ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
PHẠM THỊ HỒNG HOAN
GIAO THOA THỂ LOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN
LƯU QUANG VŨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Thu
Thái Nguyên, tháng 06/2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận
văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 06 năm 2018
Tác giả luận văn
Phạm Thị Hồng Hoan
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đối với PGS.TS. Nguyễn Thị
Bích Thu đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong quá trình thực hiện luận
văn. Luận văn cũng là kết quả của những năm tháng học tập, tích lũy kiến
thức mới dưới mái trường Đại học Thái Nguyên – Trường Đại học Khoa học,
vì vậy, em xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo, các nhà khoa
học đã đào tạo và giúp đỡ em trong suốt thời gian qua.
Do trình độ và kiến văn còn hạn chế của người viết nên luận văn chắc
chắn sẽ không tránh khỏi khiếm khuyết. Tác giả luận văn hy vọng sẽ nhận
được những ý kiến nhận xét, góp ý của các nhà khoa học, các thầy cô giáo và
các bạn để công trình được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 06 năm 2018
Học viên
Phạm Thị Hồng Hoan
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................. 2
2.1. Những công trình, bài viết nghiên cứu về sự tương tác giữa các
thể loại ............................................................................................................. 2
2.2. Tình hình nghiên cứu, phê bình tác phẩm truyện ngắn của tác giả
Lưu Quang Vũ ................................................................................................. 4
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu .............................................................. 6
3.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 6
3.2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................ 7
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ....................................................... 7
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 7
4.2. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 7
5. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 8
6. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 8
7. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 9
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ GIAO THOA THỂ LOẠI VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TÁC CỦA TÁC GIẢ LƯU QUANG VŨ ....................................... 10
1.1.Giới thuyết khái niệm. .............................................................................. 10
1.1.1. Hiện tượng giao thoa thể loại trong văn học ........................................ 10
1.1.2. Sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi ........................................................ 14
1.2. Hành trình sáng tác Lưu Quang Vũ ......................................................... 19
1.2.1. Con người và cuộc đời Lưu Quang Vũ ................................................. 19
1.2.2. Quá trình lao động nghệ thuật của Lưu Quang Vũ ............................ 22
CHƯƠNG 2. SỰ GIAO THOA GIỮA THƠ VÀ VĂN XUÔI TRONG
TRUYỆN NGẮN LƯU QUANG VŨ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI
DUNG ............................................................................................................ 30
2.1. Từ những cảm xúc thấm đậm chất thơ ................................................... 30
2.1.1. Con người sống trong hồi ức và kỷ niệm ............................................. 31
2.1.2. Con người giàu trải nghiệm và tâm trạng ............................................ 36
2.2. Đến cái nhìn mang khuynh cảm nhân sinh ............................................. 39
2.2.1. Con người tự ý thức về nghề nghiệp .................................................... 42
2.2.2. Con người tự nhận thức, tự vấn ........................................................... 45
2.3. Thiên nhiên đầy chất thơ ......................................................................... 49
CHƯƠNG 3. SỰ GIAO THOA GIỮA THƠ VÀ VĂN XUÔI TRONG
TRUYỆN NGẮN LƯU QUANG VŨ NHÌN TỪ NGHỆ THUẬT BIỂU
HIỆN. ............................................................................................................ 56
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ............................................................... 56
3.1.1. Tính chất phi cốt truyện hóa ................................................................. 56
3.1.2. Tạo dựng tình huống truyện .................................................................. 63
3.2. Nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật ....................................................... 66
3.2.1. Những khắc khoải nội tâm .................................................................... 66
3.2.2. Những dằn vặt, tự vấn ........................................................................... 68
3.3. Giọng điệu ................................................................................................ 71
3.3.1. Giọng trữ tình da diết ........................................................................... 72
3.3.2. Giọng trăn trở, suy tư ........................................................................... 74
3.4. Ngôn ngữ .................................................................................................. 76
3.4.1. Ngôn ngữ đậm chất thơ ......................................................................... 77
3.4.2. Ngôn ngữ đời thường dung dị ............................................................... 80
KẾT LUẬN ................................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 89
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lưu Quang Vũ là một tác giả tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện
đại với những đóng góp ở nhiều thể loại như: kịch, thơ, truyện ngắn và tiểu
luận phê bình. Ông là một hiện tượng văn học độc đáo được giới nghiên cứu,
phê bình đi sâu khám phá, khai thác. Nhưng có lẽ từ trước đến nay các công
trình nghiên cứu thường tập trung nhiều hơn cả vào các tác phẩm kịch và thơ
của Lưu Quang Vũ còn mảng truyện ngắn của ông lại ít được tập trung
nghiên cứu. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Lưu
Quang Vũ, chúng tôi muốn khảo sát và tìm hiểu các sáng tác truyện ngắn của
ông sao cho tài năng nghệ thuật, chân dung sáng tạo của ông sẽ được nhìn
nhận đầy đủ và hoàn thiện hơn. Đồng thời, chúng tôi cũng mong muốn đưa
các sáng tác truyện ngắn của ông đến gần hơn với bạn đọc, góp phần khẳng
định vị trí và đóng góp của Lưu Quang Vũ với thể loại truyện ngắn nói riêng
và với nền văn học nước nhà nói chung.
Thực tế hiện nay, các nghiên cứu về truyện ngắn của Lưu Quang Vũ còn
khiêm tốn nhưng nó cũng đã ít nhiều tạo sự chú ý với bạn đọc yêu mến sáng
tác của ông lâu nay. Dõi theo hành trình sáng tác của Lưu Quang Vũ, không
phải ngẫu nhiên nhà văn Lê Minh Khuê ghi nhận: “Có thể nói rằng bước đầu
là thơ, sau đó là truyện ngắn, Vũ đã đứng như một tác giả có bút pháp riêng,
khó trộn lẫn” [16; tr.295]. Đặc biệt hơn với truyện ngắn Lưu Quang Vũ,
chúng tôi nhận thấy trong đó có sự giao thoa thể loại, nhòe mờ lằn ranh thể
loại ở sự hòa quyện giữa tự sự và trữ tình, văn xuôi và thơ. Vấn đề giao thoa
thể loại cũng đã và đang được giới nghiên cứu và giảng dạy văn học quan tâm
trong những năm gần đây. Nhìn nhận truyện ngắn Lưu Quang Vũ từ sự giao
thoa thể loại là một hướng nghiên cứu có triển vọng, giúp chúng tôi tìm hiểu
và khám phá nét đặc thù trong văn xuôi Lưu Quang Vũ.
2
Chính vì những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: Giao thoa
thể loại trong truyện ngắn Lưu Quang Vũ với mong muốn được tìm hiểu sâu
hơn những giá trị về nội dung và nghệ thuật thể hiện sự giao thoa trong truyện
ngắn của ông đồng thời góp một phần nhỏ bé vào việc khẳng định tài năng và
nét độc đáo của truyện ngắn Lưu Quang Vũ. Ngoài ra, kết quả của luận văn sẽ
góp thêm lời khẳng định tài năng nghệ thuật của một nghệ sĩ đa tài, kết tinh
trong mình những phẩm chất nghệ thuật cao quý.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những công trình, bài viết nghiên cứu về sự tương tác giữa các thể loại
văn học.
Thể loại truyện ngắn đã được rất nhiều nhà nghiên cứu đề cập như:
Nguyễn Hoành Khung, Bùi Hiển, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đức Nam với
công trình Truyện ngắn Việt Nam 1930-1945, Nxb Giaó dục, 2008.
Bùi Việt Thắng với công trình Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, 1999 và
Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2000.
Đề tài cấp bộ Sự tương tác của các thể loại trong văn học Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến năm 1945 do TS. Tôn Thất Dụng chủ nhiệm đề tài . Đây
được coi là công trình đầu tiên phác họa diện mạo và đặc điểm văn học trong
một giai đoạn từ hướng nhìn tương tác thể loại. Bên cạnh đó cũng có rất nhiều
các nghiên cứu về vấn đề lý luận thể loại như : Năm bài giảng về thể loại,
Hoàng Ngọc Hiến, Nxb giáo dục, 1999 ; Lý luận văn học, Hà Minh Đức, Nxb
giáo dục, 2003 ;...
Trong công trình Lý luận văn học do Phương Lựu chủ biên, Nxb giáo
dục, Hà Nội, 1997 đã có một chương do Trần Đình Sử phụ trách với nhan đề
Thể loại của tác phẩm văn học đã đề cập đến khái niệm thể loại cũng như sự
3
phân loại văn học, cho thấy thể loại vừa có những yếu tố ổn định, truyền
thống ; lại vừa có các yếu tố vận động, đổi mới do sự phát triển văn học và tài
năng sáng tạo của nhà văn. Từ đặc trưng đó, ngay trong việc nghiên cứu thể
loại, Trần Đình Sử cũng đưa ra những đóng góp quan trọng trong quá trình
nghiên cứu: Muốn nhận thức đặc điểm của một thể loại có giá trị, người ta
vừa phải có tri thức về các quy luật lặp lại của các thể lọại, lại vừa biết nhận
ra tính độc đáo trong sự vận dụng sáng tạo thể loại của tác giả. Đây chính là
tiền đề quan trọng trong quá trình nghiên cứu vấn đề sự giao thoa thể loại văn
học. Đã từng dịch rất nhiều truyện ngắn trên thế giới sang Tiếng Việt và
nghiên cứu truyện ngắn, GS.TS Lê Huy Bắc đã tìm hiểu rất công phu và cung
cấp cho người đọc rất nhiều tri thức truyện ngắn: về khái niệm, về lịch sử phát
triển thể loại, về truyện ngắn các khu vực và tác giả tiêu biểu của các khu vực
ấy thông qua Truyện ngắn lí luận tác giả và tác phẩm tập, Tập 1, Tập 2 của
Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2004. Trong bài viết: Đặc điểm của truyện ngắn
hiện đại, tác giả Lê Huy Bắc đã nêu ra trong những đặc điểm của truyện ngắn
hiện đại có đến hai đặc điểm thể hiện sự thâm nhập của các thể loại vào
truyện ngắn: Truyện ngắn hiện đại gần với thơ và truyện ngắn hiện đại gần
với kịch. Luôn luôn tồn tại bên cạnh tiểu thuyết và rất khó khu biệt rạch ròi về
ranh giới thể loại với tiểu thuyết, đó chính là truyện ngắn.
Hay ta có thể kể đến một công trình rất quan trọng nghiên cứu về sự
tương tác thể loại với 90 bài viết đó là kỷ yếu hội thảo quốc tế “ Những lằn
ranh văn học” do Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
Qua công trình này, vấn đề tương tác thể loại trong văn học đã được đề cập
đến và đặt ra nhiều vấn đề cần giải đáp trong giới nghiên cứu văn học.
Ta có thể thấy, hầu hết các công trình đều tập trung đi sâu phân tích
khái niệm, chức năng thể loại, cũng như những đặc trưng của truyện ngắn
4
hiện đại. Tuy nhiên vấn đề giao thoa các thể loại trong một tác phẩm hay một
chuỗi các tác phẩm truyện ngắn của một tác giả cụ thể thì còn thưa vắng.
2.2. Tình hình nghiên cứu, phê bình truyện ngắn của tác giả Lưu
Quang Vũ
Trong công cuộc hiện đại hóa văn học nửa đầu thế kỷ XX, không thể
không kể đến đóng góp của loại hình văn xuôi trữ tình, được khơi nguồn từ
Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Đỗ Tốn... Khác với loại hình
văn xuôi trào phúng, tả thực, văn xuôi trữ tình là một loại hình phức hợp. Nó
thu hút, dung nạp những tố chất, những thể loại khác nhau tạo thành tính
lưỡng phân, khó khu biệt rạch ròi. Có thể nói nó được manh nha từ những tiền
đề gợi ý của phương thức trữ tình. Đây là hình thức thơ trong văn xuôi bởi có
sự xâm thực khá mạnh của các yếu tố thơ vào văn xuôi, khiến văn xuôi tự sự
trở thành những áng thơ văn xuôi đầy ám gợi và quyến rũ. Tính lưỡng phân ở
cấp độ đồng đẳng giữa thơ và văn xuôi cũng như sự đan xen giữa yếu tố thực
và lãng mạn, giữa tính tự sự và trữ tình đã dệt nên đặc trưng thẩm mĩ riêng
biệt, khó lẫn cho loại hình này.
Lưu Quang Vũ là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn học
Việt Nam hiện đại mang phong cách trữ tình khá tiêu biểu ở thập niên 70, 80
của thế kỷ trước. Với tài năng và tâm huyết của một nghệ sĩ, ông đã say mê
lao động nghệ thuật và gặt hái được rất nhiều thành công trong sự nghiệp sáng
tác của mình. Các tác phẩm của ông khi xuất hiện đã trở thành một hiện tượng
và là mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Đa phần các bài viết, nghiên
cứu, đánh giá đều tập trung xoay quanh các tác phẩm kịch, thơ của tác giả
Lưu Quang Vũ mà đôi khi mảng truyện ngắn của ông lại ít được nhắc tới. Đa
số các tác phẩm truyện ngắn được biết đến thông qua hoạt động sưu tầm: 15
truyện ngắn của Lưu Quang Vũ, Lưu Quang Hiệp sưu tầm, thực hiện, Nxb
Hội nhà văn, 1994 ; Lưu Quang Vũ thơ và truyện ngắn, Lưu Khánh Thơ biên
5
soạn, Nxb Hội Nhà văn; tập truyện ngắn Mùa hè đang đến, Nxb Tác phẩm
mới, 1983.
Nhà văn Lê Minh Khuê đã tỏ ra đồng cảm với tác giả Lưu Quang Vũ
khi nhận ra: “ buồn, khát vọng, đau đớn ...đó cũng là Vũ của những năm 70.
anh cố gắng biểu hiện những trạng thái tình cảm này trong các truyện ngắn
mà anh đã viết, vì thế dù không gây được những cơn sóng dữ dội như kịch,
truyện ngắn của Vũ thấm đậm những hồi ức, những xao động của một đời
người. Truyện ngắn Vũ có những nhân vật nhân hậu như chính tác giả của
nó, con người của những năm tháng sôi động.” [19; tr.297]. Khi đọc truyện
ngắn Anh Thình của Lưu Quang Vũ, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tiên
đoán: “Tôi nghĩ rằng anh Lưu Quang Vũ hiện giờ chỉ “cặp bồ” sơ sơ với văn
xuôi mà thôi (thế mà anh đã có mấy tập truyện ngắn đã in). Nếu một lúc nào
đó, ví như cái Anh Thình, anh bỏ kịch và thơ, đi hẳn vào văn xuôi, chắc anh
vẫn giữ cái ngòi bút chừng mực dung dị, và những truyện ngắn của anh chắc
chắn sẽ có sức nặng nhiều hơn và giới văn xuôi lại như giới kịch bây giờ, cứ
ngớ ra mà nhìn anh tung hoành...” ( Phụ trương Văn nghệ, số 2, năm 1987).
Nhà nghiên cứu Phong Lê trong bài viết Văn xuôi Lưu Quang Vũ- cầu nối
giữa thơ và kịch đã ghi nhận: “ Đứng vào thời điểm cuối bảy mươi, đầu tám
mươi mà nhìn lại, khi hào quang chiến thắng và niềm hào hứng về tương lai
dân tộc có phần nhạt đi trước các khó khăn và thử thách của đời sống, truyện
của Vũ vừa mang nét giao thoa của hai âm điệu, vừa đang nhích dần về phía
tiền trạm của một giai đoạn mới. Một “Mùa hè đang đến”. Ở Vũ, và ở nền
văn xuôi mà Vũ có góp phần.” [28]. Trong bài viết Lưu Quang Vũ qua hai tập
truyện ngắn, nhà nghiên cứu Lê Dục Tú nhận ra : “ Là người làm thơ, Lưu
Quang Vũ đã phát huy thế mạnh của chất thơ trong văn xuôi (Trước thềm lục
địa, Hoa xuyến chi, Thị trấn ven sông...) Kỷ niệm của quá khứ, của tuổi trẻ
dường như trở nên “thơ” hơn và “sâu” hơn bởi những đoạn trữ tình ngoại đề
nên thơ và giàu chất triết lý.” [19; tr 245]
6
Ở “Chất trữ tình trong truyện ngắn Lưu Quang Vũ” , (Tạp chí Văn học
số 9 năm 2008), nhà nghiên cứu Bích Thu đã nêu ra những đặc điểm trong
truyện ngắn Lưu Quang Vũ mang chất trữ tình có những nét gần với thơ:
“Truyện ngắn của Lưu Quang Vũ về cơ bản vẫn mang những đặc điểm của
một tác phẩm tự sự nhưng lại bao gồm những đoạn mang tính chất trữ tình,
những suy nghĩ nội tâm giàu giá trị biểu cảm. Trên nền móng cấu trúc của tác
phẩm tự sự, người kể chuyện không phải ẩn náu hoặc khách quan hóa vai trò
của mình mà cùng hiện diện để dành tối ưu cho khả năng tự biểu hiện và bộc
lộ cảm xúc trữ tình. Truyện ngắn Lưu Quang Vũ do vậy có ưu thế biểu cảm
hơn là miêu tả, nặng về biểu hiện chủ quan hơn là tái tạo khách quan” [3].
Tiến trình văn học hiện đại đã chứng kiến sự thâm nhập của văn xuôi và thơ
ca, thậm chí lấn chiếm lãnh địa độc quyền của thơ ca. Song sự xâm nhập theo
chiều ngược lại của thơ vào văn xuôi cũng không phải là hiếm và điều này
được coi như là một dấu hiệu biến đổi tất yếu của truyện ngắn hiện đại.
Có thể khẳng định, ngoài những công trình nghiên cứu, sưu tầm, những
bài viết về cuộc đời, sự nghiệp của tác giả Lưu Quang Vũ thì đến nay chưa có
một công trình, bài viết nào nghiên cứu về sự giao thoa thể loại trong truyện
ngắn Lưu Quang Vũ. Chính vì vậy, trên cở sở kế thừa những thành tựu đã có
về mặt lý luận giao thoa thể loại, đề tài luận văn Giao thoa thể loại trong
truyện ngắn Lưu Quang Vũ hi vọng sẽ mang đến cái nhìn mới mẻ, toàn diện
hơn về một đặc trưng nổi bật trong truyện ngắn của tác giả Lưu Quang Vũ.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn dành sự quan tâm đến sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi trong
truyện ngắn của Lưu Quang Vũ.
7
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Nhận diện dấu ấn giao thoa thể loại trong truyện ngắn Lưu Quang Vũ
trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật thể hiện, trên cơ sở đó ghi nhận
nét độc đáo trong cảm hứng và lối viết mang tính đặc thù của văn xuôi Lưu
Quang Vũ.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đi vào giải quyết những nhiệm vụ
sau đây:
- Khái lược về vấn đề giao thoa thể loại
- Tìm hiểu sự giao thoa thể loại trong truyện ngắn Lưu Quang Vũ nhìn
từ phương diện nội dung: sự xâm nhập của chất trữ tình với truyện ngắn Lưu
Quang Vũ.
- Tìm hiểu sự giao thoa thể loại trong truyện ngắn Lưu Quang Vũ nhìn
từ nghệ thuật biểu hiện : cốt truyện, xây dựng nhân vật, giọng điệu, ngôn
ngữ,...
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài này, chúng tôi vận dụng phối hợp các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp loại hình: phương pháp này là để có các dẫn liệu có tính
thuyết phục cao. Qua khảo sát, thống kê sắp xếp các dẫn liệu, tổng hợp thành
những luận điểm tạo những nét khái quát, từ đó có cơ sở đáng tin cậy cho việc
nghiên cứu.
8
- Phương pháp hệ thống: nhằm nghiên cứu các tác phẩm truyện ngắn
của Lưu Quang Vũ trong mối quan hệ trên một chỉnh thể với các thể loại văn
học khác.
- Phương pháp so sánh: việc so sánh truyện ngắn của Lưu Quang Vũ
với các tác phẩm truyện ngắn của các tác giả khác cũng góp phần làm sáng rõ
hơn cho đề tài.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: qua phân tích các truyện ngắn của
Lưu Quang Vũ rút ra những đặc điểm của thể loại truyện ngắn và sự giao thoa
với các thể loại văn học khác.
- Phương pháp tiểu sử: tìm ra mối liên hệ giữa cuộc đời của Lưu Quang
Vũ với những sáng tác của ông nhằm giải thích chính xác hơn những chi tiết
nghệ thuật trong tác phẩm cũng như trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của tác giả.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Toàn bộ truyện ngắn Lưu Quang Vũ gồm các tập:
Người kép đóng hổ ( 1983) Mùa hè đang đến (1983).
- Các công trình nghiên cứu, sưu tầm về cuộc đời và sự nghiệp Lưu
Quang Vũ : 15 truyện ngắn của Lưu Quang Vũ do Lưu Quang Hiệp sưu tầm,
thực hiện; Lưu Quang Vũ thơ và truyện ngắn do Lưu Khánh Thơ biên soạn;
Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ tình yêu và sự nghiệp do Lưu Khánh Thơ biên
soạn.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, cấu trúc của luận văn bao gồm 3
chương:
Chương 1 : Vấn đề giao thoa thể loại và hành trình sáng tác của tác giả
Lưu Quang Vũ.
9
Chương 2. Sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi trong truyện ngắn Lưu
Quang Vũ nhìn từ phương diện nội dung.
Chương 3. Sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi trong truyện ngắn Lưu
Quang Vũ nhìn từ nghệ thuật biểu hiện.
7. Đóng góp của luận văn
Luận văn hoàn thành, dự kiến sẽ có những đóng góp sau:
- Góp phần tạo nên cái nhìn xuyên suốt và toàn diện về cuộc đời và sự
nghiệp sáng tác của tác giả Lưu Quang Vũ.
- Đóng góp một phần nhỏ vào việc tìm hiểu sự giao thoa thể loại trong
truyện ngắn Lưu Quang Vũ, cho thấy đặc trưng cũng như nét độc đáo trong
văn xuôi của tác giả tài hoa này trên cả hai phương diện nội dung và nghệ
thuật.
- Luận văn sẽ là một cứ liệu cần thiết để dạy và học về thể loại truyện
ngắn của nền văn học hiện đại trong nhà trường.
10
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ GIAO THOA THỂ LOẠI VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TÁC CỦA TÁC GIẢ LƯU QUANG VŨ.
1.1. Giới thuyết khái niệm
1.1.1. Hiện tượng giao thoa thể loại trong văn học
Cơ sở của hiện tượng giao thoa thể loại :
Thể loại văn học được hiểu là một hiện tượng loại hình của sáng tác và
giao tiếp văn học, hình thành trên cơ sở sự lặp lại có quy luật của các yếu tố
tác phẩm. Trong giáo trình Lý luận văn học ( Phương Lựu chủ biên), Trần
Đình Sử khẳng định: “ Thể loại thể hiện một giới hạn tiếp xúc với đời sống,
một cách tiếp cận, một góc nhìn, một trường quan sát, một quan niệm đời
sống, đồng thời cũng là nguyên tắc xây dựng thế giới nghệ thuật” [30]. Nhiều
nhà nghiên cứu cũng thống nhất về khái niệm thể loại như một hình thức
chỉnh thể có tính quy luật của loại hình.
Sự phân loại văn học là bước đầu tiên để nhận thức các quy luật thể
loại. Khi phân chia thể loại ( hay thể tài) tác phẩm văn học người ta thường
căn cứ vào ba tiêu chí chủ yếu: 1, tố chất thẩm mĩ chủ đạo; 2, giọng điệu; 3,
dung lượng và cấu trúc chung của tác phẩm [30]. Một tổng hòa các tiêu chí
như vậy làm nên “nòng cốt” (hay mô hình) thể loại. Các nhà lý luận bậc thầy
từ Aristotle cho đến Boileau đều xuất phát từ ba phương thức phản ánh hiện
thực mà phân chia toàn bộ tác phẩm văn học thành ba loại : Tự sự, trữ tình,
kịch. Trong quá trình phát triển của đời sống văn học nói chung và đời sống
cụ thể của văn học Việt Nam nói riêng đã sản sinh ra các “thể” các “ tiểu loại”
phong phú mà những cách phân loại trước đó đã tỏ ra bất cập, thiếu khả năng
bao quát. Trong công trình Lý luận văn học, Trần Đình Sử đã khắc phục
những nhược điểm trên bằng cách chia một cách quy ước thành năm loại.
11
Ngoài ba loại theo cách “chia ba”, bổ sung vào hai loại mới là : Ký và chính
luận. Đó là nấc thang đầu tiên để tiến đến việc phân chia thể hoặc thể loại tác
phẩm. Các nhà nghiên cứu thống nhất chia loại ra các “thể” và xem “thể” như
là một thể loại. Yếu tố ổn định, truyền thống cho ta những tiêu chí để phân
biệt cái cốt lõi bất biến của từng loại thể: Tác phẩm trữ tình khác tác phẩm tự
sự, tiểu thuyết khác truyện ngắn,... Đó là cơ sở đầu tiên của vấn đề giao thoa.
Trên cơ sở tiếp cận vấn đề thể loại như trên, để thống nhất trong cách
dùng thuật ngữ, việc gọi tên chính xác và logic các hiện tượng/kiểu/loại/cấp
độ giao thoa, chúng tôi nêu lên ở đây một số giới thuyết cụ thể. Luận văn
chọn cách phân chia thể loại thành hai cấp độ. Trên bình diện phương thức
phản ánh, luận văn sử dụng khái niệm loại/loại hình. Trên bình diện hình thái
tác phẩm, luận văn sử dụng khái niệm loại/thể ; trong đó khái niệm “thể loại”
được dùng phổ biến trong nhiều trường hợp, khái niệm thể được dùng trong
những trường hợp đề cập đến những thể loại cụ thể.
Có thể thấy, thể loại có tính “nòng cốt”, vận động theo quy luật nhưng
điều chúng ta lưu tâm hơn là “Bản chất của sáng tạo nghệ thuật là tính độc
đáo không lặp lại. Sự vận động cuộc sống cũng luôn luôn sản sinh và làm
biến động các giới hạn phản ánh, đổi mới các kênh giao tiếp và làm cho
chúng tác động vào nhau, đan bện vào nhau trong tác phẩm nghệ thuật độc
đáo” [30]. Chính vì vậy, thể loại vừa có các yếu tố ổn định, truyền thống; lại
vừa có các yếu tố vận động, đổi mới do sự phát triển văn học và tài năng sáng
tạo của nhà văn. Tính hai mặt của một vấn đề nằm sâu trong bản chất thể loại
chính là xuất phát điểm của vấn đề tương tác.
Thực tế đời sống văn học cho thấy mỗi một “nòng cốt thể loại” tồn tại
những mô chuẩn nghệ thuật ít nhiều mang tính quy ước , chỉ có ý nghĩa tương
đối và luôn có khả năng biến đổi. Vì vậy, khi nhà văn sáng tác một thể loại
nào đó, một mặt luôn tôn trọng, tuân thủ những mô chuẩn nghệ thuật quy ước,
12
mặt khác vẫn có nhu cầu thoát bỏ khỏi những mô chuẩn quy ước ấy, bằng
cách “nhìn sang” các thể loại xung quanh , chắt lọc lấy những tinh hoa, tổng
hợp kinh nghiệm của hai hay nhiều thể loại, tạo ra những tác phẩm “lệch
chuẩn”. Nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu văn học cũng cho rằng một thể loại,
trong quá trình hình thành và phát triển có thể tổng hợp vào nó đặc điểm hay
ưu thế của một vài thể, loại khác, chẳng hạn : “ Kí là sự hợp nhất của truyện
và nghiên cứu” và trong kí , “vừa có những yếu tố của truyện, vừa có sự tham
gia trực tiếp của tư duy nghiên cứu”, hoặc : “ Người viết tiểu thuyết có thể
vận dụng nhiều phương thức: tự sự, trữ tình, kịch…” hoặc : “ở một khía cạnh
nào đó, truyện ngắn gần với thơ. Ở một khía cạnh khác, truyện ngắn gần với
kịch…”. Cho nên, việc thoát bỏ mô hình thể loại, mang thêm vào tác phẩm
những yếu tố của thể loại khác sẽ góp phần điều chỉnh mô hình, nắn lại nòng
cốt thể loại của tác phẩm, tránh được sự xơ cứng, thúc đẩy sự vận động, phát
triển của các thể loại văn học.
Một cơ sở nữa của vấn đề giao thoa thể loại, đó là bối cảnh thời đại. Một
nền văn học, qua những thời đại khác nhau hình thành hệ thống thể loại khác
nhau và hệ thống đó cũng biến đổi. Thể loại vừa là cái “ trí nhớ của siêu cá
nhân của nhân loại” nhưng đồng thời lại luôn được tái sinh, đổi mới trong
từng giai đoạn phát triển văn học, trong từng thể loại, trong từng tác phẩm cụ
thể, cá biệt. “ Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ văn học là một chỉnh thể thẩm mỹ
thống nhất trong đó có sự liên kết và tác động lẫn nhau giữa các thể loại”
[30]. Đặc điểm văn hóa-xã hội, thị hiếu thẩm mỹ , trình độ nhận thức của mỗi
thời đại thay đổi sẽ làm thay đổi hệ thống thể loại và hệ quả là thay đổi quan
hệ giao thoa giữa các thể loại trong chỉnh thể ấy.
Ở đây, khái niệm giao thoa thể loại là sự thâm nhập, tác động, ảnh
hưởng lẫn nhau giữa hai hay nhiều thể loại của một hoặc nhiều hệ thống thể
13
loại khác nhau nhằm tạo nên sự vận động và phát triển của cấu trúc thể loại
văn học.
Những biểu hiện của hiện tượng giao thoa thể loại :
Giao thoa thể loại là sự thể hiện tập trung những nỗ lực sáng tạo và đổi
mới của văn học. Do vậy, đây là hiện tượng hết sức sinh động, đa chiều. Sự
giao thoa không chỉ diễn ra trên chiều đồng đại – khép kín trong phạm vi mỗi
giai đoạn, mỗi thời kì văn học; mà còn diễn ra trên chiều lịch đại với những
dích dắc, quanh co phức tạp. Xét về cấp độ, sự giao thoa thể loại cũng diễn ra
trên nhiều cấp độ : loại/loại, thể/loại, thể/thể, yếu tố/yếu tố,…
Giao thoa giữa loại với loại, loại với thể tạo ra những thể loại trung
gian, lưỡng hợp, mang đặc điểm kép của cả hai phương thức phản ánh đời
sống, hai hình thức kĩ thuật, chất liệu phản ánh đời sống vốn rất khác biệt
nhau. Ví dụ : Giao thoa giữa thể loại trữ tình và loại kịch tạo nên kịch thơ;
tương tác giữa loại tự sự với loại trữ tình tạo nên truyện thơ; giao thoa giữa
thể truyện ngắn và loại trữ tình tạo nên loại hình truyện ngắn đậm chất trữ
tình ( như truyện ngắn – trữ tình hóa của Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Thanh
Tịnh,…); giao thoa giữa thể truyện ngắn với loại kịch tạo nên loại hình truyện
ngắn giàu kịch tính ( truyện ngắn- kịch hóa của Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng,…)
Giao thoa giữa thể với thể cũng tạo ra những thể loại trung gian, tổng
hợp mang đặc điểm “kép” của hai nòng cốt hay mô hình thể loại. Ví dụ:
Tương tác giữa thể loại truyện ngắn với thể tiểu thuyết tạo nên truyện ngắn-
tiểu thuyết hóa, truyện ngắn viết dài hoặc tiểu thuyết viết ngắn; giao thoa giữa
truyện ngắn với các thể văn học “ngắn”, cực “ngắn” tạo nên những thể loại
“mi-ni”.
14
Giao thoa giữa các yếu tố thuộc nhóm thể loại sáng tác có hư cấu
(fiction) như tiểu thuyết, truyện ngắn,… và các yếu tố thuộc nhóm thể loại
sáng tác không hư cấu (non fiction) như hồi kí, kí sự, nhật kí, ghi chép,… tạo
nên các thể loại đan xen giữa các yếu tố hư cấu với yếu tố không hư cấu (
truyện kí, tự truyện,…).
Xét về hình thức giao thoa, sự giao thoa thể loại có thể diễn ra theo các
hình thức chính: 1) hình thức tổng hợp thể loại ( thể loại hòa nhập làm một
hoặc song song tồn tại) ; 2) hình thức “ đổi ngôi” – “tiếp sức” giữa các thể
loại; 3) hình thức loại bỏ, thay thế thể loại… Hình thức thứ nhất - rất phổ biến
– mang tính đồng đại; hình thức thứ hai – với một lộ trình ít nhiều quanh co, ít
phổ biến hơn – mang tính chất lịch đại. Hình thức thứ ba thường diễn ra vào
những thời điểm bước ngoặt mang tính cách mạng, thay đổi phạm trù văn học
của vận động thể loại.
1.1.2. Sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi
1.1.2.1. Thơ và văn xuôi, cặp đối xứng đầy xung khắc
Thơ và văn xuôi là những thể loại thuộc hai loại hình biểu đạt khác
nhau của văn học. Thơ ( ở đây hiểu là thơ trữ tình ) thuộc phương thức biểu
đạt trữ tình còn văn xuôi thuộc phương thức biểu đạt tự sự. Chính vì vậy,
những đặc trưng thể loại của chúng có nhiều điểm khác biệt, thậm chí theo tác
gỉa Đỗ Đức Hiếu trong công trình Thi pháp thể loại mối quan hệ giữa thơ và
văn xuôi còn là “ mối quan hệ đối lập”.
Định nghĩa về thơ, cuốn Từ điển thuật ngữ văn học ( do Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên) viết: Thơ được cho là “ hình thái
văn học đầu tiên của loài người” và là “ hình thức sáng tác văn học phản ánh
cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn
ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” [25]. Ngoài ra, còn có
15
nhiều nhận định cho rằng : Thơ trữ tình là thuật ngữ chỉ chung các thể thơ
thuộc loại trữ tình. Trong đó, cảm xúc và suy tư của nhà thơ hoặc của nhân
vật trữ tình trước các hiện tượng đời sống được thực hiện một cách gián tiếp.
Tính chất cá thể hóa của cảm nghĩ và tính chất chủ quan hóa của sự thể hiện
là dấu hiệu tiêu biểu của thơ trữ tình.
Còn thuật ngữ văn xuôi được Từ điển thuật ngữ văn học giải thích : “
Văn xuôi trong nghĩa rộng chỉ loại văn đối lập với văn vần, và trong nghĩa
hẹp chỉ các tác phẩm văn phân biệt với kịch, thơ bao gồm một phạm vi rộng
từ tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, kí, tiểu phẩm chính luận” [25]
Sự khác biệt giữa thơ và văn xuôi:
Về phương diện tiếp cận và chiếm lĩnh hiện thực: Nhóm tác giả Từ điển
văn học bộ mới cho rằng : Tác phẩm văn học nào cũng biểu hiện tư tưởng tình
cảm của con người trong cuộc sống, nhưng thơ trữ tình biểu hiện tư tưởng
tình cảm theo cách riêng. Ở tác phẩm văn xuôi tự sự, tác giả dựng lên những
bức tranh xã hội, trong đó các nhân vật có những đường đi và số phận riêng.
Ở thơ trữ tình có điều khác, thế giới bên trong của con người: cảm xúc, tâm
trạng, nỗi niềm, suy tư được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu
của tác phẩm. Như vậy, biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người là
cách phản ánh hiện thực một cách riêng biệt của thơ trữ tình, còn ở văn xuôi
tự sự, nhà văn tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó.
Về nguyên tắc tổ chức tác phẩm: Tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, cảm
xúc trong thơ không thể hiện một cách bộc trực, trần trụi mà thường hòa tan,
biến hóa trong những hình tượng, biểu tượng nghệ thuật mới lạ, gợi cho người
đọc nhiều liên tưởng thú vị. Có được điều đó là nhờ tứ thơ. Tứ thơ là điểm tựa
cho kết cấu của bài thơ, mang cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của nhà thơ.
Trái lại, nét đặc thù của các tác phẩm văn xuôi là vai trò tổ chức của trần thuật
: Nó thông báo về các biến cố, các tình tiết như thông báo về một cái gì đó đã
16
xảy ra và được nhớ lại, đồng thời mô tả hoàn cảnh, hành động và dáng nét các
nhân vật, nhiều khi còn có thêm cả những lời bàn luận. Hình thức tự sự dựa
vào các kiểu kết cấu truyện khác nhau. Có kiểu triển khai rõ rệt tính biến động
của các sự kiện, lại có kiểu nhấn chìm dòng biến cố vào những đoạn mô tả,
thể hiện tâm lý hoặc bàn luận.
Về giọng điệu : Trong Thi pháp hiện đại Đỗ Đức Hiểu cho rằng “ Thơ
là độc bạch của nhà thơ (…); thơ chỉ có một giọng, giọng của nhà thơ, dù
giọng ấy có nhiều điệu, nhiều sắc thái, ngôn từ thơ là ngôn từ bên trong . Trái
lại, văn xuôi chứa đựng nhiều tiếng nói; nó đa âm, nó là văn bản hỗn hợp
những ngôn từ của nhiều tầng lớp người trong xã hội. Xen lẫn tiếng nói tác
giả là tiếng nói người kể chuyện, tiếng nói của các nhân vật, mỗi nhân vật là
một thế giới riêng biệt” [6]
Về ngôn ngữ: Khi viết “ nhà thơ coi chữ như đồ vật chứ không coi như
những dấu hiệu”, J.P.Sartre trong công trình nghiên cứu : Văn học là gì ? đã
đối lập hai lĩnh vực thơ-văn xuôi : Thơ nằm cùng một phía với hội họa, điêu
khắc, âm nhạc. Bởi cách sử dụng chất liệu ngôn từ của nhà thơ tương tự như
họa sĩ dùng màu sắc, như nhạc sĩ dùng âm thanh. Đó là coi các từ là những sự
vật-nó mang ý nghĩa tự thân chứ không phải là các ký hiệu. Tức là chữ trong
thơ là thể hoàn bị. Còn văn xuôi : ngược lại là vương quốc của các ký hiệu, và
bản chất của văn xuôi vì thế là vị lợi.
Như vậy, có thể thấy, dù nhìn từ phương diện nào, thơ và văn xuôi
cũng là hai thể loại đối lập với nhau. Chúng là một cặp đối xứng đầy xung
khắc. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, giữa hai thể loại này vẫn có những
sự giao thoa, thẩm thấu lẫn nhau.
1.1.2.2. Thơ và văn xuôi – những biểu hiện giao thoa thể loại.
Bản chất của mối quan hệ giao thoa giữa thơ và văn xuôi là giao thoa
17
giữa thể với thể. Trong luận văn, chúng tôi chủ yếu chú ý đến chiều tương tác,
ảnh hưởng của thơ đối với văn xuôi.
Những ảnh hưởng của thơ vào văn xuôi:
Cái tôi trữ tình : Sự tham gia của thơ vào cấu trúc truyện, trước hết
được thể hiện ở cái tôi tác giả. Đó không phải là cái tôi tự sự khách quan mà
là một hình tượng cái tôi độc đáo: Cái tôi cảm xúc, cái tôi cảm nghĩ, cái tôi
đầy suy tư, trăn trở. Chúng ta dễ nhận thấy cái tôi trữ tình của thơ qua một đặc
điểm nổi bật: rất nhiều truyện ngắn trần thuật ở ngôi thứ nhất. Trong nhiều
trường hợp cái tôi trùng khít với cái tôi tác giả. Ở những trường hợp khác, tác
giả gửi gắm góc nhìn này vào nhân vật. Chính điểm nhìn ấy là khởi nguồn của
dư vị trữ tình, tạo nên thế giới cảm xúc thấm đẫm trên trang văn.
Thế giới của biểu tượng : Hình ảnh mang tính chất biểu tượng không
phải là đặc quyền của các thể loại trữ tình nhưng những biểu tượng có tính ẩn
dụ, có sức hàm nghĩa lớn chính là tố chất của thơ ca. Với dung lượng nhỏ, thơ
ca thường dụng công sáng tạo nên các hình ảnh biểu tượng có độ nén, độ hàm
súc cao. Trong thực tế, nhiều cây bút văn xuôi đã tận dụng ưu thế này của thơ
để xây dựng nên những biểu tượng đa nghĩa nhằm gia tăng sức chuyền tải cho
kích cỡ khiêm tốn của truyện ngắn. Tác giả không quan tâm đến cốt truyện,
nhân vật… mà tập trung cảm hứng cao độ cho các biểu tượng, biểu tượng
trong truyện lúc này có vai trò như cái tứ thơ, xuất hiện trở đi trở lại gợi lên
những tầng ý nghĩa sâu xa của truyện. Nói cách khác, ở những truyện ngắn
này, tác giả gửi gắm, kí thác tư tưởng, tình cảm của mình vào những biểu
tượng, tạo được âm vang cho truyện. Biểu tượng mang tính chất tượng trưng,
mang ý nghĩa ẩn dụ cao đã tạo nên những mã nghệ thuật độc đáo, thể hiện sự
sáng tạo của người nghệ sĩ. Hình ảnh biểu tượng trong truyện ngắn vừa có
tính quy tụ lại vừa có sức lan tỏa. Đây là kỹ thuật tương tác đòi hỏi khả năng
sáng tạo, sự chuyên nghiệp của người viết, nếu thành công tác phẩm vừa có
18
sức nặng, vừa có âm hưởng, độ ba dư lớn, vẫy gọi sự đồng sáng tạo mạnh mẽ
đối với người đọc.
Sự thu hẹp, xóa nhòa cốt truyện : Sự tham gia của cái tôi trữ tình-một
thành tố quan trọng của thơ- vào văn xuôi đã tạo nên một đặc điểm mới của
truyện ngắn trữ tình. Đó là sự thu hẹp tối đa, thậm chí đến mức xóa nhòa cốt
truyện, nhân vật, đối thoại, hành động bên ngoài… để chỉ còn lại một cảm
giác, một ấn tượng, một dòng chảy cảm xúc. Những truyện ngắn này không
thể kể lại hoặc thật khó để kể lại, bởi: Không có một cốt truyện với những sự
kiện, tình tiết để kể, không có tên gọi nhân vật để gọi tên và trong rất nhiều
truyện, đọc xong, người đọc không thể xác định được, càng không thể diễn
đạt được rõ ràng chủ đề tư tưởng mà tác giả gửi gắm qua thiên truyện. Thay
vào đó, độc giả sẽ được nếm trải, được cảm nhận về một trạng thái, một tâm
trạng, một cảm giác, đôi khi chỉ là một ấn tượng. Do vậy, nó tạo nên những
rung động mới lạ, đậm chất thơ cho người đọc. Sở dĩ những truyện không có
cốt truyện, rất ít tình tiết gay cấn… nhưng không bị dàn trải, không bị tan
loãng là bởi sức nặng, sự liên kết của hình ảnh biểu tượng.
Điểm nhìn ngôi thứ nhất của thơ: Nhiều tác phẩm thường chỉ có một
điểm nhìn, điểm nhìn của cái tôi tác giả- cái tôi người kể chuyện. Điều khác
biệt nằm ở chỗ đó, không phải là cái tôi “biết tuốt” ở bên ngoài tác phẩm mà
là cái tôi tình thực công khai tham gia vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm;
đó không phải là cái tôi khách quan kể chuyện mà là cái tôi chủ quan hướng
nội thiên về bộc lộ cảm xúc. Phương thức trần thuật này khiến cho văn xuôi
tràn ngập những dòng kí ức , những đoạn trữ tình ngoại đề. Trần thuật ở ngôi
thứ nhất chính là khởi nguồn cho sự thay đổi về cốt truyện, nhân vật và đặc
biệt là sự thay đổi của ngôn ngữ văn xuôi.
Ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu và mang tính biểu tượng : nếu như
ngôn ngữ văn xuôi thường được các nhà nghiên cứu so sánh như một thứ
19
ngôn ngữ “đời thường” thì dưới tác động của thơ, ngôn ngữ văn xuôi trở nên
giàu hình ảnh, có nhịp điệu và mang tính biểu tượng.
Hiện tượng thơ trong văn : Việc tồn tại một hoặc nhiều bài thơ trong
cấu trúc văn xuôi không phải là hiện tượng lạ. Đặc điểm này đã có thể nhận
thấy trong một tập truyện được viết từ thế kỷ XVI – Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ. Trong văn xuôi sau năm 1986, thơ trong truyện trở thành một
hiện tượng vừa phong phú vừa độc đáo, vừa giàu ý nghĩa về sự cộng hưởng
thể loại. Ở góc nhìn của thơ, nhiều người cho rằng có một cuộc xâm lăng của
văn xuôi vào thơ. Cũng có thể nói như vậy đối với văn xuôi, đặc biệt là truyện
ngắn và tản văn: có một cuộc xâm lăng của thơ ca vào văn xuôi. Cách làm
này đã được một số nhà văn dày công thể nghiệm. Kỹ thuật viết văn đã dần
lấn sang thơ đã để lại những dấu ấn đậm nét, ấn tượng và trở thành một phong
cách độc đáo của một số nhà văn như Nguyễn Quang Thiều, Nhật Chiêu và
nhiều cây bút khác của văn xuôi đương đại.
Tóm lại, mối giao thoa giữa thơ và văn xuôi là một sự tương tác nhịp
nhàng và ăn ý. Sự tương tác theo kiểu tiếp sức, tổng hợp và cùng vận động
của thơ và văn xuôi có thể coi là một kiểu tương tác mẫu mực cho tiến trình
phát triển của cấu trúc thể loại nói chung cũng như mỗi thể loại nói riêng.
1.2. Hành trình sáng tác của Lưu Quang Vũ
1.2.1. Con người và cuộc đời Lưu Quang Vũ
1.2.1.1. Gia đình và quê hương
Lưu Quang Vũ sinh ngày 17/4/1948 tại xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa,
tỉnh Phú Thọ nhưng quê gốc ở Đà Nẵng. Ông là con trai nhà viết kịch Lưu
Quang Thuận và bà Vũ Thị Khánh. Từ khi còn nhỏ Lưu Quang Vũ đã sớm
bộc lộ những năng khiếu nghệ thuật và mang trong mình tư chất của một nghệ
sĩ khi ba lần đoạt giải văn toàn thành phố Hà Nội. Lên mười tuổi ông đã có
20
truyện ngắn được in trên báo. Không chỉ có tài năng văn chương, Lưu Quang
Vũ còn vẽ rất giỏi và đạt giải thiếu nhi của thành phố. Tuổi thơ Lưu Quang
Vũ được sống trong môi trường nghệ thuật; tham gia các sinh hoạt văn nghệ,
là phát thanh viên của các buổi phát thanh Măng non, lồng tiếng cho phim
thiếu nhi, tự tổ chức diễn kịch với các bạn trong khu tập thể Nghệ thuật ở 51
Trần Hưng Đạo và sớm được tiếp xúc với các vở diễn, gần gũi với nhiều văn
nghệ sĩ lớn tuổi đã tạo đà cho sự phát triển tài năng của Lưu Quang Vũ về
sau. Có thể nói, gia đình và quê hương chính là cái nôi nuôi dưỡng tài năng
Lưu Quang Vũ nảy nở và phát triển.
Cha ông – nhà viết kịch Lưu Quang Thuận đồng thời cũng là một nhà
thơ tài hoa. Chính ông là một tính cách thơ đằm thắm, dạt dào và mặn mà như
vùng biển Đà Nẵng quê ông. Lưu Quang Vũ mang nợ thơ từ trong huyết
thống. Ngay thuở mới lên năm, lên sáu nhà thơ Lưu Quang Thuận đã sớm
phát hiện ra tâm hồn đa cảm, tài hoa nơi đứa con trai đầu lòng của mình, và
ông “đã tin chắc rằng sau này lớn lên con trai của mình sẽ trở thành thi sĩ”.
(Lưu Quang Vũ – Thơ và đời). Còn mẹ ông là một người phụ nữ tần tảo, đảm
đang, giàu lòng yêu thương và đức hy sinh. Bà đã để lại trong tâm trí Lưu
Quang Vũ những hình ảnh ngọt ngào của tuổi thơ “mải chơi trốn học”,
“những tối mẹ ngồi khâu lại áo”. Đó là những kỉ niệm một thời không thể
quên đã in dấu trong các sáng tác của Lưu Quang Vũ sau này. Thiên hướng và
năng khiếu nghệ thuật của Lưu Quang Vũ đã sớm bộc lộ từ nhỏ.
Năm 13 tuổi, Lưu Quang Vũ đã giành được giải thưởng của thành phố
về cả văn và họa.
Năm 17 tuổi, Lưu Quang Vũ nhập ngũ, được biên chế về biên chủng
phòng không không quân. Đây là giai đoạn có nhiều thay đổi trong cuộc đời
anh. Anh sáng tác rất nhiều thơ. Chùm thơ đầu tay: “Gửi tới các anh, Lá bưởi
lá chanh, Đêm hành quân” được in trên tạp chí Văn nghệ quân đội. Và đặc
21
biệt, bằng sự xuất hiện trên thi đàn với phần thơ “Hương cây” in chung với
Bằng Việt trong tập thơ “Hương cây – Bếp lửa” khi anh tròn 20 tuổi thì Lưu
Quang Vũ nhanh chóng được biết đến với tư cách là một nhà thơ trẻ tài năng
đầy triển vọng.
Có thể nhận thấy, Lưu Quang Vũ được sinh ra trong một gia đình có
truyền thống về sân khấu và bản thân ông có sẵn năng khiếu thiên bẩm. Với
sự trải qua bao thế sự thăng trầm trong cuộc đời riêng, đã làm cho ông thực sự
trở thành một nghệ sĩ có nhiều nỗi niềm.
1.2.1.2. Bản thân
Tuổi thơ Lưu Quang Vũ sống cùng cha mẹ tại Phú Thọ. Khi hòa bình
lặp lại (1954) gia đình ông chuyển về sống tại Hà Nội.
Từ 1965 đến 1970, Lưu Quang Vũ nhập ngũ, phục vụ trong quân chủng
phòng không không quân. Đây là thời kì thơ Lưu Quang Vũ bắt đầu nở rộ với
những bài thơ đăng trên các báo Nhân dân, Quân đội nhân dân, Văn nghệ
quân đội.
Từ 1970 đến 1978, ông xuất ngũ và làm đủ thứ nghề để mưu sinh, làm
ở xưởng cao su Đường sắt, làm hợp đồng cho nhà xuất bản Giải Phóng, chấm
công cho một đội cầu đường, vẽ pa – nô, áp phích…
Từ 1978 đến 1988, Lưu Quang Vũ làm biên tập viên Tạp chí sân khấu,
bắt đầu sáng tác kịch nói với vở kịch đầu tay “Sống mãi tuổi 17” (được trao
tặng Huy chương Vàng Hội diễn viên sân khấu năm 1980).
Lưu Quang Vũ kết hôn hai lần. Lần thứ nhất với diễn viên điện ảnh Tố
Uyên năm 1969. Hai người li dị năm 1972. Ông kết hôn lần hai với nữ sĩ
Xuân Quỳnh năm 1973.
22
Giữa lúc tài năng đang độ chín, Lưu Quang Vũ qua đời trong một tai
nạn ô tô trên quốc lộ 5 tại Hải Dương, cùng với người bạn đời là nhà thơ
Xuân Quỳnh và con gái Lưu Quỳnh Thơ (29/8/1988).
Cuộc sống của Lưu Quang Vũ tuy ngắn ngủi nhưng ông đã sống và làm
việc hết mình, đã có những đóng góp không nhỏ cho đời sống văn học dân tộc
ở nhiều thể loại: thơ, văn xuôi, kịch… Thơ Lưu Quang Vũ không chỉ bay
bổng, tài hoa mà còn giàu cảm xúc, trăn trở, khát khao. Các vở kịch, truyện
ngắn, thơ của Lưu Quang Vũ giàu tính hiện thực và nhân văn cũng như in
đậm dấu ấn của từng giai đoạn trong cuộc sống của ông.
Năm 2000, Lưu Quang Vũ được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về
Văn học nghệ thuật.
1.2.2. Quá trình lao động nghệ thuật của Lưu Quang Vũ
1.2.2.1. Thơ
Lưu Quang Vũ là một trong những hiện tượng thơ của thập niên 60 thế
kỉ XX. Năm 17 tuổi, khi khoác lên bộ quân phục của binh chủng phòng không
không quân. Anh sáng tác rất nhiều thơ. Chùm thơ đầu tay: “Gửi tới các anh,
Lá bưởi lá chanh, Đêm hành quân” được in trên tạp chí Văn nghệ quân đội. Và
sau này cùng với những bài thơ khác được in trong tập thơ “Hương cây” in
cùng với Bằng Việt trong tập thơ “Hương cây – Bếp lửa”, khi anh tròn 20 tuổi.
Ngay khi đến với bạn đọc Lưu Quang Vũ nhanh chóng chiếm được thiện cảm
và đã hiện diện như một hiện tượng thơ trẻ đầy triển vọng lúc bấy giờ.
Trong dòng chung của thơ ca kháng chiến chống Mỹ, Lưu Quang Vũ
có một giọng điệu riêng, đã định hình một phong cách rõ nét. Giữa dàn đồng
ca của những tiếng thơ cùng thế hệ, thời kì đầu Lưu Quang Vũ đã góp một
tiếng thơ sôi nổi, tươi mới, mát lành, có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển
và đổi mới của thơ ca thời kì này. Tuy nhiên, đã có một thời gian, những tập
23
thơ của Lưu Quang Vũ được coi là không hợp với thời cuộc, bị coi là lạc điệu,
bị đặt sang một bên lề cuộc sống, không được công bố, công nhận. Đến sau
này, nó mới được tập hợp và biết tới. Có thể nói, những phần chưa công bố,
phần riêng lạc điệu ấy mới chính là con người thật nhất, chân thành và tài hoa,
tinh tế nhất của Lưu Quang Vũ, mà bạn đọc ít nhiều còn chưa biết tới.
Chặng đường thơ của Lưu Quang Vũ trải dài từ những năm kháng
chiến chống Mỹ đến những năm tháng thời kì đất nước đổi mới và dừng lại
khi Lưu Quang Vũ qua đời năm 1988. Không kể đến những vần thơ sáng tác
từ thuở thiếu thời, Lưu Quang Vũ được giới văn nghệ cũng như cả nước biết
tới với tập thơ đầu tay in chung với Bằng Việt “Hương cây - Bếp lửa” năm
1968. Tiếp sau “Hương cây - Bếp lửa”, Lưu Quang Vũ có “Mây trắng của
đời tôi” (1989), Bầy ong trong đêm sâu (1993) và một số tập thơ đã tương đối
hoàn chỉnh “Cuốn sách xếp lầm trang”, “Cỏ tóc tiên”. Mới đây, năm 2008,
cuốn “Di cảo Nhật kí – Thơ” cũng vừa ấn hành. Theo thời gian, mỗi tác phẩm
của Lưu Quang Vũ ra đời kéo theo một sự chú ý, không chỉ của bạn đọc mà
của giới phê bình nói chung. Nhìn chung, Lưu Quang Vũ nhận được nhiều sự
mến mộ và kì vọng của công chúng, độc giả và giới nghiên cứu, phê bình thơ.
“Lưu Quang Vũ thơ và đời” do Lưu Khánh Thơ biên soạn được coi là
cuốn sách tổng hợp đầy đủ nhất về thơ Lưu Quang Vũ. Những bài thơ tiêu
biểu nhất của Lưu Quang Vũ đã được lưu lại trong đó, cùng với nó là những
bài viết của những người thân, những bạn thơ cùng thế hệ, những đồng
nghiệp cũng như gia đình Lưu Quang Vũ. Phần đời của Lưu Quang Vũ cũng
được chú ý và giới thiệu với bạn đọc hầu hết những chặng đường gian nan
của Lưu Quang Vũ.
“Lưu Quang Vũ tài năng và lao động nghệ thuật” cũng của Lưu
Khánh Thơ chủ biên, xuất bản năm 2000, ra đời nhân dịp Lưu Quang Vũ
được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đã giới thiệu những bài viết của
24
Hoài Thanh, Lê Đình Kỵ, Vũ Quần Phương, Phạm Xuân Nguyên, Anh Ngọc,
Hoàng Sơn… cho thấy đánh giá của giới phê bình về Lưu Quang Vũ từ rất
nhiều góc độ.
Cuốn “Đối thoại Tình yêu Xuân Quỳnh Lưu Quang Vũ”, ấn hành năm
2007, tuyển lựa những bài thơ đặc sắc nhất của cả Xuân Quỳnh và Lưu Quang
Vũ, những bài viết của giới phê bình về thơ của Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh,
và cả những bức thư thấm đẫm ân tình của hai người, đã tạo nên một thế đối
thoại rất thú vị, như là Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ đã đối thoại với nhau qua
những trang thơ, và cùng nhau đối thoại với bạn đọc, với cuộc đời. Năm
2008, kỉ niệm 20 năm ngày mất của Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, cuốn “Di
cảo Nhật kí – thơ” của Lưu Quang Vũ đã được Lưu Khánh Thơ biên soạn,
công bố một phần lớn những tác phẩm, cũng như bút tích của anh trong toàn
bộ khối lượng Di cảo đồ sộ. Trong cuốn sách này, có một phần lớn thời lượng
dành để đăng tải những trang nhật kí của Lưu Quang Vũ của một thời “hoa
phượng” và những ngày tháng chuẩn bị “lên đường”.
Đáng chú ý là 34 bài thơ “Những bông hoa không chết”, là phần thơ
viết trong khoảng 5 năm (1971 – 1975), một thời kì “gian khó, cô đơn đến
cùng cực” của Lưu Quang Vũ mà ít người biết tới. Những bài thơ này khi ra
đời, bản thân nó đã tự tách thành một dòng riêng, không thực sự hợp với
những đòi hỏi của sách báo ngày đó nên không được in ấn, xuất bản. Chính
những bài thơ này, gợi mở một diện mạo thơ khác của Lưu Quang Vũ, đắm
đuối, buồn đau, khốc liệt, một Lưu Quang Vũ “tha thiết muốn vượt lên trên
nỗi mệt mỏi, hoài nghi để yêu thương, để sống và viết”.
1.2.2.2. Kịch
Lưu Quang Vũ là nhà viết kịch xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại,
có những đóng góp to lớn cho nền sân khấu nước nhà. Với khả năng sáng tạo
phi thường, trong gần 10 năm, Lưu Quang Vũ đã viết được gần 50 kịch bản
25
và hầu hết trong số đó đều đã được dàn dựng. Ngay khi ra đời, các vở kịch
của ông đã nhanh chóng được công chúng đón nhận nồng nhiệt. Cho đến nay,
sau một độ lùi thời gian cần thiết, nhiều vở kịch của ông vẫn có sức sống
mãnh liệt trong lòng công chúng. Lưu Quang Vũ có được thành công đó là
bởi những sáng tác của ông không chỉ đáp ứng được nhu cầu của công chúng
đương thời mà còn đề cập đến những vấn đề của muôn đời. Những sáng tác
đó đã khẳng định được giá trị nội dung và nghệ thuật của mình qua phép thử
thời gian.
Sức sáng tạo của Lưu Quang Vũ bắt đầu từ vở kịch đầu tay Sống mãi
tuổi 17 (1979), vở diễn ra mắt của Nhà hát Tuổi trẻ và lần đầu tiên tham gia
hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc đạt giải nhất. Với vở diễn này,
giới sân khấu đánh giá Lưu Quang Vũ là một gương mặt mới, đáng chú ý.
Sau cái chết đột ngột của cha là nhà viết kịch Lưu Quang Thuận, Lưu Quang
Vũ lập tức bắt tay vào hoàn thiện kịch bản chèo Nàng Sita và được đoàn chèo
Hà Nội dàn dựng, sau đó vở diễn được hơn 30 đoàn nghệ thuật trong cả nước
dựng lại với đủ các thể loại như: kịch nói, cải lương, dân ca, chèo. Với vở
kịch này Lưu Quang Vũ đã tạo được tiếng vang lớn trong làng sân khấu của
cả nước. Nhưng phải đến năm 1984, Lưu Quang Vũ sáng tác 15 vở kịch, hội
diễn sân khấu toàn quốc 1985 có tới 8 vở tham gia hội diễn thì 6 vở đạt Huy
chương vàng, 2 vở đạt Huy chương bạc, báo chí gọi ông là cây bút vàng của
kịch trường Việt Nam. Ba năm cuối đời sức sáng tạo của Lưu Quang Vũ thật
phi thường khi ông hoàn thành tiếp hơn hai mươi vở kịch. Trong vòng mười
năm ngắn ngủi của cuộc đời, Lưu Quang Vũ đã để lại hơn 50 vở kịch và ông
đã trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu Việt Nam. Nhà nghiên cứu
Phan Ngọc trong Tạp chí Tia sáng, số 5, 1996 khi nói về các vở kịch của Lưu
Quang Vũ khai thác mô típ truyện dân gian có nhận xét : “Không ai bằng Vũ
trong biệt tài làm nêu cái muôn thuở trong cái đời thường, biến cổ tích, huyền
26
thoại thành truyện thời sự, dùng cái hư để nói cái thực, dùng cái thô lỗ
để khẳng định cái cao quý ”.
Lưu Khánh Thơ trong bài viết “Đóng góp của Lưu Quang Vũ đối với
nền văn học kịch Việt Nam” cũng đánh giá cao về tiếng nói tiên phong trong
kịch của Lưu Quang Vũ “Kịch của Lưu Quang Vũ là tiếng nói trẻ trung, dũng
cảm trong phong trào đổi mới ở nước ta. Đó là kết quả của nhiệt tâm, sức
lực, sự hiểu biết cuộc sống của người nghệ sĩ đồng thời cũng là kết quả của
một tình yêu của lòng say mê và khát vọng nghệ thuật”
Có thể khẳng định, Lưu Quang Vũ là một tài năng lao động nghệ thuật,
sức sáng tạo đặc biệt “một Molie ở Việt Nam”, đề tài kịch của Lưu Quang Vũ
rất đa dạng đặc biệt bắt nhịp với cuộc sống mới, chất lượng kịch của
Lưu Quang Vũ hấp dẫn lôi cuốn ở cách tổ chức xung đột kịch, ở ngôn ngữ và
nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nhìn vào thực tế có thể thấy rằng chưa có một
tác giả viết kịch bản nào có thể thay thế được vị trí của nhà văn Lưu Quang
Vũ. Ông là một tác giả có công lao đóng góp lớn cho một thập niên sân khấu
có nhiều thành tựu đặc sắc. Các vở kịch của ông góp phần nâng cao chất
lượng sân khấu cả nước vào thời kì xã hội nhiều biến động và đang còn chồng
chất khó khăn. Những vở kịch của Lưu Quang Vũ khi được trình diễn đã đem
đến cho đời sống tinh thần văn hóa của nhân dân cả nước một bầu không khí
phấn chấn, tin tưởng, cởi mở, dân chủ. Các vở kịch của ông chịu ảnh hưởng
từ nhiều nguồn khác nhau như lịch sử, huyền thoại, triết học, báo chí, khoa
học… Tất cả đã trở thành chất liệu văn chương và nguồn sáng tạo trong các
vở kịch của Lưu Quang Vũ. Hơn nữa với sự nỗ lực của nhà văn trong quá
trình sáng tác là tiếp tục tinh thần phê phán, khơi sâu các vấn đề xã hội, thế
sự, đời tư, Lưu Quang Vũ đã phát hiện những mặt trái của của nhân sinh xã
hội với tinh thần tự vấn, phản biện đối thoại với tinh thần dân chủ cởi mở.
Nhà văn luôn khát khao thay đổi, vươn tới giá trị sống cao đẹp của con người,
27
luôn hướng tới sự hòa nhập với thế giới hiện đại và tinh thần dân chủ thực sự.
Chính bởi lẽ đó mà các sáng tác của ông mang tư tưởng cách tân mới mẻ, táo
bạo, nhận được nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu và sự hưởng ứng của
độc giả, đặc biệt là khán giả xem kịch của ông. 30 năm đã đi qua, những tác
phẩm của Lưu Quang Vũ vẫn đầy sức sống trên sân khấu kịch và trong lòng
người xem bởi nó vẫn còn nguyên tính thời đại, khi thể hiện tâm tư nguyện
vọng, trăn trở về cuộc sống. Xem kịch của ông, người ta vẫn thấy đâu đây
trong xã hội này những con người, những câu chuyện, tính cách, những biến
cố và cách xử lý vấn đề đang hiện hữu, cũng như giúp công chúng hôm nay
nhìn lại tầm vóc của một tác giả đã góp sức đưa nền sân khấu Việt Nam đạt
đến một đỉnh cao mà cho đến nay nhiều người vẫn còn mơ ước.
1.2.2.3. Truyện ngắn
Nói đến sự nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ, không thể không nói
đến truyện ngắn, một thể tài góp phần làm đầy đặn hơn chân dung văn học
của Lưu Quang Vũ đồng thời cho thấy một khía cạnh khác của tài năng sáng
tạo nơi ông.
Các tập truyện ngắn tiêu biểu của Lưu Quang Vũ gồm : Người kép
đóng hổ, Mùa hè đang đến, Một vùng mặt trận, sau này là tuyển tập 15
truyện ngắn Lưu Quang Vũ và tuyển tập những bài khắc họa chân dung các
nghệ sĩ sân khấu tập hợp trong cuốn Diễn viên và sân khấu đều được giới
chuyên môn và độc giả thời kỳ đó yêu thích và đánh giá khá cao.
Văn xuôi Lưu Quang Vũ là “cầu nối giữa thơ và kịch”. Văn xuôi của
ông trước hết mang màu sắc trữ tình, thuộc loại hình văn xuôi trữ tình. Các
truyện ngắn của ông thường viết về đời sống xung quanh, về những dằn vặt,
hạnh phúc, những khoảnh khắc đáng nhớ của một đời người, những trăn trở,
hồi ức, kỷ niệm, những sự vỡ lẽ, nhận thức,… nhiều khi với người khác chỉ là
nhỏ nhặt. Đó là tiếng nói của những người thường gặp, không to tát, không
28
lên gân, ai cũng có thể tìm thấy chút riêng của mình trong đó. Cái làm nên sự
sâu sắc, sức sống, tính thời đại trong truyện ngắn Lưu Quang Vũ cũng như
được phát huy một cách triệt để và mang lại nhiều thành công cho kịch của
ông trong giai đoạn sau chính là chất triết lý, chiêm nghiệm. Các câu chuyện
không đao to búa lớn, không có cốt truyện quá gay cấn, xung đột quá căng
thẳng mà đi vào hiện thực bình thường của cuộc sống đời thường, nhẹ nhàng
đan xen giữa hiện thực và chất thơ, uyển chuyển, tinh tế trong khả năng diễn
đạt một cách sâu sắc thế giới nội tâm của con người, dẫn dắt người ta bị cuốn
hút, say sưa trong đó. Bên cạnh loại truyện ngắn mang đậm cảm xúc trữ tình,
Lưu Quang Vũ còn có thêm các kiểu truyện khác: truyện về tính cách và số
phận ẩn chứa nhiều suy tư và triết lý. Các vấn đề của hiện thực, của xã hội và
đời sống được thể hiện thông qua tâm trạng và cảm xúc chủ quan trở nên dễ
đi vào lòng người và nhận được sự đồng cảm.
Với những chất liệu của đời sống thường ngày, Lưu Quang Vũ đã tìm
ra những điều có ý nghĩa trong truyện ngắn của mình. Sau mỗi câu chuyện
người đọc tìm thấy một niềm tin, một thoáng cười vui, một chút ngậm ngùi xa
xót, một sự quý trọng nâng niu từng chút tốt đẹp trong cuộc đời, trong mỗi
con người, làm giàu có và phong phú thêm cho đời sống tâm hồn mình, rồi ra
nó sẽ trở thành chất liệu kịch bản của Lưu Quang Vũ sau này.
Hơn hai mươi năm trôi qua, đọc lại truyện ngắn Lưu Quang Vũ, càng
đọc càng thấy được sự chín tới của một phong cách sớm ổn định, thiên về trữ
tình. Truyện ngắn Lưu Quang Vũ đi từ tài hoa của thời Hương cây (Thị trấn
ven sông, Một chuyện sớm mùa thu...) đến một chỉnh thể truyện ngắn đa tầng
nghĩa (Anh Thình, Anh Y, Mùa hè đang đến...). Là người không chỉ “mê thơ”
mà còn “mê truyện ngắn”, hai thể loại này đã chi phối cảm hứng sáng tạo và
bút pháp thể hiện của Lưu Quang Vũ. Khi “không thể nói hết được bằng thơ,
Lưu Quang Vũ đã viết truyện ngắn”. Với hai tập truyện ngắn Người kép đóng
29
hổ, Mùa hè đang đến, và sau này là Tuyển tập 15 truyện ngắn, Lưu Quang Vũ
đã chứng tỏ tài năng và bản lĩnh sáng tạo không chỉ ở truyện ngắn mà ở các
lĩnh vực khác như kịch bản văn học, chân dung diễn viên và thơ. Trong cảm
quan nghệ thuật của Lưu Quang Vũ, các thể loại này đã xâm thực và bồi đắp
nên một Lưu Quang Vũ đa tài, là chủ sở hữu một gia tài văn chương đã đi vào
đời sống tinh thần của dân tộc với những tác phẩm còn mãi với thời gian.
Tiểu kết
Có thể nhận thấy, giao thoa thể loại là sự thâm nhập, tác động, ảnh
hưởng lẫn nhau giữa hai hay nhiều thể loại của một hoặc nhiều hệ thống thể
loại khác nhau nhằm tạo nên sự vận động và phát triển của cấu trúc thể loại
văn học. Hiện tượng giao thoa thể loại giữa thơ và văn xuôi hiện nay đã và
đang đặt ra nhiều vấn đề mới trong lĩnh vực nghiên cứu và phê bình văn học.
Trong truyện ngắn của Lưu Quang Vũ cũng đã diễn ra một cuộc xâm lăng của
thơ ca vào văn xuôi, khiến cho các truyện ngắn của ông mang những nét trữ
tình gần với thơ, trở thành phong cách độc đáo mà không hề trùng lặp với các
tác giả khác.
30
CHƯƠNG 2
SỰ GIAO THOA GIỮA THƠ VÀ VĂN XUÔI TRONG TRUYỆN
NGẮN LƯU QUANG VŨ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
2.1. Từ những cảm xúc đậm chất thơ
Truyện ngắn của Lưu Quang Vũ về cơ bản vẫn mang những đặc điểm
của một tác phẩm tự sự nhưng lại bao gồm những đoạn mang tính chất trữ
tình, những suy nghĩ nội tâm giàu giá trị biểu cảm. Trên nền móng cấu trúc
của tác phẩm tự sự, người kể chuyện không phải ẩn náu hoặc khách quan hoá
vai trò của mình mà đã cùng hiện diện để dành tối ưu cho khả năng tự biểu
hiện và bộc lộ cảm xúc trữ tình. Truyện ngắn Lưu Quang Vũ do vậy có ưu thế
biểu cảm hơn là miêu tả, nặng về biểu hiện chủ quan hơn là tái tạo khách
quan. Với tư duy nghệ thuật thiên về miêu tả chất thơ của hiện thực và con
người, có thể nói chất thơ là nhân tố quan trọng tạo nên cảm quan nghệ thuật,
cá tính nghệ sĩ và hiệu quả thẩm mỹ trong truyện ngắn của Lưu Quang Vũ.
Trung thành với hồn thơ của mình, Lưu Quang Vũ tránh xa những cốt truyện
gay cấn, những xung đột căng thẳng, đã từ chối việc kiên nhẫn lần theo sự
hình thành các tính cách tuần tự, lớp lang mà thiên về nắm bắt những khoảnh
khắc đáng nhớ của đời người: một cuộc gặp gỡ bất ngờ, một tình huống ngẫu
nhiên, một sự vỡ lẽ, thức nhận, một trải nghiệm cay đắng, những dằng xé nội
tâm, những trăn trở, lựa chọn, những hồi ức và kỷ niệm gợi thức những hoài
vọng, những nối tiếc về quá khứ, những khát vọng sống thật nhân bản và có
ích cho hiện tại và mai sau. Chính từ những điều thoáng qua, tưởng không
đâu vào đâu đã âm thầm hiện hình, mỗi lúc một sắc nét, gợi nên những ám
ảnh, giăng mắc với người đọc.
Sự dung nạp tố chất thi ca vào truyện ngắn biểu hiện trước hết sự pha
trộn giữa yếu tố hiện thực và cảm xúc trữ tình. Xúc cảm trữ tình đan cài trong
cách nhìn hiện thực đã đem lại cho truyện ngắn những trang viết giàu chất
31
thơ. Trong truyện ngắn của Lưu Quang Vũ, phân lượng và mức độ cảm xúc trữ
tình được thể hiện một cách tập trung, rõ nét tạo thành một lối cảm, lối nhìn
đời. Thơ không chỉ gắn liền với cái đẹp, gắn với những rung động, cảm xúc mà
thơ còn chính là cuộc sống, là tấm lòng ưu ái, ấm áp, sự cảm thông. Ở trong
những truyện ngắn của mình, Lưu Quang Vũ đã có những khám phá, phát hiện
ra cái nên thơ cuả cuộc sống thường nhật khuất lấp, tiềm tàng bên trong tâm
hồn con người nhỏ bé, bình dị tạo thành một lối tiếp cảm trìu mến trước cuộc
đời. Đó không phải sự tô vẽ hiện thực mà chính là cái đẹp của cuộc sống được
chắt lọc, nâng niu qua tấm lòng của tác giả. Chất thơ trong truyện ngắn của Lưu
Quang Vũ được biểu hiện rõ rệt ở những phương diện sau:
2.1.1. Con người sống trong hồi ức và kỷ niệm
Tiếp điểm của sự giao thoa, hòa trộn giữa thơ và văn xuôi trong truyện
ngắn của Lưu Quang Vũ là sự hồi tưởng của con người trong hồi ức và kỷ
niệm đã qua. Trong bài viết Văn xuôi Lưu Quang Vũ – cầu nối giữa thơ và
kịch, Phong Lê đã nhận xét : Có thể tìm thấy dễ dàng trong văn xuôi của Vũ
lúc này sự tiếp tục của “Hương cây”. “Hương cây” man mác tình quê hương,
tình người. Ai trong chúng ta mà chẳng có những kỷ niệm về quê hương. Tôi
có một quê hương mà tôi rất yêu, nhưng đọc Vũ, tôi thấy mình lây cái niềm
yêu quê hương xứ bạn – vùng đất trung du với những vườn đồi tĩnh lặng,
bóng râm của cây trái mùa hè, tiếng gầu khua thành tiếng buổi trưa, từng
đám mây ngổn ngang trên bầu trời vào hạ…” [28]
Trong truyện Hoa xuyến chi tác giả Lưu Quang Vũ đã mang đến cho
người đọc câu chuyện về chàng thanh niên Hân với những mối tình tuổi trẻ
của mình. Nhân vật thường nhớ lại những hồi ức, kỉ niệm bên Lán với những
tình cảm, rung động đầu đời thật trong trẻo, nhẹ nhàng nơi thôn quê bình dị. :
“Đó là một ngày cuối cùng tôi ở lại Hạ Hòa. Buổi chiều, trời tạnh ráo sau
một cơn mưa lớn. Trên lưng dải đồi rộng – người ta ở đây gọi là đồi Lem –
32
chúng tôi ngồi dưới những bụi chè cao tua tủa những búp non. Lán vừa xong
buổi làm, ngồi nghỉ để gánh chè về sân hợp tác…Cạnh chỗ chúng tôi ngồi,
những bông hoa xuyến chi nở trắng, những ngọn khói đốt cỏ tranh làm nương
bốc lên sau các hẻm núi bay mờ dưới thung lũng. Tiếng mõ trâu lốc cốc vẳng
lại từ đồi cọ bên kia. Nghĩ tới ngày mai đã xa Lán, tôi thấy buồn. Tính tôi vốn
hay làm ra vẻ “phớt đời”, chẳng chú ý tới ai, nhưng giờ đây – không hiểu vì
vẻ đẹp lặng lẽ của buổi chiều, vì sắp phải từ giã một nơi mình không định mà
tới, đã được quý mến như người nhà, hay bởi vì ngày ấy tôi mới hai mươi mốt
tuổi và chưa biết sẽ làm gì trong cuộc đời – tôi bỗng cảm thấy cần phải nói
với Lán một điều gì… Cổ tôi như nghẹn lại, tôi vừa mới thốt được một lời : “
Lán…” Như nhận ra vẻ khác thường của tôi. Lán bỗng ngẩng đầu lên, đôi
mắt cô như to ra, mờ đi vì sợ hãi… Lán vội quay đi, đầu cúi xuống, cái gáy
trắng trẻo với những sợi tóc lòa xòa của Lán đỏ ửng lên. Tôi nắm lấy bàn tay
nhỏ nhắn của Lán, một bàn tay ấm nóng dính đầy nhựa cây, nhựa trám, nhựa
của những búp chè non vừa hái… Qủa thật, chưa bao giờ tôi mạnh dạn đến
thế, tuy tôi thuộc loại nhanh mồm, nhanh miệng và không kém thói ba hoa.
Tôi cũng chưa yêu ai bao giờ, ngoài một hai mối cảm tình bâng quơ với cô
bạn cùng lớp hoặc cô gái trong tổ dệt thảm len ở trước cửa nhà tôi…”
[15;tr.196]. Thứ tình cảm non nớt đầu đời tưởng chừng dễ quên, dễ phai mờ
khi Hân gặp Yến “ Yến là một cô gái rất đẹp, một vẻ đẹp trẻ trung, tươi mát,
quyến rũ lạ lùng : mái tóc cắt ngắn, những món tóc ở hai bên má hơi uốn
cong ra phía trước, ôm lấy gương mặt rực rỡ. Dáng người Yến dong dỏng,
mềm mại, đôi mắt lúc nào cũng như đang ngạc nhiên. Cái cổ cao vươn lên
tựa như một đài hoa khiến gương mặt luôn ngước về phía trước với vẻ thách
thức khó tả, cái miệng xinh đẹp luôn mỉm cười, môi dưới hơi bĩu ra, vừa thơ
ngây vừa kiêu kì… Yến ăn mặc theo mốt mới nhất, chiếc áo mỏng thêu hoa và
chiếc quần âu được may thật khéo, tuy hơi đỏm dáng, sặc sỡ nhưng vẫn rất
duyên dáng…Tôi sững người như bị ngợp đi trước cô gái” [18; tr.207] nhưng
33
những choáng ngợp về một cô gái hiện đại, sống phóng túng đã dần mất đi,
thay vào đó là những mâu thuẫn nảy sinh khi hai người sống chung với nhau
và “ những chuyện vặt vãnh khó chịu ấy xảy ra thường xuyên làm cả hai đều
bực tức” . Những lúc chán nản với cuộc sống thực tại thì trong Hân lại dâng
trào lên những kỉ niệm, hình ảnh về Lán – cô gái trong sáng, ngây thơ ngày
nào, để rồi giờ đây anh chỉ còn dám nhớ về cô như những bông hoa xuyến chi
thanh khiết, mộc mạc “ Cũng có những lúc, buồn bã và trống trải, tôi nhớ tới
Lán, nhớ tới buổi chiều ở Hạ Hòa, đồi chè xanh, những bông hoa xuyến chi
thanh khiết... Tôi đoán Lán phải trách giận, thù ghét tôi lắm, và chắc hình
ảnh tôi đã bị xóa bỏ khỏi tâm trí Lán rồi...”. [18;tr.215]. Những kỉ niệm đã
qua dù là nhỏ nhoi nhưng nếu con người khong trân trọng nó thì đến một
ngày mọi thứ cũng sẽ vụt khỏi tầm kiểm soát và trở thành những trăn trở, day
dứt khôn nguôi khi người ta nhớ về nó. Lưu Quang Vũ là người luôn chắt
chiu cái đẹp, không chỉ là cái đẹp của hồn người mà còn là cái đẹp của truyền
thống, của quá khứ đã qua. Cuộc sống như một dòng sông luôn chảy về phía
trước. Và con người, dù rất yêu quá khứ cũng không thể giữ nó mãi bên mình.
Nhưng nếu có một trái tim nhạy cảm và một tâm hồn tinh tế, ta có thể lưu giữ
lại cho mình những ký ức đẹp của cuộc đời. “ Nhưng mai đây, thế nào cũng
có lúc tôi đến gặp Lán, không phải bây giờ mà có thể là nhiều năm nữa, khi
tôi đã có đủ nghị lực và bình tĩnh kể với Lán rằng : Tôi đã để mất Lán một
cách ngu ngốc ra sao, tôi đã sống lầm lẫn và đã phải vượt lên như thế nào để
trở thành một con người thực sự. Lúc ấy, có thể Lán sẽ tha thứ cho tôi, và nếu
không tha thứ cho tôi đi nữa, Lán cũng sẽ không phải hổ thẹn vì đã từng có
lúc yêu tôi và tin cậy ở tôi... Tôi nhìn lại những đồi cọ, đồi trẩu thân thuộc :
vẫn mùi nhựa trám, mùi khói đốt cỏ tranh, những bụi chè búp non xanh
mướt... Và những bông hoa xuyến chi...”[18,tr.231]. Với những chất liệu của
đời sống thường ngày, Lưu Quang Vũ đã tìm ra những điều có ý nghĩa trong
truyện ngắn của mình. Sau mỗi câu chuyện người đọc tìm thấy một niềm tin,
34
một thoáng cười vui, một chút ngậm ngùi xa xót, một sự quý trọng nâng niu
từng chút tốt đẹp trong cuộc đời, trong mỗi con người, làm giàu có và phong
phú thêm cho đời sống tâm hồn mình, rồi ra nó sẽ trở thành chất liệu kịch bản
của Lưu Quang Vũ sau này. “Tôi vẫn nghĩ tới Lán, không phải thường xuyên
nhưng vẫn nhớ, như nhớ tới một niềm vui lặng lẽ, một dòng suối trong mát
lấp lánh đang chờ đợi ở nơi xa…” ( 18;tr.205) Là một nhân vật yêu cái đẹp,
luôn đi tìm cái đẹp nhưng khác với những nhà văn lãng mạn đương thời tìm
kiếm cái đẹp trong cõi mộng thần tiên, Lưu Quang Vũ tìm về những cái đẹp
của đời thường, của những tâm hồn bình dị, mộc mạc mà tinh tế. Ông như
một nghệ sĩ tâm huyết mải miết đi tìm những hạt ngọc đẹp đang lẩn khuất đâu
đây giữa cõi đời thường.
Bằng giọng văn nhẹ nhàng, Lưu Quang Vũ đã đánh thức miền ký ức
của mỗi người, đánh thức những xúc cảm thầm kín nhất, sâu xa nhất về những
kỷ niệm yêu dấu đã qua trong tâm hồn mỗi người. Có một điều khiến cho Lưu
Quang Vũ khác với các nhà văn khác: Ông để cho nhân vật của mình thức
tỉnh một cách rất hồn nhiên. Truyện ngắn Lưu Quang Vũ giàu chất thơ vì vậy
chỉ thủ thỉ nhẹ nhàng mà không gân guốc, triết lý xa xôi.
Hay trong truyện Mười hai ngày của đời tôi là một chuỗi những hồi ức
được nhân vật chính kể lại gắn với “ 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không ở
Hà Nội năm 1972”, gắn với những con người dũng cảm đã hi sinh trong bom
đạn. “ Người ta bảo thời gian sẽ xóa mờ, sẽ làm nguôi đi tất cả, nhưng sao tôi
không nguôi quên ? Dù đó chỉ là ít ngày ngắn ngủi so với bao ngày tháng đã
qua và sẽ đến, chỉ là mười hai ngày trong rất nhiều những năm tháng của đời
tôi…” [17;tr.32] “ Người ta bảo thời gian sẽ làm nguôi quên mọi vết thương,
sao tôi không thể nguôi quên ? Mười hai năm đã trôi qua, tôi vẫn làm việc ở
bệnh viện ấy, vẫn sống trong ngôi nhà ấy. Bà cụ Việt cùng vợ chòng anh con
giai từ lâu đã dọn đến một căn hộ rộng rãi ở khu nhà lắp ghép. Tới ở căn
35
buồng của họ - căn buồng xưa Thanh đã ở - là một cặp vợ chồng trẻ làm ở
đài truyền hình. Ông họa sĩ Lãm đã già yếu hơn, ông vẫn say mê với công
việc, với những bức tranh của mình…”[17;tr.47]. Và khi con người ta đã
từng trải qua chiến tranh, trải qua ranh giới giữa sự sống và cái chết, trải qua
những nỗi đau khi tận mặt chứng kiến những người thân yêu ra đi mãi mãi thì
những kí ức, kỉ niệm vẫn luôn còn mãi, luôn chảy trong tâm trí. Họ nhớ đến
nhau, nhớ những đến năm tháng vào sinh ra tử cùng nhau và những cái chết
sẽ trở thành bất tử, trở thành nguồn động lực để truyền lửa cho những người
đang sống – sống một cuộc đời thật có ích cho hôm nay và mai sau.
Ở truyện Những người bạn kể về tình bạn của bốn người bạn cũ : “
Một ông cấp tá đánh đông dẹp bắc, một ông giám đốc chỉ huy hàng ngàn
người, chú Đàm nhạc sĩ có tiếng trong nước, ông Qúy nhà mình chẳng gì
cũng là một phó giáo sư có bao học trò ở trường đại học nọ đại học kia. Vậy
mà gặp nhau là mừng quýnh, tâm sự, đùa cợt, trêu chọc nhau, sôi nổi hồn
nhiên như trẻ con, như hồi bốn ông 17, 18 tuổi, cùng hoạt động tự vệ thành,
rồi người trốn nhà, người thì giấu mẹ, rủ nhau ghi tên lên tàu Nam tiến…”
[17, tr.186]. Chính những hồi ức, kỉ niệm về những trận chiến, những ngày
gian khổ rong ruổi trên khắp các chiến trường miền Nam đã gắn bó bốn con
người với nhau. Họ nhớ về đồng đội, về những mảnh đất đã đi qua, nhớ về cả
những lúc đói khổ nhất,… để biết được rằng cuộc sống hiện tại được sống,
được làm việc thật đáng quý và đáng tự hào biết bao. Qua lời kể của ông
thượng tá Dân, những người trẻ tuổi như Hạnh, như Tâm như được quay trở
về những ngày tháng đất nước còn chiến tranh “ Thượng tá Dân ôn lại những
kỉ niệm ngày vỡ mặt trận Buôn Mê Thuột, mấy anh em lạc đơn vị đi trong
rừng nhịn đói cả tuần. Có hôm gặp một nương bắp ven bìa rừng, tìm mãi
không thấy bóng người dân nào ở quanh. Định hái vài bắp ăn cho đỡ đói, lại
36
sợ vi phạm vào điều “ không được lấy cái kim sợi chỉ của dân” nên lại
thôi…”
Ông thượng tá thở dài:
- Chóng thật, chóng thật ! Ba tư, ba nhăm năm rồi ! Hồi ấy trong mấy
thằng tôi là đứa thư sinh, ngờ nghệch nhất, lần đầu nghe súng nổ còn sợ tái
cả mặt, ai ngờ rồi mình lại là người suốt đời gắn bó với nghiệp quân sự. “
Thiện chiến” nhất đơn vị hồi đó, biết cả “ bốc – xơ” lẫn “ diu – đô” là ông
Chính đây cơ !” [17, tr.187] . Qua những hồi ức, kỉ niệm của những người
bạn đã cùng nhau vào sinh ra tử khi đất nước còn chiến tranh, ta càng thêm
trân quý hơn những khoảnh khắc đã đi qua của đất nước, thời đại. Bởi có
những hi sinh, những gian khổ đó thì mới có những ngày yên bình như hôm
nay và những ngày mai sau.
Có thể nói truyện của Lưu Quang Vũ đến với người đọc một cách yên
ả, không ồn ào, nó mang vẻ đẹp mong manh, dung dị của loại “hoa xuyến
chi” - một loài hoa cúc dại đã đi vào ký ức của nhà văn, ta đã tìm thấy từ các
trang viết của ông những lời thì thầm yêu dấu và sâu sắc. Sau mỗi câu
chuyện, người đọc như thấy được sự nâng niu, trân trọng những khoảnh khắc
đã qua trong mỗi cuộc đời mỗi con người và chính những điều đó làm cho
tâm hồn con người phong phú và sâu sắc hơn.
2.1.2. Con người giàu trải nghiệm và tâm trạng
Nói đến chất trữ tình trong truyện ngắn Lưu Quang Vũ không có nghĩa
là nói đến sự áp đảo, sự lấn át của trữ tình hay là sự trữ tình hoá phương thức
tự sự mà ở đây là nói đến sự hoà trộn, đan xen giữa chất thực và chất thơ, giữa
bút pháp hiện thực và lãng mạn làm cho truyện ngắn của ông trở nên uyển
chuyển, tinh tế có khả năng diễn đạt một cách sâu sắc thế giới nội tâm của con
người. Chất thực đi vào truyện ngắn Lưu Quang Vũ không có cái xô bồ, sôi
37
sục mà nó như một hiện thực được chuyển hoá, biến thái, được lắng lọc qua
những sắc thái nội cảm của người viết. Những vấn đề của lịch sử, xã hội được
nhìn nhận qua tâm hồn con người và qua tâm hồn con người mà dòng chảy
đời sống được tái hiện, họ nhận thức được thực trạng cuộc sống đang diễn ra
và tự suy nghĩ, suy xét lại bản thân, điều chỉnh hành vi, suy nghĩ theo chiều
hướng tốt đẹp nhất.
Một đêm của giáo sư Tường câu chuyện kể về bác sĩ Tường – giám
đốc bệnh viện với những từng trải trong nghề của mình đã có không ít lần
chứng kiến “ chỉ ít giây trước khi ngừng đập vĩnh viễn, quả tim người vẫn
đập một cách thật mãnh liệt, nó đập hối hả, cuống quýt, dữ dội, người ta khó
hình dung được quả tim ấy sắp ngừng lại và sự sống tắt đi mãi mãi… Đâu là
giới hạn của sự sống ? Đâu là giới hạn của khả năng của con người ? Bệnh
tật là những thế lực ghê gớm khó cưỡng kháng nổi hay chính sự kém hiểu biết
của con người đã tự cản trở mình ? Còn cản trở và phá hoại cuộc sống thì
không phải chỉ bệnh tật, có bao nhiêu thế lực tối tăm khác : sự độc ác, sự giả
dối, dốt nát và thói ghẻ lạnh với con người…” [18,tr.80] . Chính sự trải
nghiệm trong đời, trong nghề đã cho giáo sư Tường thấy được cái quý giá của
sự sống của không chỉ một cá nhân mà của tất cả mọi người. Bởi đã là con
người, ai cũng muốn sống, muốn cống hiến, muốn tận hưởng những khoảnh
khắc tươi đẹp của cuộc đời. Nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình
trong cuộc “ đấu trí với tử thần” để giành lại sự sống cho bệnh nhân, bác sĩ
Tường luôn đau đáu trong mình những suy nghĩ phải làm sao để có thể cứu
sống được tất cả những bệnh nhân, cho họ tia hi vọng dù là nhỏ bé nhất. Và
sau mỗi lần ông phải chứng kiến sự ra đi của bệnh nhân ông đều cảm thấy day
dứt và dằn vặt và ông càng thêm quyết tâm hơn trong các dự án nghiên cứu
của mình để tìm ra phương pháp chữa bệnh tốt nhất, đồng thời đấu tranh vì
quyền lợi của những người đã bị nhiễm chất độc hóa học tại chiến trường
38
miền Nam. Và đây cũng chính là vấn đề cần được cả xã hội quan tâm cho tới
tận hôm nay.
Đến với truyện Người đưa thư, kể về Vinh – anh nhân viên đưa thư của
một vùng biên giới, Lưu Quang Vũ đã đem đến cho người đọc một hình ảnh
lý tưởng về một con người luôn hết lòng vì mọi người. Mặc dù chỉ là nhân
viên đưa thư nhưng với anh, những lá thư vô cùng quan trọng, quan trọng hơn
cả chính mạng sống của mình. Khi bọn địch ngang nhiên xé những lá thư thì
“ Vinh cảm thấy ngực mình như nghẹn lại, như tên giặc vừa xâm phạm tới cái
gì thiêng liêng nhất, đáng gìn giữ nhất của anh”[17, tr.51] . Chính lúc ấy sự
can đảm và dũng cảm của anh càng trở nên mãnh liệt hơn bao giờ hết, anh đã
nhanh trí đánh gục những tên địch để thoát khỏi tay chúng và những lá thư đã
trở thành người bạn đồng hành, truyền động lực để anh bằng mọi giá phải trở
về để giao những lá thư đến tận tay người nhận . Với tinh thần trách nhiệm
cao, cùng với tấm lòng yêu nghề của anh đã trở thành động lực để anh vượt
qua mọi khó khăn, dũng cảm đương đầu với kẻ thù. Hành động đấu tranh của
anh chính là biểu tượng chiến thắng của cái thiện trước những cái ác. Ở đây,
con người đã biết tự vượt qua nỗi sợ hãi của chính mình, để vươn đến những
điều lớn lao, khát khao cống hiến để cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn
Cái độc đáo trong thế giới nghệ thuật truyện ngắn Lưu Quang Vũ là
tiếp cận và khám phá thế giới nội tâm con người. Nhân vật truyện ngắn Lưu
Quang Vũ là con người tâm hồn với những tâm trạng, tâm tình, cảm xúc, cảm
giác. Với lối văn nhẹ nhàng, đậm chất trữ tình man mác, giàu xúc cảm, Lưu
Quang Vũ diễn tả cảm giác của con người với những cung bậc khác nhau.
Cảm giác dường như là chất liệu trọng yếu để Lưu Quang Vũ khám phá
thế giới nội tâm con người. Trước hành động không đúng, nhân vật cảm giác
mình có lỗi. Trước một nghịch cảnh, nhân vật cảm giác mình khó có thể vượt
qua. Trước sự đấu tranh giành quyền hạnh phúc, nhân vật cảm giác mình
39
không đủ can đảm… Cảm giác là cái ngưỡng không cho nhân vật vượt qua
ranh giới mong manh của cái thiện để ngã mình sang cái ác, cái xấu xa tội lỗi.
Lưu Quang Vũ cũng đã để cho nhân vật tự đấu tranh để chọn ra một lối đi
thích hợp. Và bao giờ cái thiện, cái đẹp cũng chiến thắng. Con người lại trở
về với những phẩm chất tốt đẹp của mình.
2.2. Đến cái nhìn mang khuynh cảm nhân sinh
Cái hiện thực nhà văn quan tâm bậc nhất là hiện thực tâm trạng, là lối
nghĩ, lối cảm ẩn khuất bên trong mỗi con người và nhà văn dùng nó để khám
phá thế giới.Cảm xúc tâm trạng của nhà văn bao giờ cũng xuất phát từ thế
giới hiện thực, nhưng được thể hiện một cách kín đáo, dịu dàng và tinh tế biết
bao. Cuộc sống phong phú và đa dạng sẽ phải có những khoảnh khắc buồn,
những thoáng vui, những phút giây cảm động và tiếc nuối về một cái gì đó, về
một ai đó. Những xúc cảm thầm kín, những khoảnh khắc đẹp ấy luôn lẩn
khuất trong tâm hồn con người mà không phải ai cũng thấy, cũng cảm nhận
được. Khi con người từng trải, va vấp với cuộc sống họ sẽ nhìn đời với những
trải nghiệm, chiêm nghiệm bản thân đúc rút ra được. Cái nhìn mang khuynh
cảm nhân sinh cũng vì thế mà mang đậm chất trữ tình, nén chặt trong đó là
cảm xúc và suy tư về cuộc đời và con người.
Có thể thấy ở trong thơ cũng như ở truyện ngắn, Lưu Quang Vũ đã bộc
lộ sự nhạy cảm bản năng gần như một thứ trực giác, một tố chất có tính bẩm
sinh của phẩm chất nghệ sĩ đã giúp ông viết thành công ở cả hai khuynh
hướng hiện thực và lãng mạn. Sự kết hợp hài hoà này tạo nên một thứ văn
xuôi thực mà ảo, rõ ràng mà mơ hồ, không chịu yên phận ở một khuôn khổ đã
định sẵn. Nhưng điều đáng nói ở đây là ngay trong cấu trúc nội tại của từng
truyện đều có sự pha trộn giữa chất thực và chất thơ. Yếu tố hiện thực trong
truyện ngắn Lưu Quang Vũ là sự thể hiện các vấn đề xã hội, đời sống thông
qua tâm trạng, cảm xúc chủ quan. Chính điều này đã tạo độ sâu cho việc nắm
40
bắt và chiếm lĩnh đời sống không sa vào miêu tả và phản ánh ở bề nổi, ở bên
ngoài.
Trong truyện Anh Y, Lưu Quang Vũ đã mang đến cho người đọc cái
nhìn về cuộc sống, thế sự, nhân sinh đã và đang tồn tại những kiểu người
mang vỏ bọc tri thức nhưng thực chất lại là kẻ vô công rồi nghề “ Gọi là hiểu
biết rộng, nhưng cái gì anh cũng chỉ biết chung chung, đại khái. Không đoán
trước được dự án mới hiệu quả sẽ ra sao, tốt hay xấu, anh sợ anh phải chịu
trách nhiệm cho nên không dám quyết định. Người ta giao việc cho anh, là để
anh đi tìm hiểu, hỏi ý kiến những người thông thạo chuyên môn, nhưng anh sĩ
diện, không dám hỏi. Anh liền gác lịa, ừ ào lần lữa hoãn binh, đợi bao giờ
anh dò hỏi thêm, hoặc anh nghĩ - như lề thói trước kia ở cơ quan tôi – để lâu
quá mù ra mưa, người ta sẽ quên những đề nghị này đi và chính chúng tôi
cũng sẽ chán chẳng hỏi đến nữa…”[18, tr.124] và chính sự tồn tại của những
người vô tích sự như anh Y sẽ khiến cho xã hội chậm tiến, ì trệ bởi phải đeo
thêm những người ăn bám mà không đóng góp chút công sức nào. Và quy
luật phát triển đi lên của thời đại sẽ “ngày càng hiếm chỗ cho những người
như anh”. Câu chuyện tuy không phê phán quá gay gắt nhưng dường như đã
gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cho một bộ phận người mang tư tưởng an
phận trong xã hội, bởi nếu không tự thay đổi, tự hoàn thiện mình thì đến một
lúc nào đó cũng sẽ bị xã hội đào thải.
Hay trong truyện Con người nhũn nhặn kể về anh Bân, một người luôn
duy trì tư tưởng “dĩ hòa vi quý ” để làm vừa lòng tất cả mọi người, trở thành
một con người nhạt nhẽo, vô vị khi chẳng bao giờ dám nói ra chính kiến, quan
điểm của bản thân mình, và việc đấu tranh với cái xấu, cái ác đối với anh là
một cái gì đó rất xa lạ. “ Anh sinh ra để đồng ý với người khác, để làm người
khác vừa lòng. Còn gì quý giá bằng ? Anh không hề mắc sai lầm vì anh thận
trọng không bao giờ làm những việc xét ra có thể có điểm sai, dù khả năng
41
sai chỉ có thể là một phần trăm, anh cũng không làm. Việc gì đông người cho
là đúng, anh ủng hộ, việc gì đông người cho là sai, dĩ nhiên anh cũng cho là
sai. Khó mà chê trách được anh về điểm này, vì anh bảo : “ cá nhân mình là
bé nhỏ, phải biết dựa theo tập thể”. Tóm lại, anh Bân như người không bao
giờ ngã trên đường, vì một lẽ rất đơn giản là anh không đi đâu, anh đứng yên
một chỗ….” [18, tr.60]. Mỗi con người chúng ta sinh ra vốn là một cá thể
riêng biệt, có tính cách, cá tính riêng và sống cuộc đời riêng nhưng ở đây anh
Bân với sự nhũn nhặn của mình đã đánh mất đi cái tôi cá nhân, trở thành kẻ
ba phải, sống vì cái nhìn của người khác. Có thể với tính cách đó, cuộc sống
của anh sẽ vô cùng yên bình, không bao giờ phải ganh đua, ghen ghét ai và
cũng chẳng ai đố kị, ghen ghét mình nhưng đó lại là cuộc sống tẻ nhạt, sống
như chỉ để tồn tại mà không có lý tưởng, không có tinh thần đấu tranh. Chính
cách sống đó gián tiếp đã tiếp tay cho những kẻ xấu như anh Đào Ty – kẻ
chuyên đơm đặt, bịa chuyện để bôi xấu, hạ bệ người khác, lộng hành và khi
trở thành nạn nhân của sự đố kị, ghen ghét của Đào Ty, anh Bân cũng không
sao chống trả nổi để tự minh oan cho mình. Chính cách sống nhũn nhặn đã
cản trở xã hội đi lên, bởi khi con người không biết vượt qua thử thách, không
tự đứng trên đôi chân của mình mà chỉ dựa vào số đông cốt lấy cho mình sự
an toàn thì cũng chỉ dậm chân tại chỗ mà thôi.
Lưu Quang Vũ mẫn cảm và nhân hậu, ông đi sâu vào thế giới nội tâm
con người, biết quan sát cái bên trong, biết đi sâu vào những bí ẩn tâm lý. Tác
giả đã hướng cái nhìn của mình vào những vùng khuất tối nhất trong thế giới
nội tâm con người: cái khoảng tối ẩn náu sự hèn hạ, yếu đuối, xấu xa đáng
loại bỏ để tìm ra những khoảng sáng thanh cao. Bởi thiếu cái đẹp, cuộc sống
trở nên tầm thường biết bao.
Ngay từ những sáng tác vào thời điểm đất nước trong buổi giao thời từ
chiến tranh sang hoà bình, ở thơ cũng như ở văn xuôi, Lưu Quang Vũ đã dự
42
cảm một sự thật, đó là thời chúng ta đang sống có vô số những điều tốt đẹp,
lớn lao nhưng cũng rất buồn ở chỗ nó vẫn đang thiếu tính nhân hậu, sự thành
thật trong từng việc lớn nhỏ, trong những bước đi của thời gian. Lúc này, cái
cần thiết hơn bao giờ hết với con người nói chung là phải biết xấu hổ. Chính
những trăn trở mang tính hướng thiện và nhân văn đó đã làm nên cốt cách
sáng tạo ở Lưu Quang Vũ và nó chỉ ra một hướng đi đúng, làm nên những
trang văn xuôi mang hơi hướng của riêng ông.
2.2.1. Con người tự ý thức về nghề nghiệp.
Từ sau 1975, văn học nói chung và văn xuôi nói riêng đang đi vào
chiều sâu của đời sống. Sống như thế nào trong mối tương quan giữa con
người và hoàn cảnh là vấn đề cần thiết, luôn đặt ra cho mỗi thế hệ. Việc xây
dựng loại hình nhân vật tự nhận thức là một cách nhà văn tự thức nhận và lý
giải vấn đề trên theo quan niệm riêng của mình. Có thể xem đây là loại nhân
vật tập trung thể hiện một tư tưởng, một ý thức tồn tại trong đời sống tinh
thần xã hội. Khác với nhân vật tính cách được chú trọng bồi đắp đầy đặn về
mặt cá tính, nhân vật tự nhận thức thường đưa ra một cách nhìn, cách hiểu,
cách đánh giá đời sống mang đậm chính kiến và suy ngẫm cá nhân. Nhân vật
tự ý thức là sản phẩm của cảm hứng nghiên cứu, của tinh thần đi sâu nghiền
ngẫm, khám phá các vấn đề đặt ra trong đời sống hiện thực và đời sống cá
nhân con người. Hay nói một cách khác, nhân vật tự nhận thức là kiểu nhân
vật tự phán xét hành động của mình, tự đối thoại, lục vấn và cảnh tỉnh chính
mình với những xung động của nội tâm trước sự dồn đẩy âm thầm mà quyết
liệt của lương tâm, của nhân cách con người. Trong các truyện ngắn của Lưu
Quang Vũ , ta dễ dàng nhận ra những nhân vật luôn tự ý thức về cuộc sống,
về nghề nghiệp ( Bạn già, Anh Thình, Một đêm của giáo sư Tường, Người kép
đóng hổ) . Đó là những truyện về những con người của nghề nghiệp: nghề
thuốc, nghề giáo, nghề báo, nghề đưa thư…. Qua các nhân vật, Lưu Quang
43
Vũ luôn thể hiện được tuyên ngôn nghệ thuật của mình : con người phải có
nghề, sống với nghề và say mê nghề. “ Con người ta phải ràng buộc với một
cái gì, phải có ích cho một ai đó chứ !”( Hoa xuyến chi). Có lẽ chính do ý
thức sâu về điều này, nên đối tượng quan sát và chỉ trích đầu tiên của Lưu
Quang Vũ là dạng người tưởng rằng có nghề nhưng lại không làm gì có ích
cho đời như anh chàng kiến trúc sư trong Mùa hè đang đến với những ý tưởng
xa rời thực tế, viển vông “ Công trình của anh là một tòa lâu đài mười bốn
tầng, với mái vòm khổng lồ bằng thủy tinh, những hàng hiên có thể tự động
xòe ra, cụp vào, những đường cầu thang xoáy ốc đâm thẳng ra khoảng không
rồi mới rẽ vào các tầng nhà. Các mặt tường, lan can đều dduyrra và các loại
hợp kim không gỉ. “Phải tạo cho những người ở trong nhà một cảm giác công
nghiệp, một cảm giác choáng ngợp của tốc độ, một ý hướng vươn lên những
tầm cao vũ trụ” [18,tr.251]. Chính sự kiêu căng, ngạo mạn của anh đã khiến
cho những người xung quanh trở nên hồ nghi bởi suy cho cùng, chúng cũng
không gắn với thực tế, với thời đại bởi “ nhiệm vụ của chúng ta là vẽ ra
những ngôi nhà cho người ta có thể xây lên được, có thể ở trong đó được, cho
hôm nay, chứ không phải cho năm mươi năm nữa”. [18, tr 253] . Hay trong
câu chuyện “ Bạn già” về bốn nhân vật gắn với bốn nghề nghiệp khác nhau “
Không hiểu sao bốn ông già tính tình, nghề nghiệp, địa vị xã hội không giống
nhau ấy lại thân với nhau? Ông Nguyễn là một họa sĩ có tên tuổi của thành
phố, ông Mạc là bác sĩ trưởng khoa của một bệnh viện lớn, mới về hưu cuối
năm ngoái, ông Châu – như ta đã biết-là thợ đóng sách, còn ông Đinh Tường
– một chiến sĩ tự vệ cũ của Liên Khu Một – nay chỉ là bác thợ giày bình
thường…” [17,tr.7]. Cả bốn người đều rất tận tụy với công việc hiện tại của
mình, coi những đóng góp của mình là những điều nhỏ nhoi khiến cho cuộc
sống trở nên tốt đẹp hơn. Họ cùng nhau trải qua những thăng trầm, buồn vui
trong cuộc sống và luôn hướng mình và những người xung quanh đến những
cách ứng xử đẹp, sống đẹp, sống đúng với bản thân mình.
44
Trong Người kép đóng hổ, Lưu Quang Vũ mang tới một câu chuyện
cảm động về một anh kép đóng vai hổ trong tích Võ Tòng – luôn ý thức cao
trong công việc mà mình được giao, anh dốc hết tâm sức, sự từng trải trong
cuộc đời mình vào vai diễn. Từng cử chỉ, động tác trong vai hổ đều được anh
kép tiếp thu, lĩnh hội với tinh thần học hỏi cao nhất trên cơ sở những cái đã có
và sáng tạo thêm những động tác mới lạ khiến cho vai diễn luôn được tác giả
đón nhận nồng nhiệt “ Suốt ngày và cho đến tận nửa đêm hôm ấy, người
khách lạ tập với anh kép đóng Võ Tòng trên căn gác sau rạp hát… Anh ta học
thuộc mọi động tác của vai hổ cũ, nhưng lại diễn theo lối của anh, những
động tác rất mới lạ, nhưng rất hay…Người khách lạ diễn theo nhịp trống đổ
dồn như thực, vừa như múa. Động tác nào cũng đẹp, cũng ghê gớm, người
xem phải nín thở hồi hộp, lo sợ, để rồi càng thấy sự tài giỏi, can đảm của Võ
Tòng. Dường như nỗi căng thẳng của ba ngày đêm ôm chặt trên cây, đối diện
với hổ, dường như kinh nghiệm của cả cuộc đời phiêu bạt, đói khổ, phải đối
chọi, giành giật với nhiều kẻ ác, người khách lạ đã dồn cả vào lớp diễn
này…” [17; tr.98,99]. Với một cuộc đời đầy rẫy những đau thương khi từng
bị bọn phường săn nhốt vào lồng làm mồi nhử cọp, từng phải chứng kiến vợ
con bị giết bởi bàn tay những kẻ xấu xa, độc ác hơn cả hùm beo, anh kép
đóng hổ luôn muốn theo đuổi vai diễn của mình bởi “ Tôi đóng hổ, không
phải tại tôi thích hổ, mà tại tôi thích Võ Tòng. Tôi thích con người áo vải tay
không mà đập chết loài beo cọp. Đời tôi nhiều uất ức, cay cực lắm. Vợ con
tôi, chúng nó giết hết cả, cái lũ người ấy còn ác hơn cả hùm beo…”. Người ta
thường nói “ sinh nghề, tử nghiệp”, có lẽ điều này đúng với nhân vật anh kép
đóng hổ, cái chết của anh trong lốt hổ khi đối mặt với quân Nhật, “ anh Hổ đã
bị giết chết trong vai diễn của mình… Người ta nhấc đầu anh ra khỏi đầu hổ
thật, máu anh đầm đìa cả da hổ. Chân tay anh co quắp lại, không thể nào cởi
bộ lốt da hổ ra khỏi mình anh, trừ khi cắt nát lốt da hổ ra. Gánh hát đành
45
phải đặt anh vào quan tài nguyên như vậy. Lốt hổ của vai diễn trở thành vải
liệm của anh”[17,tr.102]
Đối với Lưu Quang Vũ , nghề văn gắn với cuộc đời ông như một điều
tất yếu . Chính vì vậy khi viết về nghề văn, viết về những con người trong
nghề văn ông luôn dành những sự từng trải của mình để gửi vào tác phẩm.
Trong Trang viết cuối cùng, kể về câu chuyện giữa nhà báo Bùi Nguyên và
Đắc-một nhà văn trẻ. Họ cùng nhau chia sẻ những câu chuyện về nghề nghiệp
“ Viết lách là một cái nghề, như mọi cái nghề trong xã hội. Người ta cần cái
gì, anh đưa ra cho người ta cái đó. Người ta thích dép, anh đóng dép, người
ta thích guốc, anh đóng guốc…Thế thôi ! Thế nào gọi là nghề văn ? Âý là khi
ta sống được, kiếm tiền được bằng nó…”. Và đến khi cả hai nhân vật nhận ra
ý nghĩa thực sự của nghề viết văn họ đã trải lòng mình nhiều hơn “ Anh ạ, dẫu
sao tôi vẫn tin vào ý nghĩa thiêng liêng vốn có của văn học. Đối với tôi văn
học không phải để phô phang tài năng hay thu góp những chữ lạ… Tôi hiểu
rằng: tự biểu hiện mình hay thể hiện cuộc sống, những lời nói ngọt ngào thơ
mộng hay nói những sự thật khắc nghiệt, cái đó chưa quan trọng, quan trọng
hơn cả là những trang viết của mình có giúp được cho con người sống tốt hơn
không, có góp phần cải biến đời sống để nó ngày một trở nên đáng sống hơn
không?” [18;tr. 230]
Viết về những nhân vật ý thức về nghề nghiệp, Lưu Quang Vũ gửi gắm
đến bạn đọc thông điệp về nghề nghiệp trong cuộc sống rằng bất cứ ai, làm
nghề gì và ở đâu đều cần phải thật sự yêu nghề, tâm huyết với nghề, lao động
thật sự để làm cho cuộc sống có ích hơn và sống một đời đáng sống.
2.2.2. Con người tự nhận thức, tự vấn
Trên những trang viết của mình, Lưu Quang Vũ luôn lặng lẽ âm thầm
phản ánh đời sống hết sức khốn khó của con người với cái nhìn đôn hậu và
đầy thương cảm. Ông đã tạo ra những trang văn đẹp giản dị nhưng vô cùng
46
nhân đạo. Những con người dù bị chà đạp vẫn cố gắng vươn tới vẻ đẹp thanh
cao, những con người dù khốn khó vẫn tự đấu tranh để vươn tới cái đẹp trong
cuộc sống. Mỗi người một hoàn cảnh, một cuộc sống riêng nhưng họ đều có
chung tâm trạng dày vò, buồn rầu và lòng khát khao vươn tới một cuộc sống
tốt đẹp hơn, cao quý hơn. Trong mỗi câu chuyện, nhân vật luôn là người tự
nhận thức được cuộc sống của mình, tự biết cố gắng để cho cuộc sống tốt đẹp
và ý nghĩa hơn.
Truyện ngắn Lưu Quang Vũ vì thế là truyện ngắn hướng nội, nó thường
được triển khai từ điểm nhìn của nhân vật, gắn với kiểu loại nhân vật tự nhận
thức, tự vấn. Đó là những nhân vật giàu trải nghiệm và đầy tâm trạng. Nhân
vật Oanh, một nữ bác sĩ trong Tiếng hát đã từng hạnh phúc với người chồng
của mình, là một kỹ sư có vị trí nhất định trong xã hội. Những tưởng ngày vui
và tình yêu sẽ theo chị đến cùng. Hàng ngày chồng chị luôn săn sóc, chăm lo
cho cuộc sống đôi lứa của hai người và Oanh sẽ cứ yên lòng với tổ ấm của
mình nếu như không phát hiện ra chồng có quan hệ với một cô gái khác. Chị
cảm thấy quanh mình tất cả bỗng sụp đổ. Và từ đây, giữa chị và anh đã xuất
hiện một khoảng trống không dễ lấp đầy. Mặc dù chồng Oanh đã xin chị tha
thứ, thú nhận đã lừa dối chị nhưng quan hệ đó theo anh chỉ là cơn mưa bóng
mây, chỉ là nhất thời, với anh, chị vẫn là tất cả. Thế nhưng lòng tự ái trong chị
vẫn lớn hơn lòng vị tha, chị đã không cho anh có cơ hội làm lành. Chị đã sống
những ngày buồn bã, cô quạnh trong căn phòng đã từng là tổ ấm của mình.
Và trong những ngày không anh, chị đã tự đối thoại với cái tôi của mình:
“Chỉ yêu nhau thôi không đủ. Người ta không thể chỉ đi tới nhau. Bởi nếu như
vậy, khi tới được nhau rồi, sẽ là chấm hết. Người ta phải cùng đi tới một cái
gì khác, một cái gì đẹp, một cái gì lạ, một cái gì hữu ích. Người ta chỉ có thể
yêu nhau, có ích cho nhau khi người ta cùng có ích cho người khác”[ 18;
tr.179]. Tự trong sâu thẳm lòng mình, Oanh cũng tự cảm thấy mình có lỗi.
47
Chị đã quá yên lòng về sự có mặt của anh trong căn phòng của mình mà
không biết anh có thật thoả mãn với công việc, với cuộc sống phẳng lặng mỗi
ngày hay thực ra “anh vẫn đơn độc ngay cả khi ở bên chị”
Với Hà Vân (Đứa con), một sinh linh bị bỏ rơi ngay từ khi lọt lòng,
được Diệp, một cô gái trẻ không nỡ để đứa bé không cha không mẹ đã đem về
nuôi. Diệp lấy chồng. Hà Vân được coi như đứa con đầu lòng của họ. Sau đó
Diệp sinh hạ thêm một con gái và một con trai. Chúng sống với nhau như chị
em ruột. Không khí đầm ấm, yên vui của gia đình họ cứ thế trôi qua cho đến
năm Hà Vân tròn 15 tuổi, được dự lớp bồi dưỡng học sinh giỏi của tỉnh. Cô
giáo ở Bộ về dạy rất có thiện cảm với tư chất và tính nết của Hà Vân. Rồi do
một sự ngẫu nhiên, cô giáo dạy văn đã biết đến những bí mật về gốc tích của
Hà Vân. Nhưng chuyện sẽ đơn giản hơn nếu chồng của cô giáo không phải là
cha ruột của Hà Vân. Khi cha đẻ của Hà Vân thấu tỏ ngọn nguồn thì người
phụ nữ sinh ra đứa bé cũng biết tin giọt máu mình bỏ rơi năm nào đã được vợ
chồng Diệp nuôi nấng khôn lớn. Và ở đây, câu chuyện trở nên phức tạp khi
mẹ đẻ của Hà Vân lấy chồng, một người đàn ông giàu có nhưng cả hai lại
không thể có con được nữa. Như vậy là sự hiện diện của Hà Vân khuấy động
cuộc sống của 6 người lớn, đặc biệt với chồng của cô giáo, với vợ của một
thương nhân và với vợ chồng Diệp. Đứa con là truyện ngắn khá tiêu biểu cho
cái nhìn của nhân vật tự vấn, tự thú. Điểm nhìn này phơi mở các trạng thái
tâm lý, soi rọi vào những ngóc ngách của thế giới nội tâm, khiến lời tự thú của
nhân vật mang vẻ thành thật, cảm động. Bao năm qua, lương tâm người bố đẻ
của Hà Vân “cứ dằn vặt không yên” dù đã có gia đình vợ con yên ổn, còn mẹ
đẻ của Hà Vân dù đã có một đời sống sung sướng bên người chồng giàu có
vẫn không nguôi ngoai ân hận đã chối bỏ đứa con của mình. Tất cả đều đã
phải trả giá cho những lầm lỡ của tuổi trẻ. Ở đây, điểm nhìn của nhân vật tôi,
nhập vai người kể chuyện đã tựa vào điểm nhìn nhân vật, tạo ra sự hoà nhập
48
giữa người kể chuyện với nhân vật, qua lời nói thể hiện sự tự nhận thức sau
những trải nghiệm của nhân vật cô giáo: “... Khi chúng tôi đã chung sống với
nhau, quá khứ của người này, những đúng sai vui buồn của người này cũng là
của người kia. Và tôi cũng nghĩ: con người ta không ai sinh ra đã hoàn thiện,
có thể hôm qua người ta có những yếu đuối, bạc nhược, vô trách nhiệm, hôm
nay muốn được sửa chữa lại, hôm qua chưa là mình, hôm nay mới là mình,
hoàn chỉnh, đúng đắn hơn... Tại sao lại không thể làm điều đó? Tại sao đã sai
một lần là cứ phải sai mãi, suốt đời không được cứu vãn, sửa chữa lại”[18,
tr.155]. Có thể nói, quan niệm của nhân vật trong truyện Đứa con cũng chính
là quan niệm nghệ thuật về con người của Lưu Quang Vũ. Ngay từ ngày đó,
một trong những nhân vật bình thường nhất trong Những người bạn đã đối
diện với chính mình, thành thật với chính mình trong những lời tự thú mang
tính dự cảm: “Luật lệ thì mơ hồ, có thể giải thích theo nhiều cách, ắt người ta
phải áp dụng theo cách nào có lợi cho mình nhất. Miếng ăn trước miệng ngon
quá, dễ dàng quá, có thể lờ đi một lần, nghị lực với mình được một lần, mười
lần, nhưng đến lần thứ mười một... không thể lúc nào cũng là ông thánh, nhất
là tôi”... “Các anh đòi hỏi người ta phải là những bậc anh hùng. Có thể anh
hùng năm năm, mười năm nhưng mấy ai anh hùng được suốt đời?”[18,
tr.195] .
Làm điều tốt là một truyện mang tinh thần phản biện. Làm điều tốt dễ
hay khó? Lòng tốt thực sự phải như thế nào? Môi trường và mỗi thành viên
trong xã hội có ủng hộ, khích lệ người làm điều tốt hay không? Đây là một
truyện ngắn mang ý nghĩa đạo đức, nhân sinh sâu sắc, thể hiện bản lĩnh thâm
trầm của người viết. Trong cuộc đời, có lẽ đây là vấn đề luôn ám ảnh Lưu
Quang Vũ, và ông đã thể hiện nó không chỉ trong truyện mà trong kịch bản
văn học của mình. Ở một số truyện của Lưu Quang Vũ: Làm điều tốt, Chuyện
về anh người ta nhận ra hơi hướng của Nam Cao, nhà văn hiện thực tâm lý
49
xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Ở Làm điều tốt, Lưu Quang Vũ tỏ ra
am hiểu tâm lý người đời, làm việc tốt không phải dễ. Người ta nghi ngờ cả
những người làm điều tốt. Và lý do không làm điều tốt là phải đổ trách nhiệm
cho người khác, để đỡ phải gánh “hậu hoạ” do làm việc tốt “gây” nên. Vợ
chồng Thao trong Làm điều tốt đã đưa người thiếu phụ mới sinh nở từ tỉnh lẻ
về nhà nghỉ tạm để tìm người nhận đứa bé còn đỏ hỏn của chị làm con nuôi.
Nhưng anh chị mới chỉ kịp cho người thiếu phụ bất hạnh đó ăn nghỉ tại nhà
mình mấy tiếng đồng hồ đã bị người ngoài nhìn vào với nhiều ngờ vực, thậm
chí còn khuyên anh chị không nên cưu mang hai mẹ con người thiếu phụ.
Trước sự khuyên can của mọi người, vợ chồng Thao đã phải nghĩ lại việc
muốn giúp đỡ hai mẹ con người lạ và tìm mọi lý lẽ “mời” họ ra khỏi nhà mình
để người thiếu phụ tự xoay xở lấy tình cảnh của mình. Sau khi hai mẹ con bồng
bế nhau ra đường giữa buổi tối mưa gió, Thao cảm thấy ân hận, rồi: “bỗng thấy
giận và khinh mình vô cùng, mà nỡ xử sự như vậy? Làm điều tốt, nhưng không
có gan làm đến cùng! Xưa nay mình vẫn thế, rốt cuộc chỉ là môt kẻ dở dương,
một người tốt trong an toàn, một người tốt nửa vời...”[18; tr. 180]
2.3. Thiên nhiên đầy chất thơ
Thiên nhiên chiếm một vị trí đáng kể trong các truyện ngắn của Lưu
Quang Vũ. Bút pháp trữ tình của anh đã tìm đến với thiên nhiên như một đối
tượng thẩm mỹ, thể hiện sự hòa điệu giữa con người với thiên nhiên, giữa tình và
cảnh, giữa nội tâm và ngoại giới nhằm tăng cường sức truyền cảm nghệ thuật.
Ta bắt gặp những cảnh dòng sông, những cảnh sinh hoạt nơi thị trấn
nghèo, những tàu vét cát hoạt động ngày đêm trong Thị trấn ven sông. Những
vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây đã ăn sâu trong tâm thức của những người dân
sinh sống nơi thị trấn nhỏ.
“Những cây cọ lớn lên lá xòe ra xanh tốt, dây lạc tiên có quả vàng bò
khắp vườn, những bụi nguyệt quang thấp bé lá tròn, hoa trắng, mọc um tùm
50
lẫn với cỏ dại rậm rịt… Sau lưng thị trấn là những đồi cọ, đồi chè, những
nương sắn, nương dứa và những cây sở mảnh khảnh thân trắng… Những
cánh đồng trồng dưa xanh rì cả hai bên đường vào thị trấn..” [17; tr.6].
Lưu Quang Vũ, nhà văn của cái đẹp bình dị mà thanh cao. Văn chương
của ông luôn có sự hài hoà giữa thiên nhiên và tâm trạng, giữa cảnh và tình.
Bằng lối ngôn ngữ miêu tả giàu xúc cảm và hình tượng, Lưu Quang Vũ đưa
người đọc trở về với những miền quê êm đềm, yên ả của nông thôn Việt Nam.
Trong câu chuyện Hoa xuyến chi , thứ hoa cỏ đồng nội giản dị , mộc mạc
nhưng cũng rất đỗi thanh cao gắn với Lán- cô gái thôn quê chân chất đã lặp đi
lặp lại đến ám ảnh, day dứt trong tâm trí của nhân vật tôi mỗi khi nhớ lại.
“Tại sao Lán lại gọi những bông hoa đó là hoa xuyến chi? Đến bây giờ tôi
cũng không hiểu tên gọi đó có nghĩa gì không? Thật ra, đó chỉ là những bông
cúc dại. Ở vùng Lán, chúng nở trắng xoá dưới chân núi, ven sườn đồi. So với
những bông cúc dại, hoa xuyến chi nhỏ hơn, cánh hoa mỏng, thân cao và
mảnh dẻ. Lán bảo loài hoa ở núi thường vậy. Hoa xuyến chi nở rộ vào cuối
thu, qua mùa đông, cho tới tận đầu xuân... Lần đầu tiên tới cái thôn nhỏ dưới
chân núi Buộm, ven bờ sông Thao - nơi Lán ở - tôi phải ngạc nghiên vì màu
trắng giản dị mà tinh khiết của loài hoa ấy...
Quê tôi ở cách quê Lán chừng bốn mươi cây số, tuy cũng nằm cạnh
sông Thao những đã là vùng đồng bằng, một thị tấn nhỏ bé nhưng khá đông
đúc, trên bến dưới thuyền..” [18,tr.192].
Trong khung cảnh ấy, tâm hồn con người trở nên trong sáng hơn, thuần
khiết hơn, đẹp đẽ hơn. Lời văn mượt mà, giàu chất hoạ, chất nhạc đã diễn tả
một cách hình tượng cảnh thiên nhiên cùng với những tinh tế của tâm hồn con
người. Những bông hoa nhỏ bé mỏng manh nơi vùng quê yên bình chính là
chứng nhân cho những tình cảm, những rung động đầu đời của hai người trẻ
tuổi trước khi hai người rơi vào guồng quay hối hả của cuộc sống “ Đó là
51
ngày cuối cùng tôi ở lại Hạ Hoà. Buổi chiều, trời tạnh ráo sau một cơn mưa
lớn. Trên lưng dải đồi rộng - người ở đây gọi là đồi Lem - chúng tôi ngồi
dưới những bụi chè cao tua tủa những búp non. Lán vừa xong buổi làm, ngồi
nghỉ để gánh chè về sân hợp tác... Cạnh chỗ chúng tôi ngồi, những bông hoa
xuyến chi nở trắng, những ngọn khói đốt cỏ tranh làm nương bốc lên sau các
hẻm núi bay mờ dưới thung lũng. Tiếng mõ trâu lốc cốc vẳng lại từ đồi cọ bên
kia. Nghĩ tới ngày mai đã xa Lán, tôi thấy buồn. Tính tôi vốn hay làm ra vẻ
“phớt đời”, chẳng chú ý tới ai, những giờ đây - không hiểu vì vẻ đẹp lặng lẽ
của buổi chiều, vì sắp phải từ giã một nơi mình không định mà đã tới, đã
được quí mến như người nhà, hay bởi vì ngày ấy tôi mới hai mươi mốt tuổi và
chưa biết ẽ làm gì trong cuộc đời - tôi bỗng cảm thấy cần phải nói với Lán
một điều gì... Cổ tôi như nghẹn lại, tôi vừa thốt được một lời: “Lán” Như
nhận ra vẻ khác thường của tôi. Lán bỗng ngẩng lên, đôi mắt như to ra, mờ đi
vì sợ hãi... Lán vội quay mặt đi, đầu cúi xuống, cái gáy trắng trẻo với những
sợi tóc lòa xòa của Lán đỏ ửng lên. Tôi nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của Lán,
một bàn tay ấm nóng dính đầy nhựa cây, nhựa trám nhựa của những búp chè
non vừa hái..” [18, tr.196].
Khi Lưu Quang Vũ viết về thiên nhiên ta còn có thể thấy sự tương hợp,
hô ứng giữa con người và thiên nhiên. Ông thường lấy thiên nhiên đặt trong
một bối cảnh tâm lý thích, hòa đồng với những sắc thái tình cảm và tâm trạng
nhân vật; miêu tả các biến thái của tâm hồn, các phản ứng tâm lý, các trạng
thái tinh thần được gợi từ những sự thay đổi của thiên nhiên, ngoại giới.
Thiên nhiên nhiều khi có vai trò như một tình huống khởi thủy, như một xung
lực làm nảy sinh cảm xúc, đánh thức những ấn tượng, trải nghiệm và khơi sâu
tâm trạng hồi cố ở nhân vật. Sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người được
cảm nhận tinh tế bằng giác quan khiến cho cảm giác trở nên chân thực hơn
bao giờ hết. Trong nhiều truyện ngắn khác nhau, thiên nhiên không chỉ là môi
52
trường xung quanh mà còn gắn liền với sự thay đổi trong ý thức và tâm lý
nhân vật. Ở đó, có sự gắn bó nhuần nhuyễn giữa những biến đổi trong tâm
trạng, trong ý thức của nhân vật với cảnh quan bên ngoài. Nói cách khác,
thiên nhiên được nhìn, được cảm nhận theo các cung bậc, các sắc của tâm
hồn. Trong Hoa xuyến chi yếu tố thiên nhiên đã được Lưu Quang Vũ sử dụng
rất hiệu quả trong việc thể hiện tâm trạng nhân vật, ngắm thiên nhiên, cảnh
vật xưa cũ , những kí ức, kỉ niệm ùa về khiến cho nhân vật phải tự vấn lại
chính bản thân mình, chìm vào trong những mặc cảm tội lỗi vì đã bỏ lỡ những
điều đáng trân trọng trọng cuộc đời mình “Những gì đã qua đi, không thể trở
lại được nữa. Từ lâu tôi đã hiểu điều đó. Tôi không còn là gã con trai ngông
nghênh mà yếu đuối, khờ dại ngày trước. Tôi đã biết sống mạnh mẽ, vững
chãi, tôi đã có được sự quí trọng của bè bạn, đồng chí, đã tìm thấy ý nghĩa
của đời sống, niềm vui trong công việc, nhưng tôi không thể lấy lại được, - dù
chỉ một khoảng khắc - quãng thời gian đã mất đi, tôi đã không tìm lại được
Lán...
Nhưng mai đây, thế nào cũng có lúc tôi sẽ đến gặp Lán, không phải bây
giờ mà có thể là nhiều năm nữa, khi tô có đủ nghị lực và bình tĩnh để kể với
Lán rằng: Tôi đã để mất Lán một cách ngu ngốc ra sao, tôi đã sống lầm lẫn
và đã phải vượt lên như thế nào để trờ thành một con người thực sự. Lúc ấy,
có thể Lán sẽ tha thứ cho tôi, và nếu không tha thứ cho tôi đi nữa, Lán cũng
sẽ không phải hổ thẹn vì đã từng có lúc yêu tôi và tin cậy ở tôi.
Tôi nhìn lại những đồi cọ, đồi trẩu thân thuộc: vẫn mùi nhựa trám, mùi
khói đốt cỏ tranh, những bụi chè búp non xanh mướt... Và những bông hoa
xuyến chi. Bây giờ đang cuối thu, hoa xuyến chi nở trắng trên sườn đồi và
lũng núi. Những bông hoa khác, hay là vẫn nhưng bông hoa của mùa thu ấy?
Hoa xuyến chi, tình yêu đã mất của tôi, tia nắng dịu dàng lấp lánh từng chờ
đợi tôi ở nơi xa, từ biệt em...
53
Trên đường trở về, trời đã tối sẫm. Rừng cọ xào xạc hai bên đường.
Sông Thao ào ào phía trước mặt. Các bạn tôi đang chờ tôi. Vầng trăng lưỡi
liềm sáng bạc đã hiện lên trên núi Buộm. [18, tr.231]
Ở truyện Người bạn cũ, thiên nhiên cũng là một chất xúc tác để con
người nhớ về những kỉ niệm năm xưa, nơi chiến trường cũ . “ Nắng đã lên
cao. Con sông nước dâng đỏ thắm. Gió mát từ biển ùa vào. Bầu trời xanh
lồng lộng. Ngoài kia thành phố chói chang hoa phượng vỹ mùa hè. Tiếng
nhạc rộn rã trên loa truyền thanh. Lê lại nhớ một bầu trời anh từng nhìn trên
rặng núi phía tây Trường Sơn. Một bầu trời đêm vòi vọi, rộng lớn và uy
nghiêm, sao hôm vừa hiện lên, long lanh, trong vắt… Lê và Ngạc mắc võng
nằm cạnh nhau. Cả hai đều đang đói meo, đang lên cơn sốt rét, vậy mà Ngạc
vẫn ung dung bắt chân chữ ngũ, thổi chiếc kèn ác-mô-ni-ca đã sai cả nốt một
điệu nhạc vui…
Suốt buổi sáng, cho tới ngày hom ấy, tiếng kèn ác-mô-ni-ca ngộ nghĩnh
và bầu trời với ngôi sao hôm trong vắt vẫn thấp thoáng hiện lên trong tâm trí
Lê…” [18,tr.150]. Những vẻ đẹp về thiên nhiên trong lành, tươi mát cùng với
những kỉ niệm xưa cũ ùa về như một làn gió nhẹ dịu thổi vào tâm trí Lê, bởi
anh vốn là người luôn trân quý những kỉ niệm đã qua, nay gặp lại Ngạc thì sự
vui mừng như được nhân lên gấp bội. Ở đây yếu tố thiên nhiên trong truyện
đã được tác giả sử dụng rất hiệu quả trong việc cộng hưởng với tâm trạng con
người để góp phần khắc họa thêm tính cách, tâm lý của nhân vật.
Thiên nhiên trong truyện Chuyện nhỏ sớm mùa thu mang đến cho
người đọc một cảm giác thư thái, dễ chịu ngay từ đầu truyện, chính yếu tố
thiên nhiên nhẹ nhàng, đầy lãng mạn đã mở ra một thế giới nội tâm trong trẻo,
hồn nhiên của cô bé Thủy, mang trong mình một tình yêu với âm nhạc. “ Từ
làng, Thủy đi tắt qua cánh đồng để ra bến tàu điện. Sớm đầu thu mát lạnh.
Giữa những đám mây xám đục, vòm trời hiện ra như những khoảng vực xanh
54
vòi vọi. Một vài giọt mưa loáng thoáng rơi trên chiếc khăn quàng đỏ và mái
tóc xõa ngang vai của Thủy; những sợi cỏ đẫm nước lùa vào dép Thủy làm
bàn chân nhỏ bé của cô ướt lạnh. Người trong làng gánh lên phố những gánh
rau thơm, rau tía tô, những bẹ cải sớm và những bó hoa huệ trắng muốt…”
[18, tr.232]. Giữa lúc bom đạn chiến tranh đang đe dọa cuộc sống hòa bình
của con người, và sự căm giận, ý chí quyết tâm đánh đuổi quân thù của nhân
dân, đồng bào đang sục sôi thì những cá nhân nhỏ tuổi như Thủy cùng với
việc nhanh trí nối lại sợi dây liên lạc bị bom đánh đứt quả là một việc làm rất
có ý nghĩa. Và ý nghĩa hơn cả, cô đã gửi gắm tình yêu nghệ thuật vào trong
tiếng đàn của mình, át đi những khó khăn, vất vả của cuộc chiến, mang lại
những thanh âm trong trẻo cho cuộc sống thêm tươi đẹp và những người xung
quanh cũng cảm thấy sống có ý nghĩa hơn. “ Tiếng đàn bay ra vườn, vài cánh
ngọc lan êm ái rụng xuống nền đất mát rượi. Dưới đường, lũ trẻ con đang rủ
nhau thả những chiếc thuyền gấp bằng giấy trên những vũng nước mưa cạnh
các hầm trú ẩn. Ngoài Hồ Tây, người ta đung tung lưới vớt cá. Hoa mười giờ
nở đỏ quanh các lối đi ven hồ, bóng những con chim bồ câu bay qua lướt
nhanh trên các mái nhà cao thấp” [18,tr.245]. Cùng với tiếng đàn trong trẻo,
cao vút, những cánh chim bồ câu, những nhành hoa cũng chính là những biểu
tượng về sự tự do, khát khao hòa bình mà tác giả Lưu Quang Vũ gửi gắm đến
bạn đọc.
Có thể thấy, những trang viết đậm chất thơ nhất của Lưu Quang Vũ là
những trang viết tả cảnh, gợi lên những vẻ muôn màu của đất nước. Trong
truyện ngắn Lưu Quang Vũ, thiên nhiên rất giàu tính thẩm mỹ. Tâm hồn lãng
mạn đã nhìn cảnh vật với những nét thơ mộng, thiên nhiên như hòa quyện,
giao cảm sâu sắc với tâm hồn con người.
Con người luôn chan hoà với thiên nhiên, ngòi bút trữ tình tinh tế của
Lưu Quang Vũ đã miêu tả một cách tinh vi, sắc sảo sự vận động của nội tâm
55
nhân vật cùng với sự biến chuyển của thiên nhiên. Chính vì vậy, trong truyện
ngắn của Lưu Quang Vũ dường như màu sắc âm thanh, hương vị tự nhiên của
cuộc sống hoà trộn với nhau và kết hợp với tâm hồn con người tạo nên chất
thơ chất nhạc trong văn Lưu Quang Vũ.
Tiểu kết
Sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi khiến cho truyện ngắn của Lưu
Quang Vũ mang những màu sắc riêng, độc đáo. Sự giao thoa ấy được thể hiện
đa dạng trên nhiều phương diện: Trong những trang viết của Lưu Quang Vũ
là một cái Tôi trữ tình mang tâm trạng, cảm xúc của một con người nhạy cảm,
từng trải. Cái Tôi đó luôn sống và hoài niệm trong hồi ức, kỉ niệm, luôn suy
tư, trăn trở đầy tâm trạng với những thay đổi của thời đại, xã hội, với những
biến tướng làm suy thoái bản chất con người. Và sâu sắc hơn nữa là sự tự
nhận thức, tự suy nghĩ để tự thay đổi mình, điều chỉnh thái độ, suy nghĩ để
cuộc sống tốt đẹp hơn, sống có ích hơn.
56
CHƯƠNG 3
SỰ GIAO THOA GIỮA THƠ VÀ VĂN XUÔI TRONG TRUYỆN
NGẮN LƯU QUANG VŨ NHÌN TỪ NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện
3.1.1. Tính chất phi cốt truyện hóa
Mỗi tác phẩm văn học là một hiện tượng thẩm mĩ có tính chỉnh thể và
toàn vẹn. Để tạo nên tính chỉnh thể, toàn vẹn đó, kết cấu là một trong những
nhân tố quan trọng bậc nhất. Kết cấu vừa giúp nhà văn chuyển tải thông điệp
đến người đọc theo đúng ý tưởng và chiến lược của mình, vừa cho thấy trình
độ của họ trong việc triển khai và tổ chức tác phẩm. Ở một phạm vi lớn hơn,
quan sát kết cấu của một hệ thống tác phẩm trong một giai đoạn nhất định sẽ
cho ta thấy được phần nào lí tưởng thẩm mĩ, quan niệm sáng tác của nhà văn
và cả thị hiếu của độc giả thời đại đó cũng như sự vận động của các thể loại
trong lịch sử văn học.
Trong lí luận văn học, kết cấu là một trong những thuật ngữ đặc biệt
quan trọng và hấp dẫn các nhà nghiên cứu bởi nội hàm phức tạp, ngoại diên
rộng lớn và sự thể hiện cụ thể vô cùng sinh động trong thực tế sáng tác. Từ
điển văn học (bộ mới) định nghĩa: “Thuật ngữ chỉ sự sắp xếp, phân bố các
thành phần hình thức nghệ thuật - tức là sự cấu tạo tác phẩm, tùy theo nội
dung và thể tài gọi là kết cấu. Kết cấu gắn kết các yếu tố của hình thức và
phối thuộc chúng với tư tưởng” [25]. Trong Từ điển thuật ngữ văn học, kết
cấu được quan niệm là “toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác
phẩm”, thuật ngữ này được phân biệt với khái niệm bố cục, nó không chỉ là
bố cục tác phẩm, mà còn bao gồm cả sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến
trúc nội dung cụ thể của tác phẩm.
57
Hầu hết các công trình nghiên cứu hiện đại đều khẳng định vai trò quan
trọng của kết cấu trong tác phẩm văn học. Riêng đối với truyện ngắn, một thể
loại tự sự mà yêu cầu về sự ngắn gọn, hàm súc được đặc biệt đề cao, thì sự
hấp dẫn và chất lượng nghệ thuật của tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào kết
cấu. Truyện ngắn, với dung lượng nhỏ, đòi hỏi người viết phải chưng cất, dồn
nén hiện thực và bố trí, sắp xếp các thành phần, các yếu tố thuộc về chất liệu
vừa khoa học vừa có tính nghệ thuật cao nhất.
Có thể khẳng định sự phong phú và đa dạng về phương thức kết cấu
trong truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 với rất nhiều tìm tòi, sáng tạo, thể
nghiệm của các tác giả, ở từng tác phẩm. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy
nổi lên một số phương thức như kết cấu theo logic nhân quả (câu chuyện
được kể từ nguyên nhân đến hệ quả), bao gồm logic sự kiện và logic tâm lí;
kết cấu đa tầng bậc (tác phẩm được tạo nên bởi nhiều tầng câu chuyện khác
nhau); kết cấu lắp ghép (câu chuyện là sự lắp ghép các mảnh sự kiện, biến cố,
dòng tâm lí ở những thời điểm và không gian khác nhau); kết cấu liên hoàn
(nhiều chuyện có nội dung liên hoàn với nhau).
Với phương thức lắp ghép, trong một truyện, tác giả tái hiện những sự
kiện ở những thời điểm, những không gian khác nhau, mỗi sự kiện vừa có
tính độc lập tương đối, vừa quan hệ với nhau, bổ sung, hỗ trợ nhau để tạo nên
tính chỉnh thể, thống nhất cho tác phẩm. Giữa các đơn vị truyện đó không có
quan hệ nhân quả - với nghĩa điều được kể trước sẽ dẫn đến điều được kể sau,
giữa chúng có thể diễn ra sự ngắt quãng, đứt gãy về thời gian và sự gián cách,
dịch chuyển về không gian. Người kể chuyện (hiển hiện hoặc hàm ẩn) là
người xâu chuỗi những tình tiết, sự kiện phi tuyến tính, phi nhân quả đó, kể
lại cho độc giả theo một mạch liên kết, một dụng ý nào đó mà thường khi đọc
xong tác phẩm, người đọc mới lí giải, tổng kết được.
58
Từ điển văn học ( bộ mới) giải thích cốt truyện “là một phương diện
của lĩnh vực nghệ thuật, nó chỉ lớp biến cố của hình thức tác phẩm. Chính hệ
thống biến cố (tức cốt truyện) đã tạo ra sự vận động của nội dung cuộc sống
được miêu tả trong tác phẩm. Tính truyện (có cốt truyện) là một phẩm chất có
giá trị quan trọng của văn học, sân khấu, điện ảnh và các nghệ thuật cùng
loại. Trong các thể loại văn học, cốt truyện là thành phần quan trọng thiết
yếu của tự sự và kịch nhưng thường không có mặt trong tác phẩm trữ tình”
[25,tr.324].
Cốt truyện, theo cách hiểu truyền thống, là một hệ thống các sự kiện
phản ánh những diễn biến của cuộc sống, và nhất là các xung đột xã hội một
cách nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những
mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ tư tưởng và chủ đề tác
phẩm. Không có quan hệ nhân quả, không theo trật tự thời gian, từng mảnh
đời nhân vật bị chia cắt ra, bị phân tán vào ký ức lộn xộn, chắp nối và rời rạc
của nhân vật chính. Cốt truyện là một bức tranh lắp ghép mà các mảnh vỡ bị
đảo lộn lên, bị tung ra, lật nhào toàn bộ thứ tự, vị trí ban đầu của nó. Đến đây,
có cảm giác như văn học đã gần với các thủ pháp cắt xén, lắp ghép hình ảnh
trong điện ảnh.
Như vậy, hệ thống sự kiện là yếu tố cốt lõi của cốt truyện. Sự kiện là
những biến đổi, những sự việc có ảnh hưởng nhất định đến nhân vật, tính cách
và các mối quan hệ của chúng trong tác phẩm. Quan hệ chính giữa các sự kiện
hình thành nên cốt truyện là quan hệ nhân quả. Theo tính logic của nó, sự kiện
B ra đời là do "đã có" sự kiện A và sự có mặt hiện tại của sự kiện B là "để có"
sự kiện C nào đó. Chuỗi sự kiện cứ thế nối tiếp nhau làm nên trục vận động
chính của cốt truyện, liên kết các yếu tố rời rạc trong tác phẩm thành một quá
trình phát triển mạch lạc, hợp lý. Quan hệ nhân quả này được các nhà cấu trúc
thâu tóm lại trong một mệnh đề ngắn gọn: "sau cái này tức là do nguyên nhân
59
của cái này” (post hoc, orgo protes hoc) Như thế giả thiết đặt ra là những
biến đổi của quan hệ nhân quả trong hệ thống sự kiện như tính chặt chẽ hay
lỏng lẻo, sự tồn tại hay mất đi của nó đều có tác động đến cốt truyện.
Trong truyện ngắn của mình, Lưu Quang Vũ đã giải phóng cốt truyện
bằng cách hướng ngòi bút của mình vào đời sống tinh thần với những thăng
trầm trong cảm xúc của nhân vật, khiến cho cốt truyện mờ nhạt, giản đơn.
Có thể nói kiểu truyện phi cốt truyện là một phương tiện hữu hiệu để
nhà văn đi sâu vào thế giới bên trong của con người và phô diễn một cách
thành thực những cảm giác rất đỗi mong manh của nhân vật. Bởi vậy nhiều
truyện ngắn của Lưu Quang Vũ đẹp như một bài thơ trữ tình , đem đến cho
người đọc những rung cảm trong lành, mát dịu. Bên cạnh đó Lưu Quang Vũ
cũng không hoàn toàn chối bỏ các biến cố, sự kiện, xung đột, hành động. Nhà
văn rất chú ý đến những hành động, sự kiện khi chúng có thể trở thành những
tình huống khơi mở những trạng thái sống mơ hồ của con người. Yếu tố nghệ
thuật này đã phát huy được hiệu quả nghệ thuật trong rất nhiều truyện ngắn
của Lưu Quang Vũ.
Ở truyện ngắn Lưu Quang Vũ, chúng tôi nhận thấy hiện tượng phân rã
cốt truyện. Đây cũng là một đặc điểm của truyện ngắn đương đại, gắn liền với
quá trình yếu dần đi vai trò cốt truyện truyền thống. Nếu như trong văn học
giai đoạn 1945-1975, với lối kết cấu sự kiện đơn tuyến, cốt truyện có một vị
trí quan trọng tạo thành một cái khung cố định, sắp xếp tổ chức chuỗi sự kiện
mạch lạc và chặt chẽ thì với xu hướng kết cấu tâm lý trong văn xuôi sau 1986,
cốt truyện bị đẩy xuống hàng thứ yếu, nhường chỗ cho những dòng chảy bất
định của tâm trạng con người.
Thị trấn ven sông là câu chuyện kể về dòng kí ức của nhân vật tôi về thị
trấn – nơi anh sinh ra và lớn lên, gắn với những kỉ niệm về những con người
60
sống, làm việc và chiến đấu ở nơi đây. Những sự kiện và biến cố trong truyện
cực kì ít ỏi :
1. Ký ức về vùng đất ven sông.
2. Nhân vật tôi trở về thị trấn khi hay tin mẹ ốm.
3. Cuộc gặp gỡ với anh kiến trúc sư tên Lâm.
4. Kế hoạch và công tác chuẩn bị xây nhà cho thị trấn.
5. Cuộc gặp gỡ với cô thợ nề tên Thọ.
6. Ngôi nhà của thị trấn đã hoàn thiện và đi vào hoạt động.
7. Cuộc trò truyện với Thọ và những tình cảm, rung động đầu đời.
8. Thọ rời khỏi thị trấn.
9. Nhân vật tôi lên thành phố để học.
10. Nhân vật tôi lên đường nhập ngũ mang theo kí ức về Thọ.
11. Những ngày trở về thị trấn, nhớ về Thọ, nhớ kỉ niệm nơi đây.
12. Nhân vật tôi gặp lại Lâm.
13. Nhân vật tôi trở về thăm nhà, nhớ lại những ngày sống bên gia đình.
14. Chia tay nhân vật Lâm trở lại trận địa.
Trong số 14 sự kiện nêu trên thì có tới 4 sự kiện ( 1,10, 11,13) thuộc về
dòng kí ức, kỉ niệm. Tự sự không diễn ra theo trình tự thời gian và nhân quả
mà bị phân tán bởi những dòng kí ức xen lẫn trong tâm trí của nhân vật. Dựa
vào những chỉ dẫn được tác giả phân tán trong văn bản, dựa vào kí ức của
nhân vật, người đọc có thể xâu chuỗi để tạo dựng những thông tin cần thiết về
các nhân vật. Còn các sự việc như nhân vật tôi trở về thị trấn, gặp gỡ anh
Lâm, lên Hà Nội nhập học, lên đường nhập ngũ...đóng vai trò như một tác
61
nhân đưa nhân vật trở về miền kí ức, hoặc kích thích dòng tâm tưởng, suy
tưởng của nhân vật.
Hay ở truyện Một truyện ở biên giới, xoay quanh một ngày anh công an
Đinh Viết Thông áp giải ba phạm nhân từ trại cải tạo ra khu rừng làm việc.
Những sự kiện xoay quanh một ngày làm việc với nhiều kí ức, kỉ niệm của
mỗi nhân vật:
1. Trung sĩ công an Đinh Viết Thông áp giải ba phạm nhân đi làm việc.
2. Thông nhớ về quê, về những ngày cha mẹ bị bom Mỹ giết hại.
3. Câu chuyện về cuộc đời lão Tạ .
4. Câu chuyện về phạm nhân Mịch.
5. Câu chuyện về phạm nhân Kính.
6. Kính nhớ về những ngày mình bị bắt và cảnh tượng tại phiên tòa.
7. Kính háo hức khi chuẩn bị được trở về hòa nhập với cuộc sống.
8. Thông và ba phạm nhân đối mặt với quân Trung Quốc.
9. Thông ra lệnh cho ba phạm nhân trở về trại báo tình hình.
10. Ba phạm nhân trở lại cùng Thông chiến đấu với quân Trung Quốc.
11. Ba phạm nhân nghĩ đến cái chết, nghĩ về cuộc sống ngày ra tù.
12. Thông và ba phạm nhân hi sinh.
Ở câu chuyện này, các mảnh kí ức về cuộc đời mỗi con người đều được
tái hiện. Những sự kiện như rời rạc, không theo một tiến trình về thời gian
hay không gian nhưng vẫn giúp cho người đọc có sự xâu chuỗi về thông tin,
cuộc đời của các nhân vật. Đây chính là điểm đặc biệt và tạo sự hấp dẫn, lôi
cuốn người đọc.
62
Không chỉ có hiện tượng phân rã cốt truyện, nhiều truyện ngắn của Lưu
Quang Vũ dường như không có cốt truyện, điều làm nên sự hấp dẫn ở đây
chính là những biến động trong tâm lý nhân vật. Trong những truyện ngắn
này, ông tập trung vào những sự việc thông thường, tưởng chừng như vụn vặt,
dung dị không đáng nói, nhắc đến chỉ là cái cớ để đánh thức những cảm xúc,
suy tư đọng trong cõi lòng sâu thẳm. Truyện ngắn Một đêm của giáo sư
Tường từ việc kể về cái -chết của một bệnh nhân – một anh cán bộ giáo dục
người Quảng Nam đã khiến giáo sư Tường không khỏi trăn trở suy nghĩ về
nghề nghiệp, về sự sinh tử cũng như về những con người trong cuộc sống.
“Đã bốn mươi năm trong nghề, đã là một nhà y học có những thành tựu nổi
tiếng thế giới, đã cứu sống biết bao bệnh nhân và cũng đã nhiều lần chứng
kiến cái chết, nhưng lần nào cũng vậy, trước cái chết không tránh khỏi của
bệnh nhân, ông Tường vẫn cứ tự day dứt, dằn vặt...Không, người ta không hề
quen được với sự tàn khốc của cái chết, cũng như người ta luôn ngạc nhiên
trước sự bí ẩn của đời sống...”[17,tr.75]. Trái tim nhân ái, lòng yêu nghề, yêu
cái chính nghĩa đã khiến cho ông không thể làm ngơ trước những bệnh tình
mà bệnh nhân đang phải chịu dựng nhưng có lẽ căn bệnh nguy hiểm vô hình
đang giết chết con người khi họ đang sống đó là căn bệnh tinh thần “ Sự hoài
nghi, bất lực – đó là chứng bệnh ung thư của tinh thần. Cần phải biết vượt lên
hoàn cảnh và giới hạn của bản thân, trong y học cũng vậy, trong cuộc đời
cũng vậy. Đó thực sự là cuộc chiến đấu và không còn con đường nào khác :
muốn không thua chỉ có cách là chiến thắng” [17; tr.89]. Đây chính là sự bay
lên, sự thăng hoa trong tâm hồn con người, biết vượt lên những cái tầm
thường của cuộc sống để cống hiến và sống có ích.
Những truyện ngắn không có cốt truyện, nhẹ nhàng, giàu chất thơ cho
thấy năng lực thẩm mỹ tinh tế, biết vượt ra khỏi sự trói buộc của đề tài để làm
vang dậy tiếng nói riêng của tâm hồn nhà văn.
63
3.1.2. Tạo dựng tình huống truyện
Khi cốt truyện bị làm mờ, đẩy xuống hàng thứ yếu thì tình huống trở
thành yếu tố có vai trò quan trọng giúp truyện ngắn đứng được. Tình huống
không nhằm thúc đẩy phát triển hành động của nhân vật mà thường đóng vai
trò khơi nguồn, châm ngòi cũng như lý giải nguyên cớ, nguồn cơn của những
tâm trạng, những biến thái của tinh thần nhân vật. Nhà văn đặt nhân vật vào
những tình huống dưới dạng điều kiện xúc tác để mô tả chiều sâu của đời
sống tâm hồn, chớp lấy những khoảnh khắc lóe sáng để gợi lên những cảm
nhận mơ hồ nhưng đầy ám ảnh về con người, về cuộc đời.
Nói đến truyện ngắn là nói đến nghệ thuật tạo dựng tình huống truyện.
Ở truyện ngắn mang đậm chất trữ tình của Lưu Quang Vũ, tình huống không
nhằm thúc đẩy hành động của nhân vật mà thường có vai trò khơi nguồn,
chớp lấy những khoảnh khắc bất ngờ để tìm hiểu và lý giải những xung động
của tâm trạng và biến thái của tinh thần nhân vật. Tình huống tâm trạng hay
tình huống khơi mở tâm lý là tình huống đặc trưng nhất trong truyện ngắn
Lưu Quang Vũ. Nhân vật tôi trong Hoa xuyến chi luôn ám ảnh về những bông
cúc dại mà Lán, người con gái đầu đời của anh gọi là hoa xuyến chi. Từ ngày
đầu gặp Lán cho đến sau này, trong tâm trí nhân vật luôn hiện ra một hình ảnh
kép: Lán và hoa xuyến chi. Gia đình của nhân vật tôi và Lán vẫn thầm mong
cho anh và Lán nên duyên phận. Vậy mà có những sự tình cờ làm thay đổi cả
đời sống của con người. Nhân vật “tôi” về Hà Nội làm ở một tờ báo ngành
quen với Kim Yến - một cô gái có vẻ đẹp thị thành quyến rũ. Vẻ đẹp của Kim
Yến đã hút hồn anh và hai người nhanh chóng làm lễ cưới rồi nhanh chóng
chia tay. Sau một thời gian ngắn sống với Kim Yến, nhân vật “tôi” mới nhận
ra Lán với vẻ đẹp của loài hoa đồng nội mới chính là tình yêu đích thực của
mình. Nhân vật “tôi” dù đã biết sống mạnh mẽ và vững chãi hơn cũng “không
64
thể lấy lại được, - dù chỉ là một khoảnh khắc - quãng thời gian đã mất đi; tôi
đã không tìm lại được Lán...”
Qua lời kể của nhân vật tôi trong truyện Anh Thình, nếu không có tình
huống anh Thình xin đi dân công, tạm xa cái xóm nhỏ ở thượng nguồn con
sông Thao, dân cư thưa thớt, còn xa lạ với ánh sáng văn minh thì nhân vật tôi
và bà con xóm Vực sẽ không hình dung được thế nào là “chiếu bóng” mà anh
Thình đã được chứng kiến từ những ngày ấy. Với những hiểu biết ban đầu về
chiếu bóng cộng với tâm huyết và sự “sáng tạo” của mình, anh Thình đã “tổ
chức” một buổi chiếu bóng làm bà con trong xóm xôn xao, cái xóm Vực “dễ
chưa bao giờ có một đêm náo nhiệt đến thế”. Cái ấn tượng đầu tiên được xem
chiếu bóng, được làm quen với nghệ thuật điện ảnh “trò múa hát sau tấm vải
nhựa mà anh Thình cho chúng tôi xem” đã khiến nhân vật tôi đến với điện
ảnh, trở thành một đạo diễn sau này. Còn anh Thình, với lòng say mê nghệ
thuật năm nào đã mơ ước được ra Hà Nội, vào làm ở một đoàn văn công. Tuy
đã không thực hiện được ước mơ của mình vì hoàn cảnh và sức lực nhưng
“ngọn lửa thầm lặng từng được nhen lên và tắt đi trong lòng họ” thật đáng
được quý trọng và ghi nhớ. Ở đây Lưu Quang Vũ đã xây dựng được một nhân
vật chứa nhiều số phận, nó sinh ra không để phản ánh mà “vĩnh cửu hoá”
những gì nó gặp trên đường đi từ tác phẩm đến bạn đọc.
Trong truyện ngắn Lưu Quang Vũ, người đọc bắt gặp nhiều dạng thái
của tình huống. Có tình huống bất ngờ tạo nên bi kịch (Người kép đóng hổ),
tình huống nhân vật tự nhìn lại mình trong truyện Con anh Mậu. Anh Mậu là
một người bố luôn tự hào biết dạy con theo phương pháp mà anh dày công
tham khảo khi đón đứa con trai 9 tuổi từ quê lên sống với bố ở Hà Nội. Đứa
bé rất ngoan, lễ phép, chiều nào cũng xin phép bố đi học nhóm. Nhưng thực
ra, sau khi tan học buổi sáng trên lớp, chiều nào thằng bé cũng đến Hợp tác xã
sản xuất tăm làm việc để gửi tiền về cho mẹ và các chị ở quê đỡ vất vả. Khi
65
biết kết quả học càng ngày càng sút kém của con nhưng lại là người vót tăm
đạt năng suất cao, anh Mậu mới tự nhìn lại cách dạy dỗ con của mình. Một
nhà nghiên cứu xã hội học như anh thường quả quyết tự tin, cho mình là giàu
có về kiến thức, hiểu biết về mọi thứ trên đời lại “mù tịt, không hiểu tí gì về
đứa con lên 9 tuổi sống liền bên cạnh anh ?”. Cũng trên ý nghĩa này, tình
huống nhận thức lại chính mình và người khác, lật tẩy thói xấu tiềm ẩn trong
con người được đội lốt là những con người tốt được thể hiện rõ trong một loạt
truyện: Anh Y, Người nhũn nhặn, Chuyện về anh. Đó là nhân vật sống theo
kiểu trung tính, nhạt nhẽo, thiếu thành thật với lương tâm và với mọi người,
đứng tên công trình của người khác lâu dần tưởng là công trình của mình, đó
chính là thời khắc để cả người vợ cũng phải quay lưng lại với anh (Con người
nhũn nhặn). Còn nhân vật Y sống giả dối, khôn khéo mà vẫn giữ được sự yên
ổn, tránh mọi rắc rối mà vẫn được tiếng là người khí khái, trong sạch khiến
chung quanh ai cũng phải nể phục. Nhưng thực chất đó là người ngại va
chạm, chỉ biết sống vụ lợi ích kỷ, khi bị người khác nắm được điểm yếu của
mình thì lại chuyển đến nơi công tác mới để che đi con người thật của mình
(Anh Y).
Chuyện về anh dựng nên một kiểu người có thói quen nói xấu người
khác, luôn làm người khác thất vọng. Tâm lý con người ta khi chê người
khác, thấy mình giỏi hơn, cao hơn họ. Nhân vật người kể chuyện xưng tôi
cũng đã ám nhiễm thói tật của nhân vật, thậm chí còn phụ hoạ với những lời
chê bai của anh: “Phủ nhận thành quả của người khác, dè bỉu, cười giễu
những thất bại của họ, dường như cái thân phận mờ nhạt của mình được an
ủi rất nhiều”[18, tr.186]. Nhưng trớ trêu ở chỗ, khi nhân vật quen nói xấu,
chê bai bị bệnh nặng phải vào bệnh viện, ở tình thế này lẽ ra nhân vật tôi phải
động viên bệnh nhân tin ở các bác sĩ. Đằng này, khi vào thăm anh, nhân vật
tôi lại nói một hơi về những tiêu cực của ngành y và thầy thuốc một cách hể
66
hả như hai người đã thường nói với nhau. Và đây là lần đầu tiên, người bệnh,
bạn vong niên của nhân vật “tôi” phản ứng với những lời chê bai, vì tính mạng
anh đang nằm trong tay các thầy thuốc. Hoá ra anh cũng cần đến sự giỏi giang
và thành công của người khác: “Sự thành công ấy giờ liên quan đến chính
mạng sống quý báu của anh. Anh như người ngã xuống sông đang tha thiết bấu
víu lấy cái phao người ta ném xuống cứu mình, vậy mà tôi định giằng lấy của
anh, anh không tức giận sao được?”[18,tr.191]. Có thể nói các nhân vật sống
theo kiểu “nhũn nhặn” kể trên vẫn đang hiện diện trong cuộc sống hôm nay,
điều ấy cho thấy ý nghĩa thời sự của truyện ngắn Lưu Quang Vũ. Và có thể
phải nói đến tính dự báo của truyện ngắn Lưu Quang Vũ trong Mùa hè đang
đến. Một chàng kiến trúc sư sống theo kiểu “nghệ sĩ”, không nghĩ đến hiện tại,
chăm lo cho hiện tại mà chỉ hướng về tương lai một cách viển vông, phi thực
tế. Với hơi hướng luận đề, Lưu Quang Vũ đã nhấn mạnh ý nghĩa: “Một người
chẳng làm được điều gì hữu ích cho chính những người thân ở cạnh mình, cụ
thể là vợ mình, thì cũng chẳng mong gì anh ta làm được điều hữu ích cho
những người khác”...“Nếu chẳng có ích cho bây giờ cũng chẳng có ích cho
mai sau, chẳng có ích cho bao giờ hết”[18; tr.269].
Những đoạn kết trong truyện ngắn Lưu Quang Vũ là những kết thúc
mở, thường có dấu ba chấm thể hiện một sự tiếp diễn, chưa hoàn kết, còn nói
được rất nhiều điều, mở ra cho người đọc cơ hội liên tưởng và đồng sáng tạo.
Và đây là một kiểu kết thúc đầy gợi thức và đa nghĩa: “Những cơn mưa giông
đầu tiên đã ì ầm tiếng sấm ở phía xa. Tiếng sấm còn như ngập ngừng, rụt rè
nhưng đã đủ báo cho người ta biết mùa hạ đang tới, mùa hạ nồng nhiệt, mạnh
mẽ, nghiêm khắc và không nhân nhượng...”. [18,tr.275]
3.2. Nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật
3.2.1. Những khắc khoải nội tâm
Nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật là một phương diện trong nghệ
67
thuật xây dựng nhân vật của nhà văn, gắn liền với miêu tả ngoại hình và
miêu tả hành động của nhân vật. Điều đó cũng có nghĩa là tính tất yếu trong
hành động thường liên quan chặt chẽ với tính tất yếu trong hành động nội tâm
của nhân vật. Ở đây khái niệm “nội tâm” chỉ toàn bộ cuộc sống bên trong của
nhân vật. Đó là những tâm trạng, suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác, những phản ứng
tâm lý của bản thân nhân vật trước cảnh ngộ, tình huống mà nhân vật chứng
kiến hoặc thể nghiệm trên bước đường đời của mình. Nhà văn có thể trực tiếp
biểu hiện nội tâm của nhân vật bằng ngôn ngữ của chính mình với tư cách
người kể chuyện. Nhưng biện pháp mà nhà văn hay dùng nhất là biểu hiện
“độc thoại nội tâm” và “đối thoại nội tâm” của nhân vật. Những đoạn này được
thể hiện bằng chính ngôn ngữ của nhân vật, chúng “vang lên” một cách thầm
lặng trong tâm tư của nhân vật. Nhân vật tự biểu hiện, phơi bày những diễn
biến trong tâm trạng của mình qua những suy nghĩ, cảm xúc cụ thể.
Trong truyện ngắn Tiếng hát cuộc sống tinh thần của nhân vật Oanh
được khắc họa với những biến động tâm lý. Nhân vật thường tự nghĩ, tự trả
lời, tự huyễn hoặc mình khi bị chồng – người mà chị hết mực tin tưởng phản
bội và đang có chuyện tình cảm với một người phụ nữ khác. Ở người phụ nữ
bề ngoài cứng rắn, dứt khoát và cương quyết như Oanh lại là một tâm hồn dễ
bị tổn thương. Khi cô biết chồng cô đã phản bội mình thì bao nhiêu điều tốt
đẹp về anh cũng theo đó mà sụp đổ, vỡ vụn “ Nếu như rồi đây chị có thể tha
thứ cho anh, chị cũng không thể nào quên được những gì đã xảy ra. Làm sao
chị có thể sống với anh như cũ ? Chị cảm thấy quanh mình tất cả bỗng đổ
sụp, từ mai, chị sẽ sống ra sao ?” [17,tr.162]. Nhưng trái tim người phụ nữ
lại luôn đi ngược lại những lời nói mà họ thốt ra. Trong lúc chỉ có một mình,
muốn đi xem ca nhạc để giải tỏa những suy nghĩ tiêu cực bủa vây thì chị chỉ
nghĩ đến chồng chị, nghĩ đến cuộc sống phía trước sẽ ra sao “ Oanh thấy
mình đang đi trên con đường ấy… Đi một mình, không có anh… Và Oanh
68
chợt nghĩ : Lúc này, anh đang ở đâu ? Anh đã ngủ chưa, hay anh cũng đang
một mình, anh có nhớ gì tới Oanh không ? Cũng có thể như nhiều lần, anh
đang phát biểu trong hội nghị, những lời phát biểu mà chính anh cũng cảm
thấy chung chung, sáo rỗng, vô tích sự. Anh đứng trên bục, mắt hấp háy sau
cặp kính… Anh đấy, anh mà chị đã coi là tất cả cuộc đời chị...Chị ngồi xuống
ghế, lặng lẽ khóc… Chị yêu anh nhưng giờ đây chị đã hiểu : chỉ yêu nhau thôi
không đủ. Người ta không thể chỉ đi tới nhau – bởi nếu như vậy, khi tới được
nhau rồi, sẽ là chấm hết – Người ta phải cùng đi tới một cái gì khác, một cái
gì đẹp, một cái gì lạ, một cái gì hữu ích… Người ta chỉ có thể yêu nhau, có
ích cho nhau khi người ta cùng có ích cho người khác…”[17;tr.177,178].
Trong những khắc khoải nội tâm của Oanh, ta có thể nhận thấy đây là một
người phụ nữ luôn muốn hướng mình và những người xung quanh đến những
điều tốt đẹp, cô không chấp nhận sống một cuộc sống an phận hay sống theo
sự sắp đặt mà bất cứ ở đâu, ở hoàn cảnh nào mỗi người đều cần phải tự thay
đổi bản thân mình. Những diễn biến tâm lý của nhân vật, những lời tự nhận
thức cũng chính là những tiếng nói, những tuyên ngôn sống mà tác giả muốn
gửi đến người đọc.
3.2.2. Những dằn vặt, tự vấn
Trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của tác giả Lưu Quang Vũ,
bên cạnh nghệ thuật miêu tả những khắc khoải nội tâm, ông còn tập trung vào
những dằn vặt, tự vấn bên trong mỗi cá nhân. Bởi khi con người ta biết tự dằn
vặt, tự vấn lại mình đó chính là lúc họ sống chân thật nhất, lương thiện nhất.
Ở truyện ngắn Hoa xuyến chi khi nhân vật Hân có những lựa chọn sai lầm khi
quyết định chung sống với Yến mà bỏ quên đi những tình cảm tốt đẹp dành
cho Lán đã khiến anh dằn vặt mình mỗi khi nhớ đến Lán và tự thấy mặc cảm
xấu hổ. Tác giả đã để cho nhân vật tự hiểu ra rằng trên đời này “ dù chỉ là một
khoảnh khắc – quãng thời gian đã mất đi, tôi đã không tìm được lại Lán...” ,
69
đó như một tiếng thở dài được nén chặt trong lòng bởi khi đã trải qua những
thăng trầm của cuộc sống có những thứ con người mãi mãi không thể lấy lại
được dù nó có đang hiển hiện ngay trước mắt.
Hay trong truyện “ Làm điều tốt” , khi hai vợ chồng Thao muốn giúp
đỡ một sản phụ mới sinh có một chỗ để nương tựa nhưng khi chính những dư
luận xã hội, những lời đàm tiếu đã khiến họ không dám vượt qua để làm
người tốt đúng nghĩa. Những thay đổi trong tâm lý của nhân vật từ chỗ hoang
mang, lo sợ sẽ mang tiếng, mang vạ vào thân như lời của các vị quân sư khu
phố “ Ngộ nhỡ sau này cô ấy hoặc gia đình cô ấy lại tìm đến nhà cậu, cứ nhè
vợ chồng cậu mà bắt đền, bắt cậu phải đi đòi lại đứa bé... Cậu sẽ buộc phải
nghe theo và sẽ bị cái người đã nhận nuôi đứa bé họ oán trách... Thế là cậu
làm ơn mà mang oán... Cậu thử suy tính xem, còn có thể xảy ra nhiều sự
phiền phức nữa. Gỉa dụ như: cô ta đang tìm chỗ để cho con, thấy gia đình cậu
đối xử tốt quá, là chỗ tử tế quá, thế là nửa đêm nay, cô ta lẻn dậy trốn đi, bỏ
đứa con lại cho vợ chồng cậu, tin chắc đã gửi được con vào chỗ yên ấm, cậu
tính sao...”[18,tr.174] đã khiến Thao dần bị tác động và không dám chắc vào
việc mình làm có đúng hay không “ Thao ngẩn người ngồi nghe. Mới đầu hơi
ngớ ra rồi bắt đầu hoang mang, sau thì đâm hoảng thật sự. Ừ, sao mình
không lường trước những sự việc đó nhỉ? Chẳng lẽ thế? Nhưng có thể lắm
chứ! Nếu đến thế thì gay thật!”. Tấm lòng lương thiện, thương người bỗng
nhiên trở thành mối lo, và hai vợ chồng Thao quyết định nói ra cái ý “rất tiếc,
nhưng không thể mời cô nghỉ lại nhà được” dù trong thâm tâm họ, đó là một
sự vô lương tâm. “Anh tự trách mình bỗng dưng dấn thân vào một tình thế
khiến mình phải dối trá, nhất là phải dối trá với cô gái chỉ đáng tuổi em út
mình, đang bơ vơ khốn khó”[18,tr.177] . Đến khi hai mẹ con cô Thìn rời đi ra
nơi ga tàu trời mưa lạnh lẽo, hai vợ chồng Thao càng thấy day dứt hơn với
hành động của mình bởi suy cho cùng giúp người trong lúc khó khăn hoạn
70
nạn mới là việc nên làm và khiến cho con người ta có thể thoải mái về tư
tưởng hơn bao giờ hết. Đọc văn của Lưu Quang Vũ ta như thấy chính mình ở
trong đó, bởi bất kì ai trong cuộc sống cũng đã có ít nhất một lần không dám
nói, không dám hành động vì sợ tiếng xấu, nỗi sợ ấy như khoảng cách vô hình
ngăn giữa cái thiện và cái ác mà ít ai dám vượt qua. Cũng như Thao, có lẽ đến
sau này thì hình ảnh mẹ con cô Thìn ra đi, bơ vơ trong đêm mưa gió sẽ mãi
ám ảnh, dằn vặt trong tâm trí anh “ Đêm ấy, trời mưa to, sấm chớp ì ầm. Thao
nằm trằn trọc không ngủ được. Bên cạnh, chị vợ thức trở mình luôn. Không
nói ra, nhưng cả hai vẫn bị ám ảnh không yên về chuyện cô Thìn. Thao nghĩ :
Thế là làm điều tốt khó khăn thật! Vợ chồng anh đưa cô Thìn về nhà, là xuất
phát từ lòng tốt, muốn làm một việc tốt, nhưng rồi sau đó, chính vợ chồng anh
lại phải tìm cách đẩy cô ấy và đứa trẻ mới sinh ra đường, giữa buổi tối mưa
gió, chỉ vì sợ hậu quả của việc tốt mình làm, sợ những rắc rối, những lời dị
nghị đơm đặt cay nghiệt của người xung quanh... Thao bỗng thấy giận và
khinh mình vô cùng, mà nỡ xử sự như vậy! Làm điều tốt, nhưng không có gan
làm đến cùng! Xưa nay mình vẫn thế, rốt cuộc chỉ là một kẻ dở ương, một
người tốt trong an toàn, một người tốt nửa vời...” [18, tr.180].
Có thể nói để đạt được sự thành công trong miêu tả tâm lý nhân vật.
Nhà văn phải thực sự nhập thân vào nhân vật, phải sống cùng nhân vật của
mình, đồng cảm với từng niềm vui, nỗi buồn của nhân vật. Có như vậy người
sáng tạo mới có thể thể hiện hết những cung bậc của trạng thái cảm xúc,
những thay đổi của diễn biến tâm lý phức tạp. Đó chính là điều mà một nhân
vật cần đạt tới. Ở trong các tác phẩm truyện ngắn của mình, tác giả Lưu
Quang Vũ đã khắc họa tâm lý nhân vật dựa trên những khắc khoải nội tâm để
từ đó nhân vật hiện lên với những nét chân thực và gần gũi nhất.
71
3.3. Giọng điệu
“Giọng điệu”(tiếng Anh: tone) là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng,
đạo đức của nhà văn với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy
định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần,
thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm,…”. “Giọng điệu là
một yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả trong tác phẩm.Nếu như trong đời
sống, ta thường chỉ nghe giọng nói nhận ra con người thì trong văn học, giọng
điệu giúp chúng ta nhận ra tác giả”. Người đọc có thể nhận thấy tất cả chiều
sâu tư tưởng thái độ, vị thế, phong cách, tài năng cũng như sở trường ngôn
ngữ, cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ thông qua giọng điệu. Nền tảng
của giọng điệu là cảm hứng chủ đạo của nhà văn.
Theo Nguyễn Đăng Điệp“Giọng điệu văn chương là một hiện tượng
nghệ thuật mang tính cá nhân cao độ…bên cạnh giọng điệu cá nhân còn có
giọng điệu thời đại… một mặt, giọng điệu cá nhân chịu sự quy định, sự ảnh
hưởng của giọng điệu thời đại, mặt khác, giọng điệu cá nhân nhất là những
cá nhân tài năng, góp phần làm phong phú, thậm chí làm thay đổi cấu trúc
giọng điệu thời đại” [21]. Giọng điệu tác phẩm có vai trò rất lớn trong việc
tạo dựng kết cấu cũng như trong tiếp nhận văn học. Trong tiếp nhận, cảm thụ
văn học, ngoài những yếu tố nhãn tự, thần cú, cấu trúc … có thể hấp dẫn
người đọc thì giọng điệu cũng có khả năng tác động lớn đến độc giả.
Truyện ngắn bản chất là kể, nên giọng điệu của nó cũng là giọng kể,
trần thuật. Trong khi đó, thơ là tiếng nói của cảm xúc, giọng điệu của thơ đặc
trưng bởi tính trữ tình. Là một nhà thơ sáng tác truyện ngắn, giọng điệu những
tác phẩm truyện ngắn của Lưu Quang Vũ cũng ít nhiều có sự giao thoa với
thơ ca, hình thành nên những đặc trưng riêng và độc đáo so với các tác giả
sáng tác truyện ngắn cùng thời.
72
3.3.1 .Giọng trữ tình tha thiết
Văn chương là nghệ thuật của ngôn từ và mỗi nhà văn lớn đều là những
nghệ sĩ bậc thầy về tiếng nói. Khác với ngôn ngữ không có tính nghệ thuật,
chỉ nhằm mục đích chủ yếu là thông tin, truyền đạt một điều gì đó chính xác,
nội dung được giới hạn chặt chẽ. Ngôn ngữ nghệ thuật bao giờ cũng tìm cách
truyền các quan điểm của nghệ sĩ vào đối tượng được miêu tả, truyền vào đấy
một lối nhìn sự vật, cách nhận thức và cảm quan về thế giới của nhà văn, nói
cách khác là ngôn ngữ mang dấu ấn của cá tính . Xuất hiện trên văn đàn cùng
thời với rất nhiều nhà văn khác, Lưu Quang Vũ mang một dấu ấn rất riêng.
Không trào lộng như Vũ Trọng Phụng, không hài hước như Nguyễn Công
Hoan, không triết lý như Nam Cao. Lưu Quang Vũ nhẹ nhàng và tinh tế.
Ngôn ngữ và giọng điệu trữ tình cũng vì thế là đặc trưng cơ bản của truyện
ngắn Lưu Quang Vũ. Ông luôn đi sâu vào khám phá đời sống của nhân vật
bằng một ngòi bút rất tinh tế, rất hiểu sự đời - đó là những vẻ đẹp lẩn khuất
bên trong tâm hồn con người: tình thương, sự cảm thông, lòng vị tha giữa
người với người, giữa người với vật.
Ở truyện ngắn Anh Thình, giọng điệu trữ tình của tác giả đã được thể
hiện qua những dòng văn thể hiện sự cảm phục, sự yêu mến trước nghị lực và
đam mê điện ảnh, khát khao cống hiến của anh Thình – một người luôn thích
bay nhảy dù anh có những khiếm khuyết cơ thể không được khỏe mạnh như
người bình thường. Qua lời kể của nhân vật tôi, anh Thình không chỉ là một
người anh mà còn là người bạn lớn gắn với những kỉ niệm buồn, vui nơi quê
hương. Anh Thình chính là người mang chiếu bóng về đến xóm Vực, kể đủ
thứ chuyện giải phóng Cao Bằng, Bắc Cạn,…với giọng vui tươi hồ hởi mang
đến những câu chuyện lý thú cho người dân quang vùng. Có lẽ bởi thế mà ai
ai cũng quý mến anh, vắng anh ai cũng nhớ, cũng thương và khi anh mất đi đã
để lại sự tiếc thương, tiếc cho những dang dở mà anh chưa kịp thực hiện, tiếc
73
cho những hoài bão, ước mơ chưa có điều kiện để thành sự thật “ Hình ảnh
anh Thình cứ ám ảnh trong tôi mãi, hình ảnh một con người khao khát vươn
đến một cái gì cao hơn, đẹp hơn chính bản thân mình nhưng không được
hoàn cảnh và sức lực cho phép. Sau này tôi mới hiểu : Trong cuộc đời, còn
biết bao người không có điều kiện và khả năng thực hiện ước mơ của mình,
nhưng ai bảo ngọn lửa thầm lặng từng được nhen lên và tắt đi trong lòng họ
không đáng được quí trọng và ghi nhớ ?...”[18,tr.291]
Lưu Quang Vũ không gân guốc, không đao to búa lớn mà luôn thâm
trầm kín đáo. Và đằng sau những dòng chữ lặng lẽ ấy là bao nhiêu những dằn
vặt của sự thức tỉnh nhân cách con người. Mỗi người ai rồi cũng sẽ có tình
huống phải lựa chọn, những phút giây chống chếnh bên bờ vực của sự sa ngã
nhân cách. Nếu không sáng suốt và bản lĩnh để chiến thắng người ta sẽ ngã,
sẽ tự đánh mất mình. Truyện ngắn Lưu Quang Vũ với những lời văn nhẹ
nhàng và kín đáo, như những khúc tâm tình giúp người ta sáng suốt để lựa
chọn cho mình lối đi đẹp nhất cho cuộc đời.
Truyện ngắn Lưu Quang Vũ nhẹ nhàng, thủ thỉ nhưng có sức ám ảnh
lớn. Là lối truyện tâm tình, không có cốt truyện, toàn truyện không hề có hành
động phát triển xung đột mà chỉ toát lên một tâm trạng, một không khí nhưng
lại rất thực, rất đời. Truyện ngắn của anh như một tấm gương sáng mà ai soi
vào đó cũng thấy có mình, thấy ưu điểm, nhược điểm để hiểu mình hơn, hiểu
người hơn, để cảm thông hơn và sống đẹp hơn.
Lưu Quang Vũ là vậy đó, luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu,
hiểu lòng mình để hiểu về người khác. Ông đã đặt mình vào vị trí nhân vật để
nói lên cảm nghĩ về số phận những kiếp người nhỏ bé trong xã hội và để từ đó
toát lên sự cảm thông sâu sắc với những cảnh đời nghiệt ngã, khổ đau.
74
3.3.2. Giọng trăn trở suy tư.
Bên cạnh giọng trữ tình, tha thiết, trong truyện ngắn của Lưu Quang
Vũ, ta dễ bắt gặp giọng điệu trăn trở, suy tư. Ở bài viết “Văn xuôi Lưu Quang
Vũ – cầu nối giữa thơ và kịch”, tác giả Phong Lê đã nhận xét “ Cái hồn thơ
ấy chưa hẳn đã rời chúng ta, nhưng có thưa thoáng đi trong những năm bảy
mươi, như sau này ta đã biết rõ, đó là những năm tháng vất vả và lận đận của
đời Vũ. Từ đời lính trở lại đời thường, Vũ đã gặp bao khó khăn trong sự mưu
sinh, trong sinh hoạt gia đình và lập nghiệp. Cuối bảy mươi, Vũ viết dồn, và
đợt này không phải thơ, cũng không phải văn xuôi mang chất thơ. Chàng trai
mẫn cảm vừa rời quân phục ấy, đáng quý biết bao, lại cũng sớm tâm huyết
với những trang về sự hi sinh của nhân dân và người lính trên biên giới. Tôi
không đánh gía cao hiệu quả nghệ thuật của những truyện này, như “ Trang
viết đầu tay, Người đưa thư, Một chuyện ở biên giới...” mà đánh giá cao ý
thức chính trị ở Vũ, một ý thức hồn nhiên, nó là sản phẩm của tuổi trẻ biết tự
giác gắn với số phận cá nhân với nhân dân và đất nước. Sau nhiều lần va
vấp, đụng chạm với đời, dẫu không phải lớn, nhưng có thể làm mòn đi sự tin
yêu, thế mà Vũ vẫn có được sự trăn trở và thiết tha với những gì mình đã
thành thiêng liêng, và với cả cuộc đời rộng lớn... Rồi cùng với những trang về
biên giới, Vũ nhanh chóng trở lại đời thường với biết bao trăn trở, suy tư
trong một cảm hứng mới – cảm hứng công dân và trách nhiệm...”[28]
Ở truyện Con người nhũn nhặn, người đọc như nhận ra ngay giọng điệu
trăn trở đầy ẩn ý về cách sống, cách ứng xử đáng báo động của con người
trong từng câu văn. Bân hiện lên là một con người nhũn nhặn bởi “ Anh
không bao giờ làm mất lòng ai vì không bao giờ anh cãi lại ai, anh đồng ý với
tất cả những điều ta nói, mặc dù lúc khác có người nói ngược lại ý kiến của ta
thì anh ta cũng đồng ý luôn. Mà ta – cũng như mọi người đời, kể cả những
người bản lĩnh – thường có một thói tật, tuy không hay lắm nhưng ngẫm ra
75
cũng chính đáng, đó là ta chẳng mấy vui vẻ khi có người phản bác lại ý kiến
mình, cho mình là sai, là kém… Ta luôn thấy lòng khoan khoái thú vị khi có
một người nhiệt thành tán đồng ta, khen ngợi ta. Con người tuyệt vời đó chính
là anh Bân. Anh sinh ra để đồng ý với người khác, để làm người khác vừa
lòng…” [17,tr.59]. Cuộc sống của anh như thế tưởng chừng là yên phận
nhưng cuối cùng anh vẫn không tránh khỏi được thị phi, kiện tụng và chính sự
an phận lâu nay đã khiến anh trở nên nhạt nhẽo, vô tích sự.
Hay ở truyện Anh Y ta thấy một kiểu người luôn cho mình biết tuốt
nhưng thực chất lại là một kẻ vô tích sự, không nghề nghiệp cố định “ Sắp
cuối cuộc đời rồi, anh vẫn chẳng làm được gì, chẳng có một thành quả nào,
hầu như không có nghề ngỗng gì, trước sau anh vẫn chỉ là một người vô tích
sự ? Anh vất vả quá ! Anh lại sắp sang một cơ quan mới. Ở đó, anh định sống
thế nào? Chắc ở nơi ấy, sẽ vẫn có những người phục anh, nể anh, nhưng rồi
anh sẽ ra sao, bởi cuộc sống hôm nay sẽ càng hiếm chỗ cho những người như
anh”[18;tr.187]. Ở đây, tác giả đã nêu ra một thực trạng đang tồn tại trong xã
hội đó chính là những người chỉ mang mác học thức nhưng bên trong lại rỗng
tếch, nhạt nhẽo đến vô vị bởi họ chẳng làm cho xã hội đi lên. Câu chuyện nêu
ra có chút hài hước nhưng bên trong chính là nỗi lòng, sự trăn trở không
nguôi, những lo lắng cho những bước đi tương lai của xã hội của chính tác
giả. Ông đã không ngần ngại chỉ ra những cách sống vô vị, tầm gửi của một
lớp người thời bấy giờ và cảnh báo những căn bệnh tinh thần đang hoành
hành, sinh sôi làm cản trở bước tiến của xã hội.
Qua đây, ta có thể thấy với sự trải đời của mình, bức tranh cuộc sống
qua ngòi bút của tác gỉa Lưu Quang Vũ đã được tái hiện chân thực hơn, giọng
điệu trong câu chữ cũng theo đó mà triết lí, trăn trở nhiều hơn. Đúng như
nhận xét của tác giả Phong Lê “Cuộc sống không còn là màn sương lung linh
hấp dẫn mà đã có phần mờ đục, bảng màu không còn chỉ một màu hồng trong
76
suốt mà đã có sự đối chọi đen-trắng, tình đời đã thấy nhạt bớt đi những nỗi lo
chung mà gia tăng cái vị riêng tư… truyện của Vũ, từ đầu tám mươi này đã là
sự báo hiệu bước tiền trạm cho các vấn đề nổi lên gay gắt cho văn xuôi hôm
nay”[28]
3.4. Ngôn ngữ
Bước vào thế giới nghệ thuật là bước vào thế giới của ngôn ngữ . Ngôn
ngữ từ xưa tới nay vẫn được xem là công cụ, là chất liệu, là phương tiện biểu
hiện mang tính đặc trưng của văn học. Macxim Gorki khẳng định ngôn ngữ là
yếu tố thức nhất của văn học.Trong tác phẩm văn học, ngôn ngữ là một trong
những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của
nhà văn. Người nghệ sỹ không thể nói được điều gì nếu không có ngôn ngữ.
Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý một điều, ngôn ngữ văn học không phải là bản
sao của ngôn ngữ đời sống. Ngôn ngữ văn học là hình thái hoạt động ngôn
ngữ mang ý nghĩa thẩm mĩ và giao tiếp nghệ thuật. Do đó nó có tính thẩm mĩ
và tính hình tượng rõ rệt. Một nhà văn lớn bao giờ cũng là những bậc thầy về
ngôn ngữ. Xây dựng cho mình một hệ thống ngôn ngữ đặc trưng là ước mơ
của tất cả những người cầm bút. Bởi ngôn ngữ không chỉ là chất liệu tạo nên
tác phẩm mà nó còn là cánh cửa đầu tiên chúng ta cần mở và phải mở để bước
chân vào thế giới nghệ thuật. Như vậy, hai công việc quan trọng nhất gắn bó
với sự ra đời và trường tồn của tác phẩm là xây dựng tác phẩm và khám phá
tác phẩm đều không thể tách rời ngôn ngữ. Có lẽ vì thế mà nhiều người nói :
Văn học là loại hình nghệ thuật ngôn từ. Bất cứ một nhà văn nào cũng cần ý
thức được ngôn ngữ có vai trò quan trọng như thế nào đối với tác phẩm nghệ
thuật. Đối với thể loại truyện ngắn vấn đề lựa chọn ngôn ngữ giữ vai trò rất
quan trọng. Do những đặc trưng thể loại quy định, ngôn ngữ truyện ngắn bao
giờ cũng có tính hàm súc cao. Truyện ngắn là những truyện ngắn gọn. Vì thế
các nhà văn phải biết lựa chọn, sử dụng ngôn ngữ để qua vài trang giấy có thể
77
nói lên một điều gì đó với cuộc đời. Trên những trang viết của Lưu Quang
Vũ, ngôn ngữ được ông sử dụng có những đặc điểm chính như sau:
3.4.1. Ngôn ngữ đậm chất thơ
Nếu như giai điệu, âm thanh là ngôn ngữ của âm nhạc; màu sắc, đường
nét là ngôn ngữ của hội họa; mảng khối là ngôn ngữ của kiến trúc thì ngôn từ
chính là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học.
Nhưng không phải bất cứ ngôn ngữ nào cũng là ngôn ngữ của văn học. Chỉ
trong ngôn ngữ đời sống được trau dồi, mài dũa kỹ mới chuyển tải được một
cách nghệ thuật cuộc sống hàng ngày. Và mỗi nhà văn có phong cách đều để
lại một dấu ấn riêng về ngôn ngữ trên văn đàn. Lưu Quang Vũ đã lựa chọn
ngôn ngữ thể hiện mình bằng ngôn từ giản dị, trong sáng, mượt mà nhưng sâu
lắng, đằm thắm và thấm đượm tình người.
Trong tác phẩm của mình, Lưu Quang Vũ thường sử dụng ngôn ngữ
giàu hình ảnh như một thủ pháp nghệ thuật hiệu quả làm tăng chất thơ, chất
trữ tình . Dường như trong các tác phẩm của ông không có quá nhiều sự góp
mặt của các biến cố chính trị, xã hội thông thường mà thay vào đó là lớp ngôn
từ giàu hình ảnh khi viết về sự hồi tưởng, khơi gợi lại những kỉ niệm, kí ức
bên trong tâm hồn của mỗi con người. Ta thường bắt gặp trong các truyện
ngắn của ông những trang viết về thiên nhiên, về kỉ niệm đã qua tràn ngập
những hình ảnh đẹp, lãng mạn. Ở truyện ngắn Hoa xuyến chi yếu tố thiên
nhiên đã được Lưu Quang Vũ sử dụng rất hiệu quả trong việc thể hiện tâm
trạng nhân vật, ngắm thiên nhiên, cảnh vật xưa cũ, những kí ức, kỉ niệm ùa về
khiến cho nhân vật phải tự vấn lại chính bản thân mình, chìm vào trong những
mặc cảm tội lỗi vì đã bỏ lỡ những điều đáng trân trọng trọng cuộc đời mình
“Những gì đã qua đi, không thể trở lại được nữa. Từ lâu tôi đã hiểu điều đó.
Tôi không còn là gã con trai ngông nghênh mà yếu đuối, khờ dại ngày trước.
Tôi đã biết sống mạnh mẽ, vững chãi, tôi đã có được sự quí trọng của bè bạn,
78
đồng chí, đã tìm thấy ý nghĩa của đời sống, niềm vui trong công việc, nhưng
tôi không thể lấy lại được, - dù chỉ một khoảng khắc - quãng thời gian đã mất
đi, tôi đã không tìm lại được Lán...
Nhưng mai đây, thế nào cũng có lúc tôi sẽ đến gặp Lán, không phải bây
giờ mà có thể là nhiều năm nữa, khi tô có đủ nghị lực và bình tĩnh để kể với
Lán rằng: Tôi đã để mất Lán một cách ngu ngốc ra sao, tôi đã sống lầm lẫn
và đã phải vượt lên như thế nào để trờ thành một con người thực sự. Lúc ấy,
có thể Lán sẽ tha thứ cho tôi, và nếu không tha thứ cho tôi đi nữa, Lán cũng
sẽ không phải hổ thẹn vì đã từng có lúc yêu tôi và tin cậy ở tôi.
Tôi nhìn lại những đồi cọ, đồi trẩu thân thuộc: vẫn mùi nhựa trám, mùi
khói đốt cỏ tranh, những bụi chè búp non xanh mướt... Và những bông hoa
xuyến chi. Bây giờ đang cuối thu, hoa xuyến chi nở trắng trên sườn đồi và
lũng núi. Những bông hoa khác, hay là vẫn nhưng bông hoa của mùa thu ấy?
Hoa xuyến chi, tình yêu đã mất của tôi, tia nắng dịu dàng lấp lánh từng chờ
đợi tôi ở nơi xa, từ biệt em...
Trên đường trở về, trời đã tối sẫm. Rừng cọ xào xạc hai bên đường.
Sông Thao ào ào phía trước mặt. Các bạn tôi đang chờ tôi. Vầng trăng lưỡi
liềm sáng bạc đã hiện lên trên núi Buộm. [18, tr.231]
Trong truyện ngắn Lưu Quang Vũ, nhân vật thường sống bằng thế giới
cảm giác với những khoảng không gian, thời gian mang tính tâm trạng, khơi
mạch tâm trạng và thường tìm vào thế giới nội tâm chìm khuất bên trong của
những con người nhỏ bé, đời thường trong sự bủa vây của cuộc sống tàn úa,
mòn mỏi để lột tả những biến thái tinh vi sâu sắc của cuộc đời mà vẫn giữ
được vẻ đẹp thanh cao. “ Quang ngừng kể, đánh diêm châm lại điếu thuốc đã
tắt từ lâu… Mùi hoa dạ hương ngoài thềm phảng phất bay vào nhà. Anh mời
chúng tôi uống một tuần trà nữa. Khi chúng tôi rời nhà Quang ra về thì trời
79
đã khuya, một trận mưa nhỏ vừa tạnh, tiếng nước rơi tí tách trên những vòm
lá cao…”[18, tr.44]
Trong truyện ngắn của Lưu Quang Vũ ta luôn bắt gặp giọng điệu trữ
tình êm ái với lối ngôn ngữ biểu cảm, giàu hình tượng. Trong truyện Hoa
xuyến chi kể về nhân vật Hân với những kỉ niệm, hình ảnh về Lán – cô gái
trong sáng, ngây thơ ngày nào, để rồi giờ đây anh chỉ còn dám nhớ về cô như
những bông hoa xuyến chi thanh khiết, mộc mạc “Cũng có những lúc, buồn
bã và trống trải, tôi nhớ tới Lán, nhớ tới buổi chiều ở Hạ Hòa, đồi chè xanh,
những bông hoa xuyến chi thanh khiết... Tôi đoán Lán phải trách giận, thù
ghét tôi lắm, và chắc hình ảnh tôi đã bị xóa bỏ khỏi tâm trí Lán rồi...”.
[18;tr.215]. Những kỉ niệm đã qua dù là nhỏ nhoi nhưng nếu con người
khong trân trọng nó thì đến một ngày mọi thứ cũng sẽ vụt khỏi tầm kiểm soát
và trở thành những trăn trở, day dứt khôn nguôi khi người ta nhớ về nó. Lưu
Quang Vũ là người luôn chắt chiu cái đẹp, không chỉ là cái đẹp của hồn người
mà còn là cái đẹp của truyền thống, của quá khứ đã qua. Cuộc sống như một
dòng sông luôn chảy về phía trước. Và con người, dù rất yêu quá khứ cũng
không thể giữ nó mãi bên mình. Nhưng nếu có một trái tim nhạy cảm và một
tâm hồn tinh tế, ta có thể lưu giữ lại cho mình những ký ức đẹp của cuộc đời.
“ Nhưng mai đây, thế nào cũng có lúc tôi đến gặp Lán, không phải bây giờ
mà có thể là nhiều năm nữa, khi tôi đã có đủ nghị lực và bình tĩnh kể với Lán
rằng : Tôi đã để mất Lán một cách ngu ngốc ra sao, tôi đã sống lầm lẫn và đã
phải vượt lên như thế nào để trở thành một con người thực sự. Lúc ấy, có thể
Lán sẽ tha thứ cho tôi, và nếu không tha thứ cho tôi đi nữa, Lán cũng sẽ
không phải hổ thẹn vì đã từng có lúc yêu tôi và tin cậy ở tôi... Tôi nhìn lại
những đồi cọ, đồi trẩu thân thuộc : vẫn mùi nhựa trám, mùi khói đốt cỏ tranh,
những bụi chè búp non xanh mướt... Và những bông hoa xuyến
chi...”[18,tr.231]. Với những chất liệu của đời sống thường ngày, Lưu Quang
80
Vũ đã tìm ra những điều có ý nghĩa trong truyện ngắn của mình. Sau mỗi câu
chuyện người đọc tìm thấy một niềm tin, một thoáng cười vui, một chút ngậm
ngùi xa xót, một sự quý trọng nâng niu từng chút tốt đẹp trong cuộc đời, trong
mỗi con người, làm giàu có và phong phú thêm cho đời sống tâm hồn mình,
rồi ra nó sẽ trở thành chất liệu kịch bản của Lưu Quang Vũ sau này. “Tôi vẫn
nghĩ tới Lán, không phải thường xuyên nhưng vẫn nhớ, như nhớ tới một niềm
vui lặng lẽ, một dòng suối trong mát lấp lánh đang chờ đợi ở nơi xa…” (
18;tr.205) Là một nhân vật yêu cái đẹp, luôn đi tìm cái đẹp nhưng khác với
những nhà văn lãng mạn đương thời tìm kiếm cái đẹp trong cõi mộng thần
tiên, Lưu Quang Vũ tìm về những cái đẹp của đời thường, của những tâm hồn
bình dị, mộc mạc mà tinh tế. Ông như một nghệ sĩ tâm huyết mải miết đi tìm
những hạt ngọc đẹp đang lẩn khuất đâu đây giữa cõi đời thường.
Bằng ngôn ngữ đậm chất thơ, Lưu Quang Vũ đã đánh thức miền ký ức
của mỗi người, đánh thức những xúc cảm thầm kín nhất, sâu xa nhất về những
kỷ niệm yêu dấu đã qua trong tâm hồn mỗi người. Có một điều khiến cho Lưu
Quang Vũ khác với các nhà văn khác: Ông để cho nhân vật của mình thức
tỉnh một cách rất hồn nhiên. Hầu như chẳng phải chịu một thứ luân lý cao siêu
nào, cũng như không hề thông qua một cuộc đấu tranh tư tưởng nào. Truyện
ngắn Lưu Quang Vũ giàu chất thơ vì vậy chỉ thủ thỉ nhẹ nhàng mà không gân
guốc, triết lý xa xôi.
3.4.2. Ngôn ngữ đời thường dung dị
Lưu Quang Vũ luôn yêu thương và trân trọng đối với con người, ngôn
từ nghệ thuật trong truyện ngắn của ông cũng vì thế mà mang một hơi thở ấm
áp, có sự đồng cảm sâu sắc giữa người với người, giữa nhà văn với nhân vật.
Lưu Quang Vũ xưng hô với nhân vật rất nhẹ nhàng và thân mật, bằng cách
gọi tên. Nhân vật trong truyện ngắn của ông luôn có một cái tên rất nhẹ, vần
không hoặc vần bằng như chính con người và tình cảm trong suốt, dịu dàng,
81
mỏng manh của họ vậy : Lán, Thanh, Mai, anh Thình, anh Y, Thọ, anh Hổ,
anh Mậu, bác sĩ Tường, Ngạc, Lê,....
Phương pháp xây dựng nhân vật qua miêu tả hành động và lời nói góp
phần đáng kể vào việc thể hiện tính cách nhân vật, những hành động của nhân
vật được các tác giả miêu tả rất sinh động, lắm lúc gây cho ngừơi đọc những
cảm giác hồi hộp, thích thú. Thủ pháp xây dựng nhân vật qua miêu tả hành
động và đối thoại được ông đặc biệt chú ý. Thủ pháp này thường thấy trong
văn học cổ, thế nhưng nếu nhà văn khéo léo sử dụng thì vẫn phát huy hiệu
quả cao. Thủ pháp miêu tả hành động và lời nói sẽ bổ sung cho những thủ
pháp nghệ thuật khác để tạo nên hiệu quả nghệ thuật. Nhân vật không chỉ đơn
thuần là độc thoại mà phải hành động, phải đối thoại. Hành động làm nên
chân dung của nhân vật. Nhân vật tồn tại qua hành động. Tác giả cũng chú ý
và dụng công miêu tả nhân vật qua đối thoại. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật
trong truyện ngắn Lưu Quang Vũ cũng đậm đà chất hiện thực cuộc sống. Mật
độ ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn rất lớn khiến cho câu văn giàu nhạc
tính, diễn biến câu chuyện vận động nhanh, nhiều bất ngờ. Nhà văn đã đem
vào trong tác phẩm của mình gần như nguyên vẹn những câu nói thường
ngày, những đoạn đối thoại sinh động của nhân vật. Điều đó tạo nên những
thành công của truyện ngắn trong việc khắc hoạ chân dung nhân vật. Thế giới
nhân vật trong rất đa dạng với những kiểu đối thoại và giọng điệu khác nhau.
Nhà văn đặc biệt chú ý trong việc lựa chọn ngôn ngữ của nhân vật làm sao để
phù hợp với trình độ, thành phần xuất thân, tính cách của nhân vật. Vì thế
ngôn ngữ đối thoại đã góp phần xây dựng nhân vật cũng như cá thể hoá nhân
vật. Chẳng hạn dưới đây là đoạn hội thoại của Hiến và ông giám đốc xí
nghiệp gốm “27 tháng 7” trong truyện Mùa hè đang đến .
82
- Chào anh ! Anh là Hiến đấy hả ? – người lạ mặt cất tiếng trước –
Nếu tôi là kẻ trộm thì hôm nay anh đã mất sạch rồi : anh đi quên không khóa
cửa ! Nhưng mà nhà anh cũng chẳng có quái gì mà lấy cơ !
- Ông là ai ? Ông hỏi gì ? – Hiến nghiêm giọng.
- Tôi đến gặp anh, tôi đợi ở đây hơn một tiếng rồi.
- Xin lỗi ! Tôi chưa quen ông, trước tiên, xin ông cho biết ông là ai, ở
đâu tới ?
- Ngồi xuống đây đã, cậu em ! Rất tiếc bây giờ tôi mới được gặp cậu nhỉ.
Chả là vừa rồi tôi đi vắng ! Người đàn ông đổi sang gọi Hiến là “cậu” –
Chuyện là thế này : Tôi là bác của cô Mai. Cũng không hẳn là bác : tôi là bạn
thân của bố cô Mai, chúng tôi cùng ở đơn vị với nhau, thuở ông ấy còn sống.
Hiện giờ tôi là giám đốc xí nghiệp gốm “27 tháng 7”, nghĩa là một xí nghiệp
của thương binh...
- Ông tìm đến Mai à ? Mai đi vắng...
- Tôi biết rồi ! Từ mấy hôm nay vợ cậu ở chỗ chúng tôi. Bỏ đây đi, cô ấy
chẳng biết đi đâu và thế là cô ấy đã nhớ ra mấy ông bạn của bố cô ấy, thế mà
tôi ngỡ con bé đã quên chúng tôi rồi cơ đấy...
Hiến cau mày :
- Cô ấy ở đấy ? Ra thế ! Vậy ...vậy thì ...ông còn đến đây làm gì? Có việc gì?
- Chẳng có việc gì cả !... Thoạt đầu, khi cô bé đến, chúng tôi khuyên cô
ấy hãy trở về nhà cậu, nhưng cô ấy không chịu về... Rồi cô ấy khóc... Chúng
tôi gặng hỏi mãi cô ấy mới kể hết mọi sự, kể về cậu, về mối tình của cô ta với
cậu, về cuộc sống của hai người... Xưa nay cô ta không giấu chúng tôi một
điều gì... Chà! Mới có ít tháng sống với cậu, mà con bé trông lo lắng, tiều tụy
83
hẳn đi, trước đó vui tươi, hồn nhiên là thế! Hừm, tại sao cậu lại lỡ để con bé
khổ sở đến thế ?...”[18, tr. 270].
Qua ngôn ngữ đối thoại của hai nhân vật, với vốn từ ngữ rất đời thường
dung dị tác giả Lưu Quang Vũ đã cho người đọc cảm nhận về tính cách và
con người của từng nhân vật rất khéo léo. Chàng kĩ sư “thiên tài” tuy còn trẻ
nhưng giọng điệu luôn ngang tàng, luôn tự cao, cho rằng mình có tài thì
không coi ai ra gì và không ai có quyền can thiệp vào đời sống của anh ta. Khi
nói chuyện với người lớn tuổi nhưng hầu như anh ta không thể hiện sự tôn
trọng mà chỉ lên giọng ngạo mạn “coi trời bằng vung”. Nhưng ngược lại, ông
giám đốc xí nghiệp- một người lính bước ra từ chiến tranh, với những vốn
sống, trải nghiệm dày dặn của mình ông rất nói chuyện rất khiêm nhường.
Ông sống, suy nghĩ bằng tình thương, trách nhiệm với mọi người nên trong
ngôn ngữ đối thoại của mình, ông luôn giữ được sự bình thản và đưa ra những
lí lẽ thuyết phục người đối diện.
Trong truyện Người bạn cũ, ngôn ngữ đời thường dung dị cũng được Lưu
Quang Vũ sử dụng một cách hiệu quả trong việc thể hiện tính cách của nhân vật
Ngạc và Lê – hai người đồng đội trong một tiểu đội trinh sát năm xưa.
“- Biết đơn vị bộ đội về làm công việc canh gác kiểm soát từ mấy hôm
nay, ngờ đâu lại có cậu trong đó... Hay thật! Thế là bảy, tám năm trời rồi
nhỉ? Này, ta đi hàn huyên với nhau một lát đi, kiếm cái gì nhắp nhắp - Ngạc
nháy mắt – Phải ăn mừng việc gặp lại cậu mới được!
- Để khi khác – Lê cười – bây giờ mình đang...
- Ừ nhỉ, cậu đang công cán tuần tiễu. Oách thật! – Ngạc nhìn ngắm
khẩu súng và cái băng đỏ trên tay Lê – Thế cậu vợ con gì chưa?
- Chưa !
84
- Vẫn đơn ca à? Còn tớ thì ba nhóc rồi. Nhà tớ ở gần đây thôi, rồi tớ sẽ
kéo cậu về, bắt bà xã mở tiệc khoản đãi...
- Chị đang làm ở đâu ạ? – giọng Lê vẫn còn ríu lại vì cảm động.
- À, bán hàng lặt vặt ngoài chợ thôi... Bây giờ ai cũng phải lo vun vén
làm ăn, cuộc sống khó khăn mà... Tớ vào làm ở cảng này ba năm rồi!
- Công việc ở đây vui thật!
- Thì cũng tàm tạm. Nói chung tháo vát một chút thì cũng sống được.
Cũng khá hơn đời lính tráng các cậu...Cậu về đây thật hay quá, anh em chiến
hữu có nhau...” [18, tr.147].
Qua ngôn ngữ đối thoại của hai nhân vật, ta có thể thấy được dụng ý
nghệ thuật của Lưu Quang Vũ khi sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện để làm
nổi bật tính cách, cá tính của từng nhân vật trong truyện. Nếu như ở Lê là
cách ăn nói, ứng xử của một người hiền lành, chân thật, không vụ lợi thì ở
Ngạc lại là một tính cách hoàn toàn đối lập, luôn tỏ ra thông thạo lẽ đời, luôn
có sự tính toán trước sau và rất khéo léo trong cuộc đối thoại. Cách sử dụng
ngôn ngữ vừa giản dị, chân thực vừa phù hợp với hoàn cảnh trong truyện đã
khiến cho câu chuyện trở nên hấp dẫn và gần với thực tế cuộc sống hơn.
Ở truyện Những người bạn, qua cuộc đối thoại giữa Hạnh và Tân – hai
chị em trong cùng một gia đình, ta có thể thấy được sự khác biệt trong cách
suy nghĩ trong cùng một thế hệ, một thời đại. Ở Hạnh – một cô gái luôn chỉnh
chu trong lời nói, luôn đề cao những giá trị tốt đẹp, luôn biết kính trọng
những người lớp trên và luôn muốn hướng cậu em trai đến những điều hay lẽ
phải. Nhưng đối lập hoàn toàn lại là cậu em trai tên Tân, cậu luôn tỏ ra
nghênh ngang, coi thường những cái xưa cũ mà cậu cho là cổ lỗ. “ Thấy Tân
vẫn nằm ườn trên chiếc ghế tựa, gác cả chân lên bàn, đầu lắc lư theo điệu
nhạc ồn ào phát ra từ chiếc “cát – sét” để trên bụng, Hạnh gắt:
85
- Bảo lau bàn ghế với quét mạng nhện đi không làm! Các bác ấy tới
bây giờ đấy! Mà mày phải chải đầu, chải cổ thế nào, tóc đã dài lại để xõa
xượi như thằng ốm đói, trông không chịu được! – cô cau có nhìn cậu em đang
khệnh khạng đứng dậy- Ăn mặc thì càn quấy, điệu bộ thì nghênh ngang, khéo
các bác ấy cười cho!
Tân dụi mẩu thuốc lá vào gạt tàn, vặn cái núm cho nhạc to hơn, nhún
vai, bĩu môi:
- Chị thì biết quái gì! Bà cụ non! Tẩm! Cả các bác của chị nữa, toàn
những cụ “người âm lịch”, hội hội họp họp, kỉ niệm, kỉ nung, chán mớ đời!
Có bữa ăn mà cũng chuẩn bị hàng tháng. Bọn em ấy à ? Gặp nhau, hứng lên,
là ra Cổ Tân, Sinh Từ hoặc ghé vào cái quán nào bên đường thế là thành tiệc
ngay! Hôm nay bố mẹ cứ bắt dự, chứ em thì chỉ muốn xuống bếp xơi trước ít
nem rồi vù ! Ngồi ăn với các cụ, lại phải nghe toàn chuyện cà kê hão huyền,
khổ ơi là khổ !
- Mày nói gì, xược nó vừa chứ! – Hạnh tức giận mắng em – Đúng ra là
mày không xứng đáng được ngồi tiếp các bác ấy! Mày quen đàn đúm với lũ
bạn ngang ngạnh lếu láo, không biết nghĩ ngợi đúng đắn, nghiêm túc bao giờ,
bạ cái cũng chê, cũng giễu, còn mình thì sao : nhố nhăng, vô tích sự!
- Thôi thôi, em chán cái giọng lên lớp của chị lắm rồi! Chị chỉ sách vở,
lý thuyết, bây giờ người ta sống thiết thực kia...” [18, tr.183]. Qua ngôn ngữ
đối thoại của hai nhân vật, Lưu Quang Vũ đã phản ánh thực trạng lối sống,
cách nghĩ của một bộ phận giới trẻ khi chỉ biết sống vội, sống thực dụng mà
vô tình quên lãng đi những người đã có công lao, bỏ mồ hôi, sương máu,
thậm chí cả tính mạng để đánh đổi cho thế hệ sau một cuộc sống yên bình. Đó
cũng chính là hồi chuông cảnh tỉnh tới bạn đọc, để mỗi người cần điều chỉnh
lại chính hành vi, suy nghĩ của mình cho phù hợp và sống có ích hơn.
86
Có thể thấy, khi đưa vào tác phẩm truyện ngắn của mình những ngôn
ngữ đối thoại đời thường, dung dị, Lưu Quang Vũ đã mang truyện ngắn của
ông đến gần hơn với cuộc sống của bạn đọc.
Tiểu kết
Sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi trong truyện ngắn của Lưu Quang
Vũ trên phương diện nghệ thuật biểu hiện là nghệ thuật xây dựng cốt truyện
với tính chất phi cốt truyện hóa đã khiến cho truyện ngắn trở nên nhẹ
nhàng,vượt ra khỏi sự trói buộc, khuôn khổ của đề tài để khắc họa sâu sắc hơn
những diễn biến trong tâm lý nhân vật. Đồng thời cũng là sự gặp gỡ giao thoa
giữa giọng điệu trữ tình sâu sắc, đầy trăn trở suy tư cùng ngôn ngữ đậm chất
thơ khiến cho tác phẩm truyện ngắn của Lưu Quang Vũ ít nhiều mang hơi
hướng, dư vị của những bài thơ trữ tình hấp dẫn độc đáo.
87
KẾT LUẬN
1. Giao thoa thể loại là một phương diện hết sức sinh động và giàu ý
nghĩa trong văn học hôm nay. Nghiên cứu tương tác thể loại là nghiên cứu
văn học trong thế động, trong sự vận động đầy sáng tạo của nó. Tiếp cận
hướng này quả thực cho ta nhiều điều thú vị bên cạnh cách tiếp cận văn học
thiên về thế tĩnh – tiếp cận văn học trong sự kết tinh của trường phái, trào lưu,
phong cách.
2. Từ một góc nhìn mới mẻ trong nghiên cứu văn học – góc nhìn giao
thoa thể loại – luận văn đi sâu tìm hiểu những biểu hiện cụ thể của sự giao
thoa giữa thơ và văn xuôi trong truyện ngắn của tác giả Lưu Quang Vũ. Sự
giao thoa giữa thơ và văn xuôi nhìn từ phương diện nội dung được thể hiện từ
cảm xúc đậm chất thơ đến những cái nhìn mang khuynh cảm nhân sinh. Sự
giao thoa giữa thơ và văn xuôi nhìn từ nghệ thuật biểu hiện được bộc lộ rõ
hơn trên nghệ thuật xây dựng cốt truyện, nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật,
giọng điệu và ngôn ngữ văn xuôi đậm chất thơ, chất nhạc. Có thể nói, truyện
ngắn của Lưu Quang Vũ đã được thi ca tiếp sức và chắp thêm đôi cánh, chất
thơ trở thành nét phong cách độc đáo nhất và khiến cho tác phẩm của ông
sống mãi trong lòng bạn đọc.
3. Giao thoa thể loại giữa thơ và văn xuôi trong truyện ngắn của Lưu
Quang Vũ diễn ra ở sự xâm nhập của những yếu tố thơ vào kỹ thuật trần
thuật. Đây là một đặc điểm tiêu biểu, độc đáo nhất trong những tác phẩm
truyện ngắn của Lưu Quang Vũ.
4. Là một nghệ sĩ luôn khát khao, chủ động đổi mới tư duy nghệ thuật,
những truyện ngắn của Lưu Quang Vũ đã chứng tỏ ông là một cây bút tài hoa,
những gì không nói được bằng thơ thì ông nói bằng văn xuôi. Bên cạnh
88
những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực thơ, kịch, Lưu Quang Vũ còn thể hiện
nội lực sáng tạo của mình trong truyện ngắn. Và điều gây ấn tượng với người
đọc trong truyện ngắn của Lưu Quang Vũ là sự phối trộn hài hòa giữa thơ và
văn xuôi, làm nên một “phiên bản” thơ trong truyện ngắn Lưu Quang Vũ. Ở
đây, sự xâm nhập, giao thoa thể loại đã làm nên đặc trưng truyện ngắn Lưu
Quang Vũ, với giọng điệu độc đáo, riêng biệt cùng với các thể loại khác đã
cho thấy đóng góp đáng kể của tác giả với đời sống văn học Văn học Việt
Nam hiện đại.
89
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bích Thu (1996), Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975, Tạp chí
Văn học (số 9)
2. Bích Thu (1999), Văn xuôi năm 1998 – Thực trạng và vấn đề , Tạp chí
văn học (số 1)
3. Bích Thu (2008) , Chất trữ tình trong truyện ngắn Lưu Quang Vũ, Tạp
chí Văn học (số 9)
4. Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức (2003), Thơ ca Việt Nam hình thức và
thể loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
5. Bùi Việt Thắng (1987), Trong tấm gương của thể loại, Nxb Văn học.
6. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
7. Hà Minh Đức (1997), Khảo luận văn chương , thể loại, tác giả, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
8. Hà Minh Đức (2001), Những vấn đề lý luận lịch sử văn học, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
9. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Lê Đạt (2008), Đối thoại với đời & thơ, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
11. Lê Huy Bắc (2004) Truyện ngắn lí luận tác giả và tác phẩm Tập 1, Tập
2, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
12. Lê Thị Hường (1995), Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay, Văn
học (4), tr.29-31
13. Lê Thị Hường (1995), Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam
giai đoạn 1975 – 1995, Luận án Phó tiến sĩ Ngữ Văn.
90
14. Lê Thị Thu Hà (2006), Hiện tượng phân rã cốt truyện trong Phiên chợ
Giát và Thân phận tình yêu, Evan.com
15. Lưu Khánh Thơ (1994), Xuân Quỳnh- Lưu Quang Vũ tình yêu và sự
nghiệp, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
16. Lưu Khánh Thơ, Lưu Quang Vũ thơ và truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
17. Lưu Quang Vũ (1983), Mùa hè đang đến, Nxb Tác phẩm mới Hội nhà
văn Việt Nam, Hà Nội.
18. Lưu Quang Vũ (1994), 15 truyện ngắn , Nxb Hội nhà văn.
19. Lý Hoài Thu, Lưu Khánh Thơ (2007), Lưu Quang Vũ – về tác gia và tác
phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Nguyễn Bá Thành (1995), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam,
Nxb Văn học.
21. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
22. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
23. Nguyễn Thành Tâm (2013), Xúc cảm trữ tình trong thơ đương đại từ sự
thâm nhập của chất văn xuôi, Nghiên cứu văn học (số 2), tr. 85-86
24. Nguyễn Thành Thi (2010), Văn học thể giới mở, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
25. Nhiều tác giả (2005), Từ điển văn học ( bộ mới ), Nxb Thế giới, Hà Nội.
26. Phạm Xuân Nguyên (1994), Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay, Tạp chí
Văn học.
27. Phan Cự Đệ (2003), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
91
28. Phong Lê (1987), Văn xuôi Lưu Quang Vũ- cầu nối giữa thơ và kịch, Phụ
trương Văn nghệ (số 2)
29. Phùng Văn Tửu (2006), Những hướng đổi mới của văn học kì ảo thế kỷ
XX, Nghiên cứu văn học (số 5).
30. Phương Lựu (1998), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
31. Tôn Thất Dụng (2001), Sự tương tác thể loại trong văn học Việt Nam từ
đầu thế kỷ XX đến năm 1945, đề tài cấp bộ, Huế.
32. Trần Đình Sử ( 2003), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Trần Đình Sử (2003), Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb
Đại học Sư Phạm Hà Nội, Hà Nội.
34. Trần Viết Thiện (2012), Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986
đến nay, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, trường ĐH Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
35. Viện Văn Học (2001), Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
36. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí
Minh, TP. Hồ Chí Minh.