai gái Phục Lễ muốn gửi gắm

trở nên cô đọng và mang nhiều ý nghĩa.

Tóm lại, chỉ với các hình ảnh so sánh hết sức quen thuộc, gần gũi mà tình cảm

đôi lứa hiện lên đầy nghĩa tình, thủy chung son sắc. Nhờ cách ví von ấy mà tình yêu

hiện lên thật sinh động vừa cụ thể, vừa trừu tượng.

4.1.2.2. Điệp từ

Điệp từ là biện pháp lặp đi lặp lại một từ ngữ nào đó nhằm mục đích mở rộng,

nhấn mạnh ý nghĩa hoặc gợi ra cảm xúc trong lòng người đọc. Ca dao có những câu biểu

đạt nỗi nhớ rất thành công:

Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai

Và đây ca dao đã diễn tả nỗi nhớ, nỗi trông mong của cái tôi trữ tình :

101

Đêm qua ra đứng bờ ao

Trông cá cá lặn trông sao sao mờ

Buồn trông con nhện giăng tơ

Nhệm ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai

Buồn trông chênh chếch sao mai

Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ .

Điệp từ “trông”, “buồn trông” được nhắc đi nhắc lại thể hiện nỗi nhớ mong mòn

mỏi của chủ thê trữ tình. Nó cùng tạo nên giá trị nhận thức và biểu cảm nhất định, nó

nhấn mạnh trạng thái cảm xúc rối bời, ra ngóng vào trông, buồn bã, nhung nhớ đến thẫn

thờ, như người mất hồn .

Trong lời ca hát Đúm giao duyên biện pháp điệp từ được sử dụng khá nhiều. Thể

hiện nỗi nhớ của trai gái yêu nhau:

“ Nhớ người da trắng tóc xanh

Xin em đừng có nặng tình với ai

Nhớ những buổi sánh vai trò chuyện

Nhớ những lời hứa hẹn cùng nhau

Nhớ khi câu chuyện mở đầu

Bây giờ ta lại gặp nhau tự tình

Nhớ em giấc ngủ không thành

Mơ màng tưởng đến Châu Trần mà thương” [2, tr.67]

(Hát Huê Tình)

Điệp từ “nhớ”lặp đi lặp lại như lời giãi bày, hồi tưởng quá khứ của buổi hò hẹn

ban đầu, nỗi tương tư ôm trọn những thao thức trăn trở, mơ tưởng đến cuộc hôn nhân

đẹp, xứng đôi vừa lứa “ Mơ màng tưởng đến Châu Trần”.

“Cùng nhau đã nặng nhời nguyền

Ra về xin chớ ưu phiền chàng ơi!

Ra về nhớ trúc thương mai

Ra về em nhớ không sai dạ này

Ra về hầu mẹ, hầu thầy

Ngày mai, em lại ra đây gặp chàng

102

Phu thê tình nghĩa đá bàng

Ra về em chỉ nhớ chàng từ đây

Hãy cùng ô, nón trao tay

Ra về kẻo tối, mẹ thầy chờ trông

Hội xuân đến hẹn thì lên

Nguồn ân, biển ái không quên nhời chàng

“Sợi chỉ vàng vắt ngang tờ giấy

Phải lòng nhau chửa lấy được nhau”

Ra về, ăn một miếng giầu

Xin chàng cầm lấy cho nhau bằng lòng”. [2, tr.163]

(Hát Ra về)

Điệp từ “ ra về ” và điệp từ “ nhớ” được lặp đi lặp lại như một điệp khúc khắc

sâu thời khắc chia tay đầy lưu luyến. Nỗi lòng mong mỏi đó đã thể hiện một tình cảm

sâu sắc, mãnh liệt của đôi lứa.

“...Ra về một bước một xa

Một nhời trân trọng giao hoà thuỷ chung

Ra về chung một dòng sông

Bên trông, bên đợi chờ mong hẹn hò

Ra về bể sở sông ngô

Nguồn ân biển ái nhỏ to nhời chàng

Ra về lòng dạ vấn vương

Chàng nhớ thì ít, em thương thì nhiều

Ra về vụng nhớ thầm yêu

Biết bao giờ được nói điều phu thê

Ra về một chốn, hai quê

Dặn chàng đừng có nặng nề với ai

Ra về bể rộng, sông dài

Thề rằng em có thương ai bằng chàng

Ra về Tính nhớ, Tình thương

Xin chàng giữ trọn đá vàng thuỷ chung.” [2, tr.166]

(Hát Ra về)

103

Ra về, điệp khúc càng dồn dập thì nỗi nhớ càng thêm khắc khoải, tiếng lòng của

trai gái trong buổi chia tay càng day dứt hơn. Điệp từ “Ra về” kết hợp với điệp từ “ nhớ”

“ thương” đã mở rộng không gian chia cách làm cho nỗi nhớ thương càng đầy vơi trong

lòng.

4.1.2.3. Nhân hóa

Cùng với biện pháp ẩn dụ, biện pháp so sánh, biện pháp điệp từ thì biện pháp

nhân hoá cũng được sử dụng trong lời ca hát Đúm giao duyên Phục Lễ. Nhân hoá được

coi là một biện pháp biến thể của ẩn dụ tu từ, trong đó người ta lấy những khái niệm

biểu thị những thuộc tính, hành động của người dùng để biểu thị hành động của đối

tượng khác loại dựa trên nét tương đồng về thuộc tính về hành động giữa người và đối

tượng không phải là người.

Sự liên tưởng rút ra nét giống nhau giữa người và đối tượng không phải người

thường gắn với cách nhìn, với thái độ của người nói. Cho nên, bằng nhân hoá, người ta

có thể bộc lộ tâm tư của mình một cách kín đáo. Trong nhiều trường hợp, hát Đúm giao

duyên Phục Lễ dùng nhân hoá vừa là để miêu tả đối tượng không phải con người, làm

phương tiện, làm cái cớ để thể hiện tình cảm riêng, sâu kín của mình.

Bây giờ em gặp chàng đây

Để rồng than thở với mây một lời[2, tr.70]

(Hát Huê tình)

Hình ảnh rồng và mây ở đây mang nghĩa biểu tượng. Rồng và mây tất nhiên

cũng chỉ là những cái thuộc về thế giới tự nhiên nhưng ở đây rồng biết than thở cùng

mây, tâm sự với mây về nỗi niềm phải cách xa, về nỗi buồn không được đoàn tụ để rồng

phải mang một nỗi niềm riêng. Ở đây rồng và mây đã nói hộ cho con người về tâm trạng

nhớ nhung. Mây và rồng thở than với nhau là để nói lên nỗi niềm của chủ thể trữ tình

một cách kín đáo, tế nhị mà không kém phần sâu sắc. Đằng sau lời thở than còn là khao

khát gặp nhau, tự tình, gắn kết. Hai hình ảnh thuộc vê thê giới khác lại được coi là một

phương tiện hữu hiệu để chuyển tải tâm trạng của chủ thể trữ tình, không những vậy nó

làm cho những lời ca ấy thêm phần hấp dẫn hơn.

“Ra về Trúc nhớ thương Mai

Như thuyền nhớ bến, như ai nhớ mình

Ra về Tính lại nhớ Tình

104

Như kim nhớ chỉ, như mình nhớ ta...” [ 2, tr.166]

(Hát ra về)

Cặp từ “ trúc - mai” biểu tượng cho sự gắn kết lứa đôi được so sánh như “thuyền

nhớ bến”, như “ kim nhớ chỉ”, bằng thủ pháp nhân hóa những câu hát Đúm giao duyên

trở nên có hồn, “thuyền” và “ kim” những vật vô tri, vô giác cũng mang tâm trạng nhớ

nhung, thương nhớ. Thuyền luôn mong cập bến và kim mong được gần chỉ. Câu ca là

sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa so sánh, nhân hóa và điệp từ đã khẳng định sự cần thiết

của đối tượng này với đối tượng kia và ngược lại giống như “ai nhớ mình” “tính nhớ

tình”, giống như “mình nhớ ta”. Có thể nói điệp khúc nỗi nhớ tăng cấp, trào dâng. Ra

về bao điều muốn nói, ra về những nhớ cùng thương dâng đầy.

Qua việc phân tích một số giá trị nghệ thuật đặc sắc tiêu biểu của lời ca hát Đúm

giao duyên Phục Lễ như thể thơ, giai điệu, kết cấu, ngôn ngữ, điển tích điển cố và một

số biện pháp nghệ thuật tiêu biểu, cho thấy cùng với giá trị nội dung phản ánh của hát

Đúm giao duyên, các biện pháp nghệ thuật nói trên đóng vai trò quan trọng làm nên cái

hay cái đẹp cho hát Đúm giao duyên Phục Lễ.

4.1.2.4. Ẩn dụ

Đây là một biện pháp nghệ thuật được sử dụng phổ biến trong văn chương cổ,

nhất là trong ca dao, dân ca. Ẩn dụ thực chất là lối so sánh ngầm dựa trên cơ sở đồng

nhất hai hiện tượng tương tự. Ở đây đối tượng so sánh ẩn đi chỉ còn một vế là cái dùng

để so sánh. Ản dụ là một biện pháp tạo được giá trị biểu cảm và hiệu quả nghệ thuật rất

cao. Biện pháp ẩn dụ giúp cho tác giả dân gian diễn tả được những điều thầm kín, thậm

chí những điều khó nói nhất, khó diễn đạt nhất bằng những hình tượng nghệ thuật vừa

giản dị. Vừa giàu chất thơ. Cách nói của ẩn dụ bóng bẩy, hàm xúc và tế nhị. Trong ca

dao ta bắt gặp nhiều hình ảnh ẩn dụ có giá trị biểu cảm rất cao như: Thuyền ơi có nhớ

bến chăng/ Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền. Đây là một trong những câu ca dao

hay nhất về tình yêu, con thuyền tình trong nghệ thuật ẩn dụ làm cho lời thơ gợi cảm

thắm thiết và đẹp biết nhường nào. Trong hát Đúm giao duyên Phục Lễ nỗi nhớ thương,

lo lắng, ước muốn khôn nguôi, tình cảm nồng nàn đằm thắm nhưng cách diễn đạt sao

mà ý nhị:

Cầm tay mận hỏi thực đào

Vườn hồng đã có ai vào hay chưa

105

(Hát huê tình)

Nhiều hình ảnh ẩn dụ được dùng nhiều lần trở thành quen thuộc và dần dẩn trở

thành những hình tượng mang tính ước lệ, tượng trưng cao như mận - đào, trúc - mai,

rồng- mây, hoa – bướm

Biện pháp ẩn dụ đưa đến cho ta một nhận thức mới, một lối tư duy mới về sự

vật. Ẩn dụ đã tạo ra một lối tư duy mới cả về phương diện miêu tả sự vật cụ thể lẫn

những khái niệm trừu tượng, không định hình, khó đong đếm. Bên cạnh đó, Biện pháp

ẩn dụ giúp cho tác giả dân gian diễn tả được những điều thầm kín, thậm chí những điều

khó nói nhất, khó diễn đạt nhất bằng những hình tượng nghệ thuật vừa khái quát vừa

giàu chất thơ:

Dững là rày ước mai ao

Vườn hồng chửa có ai vào đào nguyên

(Hát huê tình)

Vườn hồng là những hình ảnh ẩn dụ , chỉ vườn tình yêu, còn mỹ từ "đào nguyên"-

suối hoa đào, gợi nhớ tích xưa Lưu Nguyễn lạc thiên thai . lời ít mà ý nhiều, bằng cách

nói bóng gió xa xôi câu hát Đúm giao duyên đã biểu đạt sự kín đáo, tế nhị trong tình

yêu. Cô gái phát đi tín hiệu chưa nguyện ước cùng ai.

Như vậy, biện pháp ẩn dụ được sử dụng trong lời ca hát Đúm giao duyên Phục

Lễ được coi là một biện pháp nghệ thuật hữu hiệu để biểu hiện tình cảm, suy nghĩ của

chủ thể trữ tình một cách sâu sắc và khéo léo tế nhị nhất, nó được sử dụng rất hay, chẳng

kém gì ca dao:

“...Thực lòng chẳng nói sai đâu

Chàng đừng thử lửa mà đau lòng vàng

Hoa xuân chờ đón xuân sang

Yêu hoa đừng để nhỡ nhàng duyên hoa...” [ 2, tr.79]

(Hát ghẹo)

Lời nhắn nhủ kín đáo của cô gái đến với chàng trai cũng là lời khẳng định cho

sự thủy chung son sắt trong tình yêu của cô gái.

Bên cạnh những thủ pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, điệp từ góp phần

làm tạo nên hiệu quả thẩm mĩ, làm đẹp hơn cho lời ca giao duyên trong hát Đúm thì việc

106

sử dụng điển tích, điển cố cũng góp phần không nhỏ vào việc chuyển tải nội dung giao

duyên một cách hiệu quả.

4.1.2.5. Điển tích, điển cố

Những điển tích, điển cố được sử dụng làm cho lời ca hát Đúm thêm cô đọng,

súc tích, mang tính khái quát cao, lời ít mà ý lại nhiều. Việc sử dụng điển tích, điển cố

thể hiện tài năng, tầm hiểu biết sâu rộng của người sáng tác và hát Đúm cổ truyền. Hát

Đúm Phục Lễ sử dụng khá nhiều điển tích, điển cố trong lời ca.

* Điển tích có tên địa danh ở Trung Quốc:

Điển tích “Tần, Tấn”: Tấn và Tần là tên hai nước thời Xuân thu (Trung Quốc).

Trải suốt nhiều đời liền, con cháu hai nhà luôn cưới gả cho nhau. Cũng nhờ vậy mà tình

nghĩa hai nước Tấn Tần luôn hòa thuận, trợ giúp lẫn nhau, trở thành một tấm gương về

thuận hòa giữa các nước thời Xuân Thu. Đồng thời, cũng là gương sáng về sự thân thiết

gắn bó bền chặt giữa con người với nhau. Dựa trên những hiểu biết về điển cố này,

những người hát Đúm Phục Lễ đã sáng tạo ra có những câu hát nói về Tấn, Tần (hoặc

Tần. Tấn) để bày tỏ tình thân, tình giao ước như:

“Tấn ơi hãy tỏ cùng Tần

Còn không hay đã có xuân ở nhà” [2, tr.43]

( Hát huê tình)

Bằng lời dò hỏi kín đáo tế nhị, trai gái Phục Lễ bày tỏ nỗi niềm mong được gắn

kết, tình duyên thắm thiết bền chặt như “Tấn” với “Tần” . Lời thủ thỉ “Tấn ơi” nghe

tha thiết, gửi gắm ý tình một cách kín đáo, tế nhị.

“ Sông ngân sắp bắc cầu ô

Để cho Tần Tấn một nhà giao thông [2, tr.52]

( Hát huê tình)

Mong ước nên vợ nên chồng, cuôc sống giao hòa thắm thiết “ Tần Tấn một nhà

giao thông” của các chàng trai cô gái trong câu hát Đúm được diễn đạt thật hàm súc.

*Điển tích có tên những nhân vật hay sự việc, hiện tượng từ văn học cổ Trung Quốc:

Điển tích “Ông tơ, bà Nguyệt” (Tơ hồng, Nguyệt lão): Kể về nhân vật Vi Cố đời

Đường được một ông lão ngồi xem trăng (Nguyệt lão) bói xem chuyện nhân duyên

bằng những sợi chỉ đỏ (Tơ hồng), nói rằng sau này sẽ lấy vợ là một đứa bé lúc đó mới

lên ba xấu xí do một bà già chột mắt ẵm đi qua chợ. Sau quả nhiên đúng vậy. Từ điển

107

tích này mà xưa dân gian có phong tục: Khi cưới vợ chồng phải làm lễ tơ hồng, đó là để

tế ông Nguyệt Lão đã xe dây đỏ cho họ nên vợ nên chồng.

Trong lời ca hát Đúm Phục Lễ dùng hình tượng sợi dây đỏ, tơ hồng, chỉ đỏ, chỉ

hồng... là để nói về việc duyên số lứa đôi:

-“ Hay là chàng ước rượu mơ

Để em kết chỉ xe tơ cùng chàng” [2, tr.43]

(Hát mời rượu)

-“Những mong kết nối tơ duyên

Để anh theo đạo thánh hiền viễn du” [2, tr.61]

(Hát huê tình)

Có khi hát Đúm dùng hình tượng Nguyệt Lão, ông Tơ bà Nguyệt... là để chỉ

người mai mối:

- “Gặp đây chắc hẳn duyên rồi

Ông tơ bà mối xe rồi đừng buông” [2, tr. ]

-“Ví dù có thật như là

Nhờ tay nguyệt lão xe ta với mình” [2, tr.66]

-“Cũng là Nguyệt lão xe dây

Xe cho mình đấy ta đây vuông tròn” [2, tr.51]

(Hát huê tình)

Cũng có khi dùng ''Sợi xích thằng'' để nói về duyên số, bởi '' xích thằng'' có nghĩa

là sợi dây đỏ :

-Trước rèm thấp thoáng bóng giăng

Duyên giời xe sợi xích thằng đôi ta

- Nhớ nàng ở hội rồng mây

Xích thằng khéo lựa nối dây tơ đào

-“Đá vàng trọn đạo thất gia

Xích thằng bởi tại giăng già khéo xe.” [2, tr.57]

(Hát huê tình)

Qua các điển tích trên trai gái Phục Lễ muốn thông qua lời ca hát Đúm để gửi

gắm ước nguyện gắn kết mối mối nhân duyên bền chặt, thủy chung trước sau như một

mãi không thay lòng .

108

Điển cố “Tri âm”: Nói về nhân vật Bá Nha – Tử Kì là đôi bạn chơi thân vào thời

Xuân Thu. Bá Nha đánh đàn rất hay, còn Tử Kì nghe đàn rất giỏi, có thể nghe tiếng đàn

mà biết rõ người đánh đàn đang muốn tâm sự điềugì. Từ câu chuyện vê đôi bạn tri âm

trên mà ra đời chữ “tri âm” để chỉ những người bạn thân thiết, luôn hiểu được bụng dạ

của nhau, chỉ có họ mới hiểu được nhau mà thôi.

Lời ca trong hát Đúm giao duyên Phục Lễ có nhiều câu mượn điển cố “Tri âm”

với nghĩa là hiểu được âm thanh, âm nhạc, hiểu được tiếng đàn của nhau từ đó mà hiểu

được tình cảm, hiểu được nỗi niềm sâu kín sau mỗi câu hát giao duyên.

“Đã đành phận lửa duyên hương

Tri âm ơi hỡi thì thương nhau cùng” [2, tr.69]

(Hát huê tình)

Điển tích “ Trúc mai”: Do tiếng "Mai trúc" đảo ngược. Nghĩa là Tre làm mai

mối. "Mai trúc" do điển tích xưa kể về cửa sông Liêu Khê, huyện Long Môn, tỉnh Quảng

Đông có một cái đầm (hồ), tên là "Đỗ Phụ đàm" (nghĩa là đầm đánh đố được vợ). Tương

truyền ngày xưa có hai trẻ rất thân nhau. Khi lớn lên, mỗi người một ngả. nên nghĩ ra

một cách là chẻ một lóng tre ra làm đôi, liệng xuống đầm nước và ước nguyền cho hai

mảnh tre ấy trôi khép lại để kết làm vợ chồng. Quả nhiên như nguyện và hai người lấy

nhau. Nơi đầm ấy có tên là "Đỗ Phụ đàm". Giống tre mọc ở trên bờ đầm gọi là "Mai

trúc" nghĩa là giống tre làm mai mối.

Mai trúc ở chung nhau tức là vợ chồng sum họp, do vậy trai gái Phục Lễ trong

hát Đúm giao duyên đã tỏ bày bằng những lời ca mang ước nguyện “Trúc Mai” để mong

nên vợ nên chồng.

“...Những mong tựa trúc kề mai

Để anh đèn sách văn bài sớm trưa

Xin đừng nghĩ ngợi nắng mưa

Để anh kết chỉ sớm trưa cùng nàng...” [2, tr.45]

(Hát huê tình)

Chàng trai bộc bạch lời nguyện ước “kết chỉ”xe mối duyên tình, cùng nàng nên

vợ nên chồng. Lời ca hát Đúm giao duyên thật cô đọng, hàm súc.

Điển tích “ Sông Ngân Ô Thước”: Ngày xửa ngày xưa, dòng sông Ngân đã ngăn

cách hai bờ trên Thiên Đình, gây muôn vàn khó khăn cho người dân sống ở hai bên bờ.

109

Ngọc Hoàng luôn ao ước có thể xây được một cây cầu. Một viên quan nhỏ trong triều

tên là Ô Thước lén biết mong ước của Ngọc Hoàng nên lẳng lặng đi học xây cầu ở dải

Thiên Hà kế bên…Nhưng khi cầu xây xong Ô Thước bèn lập trạm trên cầu, thu tiền tất

cả những ai đi qua cầu…Phí cao, người dân lại trở về với con đò khi xưa, chẳng thấy ai

đi qua cầu nữa nên một thời gian, cầu Ô Thước đành đóng cửa.Tuy nhiên vào những dịp

mưa ngâu, dòng sông Ngân lại nổi sóng cuồn cuộn, chẳng ai dám đi đò qua sông mà

đành ngồi nhà ngó bờ bên kia. Chỉ có cặp tình nhân sống ở hai bên bờ nghe đâu tên là

Ngưu Lang và Chức Nữ vì quá yêu nhau nên sẵn sàng nộp phí qua cầu để được gặp nhau

trong ngày đó. Và vì thế, dưới Dương gian ngày nay được nhìn thấy chiếc cầu Ô Thước

là nhờ cặp Ngưu Lang- Chức Nữ, tình yêu của họ thật đẹp. Trong hát Đúm Phục Lễ

cũng có những câu mượn địa danh Trung Quốc xưa, hình ảnh Ngưu Lang - Chức Nữ để

chỉ sự cách trở hay tan vỡ trong tình yêu:

“Vậy ai làm bắc nam đôi ngả

Để ngưu lang chức nữ chờ nhau

Sông Ngân mượn thước bắc cầu

Tâm tình thương nhớ biết đâu mà chừng”

Mượn hình ảnh sông ngân chia cách đôi bờ thiên đình, kết hợp với cặp từ chỉ không

gian xa cách “ bắc nam” để nói hộ tâm tình thương nhớ vời vợi không cùng của đôi lứa

sống chia cách “ngưu lang chức nữ” thì quả thật lời ít, ý nhiều mà tình lại sâu sắc.

Bằng việc vận dụng điển tích, điển cố trong sáng tác, hát Đúm Phục Lễ đã diễn

đạt những ý tình vô cùng cô đọng trong lời ca giao duyên. Điều quan trọng là nó thể

hiện được tài năng của người dân và làm đẹp cho lời ca bởi tính uyên bác.

4.2. Bản sắc, giá trị của hát Đúm Phục Lễ

4.2.1. Bản sắc, giá trị của hát Đúm Phục Lễ

4.2.1.1. Bản sắc của hát Đúm Phục Lễ

Địa danh Phục Lễ được nhiều người biết đến và trở nên nổi tiếng không chỉ bởi truyền

thống yêu nước, kiên cường chống ngoai xâm, truyền thống hiếu học... mà còn nổi tiếng với

loại hình hát Đúm giao duyên được gắn với Lễ hội Mở mặt vô cùng độc đáo.

Hát Đúm Phục Lễ mang bản sắc địa phương rõ nét bởi hình thức diễn xướng tạo

“ Đúm”, bởi phương thức ứng tác trong quá trình diễn xướng. Chính bản sắc địa phương

đã tạo nên tên tuổi của hát Đúm Phục Lễ. Và không biết từ bao giờ loại hình ca hát giao

110

duyên này đã trở thành đặc sản, món ăn tinh thần được du khách kiếm tìm khi đến với

thành phố Hoa phượng đỏ.

4.2.1.2. Giá trị của hát Đúm Phục Lễ

Trải qua bao thăng trầm, hát Đúm Phục Lễ vẫn được duy trì và phát triển đến

ngày nay. Hòa vào dòng chảy những giá trị văn hóa dân gian, hát Đúm Phục Lễ thực sự

trở thành vật báu sống với nhiều giá trị văn hóa, văn học, du lịch...

Trước hết hát Đúm Phục Lễ mang giá trị về văn hóa: Là hoạt động sinh hoạt văn

hóa cộng đồng thông qua hình thức hát đối đáp nam nữ, hát Đúm là phương tiện giao

lưu tình cảm tinh tế và có văn hóa. ...

Hát Đúm mang giá trị về văn học: Là khúc ca giao duyên thắm tình lứa đôi. Đề

tài giao duyên trong hát Đúm vô cùng phong phú, nhiều cung bậc tình cảm được được

thể hiện với tiếng lòng yêu thương đầy khát khao về tình yêu, hạnh phúc của trai gái nơi

đây.

4.2.2. Thực trạng và giải pháp bảo tồn hát Đúm Phục Lễ hiện nay

4.2.2.1. Thực trạng hát Đúm Phục Lễ hiện nay

Hiện nay, người tham gia hát Đúm không nhiều chủ yếu tập trung ở người lớn

tuổi. Hát Đúm được duy trì bằng hình thức sinh hoạt câu lạc bộ; bằng hình thức thi hát

giữa các câu lạc bộ.

Hiện nay hát Đúm Phục Lễ được duy trì và phát triển dưới hình thức câu lạc bộ.

Câu lạc bộ hát Đúm xã Phục Lễ hiện nay có hơn 20 hội viên với nhiều hoạt động tích

cực. Các thành viên trong câu lạc bộ thường xuyên tổ chức giao lưu hát Đúm với các xã

bạn như Phả Lễ, Lập Lễ, Tam Hưng, Ngũ Lão, Thủy Triều...với cả tỉnh bạn như Quảng

Ninh.

Hát Đúm Phục Lễ hàng năm được tổ chức vào lễ hội xuân từ mồng 2 đến mồng

6 tháng giêng âm lịch. Mồng 5 tết diễn ra cuộc thi chung kết hát Đúm giữa các xã có di

sản văn hóa gốc như Phục Lễ, Phả Lễ, Lập Lễ.

Đối với người dân Phục Lễ xưa, hát Đúm đã ăn vào máu thịt, dù có năm tháng

phải sống xa quê hương thì mạch nguồn hát Đúm luôn dạt dào trong tim . Ông Nguyễn

Văn Thập (cựu chiến binh năm xưa) là thành viên câu lạc bộ hát Đúm xã Phục Lễ đã

bày tỏ tình cảm luyến nhớ một thời qua những vần thơ gửi tặng các nghệ nhân hát Đúm

xã Phục Lễ: “ Phục Lễ ơi! Tôi yêu lời ví đúm/ Hơn một lần tôi đã hát hội xuân/ Quên

111

sao được buổi ban đầu ... “ Khó nói” / Tay cầm tay “ người đằng ấy” yêu thương./Hơn

bốn mươi năm, nay trở lại/ Gặp người xưa vui hội giữa quê hương/ Dẫu mái tóc pha

sương tôi vẫn hát/ Bởi vì “người đằng ấy” vẫn nhớ mong/ Phục Lễ ơi! Đã nuôi tôi khôn

lớn/Trong vành nôi hát Đúm cổ lưu truyền/Xin tiếp nối những bài ca trong sang/ Giữ

đậm đà bản sắc của quê hương”.

4.2.2.2. Những giải pháp bảo tồn hát Đúm Phục Lễ hiện nay

Hát Đúm Phục Lễ, Thủy Nguyên, Hải Phòng là một loại hình ca hát dân gian đã

và đang được bảo tồn một cách tích cực. Ngày 15 tháng giêng năm Giáp Ngọ ( 2014),

hát Đúm Phục Lễ được giới thiệu ở Văn Miếu Quốc Tử Giám với cả nước, bước đầu

đến với công chúng.[25, tr.789]

Trong những năm gần đây, việc bảo lưu các làn điệu dân ca của dân tộc đã được

sưu tầm, ghi chép nhằm giúp cho thế hệ trẻ hôm nay hiểu biết và trân trọng giá trị văn

hóa trong suốt chiều dài lịch sử. Được sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp lãnh đạo thành

phố Hải Phòng, hát Đúm đã được chú ý đầu tư hơn. Đã có những tiết mục về hát Đúm

được dàn dựng công phu và đã gây được tiếng vang. Theo tin trên báo Hải Phòng điện

tử ngày 28 – 08 – 2009, tiết mục Hát Đúm hội đu, đo đoàn ca múa nhạc Hải Phòng dàn

dựng tham dự Hội diễn ca múa nhạc chuyên nghiệp toàn năm 2009 đã đoạt giải huy

chương bạc. Hay tiết mục Hát Đúm dân ca Hải Phòng, được dàn dựng bởi Đoàn ca múa

Hải Phòng- Đoàn nghệ thuật Hải Quân- Đoàn Cải lương HP- Trường VHNT Hải Phòng

( Âm nhạc: Huyền Chung, biên đạo múa: Tiến Thuận – Lưu Nga) . Đây là tiết mục được

trình diễn chào mừng Lễ hội hoa phượng đỏ lần thứ I tại Hải Phòng năm 2012, tiết mục

để lại ấn tượng sâu sắc và góp phần tạo nên thành công cho Lễ hội.

Tại huyện Thủy Nguyên các hoạt động nhằm bảo tồn và phát huy làn điệu này

được đẩy mạnh. Tại nhiều địa phương thành lập câu lạc bộ hát Đúm, huyện đã có những

tiết mục hát Đúm được tham gia hội diễn văn nghệ khá công phu. Phòng Giáo dục và

Đào tạo - Công đoàn giáo dục huyện Thủy Nguyên đã tổ chức thành công Liên hoan

Tiếng hát dân ca học sinh và giáo viên tiểu học. Tiết mục hát Đúm về thầy cô được các

em học sinh Trường tiểu học Phục Lễ biểu diễn thành công.

Hằng năm, Phòng văn hóa huyện Thủy Nguyên đã tổ chức thành công cuộc thi

chung kết hát Đúm tại các xã như Phục Lễ, Phả Lễ, Lập Lễ. Sau mỗi cuộc thi đều được

quay video đưa lên mạng xã hội nhằm quảng bá rộng rãi cho lễ hội hát Đúm. Huyện đã

112

phát hành đĩa các làn điệu hát Đúm do chính các nghệ nhân hát. Huyện dự kiến năm

2018 tiếp tục triển khai làm đĩa nhằm mục đích không chỉ đưa hát Đúm tới nhiều đối

tượng trong huyện, thành phố trong cả nước mà còn hướng tới các kiều bào ở nước ngoài

như Anh, Úc, Ca – na - đa, Xinh – ga - po ...vì huyện Thủy Nguyên là huyện có nhiều

kiều bào đang sinh sống ở nước ngoài.

Nhiệm vụ quan trọng của các cấp quản lí văn hóa ở huyện, thành phố cần có

chính sách chính sách bồi dưỡng cho những báu vật sống, để nghệ nhân có đủ điều kiện

kinh tế mà chuyên tâm theo nghề đến trọn đời.

Chính quyền xã Phục Lễ đã có rất nhiều biện pháp nhằm bảo tồn và phát huy hát

Đúm tại địa phương như : Lồng ghép các tiết mục hát Đúm vào các chương trình biểu

diễn văn hóa, nghệ thuật phục vụ đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân góp phần

bảo tồn giá trị văn hóa độc đáo. Quan tâm, thúc đẩy các hoạt động phong trào của câu

lạc bộ hát Đúm của địa phương nhằm bảo tồn, phát triển giá trị văn hóa của địa phương.

Trong các dịp lễ tết, hội hè quan trọng đều mời các nghệ nhân và thành viên câu lạc bộ

xã mình cũng như xã bạn tham gia hát nhằm mục đích duy trì văn hóa hát Đúm trong

nhân dân.

Trong các cuộc thi hát Đúm thuộc tổng Phục Lễ, các hội hội viên đã có những

tìm tòi, sáng tạo góp phần vào bảo tồn những giá trị văn hóa địa phương và phát huy

truyền thống văn hóa này cho thế hệ mai sau.

Nghệ nhân Phạm Thị Đáng, thành viên chủ chốt của câu lạc bộ hát Đúm Phục

Lễ. Bà là người tích cực phát hiện và truyền dạy hát Đúm cho thế hệ trẻ bằng tất cả tình

yêu, lòng nhiệt tình và trách nhiêm cao. Hiện nay bà đang dạy một lớp hát Đúm gồm

nhiều độ tuổi từ học sinh tiểu học, trung học cơ sở đến trung học phổ thông tham gia

học với mong muốn thế hệ trẻ sẽ tiếp nối và giữ gìn văn hóa truyên thống của địa phương.

Gặp gỡ, trao đổi với nghệ nhân mới thấy hết tình yêu hát Đúm trong con người bà.

Không chỉ có ý thức truyền dạy hát Đúm mà bà còn có ý thức mở rộng giao lưu hát Đúm

Phục Lễ với hát Đúm các xã trong huyện, ngoài huyện, thậm chí với các tỉnh khác như

Hưng Yên ( Quảng Ninh). Tham gia nhiều cuộc hội diễn văn nghệ trong nước, đi nhiều

nơi, học hỏi nhiều kinh nghiệm về nghề diễn nên bà càng trân trọng những giá trị văn

hóa tinh thần của quê hương. Hát Đúm Phục Lễ là hình thức diễn xướng giao duyên vô

113

cùng độc đáo của người dân tổng Phục xưa nay vẫn được duy trì và phát triển bởi những

nghệ nhân đầy tâm huyết như bà Đáng.

Hiện nay được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, hát Đúm với nét đẹp văn hóa

dân gian của Thủy Nguyên đang dần được khôi phục và phát triển. Lễ hội hát Đúm được

tổ chức hiện nay không những để tôn vinh bản sắc văn hóa địa phương, giữ gìn nét văn

hóa truyền thống mà còn là dịp để quảng bá giới thiệu tiềm năng văn hóa, thể thao, du

lịch và con người Hải Phòng. Dự kiến đến năm 2020 sẽ khôi phục lại tục bịt mặt và mở

mặt với hi vọng tìm lại bản sắc văn hóa vùng miền.

* Tiểu kết chương 4

Chương viết đi sâu phân tích một số biện pháp nghệ thuật đặc sắc tiêu biểu thể

hiện đề tài giao duyên trong hát Đúm Phục Lễ. Đó là một số yếu tố thi pháp nghệ thuật

cụ thể như: Kết cấu, giai điệu, thể thơ, ngôn ngữ, không gian - thời gian nghệ thuật;

Đó là một số thủ pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, điệp ngữ và điển tích

điển cố.

Qua phân tích, dẫn chứng từ những lời ca trong hát Đúm Phục Lễ, chương viết

đã chỉ ra cùng với nội dung phản ánh đề tài giao duyên trong hát Đúm Phục lễ, về phương

diện nghệ thuật thể hiện hát Đúm đã sử dụng nhiều yếu tố, biện pháp nghệ thuật truyền

thống của ca dao dân ca vùng đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời cũng góp thêm những yếu

tố nghệ thuật riêng, đặc sắc làm nên giá trị và bản sắc cho hát Đúm Phục Lễ. Trong đó,

mỗi một hình thức nghệ thuật đều được hát Đúm vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp

với bối cảnh diễn xướng, sinh hoạt của loại hình ca hát này làm nên cái hay, cái đẹp, cái

riêng không trộn lẫn. Nhờ các biện pháp nghệ thuật mà nội dung giao duyên trong hát

Đúm Phục Lễ được biểu đạt một cách vừa giản dị, vừa trau chuốt, uyên bác, khẳng định

được tài năng của người sáng tác, vừa tạo nên vẻ hấp dẫn, lôi cuốn cho những câu hát

Đúm Phục Lễ xưa nay. Ngoài ra, chương viết còn đề cập tới bản sắc cũng như giá trị

và biện pháp bảo tồn hát Đúm hiện nay. Trải qua bao thăng trầm, hát Đúm Phục Lễ có

những giai đoạn gần như mai một, có nguy cơ mất dần bản sắc. Ngày nay với sự quan

tâm chỉ đạo của Đảng nhà nước, văn hóa dân tộc được đề cao qua các kì Đại hội Đảng.

Bản sắc văn hóa vùng miền được đưa vào nghị quyết, gắn với bảo tồn và phát huy giá

trị truyền thống dân tộc.

114

KẾT LUẬN

Luận văn về “Đề tài giao duyên trong Hát Đúm Phục Lễ, Thủy Nguyên, Hải Phòng”

của chúng tôi muốn đề cập đến một di sản văn hóa phi vật thể được vinh danh là Báu vật

sống của địa phương Phục Lễ.

1. Luận văn đi sâu nghiên cứu loại hình dân ca hát Đúm Phục Lễ dưới góc độ một hiện

tượng văn học dân gian với việc tìm hiểu đề tài giao duyên thông qua hình thức và nội dung

diễn xướng, cùng các biện pháp nghệ thuật. Điểm độc đáo của hình thức diễn xướng hát Đúm

là tạo mối giao kết nam nữ qua lời ca giao duyên và gắn với hình thức “tạo Đúm”. Độc đáo

còn bởi cách thức ứng tác - đối đáp nam nữ, thể hiện sự sáng tạo, sức hấp dẫn, thu hút người

nghe, người thưởng thức. Chính những điểm độc đáo này đã đem đến cho hát Đúm nội dung

giao duyên phong phong phú, đa dạng.

2. Khai thác đề tài giao duyên, tiếp cận nội dung phong phú thông qua các bước

hát đa dạng, luận văn đã đem đến cho bạn đọc một hình dung về đời sống tình cảm của

trai gái Phục Lễ. Qua mỗi lời ca, cuộc sống đời thường của nam nữ được tái hiện từ gặp

gỡ giao duyên, thử tài, đến trao duyên trao tình, nguyện ước và đi đến hôn nhân; đây

chính là con đường tình yêu hội tụ trăm ngàn gương mặt trong lễ hội hát Đúm độc đáo

115

nổi tiếng của tổng Phục khi xưa, với hi vọng được chiêm ngưỡng dung nhan của một

gương mặt sẽ trở nên thân quen và gắn bó với ta đến trọn đời trọn kiếp. Tiếp cận đề tài

giao duyên là tiếp cận với nội dung hát Đúm. Thông qua lời ca, trai gái nơi đây đã khéo

léo gửi gắm nỗi lòng qua câu hát chứa đựng niềm vui, nỗi buồn cùng bao ước vọng về

hạnh phúc lứa đôi cũng như bao hoài bão về cuộc sống ấm no của cư dân miền biển.

3. Bên cạnh giá trị nội dung phản ánh đề tài giao duyên trong hát Đúm Phục Lễ,

luận văn chỉ ra đặc điểm nghệ thuật và giá trị, ý nghĩa của hát Đúm giao duyên. Một số

biện pháp nghệ thuật đặc sắc tiêu biểu thể hiện đề tài giao duyên trong hát Đúm Phục

Lễ được tìm hiểu, phân tích. Đó là một số yếu tố thi pháp nghệ thuật cụ thể như: Kết

cấu, giai điệu, thể thơ, ngôn ngữ, không gian - thời gian nghệ thuật; Đó là một số thủ

pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, điệp ngữ và điển tích điển cố. Ở mỗi

một hình thức nghệ thuật đều được hát Đúm vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với

bối cảnh diễn xướng, sinh hoạt của loại hình ca hát này làm nên cái hay, cái đẹp, cái

riêng không trộn lẫn. Nhờ các biện pháp nghệ thuật mà nội dung giao duyên trong hát

Đúm Phục Lễ được biểu đạt một cách vừa giản dị, vừa trau chuốt, uyên bác, khẳng định

được tài năng của người sáng tác, vừa tạo nên vẻ hấp dẫn, lôi cuốn cho những câu hát

Đúm Phục Lễ xưa nay .

4. Ngoài ra, luận văn còn đề cập tới bản sắc cũng như giá trị và biện pháp bảo tồn

hát Đúm hiện nay. Trải qua bao thăng trầm, hát Đúm Phục Lễ có những giai đoạn gần

như mai một, có nguy cơ mất hẳn. Ngày nay với sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà

nước, văn hóa dân tộc được đề cao qua các kì Đại hội Đảng. Bản sắc văn hóa vùng miền

được đưa vào nghị quyết đại hội, gắn với bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống dân

tộc. Đề tài là một đóng góp cụ thể vào việc bảo tồn và phát huy loại hình ca hát này

trong đời sống hôm nay.

Ra đời trong xã hội cổ truyền, được lưu giữ và phát triển đến ngày nay, hát Đúm Phục Lễ là loại hình nghệ thuật hát dân gian cổ, mang đậm dấu ấn, phong cách hơi thở

của miền biển sóng gió mặn mòi, một nét sinh hoạt không thể thiếu trong đời sống người

dân Phục Lễ, Thủy Nguyên, Hải Phòng. Đến với “Lễ hội khai xuân” hát Đúm, tìm hiểu

về “ Lễ hội Mở mặt” vô cùng độc đáo đã trở thành huyền tích trong dân gian. Nét sinh

hoạt văn hóa đặc sắc của địa phương Phục Lễ xưa và nay được bài viết mô tả, phản ánh

chân thực khách quan. Điều trăn trở nhất với người nghiên cứu là làm thế nào để đưa hát

Đúm ngày càng đến gần hơn với đông đảo công chúng hiện nay.

116

Luận văn tuy có ý nghĩa sử dụng làm tư liệu tham khảo cho nghiên cứu văn học

dân gian, nhưng ở một góc độ nào đó về xã hội, văn hóa, chúng tôi mong muốn đóng

góp một cách cụ thể vào việc giữ gìn, phát huy, bảo tồn hát Đúm hiện nay, để nâng cao

vẻ đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc.

Để phát hiện, giữ gìn những giá trị truyền thống của cha ông đòi hỏi giới nghiên cứu

không ngừng nỗ lực sưu tầm, nghiên cứu, các loại hình di sản văn hóa, văn học dân gian hơn

nữa, trong đó có hát Đúm. Hiện nay đã có nhiều công trình giới thiệu về hát Đúm của các nhà

nghiên cứu nhưng chưa thực sự chuyên sâu, vì vậy rất cần những công trình nghiên cứu hát

Đúm một cách khoa học, đầy đủ để công chúng trong cả nước và quốc tế được biết đến loại

hình ca hát độc đáo này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Trịnh Hữu Anh (2016), “Hát Đúm của người Thổ ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã

hội Việt Nam, số 1(98)

2.Ban văn hóa xã Phục Lễ (2005), Hát Đúm cổ truyền Phục Lễ - Thủy Nguyên - Hải

Phòng, Câu lạc bộ hát Đúm, Lưu hành nội bộ.

3. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Thủy(1985), Lịch sử đấu tranh cách mạng của đảng

bộ và nhân dân Thủy Nguyên 1930- 1975, Nxb Hải Phòng.

4. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, truy cập tháng 3 năm 2017.

5. Nguyễn Duy Bắc (chủ biên) (2008), Sự biến đổi các giá trị văn hoá trong bối cảnh

xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Từ điển bách khoa và

Viện Văn hoá, Hà Nội.

6. Phan Kế Bính( 2001), Việt Nam phong tục, Tái bản, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội.

7. Minh Châm (12 tháng 02 năm 2016). “Du xuân nghe hát đúm”.

http://baohaiphong.com.vn. Báo Hải Phòng. Truy cập 5 tháng 6 năm 2016.

8. Đảng ủy, Hội đồng nhân dân - Uỷ ban xã Phục Lễ, huyện Thủy Nguyên, thành phố

Hải Phòng (2006), Lịch sử xã Phục Lễ, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.

117

9. Cao Huy Đỉnh (1974 ), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

10. Cao Huy Đỉnh (2007), “Lối đối đáp trong ca dao trữ tình”, trong Ca dao và những

lời bình, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

11.Ngọc Hải (12 tháng 2 năm 2005). “Hội "mở mặt" đầu Xuân”.

http://www.tienphong.vn. Báo Tiền Phong. Truy cập 2 tháng 10 năm 2016.

12. Nguyễn Ngọc Hải- Nguyễn Đỗ Hiệp (2006), Hát Đúm Phục Lễ - Thủy Nguyên -

Hải Phòng, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.

13. “Hát Đúm”. http://www.vietnamtourism.com, Truy cập 2 tháng 10 năm 2016.

14.Trịnh Minh Hiên (2006), Lễ hội truyền thống tiêu biểu ở Hải Phòng, Nxb Hải Phòng,

Hải Phòng.

15. Bùi Trọng Hiền, Đỗ Lan Phương (2001), “Hát trai gái dân tộc Giáy”, Thông báo

Khoa học (5), tháng 7-12, Viện Âm nhạc Hà Nội.

16. Nguyễn Đỗ Hiệp (2013), Hát đúm của người Việt ở Bắc Bộ, Luận án tiến sĩ Văn

hóa học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

17. Nguyễn Đỗ Hiệp. “Hát Đúm Thủy Nguyên trong môi trường hiện đại”.

http://baotangnhanhoc.org. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 306, tháng 12-2009.

Truy cập 2 tháng 10 năm 2016.

18. Phạm Lê Hòa, Đỗ Lan Phương (2001), “Hát đúm Phả Lễ - Thủy Nguyên - Hải

Phòng”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.

19.Việt Hòa (28 tháng 02 năm 2015). “Độc đáo hội mở mặt, hát đúm”.

http://laodong.com.vn. Báo Lao động. Truy cập 2 tháng 10 năm 2016

20.Nguyễn Đăng Hòe (1979), Bước đầu tìm hiểu hát ghẹo Vĩnh Phú, Nxb Ty Văn hóa

Thông tin Vĩnh Phú, Vĩnh Phú.

21.Hội đồng lịch sử thành phố Hải Phòng (1990), Địa chí Hải Phòng (tập I), Nxb Hải

Phòng, Hải Phòng.

22. Hội đồng lịch sử thành phố Hải Phòng, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân

văn - Đại học Quốc gia Hà Nội (1999), Từ điển bách khoa địa danh Hải Phòng,

Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.

118

23. Nguyễn Thế Hùng (2014). “Hát Đúm Thủy Nguyên - Hải Phòng xưa và nay”.

http://www.spnttw.edu.vn. Trường Đại học sư phạm nghệ thuật trung ương. Truy

cập 2 tháng 10 năm 2016.

24.Nguyễn Văn Huyên (2002), “Hát đối của thanh niên nam nữ ở Việt Nam”, trong

sách Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, t.1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

25. Huyện ủy- UBND Huyện Thủy Nguyên Thành phố Hải Phòng ( 2015), Địa chí Thủy

Nguyên, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.

26.Vũ Ngọc Khánh (1994), “Lễ hội cổ truyền trong quá trình thích nghi với đời sống xã

hội hiện tại và tương lai”, trong sách Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện

đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

27. Phạm Minh Khang (2004), “Nét đặc trưng trong nghệ thuật hát Đúm Thuỷ Nguyên”,

Tạp chí Nguồn sáng dân gian (1), tr.32 - 35.

28. Đinh Gia Khánh (1995), Văn hoá dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội

Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

29. Vũ Ngọc Khánh (1997), Trong kho tàng diễn xướng dân gian Việt Nam, Nxb Văn

hóa Thông tin.

30. Nguyễn Xuân Kính (chủ biên), (2002), Ca dao tình yêu đôi lứa, tập 16, trong bộ

Tổng tập văn học dân gian người Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

31.Nguyễn Xuân Kính (2006), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

32. Mã Giang Lân (2007), “Tục ngữ ca dao Việt Nam”, trong Ca dao và những lời bình,

NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

33. Living Human Treasures - Công văn số CL/3433 (16/09/1996), Khuyến nghị của

Unesco tại Đại hội đồng lần thứ 25, Pari 1989.

34. Vũ Loan (2001), “Hát Đúm Thuỷ Nguyên”, trong sách Văn hoá văn nghệ dân gian

Hải Phòng, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng, tr.58 - 63.

35.Nguyễn Thụy Loan(2001), Thường thức về âm nhạc cổ truyền và lịch sử âm nhạc,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

36. Nguyễn Thị Luyên (2013) Làn điệu hát Đúm ở xã Phục Lễ, huyện Thủy Nguyên, Hải

Phòng, Đại học Sư phạm Hà Nội 2.

37. Hữu Ngọc (2002), Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.

38. Tú Ngọc (1994), Dân ca người Việt, Nxb Âm Nhạc Hà Nội.

119

39. Tôn Ái Nhân( 26 tháng 01 năm 2016), “ Hát đúm ở Thủy Nguyên”,

htt://vnca.cand.com.vn/Báo Công an nhân dân điện tử. Truy cập ngày 10

tháng 10 năm 2016.

40. Bùi Mạnh Nhị chủ biên( 2002), Văn học dân gian những công trình nghiên cứu, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

41.Ngô Đức Thịnh (chủ biên), (2000), Văn hóa dân gian làng ven biển, Nxb Văn hóa

dân tộc, Hà Nội.

42.Giang Thu, Trần Sản, Phạm Thị Huyền (2003), Tìm hiểu hội mở mặt, hội hát đúm

Hải Phòng, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

43.Nguyễn Hữu Thu ( 1980), “ Tư duy Việt cổ từ nhạc khí trống quân”, Tạp chí Văn

hóa nghệ thuật, số 3.

44..Đinh Tiếp (1987), Hát đúm Hải Phòng, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng.

45. Phạm Trọng Toàn (2010),“ Hát đúm”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 36, tr.54 - 114

46. Lê Thị Thu Trang (2004), Đặc điểm nội dung và nghệ thuật hát Đúm Thủy Nguyên,

Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Hải Phòng.

47.Lê Thị Huyền Trân (2010), Đặc điểm ngữ dụng của ca dao đối đáp giao duyên tiếng

Việt, Luận án thạc sĩ Ngôn ngữ học, Trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí

Minh.

48. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện Văn học (1999), Tuyển tập

văn học dân gian Việt Nam Tập IV Quyển 2: Dân ca, Nxb Giáo dục, Hà Nội

49. Trần Đức Tùng (2014), Hát đúm của các làng vùng cửa sông Bạch Đằng: lịch sử,

văn hóa và di sản, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

50. Trịnh Cao Tưởng(1978), Non nước Đồ Sơn, Nxb Văn hóa, Hà Nội

51. Uỷ ban nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, Phòng Văn hoá và Thông tin (số 40/ BC-

VH&TT, 27/10/2011), Báo cáo hiện trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị di

sản văn hoá; mô hình tổ chức bộ máy hoạt động; công tác quản lý nhà nước về các

hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá; quản lý sử dụng cơ sở vật chất

của ngành văn hoá trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên.

52. Uỷ ban nhân dân huyện Thuỷ Nguyên (2012), Đề án bảo tồn và phát huy giá trị di

sản văn hóa huyện Thủy Nguyên đến năm 2015, định hướng đến năm 2020.

120

53. Viện khoa học và xã hội Việt nam, Viện ngôn ngữ học (1992), Từ điển tiếng Việt,

Nxb Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.

54. Nguyễn Như Ý chủ biên (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà

Nội.

PHỤ LỤC

1. Một số bài bản lời ca trong hát Đúm Phục Lễ (Trích trong cuốn Hát Đúm

cổ truyền Phục Lễ - Thủy Nguyên - Hải Phòng ) - Mục 2 TLTK

MỜI HÁT

Nam:

Duyên kết bạn mình ơi Bấy lâu lòng những ước ao Bây giờ mình nghĩ làm sao hỡi mình Ví chăng duyên nợ ba sinh Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi Chơi xuân nhớ cảnh nhớ người Nhớ nơi hội ngộ, vội rời chân ra Quanh quanh làng xã quên nhà Lòng này ai tỏ cho ta hỡi mình Người xinh tiếng nói cũng xinh Chuông kêu, khẽ dặt lên thành cũng kêu Tình riêng nhớ ít tưởng nhiều Tìm nơi hỏi chốn Lam Kiều lần sang Dao Vàng lại liếc đá vàng

121

Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa Tình cờ thấu nỗi tình cờ Lòng đây, lòng đấy biết cơ hội nào Nên chăng “ý hợp tâm đầu” Thì nàng cũng hát mấy câu cho tường [2, tr.9] Rằng duyên kết bạn tình ơi HÁT GẶP Nam: Hội tương phùng cùng nhau gặp gỡ Cầm lấy tay than thở mấy nhời Đi đâu vội thế nàng ơi Hay là ba chốn bốn nơi thế nào? Chốn thanh tao hữu duyên thiên lý Đủ sắc tài hổ phỉ tứ phương Gái Thuyền Quyên Dập dìu ong bướm Trai anh hùng hát xuống là vui Hôm nay nàng đến hội chơi Đã vui mà lại tiếc nhời làm chi Hay nàng còn bận việc gì Nàng hãy nói thực anh thì được hay Dù có nên, đông tây đào liễu Cũng nói nhời định liệu cho xong Làm chi phải để gạn gùng Hay nàng nhan sắc ra lòng làm cao Để cho mận chẳng gần đào Tiết xuân ngày hội lễ nào nhạt phai Đến hội không hát nàng ơi Giống như tượng đá lẻ loi lạnh lùng. [2, tr.10] Người thương ơi.

Nữ:

122

Duyên kết bạn mình ơi Đêm qua sương gió lạnh lùng Một mình đốt ngọn đèn chong đợi chàng Hôm nay giữa đám hội làng Gặp nhau bên ngọc bên vàng sánh đôi Hôm qua hết đứng lại ngồi Nhớ ai ai nhớ ngậm ngùi tơ vương Bây giờ lan hữu cúc hương Nắng vàng bõ lúc trên đường gặp mưa Hôm qua sớm đợi đêm chờ Một mình ra ngẩn vào ngơ một mình Hôm nay tình mới gặp tình Duyên giời đưa lại chúng mình bên nhau Gặp nhau mừng tuổi cho nhau Mừng cho loan phượng hát câu ân tình Ví rằng duyên nợ ba sinh Hỏi ai, ai có thấu tình chăng ai Hôm nay đến hội vui chơi Hát sao cho xứng lời mời của anh. [2, tr.14-15] Người thương ơi

HÁT CHÀO Nam:

Chào quý trước nam nữ thanh tú Đến hội xuân vạn sự bình yên Kể từ lập địa khai thiên Khai Thiên vào hội Giao Duyên Xuân này Mỗi năm thường lệ Vui thay Nức nô cảnh Phật tới ngày chơi Xuân Gần xa nô nức Yến Oanh Dập dìu ong bướm hồng quần xôn xao Gái thì trang điểm má đào Giai thì Phong Nhã lược thao gồm Tài Mong sao đến hội vui chơi Trước là Vãng cảnh sau thời chơi xuân Giai chơi tỏ mặt văn nhân Gái chơi quốc sắc xứng danh hội này Hát cho hoa lá lung lay Vui đâu bằng chốn hội này em ơi Gặp em anh hỏi đôi lời

123

Mùa xuân được mấy ngày vui thế này Đôi ta phận đẹp duyên may Hát cho tình thắm những ngày xa nhau . [2, tr.8] Người thương ơi

Nữ: Duyên kết bạn mình ơi Thoạt vào em chào hội xuân Em chào quý chức xa gần ngồi chơi Ngả nghiêng bên nói bên cười Bên hút thuốc lá bên ngồi tựa long Em nay là khách má hồng Em chưa từng hát ở trong hội này Muốn hay hát chẳng được hay Em xin quý chức ở đây đừng cười Dù em có nói lỡ nhời Thì xin quý chức đừng cười em chi Đến hội em chẳng ngại gì Cậu khoá mời hát em thì góp vui Mỗi năm gặp một lần thôi Ngày vui ca hát để rồi nhớ nhau . [2, tr.15] Người thương ơi

HÁT CÓ GIAO HẸN

Nữ: Duyên kết bạn mình ơi Chàng muốn em hát em xin giao hẹn Khách tài tình thề nguyện bóng giăng Chàng hát vần trắc, em hát vần bằng Hát mưa, hát gió, hát giăng lên giời Gặp đây hỏi một đôi lời Cầm kỳ, thi họa, chàng thời hát không? Hát sao như vợ như chồng Liệu chàng có hát được không hở chàng? Hát cho đông đủ họ hàng trước sau

124

Bõ nhời nguyện ao ước ngày xưa Hát nắng rồi lại hát mưa Hát giọng cày cấy, đò đưa giọng tuồng Hát tiếng mán tiếng mường tiếng thổ Giọng Sài Gòn đi đủ Nam Kinh Ngồi một mình để mà đánh trống Đoạn cuộc rồi giở giọng mà nghe Giã ơn kẻ ở kẻ người về Ngựa Hồ, chim Việt nhiều bề nhớ thương. [2, tr.16] Người thương ơi

Nam: Duyên kết bạn mình ơi Nàng giao hẹn sao không hẹn trước Để cho anh biết được yên lòng Ngày xuân gặp bạn má hồng Hát vậy nên vợ nên chồng mới hay Cầm kì thi họa hội này Duyên giời đã định xe dây cùng nàng Hát bõ lúc ngày đêm ao ước Hội tương phùng ta được gặp nhau Hát cho nổi tiếng hoàn cầu Để cho thiên hạ đâu đâu cũng tường Hát tiếng Mán tiếng Mường tiếng Thổ Giọng sài gòn đi đủ năm canh Gặp đây hỏi thực nàng hay gặp đây hỏi thực nàng hay Hỏi rằng học nàng có thầy hay không Anh đây thực đấng anh hùng Doc ngang trời đất tinh thông lắm nghề Nàng ơi nín lặng mà nghe Đã chơi có biết đủ nghề mới hay Rằng lòng sở nguyện đêm ngày Bỗng sao kỳ ngộ hôm nay gặp nàng Lòng anh muốn bắc cầu sang Hội nay ta kết đá vàng được chăng. [2, tr.17] Người thương ơi

HÁT MỜI GIẦU

Nam: Duyên kết bạn mình ơi

125

Giầu anh têm tối hôm qua Đã kính thầy mẹ ở nhà vừa xong Giầu anh đãi khách má hồng Được nàng nhận lấy mà lòng anh vui Song song như đũa có đôi Tao đoan nghĩa cà muôn đời cùng nhau Giấu này có vỏ có cau Có vôi có thuốc say lâu môi hồng Một mai nên đạo vợ chổng Ăn dăm ba miếng cho lòng nhớ thương Cẩm lược thì nhớ đến gương Cẩm khăn nhớ túi ta thương nhau nhiều

Người thương ơi [2, tr.32] Nữ:

Duyên kết bạn mình ơi

Miếng giầụ xinh đẹp rõ ràng Dở ra co bốn chữ vàng ở trong Không ăn thì sợ mất lòng Ăn vào sợ có “bùa” trong miếng giầu Nể lòng em nhận miếng giầu Án vào biết nói thế nào mà ăn Ở nhà thầy mẹ khuyên răn Gái ngoan chớ có vội ần giầu người Hôm nay đến hội vui chơi Em xin cầm miếng giầu mời của anh [2, tr.32] Người thương ơi

Nam :

Duyên kết bạn mình ơi

Gặp đây ăn một miếng giầu Chưa ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng Giầu này nên trúc nên thông Nên đạo vợ chổng ta dở giầu ra Giầu này têm tối hôm qua Quả cau sáu bổ thành ba rành rành Miếng giầu cánh phượng xinh xinh Ăn vào thắm đỏ môi mình môi ta Có ăn thì dở giầu ra Trước là mặn thuốc sau là nhạt vôi

126

Nhạt vôi ta lại thêm vôi

Ước gì ta được thành đôi vợ chồng. [2, tr.34]

Người thương ơi

Nữ: Duyên kết bạn mình ơi Giầu này giầu tính giầu tình Giầu loan, giầu phượng, giầu mình, giầu la Giầu này têm tối hôm qua Cau ngon khéo bổ thành ba rõ ràng Không ăn thì sợ mất lòng Ăn vào em biết đãi đằng làm sao Những là rầy ước mai ao Cầm giầu biết nói thế nào hôm nay Không ăn thì bảo rằng cay Ản vào lại sợ giầu say chàng là Giầu này tình nghĩa đôi la

Chỉ mong tần tấn một nhà giao thông. [2, tr.35] Người thương ơi

HÁT MỜI THUỐC LÀO

Nữ: Duyên kết bạn mình ơi Sao chàng còn chửa tỉnh cho Nhìn chàng em lại thêm lo vào mình Hai tay em bưng điếu bình Mời chàng xơi thuốc hữu tình đừng chê Em xin bứng điếu ngồi kể Tay chàng vê thuốc cầm xa đấy rồi Mời chàng xơi thuốc đi thôi Tay thì cầm đóm tay thời cầm xe Đóm châm bén lửa lập lòe Chàng nâng lấy điếu cầm xa hút liền Điếu này đôi tay em bưng Long vân nhật nguyệt vui lòng bạn loan Điếu này chỉ có xiêm ban Chờ người lịch sự thanh nhàn mới hay Điếu này có cảnh rồng bay Long vân hội ngộ, chàng say đứ đừ

127

Điều này tả cảnh tương tư Lưng ong, thắt đáy y như nàng Kiều Tài trai đức độ đáng yêu Mời chàng xơi thuốc em chiều em thương [2, tr.41] Người thương ơi

HÁT ĐỐI MỜI THUỐC LÀO

Nam: Duyên kết bạn mình ơi Điếu này là điếu của mình Lưng ong thắt đáy đẹp xinh mọi đường Điếu này không phải điếu thường Đai vàng bịt bạc, rồng vờn cung mây Trúc xa, đóm kẻ cầm tay Tương giao thủy hỏa , càng say tính tình Ta say vì điếu mình xinh Say vì vị thuốc của mình thương ta Ước mong chung sống một nhà Khi say khi tỉnh đều là có nhau [2, tr.42] Người thương ơi

HÁT MỜI RƯỢU Nữ: Tay em rót chén rượu hoa Mình ơi, uống cạn cùng ta chén này Hai tay nâng chén rượu đầy Vui này là một, họa này có hai

128

Mừng xuân, ta uống rượu chơi Rượu đào, rượu mận, rượu mai, rượu gừng “Túi thơ bầu rượu “ tương phùng Rượu cam, rượu quýt thơm lừng rượu chanh Nếp hương, cốt nhát, xâm banh Dành để tháng tôt ngày lành kết duyên Hay chàng muốn uống rượu sen Rượu chuối, rượu nhãn pha kèm rượu nho Hay là chàng ước rượu mơ Để em kết chỉ xe tơ cùng chàng Yêu nhau nâng chén rượu hồng Uống chung một chén cho lòng tỉnh say Chén vui nhớ buổi hôm nay Chén mừng xin cạn tỉnh say với tình.[2, tr.42- 43]

Người thương ơi

HÁT ĐỐI MỜI RƯỢU Nam: Anh đây vốn con nhà quân tử Trải mùi đời phỉ chí bốn phương Có ai mà được như nàng Mời anh uống rượu lòng càng mừng thay Cùng nhau nâng chén rượu đầy Rượu thời chưa nhấp đã say tính tình Say vì em đẹp em xinh Say vì em có ý tình với anh Duyên kia có phụ chi tình Nàng ơi! Uống cạn cùng anh chén này Uống cho hoa lá lung lay Cho nàng cùng với anh nay duyên tình Uống chung một chén rượu tình Mình vì ta, cũng vì mình, ta say Chén vui nhớ buổi hôm nay Chén mừng ta hẹn ngày này năm sau. [2, tr.43] Người thương ơi

HÁT HUÊ TÌNH

129

Nam:

Duyên kết bạn tình ơi

Bước chân lên mái Tam Quan Hướng về dặm liễu, viễn phương ngàn vàng Khi lạnh lung chênh vênh gối đêm Lúc mơ màng tưởng khách xuân xanh Ở đây có bạn cố nhân Vậy nên anh mới ân cần hỏi han Chốn vườn xuân mấy lần then khóa Quyết ra tay mở khóa Đông Đào Rẽ mây annh bước chân vào Trông lên đỉnh núi hoa đào phất phơ Khen ông tơ xe dây cầm sắt Chăn gối này sắp đặt cùng ai Những mong tựa trúc kề mai Để anh đèn sách văn bài sớm trưa Xin đừng nghĩ ngợi nắng mưa Để anh kết chỉ sớm trưa cùng nàng Anh không phụ ngãi tham vàng Xin đừng dạ bắc lòng nam như người Suốt canh trường anh thời thổn thức Anh cùng nàng kết tóc từ đây

Rằng người thương ơi [2, tr.45]

Nữ:

Duyên kết bạn tình ơi

Bây giờ ta mới gặp ta Chả còn tơ tưởng sự ta sự mình Chênh vênh bóng nguyệt xế mành Chạnh niềm nhớ đến Châu Trần mà thương Ngày nào nên chốn phòng hương Hội nào bằng hội Đài Dương lúc này Tuy rằng tay chửa cầm tay Mối sầu trong dạ hồ đầy lại vơi Biết bao nên chốn đứng ngồi Cho em được biết khúc nhôi cửa nhà Cho em biết mẹ biết cha Sắt cầm sum họp một nhà tạo đoan Bấy nay em dững thương chàng Muốn xe chỉ thắm để vương tơ đào

130

Xa xôi cũng chẳng là bao

Có công đi lại thể nào cũng nên [2, tr.46] Rằng người thương ơi

Nam:

Duyên kết bạn tình ơi Bóng giăng đã xế non đoài Một mình luống những đứng ngồi chưa xong Thoạt nghe thấy tiếng má hồng Phượng loan e lệ, ngô đồng cành cao Rấp mong bẻ liễu vin đào Cánh hồng luống những thấp cao thêm sầu Anh đây như hạt minh châu Kén tìm ly ngọc biết đâu xa gần Chưa đâu đẹp ý thanh tân Chưa đâu chỉ tấn tơ tần nơi nao Bây giờ gặp khách má đào Gần xa chưa biết nơi nào bén duyên May mà gặp khách thuyền quyên Ngỏ ra lời ấy anh yên tấm lòng Rằng người thương ơi. [2, tr.47]

Nữ:

Duyên kết bạn tình ơi Tình cờ chẳng hẹn mà nên Gặp đây em muốn kết duyên giao hòa Bướm đậu cành hoa lòng đà nhớ bướm Hoa kia bướm lượn dạ thương chàng Cho nên ghi tạc nhời vàng Chữ tình chữ cảnh chữ duyên hảo cầu Người này người ấy mấy nhau Nên thương nên nhớ nên cầu nên ăn Chốn thanh tân đợi người mặt ngọc Chốn phòng đào đợi khách cung mây Vì chàng em mới đến đây Không thì em biết chốn này là đâu [2, tr.47-48] Rằng người thương ơi.

Nam:

131

Duyên kết bạn tình ơi Quan sơn thiên lý tới đây Tóc tơ giãi tỏ niềm tây cùng nàng Nghĩa non vàng sánh nơi sắt đá Đừng tham nơi kim mã ngọc đường Một ngày là nghĩa tao khang Gặp đây muốn kết đá vàng làm ghi Nhớ câu thiên tải nhất thì Ái ân hai chữ phu thê cho thành Có nhời hẹn mấy giăng thanh Cho nên chỉ Tấn tơ Tần cùng nhau Trót mượn thước bắc cầu sông vị Có nên chăng chơi chị Hằng Nga Duyên đôi ta vì đâu cách trở Sổ nam tào biết thủa nào nhầm Đã nguyền hai chữ đồng tâm

Rằng người thương ơi.

Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai [2, tr.48] Nữ:

Duyên kết bạn tình ơi Hội chùa này vui thay cảnh lạ Nhớ đến chàng mà dạ ước ao Em toan gửi bức thư vào Trình chàng hai chữ thấp cao dãi bày Từ khi cậu sang bên này Lòng em tơ tường đêm ngày nhớ mong Còn e cậu con nhà dòng Hãy còn cung cấm trong phòng đợi xuân Còn e câu giai thanh tân Biết đường ăn ở biết phần thanh tao Vậy nên em mới ước ao Nhân duyên chưa định người nào mối manh Ra đàng mấy bận gặp mình Ta toan hỏi chuyện chung tình còn e Em nay như sợi chỉ xe Muốn đi lại lắm còn e ông bà Em biết cậu con nhà gia thế

Tạc gương vàng mà để soi chung [2, tr.49] Rằng người thương ơi

132

Nam:

Duyên kết bạn tình ơi Huyện Thủy Nguyên có làng Phục Lễ Vẫn xưa nay có hội chơi xuân Giai tài lịch sự văn nhân Ngựa xe như nước áo quần như nêm Gần xa dân xã các miền Cũng dều nô nức đến xem hội chùa Vào chùa xem tượng mới tô Xem chuông mới đúc xem cô tính tình Hoa tươi bướn lượn bay vòng Nhỏ to tiếng hát giọng oanh vui vầy Lứa đôi tay lại cám tay Phỏng dăm bẩy bạn tới đây cũng vừa Duyên càng mặn, nết càng ưa Ngày xuân càng nắng càng mưa càng nồng Chơi xuân sắc đẹp lạ lùng. Mây xanh cợt liễu má hồng cười hoa Rõ ràng xiêm áo lượt là Phất phơ mớ bẩy mớ ba dịu dàng Năm bức gấm như in cánh phượng Ngày hội xuân khéo nhuộm nên tươi Hoa xuân nay đã đến thời Chân đi dáng nến miệng cười đáng trăm Nhìn mình con mắt lá rắm Lông mày lá liều, càng nhằm càng xinh Hội xuân ai đẹp như mình Đã hay tiếng hát lại xinh miệng cưòi Thực là tại bởi duyên giời Xui nên ta gặp mình nơi hội này Cũng là nguyôt lão xe dây

Xe cho mình đấy ta đây vuông tròn . [2, tr.50] Rằng người thương ơi

Nữ:

Duyên kết bạn tình ơi Hỡi người đàng ấy kia ơi Đến đây Phục Lễ xa xôi mấy trùng Đã có công em không có ngại

133

Gần chẳng nên xa lại cũng nên Ông tơ xe chỉ cho liền Đừng xa lỏng lẻo mà quên nhời tình Ta chờ mình sang nhà ta đón Có bát âm dàn hát xướng ca Có đàn có hát trong nhà Có cây tám thước có hoa bốn mùa Có cổ thụ có sen hồ Có giường thất bảo có màn bát tiên Lại có mặt nguyệt xướng nguyền Cho chàng biết lối khi lên chơi nhà Cho chàng biết ông biết bà Biết cửa biết nhà biết cậu biết cô Gái tứ chiếng gặp khách giang hồ

Tiện đây ta nổi cơ đồ nên chẳng [2, tr.51] Rằng người thương ơi.

Nam :

Duyên kết bạn tình ơi Thấy nàng cất tiếng lên thưa Khác nào nắng hạn gặp cơn mưa rào Vườn xuân then khoá cẩn sao Thân em phận gái khác nào hạt mưa Sông ngân sắp bắc cầu ô Để cho Tần Tấn một nhà giao thông Mẹ cha thì cũng chiều lòng Muốn cho dôi lứa tương phùng đẹp đôi. Khuyên em cứ giữ lấy nhời Quyền hành cha mẹ, anh thời định sau Quế non anh chửa nơi đâu Đào đông em đã nhận giầu ai chưa ? [2, tr.52] Rằng người thương ơi

Nữ: Duyên kết bạn tình ơi Chàng về thưa với mẫu thân Có người Phục Lễ giao lân kết nguyền Chàng về thưa với thông huyền Có được như thế chàng lên chơi nhà Nếu chàng được lấy vợ xa

134

Em xin kết chỉ đôi ta từ rày Em còn chờ đợi chàng đây Như cá đợi nước như mây chờ rồng Mây gặp rồng mây bay cuồn cuộn Cá gặp nước con ngược con xuôi Thủy chung có bấy nhiêu nhời Sao chàng không lấy một người như em. [2, tr.52-53] Rằng người thương ơi

Nam: Duyên kết bạn tình ơi

Mẫu thân anh đã trình rồi Số anh phải lấy một người vợ xa Để mà nghi thất nghi gia Thuận đâu lấy đấy mẹ cha cũng chiều Ai ai cũng nói một điều Găp người Phục Lễ để mà kết duyên May mà gàp khách thuyền quyên Ngỏ ra nhời ấy anh yên tấm lòng Chưa có chồng thì nàng nói thật Để cho anh định liệu sang chơi Hai bên cha mẹ biết người Cô dì chú bác càng vui nỗi niềm Mừng cho rể thảo dâu hiền Mừng cho hai đứa bách niên một nhà. [2, tr.53] Rằng người thương ơi

Nữ:

Duyên kết bạn tinh ơi

Hội xuân nhớ hẹn thì nên Gặp chàng em muốn kết duyên Châu trần Tấn ơi hãy tỏ cùng Tần Còn không hay đã có xuân ở nhà Bướm đậu cành hoa, lòng đà nhớ bướm Hoa kia bướm nọ, dạ thương chàng Có nên ghi tạc nhời vàng Chữ tình chữ cảnh chữ duyên hảo cầu Người này người ấy mấy nhau Nên thương nên nhớ nên cầu ái ân Chốn thanh tân đợi người mặt ngọc Chốn động đào đợi khách cung mây

135

Vì chàng em mới tới đây Không thì em biết chốn này là đâu. [2, tr.54] Rằng người thương ơi

Nam:

Duyên kết bạn tình ơi Thương nàng phận gái má hồng Hoài nhân chi bỉ đứng trông bên đường Đôi ta nghĩa trọng tình thương Mấy lời vàng đá nhắn nàng thuỷ chung Chữ rằng nhất nhật tương phùng Tuy rằng vắng mặt nhưng lòng vấn vương Bao giờ hội ngộ phòng hương Chẳng còn hồ. việt đôi phương nhấp mòng Trách chị Nguyệt ra lòng độc địa Xe nhân duyên mà để hững hờ Bấy lâu kẻ đợi người chờ Nhạn nam én bác ngẩn ngơ sao đành Đã bấy lâu công trình gắn bó Cổng Dạ tràng nào có ra sao Kìa như ả Chúc chàng Ngâu Một năm còn thấy mặt nhau một lần Mấy nhời nhắn khách tri âm Giáng hương còn có lúc nhầm ai ơi. [2, tr.54-55] Rằng người thương ơi

Nữ:

Duyên kết bạn tình ơi

Hôm qua viễn vọng xa xôi

Dạ sầu tơ tưởng ngậm ngùi buồn tênh

Hôm nay ta lại gặp mình Bút nghiên trễ nài sử kinh đứng nhìn Bây giờ gặp khách văn nhân Giải chăn Thúy vũ buông màn thuỳ Dung Hôm qua vắng khách anh hùng Một mình đốt ngọn đèn chong chờ chàng Bây giờ gặp gỡ giữa đường Tỏ tường bên ngọc bên vàng sánh đôi Hôm qua hết đứng lại ngồi Đứng ngồi tư tưởng ngậm ngùi tương tư

136

Hôm qua ngồi tựa án thư Ngọn đèn mờ tỏ canh khuya bồi hồi Bây giờ Đào Liễu sánh đôi Buồn đâu không biết mà vui vô cùng. [2, tr.55-56]

Rằng người thương ơi

Nam:

Duyên kết bạn mình ơi

Quê hương sơn thủy hữu tình Hội hè vui vẻ cảnh tình vui tươi Dập dìu giai gái chơi bời Trước thì chơi hội sau thời chơi xuân Hội Long Vân tương phùng kỳ ngộ Gặp em đây than thở mấy nhời Mau thay cá nước duyên giời Xui cho anh gặp được người cố tri Vẻ thanh tao nữ nhu yểu điệu Tuổi em còn niên thiếu đào tơ Bấy lâu hẹn ước mong chờ Hôm nay gặp được cũng nhờ giời xui Xin đừng nghĩ ngợi xa xôi Hoa thơm có thủa người chơi có thì Hay em còn tại gia tòng phụ Gái thuyền nguyên kim chỉ cần chuyên Hay là đã có nhân duyên Tòng gia xuất giá ấm êm nơi nào Thì nàng cũng nói thấp cao

Để cho anh được mận đào lân la. [2, tr.56-57] Rằng người thương ơi

Nữ:

Duyên kết bạn mình ơi/

Gặp chàng em vẫn đón chào Phận em là gái má đào hạt mưa Tuổi em còn niên thiếu ngây thơ. Biết đâu tâm sự mà cơ ý tình Mẹ cha định liệu quyền hành Rủi may bởi tại mối manh tơ hồng Chữ rằng gái có tam tòng Nên chăng hai chữ tại lòng mẹ cha

137

May mà bướm được gần hoa Chàng về thu xếp của nhà cho yên Từ khi mận bén đào tiên Vắng chàng không lúc nào yên dạ này Mấy khi hội ngộ rồng mây Để mà tâm sự giãi bày cùng nhau Sông Ngân Ô Thước bắc cầu Muốn cho Tần Tấn với nhau một nhà Đá vàng trọn đạo thất gia Xích Thằng bởi tại giăng già khéo xe. [2, tr.57]

Duyên kết bạn mình ơi

Rằng người thương ơi Nam: Tay cầm tay mắt đà trông liếc Mặt nhìn mặt dạ những bồi hồi Hỡi người thục nữ kia ơi Làm sao nhan sắc cho tôi mặn mà Cổ tay nàng trắng như ngà Miệng cười như thể đóa hoa trên cành Ngọt ngào cả lại sắc thanh Môi son má phần tựa vành cung trăng Tố Nga tranh vẽ nào bằng Người đâu trông thấy càng nhằm càng tươi Hỡi người đằng ấy kia ơi Còn không hay đã có người tình chung? [2, tr.58] Rằng người thương ơi.

Nữ:

Duyên kết bạn mình oi.

Ngày xuân hây hẩy gió đưa Duyên em vừa bén tận từ đào non Có lời nguyện với nước non Dẫu mà sông cạn đá mòn không tan Trăng kia đậu nghĩa Châu Loan Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân Có lời nguyện với cố nhân Tình chung em chửa ân cần cùng ai Đã lòng nguyện ước một hai Yêu anh em chẳng để ai vịn cành

138

Duyên kết bạn tình ơi.

Xuân xanh hỡi khách xuân xanh Ngả nghiêng cũng nói cho tình em hay. [2, tr.58-59] Rằng người thương ơi. Nam: Nhởn nhơ yếm thắm khăn đào Tưởng rằng người ở chốn nào lại đây Tàng tàng chén cúc dở say Trông hoa vừa ý thẹn thay mầu hồng Xưa còn lạ chưa thông phận cải Này tơ đào kết ngãi duyên kim Tiếc thay lá ngọc giữ gìn Giá này bán một vài nghìn cũng mua Ngày nay vốn dạo từ phong cảnh Khách chung tình đủng đỉnh lâu la Kìa Lưu Nguyễn nọ Tiên Nga Phong phanh yến đỏ phất phơ dập dìu Trải qua mấy núi mấy đèo Nhác trông ngỡ khách Lam kiều lần sang Người trần nay gặp khách tiên Lạ thay Lưu Nguyễn là duyên kinh kỳ Tiếc thay duyên muộn như là

Nhân duyên như đã mặn mà vì duyên. [2, tr.59] Rằng người thương ơi.

Nữ :

Duyên kết bạn tình ơi

Đêm thanh nhàn tựa nơi phòng quế Nghe tiếng chim tiếng để sang canh Đêm thu gió lọt thanh thanh Ngày mong hây hẩy trước mành thiên nga Thấy bóng chàng vào ra thấp thoáng Mối sầu thêm ngao ngán ngẩn ngơ Tình cờ khéo lẽ tình cờ Lòng riêng đâu dám hững hờ với ai Tương tư nói chẳng nên lời Đêm thì thương nhớ ngày thời chờ trông Từ khi rượu rót chén đồng Trên hoa dưới nguyệt não nùng từ đây

139

Từ khi thấy tía nhạn bay Như tiên bể ái như mây thành sầu Từ khi ô thước bắc cầu Duyên này xe vợ chồng nhau kia mà Ông tơ đâu phụ gì ta

Chàng có quả quyết đâu mà em thương. [2, tr.59]

Rằng người thương ơi

Nam:

Duyên kết bạn tinh ơi

Ơi người đàng ấy kia ơi Anh nay Phục Lễ xứng đôi vợ chồng Phượng Hoàng đậu chốn Ngô Đồng Thuyên quyên cùng với anh hùng sánh đôi May thay cá nước duyên giời Hôm nay lại được gặp người tình nhân Rắp mong chỉ tấn tơ tần Cầu ô nối nhịp sông Ngân cho liền Những mong kết nối tơ duyên Để anh theo đạo thánh hiền viễn du Kẻo còn vương vấn đào tơ Nhớ em lòng những tương tư muôn nghìn Văn biếng đọc sách biếng nhìn Hoài công Phụ Từ văn tiền kim lăng Khi tựa gió lúc trông giăng Bóng hồng thấp thoáng nẻo hồng vào ra Có đêm chợt tỉnh giấc hoè

Tưởng rằng phượng đã tựa kề phòng loan. [2, tr.61] Rằng người thương ơi.

Duyên kết bạn tình ơi

Nữ: Thoạt vào em chào đón xuân Chào các quý chức xa gần ngồi chơi Ngả nghiêng bên nói bên cười Bên hút thuốc lá bên ngồi tựa long Em đây thật gái chưa chồng Em muốn vào hát vào trong hội này Dù hay mà chẳng được hay Em xin quý chức ở đây đừng cười

140

Dù em có nói lỡ nhời Em xin quý chức đừng cười em chi Dù may dù rủi bởi thì Dù ai chín hẹn mười thề mặc ai Ngày xuân em hãy còn dài Phận em cũng chửa đứng ngồi nơi đâu Sông Ngân muốn bắc nhịp cầu Để cho Tần tấn với nhau một nhà Tòng quyền còn ở mẹ cha

Định kỳ nghi thất nghi gia mặc người. [2, tr.63-64] Rằng người thương ơi.

Nam:

Duyên kết bạn tình ơi Mặt nhìn mặt, mắt đà trông liếc Hỏi tình nhân có biết hay không Những là rày nhớ mai mong Hỡi người thục nữa thấu lòng này cho Cùng nhau trót đã hẹn hò Một ngày là nghĩa chuyến đò nên quen Tiết giời đang buổi xuân thiên Gặp nhau ắt hẳn là duyên hảo cầu Đã lời tri kỉ cùng nhau Xin nàng đừng nghĩ nông sâu xa gần Bây giờ Tấn hỏi thực Tần Còn hay không đã có xuân ở nhà Ước gì bướm được gần hoa Kẻo còn thương nhớ thiết tha trong lòng Phòng đào then khóa còn không

Thì nàng nói thật cho lòng anh hay. [2, tr.66] Rằng người thương ơi.

Nữ:

Duyên kết bạn tình ơi Ví dù có thật như là Nhờ tay Nguyệt Lão xe ta với mình Đôi bên cha mẹ thuận tình Chàng mở tờ lịch khởi hành vấn danh Tuổi em mười tám xuân xanh Lửa hương chưa định ba sinh nơi nào

141

Nay mừng trúc đã sánh đào Tơ hồng vấn vít buộc vào nên dây Thực là rồng ấp lấy mây Như chim Loan Phượng đậu cây ngô Đồng Xin chàng một dạ thủy chung Chớ nghe bóng gió ngả lòng phai hoa Xin chàng ngỏ với Huyên già Chữ rằng hiếu tử mới là đạo con Khuyên chàng đèn sách phòng môn

Công danh khoa bảng vẹn tròn mới hay. [2, tr.66-67] Rằng người thương ơi.

Nam:

Duyên kết bạn tình ơi Thanh nhàn gặp buổi hôm nay Mặt lại nhìn mặt cầm tay tự tình Nhớ người da trắng tóc xanh Xin em đừng có nặng tình với ai Nhớ những buổi sánh vai trò chuyện Nhớ những lời hứa hẹn cùng nhau Nhớ khi câu chuyện mở đầu Bây giờ ta lại gặp nhau tự tình Nhớ em giấc ngủ không thành Mơ màng tưởng đến Châu Trần mà thương Hôm nay ngày hội xuân sang May sao anh lại gặp em chốn này Cùng em trò chuyện dan tay

Giao ngôn cho bõ những ngày nhớ mong. [2, tr.67-68] Rằng người thương ơi.

Nữ:

Duyên kết bạn tình ơi Mặn mà thiên lí hảo cầu Tấm son thề với trên đầu xuân xanh Dám đâu học thói yến anh Mượn mầu giăng gió ra tình lửa hương Gieo cầu nay đã vấn vương Cùng chàng chọn đá thử vàng mà chơi Mái tây còn có tiếng người Treo gương kim cổ trên đời soi chung

142

Hạ chi hoa bén gió đông Tiếc gương mà để sổ lồng chim xanh Một mai mưa gió thất tình Vóc tầm nỡ để yến anh thẫn thờ Phận em liễu yếu đào tơ Chắc rằng quân tử có chờ hay chăng. [2, tr.68] Rằng người thương ơi.

Nam: Duyên kết bạn tình ơi Bây giờ anh mới gặp nàng Bằng giời cho cái nhẫn vàng đeo tay Vội vàng anh cầm lấy tay Hỏi rằng cá nước rồng mây gặp thì Tang bồng phỉ chí nam nhi Cách sông dẫu bỗng thuyền kề tới nơi Gặp đây chắc hẳn duyên rồi Ông tơ bà mối xe rồi đừng buông Đã đành phận lửa duyên hương Tri âm ơi hỡi thì thương nhau cùng Anh gạn gùng tri âm phải nói Nói làm sao cho dạ anh mừng Kẻo nữa anh nhớ anh mong Anh mong nàng nhớ như rừng mong mưa Cũng là cá nước duyên ưa Lòng giời xe lại bây giờ gặp em Cũng là phận cải duyên kim Còn điều vàng đá phải tìm găng hoa Ước mong sum họp một nhà Xin nàng giãi tỏ phân qua anh tường. [2, tr.68] Rằng người thương ơi

Nữ:

Duyên kết bạn tình ơi Bây giờ em gặp chàng đây Để rồng than thở với mây một lời Bỗng đâu em dám ngỏ nhời Xin chàng nghĩ lại đừng cười em chi Dù may dù rủi bởi thì Dù ai chín hẹn mười thề mặc ai

143

Đá vàng còn thắm chưa phai Để người phương bắc nhớ người phương nam Thà rằng không biết cho cam Biết ra kẻ bắc người nam càng buồn Trăm khe đổ ngọn một nguồn Đấy vui có biết đây buồn vì đâu Sông Ngân sao chẳng bắc cầu Để cho nam nữ dầu dầu đứng trông Dù ai phụ ngãi quên công Thì xin núi đổ cạn sông một giờ Làm cho lòng thiếp ngẩn ngơ Như chim lạc bạn bay khuya cõi ngoài Trông ra bóng đã kề mai Ngọn đèn thấp thoáng bóng người trí âm Cho nên lòng thiếp tủi thầm Trách cha trách mẹ còn cầm giá cao Khó giầu chưa định nơi nao Gặp đây em nguyện kết giao cùng chàng Cũng là phận ngọc duyên vàng Khen ai dắt lối đưa đường đến đây Hay là Nguyệt lão xe dây

Mà xe mình đến chốn này với ta. [2, tr.70] Rằng người thương ơi.

Nam:

Duyên kết bạn tình ơi Lạ lùng thay anh mới tới đây Gặp nàng nhan sắc tóc mây diềm dà Cổ tay nàng trắng như ngà Đôi mắt nàng liếc như là dao cau Miệng cười chúm chím hoa ngâu Cái khăn đội đầu như chùm hoa sen Đấy đồng vàng, đây cũng đồng đen Đấy hoa thiên lí, đây sen nhị hồ Nàng về hồ Bắc, anh về hồ Tây Nàng bao nhiêu tuổi năm nay Mà răng chưa nhuộm, lông mày chưa sơ. [2, tr.71] Rằng người thương ơi. Nữ:

144

Duyên kết bạn tình ơi Nắng xuân tươi mát dịu dàng Chị em đến hội chùa làng chơi xuân Dập dìu tài tử giai nhân Duyên nay, em được gặp anh chốn này Dững mong nối chỉ xe dây Cho hay tiếng hát, cho đầy tình xuân Anh hùng sánh gái thuyền quyên “Trăm năm một dịp …” hãy nên đợi chờ Cùng nhau kể chuyện tóc tơ Chớ đem nông nổi mà ngờ lòng nhau Căm chầy, tháng chẳng bao lâu Xin đừng nóng vội mà dầu xuân xanh Lơ thơ tơ liễu giăng mành Con oanh học nói trên cành líu lô Đôi ta chung một ước mơ Thủy chung vàng đá hẹn hò cùng nhau. [2, tr.72] Người thương ơi.

Nam:

Duyên kết bạn tình ơi Anh nay là giai Hải Phòng Chạy tầu “Phỉ hổ” vào trong Ninh Bình Thấy em duyên dáng xinh xinh Liệu cho anh kết duyên tình được chăng Mười hai cửa bể, anh đã cắm đăng Cửa nào sẵn cá, anh quăng chài vào Ngọn sông Đào vừa xuôi vừa chảy Anh đi kén vợ đã bẩy năm nay Tình cờ gặp được em đây Như cá gặp nước như mây gặp rồng Mây gặp rồng may bay cuồn cuộn Cá gặp nước, con ngược con xuôi Chồng Nam vợ Bắc em ơi

Sao em không lấy một người như anh [2, tr.72- 73] Người thương ơi.

Nữ:

145

Duyên kết bạn tình ơi Gặp chàng là trai Hải Phòng Chạy tàu đánh cá ở trong sông Đào Em toan cất tiếng lên chào Còn e lòng khách lẽ nào dám thưa Dù chăng mắt xứng lòng ưa Cũng may cá nước còn chờ gặp duyên Tình cờ không hẹn mà nên Chàng đi kén vợ khắp miền dặm khơi Bảy năm sông nước xa xôi Khắp miền chưa gặp được người tình chung May thay hạnh ngộ tương phùng Rồng mây cá nước thỏa lòng ước ao Tắm mát lên ngọn sông Đào Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh Hai tay hai quả vin cành Quả chín thì vặt quả xanh thì đừng Em nay là gái má hồng

Duyên ưa phận đẹp thủy chung cùng chàng. [2, tr.73- 74] Người thương ơi.

Nam:

Duyên kết bạn tình ơi Gặp nhau ở chốn hội này Anh em thì vắng, mẹ thầy thì xa Lấy ai định liệu cho ta Mặt lại nhìn mặt, tay đà cầm tay Cầm tay, anh nắm cổ tay Ước mong duyên bén đắm say vuông tròn Cầm tay, anh hỏi thực lòng Đã chồng con chửa, hay còn giá cao Cầm tay mận hỏi thực đào Vườn hồng đã có ai vào hay chưa Còn duyên, anh đợi, anh chờ

Hay là dã có nơi nhờ thì thôi. [2, tr.74] Người thương ơi.

Nữ:

146

Duyên kết bạn tình ơi Gặp chàng ở hội hôm nay Anh em thì vắng, mẹ thầy thì xa Then thùng, chửa dám nói ra Chàng cầm tay hỏi, em đà mừng thay Thực là cá nước, rồng mây Cũng mong duyên bén đắm say vuông tròn Còn giời, còn nước, còn non Rằng em chửa định chồng con chốn nào Dững là rày ước mai ao Vườn hồng chửa có ai vào đào nguyên Em mong nối chỉ xe duyên

Cùng chàng chung một lời nguyền từ đây. [2, tr.74- 75] Người thương ơi.

Nam:

Duyên kết bạn tình ơi Gió xuân phơi phới bên lòng Nắng xuân nhuộn má em hồng hồng tươi Môi son, mắt phượng, mày ngài Nụ cười hoa để lòng người say sưa Để anh quên cả nắng mưa Mải vui với sự tình cờ gặp đây Gặp đây xin dích lại đậy Cùng nhau ta hát cho đầy tình chung Trăm năm một dịp tương phùng Ghi lòng, tạc dạ, ta cùng với nhau Đôi ta mời trọn cơi giầu Yêu nhau xin hãy cùng nhau hẹn hò Giãi bày kẽ tóc chân tơ Chớ đem nông nổi mà ngờ lòng anh Đời người được mấy xuân xanh Xin đừng tính quẩn lo quanh mà phiền Màn loan còn thiếu bạn hiền Gặp em chẳng khác gặp tiên đây rồi Ví bằng có được như nhời Thì ta chung sống suốt đời bên nhau. [2, tr.75] Người thương ơi.

Nữ:

147

Duyên kết bạn tình ơi Mừng xuân,em đến hội này Lạ người, lạ cảnh, chàng hay chăng là Ba anh, em lạ cả ba Bốn anh lạ bốn, biết là quen ai Gặp anh ở hội vui chơi Cầm tay anh hỏi những lời ái ân Giai anh hùng, gái thuyền quyên Đấy hoa thiên lý, đây sen nhị hồ Chàng về hồ, em cũng về hồ Chàng về hồ Hán, em về hồ Tây Chàng bao nhiêu tuổi xuân nay Em vừa đôi tám, lông mày chưa sơ Nếu chàng chửa có đâu chờ Thì em sẽ lựa trao tơ cùng chàng Trăm năm tình nghĩa đá vàng Rằng em chỉ có yêu chàng từ đây. [2, tr.76] Người thương ơi.

HÁT GHẸO (Đối đáp giao duyên)

Nam: Duyên kết bạn tình ơi Nước non cách mấy dặm khơi Nhớ thương hết đứng lại ngồi không quên Gặp đây quân tử thuyền quyên Anh này muốn được toại nguyền ước ao Thấy nàng cầm cánh hoa đào Hỡi rằng nàng bán làm sao hỡi nàng Hỏi nàng cho rõ căn nguyên Nói cho rõ giá, anh xem thế nào Hay còn giữ giá làm cao Để chờ đợi khách nơi nào qua thăm Dù hoa đáng giá mấy trăm Không bằng thiên lý anh Tầm người hoa Mặn nồng nghĩa cũ tình xưa Xin đừng giữ giá, chợ trưa hỡi nàng. [2, tr.78]

Người thương ơi.

Nữ:

148

Duyên kết bạn tình ơi

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Dẫu không thanh lịch cũng người chân quê Nhớ lời hò hẹn năm xưa Hoa em, em chẳng bán mua mời chào Thân em như cánh hoa đào Phất phơ giữa hội chửa vào tay ai Hoa em không bán, chớ nài Chàng đừng lẫn lộn “vàng mười với thau” Thực lòng chẳng nói sai đâu Chàng đừng thử lửa mà đau lòng vàng Hoa xuân chờ đón xuân sang Yêu hoa đừng để nhỡ nhàng duyên hoa. [2, tr.78- 79]

Người thương ơi. HÁT THƯ

Nam: Duyên kết bạn mình ơi Kể từ én bắc nhạn nam Lòng anh luống những mơ màng bâng khuâng Biết bao nhân nghĩa đạo hằng Lá thư đề đoạn mấy chừng bao nhiêu Những lá trộm dấu thầm yêu Giá đem lá thắm mà điều chim xanh Lại e thương nhớ dùng dằng Ngẩn ngơ trách lẫn ông giăng dọc đường Mày ngài mắt phượng phi thường Tằm tơ khuya sớm ruộng vườn cửi canh Tiếc thay dòng dõi trâm anh Bấy lâu anh vẫn vì tình ngẩn ngơ Những là chín đợi mười chờ Hẹn ngày chắp mối duyên tơ với mình Nay anh cậy nhạn thư truyền Để nàng thấu hết nỗi niềm tương tư. [2, tr.88]

Người thương ơi

Nữ:

149

Duyên kết bạn mình ơi Tay tiên thảo bức thư hồng Mượn con chim nhạn tới cùng bạn loan Thư em đưa đến tay chàng Lòng càng thương nhớ dạ càng ngẩn ngơ Đêm nằm chửa nhắp đã mơ

Biết rằng quân tử còn chờ em chăng

Trước rèm thấp thoáng bóng giăng Duyên giời xe sợi xích thằng đôi ta Chàng ở xa biết chàng có tỏ Em bên này thương nhớ chàng thay Chàng ơi nhận bức thư này Em đã tỏ hết niềm tây cho tường Em nào có tơ vương chỗ khác Ai ngả nghiêng tệ bạc mặc ai Những lời trúc hứa với mai Em còn ghi nhớ không sai dạ vàng.

Người thương ơi. [2, tr.89]

Nam:

Duyên kết bạn mình ơi Thư một bức tận từ miêng bạch Gửi lời sang kính chúc thông luyên Sau thăm nội ngoại đôi bên Cô dì chú bác anh em vui vầy Rằng trong tác hợp duyên giời Đôi bên gặp gỡ một lời kết giao Nàng là phận gái má đào Tơ duyên chửa có nơi nào xứng cân Anh nay thực đấng văn nhân Đang còn đèn sách chuyên cần hôm mai Dưới màn chiếc bong lẻ loi Mẹ cha khuyên bảo tìm nơi hảo cầu Dững là tơ tưởng đã lâu Đề thư kể mối tình sầu nàng hay Nhớ nàng ở hội rồng mây Xích thằng khéo lựa nối dây tơ đào Bấy chầy những ước ao mong đợi Trao lá thư cho khỏi bồi hồi

150

Hợp loan đừng ngại xa xôi Bao giờ mới được gặp người xứng cân Tình vàng đá sắt cầm hòa hợp Sợi tơ hồng kết nối tình duyên Bõ công đi lại bấy niên Bút hoa thảo bức thư tiên gửi nàng. [2, tr.94]

Người thương ơi Nữ:

Duyên kết bạn mình ơi Tựa hiên mai việc nhà thong thả Thấy thư sang lòng dạ mừng thay Vậy nên gửi bức thư này Nhớ câu bốn bể từ nay một nhà Nam hữu thất, nữ hữu gia Xe duyên còn cậy giăng già về sau Thư em xin gửi mấy câu Rắp mong quên quán, mong cầu nên quê Từ ngày chàng gửi thư về Vắng chàng em biết nguyện thề cùng ai Thư lai nhân bất hữu lai Thề rằng em có yêu ai bằng chàng Bỗng nhiên hông điệp kim lang Bây giờ nên nghĩa đá vàng chàng ơi Khuyên chàng – chàng cứ sang chơi Trước có phụ mẫu sau thời đệ huynh Đoạn rồi phụ phú phu tình Thừa loan ta lại cùng mình bên nhau. [2, tr.95] Người thương ơi.

Nam:

Duyên kết bạn mình ơi Thư mấy bức trong lòng chưa tỏ Nỗi niềm này biết ngỏ cùng ai Nên chăng cũng quyết mấy thời Không nên cũng tỏ khúc nhôi giãi lòng Đừng để anh nay mong mai đợi Nỗi tương tư bối rối gan vàng Có đêm thao thức mơ màng Tưởng rằng nàng đã bên màn bên chăn “Tiền đâu dạ bán vô tâm

151

Nhân lại báo đáp với tâm cập kề” Thư đi chẳng thấy thư về Bỗng đâu lại có thư đề gửi sang Tay cầm dạ những bàng hoàng Xem thơ lạ thấy lòng càng buồn tênh Lòng buồn gẩy khúc đàn tranh

Khêu lên cho ấm tình anh với nàng. [2, tr.96] Người thương ơi.

Nữ:

Duyên kết bạn mình ơi Bút ngọc thảo tình như nhất bức Gửi cho chàng tin tức được hay Kể từ biết mặt đến nay Tâm tình thương nhớ lòng này biết bao Lòng của thiếp chàng nào có thấu Điểm năm canh đau đáu vì ai Nguyện xưa chưa hợp trúc mai Thề xưa chưa hợp duyên hài cho cam Vậy ai làm bắc nam đôi ngả Để ngưu lang chức nữ chờ nhau Sông Ngân mượn thước bắc cầu Tâm tình thương nhớ biết đâu mà chừng Lời thư trước đã từng không ngỏ Đến bây giờ lại có thư sang Cũng mong ghi tạc đá vàng Ngô đồng sánh với phượng hoàng cùng nhau Lời gắn bó lại cầu giao ước

Nguyện cùng nhay trước một nhà. [2, tr.97] Người thương ơi.

Nam:

Duyên kết bạn mình ơi Anh ngồi tựa cửa mái hiên Bỗng đâu thấy bức thư tiên tới nhà Vội vàng anh mở thư ra Thấy lời nàng nói thiết tha mặn nồng Tưởng nàng đã hẹn như rằng Phượng hoàng đã đậu ngô đồng có nơi Ngờ đâu hoa vẫn còn tươi

152

Phòng loan then khóa chưa người vào ra Vậy nên thư gửi sang nhà Mừng cho cha mẹ thuận hòa an khang Sau mừng huynh đệ nhà nàng Đầy sân hòe quế chi lan tốt lành Bức thư hồng mong nàng nhận lấy

Để tơ duyên đây đấy xe chung. [2, tr.98] Người thương ơi.

Nữ:

Duyên kết bạn mình ơi Em đương ngồi ở loan phòng Bỗng đâu có bức thư phong đến nhà Vội vàng em mở thư ra Thấy lời chàng nói thiết tha mặn nồng Nếu mà chàng vẫn còn không Thì em gửi bức thư hồng mang sang Chúc mừng đường thượng thọ khang Mừng cho gia quyến nhà chàng được may Nếu chàng nhận được thư này Thì chàng nói thật em nay được tường Ví dù chàng có lòng thương Thì nhờ chim nhạn như sang bên này Để em thưa với mẹ thầy Tơ duyên ta sẽ chọn ngày kết giao

Người thương ơi. [2, tr.98-99]

Nam:

Duyên kết bạn mình ơi Thư anh gửi cho nàng được biết Lòng đôi ta thắm thiết nhớ thương Xa xôi cách mấy dặm đường Mỗi người một ngả ta thương nhau nhiều Anh vẫn cứ thầm yêu trộm nhớ Vẫn mong sao kim chỉ có đầu Nguyện thề ước hẹn cùng nhau Để cho hai đứa được hầu mẹ cha Thư anh gửi sang nhà mấy lá Nhận thư rồi em có thư sang Cho anh hiểu được ý nàng

153

Anh về lo liệu tìm đường sang chơi Nếu mà em nhận lời anh ngỏ Để anh lo vẹnh cả hai bề Ngày mai chỉ thắm duyên se Tình ta gắn bó nguyện thề trăm năm Cha mẹ chắc cũng không ngăn cản Giúp chúng mình đậu bến tương lai Thư anh đã nói hết lời Em có thư lại anh thời được hay. [2, tr.99] Người thương ơi.

Nữ: Duyên kết bạn mình ơi Hôm qua nháy mắt liên mien Nhện sa trước mặt báo tin ngoài thềm Mở sách xem thanh long báo hỷ Có ai ngờ quân tử gửi thư Gửi ai chàng nói tận từ Hay gửi chim nhạn bay đi đường nào? Bởi vì sao chim bay bạt gió Còn thư em gửi có mà không Lẽ nào gửi khách tương phùng Thư gửi Lưu Nguyễn tới vùng thiên thai Em đang ngồi tựa hiên mai Bỗng đâu thấy nhạn gửi lời báo tin Vội vàng gửi bức thư xem Trong thơ chàng gửi cho em tỏ tường Nửa mừng nửa lại vấn vương Trong long em nghĩ có nên chẳng là Phận em liễu yếu đào tơ Có nên chăng nữa anh chờ thư sau Thực lòng em nghĩ từ lâu Hoa kia có hạn tuổi nhau có thì Lần này em gửi thư đi Nếu chàng nhận được chàng thì thư sang. [2, tr.100] Người thương ơi

Nam:

154

Duyên kết bạn mình ơi Hội xuân anh mới gặp nàng Thiết tha dạ ngọc gan vàng bang khuâng Nguồn cơn ngỏ mấy ai cùng Đêm thu ngồi tựa khuê phòng ngẩn ngơ Bút hoa anh tả bức thư Nhạn hồng mang lại mà đưa cho nàng Trước thăm thái nhạc ninh khang Quý hương điền dã dọ dương yên bình Tình duyên ấp ủ trăm năm Hỏi nàng đã có duyên lành đâu chưa? Để anh khuya sớm đợi chờ Dù cho năm tháng trong mơ âu sầu Biết nhau chưa tỏ tình nhau Ngày thì thơ thẩn đêm thâu bổi hổi Vây nên anh gửi thư lại Hỏi nàng – nàng có thật lời hay không Ngày sáu khắp đêm năm canh Anh ngồi với ngọn đèn xanh bạn cùng Cẩu ô muốn bắt qua sông Còn e nàng chửa bằng lòng thì sao Nếu nàng còn nghĩ thế nào? Thì nàng gửi bức thư trao anh tường. [2, tr.101] Người thương ơi

Nữ:

Duyên kết bạn mình ơi

Kể từ buổi rồng mây gặp hội Chỉ mong sao bén mối tơ duyên Bỗng đâu thấy nhạn đưa tin Hỏi thăm cha mẹ bình yên chăng là? Chàng có phải con nhà dòng dõi Lời trong thư ăn nói phải chăng Chàng là quân tử đạo bằng Sớm hôm đèn sách cho bằng văn tiên Chàng ơi chắp mối cho liền Bên tài bên sách sánh duyên một nhà Đường xa cũng chẳng có xa Thư đi thư lại chúng ta vẫn gần Em nay thục nữ thanh tân

155

Phòng loan vẫn khóa chờ xuân ra vào Thực lòng em cũng ước ao Hôm nay em gửi thư trao tay chàng Nếu mà duyên phận tao khang Thù tình của thiếp với chàng – chàng ơi Cha mẹ thiếp có lời khuyên bảo Mong thiếp – chàng nguyệt lão trăm năm. [2, tr.102] Người thương ơi.

HÁT ĐỐ GIẢNG

Nam

Duyên kết bạn mình ơi.

Ở đâu năm cửa nàng ơi Sông nào sấu khúc chẩy xuôi một dòng Sông nào bên đục bên trong Núi nào thắt cổ bồng lại có thánh sinh Đền nào thiêng nhất sứ Thanh Ở đâu lại có cái thành tiên xây Ở đâu có chín tầng mây Ở đâu lắm nước ở đâu nhiều vàng Chùa nào mà lại có hang Ở đâu lắm gỗ thời nàng biết không Ai mà xin được túi đồng Ởđâu lại có con song Ngân Hà Nước nào dệt gấm thêu hoa Ai mà sinh cửa, sinh nhà nàng ơi Ai mà đội đă vá giời Ai mà trị thủy cho đời được yên Anh hỏi em – em nên nói rõ Đẻ cho anh được tỏ từng nơi. [2, tr.112] Rằng người thương ơi. Nữ Duyên kết bạn mình ơi. Hà Nội năm cửa chàng ơi Sông Lục sáu khúc chẩy xuôi một dòng Sông thương bên đục , bên trong Núi Tản cổ bồng lại có thánh sinh Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh

156

Người thương ơi.

Ở trên đỉnh lạng có thành tiên xây Trên giời có chính tầng mây Dưới sông lắm nước , núi nay nhiều vàng Chùa Hương mà lại lắm hang Trên rừng lắm gỗ thừi chàng biết không Ông Nguyễn Minh Không xin được túi đồng Trên giời lại có con song Ngân Hà. Nước Tàu dệt gấm thêu hoa Hữu Sào sinh cửa sinh nhà chàng ơi Nữ Oa đội đá vá giời Đại vũ trị thủ cho đời yên vui Chàng hỏi em bấy nhiêu thôi Em đã giảng sõ chàng thời nghí sao. [2, tr.113] Rằng người thương ơi. Nữ : ĐỐ CHỮ Duyên kết bạn mình ơi. Em là phận gái má đào Gặp chàng em hỏi thấp cao sự tình Sơn Sơn xuất,nhật nguyệt minh Rằng những chữ ấy ở Kinh Pho nào ? Chàng mà giảng được mới cao Em xin kết nghĩa Tương giao cùng chàng Trót vì quân tử đa mang Thì chàng hãy kể rõ ràng em nghe. [2, tr.114] Người thương ơi. Nam: HÁT GIẢI ĐỐ CHỮ Duyên kết bạn mình ơi. Bây giờ ta mới gặp mình Thì ta sẽ kể sự tình gần xa Sơn trên sơn dưới là chữ xuất gia Chữ nhật chữ nguyệt gọi là chữ minh Khen ai khéo bảo cho mình Mà đi đố kể tài danh trên đời Mình hỏi thì ta trả lời Gọi là tình nghĩa ở đời có nhau. [2, tr.114] Nữ:

157

ĐỐ KIỀU Duyên kết bạn mình ơi. Thấy chàng quân tử bao dung Chàng đã thuộc tích trên sống Tiền Đường Ví dù chàng có lòng thương Xin chàng hãy kể tỏ tường thấp cao ? Nàng Kiều ‘’định chết” nơi nao ? Giác Duyên cứu được giờ nào biết không? Hôm nay hội ngộ tương đồng Mong chàng kể hết đục trong em tường Một thương hai cũng rằng thương Về sau thoát khỏi đoạn trường làm sao ? Kiều- Kim tình nghĩa thế nào? Thì chàng cũng ngỏ thấp cao em tường.[2, tr.115] Người thương ơi. Nam: HÁT GIẢNG LẠI Duyên kết bạn mình ơi. Nửa đêm giờ tí nàng ơi Mênh mang sống nước giữa trời Tiền Đường Thúy Kiều phẫn uất khôn lường Gieo mình xuống sóng Tiền Đường mênh mang Giac Duyên vớt được rõ ràng Đưa nàng tới chỗ thảo am tu hành Về sau gặp được gia đình Nhưng nàng thệ phát quyết tình xuất gia Nàng hỏi thì anh nói ra Đầu đôi câu chuyện để cho nàng tường Ví dù nàng có lòng thương Thì nàng đừng để tơ vương như Kiều. [2, tr.115- 116] Người thương ơi.

HÁT LÍNH

158

Nam:

Duyên kết bạn mình ơi

Tuyết mưa gió đang khi mờ tối Trai anh hùng gặp buổi chiến tranh Trên không một đám xanh xanh Thành xây cuộc ấy sự tình bởi ai Ải bắc nọ hồ hơi rực mã Bể nam kia rộn rã sóng kình Bệ rồng vâng lệnh xuất chinh Ruổi mau vũ hịch tương dinh mọi đồn Trên tám cõi càn khôn như ngọc Áo hoàng trì bỗng chốc dẫy binh Đế Thành giục giã như dinh Chinh quân ngao ngán, khuê tình ngẩn ngơ Lệnh tướng sĩ ngọn cờ tiếng trống Nỗi thê noa này bỗng nhớ thương Bóng cờ nhạc ngựa trên đường Sầu kia nỗi nọ ngổn ngang trăm bề Việc nhà cửa vậy thì bao nỗi Cậy ơn nàng nuôi cái cùng con Anh đi nam bắc tây đông Bao giờ dẹp lũ giặc xong anh về. [2, tr.143]

Người thương ơi

Nữ :

Duyên kết bạn mình ơi

Thủa trời đất nổi cơn gió bụi Khách má hồng nhiều nỗi chuân chuyên Xanh kia thăm thẳm từng trên Vì ai gây dựng cho nên nỗi này Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt Khói cam tuyền mù mịt thức mây Chin lần gươm báu trao tay Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh Ngòi đầu cầu nước trong như lọc Đường bên cầu cỏ mọc còn non Tiễn chàng lòng dặc – dặc buồn Bộ khôn bằng ngựa – Thủy khôn bằng thuyền Nước có chẩy, lòng phiền khôn rửa Cỏ có thơm, dạ nhớ chẳng khuây

159

Xin chàng cứ thẳng đường mây Mài gươm rèn chí thẳng tay diệt thù Giặc tan chàng lại trở về Cờ bay trống giục bạn bè mừng vui Chàng đi góc biển chân giời Khi về chàng thiếp ở đời bên nhau. [2, tr.144]

Người thương ơi.

Nam:

Duyên kết bạn mình ơi

Làm giai phụng mệnh quốc gia Vậy nên anh phải trẩy ra phen này Đạo vợ chồng một ngày là nghĩa Việc gia đình đành để nhờ em Hiếu trung hai chữ vẹn toàn Anh lo việc nước em toan việc nhà Phu thê trọn đạo đức gia Trước là đắc hiếu sau là đắc trung Thương em phận gái má hông Ra vào then khóa phòng không lạnh lung Khuyên em việc khuê phòng ngăn nắp Chốn cửi canh sắp đặt hẳn hoi Anh đi góc bể chân trời Cửa nhà anh cậy có người tình xuân Sớm hôm công việc tảo tần Thờ cha kính mẹ thay anh cõi ngoài Ngày mai lộc nước hương giời Vưa ban sắc chỉ ta thời hiển vinh. [2, tr.145]

Người thương ơi

Duyên kết bạn mình ơi

Nữ: Ông tơ thật khéo đa đoan Chàng lo việc nước thiếp toan việc nhà Hướng Dương lòng thiếp như hoa Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái Hoa để vàng bởi tại bóng dương Chàng đi vâng mệnh quân vương Có thương đến thiếp đoạn trường này chăng

160

Duyên sao nhiều nỗi bất bằng Mưa sa ải bắc – Phòng không lạnh lung Lòng này xin gửi tới non yên Xót người đằng đẵng mấy niên Chẳng nơi Hán Hải thì miền tiêu quan Ước gì gần gũi tấc gang Giãi niềm cay đắng để chàng tỏ hay Những mong cá nước vui vầy Hàn huyên cho bõ những ngày xa nhau. [2, tr.146]

Người thương ơi.

Duyên kết bạn mình ơi

Người thương ơi.

Nam: Giai tài hồ Thủy tứ Phương Bỗng đâu có lệnh ở trên đưa về Khắp từ tỉnh huyện thôn quê Làm trai anh phải trẩy đi phen này Vợ thì mới cưới mấy ngày Kẻ vào quân sĩ người nay khuê phòng Vì có lệnh ở trong toàn quốc Việc binh lương cần thiết trọng nghiêm Làm trai anh chẳng có quên Phải cùng nhau cứu giang sơn giống nòi Nghĩa tình chồng vợ nàng ơi Nhớ thời để dạ thương thời làm thinh Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Tình Nàng ơi ở lại để anh lên đường Việc gia đình cậy nàng gánh vác Trông mẹ cha cho được chu toàn Kính trên trọng nghĩa một lòng Mong sao đúng đạo cương thường nàng ơi! Còn anh góc bể chân trời Xông pha mưa gió, chông gai chẳng nề Ra đi anh dặn nhời thề Bao giờ hết giặc, anh về cùng em. [2, tr.147]

161

HÁT RA VỀ

Nữ : Bây giờ trời đã xế tà Chào chúng, chào bạn - đôi ta ra về Đường trường cách trở sơn khê Thuyền đầy, xe chật - tối về, khó đi Sương chiều phủ kín đồng quê Chim đàn vỗ cánh bay về rừng xanh Ở nhà mẹ đợi cơm canh Em thơ ra ngõ ngóng trông chị về Nhà em công việc bộn bề Cho nên em phải trở về lầu tây Em về hầu mẹ, hầu thầy Ngày mai em lại tơi đây gặp chàng. [2, tr.161] Người thương ơi Nam: Nàng ơi, đừng vội ra về Hội đang vui thế, ra về làm sao Mận vừa mới tỏ lòng đào Tình đang tha thiết dạt dào yêu thương Tuy chưa manh mối tơ vương Đã cùng chung một lời nguyền khắc sâu Ra về để dở dang nhau Để cau, để thuốc, để giầu ai ăn Ra về gió Sở - mây Tần Ngựa Hồ - chim Việt biết làm sao đây Dao vàng cắt ruột anh nay Không bằng nàng vội chia tay ra về. [2, tr.161] Người thương ơi Nữ : Bây giờ trời sắp tối rồi Quan sơn môn dặm biết thời sao đây Gần nhau chưa được một ngày Chàng ơi có thấu sự này cho chăng? Chỉ hồng lá thắm là duyên Văn nhân mơ ước thuyền quyên đợi chờ Ra về qua bến Cống Mô Ra về đứng ở bên hồ thở than Ra về mai mốt lại sang Nhớ nhau, mọi việc ta làm cho xuôi

162

Ra về tình nghĩa lứa đôi Thơ tiền đề mấy câu chơi ra về Giao duyên nhớ mãi lời thề hôm nay. [2, tr.162] Người thương ơi Nam: Nàng ơi thư thả hãy về Để ta tỏ hết mọi bề cùng nhau Bấy lâu lòng những ước ao Đan tay vội vã, khát khao bồn chồn Lên non mà chửa biết non Ra sông chửa rỗ sóng cồn những đâu Gần nhau chưa giập miếng giầu Biết đâu ấm lạnh , biết đâu ngọt bùi Dừng chân chút nữa em ơi Để anh giãi tỏ đôi lời đã nao Thơ đề khăn, áo, nón trao Chứng miên có cả núi cao, sông dài Ra về anh nhớ nàng ơi Đừng lo “ ba chốn bốn nơi” thế nào Ra về anh gửi lời chào Trình cha, thưa me – hôm nào anh sang. [2, tr.162- 163] Người thương ơi. Nữ : Khoan khoan chàng đứng lại đây Để em than thở nước mây mấy nhời Nhỡ mai rồng ngược, mây trôi Biết bao giờ được nối nhời hàn huyên Cùng nhau đã nặng nhời nguyền Ra về xin chơ ưu phiền chàng ơi! Ra về nhớ trúc thương mai Ra về em nhớ không sai dạ này Ra về hầu mẹ, hầu thầy Ngày mai, en lại ra đây gặp chàng Phu thê tình nghĩa đá bàng Ra về em chỉ nhớ chàng từ đây Hãy cùng ô, nón trao tay Ra về kẻo tối, mẹ thầy chờ trông Hội xuân đến hẹn thì lên Nguồn ân, biển ái không quên nhời chàng “Sợi chỉ vàng vắt ngang tờ giấy

163

Phải lòng nhau chửa lấy được nhau” Ra về, ăn một miếng giầu Xin chàng cầm lấy cho nhau bằng lòng. [2, tr.163] Người thương ơi

Nam: Mình ơi! Hãy cùng ta đứng lại Dẫu rằng trời sắp tối, đường xa Đương vui, mình trở ra về Để rồi biết đến bao giờ gặp nhau Mình về để dạ ta sầu Để ô, đẻ nón, để giầu ở đây Cùng ta, ăn miếng giầu cay Giầu say vì thuốc, hay say vì tình Mình ơi! Ta hỏi thật mình Cho ta kết nghĩa chung tình được chăng Thương mình quý giá vô chừng Trèo non quên mệt, ngặm gừng quên cay Ra về tinh trúc, nghĩa mai Thề rằng trúc chỉ yêu mai trọn đời Mình ta đã hợp duyên rồi Ra về xin chớ đứng ngồi cùng ai. [2, tr.164] Người thương ơi Nữ : Trời hôm bóng đã xế tà Ta cùng nhau trở về nhà chàng ơi! Ra về dạ những bồi hồi Mai thời nhớ Trúc, Trúc thời thương Mai Ra về kẻo tối chàng ơi Dặn chàng từng có đúng ngồi với ai Ra về, em dặn một hai Dặn chàng đã thắm đúng phai trên đường Ra về chân bước bên đường Bước đi một bước, nửa thương, nửa sầu Ra về chín khúc ruột đau Chàng ơi, xin nhớ trước sau một nhời Hai ta phận đẹp duyên hài Đừng nghe những tiếng vẽ vời dèm pha Hẹn mai mình lại gặp ta Cùng nhau bàn chuyện thất gia – Châu – Trần. [2, tr.164]

164

Người thương ơi Nam : Đương vui, nàng vội ra về Làm anh bối hối trăm bề nàng ơi! Tay bưng chén rượu tam khôi Tay gạt nước mắt, nàng ơi, đừng về Đương vui mình trở ra về Tưởng thành gia thất, ai ngờ dở dương Giầu ngon ai hát nửa sương Cau ngon nửa chẽ, người thương nửa chừng Yêu nhau quý giá vô cùng Trèo non quên mệt, ngậm gừng quên cay Dao vàng cắt ruột anh nay Không bằng nàng vội đan tay ra về Nàng về anh chửa cho về Anh nắm vạt áo, anh đề câu thơ Câu thơ ba chữ rành rành Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Tình là ba Chữ Hiếu thờ mẹ kính cha Chữ Trung – lang nước đôi ta chữ Tình. [2, tr.165] Người thương ơi Nữ : Ra về Trúc nhớ thương Mai Như thuyền nhớ bến, như ai nhớ mình Ra về Tính lại nhớ Tình Như kim nhớ chỉ, như mình nhớ ta Ra về một bước một xa Một nhời trân trọng giao hoà thuỷ chung Ra về chung một dòng sông Bên trông, bên đợi chờ mong hẹn hò Ra về bể sở sông ngô Nguồn ân biển ái nhỏ to nhời chàng Ra về lòng dạ vấn vương Chàng nhớ thì ít, em thương thì nhiều Ra về vụng nhớ thầm yêu Biết bao giờ được nói điều phu thê Ra về một chốn, hai quê Dặn chàng đừng có nặng nề với ai Ra về bể rộng, sông dài Thề rằng em có thương ai bằng chàng

165

Ra về Tính nhớ, Tình thương Xin chàng giữ trọn đá vàng thuỷ chung. [2, tr.166] Người thương ơi Nam : Ra về ai chớ quên ai Ai quên tình nghĩa, bụt trời chứng miên Ra về riêng tưởng tưởng riêng Riêng sao cứ tưởng, tưởng riêng một mình Ra về nhớ đến xuân xanh Xuân xanh nhớ đến nhời anh dặn dò Ra về nhớ đến duyên do Duyên do nhớ đến nhỏ to nhời nàng Ra về anh chỉ nhớ nàng Nàng nhớ thì ít, anh thương thì nhiều Ra về chỉ quyết một điều Một điều chỉ quyết một điều lấy nhau Ra về lòng dạ dầu dầu Dầu dầu chốn cũ còn đâu đến giờ Ra về nhớ đến khách thơ Khách thơ rằng có đợi chờ anh không Cách sông rồi lại bắc thông nhịp cầu Ra về xin nhớ nhời nhau Điều hơn lẽ thiệt, trước sau anh đền. [2, tr.166 - 167] Người thương ơi

166

2. Một số hình ảnh về hát Đúm Phục Lễ - Thủy Nguyên – Hải Phòng

Một buổi sinh hoạt hát Đúm tại nhà nghệ nhân Phạm Thị Đáng Ảnh tư liệu của nghệ nhân Phạm Thị Đáng

CLB hát Đúm huyện Thủy Nguyên- Hải Phòng giao lưu cùng

167

CLB hát Đúm Yên Hưng – Quảng Ninh ( Tháng 04 / 2008 )

Ảnh tư liệu của Ban Văn hóa xã Phục Lễ

Bà Phạm Thị Đáng trong Lễ trao tặng danh hiệu nghệ nhân dân gian ( tháng 12 / 2009 )

Ảnh tư liệu của Ban Văn hóa xã Phục Lễ

Bằng công nhận danh hiệu nghệ nhân dân gian của nghệ nhân Phạm Thị Đáng

168

Học sinh Trường Tiểu học Phục Lễ biểu diễn cùng nghệ nhân xã Phục Lễ trong Hội thi chung kết hát Đúm lần thứ I – năm 2013 Ảnh tư liệu của Trường Tiểu học Phục Lễ ( 2013 )

Học sinh Trường Tiểu học Lập Lễ biểu diễn cùng nghệ nhân xã Lập Lễ trong Hội thi chung kết hát Đúm lần thứ III – 2015 (Tổ chức tại xã Phục Lễ) Ảnh tư liệu của Trường Tiểu học Lập Lễ

169

Phần hát ra về hay nhất của đơn vị xã Phục Lễ trong Hội thi chung kết Hát Đúm

lần thứ III năm 2015 ( Tổ chức tại xã Phục Lễ). Ảnh tư liệu của Ban Văn hóa xã Phục Lễ .

Đơn vị xã Phục Lễ đạt giải xuất sắc trong Hội thi hát Đúm Thủy Nguyên lần thứ IV Ảnh tư liệu của Ban Văn hóa xã Phục Lễ ( 2016)

170

Đơn vị xã Phục Lễ đạt giải nhất trong Hội thi hát Đúm Thủy Nguyên lần thứ V Ảnh tư liệu của Ban Văn hóa xã Phục Lễ ( 2017)

Xã Phục Lễ là đơn vị đăng cai Chung kết hát Đúm xuân Mậu Tuất 2018 Ảnh tư liệu của Ban Văn hóa xã Phục Lễ ( 2017)

171

Cổng chùa Kiến Linh – xã Phục Lễ - Thủy Nguyên – Hải Phòng

Ảnh tác giả luận văn chụp : 15/ 03 / 2017

Chùa Kiến Linh – xã Phục Lễ - Thủy Nguyên – Hải Phòng Ảnh tác giả luận văn chụp : 15/ 03 / 2017

172

Tác giả LV gặp gỡ nghệ nhân Phạm Thị Đáng và cô Lê Thị Đào, cô Nguyễn Thị Huệ - thành viên CLB hát Đúm xã Phục Lễ ( 20 / 03 / 2017 )

Tác giả LV phỏng vấn anh Nguyễn Hữu Nơi - Trưởng Ban văn hóa xã Phục Lễ ( 20 / 03 / 2017)