ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ NGỌC

(THÍCH MINH TRÍ)

NGHIÊN CỨU VĂN BẢN

ỨNG PHÓ DƯ BIÊN TỔNG TẬP

Hà Nội - Năm 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ NGỌC

(THÍCH MINH TRÍ)

NGHIÊN CỨU VĂN BẢN

ỨNG PHÓ DƯ BIÊN TỔNG TẬP

Chuyên ngành: Hán Nôm

Mã số : 822010401

LUẬN VĂN THẠC SĨ HÁN NÔM

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phan Thị Thu Hiền

Hà Nội - Năm 2020

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 4

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................................. 4

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu .............................................................................................. 5

3. Đối tƣợng - phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 6

3.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................................... 6

3.2. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................................... 6

4. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................................ 7

5. Đóng góp mới của đề tài ................................................................................................. 7

6. Kết cấu Luận văn ............................................................................................................ 8

CHƢƠNG 1 .......................................................................................................................... 9

KHẢO SÁT VĂN BẢN ....................................................................................................... 9

ỨNG PHÓ DƯ BIÊN TỔNG TẬP 應赴餘編總集 .............................................................. 9

1.1. Sự ra đời và phạm vi ứng dụng của văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總

集....... ............................................................................................................................. 9

1.1.1. Sự ra đời của văn bản ............................................................................................... 9

1.1.2. Phạm vi ứng dụng của văn bản .............................................................................. 10

1.2. Giới thiệu các Văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 hiện tồn ............ 12

1.2.1. Nhóm Văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 ở Viện nghiên cứu

Hán Nôm ……………………………………………………………………………….....12

1.2.1.1. Văn bản mang kí hiệu AB.568 ............................................................................... 12

1.2.1.2. Văn bản mang kí hiệu AB.21 ................................................................................. 15

1.2.2. Nhóm văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 tại Thư viện Quốc gia 16

1.2.2.1. Văn bản mang kí hiệu R.1048 ................................................................................ 16

1.2.2.2. Văn bản mang kí hiệu R.1995 ................................................................................ 17

1.2.3. Văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 ở Thư viện Huệ Quang ....... 18

1.3. Thao tác chọn thiện bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 ......................... 19

1.4. Kết cấu của văn bản Ứng phó dƣ biên tổng tập 應赴餘編總集 .............................. 22

1.4.1. Phần tổng tập ............................................................................................................ 22

1.4.2. Phần biệt tập ............................................................................................................. 23

1

1.5. Vấn đề tác giả của Ứng phó dƣ biên tổng tập 應赴餘編總集 ................................. 25

Tiểu kết Chƣơng 1 ............................................................................................................. 34

CHƢƠNG 2 ........................................................................................................................ 36

GIỚI THIỆU NỘI DUNG CỦA VĂN BẢN .................................................................... 36

ỨNG PHÓ DƯ BIÊN TỔNG TẬP 應赴餘編總集 ............................................................ 36

2.1. Khoa giáo độ âm trong phần tổng tập của Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總

集............. ............................................................................................................................ 36

2.1.1. Các khoa nghi chữ Nôm trong Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 ........... 36

2.1.1.1. Bảo đường ca, Phóng xá bản và Chèo thuyền bản ............................................... 36

2.1.1.2. Triệu linh thán và phụ linh phan luyện văn ........................................................... 40

2.1.2. Các khoa nghi chữ Hán trong Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 ........... 49

2.1.2.1. Các nghi thức khai quang ...................................................................................... 49

2.1.2.2. Các bài tán ............................................................................................................. 51

2.1.2.3. Các bản 又附別集目次 hựu phụ biệt tập mục thứ trong phần Biệt tập (Trai đàn

ban sắc xá cách, Chèo thuyền ca cách, Phụ cô hồn bảng) .................................................. 52

2.2. Chầu văn tín ngƣỡng thờ mẫu trong phần biệt tập của Ứng phó dư biên tổng tập

應赴餘編總集 ..................................................................................................................... 55

2.2.1. Thiên tiên Thánh Mẫu công đồng văn 天僊聖母公同文 ..................................... 56

2.2.2. Đệ nhị văn 第二文 .................................................................................................. 56

2.2.3. Cửu trùng văn 九重文 ............................................................................................ 57

2.2.4. Thủy tinh Công Chúa văn 水晶公主文 ................................................................. 57

2.2.5. Chầu Bát vị văn 朝八位文 ...................................................................................... 57

2.2.6. Liễu Hạnh công chúa văn 柳杏公主文 ................................................................. 57

2.3. Các tƣ liệu văn học và văn học Phật giáo trong phần biệt tập của Ứng phó dư

biên tổng tập 應赴餘編總集 ............................................................................................... 59

2.3.1. Các tư liệu văn học (Sai tiên dược văn, Bách hoa văn và Bồng lai văn, Phi lai tự

phú).......... ............................................................................................................................ 59

2.3.2. Các tư liệu văn học Phật giáo (Bản luyện Long thần văn, Ngự vấn) ........................... 63

Tiểu kết Chƣơng 2 ............................................................................................................. 66

CHƢƠNG 3 ........................................................................................................................ 68

2

GIÁ TRỊ CỦA ỨNG PHÓ DƢ BIÊN TỔNG TẬP ......................................................... 68

TRONG VĂN HÓA PHẬT GIÁO ................................................................................... 68

3.1. Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 và nghi lễ cầu siêu ................................... 68

3.1.1. Nghi lễ cầu siêu trong văn hóa Phật giáo .............................................................. 69

3.1.1.1. Pháp cầu siêu trong hệ thống kinh điển Phật giáo ................................................ 69

3.1.1.2. Nghi lễ cầu siêu trong Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 ......................... 72

3.2. Giá trị và ý nghĩa thực tiễn của Ứng phó dƣ biên tổng tập 應赴餘編總集 ........... 82

3.2.1. Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 thể hiện quyền nghi phương tiện Phật

giáo........... ........................................................................................................................... 82

3.2.2. Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 thể hiện sự dung hòa tín ngưỡng và

tinh thần tam giáo ............................................................................................................... 85

3.2.3. Âm nhạc diễn xướng được thể hiện trong Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總

集....... ........................................................................................................................... 87

3.2.4. Từ nghi lễ độ âm trong Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 đến thực tiễn

hành trì ngày nay ................................................................................................................ 89

KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 93

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 95

3

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Phật giáo từ khi du nhập vào nƣớc ta đã hòa cùng văn hóa, tín ngƣỡng phong

tục bản địa. Có thể nói, Phật giáo và dân tộc có sự liên hệ bất phân, gắn bó mật thiết

trên mọi lĩnh vực. Sự hòa nhập của đạo Phật không chỉ trên phƣơng diện nghiên cứu

về triết lí kinh Phật mà đƣợc thông qua các phƣơng tiện, thể hiện trên mọi phƣơng

diện từ giáo lý, nghi lễ tới y học, đời sống... Giáo lý Phật giáo nhƣ dòng nƣớc thanh

lƣơng luồn chảy vào mọi ngõ ngách, mọi nơi chốn, nhằm khuyên ngƣời làm lành

tránh ác, tu học theo lời Phật dạy và đem lại an lạc hạnh phúc cho nhân sinh.

Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 là một tác phẩm biểu hiện rõ nét về

sự hòa quyện giáo lý Phật Đà với phong tục tín ngƣỡng dân gian việt Nam. Hơn thế,

tác phẩm còn thể hiện quyền nghi phƣơng tiện của Phật giáo trong công cuộc nhập

thế, hóa đạo. Tác phẩm này đƣợc hiệu đính, san khắc vào niên hiệu Thành Thái năm

thứ 7 (1895) do nhà sƣ Chính Đạị (? - ?) sao chép, đính chính và cho khắc ván.

Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 là văn bản bao gồm những khoa

cúng đƣợc trích trong sách Thủy lục chư khoa, Tạp tiếu khoa, các bài vịnh, ngự vấn,

phú, văn chầu của tín ngƣỡng thờ mẫu ở trong các sách khác đã đƣợc tập hợp lại,

sao chép nguyên bản hoặc đƣợc chuyển thể từ chính văn chữ Hán sang hình thức

thơ chữ Nôm lục bát. Những bài văn, khoa cúng có ngôn ngữ bình dị dễ học, dễ nhớ

lại truyền tải ý nghĩa sâu xa, triết lý nhân quả rõ ràng, nhằm khuyến thiện trừng ác.

Các khoa nghi trong Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 hiện nay vẫn đƣợc sử

dụng tại nhiều ngôi chùa, trong các khóa lễ cầu siêu độ hoặc nghi lễ tang ma đƣợc

thực hiện bởi các Già vãi. Chính vì thế, chúng tôi lựa chọn văn bản Ứng phó dư

biên tổng tập 應赴餘編總集 làm đối tƣợng nghiên cứu, nhằm tìm hiểu nghi lễ, văn

hóa Phật giáo đƣợc ghi chép từ hơn 100 năm trƣớc nhƣ thế nào và hiện giờ còn lại

ra sao, tìm hiểu các khía cạnh văn hóa, tín ngƣỡng đƣợc ghi chép trong văn bản để

hiểu thêm và bổ sung những kiến thức cho bản thân về ngôn ngữ văn tự, về phƣơng

tiện của Phật giáo, ngõ hầu góp nhặt chút tƣ lƣơng trên con đƣờng tự lợi, lợi tha.

4

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集, không chỉ là những khoa cúng

mang tính chất hành chính đƣợc sử dụng bởi một số đối tƣợng chuyên môn nhƣ

thầy cúng, pháp sƣ..., cũng không phải là một văn bản thuần túy về một vấn đề triết

lý, một khía cạnh uyên áo của giáo lý Phật Đà, hay đơn thuần chỉ là những bản

khuyến thiện trừng ác, mà văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 nhƣ

một kho tàng chứa đựng đầy đủ những gì cần thiết cho cuộc sống thƣờng nhật tại

một ngôi chùa vùng Bắc Bộ. Đối tƣợng sử dụng nó không riêng một ai, trên từ Pháp

sƣ dùng làm quyền nghi phƣơng tiện độ sinh dƣới đến Già vãi đem ra diễn đọc để

răn nhắc thế nhân, tất cả đều có thể ứng dụng đƣợc và thuần túy dễ hiểu. Có thể nói,

văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 mang tính dân gian khá đậm nét,

và cũng in sâu trong lòng quần chúng một cách giản dị, từ hòa. Có thể gọi tác phẩm

này nhƣ một bài thuốc bách bệnh, có thể ứng dụng cho nhiều đối tƣợng khác nhau,

phù hợp với căn cơ của tầng lớp ngƣời dân.

Ứng phó dƣ biên tổng tập bao hàm 26 đơn vị tác phẩm và 1 bài mục lục, trong

đó một số ít các đơn vị tác phẩm trong văn bản Ứng phó dư biên tổng tập đã đƣợc

giới thiệu và nghiên cứu cụ thể nhƣ sau:

Tác phẩm Truyện cụ Nguyễn Du của Lê Thƣớc, năm 1924, nhà in Mạc Đĩnh

Chi, Hà Nội, trong tác phẩm này có đề cập tới Thí thực cô hồn văn với tiêu đề Văn

chiêu hồn

Năm 1965 Xuân Diệu có bài Đọc văn chiêu hồn của Nguyễn Du in trên Tạp

chí Văn học số 11 đã bình luận và giảng giải về giá trị tác phẩm Văn chiêu hồn của

Nguyễn Du. Và còn nhiều nhà nghiên cứu khác đã giới thiệu và tìm hiểu về bài văn

Tế cô hồn. Những nghiên cứu về các bài văn tế cô hồn có nội dung tƣơng tự 2 bài

Thỉnh âm hồn văn dụng quốc âm và Hựu quốc âm văn trong văn bản Ứng phó dư

biên tổng tập

Tuyển tập Thơ phú thời Mạc của tác giả Đinh Khắc Thuân và Lâm Tuyền kỳ

ngộ Nhà xuất bản văn học hà Nội, 1964 có giới thiệu và phiên dịch tác phẩm Phi

Lai tự phú trong phần Biệt tập của văn bản này.

5

Đó chỉ là 1 trong số các đơn vị tác phẩm tƣơng tự với các tác phẩm có trong

trong văn bản đã đƣợc dịch giải. Tuy nhiên, đến nay chƣa có công trình nào tiến

hành khảo cứu và dịch thuật và giới thiệu nội dung toàn bộ văn bản Ứng phó dư

biên tổng tập 應赴餘編總集 Đề tài luận văn của chúng tôi sẽ triển khai theo hƣớng

đi này, nhằm giới thiệu và công bố bản phiên âm chú thích văn bản, từ đó nhận định

về giá trị nội dung và tƣ tƣởng của tác phẩm.

3. Đối tƣợng - phạm vi nghiên cứu

3.1.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴

餘編總集.Hiện nay tìm đƣợc 05 văn bản, chia làm 3 nhóm dựa theo tiêu chí nơi

lƣu trữ, đó là: nhóm văn bản lƣu trữ tại Thƣ viện Viện nghiên cứu Hán Nôm

(AB.568 và AB.21); nhóm văn bản lƣu trữ tại Thƣ viện Quốc Gia (R.1048 và

R.1995); văn bản lƣu trữ và phát hành tại Thƣ viện Huệ Quang (1 bản phục chế

mang kí hiệu 35).

Trong số 05 văn bản này, văn bản đƣợc chọn là thiện bản sẽ là đối tƣợng

nghiên cứu chính của đề tài, để thực hiện các thao tác phiên âm, dịch nghĩa, chú

thích và nghiên cứu nội dung, nhận định giá trị tác phẩm. Các văn bản còn lại sẽ là

những đối tƣợng để so sánh, đối chiếu

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Với đối tƣợng là văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集, chúng tôi

giới hạn phạm vi nghiên cứu là tập trung vào vấn đề văn bản học, sử dụng kết quả

của công tác minh giải văn bản (phiên dịch, chú thích) để giới thiệu nội dung của

các tác phẩm có trong văn bản, và nhận định giá trị tƣ tƣởng của văn bản trên góc

độ văn hóa Phật giáo. Hai đơn vị tác phẩm Ngự vấn và Phi lai tự phú nằm trong văn

bản nhƣng không đƣợc nêu trong phần Mục lục, nên chúng tôi chỉ tạm dịch và giới

thiệu sơ lƣợc, không đi sâu phân tích, chú thích.

Hai bài Thỉnh âm hồn văn dụng quốc âm và Hựu quốc âm văn có rất nhiều

bản mang nội dung tƣơng tự, và có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề nhƣng chúng

6

tôi giới thuyết chỉ giới thiệu và nghiên cứu về 2 tác phẩm có trong văn bản mà

không đi sâu và các tác phẩm có nội dung tƣơng tự.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:

Phƣơng pháp văn bản học Hán Nôm nhằm khảo cứu các đặc điểm văn bản học

của hệ văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 và lựa chọn ra thiện bản là

đối tƣợng nghiên cứu chính thức của đề tài;

Phƣơn pháp phiên dịch học để minh giải văn bản Hán Nôm nhằm phiên âm,

chú thích giới thiệu và công bố, ứng dụng trên phạm vi rộng rãi;

Phƣơng pháp phân tích, mô tả nhằm làm sáng tỏ những giá trị và thông điệp

của văn bản;

Phƣơng pháp điền đã thực tế kết hợp phỏng vấn điều tra để tìm tƣ liệu khi

nghiên cứu vấn đề tác giả của văn bản;

Phƣơng pháp liên ngành để tìm hiểu giá trị văn hóa Phật giáo và phong tục độ

âm trong văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集.

5. Đóng góp mới của đề tài

Trƣớc hết, đề tài tiến hành khảo cứu các vấn đề văn bản học của văn bản Ứng

phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集, tìm ra thiện bản để phiên dịch và nghiên cứu,

làm rõ các thông tin về niên đại, tác giả, mô tả đặc điểm, kết cấu của văn bản góp

phần vào việc ứng dụng văn bản học Hán Nôm

Thứ đến, đề tài thông qua thao tác phiên dịch văn bản, giới thiệu nội dung cụ

thể của các đơn vị tác phẩm trong văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集

với ba nhóm đề tài: Các khoa nghi độ âm, các bài hát văn tín ngƣỡng thờ mẫu và

các tƣ liệu văn học Phật giáo ngõ hầu ứng dụng văn bản trong đời sống tín ngƣỡng

của ngƣời dân

Tiếp theo, đề tài tìm hiểu về giá trị nội dung, tƣ tƣởng của văn bản Ứng phó

dư biên tổng tập 應赴餘編總集 trên phƣơng diện chuyển tải thông điệp giáo lý

Phật Đà và giá trị thực tiễn của văn bản trên phƣơng diện hành trì nghi lễ độ âm góp

7

phần tìm hiểu và làm rõ giá trị của văn hóa Phật giáo với nền văn hóa tín ngƣỡng

Việt Nam

Luận văn cũng giới thiệu và công bố bản phiên âm, chú thích văn bản Ứng

phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集

6. Kết cấu Luận văn

Luận văn bao gồm các phần: Mở đầu, Nội dung, Kết luận, Tài liệu tham khảo,

Phụ lục.

Phần Nội dung của luận văn gồm 03 chƣơng:

Chƣơng 1: Những vấn đề văn bản học của văn bản Ứng phó dư biên tổng tập

應赴餘編總集.Giới thiệu các dị bản của văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘

編總集, so sánh đối chiếu để lựa chọn thiện bản. Tiếp theo tìm hiểu, đánh giá nhận

xét về thiện bản, đồng thời nghiên cứu vấn đề tác giả.

Chƣơng 2: Giới thiệu nội dung của văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘

編總集. Giới thiệu sơ lƣợc những ý nghĩa, thông điệp truyền tải của các đơn vị tác

phẩm trong văn bản, khái quát nội dung, phƣơng thức hành trì và lợi ích trong đời

sống của các nghi lễ đƣợc ghi chép.

Chƣơng 3: văn bản Ứng Phó Dư Biên Tổng Tập 應赴餘編總集 nhìn từ góc độ

văn hóa Phật giáo. Tìm hiểu và đánh giá giá trị của tác phẩm Ứng phó dư biên tổng

tập 應赴餘編總集 trên phƣơng diện văn hóa Phật giáo, đồng thời liên hệ các nội

dung của văn bản với giáo lý và kinh điển Phật giáo.

Phụ lục: Giới thiệu bản dịch chú và đính kèm bản chụp văn bản Ứng phó dư

biên tổng tập 應赴餘編總集.

8

CHƢƠNG 1

KHẢO SÁT VĂN BẢN

ỨNG PHÓ DƯ BIÊN TỔNG TẬP 應赴餘編總集

Văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 hiện tìm thấy 05 văn bản

đƣợc lƣu trữ tại Thƣ viện Quốc gia, Viện nghiên cứu Hán Nôm và Thƣ viện Huệ

Quang.

Văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 trải qua thời gian dài lƣu

truyền trong nhân gian, đến nay những bản còn tồn lại có nhiều sự khác biệt về hình

thức, có bản còn đầy đủ, có bản bị rách thiếu, có bản mất chữ này, có bản thiếu chữ

kia... Chính vì vậy trong chƣơng 1, chúng tôi sẽ đối chiếu các văn bản hiện còn để

tìm ra một thiện bản tốt nhất cho việc dịch chú và nghiên cứu của mình.

1.1. Sự ra đời và phạm vi ứng dụng của văn bản Ứng phó dư biên tổng

tập 應赴餘編總集

1.1.1. Sự ra đời của văn bản

Theo lời tiểu dẫn trong bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 lƣu trữ

tại Viện nghiên cứu Hán Nôm kí hiệu AB.568 viết: 夫,應赴一事如,保塘,放赦,掉船,

召靈,附幡,請孤魂等..國音文.向來諸方建斎醮者,多為互用,文之句讀不明,詞章

鄙俗,意者前人著述有年未付之梓,三抄失本致,失其眞矣.

成泰,乙未閏,大力加訂正,滕寫成篇,用刊于板,已壽其來.云...

興福柱持正大謹識

Tạm dịch là: Ôi! Hết thảy các việc ứng phó như: Bảo đường, Phóng xá, Chèo

thuyền, Triệu linh, Phụ phan, Thỉnh cô hồn... Quốc âm văn, cho đến các phương

tiện trong Tạp tiếu, phần nhiều là dùng lẫn nhau, câu cú trong văn chẳng rõ ràng,

ngôn từ rẻ mạt, những ý tứ của bậc tiền nhân trước thuật chưa được đem khắc in,

lâu dần dẫn đến tam sao thất bản, mất đi độ chân thực vậy.

Niên hiệu Thành Thái, tháng nhuận năm Ất Mùi, nỗ lực đính chính, sao chép

tập hợp thành thiên, cho khắc vào bản ván để giữ gìn đến đời sau.

Trụ trì Chùa Hưng Phúc, Chính Đại cẩn ghi.

9

Đại ý nói rằng các việc ứng phó nhƣ Bảo đường, Phóng xá, Chèo thuyền,

Triệu linh, Phụ phan, Thỉnh âm hồn... câu chữ đọc thì không tỏ, lời lẽ thì thô thiển,

không hiểu đƣợc ý của bậc tiền nhân, sao chép nhiều lần làm sai đi với bản gốc, nên

tháng nhuận năm Ất Mùi niên hiệu Thành Thái (năm 1895), (Chính) Đại (tôi) nỗ

lực đính chính lại, sao chép thành quyển, rồi cho in khắc để truyền lại cho đời sau....

Lời tiểu dẫn này cho thấy hiện thực về các bản khoa nghi bị sai lệch, không

thống nhất, sử dụng lẫn lộn nên tác giả đã đính chính lại, sau đó cho in thành bản

vào niên hiệu Thành Thái (tháng 5 nhuận năm 1895). Bản khắc ván này, theo văn

bản hiện tồn có ghi lại là lƣu trữ bản ván tại chùa Hƣng Phúc nhƣ hình ảnh sau:

Hình 1.1 AB.568- trang 02

Hình 1.2 AB.568- trang 01

1.1.2. Phạm vi ứng dụng của văn bản

Xét trên bình diện thực tế các chùa Bắc bộ nói riêng, cụ thể là vùng Kinh Bắc

và khu vực tỉnh Hà Tây cũ, các khoa nghi trong văn bản Ứng phó dư biên tổng tập

應赴餘編總集 hiện nay đƣợc sử dụng rộng rãi về mặt hình thức và các nội dung

tƣơng tự. Nhƣng vì một số lí do mà nội dung của văn bản Ứng phó dư biên tổng tập

應赴餘編總集 bị mai một phần lớn. Tại nơi bản địa của văn bản là Chùa Hƣng

Phúc, thôn Ngƣ Đại, xã Xuân Lôi, huyện Quế Võ cũng không đƣợc phổ biến và duy

10

trì truyền thống. Khi đến tận chùa Hƣng Phúc khảo sát thực tế, chúng tôi gặp một

khóa lễ cầu siêu. Nhƣng nhà sƣ trụ trì chùa hiện nay không biết về khoa nghi độ âm

chữ Hán, mà sử dụng khoa cúng thông dụng đã đƣợc dịch nghĩa. Khi đƣợc hỏi, sƣ

thầy trụ trì cũng không biết về văn bản này. Ở các ngôi chùa khác trong vùng Kinh

Bắc và khu vực Bắc Bộ, một số khoa nghi đƣợc sử dụng phổ biến nhƣng toàn bộ

văn bản không đƣợc dùng rộng rãi. Những lý do dẫn đến hiện tƣợng này bao gồm:

Thứ nhất, văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 chủ yếu ghi chép

tóm tắt các khoa nghi trong Thủy lục chư khoa 水陸諸科 và Tạp tiếu khoa 雜醮科,

không có đầy đủ nội dung từ đầu tới cuối của một khoa cúng. Nếu một khóa lễ độ

âm thông thƣờng bao gồm có khoa Tiếp linh 接靈, Cúng Phật 供佛, Triệu linh 召靈,

Qui vong 歸亡 và Chúc thực 祝食, Cúng cô hồn 供孤魂(cúng cháo), thì trong văn

bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 lại chỉ có phần Triệu linh khoa 召靈

科, Chèo thuyền khoa 掉船科, cúng Cô hồn khoa 供孤魂科, và Khai quang tẩy uế

開光洗濊.... mà không thấy có xuất hiện các khoa cúng khác.

Thứ hai, các khoa nghi trong Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 nhƣ

Phóng xá 放赦, Tiếp linh 攝靈, Phụ cô hồn bảng 附孤魂榜 chỉ là bản đính chính

những phần nào hiện tại (năm 1895) bị sai sót so với những bản chính đƣợc thông

hành thời đó nhƣ Tạp tiếu chư khoa 水陸諸科, Tam giáo chính độ tập yếu 三教正

度集要. Sau khi đính chính lại các bản bị sai lệch, tác giả nhận thấy một số bài hay,

ý nghĩa cần giữ gìn, lƣu truyền lại nhƣ Ngự vấn 御問, Phi lai tự phú 飛來寺賦 nên

đã chép cả vào. Văn bản còn ghi chép các tác phẩm do chính tác giả sáng tác Bồng

lai văn 蓬來文, Bảo đường ca 保塘歌, Bách hoa văn 百花文 để lƣu truyền.

Thứ ba, do thời gian lƣu truyền dài lâu cùng với sự biến thiên của lịch sử, để

phù hợp với xã hội ngày càng phát triển, có thể những khoa cúng đƣợc rút ngắn lại,

chỉ có phần khoa nghi do các vị Pháp sƣ hành lễ mà bỏ qua các bản phụ nhƣ Dâng

sớ, bản Nôm nhƣ Chèo thuyền, trai đần ban sắc ca cách... Chính vì thế, một vài bản

trong văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 không đƣợc phổ rộng.

11

1.2. Giới thiệu các Văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集

hiện tồn

Nhóm văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 bao gồm 05 dị bản

đƣợc lƣu trữ tại các Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Thƣ viện Quốc gia, Thƣ viện

Huệ Quang. Tất cả các dị bản này hoàn toàn giống nhau, từ hình thức in khắc đến

nội dung, chỉ khác nhau ở dung lƣợng dài ngắn. Chúng tôi sẽ khảo sát, mô tả các

đặc điểm văn bản học của 5 văn bản theo ba nhóm theo tiêu chí nơi lƣu trữ.

1.2.1. Nhóm Văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 ở Viện

nghiên cứu Hán Nôm

Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện lƣu trữ 02 bản Ứng phó dư biên tổng tập 應

赴餘編總集 mang ký hiệu AB.568 và AB.21.

1.2.1.1. Văn bản mang kí hiệu AB.568

Văn bản gồm 128 trang (64 tờ), khổ sách 25x14cm. Văn bản gồm hai phần

tổng tập và biệt tập, hay còn gọi là phần chính biên và phần phụ biên. Bản này ghi

chép đầy đủ các khoa nghi bằng chữ Hán và chữ Nôm. Ngoài ra phần biệt tập còn

chép những bài phú và văn sách (ngự vấn) bằng chữ Hán.

Dựa trên thông tin đƣợc in trên trang bìa trong của sách có ghi 成泰七年閏月

訂刊 Thành Thái thất niên nhuận nguyệt đính san cho thấy văn bản đƣợc đính

chính lại và cho san khắc vào niên hiệu Thành Thái năm thứ 7, tháng nhuận tức là

tháng 5 nhuận năm 1895.

Trang bìa phụ sách cung cấp các thông tin “總集 保塘歌, 攽赦本, 掉船本, 召

靈嘆, 附幡文, 開光式, 請孤魂文國音. 共二十七帋” (hàng phải); 又附別集目次

公同文, 弟二文, 九重文, 水晶文, 八位文, 柳仙文, 龍神文, 百花文, 蓬萊文. 共十

六帋. (hàng trái). Từ đó cho thấy kết cấu của văn bản gồm có 2 phần: Phần tổng tập

có các khoa Bảo đường ca, Phóng xá bản, Chèo thuyền bản, Triệu linh thán, Phụ

phan văn, Khai quang thức, Thỉnh cô hồn văn quốc âm, cộng lại là 27 tờ; Phần biệt

tập có Công đồng văn, Đệ nhị văn, Cửu trùng văn, Thủy tinh văn, Bát vị văn, Liễu

Hạnh văn, Long thần văn, Bách hoa văn, Bồng lai văn, gồm 16 tờ.

12

Phần mục lục của sách không ghi tên 02 bài Phi Lai tự phú và Ngự vấn, nhƣng

trong nội dung văn bản có chép 2 bài này.

Trang cuối cùng của sách có ghi: 成泰丙申年,中秋節,春雷興福寺,主人普齋

訂刊 Thành Thái Bính Thân niên, trung thu tiết; Xuân Lôi Hưng Phúc tự, chủ nhân

Phổ Trai đính san, nghĩa là sách đƣợc đính chính, san bổ xong vào tết trung thu

năm Bính Thân, niên hiệu Thành Thái, (tức là tháng 8 năm 1896) sau 01 năm so với

thời điểm đƣợc ghi ở lời tiểu dẫn (tháng 5 nhuận năm 1895); ngƣời đứng ra làm

việc này là chủ Chùa Hƣng Phúc, hiệu Phổ Trai.

Quá trình 01 năm 3 tháng sao chép, đính chính và cho in khắc, trụ trì chùa

Hƣng Phúc đã tập hợp các phần nội dung của văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應

赴餘編總集 thành 1 cuốn sách. Trang cuối sách ghi chép các thông tin về thời gian,

địa điểm và ngƣời đứng ra in khắc cùng ấn triện khẳng định sự chính thống và

nguồn gốc của văn bản này.

Dòng cuối cùng trên trang lạc khoản có hàng chữ: 道属河柳社阮熙光甫奉書

Đạo Chúc, Hà Liễu xã, Nguyễn Hi Quang phủ phụng thư.

Từ thông tin này cho thấy văn bản AB.568 đƣợc một vị tên Nguyễn Hy Quang

ở xã Hà Liễu (một xã cùng Tổng Bất Phí, huyện Võ Giàng) vâng mệnh viết. Có thể

trong quá trình viết chữ, ông Nguyễn Hy Quang đã tự ý chép thêm 02 bài Ngự vấn

và Phi lai tự phú vào văn bản; Hoặc có thể do chính tác giả trong quá trình in khắc

đã tự thêm vào hai bài này và ông Nguyễn Hy Quang chỉ vâng mệnh viết chữ vào

văn bản... Chƣa xác định đƣợc lí do thực sự của sự chênh lệch số bài và trang sách

tăng lên (128 trang) so với số trang sách đƣợc ghi tại phần mục lục (43 tờ - 86

trang)

Về mặt hình thức, văn bản AB.568 còn khá toàn vẹn, không bị rách nát. Chữ

Nôm chiếm ƣu thế trong văn bản so với chữ Hán, đƣợc khắc ngay ngắn, dễ đọc,

mang dáng vẻ của chữ Nôm thời cận đại cuối thế kỉ XIX (1895), đa phần sử dụng

cấu trúc thanh phù và nghĩa phù. Hầu nhƣ không thấy hiện tƣợng kiêng húy.

Trang 3, dòng thứ 7, chữ thứ 7 của văn bản bị mờ, có sự tẩy xóa, và đƣợc

13

khắc chồng một chữ khác lên gần nhƣ chữ Chiếu 炤. Còn tại các văn bản AB.21 và

R.1048, R.1995 là chữ sơ sinh 初生 đƣợc khắc rõ ràng, sạch đẹp.

Hình 1.3. Trang 3, AB.568 Hình 1.4 Trang 3, AB.21

Bài Ngự vấn 御問 ngờ là đƣợc chép lại từ nơi khác đem vào phần biệt tập nên

có xuất hiện hiện tƣợng kiêng húy ở chữ Hoa

khắc bớt một nét, hiện tƣợng

kiêng húy bà Hồ Thị Hoa mẹ của Vua Thiệu Trị, (hiện tƣợng kiêng húy thời

Nguyễn). Chữ Hoa

xuất hiện 2 lần

Chữ Nhậm 任 viết bớt 1 nét sổ; chữ Nhậm

kiêng húy nhà vua Tự Đức

(Hồng Nhậm) xuất hiện 1 lần trong văn bản,

Văn bản Ứng phó dƣ biên tổng tập có hình thức trình bày trang in khắc không

đồng nhất. Cụ thể nhƣ sau:

+ Từ trang 1-12: Khắc theo hàng dọc từ trên

xuống dƣới, cách khoảng trống ở giữa trang (với ngụ ý

cách giữa câu 6 và câu 8 trong đôi câu lục bát). Mỗi

trang gồm có 8 hàng, mỗi hàng 14 chữ. Xem Hình 1.5.

Hình 1.5

14

+ Từ trang 13-30: khắc liền mạch, không

bỏ trống ở giữa trang, mỗi trang có 9 hàng, mỗi

hàng 16 chữ. Có hiện tƣợng chú thích bằng chữ

nhỏ nhƣng tần suất ít. Xem Hình 1.6.

Hình 1.6

+ Từ trang 31-128: mỗi trang có 8 hàng,

số chữ trong hàng không đồng nhất (do có chữ

nhỏ chú thích). Đan xen giữa chép liền mạch và

chép cách giữa. Xem Hình 1.7

Hình 1.7

1.2.1.2. Văn bản mang kí hiệu AB.21

Bản thứ hai ở Viện nghiên cứu Hán Nôm mang kí hiệu AB.21 gồm 76 trang.

Về nội dung và chữ nghĩa, bản này không có gì khác so với bản AB.568, nhƣng về

dung lƣợng thì ít hơn. AB.21 chỉ đến hết phần Phụ cô hồn bảng 附孤魂榜, dừng lại

ở câu câu 各使週知,特榜,幽爽通知,歲次 các sứ tru tri, đặc bảng, u sảng thông

tri, tuế thứ (trang 76).

Trang mục lục đầu tiên có những chữ to nhòe hơn so với văn bản AB.568;

nhƣng những chữ nhỏ ghi tên các khoa cúng lại rõ ràng hơn so với văn bản AB.568.

Cụ thể trang mục lục của AB.568 bị mờ mất 4 chữ 龍神文仙 long thần văn, tiên,

nhƣng tại AB.21 thì 4 chữ này lại tỏ rõ. Nét chữ đƣợc in khắc hoàn toàn giống với

văn bản AB.568, có thể do quá trình lƣu giữ hoặc đƣợc in ấn vào thời gian sau nên

15

hình thức và chất lƣợng của văn bản AB.21 tốt hơn. Trong văn bản không có hiện

tƣợng mờ chữ, hoặc tẩy xóa.

Lí do văn bản này ngắn hơn bản AB.568 (thiếu từ trang 77-128) chƣa đƣợc

xác định. Có thể phỏng đoán rằng trong quá trình lƣu truyền nên văn bản bị rách

thiếu, hoặc do ngƣời in khắc chỉ in khắc những phần quan trọng còn bỏ lại những

phần biệt tập phía sau. Trực quan hình ảnh 1.8, 1.9 và 1.10 nhƣ sau:

Hình 1.8 Tr cuối AB.21 Hình 1.9 Liền tr cuối AB. 21 Hình 1.10 tr đầu AB.21

1.2.2. Nhóm văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 tại Thư

viện Quốc gia

Tại Thƣ viện Quốc qia có 02 bản: Ứng phó dƣ biên tổng tập 應赴餘編總集

mang kí hiệu R.1048 và R.1995. Hai văn bản này đều đƣợc số hóa với chất lƣợng

tốt, thuận tiện cho việc khảo sát.

1.2.2.1. Văn bản mang kí hiệu R.1048

Văn bản Ứng Phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 R.1048 gồm có 25 tờ (50

trang), khổ 25x14cm, không có tờ bìa sách, chỉ có 1 bìa trong với mặt sau khắc lời

tiểu dẫn, không có dấu triện. Xem hình 1.11 và hình 1.12

16

Hình 1.11. trang đầu R.1048 Hình 1.12. trang cuối R.1048

Về nội dung, văn bản R.1048 hình thức trình bày hoàn toàn giống với AB.568

và AB.21. Chữ viết ngay ngắn, rõ ràng, gáy sách đều có hàng chữ Ứng phó dư biên

應赴餘編

Kết cấu của văn bản R.1048 bắt đầu từ trang mục lục, gồm đủ các khoa nghi

nhƣ các bản AB. 568 và AB.21 nhƣng dừng lại ở giữa bản Hựu quốc âm văn 又國

音文 kết thúc ở câu 欺𠫾芒特沒同芾𠫾,哭 khi đi mang được một đồng nào đi,

khóc (tr.50) Lí do văn bản này độ dài số trang ít hơn, nội dung không toàn vẹn có

thể do quá trình lƣu truyền hoặc rách, hoặc bị thất lạc.

1.2.2.2. Văn bản mang kí hiệu R.1995

Văn bản mang kí hiệu R.1995 có 27 tờ (54 trang), giấy đã cũ rách, hoen ố,

không có trang bìa, không có trang mục lục, khắc tên sách 應赴餘編 và số trang ở

gáy sách xem hình 1.13 và 1.14

Hình 1.13 Trang đầu R.1995 hình 1.14 Trang cuối R.1995

Về quy cách trình bày, số dòng trên trang và số chữ trong một dòng của

R.1995 không khác so với R.1048.

17

Trang đầu tiên là Bảo đường ca 保塘歌, nội dung đến hết phần tổng tập và kết

thúc ở trang 54 với câu: 應赴餘編總集完 Ứng phó dư biên tổng tập hoàn (Ứng phó

dư biên tổng tập đến đây là hết). Nhƣ vậy R.1995 chỉ chép nguyên phần tổng tập,

mà không chép phần biệt tập

1.2.3. Văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 ở Thư viện

Huệ Quang

Tại Thƣ viện Huệ Quang có phục chế 01 văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應

赴餘編總集 mang kí hiệu 35 (thứ tự 35 trong Huệ Quang Phật điển tùng san, tạm

gọi là bản HQ.35)

Dị bản HQ.35 gồm 45 tờ (90 trang), lề sách ghi

chữ 應赴餘編 Ứng phó dư biên. Trang bìa sách

có ghi 春雷寺新刊 Xuân Lôi tự tân san, bản

khác mới của chùa Xuân Lôi. Chùa Hƣng phúc

còn gọi là Chùa Xuân Lôi, Chùa Ba thôn, vì vậy

tên Xuân Lôi tự cũng chỉ cho chùa Hƣng Phúc,

đó là cùng một địa điểm. Có thể bản HQ. 35

đƣợc dập in sau, nên ghi tân san trực quan hình

1.15 trang bìa của HQ.35

Hình 1.15 trang bìa HQ.35

Nội dụng và hình trình bày phần tổng tập của HQ.35 hoàn toàn giống với 4

văn bản trên. Nhƣng sau phần tổng tập thì văn bản HQ.35 này có sự khác biệt.

Nếu nhóm R.1048 và R.1995 chỉ có phần tổng tập, không thấy có phần biệt

tập, nhóm AB.568, AB.21 có chép phần biệt tập, và bắt đầu của phần biệt tập là

khoa nghi Trai đàn ban sắc xá cách 齋壇頒勅赦格 thì trong dị bản HQ.35 lại bắt

đầu phần biệt tập bằng bài Thiên tiên thánh mẫu công đồng văn 天僊聖母公同文.

Nghĩa là bản HQ.35 không có 4 bài: Trai đàn ban sắc xá cách, Ban sắc tịnh cấp

thông hành phái, Chèo thuyền ca cách, và Phụ cô hồn bảng.

18

Khi đối chiếu bản HQ.35 và AB.568 cho thấy bài 差仙藥文 Sai tiên dược văn

của bản HQ.35 có tận 7 trang, có nhiều hơn 2 trang so với bản AB.568 (5 trang)

Nhƣ vậy, 差仙藥文 Sai tiên dược văn của AB.568 có thể bị rách hoặc bỏ sót.

Văn bản HQ.35 cũng chỉ kết thúc ở 蓬來文 Bồng lai văn, không thấy có ghi

chép phần 御問 Ngự vấn và 飛來寺賦 Phi lai tự phú. Trang cuối cùng của dị bản

HQ.35 bị mất chữ của hai hàng đầu tiên trên trang sách, có thể do ván khắc tại trang

đó, vị trí đố bị lỗi dẫn đến mờ mất nét. Dù đây là bản phục chế, nhƣng phần lỗi này

cũng không đƣợc sửa chữa mà giữ nguyên nhƣ vậy, trong khi các bản AB.568

nhƣng dòng chữ này lại rõ ràng bình thƣờng, không có hiện tƣợng rách thiếu.

Vậy bản HQ.35 của Thƣ viện Huệ Quang đã phục chế dựa trên bản cũ, (chƣa

xác minh đƣợc Thƣ viện lấy nguồn bản phục chế từ bản mang kí hiệu nào, lƣu trữ

tại đâu) nhƣng thông qua tìm hiểu, xem xét và đối chiếu, nhận thấy văn bản HQ.35

có chung ván khắc với 04 văn bản trên. Nội dung giống nhau, chỉ vì lý do bị rách

thiếu, hoặc dụng tâm của ngƣời in ấn không in ấn các phần đó mà bản HQ.35 có

một số nội dung không đầy đủ so với các bản khác.

1.3. Thao tác chọn thiện bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集

Trên cơ sở so sánh 5 văn bản chúng tôi nhận thấy:

Thứ nhất: Từ bình diện hình thức trình bày đến nội dung, cách thức khắc ván,

kiểu viết chữ, cách liệt kê các khoa cúng trên trang sách, vị trí các chữ trên trang, số

chữ trên hàng là hoàn toàn giống nhau. Từ điều này có thể khẳng định: tất cả các

văn bản AB.568, AB.21, R.1048, R.1995 và HQ.35 có nguồn gốc từ một ván khắc

duy nhất.

Thứ hai: Tuy 5 văn bản có chung một ván khắc nhƣng lại có dung lƣợng dài

ngắn khác nhau. Nhóm AB.568 và AB.21 gồm cả phần tổng tập và biệt tập, Nhƣng

AB.21 tuy có khắc phần biệt tập nhƣng lại chỉ đến phần 附孤魂榜 Phụ cô hồn bảng

còn AB.568, đầy đủ nhất 27 bài với hàm lƣợng dài nhất. Nhóm R.1048 và R.1995

không thấy sự xuất hiện của phần biệt tập. Trong đó, dị bản R.1995 đủ nội dung đến

hết phần tổng tập, còn R.1048 hiện tồn, nội dung chƣa hết phần tổng tập. Bản

19

HQ.35 đầy đủ nội dung phần tổng tập, có khắc phần biệt tập nhƣng lại thiếu 6 bản

(4 bài đầu của phần Biệt tập và 2 bài Ngự vấn và Phi Lai tự Phú phần cuối của Biệt

tập) so với bản AB.568.

Sự xuất nhập dung lƣợng của 5 dị bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總

集 thể hiện tại bảng sau:

Bảng 1.1: Đối chiếu 05 văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集

Stt

Tên bài

AB.568

AB.21

R.1048

R.1995

HQ.35

1

Tr 1

Tr 1

Tờ 1

Tr 1

目錄 Mục lục

2

Tr 3-12

Tr 3-12

Tờ 2-6

Tờ 1-5

Tr 3-12

保塘歌 Bảo đường ca

3

Tr 13- 22

Tr 13-22

Tờ 7-11

Tờ 6-11

Tr 13-22

放赦本 Phóng xá bản

4

Tr 23-30

Tr 23-30

Tờ 12-15

Tờ 11-14

Tr 23-30

掉船本 Chèo thuyền bản

5

Tr 31-32

Tr 31-32

Tờ 16

Tờ 15

Tr 31-32

6

Tr 32-35

Tr 32-35

Tờ 16-18

Tờ 15-17

Tr 32-35

7

Tr 35-38

Tr 35-38

Tờ 18-19

Tờ 17-18

Tr 35-38

8

Tr 39-41

Tr 39-41

Tờ 20-21 Tờ 19- 20 Tr 39-41

9

Tr 41-42

Tr 41-42

Tờ 21

Tờ 20

Tr 41-42

10

Tr 43-47

Tr 43-47

Tờ 22-24

Tờ 21-23

Tr 43-47

11

Tr 47-56

Tr 47-56

Tr 47-56

Tờ 24 -25 Tr 48-50

Tờ 23-27 Tr 46-54

召靈嘆 Triệu linh thán 附靈幡練文 Phụ linh phan luyện văn 開光洗穢儀 Khai quang tẩy uế nghi 開光亡靈儀 Khai quang vong linh nghi 般若讚, 陸供讚, 安位讚 Bát nhã tán, Lục cúng tán, An vị tán 請陰魂文用國音 Thỉnh âm hồn văn dụng quốc âm 又國音文 Hựu quốc âm văn

12

Tr 57-68

Tr 57-68

齋壇頒勅赦格 Trai đàn ban sắc xá

20

cách

13

Tr 68-69

Tr 68-69

14

Tr 70-75

Tr 70-75

頒勅并給通行派 Ban sắc tịnh cấp thông hành phái 掉船歌格 Chèo thuyền ca cách

15

Tr 75-76

Tr 75-76

16

Tr 77-82

Tr 57-62

17

Tr 82-85

Tr 62-65

附孤魂榜 Phụ cô hồn bảng 天僊聖母公同文 Thiên tiên thánh mẫu công đồng văn 弟二文 Đệ nhị văn

18

Tr 85-87

Tr 65-67

九重文 Cửu trùng văn

19

Tr 87-89

Tr 67-69

水晶文 Thủy tinh văn

20

Tr 89-91

Tr 69-71

21

Tr 92-94

Tr 72-74

22

Tr 94-98

Tr 74-78

23

Tr 98-103 (5 trang)

Tr 78-85 (7 trang)

朝八位文 Chầu bát vị văn 柳杏公主文 Liễu Hạnh công chúa văn 八練龍神文 Bản luyện long thần văn 差仙藥文 Sai tiên dược văn

24

Tr 103-107

Tr 85-89

百花文 Bách hoa văn

25

Tr 107-108

Tr 89-90

蓬萊文 Bồng lai văn

26

Tr 109-124

御題 Ngự đề

27

Tr 124-128

飛來寺賦 Phi lai tự phú

Tổng

27 bài 128 trang

15 bài 76 trang

11 bài 50 trang

10 bài 54 trang

21 bài 90 trang

21

Ghi chú: Cột 1: số thứ tự các dị bản trong Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集.

Cột 2: tên bài xuất hiện trong các dị bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集

Cột 3-6: số trang của các bài trong các dị bản, những ô bỏ trống đồng nghĩa là văn

bản đó không có các bài mà các dị bản khác đang có.

Thông qua việc đối chiếu các văn bản, chúng tôi nhận thấy có sự khác nhau về

dung lƣợng: Văn bản AB.568 là văn bản dài nhất với 128 trang, 27 bài, gồm cả

phần tổng tập và biệt tập, chất lƣợng in ấn tốt, chữ nghĩa rõ ràng, không bị rách chữ

mất câu, có độ toàn vẹn cao. Tuy có một số chữ bị mờ, và 02 trang bị thiếu so với

văn bản khác, nhƣng có thể tham khảo ở các văn bản AB.21 và HQ.35 để bổ trợ.

Đứng thứ hai là văn bản HQ.35 với 90 trang, 21 bài, gồm cả 2 tập nhƣng lại thiếu

một số bài ở đầu và cuối cảu phần Biệt tập. Ở vị trí thứ ba, văn bản AB.21 có 76

trang 15 bài, chƣa khắc in hết phần biệt tập. Cuối cùng là nhóm văn bản R.1048 và

R.1995 chỉ có 11 bài và dừng lại ở 50 và 54 trang, không thấy sự xuất hiện của phần

biệt tập.

Vì những lí do nêu trên, chúng tôi quyết định chọn văn bản AB.568 làm thiện

bản để dịch chú và nghiên cứu.

1.4. Kết cấu của văn bản Ứng phó dƣ biên tổng tập 應赴餘編總集

Văn bản Ứng Phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 gồm 02 phần tổng tập và

biệt tập.

1.4.1. Phần tổng tập

Tổng tập gồm các khoa nghi độ âm theo nghi lễ Phật giáo. Trong phần khoa

nghi lại chia làm 02 là phần chính: khoa nghi chữ Nôm và chữ Hán. Hai phần này

không chia một cách rõ ràng mà các khoa nghi chữ Nôm và chữ Hán đan xen nhau,

cứ 1 đến 2 khoa nghi chữ Nôm thì lại có các bản khoa nghi chữ Hán. Ngoài ra còn

có 1 số khoa nghi là sự kết hợp nửa bài viết bằng chữ Hán, nửa bài viết bằng chữ

Nôm. Cụ thể nhƣ sau:

-Phần khoa nghi chữ Nôm đƣợc thể hiện với 03 hình thức trình bày văn bản:

+ Thứ nhất là khắc theo hàng dọc thơ lục bát, câu trên 6 chữ, cách ngang ở

giữa chép đến câu 8 chữ ở phần bên dƣới, gồm các bài là: Bảo đường ca 保塘歌(10

22

trang), Phụ linh phan luyện văn 附靈幡練文 (3 trang), Phụ cô hồn bảng 附孤魂榜 (1

trang).

+ Thứ hai là văn Nôm viết liền mạch kiểu văn xuôi: Phóng xá bản 放赦本 (18

trang), Triệu linh thán 召靈嘆(2 trang), Thỉnh âm hồn văn dụng quốc âm 請陰魂文

用國音(4 trang), Hựu quốc âm văn 又國音文 (10 trang), Trai đàn ban sắc xá cách

齋壇頒勅赦格 (12 trang).

+ Thứ ba là trình bày trên hình thức văn xuôi liền mạch, mỗi trang 9 hàng dọc,

mỗi hàng 16-18 chữ, là văn đối đáp, có kèm những chữ nhỏ ghi chú cách phân vai

ngƣời đọc: Chèo thuyền bản (5 trang).

- Phần khoa nghi chữ Hán gồm các bản:, Khai quang tẩy uế 開光洗穢儀, Khai

quang vong linh 開光亡靈儀, các bài tán (Bát nhã tán, Lục cúng tán, An vị tán)

-Các khoa nghi có sự kết hợp sử dụng cả chữ Hán và chữ Nôm gồm có Triệu

linh thán 召靈嘆, Phụ linh phan luyện văn 附靈幡練文

Mỗi khoa nghi này đều có phần chữ to ghi nội dung và phần chữ nhỏ ghi chú,

trình bày liền mạch trên hình thức văn xuôi.

1.4.2. Phần biệt tập

Phần biệt tập là một sự tập hợp các bản ở trong các tác phẩm khác nhau và đa

dạng về nội dung nhƣng tựu chung đều liên quan tới Phật giáo và văn hóa dân gian.

Đó là các bài phú, vịnh, ngự vấn, chầu văn... theo hình thức văn xuôi, viết liền mạch,

có cú đậu rõ ràng, những chữ kiêng húy cũng đƣợc khắc lại nguyên văn.

-Các khoa nghi đƣợc viết bằng chữ Hán: 附孤魂榜 Phụ cô hồn bảng (1,5 trang) 頒

勅并給通行派 Ban sắc tịnh cấp thông hành phái (01 trang)

-Các bản khoa nghi Phật giáo đƣợc chép bằng chữ Nôm và chữ Hán gồm có:

齋壇頒勅赦格 Trai đàn ban sắc xá cách (12 trang);掉船歌格 Chèo thuyền ca cách (5,5

trang)

-Các bản văn chầu của tín ngƣỡng thờ mẫu: 天僊聖母公同文 Thiên tiên thánh mẫu

công đồng văn (5 trang+3 dòng chữ)弟二文 Đệ nhị văn (3 trang) 九重文 Cửu trùng văn (2

trang) 水晶文 Thủy tinh văn (01 trang 4 dòng)朝八位文 Chầu bát vị văn (2 trang +5 dòng)

柳杏公主文 Liễu Hạnh công chúa văn (2 trang +4 dòng)

23

Các tác phẩm văn học và văn học Phật giáo đƣợc khắc bằng chữ Hán; Chữ Nôm Bản

八練龍神文 luyện long thần văn (3 trang + 7 dòng) 差仙藥文 Sai tiên dược văn (3 trang +

7 dòng) 百花文 Bách hoa văn (4 trang) 蓬萊文 Bồng lai văn (1 trang + 3 dòng) 御題 Ngự

đề (15 trang + 1 dòng)飛來寺賦 Phi lai tự phú (4 trang + 6 dòng)

Tóm lại, văn bản Ứng phó dƣ biên tổng tập 應赴餘編總集 sử dụng chữ Nôm

ƣu thế hơn so với chữ Hán. Nội dung đƣợc thể hiện trên thể thơ lục bát và văn biền

ngẫu. Hình thức trình bày sắp xếp theo hàng dọc, từ trên xuống dƣới, chép liền hàng,

hoặc cách giữa câu trên và câu dƣới bằng một khoảng trống giữa trang.

Bảng 1.2: Kết cấu văn bản Ứng phó dư biên tổng tập AB.568

STT

Tên bài

Văn tự

Trang

目錄 Mục lục

1

Nôm - Hán

Thể loại, cách thức Liệt kê

Tr 01

Nôm

Lục bát

Nôm - Hán Biền ngẫu đối đáp Nôm - Hán Biền ngẫu đối đáp

2 3 4 5

Văn xuôi

Tr 3-12 Tr 13-22 Tr 23-30 Tr 31-32

Nôm

6

Lục bát

Tr 32-35

Nôm

7

Tr 35-38

Hán

Kệ - văn xuôi (4 chữ)

8

Kệ - văn xuôi

Tr 39-41

Hán

9

Kệ

Tr 41-42

Hán

10

Lục bát chép liền

Tr 43-47

Nôm

11

Lục bát chép liền

Tr 47-56

Nôm

12

Nôm- Hán

Lục bát chép liền

Tr 57-68

13

Văn xuôi

Tr 68-69

Hán

保塘歌 Bảo đường ca 放赦本 Phóng xá bản 掉船本 Chèo thuyền bản 召靈嘆 Triệu linh thán 附靈幡練文 Phụ linh phan luyện văn 開光洗穢儀 Khai quang tẩy uế nghi 開光亡靈儀 Khai quang vong linh nghi 般若 讚, 陸供讚 , 安位讚 Bát nhã tán, Lục cúng tán, An vị tán 請陰魂文用國音 Thỉnh âm hồn văn dụng quốc âm 又國音文 Hựu quốc âm văn 齋壇頒勅赦格 Trai đàn ban sắc xá cách 頒勅并給通行派 Ban sắc tịnh cấp thông hành phái

14 掉船歌格 Chèo thuyền ca cách 15

Lục bát chép liền Bảng

Tr 70-75 Tr 75-76

Nôm Hán

16

Nôm

Lục bát chép liền

Tr 77-82

附孤魂榜 Phụ cô hồn bảng 天僊聖母公同文 Thiên tiên thánh mẫu công đồng văn 弟二文 Đệ nhị văn 九重文 Cửu trùng văn 水晶文 Thủy tinh văn

17 18 19

Lục bát chép liền Lục bát chép liền Lục bát chép liền

Tr 82-85 Tr 85-87 Tr 87-89

Nôm Nôm Nôm

24

Nôm

Tr 89-91

20

Nôm

Tr 92-94

21

Nôm

Tr 94-98

22

Lục bát chép liền Song thất lục bát chép liền Song thất lục bát chép liền

朝八位文 Chầu bát vị văn 柳杏公主文 Liễu hạnh công chúa văn 八練龍神文 Bát luyện long thần văn

差仙藥文 Sai tiên dược văn

Nôm

Lục bát chép liền

23

百花文 Bách hoa văn 蓬萊文 Bồng lai văn

Nôm Nôm

Tr 98-103 (5 trang) Tr 103-107 Tr 107-108

24 25

御題 Ngự đề

Hán

Tr 109-124

26

飛來寺賦 Phi Lai tự phú

Lục bát Lục bát Văn xuôi (kiêng huý) Văn xuôi

27

Tr 1241128 Hán Ghi chú: Cột 1: số thứ tự các bài trong văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編

總集

Cột 2: Loại hình văn tự đƣợc sử dụng ghi chép các nội dung của văn bản.

Cột 3: Thể thức trình bày của các bài.

Cột 4: Số trang xuất hiện trong văn bản AB.568.

Văn bản Ứng phó dƣ biên tổng tập AB.568 đƣợc khắc bằng chữ Hán và chữ

Nôm (với tỉ lệ chữ Nôm nhiều hơn), gồm tổng cộng 27 đơn vị tác phẩm, trong đó

chữ Nôm có 16 bài, chữ Hán có 7 bài, 4 bài xen lẫn chữ Hán và chữ Nôm (tính cả

bài Mục lục)

1.5. Vấn đề tác giả của Ứng phó dƣ biên tổng tập 應赴餘編總集

Thông tin về tác giả của văn bản có thể căn cứ vào 3 trang: trang bìa mục lục,

trang tiểu dẫn và trang lạc khoản cuối sách.

- Trang bìa ghi: 北寜武江縣不費總春雷社興福寺藏本 Bắc Ninh, Võ Giàng

huyện, Bất Phí tổng, Xuân Lôi xã, Hưng Phúc tự tàng bản. Dòng chữ cho biết nơi

tàng bản của văn bản tại Chùa Hƣng Phúc, xã Xuân Lôi, tổng Bất Phí, huyện Võ

Giàng, tỉnh Bắc Ninh. Không có thông tin về ngƣời đứng ra in khắc.

- Trang tiểu dẫn ghi: 興福寺住持正大謹識 Phúc Hưng tự, trụ trì Chính Đại

cẩn chí. Dòng chữ này cho biết: ngƣời viết lời tiểu dẫn cho cuốn sách là thiền sƣ trụ

trì Chùa Hƣng Phúc.

25

- Trang lạc khoản xuất hiện 2 dấu triện

và dòng: 大南成泰丙申年中

秋節春雷興福寺主人普齋訂刊.本留本寺以曉後印 Đại Nam, Thành Thái, Bính

Thân niên, trung thu tiết, Xuân Lôi, Hưng Phúc tự, chủ nhân Phổ Trai đính san.

Bản lưu bản tự dĩ hiểu ấn tống. Nƣớc Đại Nam, niên hiệu Thành Thái, năm Bính

Thân, tết trung thu, chủ Chùa Hƣng Phúc, xã Xuân Lôi, hiệu Phổ Trai đính chính

san khắc. Bản lƣu tại chùa để đời sau ấn tống. Ngoài ra có hàng chữ 道属河柳社阮

熙光补甫奉書 Đạo Chúc, Hà Liễu xã, Đỗ Hi Quang phủ phụng thư, cho biết thông

tin về ngƣời viết chữ để khắc ván là Đỗ Hi Quang, ở xã Hà Liễu.

Từ 3 trang trên, có thể nhận định: Văn bản Ứng phó dư biên 應赴餘編 đƣợc

nhà sƣ Chính Đại, hiệu Phổ Trai, trụ trì Chùa Hƣng Phúc đứng ra sao chép, đính

chính và cho khắc ván. Nơi lƣu trữ, phát hành văn bản này cũng tại Chùa Hƣng

Phúc, xã Xuân Lôi, tổng Bất Phí, huyện Võ Giàng.

Chúng tôi đã tiến hành điều tra điền dã để tìm thông tin về tác giả của văn bản

là thiền sƣ Chính Đại. Qua tra cứu, chúng tôi tìm thấy một ngôi chùa có địa chỉ tại

thôn Xuân Bình, xã Đại Xuân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Tuy ngôi chùa hoang

tàn, bụi bặm nhƣng khi vào chính điện vẫn còn lại những bức hoành phi. Trong đó

một bức đề: 遠之有望 Viễn chi hữu vọng; phía trên có hàng chữ nhỏ ghi 春雷興福

寺 Xuân Lôi, Hưng Phúc tự; hai bên có hàng chữ 啟定庚申年季秋吉日造 Khải

Định, Canh Thân niên, quí thu, cát nhật tạo. Một hoành phi khác đề: 慈航廣濟 Từ

hàng quảng tế, bên góc trái có hàng chữ nhỏ ghi tên địa chỉ ngƣời cúng tiến.

Hình 1.16. Hoành phi 1

Hình 1.17. hoành phi 2

26

Từ thông tin của 2 bức hoành phi cho biết: chùa có tên Hƣng Phúc, thuộc xã

Xuân Lôi, thời gian ra đời của bức hoành phi này là ngày tốt, tháng cuối thu năm

Canh Thân, niên hiệu Khải Định (1920). Nhƣ vậy, địa danh Chùa Hƣng Phúc, xã

Xuân Lôi là trùng hợp với địa danh ghi trong văn bản AB.568: Chùa Hƣng Phúc, xã

Xuân Lôi, tổng Bất Phí, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh.

Nhƣng, chỉ bức hoành phi không thể đủ chứng minh địa danh này là nơi từng

in khắc kinh sách, bởi đến nay không còn một dấu tích gì thể hiện điều đó. Hơn nữa

thời gian in ván khắc là năm 1895 niên Hiệu Thành Thái năm thứ 7; niên hiệu của

bức hoành phi là năm 1920 tức năm Khải Định thứ 5, cách nhau 25 năm. Để chắc

chắn không có sự trùng hợp về địa danh và tên chùa, chúng tôi đã đọc văn bia (trụ

đá 4 mặt) của chùa. Trên văn bia có ghi 重修興福大寺石碑 Bia trùng tu chùa Hƣng

Phúc. Xem Hình 1.18, 1.19 và 1.20.

Hình 1.18 trụ đá Hình 1.19 mặt 1 Hình 1.20 mặt 4

Trên một mặt bia khắc bài tiểu dẫn, ba mặt còn lại khắc tên những thí chủ, dân

làng phát tâm công đức, đứng ra xây dựng trùng tu chùa Hƣng Phúc.

Trên bốn mặt (phần đầu mỗi mặt) của trụ đá có 8 đại tự : 重修興福大寺石碑

Trùng tu Hưng Phúc đại tự thạch bi.

Mặt bia 1 khắc: 興福大寺碑

當[...]存古跡名藍興福大寺茲有道場本寺全社集福興功於壬午年五月二十

日大吉好時始造石壁. 四圓上殿一座流傳萬世永[…] 因此修造碑事... 皇朝正

和二十三年六月季日良晨. 小僧住持本寺惠明号法名[...]

27

Mặt bia 4 khắc: 慈山府武江縣春雷社居奉 Từ Sơn phủ, Võ Giàng huyện,

Xuân Lôi xã cư phụng.

Thông tin ghi trên bia đá cho biết: Chùa Hƣng Phúc là một ngôi chùa lớn, là

một đạo tràng tu tập của toàn xã, đƣợc hƣng công trùng tu vào ngày 20 tháng 5 năm

Nhâm Ngọ (1702). Đến ngày tốt tháng 6 năm Chính Hòa thứ 23 (1702) thì hoàn

thành, ngƣời đứng ra viết lời bia này là vị tăng trụ trì chùa pháp danh Huệ Minh. Từ

các dữ liệu trên cho thấy địa chỉ và tên Chùa Hƣng Phúc từ năm 1702 đến năm 1895

(năm in khắc kinh sách) và đến 1920 (năm lạc khoản trên hoành phi) là không thay

đổi. Chúng tôi cũng đã phỏng vấn ngƣời dân địa phƣơng và đƣợc cho biết: “Chùa

này ngày xƣa to lắm, có quả chuông to lắm bị Pháp mang đi mất, cũng có nhiều ván

khắc nhƣng bị bọn tay sai của Pháp đốt rồi; nhà sƣ thì về Bắc Giang hay đi dâu

không ai biết”.

Từ những thông tin trên, có thể kết luận đây chính là Chùa Hƣng Phúc đƣợc

nhắc đến trong văn bản AB.568.

Hưng phúc tự 興福寺 từng đƣợc ghi chép trong sách vở, trải qua thời gian

theo sự biến thiên của thời thế, đến nay không còn là một đạo tràng tu tập lớn của

toàn xã. Ba chữ 興福寺 cũng ít ngƣời biết đến, dân làng chỉ quen gọi là “Chùa ba

thôn” hoặc “Chùa Xuân Lôi”. Hình ảnh chốn tổ ngày nay chỉ còn lại trong lời kể

với tâm tƣ sâu lắng và sự tiếc nuối của các cụ và dân làng Xuân Lôi.

Năm 1986, dân làng dựng lại chùa trên mảnh đất nhỏ hẹp nằm giữa làng. Đến

nay, các công trình vẫn nguyện hiện trạng, gồm có: 1 tam quan đƣợc lợp ngói, làm

bằng chất liệu tre đơn sơ, nay đã xuống cấp; 1 chính điện 3 gian chữ nhị bằng tre.

Chính điện hiện còn 5 bức hoành phi, dù đã lâu năm nhƣng vẫn sáng chiếu ánh mạ

vàng và nét chữ uy nghiêm hiếm có, biểu thị sự huy hoàng của một thời vàng son

vẫn còn lƣu lại. Ngoài sân có 1 cây nhãn rất cổ thụ và 3 ngôi tháp tổ, 1 trụ bia đá 4

mặt, và 1 cổng đi phía trên có đề 過則覺 Quá tắc giác. Xem Hình 1.21 và Hình

1.22

28

Hình 1.21 cổng chùa Hình 1.22 mặt ngoài chùa Hƣng Phúc

Sau khi xác minh đƣợc địa chỉ tàng bản là Chùa Hƣng Phúc, chúng tôi tiếp

tục tìm hiểu các thông tin: Trụ trì Chính Đại hiệu Phổ Trai là ai? đã từng trụ trì chùa

này trong thời gian nào?

Thực tế tại Chùa Hƣng Phúc hiện tại có tƣợng của 3 vị tổ sƣ, và vẫn còn lƣu 3

ngôi tháp tổ. Vậy ngôi tháp tổ này có phải là của 3 vị tổ sƣ đƣợc tạc tƣợng thờ? Có

ngôi tháp nào là của thiền sƣ Chính Đại không?

Trong 3 pho tƣợng tổ tại chùa thờ phụng ngày nay, pho tƣợng ở giữa (1) trên

vạt áo có đề hàng chữ 開山始祖心會禪師像癸未二月初十日入定 Khai sơn thủy

tổ Tâm Hội thiền sư tượng, Quí Mùi, nhị nguyệt, sơ thập nhật nhập định./ Tƣợng

thiền sƣ Tâm Hội là tổ khai sơn đầu tiên, nhập định ngày 10 tháng 2 năm Quí Mùi.

Pho tƣợng bên trái từ ngoài nhìn vào (2) trên vạt áo có ghi 丁未十一月十八日[…],

[…] ngày nhập định ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi; không ghi rõ pho tƣợng này

của tổ tên là gì. Pho tƣợng bên phải (3) trên vạt áo cà sa không có ghi chú. Xem

Hình 1.23, 1.24, 1.25.

Hình 1.23. T. Tổ bên trái Hình 1.24 T. Ba vị tổ Hình1.25 T.TổTâm Hội ở giữa

29

Ngoài ra, trên ban thờ tổ có khung treo 2 bài vị có ghi 伏為覺靈菩薩戒比丘

序清姜號心福禪座下… và 伏為新圓寂序清識號如意覺靈分明顯應㞢靈位

nghĩa là: Phục vì Giác linh Bồ Tát giới Tỉ Khiêu, tự Thanh Khương, hiệu Tâm Phúc

thiền tọa hạ và Phục vì tân viên tịch, tự Thanh Thức, hiệu Như Ý giác linh phân

minh hiển ứng linh vị. Nhƣ vậy, có thể tấm bài vị bằng giấy ghi tên hai vị tổ và

những hàng chữ đƣợc trên áo có thể tƣơng ứng với 3 pho tƣợng tổ, hoặc nếu bài vị

giấy kia không phải là của 2 pho tƣợng tổ còn lại thì cũng là của 2 vị Tổ Thanh

Khương, hiệu Tâm Phúc và tổ Thanh Thức hiệu Như Ý; Ngƣời soạn bài tiểu dẫn trên

văn bia năm (1702) còn lại ở chùa cũng là Tiểu Tăng Huệ Minh chứ hoàn toàn

không có ai là Chính Đại, cũng không có ai hiệu Phổ Trai.

Tra cứu tƣ liệu tại Thƣ viện Quốc gia chúng tôi tìm đƣợc văn bản Thủy Lục

chƣ Khoa 水陸諸科 tập 1 mang kí hiệu R.1052 trang tiểu dẫn có viết:板留北寧武

江春雷興福寺已後印.

啟定九年歲次甲子秋季春雷興福寺僧寺心誠供薦尊師

南無如海塔摩訶沙門心會法諱光明釋堂堂福后禪師化身菩薩蒲座下

南無如山塔摩訶比丘字普齋法諱正大釋淵淵禪師肉身菩薩蒲座下

Bản lưu Bắc Ninh, Võ Giàng, Xuân Lôi tự dĩ hậu ấn.

Khải Định cửu niên tuế thứ Giáp Tý, quí thu, Xuân Lôi, Hưng Phúc tự, Tâm

Thành cúng tiến tôn sư

Nam mô Như Hải tháp, Ma ha sa môn Tâm Hội húy Quang Minh, Thích

Đường Đường Phúc Hậu thiền sư hóa thân Bồ tát bồ tọa hạ

Nam mô Như Sơn Tháp Ma ha Tỉ Khiêu tự Phổ Trai, pháp húy Chính Đại

Thích Uyên Uyên thiền sư nhục thân Bồ tát bồ tọa hạ.

Nghĩa là Bản lƣu tại Xuân Lôi, Võ Giàng, Bắc Ninh. Để đời sau ấn tống.

Chùa Hƣng Phúc xã Xuân Lôi, tiết cuối thu năm Giáp tý (1924) niên hiệu

Khải Định năm thứ 9 đệ tử Tâm Thành truy tiến bậc thầy của mình:

Nam mô Nhƣ Hải tháp, Ma ha sa môn Tâm Hội húy Quang Minh, Thích

Đƣờng Đƣờng Phúc Hậu thiền sƣ hóa thân Bồ tát bồ tọa hạ

30

Nam mô Nhƣ Sơn Tháp Ma ha Tỉ Khiêu tự Phổ Trai, pháp húy Chính Đại

Thích Uyên Uyên thiền sƣ nhục thân Bồ tát bồ tọa hạ.

Nhƣ vậy, trang tiểu dẫn của sách Thủy lục chư khoa 水陸諸科 cung cấp thông

tin sách Thủy lục đƣợc ấn tống nhằm truy tiến nhi vị tổ sƣ là tổ Tâm Hội và tổ

Chính Đại, nhục thân an trí trong tháp hiệu Nhƣ Hải Tháp và Nhƣ Sơn Tháp. Và

ngày cuối thu năm 1924.

Những dòng chữ trên cung cấp thêm thông tin về tác giả Chính Đại có tên húy

là Chính Đại, Pháp danh là Thích Uyên Uyên, tháp thờ là Nhƣ Sơn tháp. Từ đây

đƣa ra phán đoán:

Thứ nhất, trong ba ngôi tháp hiện tồn tại chùa có hai ngôi là của 2 tổ sƣ Tâm

Hội và Chính Đại

Thứ hai, trong ba pho tƣợng tổ có 1 pho chắc chắn của Tổ Tâm Hội và đó là

pho tƣợng ở giữa vì có ghi chú trên tƣợng, vậy tổ Chính Đại có phải là 1 trong 2

pho còn lại hay 2 pho tƣợng đó là của hai tổ khác đƣợc ghi tên tuổi trên bài vị giấy,

hoặc 2 vị Tổ nào đó đã tu hành tại Chùa Hƣng Phúc. Điều này chƣa đƣợc xác định

vì trên tháp tổ không có bia, không có căn cứ về thông tin.

Tóm lại, qua sự đối chiếu sự ghi chép trong trang lạc khoản của văn bản AB.568

và tìm hiểu thực tế tại Chùa Hƣng Phúc, cũng nhƣ tƣ liệu tại Thƣ viện Quốc gia,

chúng tôi không tìm đƣợc một dấu vết nào của những bản khắc ván, cũng không có

đƣợc manh mối nào để tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp, tƣợng đƣợc tạc của nhà sƣ

Chính Đại, hiệu Phổ Trai tại nơi này. Thời gian xoay vần, mọi thứ đã đổi thay, có thể

những gì liên quan tới thiền sƣ Chính Đại và những bản khác ván đã theo gió bụi vô

thƣờng mà mất đi, hoặc ở một nơi nào đó còn lƣu trữ đƣợc bản khác ván và những

thông tin về tác giả mà chúng tôi chƣa đủ duyên tìm đƣợc.

Tham khảo các tƣ liệu trong Viện Nghiên cứu Hán Nôm và một số luận văn

nghiên cứu tác phẩm của thiền sƣ Chính Đại cho thấy chùa Hƣng Phúc là nơi in ấn

khá nhiều tác phẩm Phật giáo và khoa nghi đàn tràng. Cùng với Liễu Chàng, Yên

Viên thì Xuân Lôi (Chùa Hƣng Phúc) là một trong ba địa điểm đƣợc biết đến về

việc in khắc các bản khác ván với nội dung đầy đủ, chi tiết, nét chữ đẹp ngay ngắn.

31

Các văn bản đƣợc in khắc tại chùa Hƣng Phúc do chính nhà sƣ trụ trì thực hiện,

biên tập, sáng tác hiện tồn nhƣ sau:

- Hiệu đính và biên tập Tam giáo chính độ tập yếu (AC.156, Viện Nghiên cứu

Hán Nôm) năm 1892.

- Hƣng công khắc in Tạp tiếu chư khoa (A.1950/1-5, Viện Nghiên cứu Hán

Nôm) năm 1895.

- Đính chính, đằng tả, viết tiểu dẫn và hƣng công khắc in Ứng phó dư biên

(AB.568, AB. 21, Thƣ viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, R.1048, R.1995 thứ Viện

Quốc gia) năm 1895.

- Sáng tác Bách hoa văn in trong Văn bản Ứng phó dư biên

- Đính chính và khắc in Táo vương kinh (ISSI HN 0366; H.v. 205 HXH, Viện

Thông tin Khoa học Xã hội) năm 1896.

- Hiệu đính và khắc in Quy Sơn cảnh sách văn (TN.042, Thƣ viện chùa Thắng

Nghiêm) năm 1899.

Ở trang cuối cuốn Táo vương kinh ghi thông tin ngƣời đính chính và san khắc

là Xuân Lôi, Hưng Phúc tự, chủ nhân Phổ Trai, kèm theo đó là hai con dấu có tên

Phổ Trai và Chính Đại tiểu sĩ. Nhƣ vậy, có thể kết luận Phổ Trai và Chính Đại là

một ngƣời, và những thông tin liên quan tới thiền sƣ chỉ còn lại trên những lời tiểu

dẫn, lời bạt cuối của những bộ sách mà thiền sƣ đã tổ chức biên tập, hiệu đính và

san khắc.

Khi đọc những sách do Chính Đại tiểu sĩ trùng đính, san khắc, chúng tôi thấy

ông có công rất lớn trong việc thu thập, tập hợp các bản Nôm có nội dung khoa nghi

ứng phó trong nhà Phật, đồng thời cũng đính chính, biên tập lại những văn bản đó.

Quan điểm biên soạn sách của thiền sƣ đƣợc thể hiện ở những bài tựa, tiểu dẫn

trong những cuốn sách trên. Tạp tiếu chư khoa tiểu dẫn viết: Đại mục đổ chư khoa,

tế tư thực phi hoạch dĩ, lưu tâm tham đính. Phàm văn trệ giả hoạt chi, tự suyễn giả

hiệu chi, chí như khuyết lược giả tăng bổ chi. Đại tôi mắt trông các khoa, suy xét kĩ

lƣỡng mà không thu nhặt đƣợc gì, để tâm đính chính. Phàm chỗ văn vƣớng mắc thì

làm cho nó trơn tru, chữ sai thì sửa lại cho đúng, đến nhƣ chỗ nào khuyết thiếu thì

32

bổ sung vào. [16,21]. Hay nhƣ bài tiểu dẫn cuối sách Quy sơn cảnh sách văn, thiền

sƣ Chính Đại viết: Uy nghi Cảnh sách diễn âm nhị chương, tiền nhân chi sở tác, dĩ

vi sơ học nhập đạo chi môn. Nhiên văn dữ thời dị, âm vận phả hữu sai thù, tự hoạch

hứa đa ngư lỗ. Thị dư bất tích khổ công, gia tâm kê đính, tỉ đắc tiện lãm nhi dị ư kí

ức./ Hai chƣơng diễn âm Uy nghi và Cảnh sách là trƣớc tác của tiền nhân, là cửa

nhập đạo cho kẻ sơ học. Nhƣng văn và thời đại đã khác, âm vận đều có chỗ sai biệt,

chữ viết nhiều chỗ nhầm lẫn ngƣ lỗ. Vậy nên ta không tiếc công sức tra cứu đính

chính để cho dễ đọc và dễ nhớ. [16, tr.22]

Trong phạm vi tƣ liệu đã tham khảo, chúng tôi thống kê đƣợc những văn bản

chắc chắn đã qua bàn tay sửa chữa, đính chính của thiền sƣ Chính Đại gồm:

- Sa Di uy nghi Quốc âm (trùng đính từ bản giải âm của hòa thƣợng Nhƣ Thị,

in trong Quy Sơn cảnh sách văn).

- Quy Sơn cảnh sách văn diễn âm (trùng đính từ bản giải âm của hòa thƣợng

Khoan Dực, in trong Quy Sơn cảnh sách văn).

- Bảo đường ca (in trong Tạp tiếu chư khoa và Ứng phó dư biên).

Ngoài ra, thông tin của hai cuốn Tạp tiếu chư khoa và Táo vương kinh cũng

cho biết thiền sƣ Chính Đại có sửa chữa, đính chính những nội dung ở trong sách

trƣớc khi khắc ván. Bên cạnh đính chính văn bản cổ, thiền sƣ Chính Đại cũng có

những sáng tác mới đƣợc in trong những cuốn sách trên. Tạm thời chúng tôi thống

kê đƣợc 2 tác phẩm của Chính Đại tiểu sĩ là: Bản diễn âm Thị chúng nhiễu Phật kệ,

giải âm bài kệ của hòa thƣợng Cửu Phong và Cảnh tỉnh ngâm. Hai bài này đều đƣợc

in ở trong sách Quy sơn cảnh sách văn [16, tr.23].

Tóm lại, Chùa Hƣng Phúc là nơi đã từng khắc in nhiều bộ sách Phật giáo từ

Luật tạng đến Ứng phó đạo tràng, gồm cả các bản chữ Hán và chữ Nôm. Ngày nay,

những gì còn lại ở nơi đây là nét thâm nghiêm của cổng chùa với những nét chữ

Nho thoát tục, chỉ còn lại hồn thiêng trên nét chữ uy nghiêm, thấp thoáng ánh huy

hoàng mạ vàng của những bức hoành phi giữa bụi - hƣơng phảng phất, và linh hồn

của ngôi chùa chỉ còn đọng lại trên những pho tƣợng tổ và ba ngôi tháp rêu phong

vẫn hiên ngang qua bao đổi thay của lịch sử, và tàn phá của thời gian.

33

Thiền sƣ Chính Đại, hiệu Phổ Trai cũng không còn ai biết là ngƣời ở đâu, tu

hành thuộc sơn môn nào, năm sinh, năm mất hay cuối đời Ngƣời đã nhập định ở

đâu, tháp thờ nơi nào... tất cả, chƣa ai tìm hiểu đƣợc, chỉ biết có một thiền sƣ tên

Chính Đại, hiệu Phổ Trai, đã từng trụ trì tại chùa Hƣng Phúc, trong khoảng thời

gian làm phƣơng trƣợng tại đây. Ngƣời đã cho ấn tống, in khắc, và đích thân đằng

tả, biên tập, đính chính nhiều kinh sách Phật giáo và khoa nghi đạo tràng. Ngày nay,

dù thời thế đổi thay, bản khắc ván có thế đã mất, hoặc lƣu lạc nơi nào đó, những

trang sách đƣợc lƣu hành có thể đã mục giấy, nhòe chữ, rách tờ thiếu câu... Những

gì còn lại là thể hiện cả một thời huy hoàng của ngôi chùa, cả tâm huyết và năng lực,

dụng công của ngƣời trụ trì và không phụ lòng ngƣời, những cuốn sách ấy vẫn đƣợc

giới nghiên cứu biết đến, hậu học vẫn tìm hiểu và đâu đó vẫn có các Thƣ viện vẫn

in sao, phục chế để lƣu truyền.

Tiểu kết Chƣơng 1

Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 thuộc hệ bản các tác phẩm Phật giáo

nhƣng lại mang đậm tính dân gian, đối tƣợng sử dụng và lƣu truyền các bài trong

văn bản thƣờng là Pháp sƣ và các vãi trong các ngôi chùa Bắc Bộ. Mục đích sử

dụng của văn bản gồm 2 phần, phần tổng tập đƣợc sử dụng trong các nghi lễ độ âm,

Phần biệt tập gồm những bản thi phú, thi cử mang tinh thần truyền đạt giáo lý Phật

giáo cũng với những thú vui tao nhã của các bậc tiền nhân đối với thiên nhiên, cảnh

vật.

Hệ thống văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 hiện còn 5 dị bản:

văn bản AB.568 và AB.21 lƣu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm, văn bản R.1048

và R.1995 lƣu trữ tại Thƣ viện Quốc Gia và văn bản HQ.35 lƣu trữ tại Thƣ viện

Huệ Quang. Qua khảo sát các đặc điểm văn bản học, chúng tôi nhận định 5 văn bản

này tuy dung lƣợng số trang và sự toàn vẹn về nội dung không đồng đều, nhƣng đều

xuất phát từ 1 ván khắc duy nhất. Văn bản AB.568 đã đƣợc chọn làm thiện bản để

dịch chú và nghiên cứu vì có dung lƣợng lớn nhất và nội dung đầy đủ hơn cả.

Bằng phƣơng pháp điền dã thực tế cũng nhƣ khảo sát tƣ liệu Hán Nôm trong

các thƣ viện, chúng tôi đã xác minh đƣợc ngƣời đứng ra đính chính và cho in khắc

34

văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 là thiền sƣ Chính Đại, hiệu Phổ

Trai, nhƣng thông tin về hành trạng còn thiếu hụt cần bổ sung. Gắn liền với thiền sƣ

là địa danh Hƣng Phúc tự, nơi in khắc nhiều sách Phật giáo và các bản khoa nghi

đàn tràng. Cho đến nay, những văn bản đƣợc khắc chữ Tàng bản Hưng Phúc tự 藏

板興福寺 còn đƣợc lƣu trữ khá nhiều trong các Thƣ viện Quốc Gia, Viện nghiên

cứu Hán Nôm.

35

CHƢƠNG 2

GIỚI THIỆU NỘI DUNG CỦA VĂN BẢN

ỨNG PHÓ DƯ BIÊN TỔNG TẬP 應赴餘編總集

Văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 AB.568 là một tập hợp của

27 đơn vị tác phẩm có thể phân chia thành ba nhóm: Các bản khoa nghi chữ Hán và

chữ Nôm nói về ý nghĩa và hình thức các khóa lễ liên quan tới việc cầu siêu cho

ngƣời đã mất, với ý nghĩa mong ngƣời mất đƣợc sinh về cảnh giới tốt đẹp, và thông

qua những lời văn tiếng kệ để răn dạy lối sống thiện lành cho mọi ngƣời; Các bài

chầu văn dùng trong tín ngƣỡng thờ mẫu; Các tƣ liệu văn học và văn học Phật giáo.

Chƣơng 2 sẽ lần lƣợt giới thiệu về những tác phẩm trong ba nhóm này.

2.1. Khoa giáo độ âm trong phần tổng tập của Ứng phó dư biên tổng tập

應赴餘編總集

Khoa giáo độ âm đƣợc ghi chép trọn vẹn trong phần tổng tập của văn bản, thể

hiện trên hai hình thức là các khoa nghi đƣợc chép bằng chữ Nôm gồm có 6 bản văn,

còn lại 3 nhóm các bài tán, nghi thức và phụ biệt ghi đƣợc chép bằng chữ Hán.

2.1.1. Các khoa nghi chữ Nôm trong Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編

總集

2.1.1.1. Bảo đường ca, Phóng xá bản và Chèo thuyền bản

 Bảo đường ca 保塘歌

Bảo đường 保塘 là bản hạnh đƣợc đọc theo giọng ngân gần nhƣ hát của các

già vãi, bản này còn đƣợc gọi là bản Rải cầu sử dụng trong lúc di quan.

保:保养也: bảo là giữ gìn, chăm sóc, nuôi dƣỡng vậy

塘: 築土遏水曰塘: đắp đất ven nƣớc gọi là đƣờng, chỉ đƣờng cái, đƣờng đi

歌:詠也,長引其聲以詠也;歌者,柯也。以聲吟詠上下,如草木有柯葉也: Ca

là vịnh vậy, âm thanh kéo dài để ngâm vịnh; còn nói Ca là khả vậy, âm thanh vịnh

lên xuống, nhƣ cỏ cây có cành lá. [7, tr.23+288+103]

36

Bảo đường ca 保塘歌 là bài ca gồm 77 câu lục bát mang ý nghĩa nhƣ tên gọi

của bản hạnh - bài ca dặn dò vong linh trên con đƣờng tái sinh, hãy giữ gìn trên

đƣờng đi (đƣờng ở đây có thể hiểu là con đƣờng tái sinh).

- Nghi thức thực hiện: Theo phong tục dân gian, trên đƣờng đƣa linh cữu từ

nhà đến nghĩa địa sẽ có khoảng 49 già vãi cầm 49 chiếc phƣớn đi hai bên, thêm

khoảng 12 ngƣời đội cầu đi ở giữa. Sau đó đến cờ tang, trống kèn và cuối cùng là

linh cữu. Khi bắt đầu rải cầu ra và trên đƣờng đi các già vãi sẽ đọc bản Bảo đường

ca, trƣớc là để dặn dò vong linh, sau là để khuyên răn con cháu, (nghi thức này vẫn

đƣợc thực hiện tại vùng Kinh Bắc và phía Tây Hà Nội):

“Nam mô Di Đà Như Lai,

Sắc không không sắc thiện tai đạo thường.

Đem lời tâm pháp diễn dương,

Linh hồn ghi lấy biết đường y qui” [tr.3]

- Ý nghĩa khoa nghi: Đây là một bản hạnh kệ đƣợc đúc kết từ hệ thống kinh

điển, lời lẽ và câu chữ rút ra từ việc hiểu nghĩa lý Kinh Phật cùng các tích truyện

Phật giáo, điển cố văn học. Bài ca đƣợc sáng tác theo thể thơ lục bát, là thể thơ rất

dễ hiểu và nhanh thuộc, có thể truyền miệng là sự kết hợp của giáo lý Phật giáo và

tín ngƣỡng dân gian nhằm mục đích khuyên răn, dẫn dăt con ngƣời hƣớng tới giá trị

chân thiện mĩ. s

 Phóng xá bản 放赦本

Phóng xá 放赦 ở trang mục lục của văn bản ghi chữ 攽 ban, ngờ rằng chỉ cho

khoa ban xá. Nhƣng khi xem xét nội dung của văn bản, cho thấy đây là nội dung

của khoa nghi Phóng xá. Đƣa ra phán đoán là có thể trong phần mục lục khắc nhầm

chữ 放 thành chữ 攽.

Khoa nghi đƣợc ghi trên 10 trang, khoảng 600 chữ, là một khoa cúng nhƣng

đƣợc thể hiện bằng những âm giọng có ngữ điệu, có sử dụng những nhạc khí, nhạc

cụ kèm theo những tiết tấu của một bản chèo.

37

放赦 Phóng xá cùng với khoa nghi thỉnh xá là nghi thức cầu quan quản ngục

xóa tên các chân linh, vong hồn ra khỏi danh sách ở địa ngục để đƣợc lên lễ Phật

nghe Kinh, Qui y siêu thoát.

- Nghi thức thực hiện: Phép cúng đàn tràng, thƣờng đƣợc gọi nôm là đàn

“cúng giải oan bạt độ” hay còn gọi là “đàn thủy lục” thƣờng đƣợc diễn ra trong 3

ngày. Ngày thứ nhất: chƣ tăng vân tập tụng kinh, sái tịnh tịnh đàn tràng. Ngày thứ

hai: thỉnh Phật tiếp linh, phát tấu và khoa cúng thỉnh xá. Ngày thứ ba: cúng khai

phƣơng và phá ngục, mông sơn. Khoa cúng phóng xá này diễn ra vào ngày thứ hai,

sau khi đã cúng thỉnh Phật, phát tấu và tụng kinh điển rồi.

Thứ tự của đàn tràng đƣợc thể hiện trong văn bản nhƣ sau:

“Tiệc Pháp sự khai phương thỉnh xá,

Phá ngục giải khiên.

....Bữa trước đã tụng kinh bái sám,

Thầy lại tâu sớ điệp quan đơn.

Ban sắc này đệ xuống minh quan,

Bảo cho biết mai thầy phá ngục.” [tr.14]

- Ý nghĩa khoa nghi: Mục đích cúng của khoa nghi này đƣợc thể hiện qua

những lời văn:

“Chúng tôi đây vâng lệnh Phật khiển,

Tê sắc văn phi đệ Diêm vương.

Trình các quan điển ngục xem tường,

Xin phóng xá tù đồ cầm cố”. [ tr.22]

Có thể nói, Phóng xá bản vừa là một khoa cúng, vừa là một tác phẩm văn học

với nhiều điển tích điển cố, lại vừa là một nét tín ngƣỡng Phật giáo hòa quyện với

văn hóa dân gian Việt Nam nhằm mục đích khuyến thiện trừng ác, răn nhắc lối sống

thiện lành.

 Chèo thuyền bản 掉船本

掉船本 Chèo thuyền bản. Chữ 掉 trạo đọc trệch âm là chèo, có dung lƣợng 81

câu lục bát, xen lẫn câu thất ngôn trình bày theo lỗi diễn xƣớng của một bản chèo.

38

Chèo thuyền bản 掉船本 chỉ chung cho một hình thái, với cách thức là có 1

ngƣời hoặc 2 ngƣời đứng đầu cầm bạt chèo, những ngƣời còn lại đứng thẳng hàng

phía sau đọc và thực hiện các động tác phụ họa với ý nghĩa chèo thuyền đƣa ngƣời

mất (vong linh) đang chìm đắm nơi sông mê tới bến bờ giải thoát.

- Nghi thức thực hiện: Chèo thuyền đƣợc thực hiện trên đƣờng đƣa linh cữu đi

hạ huyệt, (trên đƣờng di quan, khi đi hết đƣờng làng, đến ngã ba cuối cùng của

đƣờng di quan sẽ có nghi thức nghỉ giữa đƣờng để thắp hƣơng và dành thời gian

cho các già vãi đọc bản chèo thuyền, hoặc chèo ngay trƣớc linh cữu trƣớc khi di

quan, hoặc chèo ở trƣớc huyệt trƣớc khi hạ huyệt, tùy từng địa phƣơng); Chèo

thuyền bản 掉船本 cũng có thể đƣợc thực hiện trong khoa cúng cầu siêu đƣợc các

già vãi đọc lên xen giữa các khoa cúng hoặc sau khi đã cúng xong.

Chèo thuyền đƣợc coi là một nét văn hóa riêng biệt chỉ có tại các ngôi chùa

Bắc Bộ, nó tạo nên dấu ấn riêng của Phật giáo Bắc Bộ, xây dựng lên hình ảnh ngƣời

nữ Phật tử rất riêng, mang nét dân gian gần gũi với danh xƣng “già vãi”.

Từ ý nghĩa chuyên chở ngƣời đang còn chìm đắm nơi sông mê, bể khổ đến bờ

giải thoát mà Chèo thuyền đƣợc chuyển thế sang nhiều hình thức:

+ Chèo thuyền vui, chở khách vào - ra cửa chùa, trong dịp tết, lễ hội, dịp tất

niên, thƣợng nguyên, giỗ Tổ: Ở những ngôi chùa xung quanh xã hoặc các xã lân cận

nhau, các già vãi của các chùa sẽ lần lƣợt tới chùa nhau để vãng cảnh, lễ Phật và

mừng thầy. Để vào đƣợc trong chùa sẽ có hình thức chèo đò đƣa vào, và chèo đò

giao lƣu giữa các vãi ở các nơi đến lễ hội.

+ Chèo thuyền trong đám tang, hình thức chèo thuyền tại ngã ba cuối cùng

trên đƣờng tới nghĩa trang.

+ Chèo thuyền trong đám cúng cầu siêu (thƣờng là đám cúng tuần 35 hoặc

49): Sau khi cúng các khoa độ âm đã xong, nếu gia chủ tín tâm có lời nhờ thì các

già vãi sẽ đọc bài chèo đò (có nhiều bài, thời gian nhiều thì đọc bài Chèo đò huyết

hồ, thời gian ngắn thì đọc các bản thƣờng).

Tóm lại, chèo thuyền, có nhiều thể loại để phù hợp với từng trƣờng hợp khác

nhau. Trong mỗi thể loại lại có nhiều bài mang những nội dung tƣơng tự nhau. Mỗi

39

vùng miền, mỗi ngôi làng thì già vãi tại mỗi chùa lại có những bản đọc khác nhau,

tuy câu chữ không đồng nhƣng nội dung lại chung nhất, dựa trên nền tảng căn bản

là giáo lý Phật Đà, đƣợc chuyển tải qua hình thức lục bát.

Chèo thuyền bản 掉船本 ở đây mang nội dung là bản Chèo đò huyết hồ, thể

loại chèo đò độ vong linh, đƣợc thực hiện sau khi khoa cúng độ âm đã hoàn tất:

“Đàn tuất hồ đã mãn tất, lắng nghe tôi dẫn tích huyết hồ” [tr.23]. Ngƣời thực hiện

là già vãi tại chùa, theo yêu cầu của ngƣời thực đứng ra làm lễ (gọi là gia chủ, trai

chủ, tín chủ).

- Ý nghĩa của chèo thuyền: Dựa trên tích truyện Mục liên cứu mẹ của Phật

giáo đƣợc ghi chép trong kinh Mục Liên Sám Pháp với bà Thanh Đề do tạo nghiệp

ác mà bị đọa vào địa ngục a tỳ, hết a tỳ lại bị đọa sang ngục huyết hồ.. và nhân vật

Mục Kiền Liên tôn giả làm mọi việc để cứu mẹ thoát khỏi u đồ.

掉船本 Chèo thuyền bản đƣợc sử dụng trong đám cúng cầu siêu độ, với ý

nghĩa mong mỏi ngƣời quá vãng đƣợc tiêu dao nơi cảnh giới an lành và răn nhắc

ngƣời còn kẻ mất về đạo làm con, nết hiếu thảo.

2.1.1.2.

Triệu linh thán và phụ linh phan luyện văn

Triệu linh thán 召靈嘆

Văn bản 召靈嘆 Triệu Linh thán gồm 51 câu trong đó có 49 mỗi câu 4 chữ và

có 3 câu mỗi câu 2 chữ. Trình bày theo lối kệ răn nhắc.

Triệu linh thán 召靈嘆 là những lời than, đƣờng thỉnh vong linh về ngự nơi

linh sàng, đỉnh lễ và quy y Tam bảo, lắng nghe lời kinh tiếng kệ, phát nguyện thụ

Bồ đề tâm giới, sám hối phát nguyện trở thành Phật tử, nghe lời cảnh tỉnh rồi phó

chúc cho các vong linh sinh về miền Tịnh độ. Khoa cúng này đƣợc thực hiện đầu

tiên trong hệ thống các bản cúng của khóa lễ cầu siêu

- Nghi thức thực hiện: Triệu linh thán 召靈嘆 là phiên bản diễn Nôm từ khoa

cúng Tiếp linh trong sách Tạp tiếu. Sau khi đọc những lời triệu thỉnh chƣ Bồ Tát,

chƣ tôn sứ giả (trong bản 召靈嘆 Triệu linh thán này không chép) pháp sƣ sẽ đọc 3

lần triệu thỉnh. Mỗi đƣờng thỉnh mang nội dung tuy không đồng nhƣng lại có chung

40

quan điểm về việc nhắc nhở lí vô thƣờng cho ngƣời tham dự lễ và vong linh, đƣợc

truyền tải qua âm thanh ngân nga, nhạc điệu của những dụng cụ pháp khí

Tùy theo độ lớn nhỏ của đàn lễ mà số ngƣời tham dự đàn tràng nhiều ít khác

nhau.

+ Khóa lễ cầu siêu thông thƣờng (cúng tuần 35, 49), chỉ 1 ngƣời cúng sử dụng

chuông và mõ.

+ Đám lễ Giải oan bạt độ với qui mô lớn có thể là 3 ngƣời, 1 ngƣời ở giữa gọi

là sám chủ đọc các đƣờng thỉnh chính, cầm chuông, mõ, 2 ngƣời bên cạnh sẽ đọc

các đƣờng thỉnh phụ và hòa âm cùng... trong đó có một ngƣời sử dụng Nạo bạt và

một ngƣời sử dụng trống. 3 ngƣời với ba dụng cụ khác nhau nhƣng cùng hòa chung

1 nhịp trầm bổng, nhanh chậm tạo nên một âm điệu riêng của đàn tràng.

+ Đàn lễ lớn nhƣ đàn kết hay phá ngục, lục cúng, số ngƣời tham gia cúng có

thể lên tới 5 ngƣời hoặc 7 ngƣời. Trong đó, có 3 ngƣời nhƣ trên đã nói, có thêm 1

ngƣời thổi kèn, 1 ngƣời đánh trống cái, và 1 ngƣời đánh đàn nhị, 1 ngƣời đánh

thanh la. Tất cả những dụng cụ trên đƣợc hòa tấu cùng nhau tùy theo từng đƣờng

thỉnh và từng cung bậc của khoa cúng.

Khoa cúng tiếp linh có sử dụng sớ tiếp linh, khi sám chủ tuyên sớ xong thì gia

chủ quỳ gối chấp tay, lòng thành khấn nguyện, sau đó nhận lá sớ, lễ ba lễ và đem đi

hỏa hóa.

- Ý nghĩa khoa nghi: Đƣờng thỉnh thứ nhất, nhắc nhở ngƣời sống cũng nhƣ kẻ

chết biết rằng mệnh con ngƣời thƣờng ví nhƣ chiếc thuyền, lênh đênh trên mặt nƣớc

trên dòng sông mê, tƣởng chừng yên ả, nhƣng rồi theo qui luật “thành, trụ, hoại,

không” tan rã. Thuyền hỏng có thể sửa, chứ thân con ngƣời đã tắt hơi thở thì phải

theo sự đổi dời “sinh, trụ, dị, diệt” không có gì tồn tại:

“Con người ta sống ở trên đời,

Khác chi như chiếc thuyền trôi...” [tr.31]

Đƣờng thỉnh thứ hai, khuyên ngƣời không nên bám chấp, hãy buông xả vạn

duyên. Bởi lẽ thế sự vô thƣờng khác gì nhƣ loài ong làm tổ, con ngƣời ta sống ở

trên đời tìm đủ mọi cách, mƣu này kế nọ để kiến thiết cửa nhà, tạo dựng thanh

41

danh... mà không biết rằng một khi gió nghiệp thổi tới, mệnh hết chỉ còn 2 bàn tay

trắng, tất cả đều bỏ lại, không mang theo đƣợc gì... Vì vậy, xin đừng bám chấp dù là

tiền tài hay danh vọng, dù là địa vị hay cơ đồ... để có thể thong dong nơi miền Tịnh

độ... Nếu còn bám chấp thì “trọng thiên xứ trụy” - bám chấp ở cái gì thì bị rơi vào

cảnh giới đó:

“Thân người chẳng khác,

Như thể loài ong.

Rày có mai không,

Sự đời là thế” [tr.32]

Đƣờng thỉnh thứ ba, nêu rõ sự không bền lâu vĩnh cửu giữa các mối quan hệ từ

cha con, vợ chồng đến thân tình bè bạn. Trình bày giáo lý luân hồi nghiệp báo: mỗi

ngƣời sinh ra đều do nghiệp, hoàn cảnh sống nhƣ thế nào đều do nghiệp tạo tác từ

vô thỉ kiếp cho đến hiện tại chi phối.

“Nên biết rằng ơn sâu bác mẹ có lúc phân ly,

Nghĩa cả vợ chồng chung qui hữu biệt.

Loài người nhất thiết,

Như điểu đồng lâm...” [tr.32]

Ngày nay, những khoa cúng Tiếp linh vẫn đƣợc các chùa thực hiện trong

phƣơng tiện độ âm. Tuy nhiên, thƣờng sử dụng bản Hán trong khoa cúng Thủy lục

chư khoa hoặc Tạp tiếu khoa. Do sự phát triển của xã hội mà các bản khoa cúng

đƣợc phục dựng nhiều và in ấn phổ rộng, dẫn đến câu chữ các bản khoa cúng Triệu

linh 召靈 hiện nay hầu nhƣ mỗi nơi một khác. Tuy thiên quyển vạn lời nhƣng chung

qui vẫn chỉ có 3 đƣờng thỉnh với nội dung qui nhất nhƣ trên.

Tóm lại, lời thán cúng Tiếp linh và các khí cụ đi kèm tùy từng vùng miền, tùy

ngƣời chủ lễ và đàn lễ mà có sự không đồng, nhƣng nội dung và hình thức thực hiện

hầu nhƣ không khác.

 Phụ linh phan luyện văn 附靈幡練文

Bài Phụ linh phan luyện văn 附靈幡練文 gồm 25 câu lục bát, viết bài văn

giúp vong linh nƣơng vào cành phan.

42

Trong sách Thủy lục có một khoa cúng là Thụ linh phan, thƣờng gọi là

Thượng phan khoa: Nghi thức treo lá Phan lớn để phụng thỉnh chƣ Phật, Bồ tát

thánh hiền, cũng nhƣ bố cáo để cho chƣ tiên linh, hƣơng linh ông bà cha mẹ, tổ tiên

chƣ âm linh cô hồn về dự lễ.

Phụ linh phan luyện văn 附靈幡練文 là văn thỉnh vong linh nƣơng vào cành

phan (dải lụa trắng, hoặc phan giấy treo trên ngọn cây, hoặc có thể là ngọn của cành

tre).

Trong tín ngƣỡng Phật giáo có nghi thức Thụ phan còn gọi là thượng Phan là

nghi thức treo Phan lên trong những dịp lễ, (gần nhƣ lễ treo cờ tổ quốc) nhƣng phụ

phan trong văn bản mang nghĩa là phan chỉ danh cho ngƣời chết nƣơng náu. Bởi lẽ,

theo quan niệm dân gian, linh hồn sau khi chết, thần thức sẽ phảng phất trong mây

gió, nƣơng nơi ngọn cỏ cành cây. Vậy nên, chặt cành tre có ngọn, treo lá phan bằng

giấy hoặc bằng vải lụa trắng, để cho linh hồn ngƣời mất ngự tại đó và sẽ “nhập” vào

ngƣời thân nào đó mà vong linh “hợp”

- Nghi thức thực hiện: Bản luyện văn phụ phan này đƣợc ghi chú sử dụng

trong 2 trƣờng hợp, trƣờng hợp thứ nhất sử dụng vào rằm tháng bảy (trung nguyên),

thứ hai là sử dụng vào những khóa lễ cầu siêu thông dụng. Trên cành phan có viết

đầy đủ các thông tin tên tuổi, húy hiệu, ngày tháng năm sinh và ngày tháng năm mất

của vong linh, nơi an táng...

Phụ linh phan luyện văn 附靈幡練文 đƣợc thực hiện vào khoảng thời gian sau

khi đã cúng Phát tấu, Triệu linh xong.

- Ý nghĩa khoa nghi: Theo nội dung của văn bản cho thấy lễ Phụ linh phan

luyện văn 附靈幡練文 đƣợc thực hiện bằng cách thầy pháp sƣ, hoặc già vãi sẽ cầm

cành phan rủ vào từng ngƣời trong gia quyến, nếu vong linh hợp ngƣời thân nào thì

xin hãy nhập vào ngƣời đó, nƣơng nơi ngƣời đó để ngƣời đó thay thế vì vong linh

mà lễ Phật, quy y.

“Hồn thiêng tốc giáng thần phan,

Triệu linh tốc giáng trai đàn...

Xuống cùng tộc thuộc tông thân,

43

Kẻ xa người gần hồn có yêu ai

Thần phan rủ tới từng người....” [tr. 33]

Ngày nay xã hội phát triển, trên tinh thần nhân văn, từ bi bác ái để cho ngƣời

sống không lƣu luyến và đau thƣơng thêm nữa khi nghĩ về vong linh đã quá vãng,

nên nghi thức này hầu nhƣ không đƣợc thực hiện, chỉ một số vùng nhƣ Nam Định,

Ninh Bình, Thái Bình.... và một số chùa thuộc vùng Kinh Bắc vẫn duy trì nghi thức

này.

 Thỉnh âm hồn văn dụng quốc âm 請陰魂文國音

Bài văn gồm có chỉ 32 dòng, 667 chữ Hán Nôm, trình bày theo thể chính là

thơ lục bát, ngoài ra còn viết thể 4 chữ, hoặc các câu 8-8 liền nhau.

Thỉnh âm hồn văn dụng quốc âm 請陰魂文國音 dùng trong việc thỉnh các cô

hồn và chân linh, hƣơng linh. Trong văn bản sử dụng chữ âm hồn mà không phải là

cô hồn. Cô hồn chỉ riêng cho các vong hồn cô đơn không nơi nƣơng tựa, không

ngƣời hƣơng khói. Âm hồn là chỉ chung cho tất cả cấc thành phần đã mất, không

nhìn thấy hình dáng thuộc về cõi âm.

- Nghi thức thực hiện: Xét theo tinh thần tuyệt đối, tính không Bát Nhã của

Phật giáo thì không có ngày và đêm, cũng chẳng kể thời gian sáng tối, nhƣng

phƣơng diện nhập thế “tùy thuận chúng sinh nhi vi lợi ích” thì các khoa nghi có sự

chuẩn mực về thời pháp. Chƣơng Tảo thực nói “Phật ngọ thực, chư thiên tảo thực,

súc sinh ngọ hậu thực, ngã quỷ dạ thực”. Vì vậy, thời gian tổ chức nghi thức âm

hồn đƣợc thực hiện vào xế chiều, khi mặt trời ngả bóng về tây, tia sáng chiếu lên

phía sau những ngọn núi. Đây là lúc “lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra”.

Văn bản Thỉnh âm hồn văn dụng quốc âm 請陰魂文國音 có thể đƣợc dùng

trong 2 trƣờng hợp: thứ nhất là nghi lễ Chào các quan của già vãi nơi các ngôi chùa

Bắc Bộ, tức là sau khi quý thầy Pháp sự cúng thí thực thì các già vãi sẽ ngồi nghiêm

trang có chuông, không dùng mõ và tiếp đọc bản này. “...Nay thời gái ở bên hữu,

trai ở bên tả, cháo cơm dẫu có ít nhiều, ăn uống đều cùng thong thả, tụng chân

ngôn ít biến nên nhiều, niệm bí chú không mà có cả....”

44

Thứ hai có thể sử dụng trong các buổi lễ mông sơn chẩn tế, đây đƣợc coi là bài

giản lƣợc.

- Ý nghĩa khoa nghi: Bản Thỉnh âm hồn dụng quốc âm 請陰魂文國音 có dung

lƣợng ngắn nhƣng đủ 3 phần: Phần đầu là giới thiệu nguyên do của buổi lễ và duyên

khởi của nghi thức tỉnh âm hồn: Từ “Mảng nghe rằng.... tới bậc thượng thiện tinh

linh thân chá”; Phần giữa liệt kê ra 10 loại cô hồn: từ “Kìa như....bơ vơ góc bể ven

trời”; Phần cuối là khuyên răn chúng âm hồn buông bỏ lòng tham, cải ác làm lành

để “tìm về nơi cõi Tịnh nghỉ ngơi”. Hàm lƣợng văn bản không nhiều, nhƣng đƣa ra

đủ các thông tin, từ duyên do của việc chẩn tế cô hồn là “thượng cúng hạ thí” trên

dâng cúng chƣ Phật Bồ tát thánh hiền, thứ đến hạ lễ bày đàn cúng thí cho chúng

sinh:

“Trên đã dâng Tam bảo Thánh thần,

Dưới lại thỉnh mười loài cô quả...” [tr.43]

Lại nêu ra duyên khởi của nghi thức chẩn tế cô hồn trích từ trong kinh Phật

Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngã Quỉ Đà La Ni: “Một đêm tôn giả A Nan, đệ tử

Phật thấy một con quỉ đói tên là Diệm Khẩu, xin A Nan cho ăn cơm. A Nan về hỏi

Phật, nhân đó Phật chỉ bày phương pháp thí thực có ngạ quỉ tức quỉ đói. Phật đã

dạy những câu Đà la ni (thần chú) để đọc tụng trong lễ thí thực, đọc các thần chú

này lên thì mỗi con ngạ quỷ đều có thức ăn. Người nào thực hành phép thí này thì

phúc đức và mạng sống đều được tăng trưởng dài lâu.” [18, tr.495]

Hình ảnh Diệm Quỷ chính là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, vì nhân

duyên với Phật Thích Ca từ xƣa kia và cũng vì muốn cứu vớt chúng sinh nơi 3

đƣờng khổ mà hóa hiện ra “... Đến nay đức Thích Ca thành Phật, Quan Âm bí mật

hóa hiện ra cái thân Diệm nhiên Quỷ vương, để bảo A Nan thưa thỉnh nơi Phật mà

nói ra thần chú đây, đặng rộng giúp cả chúng sinh ở cõi u minh và cõi dương” [1,

tr.516]. Nguyên do của nghi lễ chẩn tế đƣợc chép từ các kinh điển Phật giáo tóm

lƣợc qua câu trong văn bản:

“Cảm ơn đại Sĩ hiện thân.

Nhờ đức A Nan khai hóa...” [tr.43]

45

Cụ thể, trong phần giữa của văn bản đã nêu ra đại diện 10 loại cô hồn theo thứ

lớp sau:

1. Công khanh tƣớng tá

2. Tƣớng sĩ đảm đƣơng (những ngƣời đi lính)

3. Trai lành gái tốt buôn bán xa quê

4. Kẻ mang lao tù

5. Ngƣời mang thai đọa (thai nhi sa sảy)

6. Những kẻ tu hành (trƣớc chẳng khéo tu)

7. Khách dạo giang hồ (ngƣời thích ngao du)

8. Ngƣời buôn thủy bộ (những kẻ buôn bán)

9. Ca xƣớng mỗi loài (kỹ nữ)

10. Học đạo tìm thầy (những kẻ sĩ tử)

Nói là 10 loại cô hồn nhƣng thực chất là chỉ chung cho tất cả các thành phần

từ thƣợng lƣu đến hạ đẳng, pháp giới chúng sinh:

“Khuyên mười loài trệ phách cô hồn,

Cập nhất thiết phi đồ ác đạo.” [tr. 46]

Sau khi đã liệt kê và thỉnh mời các âm hồn về, phần cuối của văn bản lại đƣa

ra những lời khuyên bảo từ việc thứ lớp hƣởng thụ cho tới khuyên phát tâm hỷ xả để

sinh về cõi Tịnh:

“...Chẳng được cậy lớn mà tranh bé...

Trước đã nhờ giải thoát oan khiên,

Sau tiếp dẫn lên thuyền Bát nhã....” [tr.47]

Tóm lại, nội dung của bản Thỉnh âm hồn văn dụng quốc âm 請陰魂文國音 lời

lẽ dễ hiểu, ngắn gọn mà xúc tích, nêu ra đƣợc điều cần có của 1 bản văn nghi lễ

Phật giáo gồm duyên khởi, nội dung liệt kê các thành phần đối tƣợng đƣơng cơ của

nghi lễ và những lời răn nhắc khuyên bảo, truyền tải đƣợc thông điệp từ bi, tế độ

chúng sinh của Phật giáo tới mọi loài trên tinh thần bình đẳng bác ái.

46

 Hựu quốc âm văn 又國音文

Bài 又國音文 Hựu quốc âm văn gồm có 98 đôi lục bát, thi thoảng chen lẫn

câu bảy chữ. Cuối bài còn in thêm bài kệ thất ngôn bát cú, và bài kệ tam qui y. Tổng

cộng có 109 câu.

Hựu quốc âm văn 又國音文 là bài văn tế âm quốc ngữ, nói về việc thỉnh các

loại âm hồn, cô hồn, là thể loại văn chiêu hồn, văn tế cô hồn, văn thỉnh âm hồn...vì

phía trên đã có bài Thỉnh âm hồn văn dụng quốc âm nên bài này tác giả không ghi

tiêu đề của văn bản mà chỉ đề hựu quốc âm văn - ngụ ý “lại có một bài văn quốc

ngữ về cô hồn”

- Nghi thức thực hiện: Nghi thức thực hiện gần giống nhƣ nghi thức thực hiện

của văn bản Thỉnh âm hồn văn dụng quốc âm nhƣ trên trình bày; nhƣng văn bản này

đƣợc ghi chú dùng trong dịp lễ Trung nguyên - Lễ Vu lan báo hiếu, lễ cô hồn rằm

tháng bảy. Và thực hiện ở trong lễ Mông sơn đại đàn khi có sự việc lớn nhƣ khánh

thành chùa, đại đàn cầu siêu phổ độ....

- Ý nghĩa khoa nghi: Về nội dung, văn bản Hựu quốc âm cơ bản giống văn bản

Thỉnh âm hồn văn dụng quốc âm. Hai văn bản trên đều đƣợc khắc in năm 1895, thời

gian đƣợc khắc và lƣu truyền rất sớm. Nội dung của bài này không khác nhiều với

bản Văn tế thập loại chúng sinh đƣợc cho là của Nguyễn Du hiện đang đƣợc lƣu

truyền phổ biến, nhƣng ngôn từ không hoàn toàn giống, điển hình ở văn bản này

ghi:

“Tiết tháng bảy mưa ngâu sùi sụt,

Gió heo may lạnh lọt xương khô.

Não nùng thay mấy chiều thu...[tr.47]

Trong bản thông dụng thƣờng gặp lại ghi:

“Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,

Toát hơi may lạnh buốt xương khô.

Não nùng thay buổi chiều thu...”

Nội dung văn bản Hựu quốc âm văn cũng gồm 3 phần nhƣng có dung lƣợng

dài gấp đôi so với bản Thỉnh âm hồn văn dụng quốc âm. Phƣơng thức trình bày chủ

47

đạo là câu thơ lục bát, xen lẫn những câu 7 chữ. Phần đầu: từ “Tiết tháng bảy mưa

ngâu sùi sụt... Giải oan cứu khổ dắt về Tây phương": mang nội dung giới thiệu cảnh

tƣợng thời tiết tháng 7 để con ngƣời chạnh lòng thƣơng tới những “cõi âm” và cảm

thƣơng mà lập đàn siêu độ thỉnh mời tới “cô hồn chư vị”.

Phần thứ hai: từ “Cũng có kẻ toan đường kiêu hãnh... Nghe lời triệu thỉnh lại

mà chứng minh” với 141 câu lục bát kèm lẫn câu 7 chữ đã liệt kê ra nguyên nhân

dẫn tới cái chết và miêu tả cảnh giới mà các loài cô hồn đang phiêu dạt. Theo văn

bản thì không chỉ có thập loại mà có 13 loại khác nhau:

Các loài cô hồn đƣợc liệt kê nhƣ sau:

1. Những bậc vua chúa “những lăm cất gánh non sông”.

2. Những phận nữ nhi khuê các “những ả màn lan trướng huệ”.

3. Những bậc quan lại “đấng mũ cao áo rộng”.

4. Tƣớng quân bại trận “những đấng bài binh bố trận”.

5. Tham giàu buôn bán chết đƣờng “có những kẻ tìm đường trí phú”.

6. Những kẻ tham danh chết nơi đất khách “kẻ rắp cầu chữ quí”.

7. Kẻ chết đuối “qua sông vượt bể”.

8. Đi lính chết trận “góp lính, bỏ việc nhà đi gánh việc quan”.

9. Kỹ nữ lầu xanh “lúc tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa”.

10. Những kẻ ăn xin chết đƣờng “vì cơ hàn hành khát mọi nơi”.

11. Những kè oan khuất tù đày “cũng có kẻ mắc oan tù rạc”.

12. Những “cô nhi tấm bé”.

13. Những kẻ chết do thiên tai, họa hoạn “lôi đánh, ngã cây, sa giếng, dứt

dây...”

Phần thứ ba: từ “Ân chư Phật thùy tình cứu khổ... Phổ nguyện nhất thiết siêu

thăng Bảo đài” là những lời khuyên răn, cảnh tỉnh cho chúng cô hồn, những đồng

thời đó cũng là những lời pháp nhũ dành cho tất cả những ai có mặt tại đàn tràng:

“Dám khuyên lấy Phật làm lòng,

Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.” [tr.54]

48

Sau phần cuối cùng của bài Hựu quốc âm văn, còn có một bài kệ không có tên,

tạm gọi là bài kệ Hàn lâm, mang chức năng nhƣ bài cảnh sách chúng âm hồn

Nội dung bài kệ gồm có 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Hai câu đầu giới thiệu về chốn

hàn lâm nơi tối tăm lạnh lẽo, là nơi của những âm hồn cƣ ngụ. Hai câu tiếp nói lên

sự đơn côi, nỗi khổ mà các âm hồn nơi hàn lâm sở phải chịu đựng. Hai câu 5-6 nhƣ

một lời khuyên lại cũng là lời nhắn nhủ rằng nay gặp cửa phƣơng tiện, hãy cố gắng

để thoát khỏi chốn u đồ. Hai câu cuối là rốt ráo của cả bài kệ, rằng cảnh giới giải

thoát hay địa ngục khổ đau chỉ cách nhau trong gang tấc, nếu chúng âm hồn ở Hàn

lâm sở biết qui y Phật, biết đƣợc nỗi khổ niềm đau rồi và muốn giải thoát sự khổ

đau ấy, chỉ cần phát tâm thiện lành, một niệm cần cầu giải thoát rũ sạch tham sân si

liền “thảnh thơi thoát khỏi chốn Hàn lâm”.

Tóm lại, văn bản Hựu quốc âm văn là một bài than vãn về số phận của những

cô hồn đã tùy theo nghiệp tạo tác mà đang nổi trôi trên dòng sông sinh tử, qua

những lời tƣờng thuật kể lể đó đã toát lên giáo lý nhân quả “nhân như hà, quả như

thị”. Mỗi loại cô hồn không phải bỗng dƣng mà vất vƣởng dọc ngang, tất cả đều do

những hành động tạo tác từ lúc sinh thời mà thụ lĩnh quả báo khác nhau. Đó cũng

bức tranh miêu tả chân thực về đời sống xã hội, các mảnh đời ngay trên thế gian

này... Bản Hựu quốc âm văn là bản kết thúc phần tổng tập của văn bản Ứng phó dư

biên.

2.1.2. Các khoa nghi chữ Hán trong Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編

總集

2.1.2.1. Các nghi thức khai quang

Khai quang còn đƣợc gọi bằng 1 danh từ khác là Sái tịnh, sái thủy, có nghĩa là

rƣới nƣớc thanh tịnh đã đƣợc gia trì ấn chú, đem rảy quanh đạo tràng và trên các vật

phẩm dâng cúng khiến cho tất cả đều đƣợc thanh tịnh, chúng sinh và oan hồn nơi đó

đƣợc thanh tịnh, hộ trì Phật pháp.

Nghi thức khai quang gồm các vật dụng: 1 nhành dƣơng liễu, 1 cốc nƣớc

thanh tịnh, (còn gọi là nƣớc Đại bi, nƣớc tám công đức), 1 chiếc khăn điều, 1 chiếc

gƣơng, 3 nén hƣơng... tùy nghi theo nghi lễ khác nhau mà sử dụng các vật dụng cho

49

phù hợp. Bất cứ một đàn lễ nào đều có nghi thức khai quang để biến nơi đó thành

đạo tràng Phật pháp thanh tịnh.

 Khai quang tẩy uế nghi 開光洗穢儀

Là nghi lễ mở ra ánh sáng, bắt đầu của sự sạch sẽ, rửa sạch mọi ô uế, gột hết

những nhơ bẩn và bụi bặm từ ngoại cảnh cho đến thân ngƣời chủ sám và ngƣời đến

tham dự buổi lễ, cũng nhƣ muôn loại hữu hình vô hình xung quanh đàn tràng. Khai

quang tẩy uế nghi đƣợc giới thiệu trong văn bản là 1 nghi lễ khai quang đàn tràng

cho thanh tịnh trƣớc khi vào đàn lễ.

- Nghi thức thực hiện: Trong văn bản đã ghi chú rõ những vật dụng đƣợc

chuẩn bị gồm có: nƣớc, nhành dƣơng liễu, khăn điều, 100 tiền, 1 gƣơng. Sau đó dọc

bài kệ tán và hoa và hƣơng cùng thần chú. Văn khai quang tẩy uế gồm có: phần

khai tẩy uế và phần khai ngũ nhãn.

+ Khai tẩy tuế: đƣợc thực hiện 3 lần:

Lần 1: Rảy nƣớc và nhành dƣơng để thanh tịnh đàn tràng. Sau khi đã rảy nƣớc,

dùng hƣơng viết chữ “Án lam” vào cốc nƣớc và đọc bài kệ tán thán, sau đó rảy khắp

đàn tràng.

“Nhất sái thiên thiên thanh,

Nhị sái địa địa linh.

Tam sái nhân nhân trường sinh...”[tr.35]

Lần 2: Dùng hƣơng và gƣơng: Tiếp tục sử dụng hƣơng viết chữ “Án lam” vào

chiếc gƣơng và đọc kệ tán:

“Đại khai trí kính minh như nhật,

Thược phá hoan cù thế giới trung” [tr.36]

Lần 3: Đọc kệ tán thán về nhãn căn, viết chữ thần chú vào nƣớc sau đó rảy

quanh đàn tràng.

+ Khai ngũ nhãn: gồm những câu kệ tán thán đức Phật, và phụng thỉnh để khai

ngũ nhãn: Thiên nhãn, nhục nhãn, pháp nhãn, tuệ nhãn và Phật nhãn, đồng thời

cũng nói lên tính chất của từng nhãn.

50

Phần Khai ngũ nhãn thƣờng đƣợc sử dụng trong việc khai quang trong buổi lễ

an vị tƣợng Phật, hoặc khai quang 1 đàn mã cúng lễ:

“Trượng thừa lục trí,

Khai điểm ngũ mâu.

Ban ban phi ngại phi thông,

Hách hách như thiên như nhật” [tr.36]

 Khai quang vong linh nghi 開光亡靈儀

Rảy nƣớc thanh tịnh để với ý nghĩa mắt thƣờng thấy mƣời phƣơng Phật, tai

thƣờng nghe tiếng pháp khắp mƣời phƣơng, và thân tâm vong linh đƣợc thanh tịnh.

- Nghi thức thực hiện: Cũng nhƣ khai quang tẩy uế, sau khi đã đọc kệ tán và

thần chú thì dùng hƣơng viết chữ “Án lam” vào chiếc gƣơng và lần lƣợt nhƣ trên:

“U sảng linh hồn tri bất tri,

Hảo bằng tri kinh điểm khai nghi.

Nhất chân bất muội linh nhi sảng,

Ngũ nhãn thôn quan hiển cánh vi” [tr.39]

Theo quan điểm Phật giáo, chúng sinh do bị vô minh che lấp nên 6 thức hôn

ám, mờ mịt. Cần điểm khai để 6 thức sáng tỏ, 5 uẩn rỗng không, không còn chìm

đắm trong lục trần.

2.1.2.2. Các bài tán

 Bát Nhã tán 般 若讚

Bài tán thán về “Tâm kinh Bát nhã” rằng Bát nhã là mẹ của mƣời phƣơng chƣ

Phật, tiêu trừ hết thảy các nạn khổ từ 3 đƣờng, hết thảy trời ngƣời, gặp đƣợc Bát nhã

đều đƣợc lợi ích, nên phó chúc Bát nhã để làm nơi nƣơng tựa cho hết thảy quần

sinh.

Nghi thức thực hiện: Bài tán Bát nhã này thƣờng đƣợc sử dụng thay cho việc

đọc bài Bát nhã đầy đủ. Trong khoá lễ, sau khi tuyên sớ xong, gia chủ đi hóa sớ thì

sám chủ đọc bài tán Bát nhã này:

“Bát Nhã thị chư Như Lai mẫu,

Tiêu trừ bát nạn tam tai khổ” [tr.41]

51

 Lục cúng tán 六供讚

- Bài tán dâng cúng lục thức gồm có: 1. Hƣơng, 2. Hoa, 3. Đăng, 4. Trà, 5.

Quả, 6. Thực.

“Chân hương ngũ phận bảo lư phần,

Hoa nhị phân phương ngọc án trần...” [tr.42]

 An vị tán 安位讚

“Chư Phật Bồ tát hiện chân hình,

Hộ pháp long thiên ứng khẩn tình...” [tr.42]

Sau khi thỉnh Phật và chƣ Bồ Tát Thánh hiền xong, và kết thúc các đƣờng

thỉnh, sẽ đọc đến bài tán này. Bài tán này mang nội dung thể hiện mong muốn, ƣớc

nguyện chƣ Phật Bồ tát, Hộ Pháp thiện thần sẽ lai ứng nơi đàn tràng này để chứng

minh công đức cho tín chủ thành tâm tác lễ.

2.1.2.3. Các bản 又附別集目次 hựu phụ biệt tập mục thứ trong phần

Biệt tập (Trai đàn ban sắc xá cách, Chèo thuyền ca cách,

Phụ cô hồn bảng)

 Trai đàn ban sắc xá cách 齋壇頒勅赦格

Trai đàn ban sắc xá cách là đàn chay ban sắc lệnh đặc cách xá tội. Chữ “cách”

có thể hiểu là 1 cách thức khác, 1 lối khác của ban sắc, hoặc 1 bản đƣợc cải cách so

với bản chính thống. Bởi sau phần này, có ngay 1 phần là Ban sắc tịnh cấp thông

hành phái.

- Nghi thức thực hiện:

Dựa vào phần ghi chú trong văn bản có ghi: “cáo viết, tiên khai phương thứ

ban sắc...” nghĩa là trƣớc là cúng Khai phƣơng, giờ đến ban sắc. Nhƣ vậy Trai đàn

ban sắc xá cách là một đàn lễ đƣợc thực hiện sau phần khoa cúng khai phƣơng.

- Ý nghĩa khoa nghi: Nội dung của Trai đàn ban sắc xá cách trƣớc tiên là dẫn

các điển tích Phật giáo liên quan tới vấn đề báo hiếu và cầu siêu độ. Từ sự kiện vua

Lƣơng Võ đế mời Chí Công hòa thƣợng soạn văn sám hối cứu vớt hoàng hậu Hy

Thị khỏi thân mãng xà cho tới việc nêu gƣơng hiếu thảo của nàng Quang Mục (tiền

52

thân của Bồ tát Địa Tạng) một lòng muốn cứu độ mẫu thân để hiển bày việc “Trai

chủ nay thiết lập đàn trường, Cờ tế độ tiên linh thoát hóa”,

Văn bản thiết lập các nhân vật liên quan tới Ngục tối u đồ, sử dụng ngôn ngữ,

giọng điệu và cách thức đối đáp nhằm tái hiện sự việc Pháp sự trao sắc Phật ban cho

Kim Mã mang xuống âm phủ trình quan cái Ngục tấu tới Diêm Vƣơng để xá tội cho

vong linh.

 Chèo thuyền ca cách 掉船歌格

Chữ “cách” trong Chèo thuyền ca cách có thể hiểu là cách thức khác của bài

ca chèo thuyền. Trong phần tổng tập của văn bản Ứng phó dư biên tổng tập có 1

bản mang tên Chèo thuyền bản và đây là một thể cách khác của chèo thuyền.

- Nghi thức thực hiện: Chèo thuyền ca cách là một văn bản mang nội dung của

cuộc đối đáp giữa vong linh và ngƣời chở đò mang tên Sãi Công. Cuộc hội thoại

này đã biến Chèo thuyền ca cách sang thể dạng nhƣ một vở chèo, trong đó mỗi lời

chèo đều thắm đƣợm giáo lý Phật giáo, các điển tích Nho, Phật và tín ngƣỡng dân

gian.

- Ý nghĩa khoa nghi: Tổng quan bài Chèo thuyền ca cách cũng nhƣ các bản

khác của văn bản Ứng phó dư biên tổng tập gồm có 3 phần:

+ Phần thứ nhất là lời tự sự của nhân vật Sãi Công giới thiệu phong cảnh và

mƣợn những điển tích để kể về công việc chở (cứu độ) ngƣời qua sông mà ẩn ý ở

đây chính là đƣa đò từ sông mê đến bến bờ giải thoát giác ngộ.

+ Phần thứ 2 là những lời đối đáp của chư linh và Sãi Công. Chư linh trên con

đƣờng siêu thoát cần phải qua con sông mê, mà trên sông mê đó chỉ có 1 con đò và

1 ngƣời lái đò duy nhất. Muốn qua đƣợc sông, chư linh cần phải trả tiền đò, buông

những lộc Phật ban để biếu cho Sãi Công. Nhân vật Sãi Công là ngƣời làm phúc

nhƣng chở đò thì vẫn đòi công, và có tiêu chuẩn “chở người hữu duyên”, “Ai hay

giáo giở đừng đi đò này” thêm một chi tiết trong văn có nhắc tới lời Sãi Công có

nói “Cứ giang trình mươi phần chừng được bảy, Muốn mau về chầu Phật, mỗi suất

giả bao tiền” và câu cuối cùng của chƣ linh “Chúng tôi đã viễn ly điên đảo”...

53

Những lời qua lại trên không chỉ là lời của khách và ngƣời lái đò với việc giá cả mà

sâu xa trong đó mang một hàm ý về quá trình thoát ly sinh tử.

Chư linh đã đƣợc siêu sinh thoát hóa, trên con đƣờng về với Phật thì không thể

vẫn còn tham đắm với của cải vật chất, vì thế chư linh không thể vẫn giữ khƣ khƣ

những thứ tiền tài, bổng lộc.

Còn về phần Sãi Công tuy chở đò đƣa ngƣời tới đất Phật mà lời nào của Sãi

Công cũng là đòi lộc lá tiền công, đằng sau của những lời lẽ đó không phải là sự

tham lam hay tính toán mà đó chính là thị hiện phƣơng tiện để mà độ ngƣời. Với

tinh thần “độ tha” thì Sãi Công có nhiệm vụ giúp cho ngƣời qua sông mê rũ bỏ mọi

bụi trần, gột hết những điên đảo, phiền não kết hoặc, phải là ngƣời có phúc đức

nhân duyên thì đò mới tới đƣợc bến Cực Lạc một cách nhanh chóng.

+ Phần cuối cùng là những lời hòa ca, miêu tả cảnh giới Cực Lạc trang nghiêm

lồng lẫy, cũng là những lời khuyến bảo về phƣơng thức tu tập cần phải lấy “tín” làm

đầu, nhất tâm bất loạn làm trƣớc. Rằng “Hễ tin thì được ích mình... Lòng tin hai chữ

Nam mô, Một niệm chẳng rối ắt thu công này”. Khi đã có một lòng tín Phật và

phụng trì lời Phật dạy, giữ tâm “chẳng rối” thì liền đạt đến cảnh giới an lạc thảnh

thơi.

 Phụ cô hồn bảng 附孤魂傍

Bảng là loại văn thƣ dùng để niêm yết, với ý nghĩa thông báo cho mọi ngƣời

biết về trình tự pháp sự, chi tiết tiến hành lễ, thành phần tham dự, chức vị của từng

ngƣời trong đàn tràng... có các loại Bảng nhƣ: Chẩn tế trai đàn bảng, Huyết hồ tứ

phương bảng cáo [26, tr.27]. Trong các khoa cúng đàn cầu siêu bạt độ với qui mô

lớn thƣờng có thêm nghi lễ là Diễn bảng nghi tức là nghi thức cung an chức sự

trong đàn tràng.

- Nội dung: Phụ cô hồn bảng gồm có 3 phần:

+ Phần đầu ghi là tên nội dung của bảng: Bảng phụ cô hồn.

+ Phần giữa là nêu căn nguyên và sự việc sẽ đƣợc thực hiện: thông báo rộng

rãi cho chúng cô hồn biết sắp có trai đàn chẩn tế cô hồn, mỗi mỗi hãy tự biết tìm

đƣờng trở về và quay lại soi xét mà tự tính thanh tịnh của mình mà trở về với Phật

54

+ Phần thứ 3 là đối tƣợng nhận thông báo (chúng sinh nơi cõi u sảng) và năm

treo bảng này.

2.2. Chầu văn tín ngƣỡng thờ mẫu trong phần biệt tập của Ứng phó dư

biên tổng tập 應赴餘編總集

Tín ngƣỡng thờ mẫu là một trong nhiều tín ngƣỡng dân gian thuần việt, có lịch

sử lâu đời, giữ vị trí đặc biệt trong sinh hoạt tinh thần của ngƣời dân Việt Nam.

“Nội hàm của tín ngưỡng thời Mẫu được dùng để biểu thị sự tôn vinh, một nhân vật

nào đó, có thể đồng nhất với việc thờ các vị thần hiển linh, được tôn phong là Mẫu

như Quốc Mẫu, Vương Mẫu, Thánh Mẫu....” [36, tr.19]. Tín ngƣỡng thờ mẫu là một

tín ngƣỡng bắt nguồn từ tín ngƣỡng thờ nữ thần, qua đó ngƣời ta gửi gắm niềm tin

vào sự che chở, giúp đỡ của các lực lƣợng siêu nhiên thuộc nữ thần.

Tín ngƣỡng thờ mẫu gần gũi với thiên nhiên đất trời, gắn với thân phận của

ngƣời phụ nữ Việt Nam. Trải qua quá trình hình thành và phát triển, tín ngƣỡng thờ

mẫu ở khu vực phía Bắc nƣớc ta đã phát triển thành tín ngƣỡng tam phủ (Thiên phủ,

Nhạc phủ và Thoải phủ) trong đó bà Mẫu Liễu Hạnh đƣợc đồng nhất với Mẫu

thƣợng thiên trở thành một vị thần chủ đạo, bên cạnh đó còn hệ thống các Mẫu

thuộc các phủ các miền, hệ thống các vị quan, các ông Hoàng, các vị Chầu, các cô,

các cậu... tạo thành một hệ thống thánh thần của tín ngƣỡng thờ mẫu.

Ngoài việc thờ phụng lễ bái mong đƣợc phù hộ thì tín ngƣỡng thờ mẫu còn có

các hoạt động động nhƣ Hầu bóng (lên đồng) là nghi lễ nhập bóng của các vị Thánh

tam tứ phủ vào thân xác của các ông đồng, bà đồng, là sự tái hiện lại hình ảnh của

các vị Thánh nhằm phán truyền, chữa bệnh, ban phúc lộc. Giúp trực tiếp cho việc

lên đồng là hầu dâng và cung văn. Hầu dâng gồm có 4 ngƣời đã từng mở phủ, lên

đồng, ngồi phục vụ việc thay khăn áo, dâng hƣơng trà nƣớc, dụng cụ khi lên đồng,

bốn ngƣời nay còn đƣợc gọi là tứ trụ. Cung văn là những ngƣời dâng lời ca, tiếng

nhạc, tùy theo từng giá đồng mà có những bản văn và điệu nhạc phù hợp. Cung văn

thƣờng có các thành phần nhƣ sáo, đàn, trống, phách... Có thể nói, ông đồng, bà

đồng có lên đồng một cách nhập vai và hào hứng đƣợc hay không phụ thuốc rất

nhiều ở yếu tố cung văn. Nếu cung văn hát hay, đàn giỏi, lời văn phù hợp khéo léo

55

thì ngƣời lên đồng rất hứng khởi, nhập đồng một cách say sƣa... Ngoài những ngƣời

chủ đạo trong buổi lễ lên đồng là ông đồng, bà đồng, cung văn, tứ trụ còn có những

ngƣời đến dự lễ xin lộc, những những phục vụ gấp và chuẩn bị khăn áo...

Văn bản Ứng phó dư biên tổng tập không nêu chi tiết các trình tự và nội dung

của buổi lễ lên đồng, cũng không liệt kê hệ thống thành thần. Văn bản chỉ đề cập tới

các bản chầu văn, cụ thể là 06 bản chầu văn về các vị thánh: Thiên tiên thánh mẫu

công đồng văn, Đệ nhị văn; Cửu trùng văn; Thủy tinh công chúa văn; Chầu bát vị

văn; Liễu Hạnh công chúa văn

2.2.1. Thiên tiên Thánh Mẫu công đồng văn 天僊聖母公同文

Là bản văn dâng mẫu Thƣợng thiên, hay còn gọi là Mẫu Cửu Trùng Thiên

“Nay tôi mời đức chúa Tiên, ở trên thượng giới cai quyền tây đông” [tr.77] là vị

thánh mẫu “cai trị miền trời, làm chủ mây mưa sâm chớp, mặc đồ màu đỏ” mẫu đệ

nhất Thiên tiên hay còn gọi là chầu đệ nhất, thuộc dòng đi tu, ít khi ngự đồng. Bà

vốn là Thiên cung Tiên Nữ, con vua cha Ngọc Hoàng (chính là Mẫu Liễu Hạnh)

giáng hiện để giúp dân hộ quốc

Văn bản gồm có 57 câu lục bát, là những lời tán về mẫu thƣợng thiên, do các

cung văn sử dụng trong các buổi hầu đồng, cũng có thể sử dụng trong các bài khấn

lễ, nội dung của văn bản là những lời văn kể về thân thế, nơi ngự trị và phép uy linh

của mẫu thƣợng thiên, trừ diệt gian tà, hiển phép thần thông biến hóa bảo hộ nhân

dân và đất nƣớc:

Có khi hóa phép linh thông,

Chiếu kính phụ đồng bắt kẻ tà gian.

Lại sau lục lục tiên nương,

Vâng lệnh tòa vàng hộ quốc tí dân”. [tr.77]

2.2.2. Đệ nhị văn 第二文

Là bản văn chầu dâng lên đức ông hoàng đệ nhị, cùng với các ông hoàng trong

hệ thống tín ngƣỡng thờ mẫu:

“Giọng tâu đế tử hoàng công,

Hiệu ông đệ nhị thần đồng giáng sinh” [tr. 81].

56

Ông theo lệnh vua cha giáng sinh lên cõi trần gian, làm con trai thứ hai nhà họ

Nguyễn. Sau đó ông trở thành danh tƣớng, có công giúp nhà Lê trong công cuộc

“phù Lê dẹp Mạc”, ông là ngƣời đã đem quân truy đuổi họ Mạc đến tận đất Cao

Bằng, rồi đƣợc vua Lê phong công, giao cho kéo binh đóng ở đất Tống Sơn, Triệu

Đƣờng Thành Hóa. Ông ít khi ngự đồng, nếu có ngự về, mặc áo mầu xanh, ông về

tấu hƣơng, khai quang rồi múa cờ lệnh [36, tr.74].

2.2.3. Cửu trùng văn 九重文

Là văn dâng lên bà Chúa Tiên Cửu Trùng. Có thuyết cho rằng bà chính là

Chầu Cửu, còn gọi là Cửu thiên huyền nữ ở Bỉm Sơn Thanh Hóa. Bà vốn là tiên nữ

trên thiên đình, giáng trần ở Bỉm Sơn, làm phúc giúp dân. Sau khi thác, bà trở thành

vị chầu bà kề cận, biên chép sổ sách bên Cửu Trùng Thiên cung. Bà thƣờng hay ngự

đồng khi về các đền ở phủ Dầy hay đền Sòng Sơn [36, tr.72]. Có thuyết lại nói rằng

bà chính là Mẫu thƣợng thiên, thƣờng đƣợc thờ ở riêng cây hƣơng ngoài trời, bà

vận áo mầu đỏ.

2.2.4. Thủy tinh Công Chúa văn 水晶公主文

Là văn hầu của Chúa thủy cung, hay còn gọi là Thánh Mẫu Thoải, thủy là

thoải, nghĩa là cai trị vùng Thủy phủ (miền sông nƣớc), làm chủ sông biển, rất quan

trọng với nghề nông, thƣờng mặc đồ trắng. Bà là hiện thân của Mẫu đệ tam, tƣơng

truyền là vị Thánh mẫu con vua Bát Hải Động Đình, ngƣời ta lập đền thờ bà tại các

của sông, cửa Biển, để cầu cho biển lặng sóng yên [36, tr.70].

2.2.5. Chầu Bát vị văn 朝八位文

Có thể là văn chầu Bát, còn gọi là chầu thƣợng ngàn, “Bà quê ở vùng Phƣợng

Lâu, Bạch Hạc, dấy binh khởi nghĩa theo Hai Bà Trƣng. Sau khi thất thủ, bà rút

chạy từ Đồng Mỏ về Thái Bình, ẩn náu trong chùa Tiên La. Khi giặc Hán phát hiện

và bao vây, bà quyết một lòng kiên trung, mở đƣờng máu tử tiết giữa sân chùa.

Tiếng lành đồn xa, dân ghi nhớ công ơn bà nên lập đền thờ. [36, tr.71]

2.2.6. Liễu Hạnh công chúa văn 柳杏公主文

Là văn dâng mẫu Liễu Hạnh, là vị thánh chủ đạo của tín ngƣỡng thờ mẫu,

đƣợc thờ chính ở phủ dàt, Nam Định, với truyền thuyết nhiều lần hóa sinh hiển

57

thánh. “Sự xuất hiện của vị Thánh Mẫu này vào thế kỷ XVI vừa xuất phát từ nhƣ

cầu phát triển nội tại của tín ngƣỡng thờ mẫu đã có từ trƣớc, vừa phản ánh khát

vọng của quần chúng nhân dân thời Lê mạt, xã hội rối loạn, nhân tâm ly tán, mà

một trong biểu hiện của nó là các cuộc khởi nghĩa nông dân triền miên. Với vị chủ

thần này, đạo mẫu vốn là một tín ngƣỡng gần với thiên nhiên, đất trời, nay đƣợc

“đời thƣờng hóa” gắn liền và đáp ứng những khát vọng của con ngƣời" [34, tr.95].

Theo truyền thuyết, sự kiện Phật bà Quan Âm giải cứu cho Mẫu Liễu Hạnh và

Mẫu đã qui y với Phật Bà, đã đánh dấy sự hội nhập của Phật giáo với tín ngƣỡng

thờ mẫu. Và hệ thống thờ mẫu đƣợc đƣa vào trong Chùa thờ phụng, trên Phật dƣới

Thánh, đó là sự kết hợp của tín ngƣỡng văn hóa dân gian với Phật giáo. Thời nhà Lê

khi Nho học lên ngôi, Phật giáo trở nên thất thế, sự giao thoa này cũng là một yếu tố

để củng cố và đƣa Phật giáo ăn sâu vào lòng dân tộc, xây dựng niềm tin vững chắc

trong đời sống tâm linh của ngƣời dân Việt.

Thời xƣa không có khái niệm Phật tử. Ngƣời ta chỉ quen với danh từ con

hương và già vãi nghĩa là ngƣời ta coi việc đến chùa đội bát hƣơng là việc thƣờng lệ

và trở thành con hƣơng của nhà chùa. Mọi công việc lớn nhỏ ở chùa từ chấp tác, lao

động, đến đóng góp xây dựng chùa cảnh họ cũng thực hiện nghiêm nhƣ trách nhiệm

của bản thân. Đến tuổi 50, họ ra chùa qui y Tam bảo, trở thành bà vãi. Nhƣ vậy, ở

chùa sẽ có 2 thế hệ: con hương là những ngƣời đội bát hƣơng theo mẫu và già vãi là

những ngƣời quy Phật. Hai thành phần này không hề tách biệt nhau cũng không

chia rẽ, phân biệt. Mà chỉ với một ý hiểu là đều nƣơng tựa cửa chùa, đội bát hƣơng

tức là phải đến chùa lễ Phật, là con hƣơng là cũng chính là con Phật, đều đƣợc sự

phù hộ của Phật Thánh nói chung. Đó là sự khéo léo dùng phƣơng tiện để nhiếp hóa

tất cả các thành phần nhân dân, cũng là một quyền nghi phƣơng tiện để củng cố nền

tảng Phật giáo và phát triển Phật giáo trong lòng dân tộc. Sự dung hợp giản dị, sâu

sắc, uyển chuyển biến tín ngƣỡng thờ mẫu và Phật giáo trở thành một chỉnh thể

không thể tách rời trong cộng đồng xã hội và cộng đồng văn hóa Việt Nam, không

thể mất mát đi mà mỗi ngày nên có sự hợp tác để cùng phát triển, xây dựng một nền

văn hóa tín ngƣỡng chan hòa.

58

2.3. Các tƣ liệu văn học và văn học Phật giáo trong phần biệt tập của

Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集

2.3.1. Các tư liệu văn học (Sai tiên dược văn, Bách hoa văn và Bồng lai

văn, Phi lai tự phú)

 Sai Tiên Dược văn 差僊藥文

Là một bài văn mang thể thơ lục bát truyền tải 2 nội dung chính:

+ Thứ nhất: Những lời khấn nguyện lễ bái các vị thần tiên, các bậc tiên dƣợc

để xin tìm đƣợc thuốc đúng với bệnh, luyện thuốc cứu ngƣời

“Trầm hương một triện kính dâng,

Thỉnh chư tiên dược tới chưng bản đàn” [tr. 98]

+ Thứ hai: Quyện trong những lời văn thỉnh là bài ca tên của các thang thuốc,

các vị thuốc trong Đông y:

“Đăng tâm, cao bản, xa tiền,

Cộng chư hậu phác khấn nguyền Quan âm” [tr.98]

Ngƣời viết liệt kê tên các vị thuốc có trong văn bản nhƣ sau: 1. Quế chí, 2.

Hoàng đàn, 3. Kim ngân hoa, 4. Nhũ hƣơng, 5. Một dƣợc, 6. Trạch lan, 7. Bạc hà, 8.

Tân Lang, 9. [...], 10. Cam Thảo, 11. Đăng tâm, 12. Cao bản, 13. Xa tiền, 14. Hậu

phác, 15. Huyền sâm, 16. Phá cố, 17. Thƣơng nhĩ, 18. Đậu cổ, Tam thông, 19. Hồng

hoa, 20. Độc lực, 21. Mộc hoa, 22. Bách hợp, 23. Nhân ngôn, 24. Triệt ngƣợc, 25.

Mãi đƣờng, 26. Xuyên Khung, 27. Thần khúc, 28. Nhân trần, 29. Tạo giác, 30.

Thanh bì, 31. Xích thƣợc, 32. Bạch đàn, 33. Hắc đậu, 34. Hoàng bách, 35. Liên

phòng, 36. Hòe hoa, 37. Quế hoa, 38. Nhục thung, 39. Đƣơng quy, 40. Đỗ trọng, 41.

Đại hoàng, 42. Chính thống, thẩm binh, 43. Mai hoa, 44. Quán chúng, 45. Quốc lão,

46.V iễn chí, 47. Lâm dâm, 48. Đèn hạnh, 49. Mộc thống, 50. Sứ điệp, tín ong, 51.

Đồng nữ, 52. Liên phòng, 53. Vu qui, 54. Bán hạ, 55. Trần bì, 56. Đậu khấu, 57.

Nhân sâm, 58. Hoàng cầm, 59. A giao, 60. Quy bản, 61. Chỉ thiên, 62. Thục địa. 63.

Đào hoa, 64. Thiền Thuế, 65. Thần qui, 66. Trạch tả, 67. Tơ hồng, 68. Yến, 69. Hạc,

70. Tấn tần, 71. Nam tinh, 72. Địa liền, 73. Bán hạ, 74. Liên nhục, 75. Phụ tử, 76.

Bồng nga, 77. Sứ, 78. Mật, 79. Đà, 80. Thạch lãnh, 81. Xà sàng, 82. Tía tô, 83. Mộc

59

thông, Tần giao. 84. Tiền hồ, 85. Thung dung, 86. Thạch nhũ, 87. Sƣơng, 88. Thiên

ma, 89. Bát trân, 90. Câu kỳ tử, 91. Ý dĩ, 92. Tàm chính, 93. Khƣơng hoàng, 94. Dạ

minh sa, 95. Cỏ đƣờng, 96. Khƣơng thanh, 97. Ma hoàng, 98. Quỷ kiến, 99. Lôi

hoàn, 100. Sơn tra, 101. Xạ hƣơng, 102. Lƣơng, 103. Khƣơng hoạt, 104. Độc hoạt,

105. Ngƣu tất, 106. Địa cốt, 107. Thần phục, 108. Phục linh, 109. Ba trăm đậu, 110.

Phác, 111. Khƣơng, 112. Hành, 113. Thanh đậu, 114. Bạch mễ, 115. Đốc, 116.

Đƣơng qui, 117. Hồi hƣơng, 118. Tam Hoàng, 119. Bạch Chỉ, 120. Tế Tân.

 Bách hoa văn 百花文

- Bách hoa văn: Bài văn về trăm loài hoa của thiền sƣ Chính Đại. Lời kết của

bài văn có nói “𣎃𠀧𣈗糝酖才花吟濫麻制 tháng ba ngày tám đem tài hoa ngâm

tạm mà chơi [tr.107]. Ý rằng trong lúc tháng ngày rỗi rãi, thiền sƣ Chính Đại đem

tài hoa của mình thể hiện thú vui tao nhã là ngâm một bài vịnh về 100 loài hoa, là

những thứ hoa gần gũi với cuộc sống thƣờng nhật, có trong vƣờn nhà.

Nội dung bài thơ thể hiện tài sắp xếp, chọn lựa những ngôn từ thật khéo léo để

kể tên 100 loài. Biến sự liệt kê của mình thành một tác phẩm văn học có giọng điệu,

có vần, dễ đọc, rất dễ ghi nhớ và và mang ý nghĩa rất lớn là giúp ngƣời đọc biết

đƣợc các loài hoa, tính chất và vị trí thƣờng đƣợc trồng của các loại hoa đƣợc trồng

xung quanh đời sống thƣờng ngày của chúng ta

“Phù dung sớm trắng giờ điều,

Mơ mơ mận mận dập dìu ngày xuân” [tr.104]

Hơn nữa, tác giả đã khéo thể hiện thứ bậc đẳng cấp của loài hoa theo sự sắp

xếp của mình. Ví dụ với tính cách của một nhà sƣ, thanh tao thì tác giả đã đặt Hoa

Mai lên vị trí số 1:

Đầu non vài điểm Hoa Mai.

Kì hoa mộc trang đài tiêm xuân.

Hoa lan thơm nức cửa thiên quân,

Hoa sen thơm thấu chín lần từ tôn.” [tr.103]

Nghĩa là Hoa Mai là loài hoa từ lâu đã đi vào tâm khảm của những nhà nho đó

nhƣ biểu trƣng cho ngƣời quân tử, đi vào văn học Phật giáo... sau nữa là đƣa hoa

60

sen, hoa lan những loài hoa cao quý thanh cao gắn với cửa Thiền hoặc thú chơi hoa

của hàng vua quan “vua chơi lan, quan thƣởng trà” .

Có thể liệt kê ngắn gọn tên 100 loài hoa nhƣ sau: Hoa Mai, Hoa Mộc, Hoa Lan,

Hoa Sen, Hoa Quì, Hoa Hồng, Hoa Ông Bụt, Hoa Tử Vi, Hoa Tƣờng Vi, Hoa Cát

Tƣờng, Hoa Thƣợc Dƣợc, Hoa Sơn Trà, Hoa Mẫu Đơn, Hoa Xuyến Châu, Hoa Phù

Dung, Hoa Mơ, Hoa Mận, Hoa Cúc, Hoa Hải Đƣờng, Hoa Lê, Hoa Cam, Hoa Quýt,

Hoa Thiên Lý, Hoa Bách Nhật, Hoa Phèn Đen, Hoa Trinh Nữ, Nụ Tầm Xuân, Hoa

Bƣớm, Hoa Đồng Tiền, Hoa Thủy Tiên, Hoa Vẻ, Hoa Quế, Hoa Hạnh, Hoa Dạ Hợp,

Hoa Cà, Hoa Đậu Ván, Hoa Nhài, Hoa Dƣa, Hoa Súng, Hoa Lâu, Hoa Cúc Tần,

Hoa Cúc Vàng, Hoa Cải, Hoa Tiểu Hồi, Hoa Kinh Giới, Hoa Hồ Tuy, Hoa Bầu,

Hoa Bí, Hoa Dƣa, Hoa Dƣa Gang, Hoa Dƣa Chuột, Hoa Đơn, Hoa Quế, Hoa Huệ,

Hoa Móng Rồng, Hoa Kì Lân, Hoa Phƣợng Tiên, Hoa Phật Thủ, Hoa Sung, Hoa

Bách Hợp, Hoa Nhãn, Hoa Na, Hoa Phong, Hoa Xoan, Hoa Gạo, Hoa Quất Hồng

Bì, Hoa Ổi, Hoa Cà, Hoa Lựu, Hoa Lăng Tiêu, Hoa Tía Sao, Hoa Thị, Hoa Bòng,

Hoa Thục, Hoa Chanh, Hoa Bƣởi, Hoa Hiên, Hoa Cau, Hoa Cẩm Trƣớng, Hoa Roi,

Hoa Đình, Hoa Dừa, Hoa Hòe, Hoa Khế, Hoa Dƣơng (Hƣớng Dƣơng), Hoa Xoan,

Hoa Gừng, Hoa Nghệ, Hoa Quýt Kim, Hoa Đèn (Đèn Lồng), Hoa Cẩm Cù, Hoa

Trầu, Hoa Bồ Đào, Hoa Nguyệt Tú, Hoa Vạn Thọ.

 Bồng Lai văn 蓬萊文

- Bồng Lai văn không có tên tác giả, phải chăng cũng do nhà sƣ Chính Đại

sáng tác. Bồng Lai đƣợc nhắc tới ở đây có thể là một ngôi chùa hoặc một ngôi đền ở

xã Bồng Lai huyện Vũ Giàng (Quế Võ). Địa danh này cách không xã chùa Hƣng

Phúc nơi mà thiền sƣ Chính Đại trụ trì.

Nếu Bách hoa văn là thể hiện tài hoa của nhà sƣ trong lúc nhà rỗi thì có thể

Bồng Lai văn cũng tƣơng tự nhƣ vậy. Nhà sƣ sang chơi cảnh Bồng Lai và làm bài

văn về nơi này. Nhƣ trong văn bản có chép:

“Nhàn tuế nguyệt cầm kì tửu hội,

Nhạc phong quang bất miễn trần ai” [tr.106]

61

Hoặc có thể đây là bài văn tả cảnh Bồng Lai của Đền Bồng Lai nơi thờ cô Đôi

Thƣợng ngàn ở huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang.

 Phi Lai tự phú 飛來寺賦

- Bài phú về chùa Phi Lai của tác giả Nguyễn Văn Sảng, ngƣời xã Đại Toán,

huyện Quế Dƣơng, nay là thôn Đại Toán, xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc

Ninh. Năm 27 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ, xuất thân khoa Nhâm Tuất [32,

tr.393] thời nhà Mạc niên hiệu Thuần Phúc năm (1562). Bài phú nói về Chùa Phi

Lai đƣợc sáng tác nhân dịp ông phụng mệnh đi sứ sang Bắc Kinh.

Trong văn bản có ghi tác giả là Nguyễn Văn sảng nhƣng “có lẽ nhầm, vì

Nguyễn Văn Sảng và Nguyễn Đăng người cùng làng, cùng đỗ Tiến sĩ, nhưng

Nguyễn Văn Sảng không đi sứ, mà chỉ có Nguyễn Đăng đi sứ năm 1613, mặt khác

các tài liệu công bố về sau, như đã nói ở lời giới thiệu, đều chép bài phú này do

Nguyễn Đăng soạn. Do đó theo chúng tôi bài phú này không phải của Nguyễn Văn

Sảng mà là của Nguyễn Đăng” [33, tr.61].

Theo ngƣời viết tìm hiểu, trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 5 tr.575 có bài

Phi Lai Tự 飛來寺 của tác giả Nguyễn Đăng. Khi so sánh nội dung, nhận thấy bài

Phi Lai tự 飛來寺 miêu tả về chùa Phi Lai một cách ngắn gọn, xúc tích với 8 câu

thơ 7 chữ . Còn tác phẩm Phi Lai tự phú của Nguyễn văn Sảng có dung lƣợng dài,

và nội dung gần nhƣ là bài triển khai những điều cốt lõi từ bài Phi lai tự của

Nguyễn Đăng. Vậy liệu có phải 2 tác giả Nguyễn Đăng và Nguyễn Sảng hai ngƣời

có hai tác phẩm khác nhau về Phi Lai tự, điều này ngƣời viết chƣa xác minh đƣợc.

Bài Phi Lai tự phú in trong văn bản AB.568 có dung lƣợng dài hơn 600 chữ,

miêu tả về cảnh đẹp chùa Phi Lai một cách chi tiết và đậm chất thiền gia.

+ Những câu đầu của bài phú trình bày tổng quan về ngôi chùa, từ tên chùa 寺

號飛來 chùa có hiệu là Phi Lai, vị thế của ngôi chùa 冠樷林而絕異. Xem ra đó là

tuyệt cảnh trong chốn tùng lâm cho đến thời gian ra đời đƣợc xây dựng 運属粱朝

khoảng thời nhà Lƣơng.

62

+ Phần thân bài miêu tả chi tiết khí thiêng, sự thâm nghiêm từ bên trong của

chùa 蓮座輝煌,檀烟馥馥郁 tòa sen sáng lạng, hương trầm thơm tho [tr.125] đến

sự trang nghiêm, tráng lệ từ vẻ ngoài và phong cảnh của ngôi chùa 祇園宏厰浄土

豁開 [tr.124] bên ngoài có vƣờn kì rộng rãi, bên trong cõi tịnh độ mở toang, ví cảnh

chùa Phi Lai đẹp nhƣ cõi Tịnh độ.

+ Phần cuối cùng nêu lên việc tác giả phụng mệnh đi xứ mà có dịp tới đất Bắc,

tới ngoạn cảnh Phi Lai, một nơi thờ Phật với cảnh đẹp lạ nhƣờng và thoát tục, tác

giả ví mình nhƣ hai chàng Lƣu - Nguyễn lạc vào cảnh thiên thai để lột tả cảnh chùa

Phi Lai.

2.3.2. Các tư liệu văn học Phật giáo (Bản luyện Long thần văn, Ngự vấn)

 Bản luyện Long thần văn 本練龍神文

Bài văn nói về vị Long thần. Theo cách nghĩ và cách nói của ngƣời dân, cho

rằng Long thần đơn giản là vị thần linh coi giữ chùa chiền nhƣ trong văn bản có

chép:

“Quyền ông hay kiểm sát gần xa,

Ông hay sát quỷ trừ tà.

Khuông phù thiện tín đàn na mỗi người.” [tr. 95]

Phật giáo có ghi chép: “Tại thành Vương Xá nước Kiều Tát La ở Tây bắc Ma

Kiệt Đà có trưởng giả Tu Đạt rất giàu có thường hay giúp đỡ người nghèo khó, cô

độc. Bởi thế người trong vùng phong tặng cho trưởng giả danh hiệu là Cấp Cô

Độc.” [31, tr.322]

Ông Cấp Cô Độc mỗi khi đi buôn bán ở thành Vƣơng Xá thƣờng hay ở lại nhà

ngƣời anh của mình, và nhân duyên đƣợc gặp đức Phật. Với tấm lòng kính quý đức

Phật và chƣ Tăng, ông đã bỏ tiền ra mua khu vƣờn của Thái tử Kỳ Đà, xây Tinh Xá

Kỳ Hoàn (Kỳ Viên). Ông chở vàng tới lát hết khu vƣờn rồi thỉnh mời đức Phật và

chƣ tăng về cƣ ngụ tu tập và hoằng dƣơng giáo pháp. Hằng ngày, ông đều tới thăm

đức Phật và chƣ Tăng đồng thời học hỏi giáo Pháp và thân thừa cúng dàng mọi thứ

cần dùng. Trở về nhà, ông cũng giáo hóa cả gia đình học tập và thực hành theo lời

Phật dạy. Ông trở thành vị cƣ sĩ quan trọng và nổi tiếng thời đức Phật.

63

Trải qua thời gian hơn 30 năm thân cận đức Phật, ông đã trở thành vị hộ pháp

đắc lực cho Phật pháp. Trƣớc khi ông mất đã đƣợc tôn giả Xá Lợi Phất và A Nan

đến thăm bệnh, thuyết Pháp cho ông, ông đã chứng đƣợc thánh Quả Tu Đà Hoàn,

sau khi lâm chung sinh về cung trời Đâu Suất.

Bởi ông Cấp Cô Độc là ngƣời có công lớn mua đất, dát vàng, xây Tịnh Xá

cúng Phật lại bảo hộ chƣ Tăng và Phật pháp từ thời đức Phật, nên khi Phật giáo

truyền sang các nƣớc nhƣ Trung Quốc, Việt Nam..., hình ảnh vị trƣởng giả đã đƣợc

nâng lên thành vị thần bảo hộ tất cả các ngôi chùa thờ Phật.

Khi Phật giáo vào Việt Nam, dân gian đã gọi một cách cung kính Đức Ông với

hình tƣợng mình mặc quan phục, tay cầm sổ sách, mặt hồng, là ngƣời ngự trị ở vị trí

tay trái của Phật, thể hiện cho cánh tay trái đắc lực bảo vệ ủng hộ Phật pháp.

Hình ảnh Đức Ông đi vào lòng dân gian nhƣ một vị thần có đầy đủ quyền uy

để cai quản chùa chiền. Đặc bệt những trẻ nhỏ hay quấy khóc, dân gian cũng đem

lên bán khoán cho Đức Ông để đƣợc mạnh khỏe, ngoan chơi.

Bản luyện Long thần văn cũng là bài ca miêu tả về hình dáng, chức năng

nhiệm vụ và sự uy linh nhiệm mầu của vị Long thần hay chính là Đức Ông. Cấp Cô

Độc đối với dân chúng và chùa thờ Phật ở khắp mọi nơi:

“Thông minh chính trực chi thần,

.....Pháp đức ông linh thông hiển hách...” [tr.95]

Không phải là văn xuôi theo kiểu khoa “sám tạ long thần” mà đây là bài văn

thể theo dạng thơ lục bát, có thể cũng do nhà sƣ Chính Đại chép ra từ đâu đó, hoặc

do chính nhà sƣ sáng tác, cũng có là chuyển thể từ khoa cúng “sám tạ Long thần”

kết hợp với tín ngƣỡng dân gian tạo nên Bản luyện Long thần văn để truyền bá

trong dân gian về một vị hộ pháp của chùa trong mọi thời đại:

“Tiểu tôi kính chúc mấy lời,

Thường thường tiến lộc chiêu tài đề đa” [tr.97]

 Ngự vấn 御問

Bản ghi chép những lời ứng đối của Tăng sĩ Phật giáo trong cuộc hội thoại với

nhà Vua vào thời nhà Lê, niên hiệu Vĩnh Hựu (1735-1740).

64

Lật lại lịch sử Phật giáo Việt Nam, các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn... đều

có sự kiện khảo hạch Tăng sĩ tùy từng tính chất và mục đích khác nhau: “Vua Đinh

Tiên Hoàng là vị vua đầu tiên đã định ra giai cấp cho Tăng lữ. Năm 971 một thiền

sư tên Ngô Chân Lưu được phông làm Tăng Thống. Chế độ tăng thống tại Việt Nam

bắt đầu từ đấy. Vào cuối đời Lý, năm 1198, số tăng sĩ lên nhiều quá, tệ lậu sinh ra

trong giới xuất gia, Vua Lý Cao Tông cho chọn lọc và sa thải bớt tăng sĩ không

xứng đáng” đây được coi là lần sa thải chọn lọc Tăng sĩ lần đầu tiên trong lịch sử

Phật giáo Việt Nam. Năm 1179 vua lại cho khảo hạch các Tăng quan” [18, tr. 251].

“Tháng chín năm quý sửu (1313), Pháp Loa phụng chiếu đến cư trú tại chùa Vĩnh

Nghiêm ở Lương Giang, đặt văn phòng trung ương Giáo hội ở đó, quy định mọi

chúc vụ của tăng sĩ trong giáo hội, kiểm tra tự viện và làm sổ tăng tịch. Đây là lần

đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tăng sĩ có hồ sơ tại Giáo hội Trung

ương. Pháp Loa thấy số lượng Tăng sĩ đông quá liền quyết định ba năm mới có một

lần độ tăng. Giới đàn được tổ chức ba năm một lần với mỗi lần số người xin thụ

giới bị sa thải ra có đến hàng nghìn người” [18, tr.406].

Thời Lý - Trần, Phật giáo hƣng thịnh, đƣợc coi là quốc giáo. Đã xuất hiện sự

kiện “khảo hạch” để chọn lọc và sa thải bớt Tăng sĩ. Nhƣng trong hai thời đại này,

mục đích chính của việc khảo hạch là để thanh lọc đội ngũ Tăng Ni Phật giáo, để

chọn lọc lấy những hạt chắc trinh trắng nhằm phát triển vững mạnh. Các triều đại về

sau, sự kiện khảo hạch Tăng sĩ vẫn đƣợc triều đình thực hiện, nhƣng đa phần mang

tính chất là giảm bớt và hạn chế sự phát triển của Phật giáo. Năm 1396, tháng giêng,

vua Thuận Tông xuống chiếu sa thải bớt Tăng đạo chƣa đến 50 tuổi cho về hoàn tục.

Thời nhà Hồ, Hồ Quý Ly cũng ra lệnh sa thải các Tăng sĩ sa sút đạo đức, không cho

ở chùa, bắt các Tăng sĩ dƣới 50 tuổi phải hoàn tục tham gia lao động sản xuất, và

các Tăng sĩ trên 50 tuổi phải tham gia kỳ thi sát hạch, ai không trúng tuyển phải

hoàn tục. Sang thời Lê, tình hình Nho giáo phát triển mạnh, Phật giáo tiếp tục bị sa

sút, Năm 1429, Lê Thái Tổ lệnh cho tiến hành khảo thí Tăng sĩ, ai không đỗ cho

hoàn tục. Đến thời Nguyễn, vua sắc phong cho sửa chùa Thánh Duyên, mở cuộc sát

hạch Tăng Sĩ, năm 1830, tại chùa Báo Quốc, ai không đạt phải hoàn tục....

65

Điểm lại chiều dài lịch sử của Phật giáo Việt Nam, trải qua các triều đại phong

kiến, hầu nhƣ thời nào cũng có những đợt “khảo hạch” tăng sĩ với mục đích khác

nhau: hoặc thanh lọc tăng đoàn, củng cố đội ngũ hoặc hạn chế số lƣợng tăng ni,

hoặc kiềm chế sự phát triển của Phật giáo, đều do triều đình phong kiến mà đứng

đầu là vua tổ chức thực hiện. Hoặc có những lần nhà vua vời các nhà sƣ vào cung

đàm đạo hoặc hỏi về việc chính trị quốc gia (nhƣ vua Lê Đại Hành hỏi thiền sƣ Đỗ

Pháp Thuận về vận nƣớc).

Bài Ngự vấn trong văn bản Ứng phó dư biên tổng tập tổng hợp 14 câu hỏi do

nhà Vua đề ra, nhằm mục đích hỏi, trao đổi Phật pháp với Tăng sĩ. Nội dung là

những câu hỏi gồm các hình tƣợng thờ phụng trong chùa nhƣ rùa, quạ, đến các

tƣợng Hộ Pháp, Thánh Tăng, Thổ Địa đến giáo lý kinh điển, và lịch sử cuộc đời đức

Phật.

Bài Ngự vấn đòi hỏi vị Tăng sĩ phải có kiến thức tổng hợp và ngôn từ lƣu loát,

không chỉ am hiểu kinh điển mà phải tƣờng tận các điển cố Phật giáo. Điển hình

nhƣ câu vấn đáp sau đây:

Nhà vua hỏi 龜乃石精,有何罪愆而負碑文之下;Qui nãi thạch tinh, hữu hà

tội khiên nhi phụ bi văn chi hạ nghĩa là rùa là loài thạch tinh, có tội gì mà phải dội

bai văn thế?

Tăng sĩ đáp 龜乃石精,雖無罪愆也.然怏私欲於水中之藏甲,而三藏經沉,

光明三句之缺亡.龜之罪也,則以石精而負碑文之下,正所以顯之惡報. Qui nãi

thạch tinh tuy vô tội khiên dã, nhiên ưởng tư dục ử thủy trung chi tàng giáp, nhi tam

tạng kinh trầm, Quang Minh tam cú chi khuyết vong, Qui chi tội dã tắc dĩ thạch tinh

nhi phụ bi văn chi hạ, chính sở hiển chi ác báo nghĩa là Rùa là loài thạch tinh, tuy

không có tội gì, nhƣng vì thù riêng mà chở Kinh trên sông, đánh chìm tam tạng kinh

điển trong nƣớc, Kinh Quang Minh bị mất 3 chữ, đó là tội của rùa. Nên để rùa đội

bia văn trên lƣng chính là để hiển bày quả báo việc làm ƣớt kinh điển.

Tiểu kết Chƣơng 2

Chƣơng 2 của luận văn đã giới thiệu về nội dung của văn bản Ứng phó dƣ biên

tổng tập 應赴餘編總集 đƣợc thể hiện trong 27 đơn vị tác phẩm thuộc ba nhóm

66

chính: các bản khoa nghi cầu siêu độ âm, các bài chầu văn dùng tín ngƣỡng thờ mẫu,

các tƣ liệu văn học và tác phẩm văn học mang màu sắc Phật giáo. Trong đó, nội

dung trọng tâm của văn bản Ứng phó dƣ biên tổng tập chính là các khoa nghi chữ

Hán và chữ Nôm của nghi lễ độ âm. Những bài này chủ yếu nói về các việc sau khi

con ngƣời đã mất, từ lúc đƣa tang cho tới lúc cầu siêu và nêu chi tiết những việc cần

làm của một khóa lễ cầu siêu. Bên cạnh đó, Ứng phó dư biên tổng tập còn thâm

nhập các vấn đề tín ngƣỡng thờ mẫu của dân gian với 6 bài chầu văn đặc sắc. Nhóm

tƣ liệu văn học và sáng tác văn học có màu sắc Phật giáo lại thể hiện tài năng văn

chƣơng cũng nhƣ vốn tri thức sâu rộng của các tác giả.

Lời đức Phật đã từng dạy chúng đệ tử rằng: “Dùng đạo lực thần thông biến

hóa để hóa độ; dùng trí tuệ để biết tâm lượng của kẻ khác mà hóa độ; biết rõ mọi

thứ phiền não chẩn đoán đúng bệnh và cho thuốc" [14, tr.136]. Nội dung của văn

bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 cũng nhƣ vậy. Ngƣời soạn ra văn bản

và ngƣời thực hành các nghi lễ là ngƣời hiểu thấu mọi lý lẽ của Phật pháp, cũng trở

thành một tu sĩ tài năng với kiến thức và tƣ duy tổng hợp, tâm lƣợng từ bi rộng lớn,

trên có thể ứng đối với vua, dƣới có thể hóa độ kẻ ăn mày.

Văn hóa của ngƣời Việt từ xƣa vẫn coi trọng tri ân và báo ân. Có thể lúc sống

không nhìn mặt nhau, nhƣng “nghĩa tử là nghĩa tận” nên chú trọng việc độ âm. Hơn

nữa, dân gian vẫn nói “Sự tử nhược sự sinh, sự vong như sự tồn” - thờ phụng ngƣời

đã mất nhƣ lúc còn sống, tôn thờ vong linh nhƣ vẫn đang hiện hữu. Chính vì vậy,

Ứng phó dư biên tổng tập đã làm tốt chức năng của mình, lƣu lại cho đời sau nhƣ

một lời căn dặn về lẽ sống và phƣơng pháp độ sinh tại nhân gian.

Có thể vì hoàn cảnh xã hội thúc đẩy hoặc tâm thế “ứng phó” với sự đổi thay

của thời đại mà ngƣời soạn ra văn bản nói riêng sắp xếp hết thảy các nội dung từ nội

hàm nghi lễ Phật giáo đến phƣơng tiện hành đạo, những kiến thức Phật học uyên

thâm đến trí tuệ sắc bén để hiểu và thâu tóm nền tín ngƣỡng thờ mẫu của dân gian...

vào trong cùng một tác phẩm. Tóm lại, nội dung văn bản Ứng phó dư biên tổng tập

應赴餘編總集 mang chức năng và nhiệm vụ đúng nhƣ cái tên của nó: “ứng phó” -

tùy cơ ứng biến, kịp thời ứng phó với mọi căn cơ và hoàn cảnh.

67

CHƢƠNG 3

GIÁ TRỊ CỦA ỨNG PHÓ DƢ BIÊN TỔNG TẬP

TRONG VĂN HÓA PHẬT GIÁO

Một nhà nghiên cứu Phật học đã nhận xét rằng: “Đạo Phật thâm nhập vào đời

sống tín ngưỡng dân gian ở Giao Chỉ không gặp phản ứng trở ngại, bởi lẽ những

tín ngưỡng dân gian không chống lại tín ngưỡng cơ bản của đạo Phật” [34, tr.42].

Phật giáo tôn trọng nền luân lý đạo đức truyền thống, biết dung hợp với tín ngƣỡng

thờ tổ tiên, kêu gọi con ngƣời sống lƣơng thiện, áp dụng luật nhân quả và tinh thần

vị tha vô ngã, sử dụng các phƣơng tiện khoa nghi đàn tràng... từ đó Phật giáo trở

thành điểm tựa tinh thần có tính chất hệ thống cho các quan niệm tâm linh... Vì vậy,

trải qua mấy ngàn năm, Phật giáo đã ăn sâu vào lòng dân tộc. Tƣ tƣởng, triết lý và

phƣơng tiện Phật giáo đã trở thành phần tất yếu của văn hóa Việt Nam. Nhắc tới

văn hóa truyền thống Việt Nam, không thể không nói đến văn hóa Phật giáo.

3.1. Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 và nghi lễ cầu siêu

Nghi là dáng vẻ bên ngoài nhƣ uy nghi, lễ là khuôn mẫu phép tắc, cung cách

nhƣ lễ bái [7, 32]. Trong sa di luật nghi quyển hạ có ghi: “Hữu uy khả úy, hữu nghi

khả kính” hay “Nghi là nghi thức, khuôn khổ bề ngoài thuộc phần hình thức, lễ là

cách tỏ bày cúng kính của mình, lấy hình thức lễ cúng mà nói lên niềm cung kính

bên trong” [24, tr.13].

Nghi lễ nói chung mang nghĩa rộng bao trùm hành vi thái độ, tín ngƣỡng, văn

hóa, ngôn ngữ. Nghi lễ cũng có nghĩa là nghi thức hành lễ tụng niệm, tín ngƣỡng

thờ phụng. Ở đây xét bình bình diện nghi lễ là sự thờ cúng, lễ bái trong đời sống

tâm linh, mà cụ thể là nghi lễ cầu siêu theo quan niệm Phật giáo.

Nghi lễ cầu siêu của Phật giáo không chỉ có nghĩa là ứng phó đạo tràng, mà

còn mang nghĩa là một trong những phƣơng tiện thiện xảo. Thông qua nghi lễ, sử

dụng ngôn ngữ đàn tràng, truyền tải giáo lý Phật giáo, triết lý nhân quả và từ đó

ngƣời tu sĩ Phật giáo tạo mối quan hệ gắn bó giữa đạo và đời, thực hiện khoa nghi là

thực hiện quyền nghi phƣơng tiện giúp họ chuyển hóa tâm thức, bỏ ác làm lành,

68

sống đời sống đạo đức, dần dần thân cận Tam Bảo, tin sâu nhân quả tội phúc và nỗ

lực tu tập chuyển hóa khổ đau.

3.1.1. Nghi lễ cầu siêu trong văn hóa Phật giáo

3.1.1.1. Pháp cầu siêu trong hệ thống kinh điển Phật giáo

Có quan điểm cho rằng linh hồn con ngƣời sau khi mất đƣợc lên thiên đƣờng

hƣởng thụ khoái lạc và tồn tại vĩnh viễn, hoặc chết là mất hẳn, không có gì tồn tại

sau đó nữa, cả 2 quan điểm đó Phật giáo cho là “chấp thường” và “chấp đoạn”.

Phật giáo cho rằng con ngƣời có mặt trên thế gian này là sự hội đủ của 3 yếu

tố “tinh cha, huyết mẹ và kết sinh thức”. Trong Đại Kinh Đoạn Tận Ái, số 38, Đức

Phật đã xác quyết rằng: “Này các Tỳ-kheo, khi nào cha mẹ có giao hợp, và người

mẹ trong thời có thể thụ thai, và hương ấm (kết sinh thức, thân trung ấm) có hiện

tiền; có ba sự hòa hợp như vậy, thì bào thai mới thành hình” [6, tr. 328].

Sự sinh tử theo quan điểm Phật giáo cho rằng “tam giới hữu tình giai tòng

nghiệp hữu” - thân thể theo nghiệp nhân mà có, nghiệp nhân hữu hạn, nên thân thể

có lúc rã rời. Trong khi thân thể còn, từ nơi tự tâm tạo tác các hạnh nghiệp để gây

thành công năng chiêu cảm thân sau, và thân sau sẽ thành thân hiện tại, khi thân

trƣớc đã theo nghiệp báo mà tiêu diệt. Cho nên, Phật giáo coi sự chết chỉ là "sự xoay

biến của nghiệp thức nơi tự tâm, để thay thân cũ lấy thân mới” [12, tr.351].

Cái chết còn đƣợc định nghĩa nhƣ sau: “Chư Hiền thế nào là chết? Thuộc bất

kỳ hữu tình giới nào trong từng mỗi loại hữu tình, sự mệnh một, từ trần, hủy

hoại, hoại diệt, tử biệt, mệnh chung, hủy hoại các uẩn, vất bỏ hình hài; chư Hiền,

như vậy gọi là chết” [6, tr.78].

Trên quan điểm chết không phải là chấm hết, mà là sự đổi thay, quá trình đổi

thay hình hài đó, tùy theo nghiệp lực của mỗi ngƣời mà trải qua thời gian dài ngắn

khác nhau. Những ngƣời tạo nghiệp cực thiện (nhƣ vua Tần Bà Sa sau khi chết liền

hóa thân làm thiên tử) sau khi mệnh chung lập tức sinh về cõi an lạc hoặc nhân

thiên, những ngƣời tạo nghiệp cực nặng (nhƣ Đề Bà Đạt Đà) tức khắc bị rơi vào địa

ngục chịu khổ đau. Còn các thành phần khác sẽ trải qua thời gian thân trung ấm từ 7

ngày đến 49 ngày.

69

Từ ý nghĩa sinh tử đó mà Phật giáo có sự kiện “hồi hướng cho vong linh” hay

“cầu siêu bạt độ” và đƣợc ghi chép trong hệ thống kinh điển Phật giáo:

Thứ nhất: Kinh Ngoài Bức Tường thuộc phần Tập Tụng - Tiểu Bộ kinh tập 1

hoặc “chuyện ngã quỷ ngoài bức tường” thuộc Tiểu Bộ Kinh tập 2 (thuộc hệ thống

kinh điển Nykaya, đƣợc coi là nguyên thủy, là ghi chép chính xác những lời dạy của

đức Phật) đã ghi lại câu chuyện vua Tần Bà Sa (Bimbisara) thỉnh Phật và chúng

tăng tới dâng cúng cơm canh, vải vóc và mọi thức tốt đẹp. Mỗi lần dâng cúng đều

đem phúc lành đó hồi hƣớng cho vong linh ngƣời thân từ nhiều đời quá khứ của

mình: “Bầy ngạ quỷ cũng đến và suy nghĩ: “Hôm nay chúng ta sẽ hưởng được món

gì đó”, rồi đứng bên ngoài các bức tường và hàng rào. Sau đó Ðức Thế Tôn làm

cho mỗi ngạ quỷ đều hiện hình trước nhà vua. Trong khi vua dâng nước rửa, vua

hồi hướng công đức ấy cho chúng với những lời này “mong công đức này dành cho

quyến thuộc ta”. Lập tức xuất hiện các ao sen đầy sen súng cho bọn ngạ quỷ.

Chúng tắm rửa và uống nước ở đó, được giảm nhẹ nỗi thống khổ của chúng vì bất

hạnh, lao nhọc và khát nước, nên da chúng trở nên vàng ánh...” [5, tr. 29-32]

Thứ hai: Chuyện Mẹ của Trưởng lão Sariputta đƣợc ghi chép trong phẩm

UBBARI thuộc Kinh Tiểu Bộ tập 2 rằng: "Về nhiều kiếp trước có ông đại trưởng

giả giàu có thường cúng dàng bố thí vật phẩm cho chư Tăng và người hành khất.

Nhưng bà vợ của ông lại là người độc ác tham lam. Mỗi khi ông đi vắng, bà thường

xua đuổi, chửi bới chư tăng, buông ra những lời ác nghiệt... Vì lẽ đó, sau khi mạng

chung, bà bị đọa làm ngã quỷ trong nhiều kiếp... Nhớ lại thân quyến nhiều đời, bà

nhận thấy đã từng có một kiếp làm mẹ của tôn giả trưởng lão Sariputta (Xá Lợi

Phất ) nên đã đến cầu xin ngài giúp đỡ. Nhận lời nhờ, Tôn giả Xá Lợi Phất đã tới

cung vua Tần Bà Sa La xin sự giúp đỡ. Hãy xây trong khu rừng của thành này bốn

am thất, được cung cấp đủ bóng mát và nước chảy. Khi các am thất đã được hoàn

tất, nhà vua đem chúng cùng các vật dụng cần thiết trong cuộc sống cúng dường

Trưởng lão Sàriputta. Sau đó, vị ấy dâng tặng lễ vật này lên Tăng chúng khắp thế

gian do Ðức Phật làm thượng thủ và hồi hướng công đức ấy đến nữ ngạ quỷ kia.

Nữ ngạ quỷ hưởng các lợi lạc này liền được tái sanh lên thiên giới” [5, tr. 62].

70

Phần trùng tụng nhƣ sau:

“Tôn giả, xưa ta mẹ của ngài,

Trong nhiều kiếp trước ở trên đời,

Tái sanh cảnh giới loài ma quỷ,

Ðói khát giày vò mãi chẳng thôi.....

Tôn giả, xin Tôn giả cúng dường

Vì ta, ngài bố thí ban ân,

Ðể cho ta hưởng phần công đức,

Giải thoát ta từ máu, mủ, phân....

Khi đã làm xong bốn cái am,

Ngài dâng lễ cúng tứ phương Tăng,

Am tranh, thực phẩm và hồi hướng

Công đức về cho mẹ hưởng phần.

Lập tức ngay sau lễ cúng dâng

Phước phần hồi hướng đến vong nhân.....

Xá-lợi-phất Tôn giả cúng dường,

Nhờ đây, con hạnh phúc hân hoan...” [5, tr.61]

Trên đây là những ghi chép về việc tạo phúc đức cúng dàng đức Phật và chƣ

Tăng để hồi hƣơng cho vong nhân thoát khỏi cảnh khổ nơi ba đƣờng ác có từ thời

đức Phật trong hệ thống kinh điển Nam truyền Phật giáo. Có thể coi đây là khởi

nguồn của nghi lễ cầu siêu độ cho thân nhân quá vãng bằng sự kiện cúng dàng mƣời

phƣơng chƣ Tăng để lấy phƣớc đức cho ngƣời mất đƣợc hƣởng.

Nhắc tới hệ thống kinh điển Bắc truyền là nhắc tới “Hán tạng” - hệ thống kinh

điển đƣợc ghi chép bằng chữ Hán và đứng đầu là Trung Quốc, trong số đó hệ thống

Kinh A Hàm đƣợc coi là tƣơng xứng với hệ thống kinh Nykaya. Ngoài ra có các bộ

kinh nhƣ Pháp Hoa, Đại Bảo Tích, Lăng Nghiêm... trong đó có các bộ kinh tiêu

biểu ghi chép những sự kiện liên quan tới việc “hồi hướng hương linh” hoặc cầu

siêu bạt độ nhƣ Kinh Địa Tạng, Kinh Vu Lan bồn, Kinh Mục Liên sám pháp, và

Kinh Lương Hoàng Sám..v..v....

71

Kinh Lương Hoàng Sám đƣợc ra đời với sự kiện vua Lƣơng Võ Đế lập đàn

tràng cầu sám hối, siêu độ cho hoàng hậu Hy Thị. Bộ kinh đƣợc Hòa thƣợng Chí

Công biên tập, là sự thâu tóm và rút ra những tính túy của các Kinh điển Phật giáo,

để lập đạo tràng cùng đại chúng đọc tụng, lễ sám đem phúc đức hồi hƣớng cho

mãng xà (thân bị đọa của hoàng hậu Hy Thị). Sự kiện này đƣợc coi là khởi đầu của

phép sám hối, đƣợc đƣa vào trong lòng sớ “Biểu âm”: 武帝興緣肇啟懺藦之典 -

nghĩa là nghi lễ sám ma khởi đầu từ vua Võ đế, đánh dấu bƣớc đầu của nghi lễ đàn

tràng có sự tập hợp của Tăng chúng và chính ngƣời thân của đối tƣợng cần giúp đỡ

tham gia đàn tràng.

Nếu sự xuất hiện của Kinh Lương Hoàng Sám gắn liền với nghi lễ đàn tràng,

với đông đảo ngƣời tham dự cầu thoát tội cho tội nhân bị đọa lạc thì Kinh Địa Tạng

và Mục Liên Sám Pháp cùng Kinh Vu Lan lại mang một nghĩa khác: đó là ý nghĩa

tri ân và báo ân. Bộ kinh ra đời dựa trên nền tảng giáo lý căn bản và các tích chuyện

đƣợc ghi chép trong kinh điển. Đƣợc chuyển thể thành những phẩm kinh tụng, với

mục đích hƣớng thiện và giáo dục lòng hiếu thảo của con cháu đối với cha mẹ tổ

tiên thông qua các hóa thân, tiền thân của vị Bồ tát mang tên Địa Tạng....

3.1.1.2. Nghi lễ cầu siêu trong Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集

Văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 ghi chép nhiều nội dung

khác nhau, nhƣng nội dung quan trọng nhất vẫn là những nghi lễ liên quan tới việc

lễ niệm cầu siêu cho ngƣời quá vãng, đƣợc thể hiện theo trình tự từ lúc di quan tới

lúc hạ huyệt, rồi đến các khoa nghi cầu siêu bạt độ cho chƣ vong linh.

Nghi lễ đầu tiên trong hệ thống cầu siêu của Ứng phó dư biên tổng tập cũng là

bài đầu tiên trong văn bản mang tên Bảo đường ca 保塘歌. Những giáo lý Phật

giáo đƣợc lòng ghép trong từng câu lục bát, đƣợc thể hiện qua giọng Hạnh kệ của

các già vãi, Bảo đường ca với Tinh thần sắc không không sắc 色空空色 là tinh thần

của Bát Nhã tâm kinh đƣa vào ngay đầu bài kệ, với chủ trƣơng "chiếu kiến ngũ uẩn

giai không độ nhất thiết khổ ách" nghĩa là quán chiếu đƣợc sắc chẳng khác không,

không chẳng khác sắc, ghi lấy điều đó làm nơi nƣơng tựa. Triết lý tính không trong

72

Bát Nhã đƣợc coi là rốt ráo trong hệ thống giáo lý Phật giáo, thấu triệt đƣợc lý lẽ đó

sẽ không còn sự chấp mắc, không rơi vào thế giới nhị nguyên, đạt đƣợc trí tuệ Bát

Nhã đƣợc coi nhƣ đến cảnh giới giải thoát, tự tại vô ngại. Ngay mở đầu một bản

Bảo đường lời lẽ tuy giản dị nhƣng nghĩa lí thật sự rất sâu xa nhiệm mầu.

Tiếp đó một loạt các phƣơng pháp tu tập của Phật giáo đƣợc đƣa vào: "洗心懴

悔奉持真言 Tẩy tâm sám hối phụng trì chân ngôn" - chỉ một câu 6 chữ bao hàm 2

phƣơng pháp tu tập là sám hối và trì chú: Phép sám hối cho ngƣời sắp mệnh chung

rất quan trọng, giúp họ phát khởi lời sám hối, nếu lỡ trƣớc kia có làm điều gì trái ý,

phật lòng nhau thì thôi, nay đã sắp lìa trần thế, hãy sám hối với nhau, hãy vì ngƣời

thân mình mà sám hối, để ngƣời ra đi, kẻ ở lại không còn áy náy trong lòng, cũng

không oán hận kết nghiệp đến đời vị lai; Phép trì chú thƣờng có nƣớc thanh tịnh,

với mục đích nhờ công đức trì chú vào nƣớc thơm này rảy khắp nhà để các oan gia

trái chủ, các vong linh vất vƣởng cùng đƣợc hƣởng phúc lành, không làm tổn hại

đến vong linh mới mất.

Thứ đến nêu các công việc cần đƣợc thực hiện nhƣ sắm sửa trai nghi và đỉnh

lễ chƣ Phật đƣợc thể hiện thông qua câu: “修斎頂禮慈尊梵臺 Tu trai đỉnh lễ từ tôn

Phạn đài”. Tu trai là hình thức thiết lập đàn chay, làm cơm với nhiều món chay,

sắm thêm các vật dụng thiết yếu (tứ sự dùng cúng dàng) để cúng dàng đỉnh lễ chƣ

Phật và chƣ Tăng.

Không chỉ vậy, Bảo Đường ca 保塘歌 còn nêu lên bản nguyện của chƣ Phật

và Bồ Tát, điển hình nhƣ 48 lời nguyện độ sinh của đức Phật A Di Đà và lời khuyến

tu Tịnh độ qua câu:

“Tây phương có Phật Di Đà,

Tứ thập bát nguyện thật là chẳng sai.

Ai hay niệm Phật bảo đài khai hoa” [tr.6]

Đây là tƣ tƣởng Tịnh độ, niệm Phật sẽ thành Phật; mỗi ngƣời phát tâm trì niệm

danh hiệu của đức Phật A Di Đà, kết hợp với tu tập trừ bỏ tham sân si, làm các việc

thiện lành thì ở thế giới Cực Lạc sẽ có một bông sen dành cho ngƣời đó, chuyên

niệm càng chuyên sâu, tín nguyện kiên cố và tạo tác nhiều phƣớc thiện thì bông sen

73

mỗi ngày một lớn thêm, cuối đời ngƣời đó sẽ đƣợc hóa sinh nơi hoa sen ở thế giới

cực lạc, đó cũng là bản bản nguyện của đức Phật A Di Đà.

Bảo Đường ca 保塘歌 còn nêu lên nhân địa tu hành của hàng Bồ Tát, điển

hình cho hạnh nguyện độ chúng sinh, đó là Bồ Tát Địa Tạng, với lời thệ nguyện 眾

生渡盡方證菩提地獄未空誓不成佛 đƣợc thể hiện bằng câu lục bát ngắn gọn:

“Nhờ ơn đức Địa Tạng vương,

Phát nguyền độ hết cương cường hậu lai,

Đưa hồn qua núi ngũ đài.” [tr. 7]

魂它皈佛𥹰𣈜,尼功德牒𠉞柴給朱 Hồn quy y Phật lâu ngày, nay công đức

điệp nay thầy cấp cho: câu này nói lên ý nghĩa về việc Qui y Tam bảo của ngƣời

Phật tử. Nghi lễ Qui y Tam bảo là một sự kiện quan trọng để một ngƣời bình

thƣờng trở thành đệ tử Phật, mỗi ngƣời khi qui y trở thành đệ tử của Phật sẽ đƣợc

cấp 1 điệp Qui y Tam bảo. Tờ điệp này tùy từng thời kỳ mà cách thức có thể khác

nhau, nhƣng nội dung thì hầu nhƣ tƣơng tự và có chung 1 ý nghĩa. Điệp quy y đƣợc

ví nhƣ tờ giấy khai sinh của ngƣời con Phật. Trong đó có ghi tên, tuổi, địa chỉ, và

pháp danh của ngƣời Phật tử.

Một số ngôi chùa quê, các Phật tử lớn tuổi (già vãi) sẽ gấp tờ điệp nhỏ lại,

cùng với 1 tờ Kinh Bát Nhã, cho vào một túi nhỏ dài, túi nhỏ đó thƣờng đƣợc khâu

bằng vải màu đỏ và buộc vào đầu của tràng hạt, gọi là “túi Kinh tràng hạt”. Mỗi khi

lên chùa lễ Phật sẽ đeo vào cổ nhƣ một hành động thể hiện sự tôn kinh Phật Pháp.

Khi ngƣời Phật tử sắp lâm chung, ngƣời thân hoặc các bạn đồng tu sẽ đem tờ điệp

đó ra đứng cạnh giƣờng đọc thật to, rõ ràng để cho ngƣời sắp mất nghe tiếng, sau

khi ngƣời đó mất thì tờ điệp đƣợc đốt trên lá chuối, và gom tro của tờ điệp gói vào

lá chuối để vào tay của ngƣời đã mất, với mong ƣớc rằng vong linh sẽ cầm tờ điệp

trên tay nhƣ một tờ giấy thông hành mà về với Phật hoặc để đi tái sinh vào cảnh

giới lành. Toàn bộ ý nghĩa đó thể hiện qua câu:

“Trình Điệp rồi sẽ sang đò,

Lầm rầm mật niệm Nam Mô Di Đà.

Có công đức điệp cầm tay,

74

Mặc áo Lục thù nghiêm trang.” [tr.7]

Trong bản hạnh Bảo đường ca còn nói về lịch sử cuộc đời của đức Phật Thích

Ca, với những thông tin cơ bản nhƣ gia thế, thân thế của đức Phật nhƣ 佛父,佛母,

佛子,佛孫 thông qua câu:

“Tịnh Phạn vương phụ thật rày là cha,

Ma Da quốc mẫu đấy mà,

Phật tử tên gọi Hầu La tự ngày.” [tr.9]

Những lời khuyên răn nghe thật bình dị: “Ai mà lòng ở thẳng ngay, tuy trời

cao thẳm nhưng mà thính ti” [ tr.12] nhƣng đó lại là một triết lý cao thâm khó có

thể thực hiện và thành công ngay trong một đời. Chỉ đơn giản là sống một đời ngay

thẳng, muôn vàn cảnh tạo tác đều do ta làm chủ, do chính ta tạo ra. Giáo lý nghiệp

báo luân hồi chủ trƣơng rằng con ngƣời là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của

nghiệp, mình làm mình hƣởng, gieo nhân nào gặt quả đó cũng đƣợc dùng làm câu

kết thúc của Bảo đường ca rằng:

“Luân hồi tại nhất cá tâm,

Dẫu sang Tịnh độ do tâm ta làm”. [tr.12]

Tóm lại, Bảo đường ca 保塘歌 là một bản ca mang tính giáo dục nhân quả,

bài dạy về hiếu đạo, là sự thâu tóm các giáo lý tu tập, là bức tranh chân thực để

ngƣời Phật tử nhìn vào nhằm răn dạy ngƣời còn kẻ mất biết tu theo đƣờng lành

tránh đƣờng ác. Gồm thâu trong từng lời lẽ còn là tín ngƣỡng dân gian, là niềm tin

của ngƣời sống muốn dặn dò gửi gắm ngƣời đã mất, “hãy đi đường bạc chớ lạc

đường xanh”, đƣờng bạc là đƣờng tu hành, đƣờng xanh là đƣờng ngã quỉ. Và thầm

nhắc nhở con cháu hãy báo đáp công ơn sinh thành của cha mẹ bằng cách lập đàn

tràng phổ độ cầu siêu cho cha mẹ, và sống ở đời hãy “hôm mai ở lành”. Có thể nói,

tính giáo dục, triết lí Phật giáo và các phƣơng pháp tu tập cùng tín ngƣỡng dân gian

đƣợc thể hiện ngắn gọn trong từng câu chữ trong Bảo đường ca:

“Nhờ Bồ tát Địa Tạng Vương,

Cùng Thầy đồng tử dẫn đường hồn đi.

Địa phương tiếp giáp đa tri,

75

Trông phan tiếp dẫn hồn đi mới tuyền.” [tr.8]

Nghi lễ cầu siêu trong Ứng phó dư biên tổng tập không đơn thuần chỉ có khoa

cúng và các sớ điệp công văn mà nghi lễ cầu siêu còn đƣợc thể hiện trên các khía

cạnh khác nhƣ Chèo thuyền

Sách Thủy lục có khoa Cúng Huyết hồ, nhằm giải tội cho những bà mẹ vì nỗi

khổ sinh con mà đã vô tình tạo nghiệp. Họa theo khoa cúng, có 1 bản chèo đò với

nội dung tƣơng tự mang tên Chèo đò huyết hồ:

“Khi nguyệt tín cùng ngày sinh đẻ,

Đem áo quần giặt cận giếng sông.

Khí hôi tanh phạm đến thủy cung,

Nhật thần đã chủ biên từng tội”. [tr.23]

Điều kiện sống trong môi trƣờng làng xã (Bắc Bộ) xƣa, mỗi làng có một đến

vài chiếc giếng to để dân làng dùng chung. Ngƣời dân ra đó gánh nƣớc về sử dụng,

hoặc đem áo quần ra giặt bên giếng. Những nơi ven sông thì thƣờng tắm và giặt

nƣớc sông, thậm chí còn gánh nƣớc sông về để nấu dùng... Chính vì thế, nƣớc giếng,

sông đƣợc coi là thứ nƣớc thiêng liêng, phải đƣợc giữ gìn cẩn thận, nhiều nơi còn

lập cây hƣơng thờ “Bà chúa giếng”. Vậy nên, ngƣời phụ nữ đến kì kinh nguyệt,

hoặc vì chuyện sinh nở mà đem máu huyết ra giặt bị coi là làm ô uế nơi đó, phạm

tội với “thủy cung”. Mỗi lần giặt là mỗi lần bị thần cai quản ghi chép tội vào sổ, đến

khi chết đi sẽ bị đọa vào địa ngục “đầu đội chậu máu, chân đeo cùm, cổ lại đeo

gông”. Chính vì ý đó, sau khi cha mẹ qua đời, con cháu vì lòng hiếu thảo mà đƣa

vong linh lên chùa lễ Phật, tụng kinh, cầu nguyện “huyết hồ thời hóa liên trì, vong

hồn ắt xuất ly địa ngục”. Con cháu không chỉ nhờ Thầy làm lễ mà con mong nhờ

lòng thành khấn nguyện của những ngƣời Phật tử, già vãi trong chùa thể hiện với ý

nguyện “đưa hồn qua sông mê về chầu Phật Di Đà”.

Toàn bộ bản chèo đò ngoài tích truyện Mục Liên cứu mẹ, còn rất nhiều các

điển tích điển cố văn học, lịch sử Trung Hoa và Việt Nam, trƣớc dẫn từ thƣợng cổ

Thần Nông, Nghiêu Thuấn đến điển tích Hán - Sở tranh hùng, từ Sãi Công dùng

76

thuyền Bát nhã độ ngƣời qua sông mê, tới Kim Cƣơng hộ pháp, chƣ Bồ tát Thánh

hiền Phật giáo...

Thứ đến bản chèo thuyền xoay quanh nội dung đƣa ngƣời bị chịu tội trong

ngục huyết hồ lên con đƣờng giải thoát: “Tội huyết hồ há phải mẹ sinh, cũng vì bởi

sinh con nên thế”. Theo quan điểm Phật giáo, thế gian này là biển khổ, dòng ái dục

nhấn chìm chúng sinh nổi trôi trong đó. Vậy nên, điều kiện cần và đủ để giải thoát

cảnh khổ trầm luân gồm đủ 3 yếu tố là tâm không bám chấp “muôn duyên phải tâm

vô quản ngại”. Cần có phƣơng tiện di chuyển: “thuyền ấy gọi là thuyền Bát Nhã”

Và cuối cùng, cần có ngƣời dẫn đƣờng, nƣơng vào sự trợ giúp của tha nhân,

tha lực của ngƣời lèo lái con đò: “Có một ông tên gọi Sãi Công... vốn xưa nay vẫn

chở đò ngang”

Giáo lý Phật giáo đƣợc hiểu một cách rất dân gian trong lời ca của bản chèo

đò: Lời thế gian người đã đặt ca, hễ có thực mới vực được đạo..., Ở lành thì lại gặp

lành, dẫu mà lên thác xuống gành quản chi... [tr.28, 29]. Kinh Dược Sư nói: Cho ăn

đầy đủ rồi mới nói pháp cho nghe, nên trong Phật giáo thƣờng nói: “法輪未轉,食

輪先轉 - muốn chuyển pháp luân thì trƣớc tiên phải chuyển bánh xe vật thực. Bởi

“chúng sinh dĩ thực vi tiên” - chúng sinh lấy cái ăn làm đầu, là quan trọng trƣớc hết,

vậy nên muốn giáo hóa chúng sinh, muốn đƣa ngƣời vào trong biển Phật pháp thì

cần phải tìm phƣơng tiện dẫn dắt vào, trong muôn vàn thì có cái gần gũi, thiết thực

nhất đó chính là dùng “thực luân”.

Từ Thần Nông, Nghiêu Thuấn dạy ngƣời cày cấy cũng vì trừ đói khát; Hán -

Sở thắng thua cũng chỉ vì quân lƣơng thiếu đủ khác nhau nên ý nghĩa “có thực mới

vực được đạo” đã đi sâu trong tri thức dân gian. Và một định luật của tự nhiên và

xã hội, dù đức Phật có ra đời hay không thì nó vẫn tồn tại, vận hành và chi phối tất

cả đó chính là luật nhân quả.

Xuyên suốt bản chèo đò này là sợi dây nhân quả đƣợc thể hiện rõ nét, truyền

dạy ngƣời đời ở hiền thì lại gặp lành. Khi đã tích đủ phúc đức, thiện căn thì dẫu có

sóng gió nghiệp thổi tới cũng không thể nhấn chìm ngƣời đó: “Ái hà nghìn thước

77

sóng xô, có thuyền Bát Nhã là đò tây qui, và khi vong hồn được tự nhiên siêu thoát,

con cháu thì khang cát dài lâu” [tr. 29,30].

Một khoa cúng đƣợc coi là chủ đạo trong khóa lễ cầu siêu đó là Triệu linh,

đƣợc liệt kê trong hệ thống các nghi lễ cầu siêu trong văn bản Ứng phó dư biên tổng

tập đó là triệu linh thán, một bài than thỉnh mời vong linh, cũng là 1 khoa cúng siêu

độ cho vong linh

Nghi lễ cầu siêu độ nhân ngày thứ 35 hoặc 49 của vong linh thông dụng có các

khoa nghi: 1. Cúng tiếp Linh, 2. Cúng Phật, 3. Cúng triệu linh, 4. Quy vong, 5.

Tụng kinh, 6. Chúc thực. Với quy mô lớn hơn, cúng phả độ gia tiên và cầu siêu phá

ngục cứu bạt vong linh chịu khổ u đồ thì đàn lễ lớn mà thƣờng gọi là “phổ độ hay

bạt độ” gồm có các khoa nghi theo thứ tự: (nhƣng tùy từng chủ lễ mà thứ tự có thể

đƣợc thay đổi)

1. Khoa nghinh sƣ: có sớ nghinh sƣ (sớ).

2. Khoa Tiếp linh: có sớ tiếp linh.

3. Khoa Phát tấu: gồm có 7 lòng sớ (1. Quan tấu 1 (dƣơng điệp), 2. Quan tấu

2 (thông hành dƣơng), 3. Quan tấu 3 (âm điệp), 4. Quan tấu 4 (thông hành

âm), 5. Nhƣ Lai sớ, 6. Đơn, 7. Tam giới thông thiên hịch).

4. Khoa cúng Phật: có lòng sớ Phật Âm (có ngƣời cẩn thận thì sẽ làm 3 lòng

sớ gồm có: 1. Sớ Phật Âm, 2. Sớ Nhị Thánh, 3. Sớ Thập Điện).

5. Triệu linh.

6. Qui vong.

7. Tụng kinh: Có thể Tụng kinh Thủy Sám, Báo Ân, Lƣơng Hoàng Sám, tùy

từng chủ lễ sắp xếp.

8. Khoa thỉnh xá phóng xá: điệp phóng xá và gồm thêm Quan xá và tiểu xá,

mang nội dung nhƣ là một lệnh sắc của Phật ban xuống địa ngục để diệt trừ

tội khổ cho vong linh.

9. Tam phủ đối khám: có sớ Tam phủ.

10. Khoa khai phƣơng: có điệp khai phƣơng.

11. Đàn ngục: sớ Đàn ngục.

78

12. Cắt kết: gồm 5 tờ cáo ngũ phƣơng và sớ cắt kết.

13. Chia của: Gồm 2 tờ điệp phân dị và một dải kiều cắt đôi.

14. Mông sơn chẩn tế.

Đây là thứ tự các khoa cúng theo nghi lễ thời hiện tại (2020) của đa phần các

thầy pháp sƣ (thông qua tìm hiểu thực tế) và thứ tự trên không hề có phần nào nhắc

đến Trai đàn ban sắc xá cách, có thể phần nghi lễ này đã bị cắt bỏ từ lâu hoặc đƣợc

gồm thâu trong khoa cúng nào đó mà ngƣời đời sau không còn biết tên riêng của nó.

Hệ thống các khoa cúng trong Ứng phó dƣ biên tổng tập có ghi 2 bài về âm

hồn, hai tác phẩm này đƣợc coi là một nghi lễ để chẩn tế và cứu bạt hết thảy các loài

âm hồn, cụ thể gồm có 13 loại đƣợc liệt kê trong văn bản nhƣ đã giới thiệu trong

chƣơng 2. Đàn chẩn tế cô hồn thƣờng đƣợc thực hiện với 3 cấp độ

-Đàn nhỏ gọi tiểu duyên, là cúng thí thƣờng ngày trong chùa vào các buổi

chiều sau thời khóa tụng Kinh chỉ cần 1 ngƣời thực hiện là các vị sƣ, chú tiểu hoặc

bà vãi; gọi là Cúng cháo

Đàn trung là các “đàn du già” đọc các bài văn tế, sắp sửa phẩm vật cúng thí

cho cô hồn; có từ 3 đến 5 ngƣời cũng lế

Đàn thƣợng là lễ Mông sơn chẩn tế cô hồn gồm nhiều thành phần tham dự.

Có các nghi lễ múa lục cúng có từ 5 đến 7 ngƣời thực hiện

Trong các đàn cúng thí phải đầy đủ các yếu tố:

+ Tài thí: sắm sửa đủ đầy và nhiều các thực phẩm để bày đàn lễ.

+ Pháp thí: vị pháp chủ đàn lễ bố thí pháp cho tất cả ngƣời và mọi loài đến

tham dự pháp hội. Mƣợn vật phẩm để nhằm mục đích bố thí pháp chia sẻ phƣơng

pháp và chỉ cho con đƣờng để họ tu tập, cho chúng sinh biết đƣợc nguyên nhân từ

đâu mà có khổ đau rồi tu tập chuyển hóa cách nghĩ, cách nói, cách làm... khi họ đã

qui hƣớng Tam bảo thì sẽ đạt đƣợc giải thoát.

+ Vô úy thí: Ngƣời thực hiện đàn nghi là giới tu tập - ngƣời thực hành theo

chính pháp, sự xuất hiện của họ đem lại niềm tin cho mọi ngƣời, ngƣời đó phải đủ

đức vô úy thí ban cho chúng sinh sự bình yên.

79

Tùy từng trƣờng hợp cụ thể sắm sửa phẩm vật nhiều ít khác nhau nhƣng cơ

bản cần có đủ các thức là những món ăn dân dã thƣờng ngày của ngƣời dân nhƣ

sau:

1. Cơm nắm (Oản + chuối)

2. Cháo hoa (7 bát, hoặc 7 mâm mỗi mâm 7 bát, hoặc nhiều hơn nữa... )

3. Bỏng ngô (bây giờ thƣờng là bimbim)

4. Ngô, khoai, sắn, đậu, lạc...

5. Nƣớc trắng ( bây giờ thêm sữa và nƣớc ngọt)

6. Gạo + Muối

7. Hƣơng và Hoa

Không chỉ có bày lễ trên mâm, trân bàn, tập trung 1 chỗ mà phong tục Phật

giáo Bắc bộ xƣa (ngày nay còn một vài nơi vẫn giữ đƣợc lối truyền thống) mỗi khi

cúng đến dịp ra hè, vào hè, tất niên, thƣợng nguyên và khi có đàn lễ chẩn tế lớn nhƣ

“đàn Mông sơn, đàn Du già” thƣờng làm “bồ kề” để rải cháo thí cho chúng âm hồn

nhỏ bé, già yếu hoặc khuyết tật mà lê lết nơi đầu đƣờng cuối chợ.

“Bồ kề” làm từ chiếc lá Bồ đề, hoặc lá Đa, đƣợc gấp lại hình giống cái gáo, cài

vào thẻ hƣơng, sau đó múc cháo vào đó và cắm dọc đƣờng từ cổng chùa ra tới ngã

ba của Làng. Có thể vì tục làm “bồ kề" rải cháo nhƣ vậy mà trong văn bản Hựu

Quốc Âm văn có “Thác lại nhờ hớp cháo lá đa” (tr. 520) và dân gian truyền nhau

có câu “húp cháo lá đa”. Thế nhƣng, tại sao cúng âm hồn nhất thiết phải có cháo?

Bởi vì theo quan niệm ngƣời đói lâu ngày thì phải cho ăn cháo mềm trƣớc để thấm

dần vào cơ thể, dần hồi tỉnh thì mới dùng đƣợc các thứ khác, đó là lòng từ bi...

Ngoài ra văn bản Ứng phó dƣ biên tổng tập còn liệt kê ra một loạt các khoa

nghi với ý nghĩa cầu siêu nhƣ Trai đàn ban sắc ca cách, khai quang vong linh nghi,

với ý nghĩa cứu độ vong linh đƣợc siêu thoát. Tất cả các khoa nghi tựu chung đƣợc

thể hiện trên 2 nội dung chính nhƣ sau:

- Nội dung thứ nhất thể hiện phần nghi lễ chính, thực hiện theo thứ tự của các

bài: phóng xá, triệu linh, phụ phan, khai quang tẩy uế, các bài tán rồi thỉnh âm hồn.

Tác giả trình bày với ý nghĩa: trƣớc tiên cần có sớ điệp quan đơn đƣa xuống âm tào

80

xóa tên tội nhân trong địa ngục, sau mới thắp nhang hoa thỉnh mời vong linh về đàn

tràng và tẩy trừ uế nhiễm phiền não. Nội dung truyền tải giáo lý Phật giáo, thông

qua việc độ tử hƣớng tới các đối tƣợng đàn tràng (độ sinh).

- Nội dung thứ hai là những bản ca cách: đó là những bản khác, hoặc lối trình

bày khác của nghi lễ. Toàn bộ nội dung nghi lễ cầu siêu đƣợc ghi chép trong văn

bản mang tính chất đơn thuần là việc hành lễ. Từ đầu chí cuối miêu tả về cách thức

chạy đàn, những lời phụ chép cách thức và trình tự khi thực hiện nghi lễ. Các bản

khoa nghi đƣợc chép trong đây khá đầy đủ gồm cả Bảng cô hồn và Phụ phan... Xét

về mặt nghi lễ, đây là văn bản khác đầy đủ những cách thức và trình tự. Hiện nay,

những bản văn gốc, y nguyên từ câu chữ, lối diễn xƣớng và âm điệu có thể không

còn đƣợc duy trì nhƣ xƣa, nhƣng những khoa nghi và ý nghĩa của nó vẫn đƣợc lƣu

truyền đâu đó trong những ngôi chùa vùng đồng bằng Bắc Bộ. Về mặt giáo lý,

những bản khoa nghi của nghi lễ cầu siêu lại chứa đựng nhiều tinh hoa giáo lý Phật

giáo, nhiều điển tích văn học và điển cố Nho gia

Tóm lại, nghi lễ đƣợc thể hiện trong văn bản Ứng phó dư biên là nghi lễ đƣợc

sử dụng cho những đàn lễ cầu siêu bạt độ của Phật giáo, từ cúng tuần thất (7 ngày)

hoặc tuần ba lăm (35 ngày) hoặc tuần bốn chín (49 ngày kể từ ngày mất) cho đến

các trai đàn lớn nhƣ “phả độ gia tiên” diễn ra trong khoảng 1-3 ngày, có nhiều

ngƣời tham dự, từ ngƣời thực hiện đàn lễ tới ngƣời đến xem đến dự lễ.

Dù là trai đàn phổ độ hay cầu siêu thông dụng, tất cả đều là phƣơng tiện Phật

giáo, thông qua ngôn ngữ đàn tràng và những hình tƣợng cụ thể từ những ngƣời chủ

lễ để tái hiện cảnh địa ngục với những nhân vật biểu trƣng, hoặc những nhân quả

nghiệp báo, tinh thần hiếu đạo báo ân nghĩa sinh thành của cha mẹ, nhằm truyền tải

ý nghĩa rốt ráo của buổi lễ cầu siêu, nhắc nhở con nƣời về đạo lý làm ngƣời, răn

nhắc các hành động tạo tác của thân, khẩu, ý trong mọi hoàn cảnh và trƣớc mọi đối

tƣợng... giúp chính những ngƣời tới dự lễ đƣợc thấm nhuần giáo lý nhà Phật, phát

khởi tâm qui kính đức Phật và chƣ Tăng. Tất cả đàn tràng dị khẩu đồng âm tuyên

đọc lời kinh tiếng kệ từ đó tạo ra năng lƣợng tích cực, tâm hỷ xả từ bi mà cảm ứng

tới vong thân mới mất... Từ tâm hiếu thảo hƣớng tới tổ tiên, từ sự cảm ứng đạo giao

81

giữa tình thân đó khiến vong thân tự mình phát khởi đƣợc niệm thiện lành, và khát

ngƣỡng công đức mà mong đƣợc sinh về cảnh giới tốt đẹp. Từ ý niệm đó mà vong

linh tự nhiên đƣợc siêu thoát. Đó chính là nghĩa đích thực của việc tự giác, giác tha

cầu siêu bạt độ trong văn bản Ứng phó dư biên muốn chuyển tải tới ngƣời thực hiện

nghi lễ, ngƣời tham dự hành lễ cũng những thế hệ sau có ý thức tìm hiểu, nghiên

cứu và in ấn lƣu truyền văn bản này.

3.2. Giá trị và ý nghĩa thực tiễn của Ứng phó dƣ biên tổng tập 應赴餘編

總集

3.2.1. Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 thể hiện quyền nghi

phương tiện Phật giáo

Phật giáo mọi thời đại đều mang tinh thần “hòa quang đồng trần” hòa quyện

dung nhiếp đời sống ngƣời dân thông qua các phƣơng tiện. Có thể nói, các khoa

nghi cũng là một trong các phƣơng tiện, là cách thức đƣợc đặt ra cho phù hợp căn

cơ thế nhân, cũng là một nét, một sắc thái hài hòa giữa giáo lý Phật giáo và tín

ngƣỡng dân gian.

Các khoa nghi này là sự kết hợp hài hòa của tam giáo đồng nguyên và tín

ngƣỡng thờ cúng tổ tiên của ngƣời Việt. Phật giáo thời Trần đã có sự kiện nhà vua

ban hành sách Phật giáo pháp sự đạo tràng công văn cách thức để làm chuẩn trong

việc thực hiện nghi lễ. Các thế hệ chƣ tổ nhƣ Pháp Loa đã soạn bộ Pháp sự khoa

văn, Độ môn trợ thành tập, viết về các nghi thức và sớ diệp, khoa nghi chẩn tế của

Phật giáo, tổ Huyền Quang cũng soạn ra Công văn tập viết về các khoa giáo của

Phật giáo. Tổ tổ tƣơng truyền, từ xa xƣa Phật giáo đã biết vận dụng giáo lý Phật

giáo, chế tác ra những khoa giáo, lập nên những đàn tràn phù hợp với văn hóa tín

ngƣỡng của ngƣời Việt Nam chúng ta.

Từ xƣa dân gian vẫn cho rằng “chùa chiền là tổ mộ của dân”, là nơi hết thảy

con dân cháu làng đều qui ngƣỡng. Từ lúc sinh ra 1,2 tháng tuổi đã đƣợc gửi “bán

khoán” vào Đức Ông để mong mạnh khỏe bình an. Lớn hơn chút thì lên chùa đội

bát nhang theo tín ngƣỡng thờ mẫu, và hàng tháng đến theo lễ, cầu an mong làm ăn

buôn bán thuận lợi. Khi trăm tuổi về già thì con cháu lại “đưa vong lên chùa” để gửi

82

gắm niềm tin, mong ƣớc vong thân đƣợc qua lại nơi cửa chùa hằng ngày nghe lời

kinh tiếng kệ. Trọn vẹn cả cuộc đời của ngƣời dân gắn bó với văn hóa làng xã và

ngôi chùa quê, mọi mong ƣớc và tâm tƣ tình cảm của ngƣời dân gửi gắm nơi cửa

chùa, mà lối vào là các nghi lễ. Những nghi lễ này lại có đầy đủ trong Ứng phó dư

biên tổng tập.

Ứng phó dư biên tổng tập là văn bản tâp hợp tất cả các khoa nghi từ việc độ

âm, tín ngƣỡng thờ mẫu, và các bài văn tế âm hồn. Là một văn bản thể hiện nhiệm

vụ "đa khoa" của nhà chùa để phù hợp với văn hóa, tín ngƣỡng, không chỉ vào thời

điểm nó đƣợc ra đời mà ngay trong xã hội hiện tại, mỗi ngôi chùa, mỗi vị sƣ cần có

và cần biết.

Cái cần có đầu tiên của một ngƣời tu hành cửa Phật là kiến thức Phật học, để

có thể giải đáp mọi thắc mắc, nghi vấn khi có ngƣời muốn tìm hiểu Phật pháp, đó

cũng là điều kiện cần có trên con đƣờng tu thân hành đạo, giáo hóa tín đồ để phát

triển Phật pháp. Điều này đƣợc thể hiện rõ trong văn bản Ngự vấn một bản văn ghi

lại sự ứng đối hoạt bát, thông minh dựa trên cơ sở hiểu biết sâu về Phật pháp.

Ngoài ra, việc am hiểu về văn học và thơ phú, nói chung là những kiến thức

chung của thế học cũng không thể thiếu. Các văn bản Bồng Lai văn, Bách hoa văn,

có thể do tác giả sáng tác, thể hiện tài thơ phú của mình nhƣng cũng là một tấm

gƣơng để hậu học nên noi theo đó hoàn thiện bản thân.

Vậy, phƣơng tiện thiện xảo trong Ứng phó dư biên đƣợc thể hiện từ khía cạnh

Phật học đến nghi lễ. Nghi lễ cụ thể ở đây là nghi lễ độ âm. Độ âm không chỉ mang

nghĩa là độ những ngƣời đã chết, những âm hồn vất vƣởng, hay cứu thoát tội đồ

trong một thế giới địa ngục xa xôi bí ẩn nào đó. Cần xét trên phƣơng diện ngay tại

cuộc sống này, khi chúng ta còn vƣớng mắc, chấp thủ tăm tối do mất định hƣớng,

cô đơn không có bạn đồng tu, không nơi nƣơng tựa vì xa rời ba ngôi báu, khi đó

chúng ta rơi vào trạng thái của một “cô hồn”. Khi chúng ta thiếu tỉnh giác, chìm

đắm trong sân hận, thù hằn, chỉ sống trong nƣớc mắt và đau khổ với những kí ức

của những tháng ngày trong quá khứ... khi đó chúng ta đang là một “âm hồn” bị đọa

lạc trong địa ngục trần gian. Lúc đó, cần lắm một ngọn đèn soi sáng tâm trí cho ta,

83

cần lắm một môi trƣờng tốt, một tác động từ tha nhân để thân tâm ta tỉnh táo và

đứng dậy đi ra khỏi chỗ đó, giúp chúng ta dứt bỏ những sợi dây oan trái, những mối

tâm tƣ ràng buộc... Các trai đàn siêu độ, giải oan, cắt kết đƣợc lập lên không chỉ là

một cơ hội để chúng ra thực tập tứ vô lƣợng tâm hƣớng đến các cảnh giới tối tăm,

đau khổ mà còn là cơ hội để chúng ta thực tập giải đi nỗi niềm oan khiên, thù hận

trong lòng mình, chỉ ra con đƣờng tỉnh thức cần phải tiếp bƣớc. Làm đƣợc nhƣ thế

mới đúng nghĩa cầu siêu: “Nếu có khả năng phá được nghiệp báo, phiền não huyễn

mộng, một niệm giác ngộ, một thoáng hợp nhau ngay với tịnh độ, thế là đi mà

không đi đâu, sinh mà không sinh nơi sinh đó là nghĩa vãng sinh vậy” [30, tr.138]

Khi thực hành và suy xét đƣợc nhƣ vậy là chúng ta đang có đƣợc “sự lý viên dung”.

Hơn thế nữa, thực tế cho thấy không phải ngƣời dân nào tới chùa cũng để xin

kinh Phật về đọc, hay để nghe thuyết giảng giáo lý nhân quả, nghiệp báo, tứ đế,

duyên khởi... mà bƣớc chân đầu tiên họ đến với cửa Thiền là muốn hỏi chuyện này

việc kia...; có thể vì việc làm ăn khó khăn, trong gia đình bất hòa... mà tìm đến cửa

chùa mong một chút bình an, cầu xin sự gia trì của đức Phật để mọi việc thuận lợi...;

hoặc trong nhà có ngƣời mới mất làm trong lòng họ có nhiều hỗn loạn, lo lắng và

không yên tâm về sự ra đi của ngƣời thân... họ tìm tới của chùa đẻ hỏi xin làm một

khóa lễ hay một điều gì đó với tâm nguyện cầu cho vong nhân quá vãng đƣợc sinh

về cảnh giới tốt đẹp, lại phù hộ cho con cháu đƣợc bình an. “Có người nhân ác báo

hiện tiền sợ hãi hoảng hốt mà cầu sinh cõi tịnh, có người nhân đói rét khốn khó

sinh hoạt bức bách mà cầu sinh cõi tịnh, có người về những khổ già bệnh bức não

mà cầu sinh tịnh độ, đều vì tâm lý lánh khổ tìm vui làm động cơ vãng sinh tịnh độ”

[30, tr.140].

Đạo Phật là đạo từ bi hỷ xả, cứu khổ giải thoát bình đẳng giác ngộ lợi ích lạc

cho chúng sinh. Từ những sự việc nhƣ thế, thiết lập đàn tràng, trƣớc là thực hiện

nghi lễ, sau là giáo hóa rao giảng lý nhân quả nghiệp báo luân hồi cho họ nghe.

Nghe lâu dần trải qua các nghi lễ, cảm nhận đƣợc sự nhiệm màu của giáo lý và uy

nghiêm từng khóa lễ là con đƣờng dẫn tha nhân nhập đạo.

84

Tuy nhiên, đã là phƣơng tiện thì chúng không phải là chân thật. Vì vậy, vị

thầy sử dụng nghi lễ cần có những giới hạn nhất định và nên có thái độ vô chấp đối

với nghi lễ. Nhất là cần tạo cho nghi lễ có những ý nghĩa giải thoát khổ đau theo

tinh thần "nghiên chân hoạch ngụy", "hiển chỉnh tồi tà” và tôn lên đƣợc giá trị

truyền thống về đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, tinh thần hiếu đạo không chỉ đối

với đời sống hiện hữu mà còn là sự giao thoa tinh thần giữa ngƣời sống và ngƣời đã

khuất. Từ đó, tạo nên một nét đẹp văn hóa sẽ mãi mãi đƣợc tiếp nối và tôn vinh

trong đời sống cộng đồng của ngƣời Việt Nam.

3.2.2. Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 thể hiện sự dung hòa tín

ngưỡng và tinh thần tam giáo

Sự dung hòa giữa Phật giáo và tín ngƣỡng là một nét đặc trƣng của văn hóa

truyền thống Việt Nam, tƣ tƣởng khoan hòa trong thực tiễn của tâm lý dân tộc đã

dẫn tới hiện tƣợng đồng nguyên giữa các tôn giáo và hình thái tín ngƣỡng.

Trƣớc hết phải nhắc đến dự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngƣỡng thờ mẫu,

điểm nhấn đầu tiên là sự kết hợp của Phật giáo với tín ngƣỡng thờ nữ thần, cụ thể

hóa với sự ra đời của Phật mẫu Man Nƣơng từ những năm đầu kỉ nguyên, theo thời

gian, Phật giáo dần dần hòa nhập và tiếp thu nền văn hóa tín ngƣỡng bản địa. Sự

dung hòa đó đƣợc nhắc tới từ hai phía, Phật giáo dung nhiếp tín ngƣỡng thờ mẫu và

Phật giáo đi vào tín ngƣỡng thờ mẫu.

Truyền thuyết về Mẫu Liễu hạnh còn ghi sự tích Sòng Sơn đại chiến, khi đó

Mẫu Liễu Hạnh đánh nhau với các Đại sĩ của phái Đạo Nội, bị đánh đuổi, rơi vào

thế nguy hiểm và đƣợc Phật Bà Quan Âm đã ra tay cứu độ, giải thoát cho Mẫu Liễu

Hạnh. Từ đó Thánh Mẫu Liễu Hạnh qui y với Phật Bà, chuyển hóa tu tập hạnh từ bi

mang pháp danh Mã Vàng Bồ tát. Đó là con đƣờng Phật dung nhiếp Mẫu và tín

ngƣỡng thờ mẫu đƣợc đƣa vào các ngôi chùa Việt Nam nói chung mà cụ thể là các

ngôi chùa Bắc Bộ với kiến trúc “tiền Phật hậu mẫu”. Tín ngƣỡng thờ mẫu đƣợc đƣa

vào thờ phụng trong khuôn viên chùa nhƣ một lẽ tất yếu, nhƣ một yếu tố làm cảnh

chùa thêm nhộn nhịp và tạo sự hỗ tƣơng lẫn nhau. Ngƣời dân đến chùa để lễ Phật

vừa để cúng Mẫu, đây là sự giao thoa của Phật giáo dân gian và tín ngƣỡng thờ mẫu.

85

Bên cạnh đó, trong mỗi điện thờ Mẫu đều có vị trí tối cao là thờ Bồ Tát Quán

Âm, hình ảnh Bồ tát đã đƣợc dân gian hóa thành vị Quan Âm thánh mẫu, mỗi khi lễ

mẫu cần phải lễ Bồ Tát Quán Âm trƣớc.

Ứng phó dư biên tổng tập cũng mang tinh thần dung hòa đó khi đƣa 6 bài chầu

văn của tín ngƣỡng thờ Mẫu vào phần Biệt tập của văn bản. Sáu bài chầu văn, đƣợc

ghi vào văn bản này không chỉ mang ý nghĩa trong nghi lễ, là một phần của nghi lễ

hầu bóng mà nó còn thể hiện sự dung hợp hài hòa các nền tín ngƣỡng tôn giáo, giúp

con ngƣời hƣớng về từ bi bác ái, tinh thần cộng đồng, khuyến thiện trừng ác, hai

nền tƣ tƣởng này bổ sung cho nhau, đáp ứng nhu cầu tâm linh của ngƣời dân, trƣớc

là lễ Mẫu mong đƣợc phù hộ độ trì, có đƣợc sức khỏa, may mắn trong đời sống hiện

hữu thƣờng ngày, sau thì theo Phật tu nhân tích đức, mong sau khi chết đƣợc về

nƣớc Phật, ở trong cảnh Niết bàn tịch tĩnh.

Các khoa nghi độ âm của Phật giáo trong Ứng phó dư biên tổng tập đƣợc coi

là kết quả của quá trình giáo thoa, kết hợp của tín ngƣỡng dân gian với Đạo giáo và

Nho giáo đƣợc truyền tải thông qua giọng điệu hạnh kệ của các già vãi.

Khoa nghi nhƣ Phụ linh phan luyện văn - nghi lễ triệu linh hồn ngƣời đã chết

về nƣơng vào cành Phan và nhập vào ngƣời còn sống mang đậm tính chất, màu sắc

của Đạo giáo kết hợp với ý nghĩa linh hồn về để qui y Phật và nghe Kinh kệ cầu

mong siêu thoát lại mang tinh thần cứu độ của Phật giáo. Sự kết hợp này làm cho

khóa lễ có tính thiêng liêng và huyền bí mà vẫn biểu lộ đạo hiếu sâu sắc của con

ngƣời.

Không chỉ thế, Phụ cô hồn bảng thì bảng là một nghi thức có trong nghi lễ của

cả Đạo giáo và Phật giáo. Việc sự dụng chung và có hình thức giống nhau đó là sự

dung hợp lẫn nhau của Phật và Đạo trong quá trình truyền bá và đi vao tín ngƣỡng

dân gian.

Toàn bộ các bản từ Chèo thuyền, Phóng xá đến Triệu linh thán ... và các khoa

nghi khác của văn bản không chỉ chứa đựng giáo lý Phật giáo mà còn thể hiện

những điển cố, nêu lên những những nhân vật nhƣ Nghiêu Thuấn, Hạng Vũ, Bái

công hay những địa danh nổi tiếng trong sử sách Nho giáo và Đạo giáo nhƣ Thiên

86

Thai, Bồng lai tiên cảnh cũng xuất hiện trong các tác phẩm của văn bản Ứng phó dư

biên tổng tập mà không có sự phân chia, tất cả những tƣ tƣởng và triết lý tam giáo

đƣợc thể hiện trọn vẹn trong văn bản này một cách hài hòa.

Tóm lại các khoa nghi trong Ứng phó dư biên tổng tập nói về những nghi thức

thực hành để đem lại lợi lạc cho ngƣời con và ngƣời mất, trên tinh thần hiếu đạo và

nhân văn cao cả là sự kết hợp hài hòa của tinh thần từ bi cứu khổ, đƣợc đúc kết và

rút ra từ những tích truyện Phật giáo kết hợp với tín ngƣỡng nhân gian tạo nên một

tín ngƣỡng Phật giáo dân gian với những khoa lễ độ âm lại mang những nét thiêng,

bí ẩn của Đạo giáo và lồng ghép những luân lý cƣờng thƣờng, chuyển tải lòng nhân,

lễ nghi của Nho giáo tạo nên một văn bản có đầy đủ các yếu tố Nho - Phật - Đạo và

tín ngƣỡng thờ Mẫu

3.2.3. Âm nhạc diễn xướng được thể hiện trong Ứng phó dư biên tổng tập

應赴餘編總集

Văn bản Ứng phó dư biên tổng tập dung chứa 26 đơn vị tác phẩm đã có tới 6

bài đƣợc thể hiện bằng giọng hạnh kệ của các già vãi, 6 bài đƣợc thể hiện qua diễn

xƣớng hát văn. Những bài còn lại là những khoa nghi đƣợc thể hiện lồng ghép với

những nhạc khí, khí cụ, pháp khí Phật giáo với các động tác trình diễn của con

ngƣời tạo nên một hình thức diễn xƣớng dân gian mang tinh thần tín ngƣỡng, tôn

giáo. Có thể nói những tác phẩm trong Ứng phó dư biên tổng tập là thể hiện sự

tƣơng quan giữa âm nhạc trong tín ngƣỡng và tôn giáo, khái lƣợc nhƣ sau;

Bảo đường ca là tác phẩm đầu tiên đƣợc ghi chép trong Ứng phó dư biên tổng

tập, đây là một bản ca dặn dò trên đƣờng đi đƣợc thể hiện thông qua giọng hạnh kệ

của các già vãi. Có thể nói, đây là một nghi lễ tôn giáo, nhƣng cũng có thể gọi đây

là một bản diễn xƣớng, có ngƣời hát (còn gọi là kể hạnh) có ngƣời thực hiện múa

chèo thuyền phụ họa. Với lòng thành kính đức Phật, sự nghiêm túc trƣớc linh cữu

của vong linh, ngƣời thực hiện bản Bảo đường không nghĩ mình đang thực hiện một

việc mang tính nghệ thuật, nhƣng những lời ca luyến láy, có nhịp điệu, có ngƣời

khởi xƣớng, có ngƣời phụ họa và hòa âm theo. Nhƣ vậy chính môi trƣờng tâm linh

87

của nghi lễ này, tạo điều kiện cho mọi ngƣời đƣợc thƣ giãn tâm hồn, hòa mình trong

những lời ca kể hạnh, vừa lắng nghe những triết lý nhân quả uyên áo.

Chèo thuyền bản và chèo thuyền ca cách cũng mang ý nghĩa tƣơng tự, đây

đƣợc coi là những bản hạnh kệ hơn là một khoa cúng. Sau khi khoa cúng độ vong

đã mãn là lúc những bản Chèo đò đƣợc thực hiện. Đƣa vong linh lên chùa làm lễ

siêu độ, ngƣời thân thƣờng có tâm trạng thƣơng nhớ, lƣu luyến hòa lẫn với đau

thƣơng. Nếu chỉ có những lời cúng đơn điệu, không khí buổi lễ mang một màu u ám,

nhƣng dƣới sự thể hiện của các già vãi, thông qua các bản kể hạnh, lúc thì ngân nga,

khi thì bay bổng, xen lẫn vào đó là những câu niệm Phật. Sự đan xen giữa những

tiếng niệm Phật và lời hạnh kệ tạo ra một hiệu ứng tốt giúp ngƣời nghe bớt đau

thƣơng mà vẫn một lòng hƣớng thƣợng, tin vào lời Phật dạy từ những bản hạnh kệ

chèo đò. “cũng có cơ sở để cho rằng sân khấu hát chèo của người Việt đã nảy sinh

và phát triển từ hình thức chèo đò trong môi trường sinh hoạt văn hóa Phật giáo”

[34, tr.441]

Phóng xá bản và Trai đàn ban sắc xá cách vốn là khoa cúng trong sách Thủy

lục chƣ khoa, nhƣng tại Ứng phó dư biên tổng tập đã đƣợc chuyển thể, nội dung của

nó có diễn xƣớng, có hòa ca, có các nhân vật và kèm theo đó là các âm thanh từ các

nhạc cụ... có thể gọi đây là một vở chèo đích thực. Những ngƣời thực hiện nó vừa là

thực hiện một nghi lễ tâm linh, vừa là một nghệ sĩ đem tinh hoa giáo lý Phật đà,

truyền tải tinh thần hiếu đạo qua những giọng điệu cao thấp và cung bạc cảm xúc

khác nhau. Ngƣời trai chủ và những ngƣời tới dự lễ không chỉ lễ Phật bái sám mà

còn đƣợc thỏa lòng, trong một không gian thiêng liêng, trầm lắng. Các bản hạnh kệ

trở thành nét đẹp và đặc trƣng của Phật giáo Bắc Bộ, giữ gìn Phật giáo tại nhân gian

mang tinh thần nhập thế mà chứa đựng tƣ tƣởng xuất thế, mở ra con đƣờng hƣớng

thƣợng một cách chân thực giản dị.

Cũng vậy, Chầu văn trong tín ngƣỡng thờ mẫu đƣợc coi là một thể loại ca

nhạc, một âm nhạc mang tính nghi lễ, đƣợc hình thành trong môi trƣờng tín ngƣỡng.

Chầu văn mang ngôn ngữ âm nhạc và phong cách rất riêng không lẫn với bất kì một

thể loại âm nhạc dân gian nào. Các bài Chầu văn (Hát văn), mỗi bài xuất hiện cùng

88

với thần tích, thân phận của từng vị thánh, chúa. Đó là những bản nhạc, là những tác

phẩm văn học lại là những bản thần tích đƣợc thể hiện qua lời ca tiếng hát

Chầu văn đƣợc thể hiện cùng với các nhạc cụ nhƣ đàn, sáo, nhị,... cùng với

múa đồng (còn gọi là nhảy đồng, lên đồng) trong việc hầu bóng của tín ngƣỡng thờ

mẫu mà nó còn là sự phối hợp hài hòa, nhịp nhàng của động tác từ con ngƣời với

âm thanh, tạo nên hiệu quả thẩm mỹ, vƣợt lên trên những cái đó, nó tạo nên sự phấn

kích, thúc đẩy con ngƣời tới chỗ hợp nhất với thần linh. “Mặt khác thần linh cũng

thông qua diển xướng của các thanh đồng mà tái sinh, sống động lại trong mỗi con

người. Đó chính là thời điểm tạo nên sự hợp thể và hòa đồng một ngưỡng vọng

vươn tới của con người”. [34, tr.524]

Nhƣ vậy, những lời hạnh kệ, những bản văn chầu và các khoa nghi đã trở

thành công cụ, phƣơng tiện, là thứ ngôn ngữ biểu đạt riêng của đời sống văn hóa

tinh thần của mỗi ngƣời dân trên từng góc cạnh và hoàn cảnh khác nhau. Có thể nói

chầu văn của tín ngƣỡng thờ Mẫu hay các bản chèo đò theo lối hạnh kệ của Phật

giáo, cho đến các khoa nghi với sự kết hợp hài hòa của hành động tạo tác nơi thân

thể với những đƣờng múa, chạy đàn và cung bậc trầm bổng của những pháp khí

nhạc cụ, tất cả đã vẽ lên một bức tranh mang tên Ứng phó dư biên tổng tập sinh

động, đầy màu sắc và sức sống và có bổ trợ lẫn nhau để mỗi tác phẩm là một màu

sắc nổi bật trong bức tranh văn hóa tín ngƣỡng .

3.2.4. Từ nghi lễ độ âm trong Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集

đến thực tiễn hành trì ngày nay

Thời vua Trần Nhân Tông đã cho soạn các sách để làm qui chuẩn cho các việc

cầu an, cầu siêu “để đánh dấu ngày xuất gia của vua, trong toàn quốc được phát

hành cuốn Phật giáo pháp sự đạo tràng công văn cách thức, một cuốn sách nói về

thể thức và các bài văn sớ, tấu, điệp, dùng trong các nghi lễ thọ giới, chẩn tế, cầu

an, cầu siêu, khánh thành... Cuốn sách này nhằm mục đích thống nhất của Phật

giáo đương thời. Nó được chính quyền ấn hành khắp nước thay vì được một chùa

ấn hành trong phạm vi một khu vực” [18, tr.360].

89

Vốn dĩ khoa giáo đƣợc in ấn trong bản Thủy lục chư khoa hoặc Tạp tiếu khoa,

thế nhƣng lại tùy từng nơi, y theo từng vị chủ lễ, mà dần dần mỗi nơi mỗi khác nhau.

Hiện nay, có những nơi các vị pháp sƣ thực hiện đầy đủ các khoa nghi theo sách

Thủy lục, lại có ngƣời muốn giản tiện mà rút bớt hoặc gộp các khoa nghi lại cho

tiện... vì thế dẫn đến sự lệch lạc, đôi khi là thiếu sót... Năm 1895, tác giả đã nhận

thấy sự lệch chuẩn đó mà biên tập tác phẩm Ứng phó dư biên này, để nói lên tiếng

nói của mảng khoa nghi Phật giáo, đồng thời liệt kê và hƣớng dẫn cách thực hiện

khoa nghi từ việc sái tịnh, chạy đàn, lập Bảng....

Về điều kiện cần thiết khi thực hiện nghi lễ, trong văn bản có chép “sư đức

hạnh thủ trì trai giới [tr.18] “chủ tín tâm, sư thời đức hạnh, hữu kì thành tất hữu kì

thần” [tr.14], nói cách khác là “chủ hữu tinh thần, sư hữu giới đức”. Để khóa lễ có

kết quả tốt nhất, đạt đƣợc sự linh ứng và gia trì của chƣ Phật thánh thần tổ tiên, thì

yếu tốt tín tâm và tận tình của hai đối tƣợng chính là ngƣời xây dựng đàn lễ “chủ tín

tâm” và ngƣời thực hiện đàn lễ “sư đức hạnh”. Hai thành phần này quyết định tính

chất đúng đắn và khả năng thành công của buổi lễ. Có đƣợc nhƣ vậy thì các việc

nghi lễ chính là “mượn sự hiển lý” có đầy đủ hình thức, gồm đủ nội dung. Đại

chúng cùng “hòa âm nhiếp niệm” yểm trợ cho đàn lễ đƣợc viên mãn.

Ngày nay, những đàn lễ hội tụ đầy đủ yếu tố đó không nhiều. Ngƣời thực hiện

đàn lễ không chỉ có “nhà sƣ” mà đa phần là các ông thầy cúng (ngƣời tại gia), đầu

còn tóc, thân tâm còn mang hình hài thế tục nhƣng vẫn khoác lên mình chiếc áo cà

sa, đầu đội mũ thất Phật, phán truyền và thực hiện chạy đàn, cúng bái. Phẩm vật

chuẩn bị không chỉ có trai đàn chay tịnh, thỉnh Phật tuyên kinh bái sám, rồi mới phá

ngục cứu thoát tội nhân, đăng đàn thay Phật tuyên dƣơng giáo pháp... mà sắm đủ

các thứ mũ mã áo quần, ngựa xe tiền vàng... cúng đốt cho vong linh. Nhƣ trên đã

nói, nếu vong thân tạo nghiệp cực thiện thì đã đi tái sinh cõi nhân thiên, còn nghiệp

cực ác thì bị đọa thẳng địa ngục, chỉ có thành phần chƣa phân thiện ác mới còn thần

thức trong 7 đến 49 ngày.

Cầu siêu là để hồi hƣớng phúc đức tới cho ngƣời mất, là phƣơng tiện để biểu

thị tâm thành của ngƣời sống. Qua đó có sự cảm ứng kết nối với thần thức ngƣời đã

90

mất để họ tự phát khởi tâm cần cầu giải thoát. Nếu lại đƣa đầy những thứ tiền vàng

bạc ngãi xuống âm ti, nếu những thứ đó trở thành sự thật thì vô hình chung lại biến

họ thành âm hồn sống trong cảnh giới ngạ quỷ để nhận sự bố thí nhƣ thế, tâm tham

chấp của vong thân không lìa đƣợc... Cầu siêu nhƣ vậy liệu có siêu sinh thoát hóa

hay lại chìm đắm trong chếp mắc mê lầm?.

Thực hiện nghi lễ cầu siêu phải hiễu rõ bản chất của sự việc là thực hiện

phƣơng tiện, thông qua phƣơng tiện đó để cảm hóa lòng ngƣời, truyền trao giúp

ngƣời hiểu lý vô thƣờng. Mặt khác, dù là phƣơng tiện cũng phải thực hiện một cách

trang trọng, cẩn mật và đúng với nghĩa phƣơng tiện. Nếu chỉ lệ vào vẻ ngoài cúng

kiếng sẽ đi ngƣợc với nguyên lý nhân quả báo ứng, và chỉ là một sự mỏi mòn chờ

đợi, vô ích và không cần thiết, và đôi khi còn mang lại sự chán chƣờng và thất vọng.

Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển, mọi vấn đề đƣợc hiểu trên cơ sở

khoa học. Nhƣng còn đời sống văn hóa tâm linh trong sâu thẳm mỗi ngƣời, nghiệp

trần còn vƣớng nghiệp chƣớng còn mang, vì vô tình vụng dại nào đó mà cách sống

cách nghĩ của chúng ta làm biến mất sự an lạc hạnh phúc, từ đó khổ đau đọa lạc

xuất hiện. Và vì không thể giải quyết bằng khoa học kĩ thuật, ngƣời ta sẽ tìm tới

những đàn nghi, những vị thầy để đƣợc giải tỏa các nỗi niềm trong đời sống tinh

thần. Đó chính là con đƣờng để mọi phƣơng tiện vẫn tồn tại và đƣợc thực hiện.

Việc ứng phó tuy chỉ là phƣơng tiện, mƣợn vật thực, từ cơm, canh, hoa trái

phẩm vật để hiến cúng, nhƣng đó ko phải là mục đích chính. Nhƣ các cụ thƣờng nói

“miếng trầu là đầu câu chuyện”, đây là nghi lễ theo văn hóa của ngƣời Việt Nam,

mƣợn cơi trầu ấm nƣớc, mâm xôi, đĩa quả, ngƣời hằng tâm kẻ hằng sản để cùng

ngồi lại trò chuyện, cùng thể hiện tâm thành và lòng hiếu thảo, cùng chia sẻ với

nhau những lẽ sống ở đời để không làm ác mà làm các việc lành. Hết thảy các việc

làm đó với tâm hoan hỷ, bình lặng đã chế tác ra phƣớc đức, đem phƣớc đức đó hồi

hƣớng cho vong thân và đẳng chúng... nhƣ vậy là thực nghĩa của ứng phó mà văn

bản nhắc tới.

Chúng ta có thể “tùy cơ phó cảm”, nhƣng nguyên tắc “nhân như hà quả như

thị” là bất di bất dịch. Nên thực hiện nghi lễ trên hai khía cạnh đó: tùy cơ nhƣng

91

phải uyển chuyển, phù hợp với mục đích duy nhất. chƣ Phật thị hiện ra đời là chỉ

cho chúng ta tính Phật trong mỗi ngƣời, chỉ cho chúng ta biết tu tập, biết sống tỉnh

thức, biết tƣới tẩm gieo trồng nhƣng hạt mầm tuệ giác để có thể tự độ mình, đem

năng lƣợng an vui để độ ngƣời, với nhiệm vụ "tiếp dẫn hậu côn, phù trì mạt vận”.

Tiểu kết Chƣơng 3

Nội dung văn bản Ứng Phó dư biên tổng tập đƣợc phản ánh thông qua các bản

cúng, khoa nghi và văn, phú. Toàn bộ văn bản là cả kho tàng bao gồm tín ngƣỡng

dân gian, văn học và văn học Phật giáo, lại gồm kiêm cả tín ngƣỡng thờ mẫu và

nghệ thuật thơ phú. Văn bản tuy ghi chép ngắn gọn nhƣng khá đầy đủ trình tự của

một khoa nghi của “đàn lễ cầu siêu bạt độ”. Đọc văn bản, ngƣời tìm hiểu về nó

phần nào hiểu đƣợc đời sống văn hóa, nét đặc trƣng của tín ngƣỡng văn hóa đƣơng

thời và nét văn hóa Phật giáo đƣợc thể hiện rất chân thực và gần gũi thông qua các

nghi lễ. Cùng với đó, văn bản còn truyền tải một thông điệp, dù ở đâu, trên cƣơng vị

nào thì ngƣời hành giả phải có một kiến thức tổng hợp, sự hiểu biết tổng quan trên

mọi phƣơng diện, dù là phƣơng tiện cũng phải thực hiện cho đúng nghĩa để đem lại

lợi ích và giá trị thực sự và có thể “tùy cơ ứng biến” phù hợp với sự phát triển của

xã hội và quá trình giáo thoa biến chuyển văn hóa của con ngƣời từng thời đại.

Ý nghĩa sâu xa đó của văn bản Ứng phó dư biên tổng tập đã phần nào trả lời

cho câu hỏi vì sao trải qua hàng ngàn năm thăng trầm của lịch sử, Phật giáo luôn

đồng hành cùng dân tộc. Nhƣ Chủ tịch Quốc hội (nay là Chủ tịch nƣớc) Nguyễn

Phú Trọng khẳng định tại lễ khai mạc Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ VI, vào

ngày 13/12/2007 tại Hà Nội : “Những đóng góp thiết thực của Phật giáo Việt Nam

vào sự nghiệp đổi mới đất nƣớc chứng tỏ Phật giáo hoàn toàn là tôn giáo nhập thế,

luôn đồng hành cùng dân tộc”.

92

KẾT LUẬN

Phật giáo lần đầu đƣợc du nhập vào Việt Nam bằng đƣờng thủy từ Ấn Độ.

Suốt quá trình du nhập, giao thoa và phát triển, Phật giáo đã tùy thuận và thích nghi

với lịch sử văn hóa, phong tục truyền thống và tín ngƣỡng của ngƣời Việt. Vẫn là

những giá trị truyền thống cốt lõi của Phật giáo nhƣ tinh thần từ bi hỷ xả, vô ngã vị

tha, Phật giáo Việt Nam còn thể hiện đậm đà bản sắc dấu ấn Việt thông qua nghi lễ,

tín ngƣỡng Phật giáo với những khoa nghi, lễ nhạc chuyên chở tƣ tƣởng Phật giáo

và các điển tích, điển cố văn học, đại diện cho vô vàn các phƣơng tiện

Văn bản Ứng phó dư biên tổng tập 應赴餘編總集 ra đời khoảng thời gian

cuối thế kỉ XIX, do nhà sƣ Chính Đại biên tập, đính chính và tổ chức khắc in. Văn

bản gồm 128 trang, dung chứa 27 đơn vị tác phẩm, với hệ thống 5 văn bản đƣợc

chia làm 3 nóm theo nơi lƣu trữ. Ghi chép các nội dung từ nghi lễ độ âm Phật giáo,

tới tín ngƣỡng thờ mẫu và văn học Phật giáo. Văn bản là sự hỗ dung của tinh thần

Tam giáo đồng nguyên với những khoa cúng, bài văn ứng phó không chỉ là những

đƣờng triệu thỉnh, những tiếng chuống nhịp mõ mà đó là cả một hệ thống văn

chƣơng bác học, là sự kết hợp hài hòa của những từ ngữ, thuật ngữ Phật giáo, là sự

chắt lọc tinh hoa giáo lý Phật giáo và kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam và các

điển cố nho gia kết hợp với sự huyền bí linh thiêng của Đạo giáo. Tất cả đƣợc thể

hiện thông qua những thanh âm luyến láy, cung bậc thanh trầm, giai điệu đặc thù,

có khi là giọng thiền, có lúc lại bi ai cùng với các lễ khí và biểu tƣợng. Ngƣời thực

hiện khoa nghi không chỉ là “sư thời đức hạnh” mà đó còn là ngƣời nghệ sĩ, ngƣời

nhạc trƣởng điều hành cả một đội ngũ nhạc cụ xung quanh mình. Quan trọng hơn cả

ngƣời đủ khả năng thực hiện nghi lễ là ngƣời khéo dùng phƣơng tiện, trƣớc là nghi

lễ chấn tâm an thân cho tha nhân, sau là khéo léo chuyển tải giáo lý Phật giáo để

đƣa ngƣời vào Đạo.

Bằng những bài văn chữ Hán Nôm, văn bản Ứng phó dư biên đã lƣu trữ những

chất liệu từ Nho, Phật, Lão đến văn hóa, tín ngƣỡng của ngƣời dân. Các bài văn là

chất liệu, món ăn tinh thần xây dựng nên một ngôi nhà chung Phật giáo Việt nam,

nuôi dƣỡng tâm hồn ngƣời Việt Nam một cách hoàn thiện, chân chính lại mềm mại

93

bao dung mà vẫn mãi giữ gìn đƣợc Bản sắc văn hóa truyền thống đƣợc hun đúc từ

ngàn đời

Việc ứng phó chỉ là đặt ra để dùng “Sự” mà hiển “Lý”. Nếu Phật giáo chỉ là

Phật giáo với những tƣ tƣởng tính không, lý duyên khởi cao siêu vời vợi, mà không

có những bài học gần gũi nhƣ luật nhân quả báo ứng, luân hồi nghiệp báo thông qua

văn hóa tín ngƣỡng Việt Nam thì Phật giáo mãi chỉ là tôn giáo Đạo Phật. Còn Phật

giáo với hình ảnh những nhà sƣ áo nâu giản dị, ăn chay niệm Phật, gõ mõ tụng kinh,

biết cúng bái, biết chạy đàn Lục cúng, biết dùng mọi quyền nghi phƣơng tiện phù

hợp với tín ngƣỡng và văn hóa truyền thống của ngƣời Việt Nam, biết dung hợp các

tôn giáo khác và hòa quyện tất cả, để Phật giáo trở thành cốt lõi, chủ đạo trong mọi

niềm tin, của ngƣời dân Việt Nam. Phật giáo với ông Bụt hiền lành cứu giúp dân

chúng, đúng với tinh thần cứu khổ cứu nạn, với Phật Bà là bậc đứng đầu trên hết

của cả hệ thống thánh mẫu trong tín ngƣỡng tam tứ phủ, với Bồ tát Địa Tạng cứu

thoát chúng sinh trong cõi u đồ tăm tối nhƣ niềm tin về linh hồn con ngƣời trong tín

ngƣỡng thờ cúng tổ tiên... Tất cả chức năng, đặc điểm nhƣ vậy đã tạo nên diện mạo

và vai trò của Phật giáo Việt Nam, sống trong lòng dân tộc, hòa trong dòng máu Lạc

hồng. Chính vì thế, trải qua bao cuộc thịnh suy, nổi chìm cùng thời gian lịch sử, dù

là ngày xƣa, ngày nay hay mãi mãi sau này, Phật giáo luôn luôn đứng vững ở đất

nƣớc và con ngƣời Việt Nam, thực sự là Việt Nam Phật giáo, Phật giáo Việt Nam

94

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thích Khánh Anh dịch (1991), Nhị khóa hợp giải, Thành hội Phật giáo TP.

Hồ Chí Minh ấn hành.

2. Thích Minh Cảnh chủ biên (2016), Từ điển Phật học Huệ Quang, Nxb. Tổng

Hợp TPHCM.

3. Tào Duy Cần & Trần Sĩ Viên (2007), Cây thuốc vị thuốc bài thuốc Việt Nam,

Nxb. Hà Nội.

4. Cục văn thƣ và lƣu trữ nhà nƣớc, Trung tâm lƣu trữ quốc gia I (2017), Địa

danh làng xã Việt Nam qua tài liệu địa bạ triều Nguyễn, Nxb. Thông tin và

Truyền thông.

5. Thích Minh Châu dịch (2015), Đại Tạng Kinh Việt Nam - Kinh Tiểu Bộ tập I,

tập II , Nxb. Tôn Giáo.

6. Thích Minh Châu dịch (2018), Đại Tạng Kinh Việt Nam Nam truyền - Kinh

Trung Bộ Tập I-II, Nxb. Tôn giáo.

7. Thiều Chửu (2009), Từ điển Hán Việt, Nxb. Văn hóa thông tin.

8. Minh Chiếu sƣu tầm (2012), Truyện cổ Phật giáo, Nxb. Tôn giáo.

9. Võ Văn Chi (2012), Từ điển cây thuốc Việt Nam (bộ mới 2 tập), Nxb. Y học.

10. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2016), Kinh Địa Tạng, Nxb. Tôn giáo.

11. Thích Viên Giác dịch (2012), Kinh Lương Hoàng Sám, Nxb. Tôn giáo.

12. Thích Thiện Hoa (2007), Phật học phổ thông (3 quyển), Nxb. Tôn giáo.

13. Chánh Trí (Mai Thọ Truyền) (1993) Địa Tạng mật nghĩa, Thành Hội Phật

giáo TP. HCM ấn hành.

14. Thích Thái Hòa (2017), Niềm tin bất hoại với đức Phật, Nxb. Hồng Đức.

15. Nguyễn Quang Hồng (2014), Từ Điển chữ Nôm diễn giải tập 1-2, Nxb.

Khoa học xã hội.

16. Nguyễn Đình Hƣng, Thiên Uy Nghi trong Sa Di luật nghi yếu lược, Khóa

luận tốt nghiệp K56, Trƣờng Đại học KHXH&NV.

17. Vũ Văn Kính (2010), Đại Từ Điển Chữ Nôm, Nxb. Văn nghệ TP. Hồ Chí

Minh, Trung tâm nghiên cứu Quốc học.

18. Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb. Văn Học Hà Nội.

19. Đỗ Tất Lợi (2006), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb. Y học.

95

20. Trịnh Khắc Mạnh (2014) Văn bản học Hán Nôm, Nxb Khoa Học Xã hội.

21. Quảng Minh dịch nghĩa, phiên âm, chú thích (2013) Thủy Lục Chư Khoa,

Nxb. Hồng Đức.

22. Thích Thanh Nhã sƣu tầm (1990), Bút tích của Hoà thượng Kim Cương Tử,

Chùa Trấn Quốc Ấn tống.

23. Thích Trí Quang (PL 2557), Để hiểu đàn chẩn tế, Nxb. Tổng Hợp TP. Hồ

Chí Minh.

24. Thích Hoàn Quan (2015), Nghi lễ và bách sự nhật dụng, Nxb. Đồng Nai.

25. Nguyễn Văn San (2013), Khảo cứu từ điển song ngữ Hán - Việt Đại Nam

Quốc Ngữ, Nxb. Đại học Quốc gia.

26. Thích Nguyên Tâm (2010), Sớ điệp công văn (trọn bộ 4 quyển), Nxb.

Phƣơng Đông

27. Thích Trí Tịnh dịch (2011), Trí tịnh toàn tập (Kinh Đại Phương Quảng Phật

Hoa Nghiêm), Nxb. Tôn giáo.

28. Thích Trí Tịnh dịch (2014) Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật (trọn bộ 3 tập)

Nxb. Văn hóa Thông tin.

29. Thích Huyền Tôn (2016), Du Già Diệm khẩu thí thực khoa nghi, Nxb. Tôn

giáo.

30. Thích Phổ Tuệ (1995), Bát Nhã dư âm, Nxb. Hà Nội.

31. Thích Minh Tuệ (2012) Phật và Thánh chúng, Nxb. Tôn giáo.

32. Ngô Đức Thọ (2006), Các nhà khoa bảng Việt Nam, Nxb. Văn học.

33. Đinh Khắc Thuân (2016), Tuyển tập thơ phú thời Mạc, Nxb. Khoa học xã

hội.

34. Ngô Đức Thịnh (2012), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb.

Trẻ.

35. Ngô Đức Thịnh (2019) Lên đồng hành tình của thần linh và thân phận, Nxb.

Đại học Quốc gia Hà Nội.

36. Vũ Hồng Vận (2020), Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt Nam, Nxb.

Chính trị Quốc gia sự thật.

37. Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam, hội Bảo tồn di sản chữ Nôm Hoa Kỳ,

(2008), Kho chữ Hán Nôm mã hóa, Nxb. Khoa học Xã hội.

96

ỨNG

PHÓ

BIÊN

TỔNG

TẬP

*****

97

PHIÊN ÂM – CHÚ THÍCH

MỤC LỤC ỨNG PHÓ DƢ BIÊN TIỂU DẪN. ................................................................................... 99

Bài 1. BẢO ĐƢỜNG CA ................................................................................................. 100

Bài 2. PHÓNG XÁ BẢN .................................................................................................. 114

Bài 3. CHÈO THUYỀN BẢN ......................................................................................... 126

Bài 4. TRIỆU LINH THÁN ............................................................................................ 134

Bài 5. PHỤ LINH PHAN LUYỆN VĂN ........................................................................ 136

Bài 6. KHAI QUANG TẨY UẾ NGHI .......................................................................... 139

Bài 7. KHAI QUANG VONG LINH NGHI .................................................................. 143

Bài 8. CÁC BÀI TÁN ...................................................................................................... 145

BÀI 9. THỈNH ÂM HỒN VĂN DỤNG QUỐC ÂM ..................................................... 146

BÀI 10. HỰU QUỐC ÂM VĂN. ..................................................................................... 150

ỨNG PHÓ DƢ BIÊN PHẦN BIỆT TẬP ....................................................................... 159

Bài 11. TRAI ĐÀN BAN SẮC XÁ CÁCH ..................................................................... 159

BAN SẮC TỊNH CẤP THÔNG HÀNH PHÁI .............................................................. 170

Bài 13. CHÈO THUYỀN CA CÁCH ............................................................................. 172

Bài 14. PHỤ CÔ HỒN BẢNG. ........................................................................................ 176

Bài 15. THIÊN TIÊN THÁNH MẪU CÔNG ĐỒNG VĂN ......................................... 177

Bài 16. ĐỆ NHỊ VĂN ....................................................................................................... 182

Bài 17. CỬU TRÙNG VĂN ............................................................................................. 185

Bài 18. THỦY TINH CÔNG CHÚA VĂN .................................................................... 187

Bài 19. CHẦU BÁT VỊ VĂN........................................................................................... 189

Bài 20. LIỄU HẠNH CÔNG CHÚA VĂN .................................................................... 192

Bài 21. BẢN LUYỆN LONG THẦN VĂN .................................................................... 194

Bài 22. BÁCH HOA VĂN .............................................................................................. 198

Bài 23. SAI TIÊN DƢỢC VĂN. ..................................................................................... 203

Bài 24. BỒNG LAI VĂN ................................................................................................. 208

Bài 25. NGỰ VẤN ............................................................................................................ 210

Bài 26. PHI LAI TỰ PHÚ ............................................................................................... 225

98

ỨNG PHÓ DƢ BIÊN TIỂU DẪN.

Phù Ứng phó nhất sự, như Bảo Đường, Ban xá, Điệu thuyền, Triệu linh,

Phụ phan, Thỉnh cô hồn đẳng, Quốc âm văn, hướng lai chư phương kiến trai

tiếu giả, đa vi hỗ dụng. Văn chi cú độc bất minh, từ chương bỉ tục, ý giả tiền

nhân trứ thuật hữu niên, vị phó chi tân, tam sao thất bản, trí thất kỳ chân hỹ.

Thành Thái Ất Mùi nhuận, Đại lực đính chính, đằng tả thành thiên dụng san

vu bản dĩ thọ kỳ lai vân.

Hưng Phúc tự trụ trì Chính Đại cẩn chí. [2]

Tạm dịch:

Ôi! Hết thảy các việc ứng phó nhƣ: Bảo đƣờng, phóng xá, Chèo thuyền,

triệu linh, phụ phan, thỉnh cô hồn...quốc âm văn, cho đến các phƣơng tiện

trong tạp tiếu, phần nhiều là dùng lẫn nhau, câu cú trong văn chẳng rõ ràng,

ngôn từ rẻ mạt, những ý tứ của bậc tiền nhân trƣớc thuật chƣa đƣợc đem khắc

in, lâu dần dẫn đến tam sao thất bản, làm giảm đi độ chính xác.

Niên hiệu Thành Thái, tháng nhuận năm Ất mùi, nỗ lực đính chính, sao

chép tập hợp thành thiên, cho khắc vào bản ván để giữ gìn đến đời sau.

99

Trụ trì Chùa Hƣng Phúc Chính Đại cẩn ghi

Bài 1. BẢO ĐƢỜNG CA Nam mô Di Đà Nhƣ Lai1 Sắc không không sắc2 thiện tai đạo thƣờng.

Đem lời tâm pháp diễn dƣơng, Linh hồn ghi lấy biết đƣờng y qui3.

Nay hồn về cõi âm ty,

1 Di Đà Nhƣ Lai 彌陀如來: chỉ cho đức Phật A Di Đà là giáo chủ cõi tây phƣơng Cực lạc, Nhƣ Lai là

1 trong 10 đức hiệu của mƣời phƣơng chƣ Phật (Nhƣ Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri, Minh hạnh Túc, Thiện

Thệ, Thế gian giải, Vô thƣợng sĩ, Điều Ngự Trƣợng Phu, Thiên nhân Sƣ, Phật Thế Tôn). Di Đà Nhƣ Lai là

danh từ chỉ đức Phật A Di Đà

2 Sắc không không sắc: sắc 色(rupa) từ gọi chung tất cả vật chất tồn tại, theo nghĩa hẹp là chỉ riêng

những đối tƣợng của nhãn căn. Ngữ căn của động từ rupa là rup (tạo hình), nên rupa có nghĩa là “có hình

dạng” có thuyết lại nói rằng ngữ căn của động từ là ru (hoại) nên có nghĩa là biến hoại, biến hóa. Tóm lại có

thể hiểu sắc là tên gọi chung của tất cả các vật chất tồn tại, là sắc uẩn trong 5 uẩn, sắc pháp trong 5 vị. sắc có

tính chất ngại và biến hoại. (Từ điển Phật Học Huệ Quang, 2016, tr 3926)

Không 空: Sunya, sự hƣ huyễn không thật của sự vật hoặc sự rõng lặng trong sáng của lí thể, quan

niệm cho tất cả sự vật tồn tại đều không có tự thể, thật ngã… đƣợc gọi là tƣ tƣởng Không. Tƣ tƣởng này có

từ thời Phật còn tại thế, rõ ràng nhất là trong Phật giáo Đại thừa, tƣ tƣởng Không còn là tƣ tƣởng căn bản của

hệ thống kinh Bát Nhã (Từ điển Phật Học Huệ Quang, 2016, tr 2307). Tóm lại sắc không không sắc ở đây

đƣợc nôm na là sự có không không có của sự vật hiện tƣợng, qui luật biến đổi từ có sang không, từ không

sang có muôn vạn vật.

3 Y qui 依皈: y là nƣơng tựa, qui là quay trở về, trở về nƣơng tựa, ở đây là trở về nƣơng tựa ba ngôi

báu Phật, Pháp, Tăng. Trong đây không sử dụng từ “qui y” mà đảo ngƣợc lại “y qui” có thể với ý rằng linh

hồn hãy nƣơng theo (y) lời kệ và ánh sáng của đức Phật Di Đà mà trở về (qui)

100

Tẩy tâm sám hối phụng trì chân ngôn.

Đàn con thƣơng tiếc linh hồn, Tu trai4 đỉnh lễ từ tôn Phạm đài5. (lão)6 tuổi hồn đã ngoài … 7mƣơi

Gót tiên không vƣớng trần ai chút nào. (thiếu)8 tuổi hồn mới ngoài… mƣơi

Sơ sinh đã định tự trời biết sao.

Tử sinh hai chữ nan đào,

Toán lai số bẩm thiên tào vậy vay. [3]

Nghìn vàng hầu dễ đổi thay,

Càng thƣơng nhớ đến công ngày sinh ra. Cù lao cửu tự9 thi ca,

Cảm ân võng cực nghĩ ra bằng trời.

Bây giờ khoa giáo vừa rồi,

Đinh ninh phó chúc mấy lời dạy vong.

4 Tu trai 修齋: Tu là sửa, chuẩn bị đồ ăn làm trai hội “畢行齋會之謂。又會聚僧眾而供齋食,稱為

齋會”。Nghĩa là thực hành trai hội, thỉnh mời Tăng chúng tụ hội về một nơi mà cúng dàng thức ăn, gọi là

Trai hội.

5 Phạm đài: 梵臺: Phật giáo lấy thanh tịnh làm tông chỉ, cho nên sự gì có quan thiệp tới Phật đều gọi

là “Phạm” phạm đài: bệ Phật, ý chỉ cho tòa sen Phật ngự

6 Lão 老: chỉ cho ngƣời mất khi tuổi cao sức yếu, thuận theo lẽ vô thƣờng.

7 “…” phần ba chấm để thêm phần tuổi của ngƣời mất, ví dụ cụ ông mất ngoài bảy mƣơi, hay ngoài

tám mƣơi…

8 Thiếu 少: chỉ cho ngƣời mất khi còn trẻ, tùy vào từng trƣờng hợp ngƣời mất là nam hay nữ, già hay

trẻ mà thay từ “lão” hay “thiếu” cho phù hợp hoàn cảnh.

9 Cù lao cửu tự 劬勞九字: chín chữ Cù Lao gồm có: sinh: cha mẹ sinh ra, cúc: nâng đỡ, phủ:vỗ về

chăm sóc, súc: cho ăn bú mớm, trƣởng: nuôi dƣỡng lớn khôn, dục: dạy dỗ tinh thần, cố: trông nom, dõi theo

từng bƣớc chân của con cái, phục: quấn quýt- chăm sóc không rời tay, phúc: ẵm bồng gìn giữ

101

Sinh không tử lại hoàn không,

Ruộng nƣơng gia sản của chung một thì. Chữ rằng sinh kí tử qui10,

Dƣơng gian là khách âm ty quê nhà.

Nhƣng còn qua cửa Diêm la, Minh tào11 tòa ấy là tòa phúc uy.

Hỏi hồn danh hiệu là gì,

Phúc duyên nhiều ít vậy thì tâu qua.

Rằng tôi sinh ở trần gia,

Làm phúc cũng có gọi là đƣợc bao. [4] Trừ tam độc12 cải mọi điều,

Ăn chay niệm Phật bắc cầu trồng cây. Qui y Tam bảo13 lâu ngày,

Lên chùa lễ Phật nghe thầy tụng kinh. Khấu đầu vọng bái Diêm đình14,

10 Sinh kí tử qui 生寄子歸: sống gửi thác về

11 Minh tào 冥曹:gồm các quan trong cõi u minh,phán xử việc thiện ác của vong hồn đã tạo tác trên

dƣơng gian,

12 Tam độc 三毒: Ba thứ phiền não tham dục, sân khuể và ngu si, tất cả các phiền não gọi chung là

độc, nhƣng 3 thứ phiền não này có mặt khắp 3 cõi, là thứ độc hại nhất trong thiện tâm xuất thế của chúng

sinh, khiến cho hữu tình phải chịu khổ nhiều kiếp và không ra khỏi đƣợc, nên đặc biệt gọi là tam độc. “Tam

độc” này là nguồn gốc của 3 ác hạnh thân, khẩu, ý, nên còn đƣợc gọi là “tam bất thiện căn”, đứng đầu trong

các căn bản phiền não. (Từ điển Phật học Huệ Quang, 2016, tr 4094)

13 Tam Bảo 三寳:Ba ngôi báu, Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo đƣợc các tín đồ Phật giáo tôn kính,

cúng dàng, Phật là bậc đã giác ngộ và có năng lực giáo hóa chúng sinh; Pháp là giáo pháp của Phật ; Tăng là

tập đoàn đệ tử của Phật tu học theo giáo pháp. Ba ngôi báu trên có uy đức cao tột, có khả năng đem lại lợi ích

an vui vĩnh viễn cho chúng sinh nhƣ của báu của thế gian nên gọi là Tam bảo

14 Diêm đình 閻庭:tòa án nơi âm phủ mà chánh án xét xử là vƣa Diêm vƣơng

102

Chuẩn thứ ngu tình soi xét rộng thƣơng.

Lệnh sai quỉ sứ vô thƣờng, Đƣa hồn qua chốn ngục trƣờng Nê Lê15. Trải qua Vô gián16 thiết vi17,

Những ngƣời đói khát bộn bề khổ thay.

Sống ở dƣơng thế đơn sai,

Thác xuống âm phủ không ai nể mình.

Địa tào phép luật nghiêm minh

Chiếu án làm tội gia hình chẳng tha

Than rằng thuở sống kia là,

Chẳng hay làm phúc để mà độ thân. [5]

Cho nên đến nỗi trầm luân,

Ăn năn khôn kịp mƣời phần đắng cay.

15 Nê lê 泥犂: (Niraya) lƣợc dịch từ chữ Naraka phiên âm hán việt là Nại Lạc ca nghĩa là nơi hoàn

toàn không đƣợc an vui, là cảnh giới thấp hèn nhất trong 10 cõi. Nê lê là tên gọi khác của Địa ngục.

16 Vô gián thiết vi 無間:Vô gián là tên gọi khác của địa ngục A tỳ, là nơi hành hình tra tấn chúng sinh

không từng có gián đoạn nên gọi vô gián.

17 Thiết vi 鉄圍:

18 Xem chú số 13 trang 5

19 Xem chú số 1 trang 3

20 Tứ thập bát nguyện 四十八願:48 lời phát của của đức Phật A Di Đà đã phát ra khi còn là Bồ tát

Pháp Tạng. “đời quá khứ lâu xa, cách hơn 10 kiếp, có một nƣớc tên là Diệu Hỷ, vua cha là Nguyệt Thƣợng

Luân vƣơng, mẹ là Thù Thắng Diệu Nhan. Vƣơng hậu sinh ra ba ngƣời con, ngƣời con trƣởng là Nhật

Nguyệt Minh, con thứ hai là Kiều Thi Ca, ngƣời con thứ ba là Nhật Đế Chúng. Khi ấy, có đức Phật ra đời

103

Biết đƣờng niệm Phật ăn chay, Kính tin Tam bảo18 Phật rày độ ta. Phƣơng tây có Phật Di Đà19, Tứ thập bát nguyện20 thực là chẳng sai.

Tạng kinh21 truyền để hậu lai,

Ai hay niệm Phật bảo đài khai hoa. Trải qua khỏi cửa Diêm la22,

Có cầu trăm nhịp bắc đà ngang sông.

Trên cầu lại có chó đồng,

hiệu là Thế Tự tại Vƣơng Nhƣ Lai. Kiều Thi Ca bỏ ngôi vinh quí theo Phật Thế Tự Tại xuất gia, thọ tỳ kheo

giới, Phật cho hiệu là Pháp tạng tỳ kheo, Ngài pháp Tạng đối trƣớc đức Phật, phát 48 lời nguyện rộng lớn, độ

khắp tất cả mƣời phƣơng chúng sinh, nếu có một nguyện nào chẳng viên mãn thì ngài thề chẳng thành Phật.

Khi ấy, chƣ thiên rải hoa, tán thán, quả đất rung động, giữa không trung có tiếng khen rằng: “Pháp tạng quyết

định sẽ thành Phật hiệu là A Di Đà” (Phật Học Phổ Thông quyển 1, NXB Tôn giáo 2007, tr 337)

21 Tạng kinh 藏經: là một trong 3 tạng Kinh- Luật- Luật của Phật giáo. Kinh tạng là hệ thống giáo

pháp mà đức Thế Tôn diễn nói đƣợc các đệ tử ghi chép và giữ gìn, truyền bá cho đời sau; điển hình nhất

trong các hàng đệ tử về việc ghi nhớ và tiếp thụ kiến thức là đức A Nan tôn giả, đã ghi nhớ toàn bộ những

giáo lí đức Phật tuyên thuyết trong 49 năm. Sau khi đức Phật nhập Niết bàn, đại chúng mở hội kết tập Kinh

điển và tôn giả A Nan đã trùng tuyên lại toàn bộ lời Phật dạy, từ đó hình thành tạng Kinh Phật giáo đầu tiên.

“Giáo lí do đức Thích Tôn giảng nói vốn gọi là Pháp (Đạt ma) nghĩa là giáo pháp, đời sau ghi chép lại làm

sách giáo lí cƣơng yếu mà gọi là Kinh (Tu Đa La). Tu Đa la vốn là dụng ngữ của Bà la môn giáo, về sai đƣợc

Phật giáo sử dụng và thƣờng đƣợc chỉ cho loại văn trƣờng hàng, hàm ý văn nghĩa đƣợc nói kết nhau không

rời rạc. chúng sinh nƣơng vào giáo pháp tu tập nên không bị sa đọa vào ba đƣờng ác…” (Từ điển Phật học

Huệ Quang, NXB tổng hợp TPHCM, 2016, tr 2229)

22 Diêm la 閻羅: là từ gọi giản lƣợc của danh từ Diêm La Vƣơng, đồng nghĩa với từ Diêm Vƣơng,

Tử vƣơng, Diệm vƣơng. Là vị vua của thế giới ma quỉ, tổng quản của cõi u minh, và vị chủ thần địa ngục.

theo phẩm Địa Ngục, kinh Trƣờng A Hàm 19, Kinh Đại Lâu Thán 2, Luận Du Già Sƣ Địa 2, có chép : “

trong núi Đại Kim Cƣơng, phía nam Diêm Phù đề, có cung Diêm la vƣơng, ngƣời đứng đầu cung ấy là vua

Diêm Ma, vị vua này tuy là vua cõi địa ngục , nhƣng ngày đêm ba thời vẫn phải chịu khổ lửa nóng nhƣ

những tội nhân khác”. (Từ điển Phật học Huệ Quang, NXB tổng hợp TPHCM, 2016, tr 1076)

104

Miệng khạc ra lửa chỉ hù ngƣời qua. Là cầu địa phủ Nại Hà23,

Ai đi qua đó cũng là hàn tâm.

Lại có giun dài trăm tầm,

Khoanh tròn cất cổ mà nằm dãi sƣơng. [6] Nhờ ơn đức Địa Tạng vƣơng24,

23 Nại Hà 柰河: Tên một bến sông, bến Nại Hà có 3 dòng sông,: Sơn Thủy lại, Giang thâm Uyên, và

Hữu Kiều độ. Tƣơng truyền, sau khi chết đƣợc 7 ngày, ngƣời tội tùy theo nghiệp đã tạo lúc còn sống phải đi

qua một trong 3 dòng sống này, trên bờ sông có một cây to gọi là Y Lãnh thụ, trên cây có 2 con quỉ ở đó là

Đoạt y bà và Huyền y ông. Hai con quỉ này đoạt y phục của ngƣời chết đi qua đây và treo lên cành cây. Y

Lãnh tuy theo tội lỗi đã gây tạo lúc sinh tiền nặng hay nhẹ mà cành cây rủ xuống cao thấp khác nhau” (Từ

điển Phật học Huệ Quang, NXB tổng hợp TPHCM, 2016, tr.4094) ngƣời sau khi chết phải đi cầu cầu Nại Hà

để tới cõi U Minh. Có thể từ thuyết phải đi qua bến Nại hà này mà sinh ra 2 quan niệm dân gian là ăn cháo lú

và kiêng không cho ngƣời sắp mất mặc áo mới tinh vì sợ đi qua cầu Nại hà sẽ bị lột mất quần áo.

Theo truyền thuyết Dân gian có nói, ở cõi Âm phủ có con sông lớn, gọi là Nại Hà, Cạnh đầu cầu có

Bia đề là “Nại hà Kiều” trong ấy có các loại thủy tộc nhƣ rắn, cua, kình rất dữ tợn. Trên sông có bắc một cây

cầu, gọi là cầu Nại Hà, tục gọi là “Cầu vồng” vong hồn phải đi qua cây cầy đó, nếu là ngƣời có phúc đức, tạo

tác nhiều việc thiện thì cây cầu Vồng liền hiền ra để ngƣời đó đi sang một cách dễ dàng, còn nếu là ngƣời tạo

nhiều điều ác thì cây cầu hiện ra trơn trợt khó đi khiến cho bị ngã xuống sông để cho cua kình rỉa thây.

24 Địa Tạng vƣơng 地藏王:Là vị Bồ tát đức sự phó chúc của đức Thích Tôn đã thệ nguyện độ hết thảy

chúng sinh trong 6 đƣờng rồi Ngài mới thành Phật, trong khoảng thời gian từ khi đức Thích Tôn viên tịch

đến lúc Bồ tát Di Lặc thành đạo. Nói rõ ràng nhất về Bồ tát Địa Tạng là bản kinh “Kinh bản Nguyện của Bồ

tát Địa Tạng” mà nổi bật trong đó là lời phát nguyện “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sinh độ

tận phƣơng chứng Bồ Đề”

Danh hiệu Bồ tát Địa tạng còn mang ý nghĩa là “an nhẫn bất động, giống nhƣ đại địa, vẳng lặng sâu

kín, giống nhƣ cái kho” nên gọi là Địa Tạng. Hình tƣợng Bồ tát Địa Tạng đƣợc khắc họa nhiều hình dáng

khác nhau, nhƣng đƣợc lƣu truyền rộng rãi nhất là hình tƣợng trong ẩn hạnh Bồ tát, ngoài hiện tƣớng sa môn,

ngồi hoặc đứng trên hoa sen, tay trái cầm bảo châu, tay phải cầm tích trƣợng. Bồ tát địa Tạng có phát lời

nguyện cứu độ chúng sinh trong cõi u Minh nên còn đƣợc gọi là “U Minh giáo Chủ”

105

Phát nguyền độ hết cƣơng cƣờng hậu lai. Đƣa hồn qua núi Ngũ đài25,

Tƣởng chừng nhƣ tới Thiên thai26 khác gì.

Sơn tú lệ thủy thanh kỳ, Có thuyền Bát nhã27 cắm kề bên giang.

25 Núi Ngũ Đài: là Núi ở phía Đông bắc huyện Ngũ Đài, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. núi này cùng với

các núi Nga Mi, Phổ Đà, Cửu Hoa đƣợc gọi là tứ đại linh sơn của Phật giáo Trung Quốc. Vì những ngọn núi

này cao chốt vót, trên đỉnh không có rừng cây, đất dàn trải ra nhƣ 5 cái đài nên gọi là Ngũ đài sơn. Lại do 5

ngọn núi này cao chốt vót vƣợt trội những dãy núi khác, tháng nóng nhất trong mùa hạ vẫn không nóng nên

có tên riêng là Thanh Lƣơng. Đây là đạo tràng xƣa nay của Bồ Tát Văn Thù thị hiện, đƣợc tín ngƣỡng rộng

rãi ở Trung Quốc (Từ điển Phật học Huệ Quang, NXB tổng hợp TPHCM, 2016, tr.2949)

26 Thiên Thai 天台: chỉ cho núi Thiên Thai, núi này nằm ở phía Đông bắc rặng Phật Hà Lãnh Sơn,

thuộc Thai Châu (nay là huyện Thiên thai) tỉnh Chiết Giang Trung Quốc. hình thể núi này giống nhƣ đóa sen

úp gồm 8 cánh, có 8 nhánh 8 khe, Thƣợng thai, Trung thai, Hạ thai, giống nhƣ 8 chòm sao Thai có 3 sao nê

gọi là Thiên Thai. Núi này gồm 8 ngọn tron đó ngọn Hoa Đinh cao nhất với 1136m. Thiên Thai xƣa nổi tiếng

là nơi ẩn cƣ của các vị nhƣ Bá Di, Thúc Tề, Lữ Đồng Tân…. Phật giáo tới núi này vào đời Ngô năm 238-

251, đầu tiên xây dựng chùa Thanh Hoa… về sau, năm 575 đời Trần thuộc Nam triều, Ngài Trí Khải (tổ sƣ

của tông Thiên Thai) xây chùa Tu Thiền (sau gọi là chùa Thiền Lâm) ở ngọn Phật Lũng, từ đó trở thành đạo

tràng căn bản của tông Thiên Thai. (Từ điển Phật học Huệ Quang, NXB tổng hợp TPHCM, 2016, tr.5489)

27 Thuyền Bát Nhã: trí tuệ Bát Nhã ví nhƣ chiếc bè lớn chở chúng sinh vƣợt qua biển sinh tử, đạt đến

bờ giác ngộ. hình ảnh chiếc thuyền Bát Nhã là chính là xây dựng hình ảnh chiếc thuyền không đáy thể hiện

tinh thần vô chấp vô trụ, cùng tinh thần vô trụ chấp đó HT Trí Hải có câu thơ: “Thuyền này chỉ chở thiền

không, đi bằng Bát Nhã nên không chở ngƣời”

28 Kim Cƣơng tám tƣớng: Bát bộ Kim Cƣơng là tám vị Hộ pháp trong Phật giáo Đại thừa trong đó có

Phật giáo Việt Nam. Hình tƣợng của các vị Kim Cƣơng Thần Tƣớng, đƣợc chƣ Bồ Tát hóa thân, mang nhiệm

vụ bảo vệ Phật Pháp, thƣờng đƣợc thấy tôn trí trong các chùa xƣa, chùa cổ miền Bắc nƣớc ta (chùa Mía, chùa

Tây Phƣơng...) với danh Hiệu Là Thanh Trừ Tai Kim Cƣơng; Tích Độc Thần Kim Cƣơng; Hoàng Tuỳ

106

Buồm lan chèo quế sẵn sàng, Kim Cƣơng tám tƣớng28 đón sang đây rày.

Hồn đà qui Phật lâu ngày,

Này công đức điệp nay thầy cấp cho.

Trình điệp rồi sẽ sang đò,

Lầm rầm mật niệm Nam Mô Di Đà.

Tự nhiên Phật tổ độ ta, Chiếu kiến Ngũ uẩn29 thực là giai không. Có ngay thất tuế tăng đồng30,

Đạo đức trí tuệ thần thông ai tày. [7]

Cầu Kim Cƣơng; Bạch Tịnh Thuỷ Kim Cƣơng; Xích Thanh Hoả Kim Cƣơng: Định Trừ Tai Kim Cƣơng; Tử

Hiền Thần Kim Cƣơng; Đại Thần Lực Kim Cƣơng.

Bat bộ Kim Cƣơng có nguồn gốc từ Bát Đại Kim Cƣơng Minh Vƣơng tức là 8 vị Bồ Tát hiện thân ra

làm 8 Tƣớng Kim Cƣơng để ủng hộ Phật Pháp bao gồm Kim Cƣơng Thủ Bồ Tát hiện ra thành vị Giáng Tam

Thế Kim Cƣơng; Đại Cát Tƣờng Bồ Tát hiện ra thành vị Đại Uy Đức Kim Cƣơng; Hƣ Không Tạng Bồ Tát

hiện ra thành vị Đại Tiếu Kim Cƣơng; Từ Thị Bồ Tát hiện ra thành vị Đại Luân Kim Cƣơng; Quán Tự Tại

Bồ Tát hiện ra thành vị Mã Đầu Kim Cƣơng; Địa Tạng Bồ Tát hiện ra thành vị Vô Năng Thắng Kim Cƣơng;

Hàng Nhất Thiết Cái Chƣớng Bồ Tát hiện ra thành vị Bất Động Kim Cƣơng; Phổ Hiền Bồ Tát hiện ra thành

vị Bộ Trích Kim Cƣơng;

Hình tƣợng tám vị Kim Cƣơng ở Việt Nam mang nét đặc trƣng riêng biệt về nghệ thuật điêu khắc

tƣợng. Bát bộ Kim Cƣơng đƣợc sử dụng làm thành bộ tem “bát bộ Kim Cƣơng”.

29 Ngũ Uẩn: hay còn gọi là ngũ Ấm, ngũ chúng, Ngũ tụ. Là sự tích tụ theo từng loại tất cả các pháp

hữu vi. Ngũ uẩn bao gồm sắc uẩn, thụ, uẩn, tƣởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.

30 Thất tuế tăng đồng: chú tiểu đồng, trong giới luật đức Phật chế định trẻ nhỏ đủ 7 tuổi là có thể xuất

gia thụ giới Sa di. Hoặc ám chỉ các vị thiện tài, đồng tửu theo sau thị giả chƣ vị Bồ tát

31 Phan: là từ gọi chung của các loại cờ của Phật giáo, dùng phan để hiển bày uy đức hàng ma của

Phật, Bồ tát…. Vật liệu dùng làm phan có nhiều thứ nhƣ gấm, lụa, sa tanh, đồng dát mỏng, ngọc báu, gỗ…về

màu sắc Phan thƣờng có 1 màu trắng, vàng, xanh, vàng nhạt, hồng. riêng mật giáo thì Phan có 5 màu thể hiện

107

Khen là Phật tử vậy vay, Cầm phan31 tiếp dẫn dắt tay vui cƣời.

Khuyên hồn phải nhớ mọi lời, Hễ là kiến tính32 thảnh thơi trăm đƣờng. Nhờ Bồ tát Địa Tạng vƣơng33,

Cùng thầy đồng tử dẫn đƣờng hồn đi.

Địa phƣơng tiếp giáp đa kỳ, Trông phan34 tiếp dẫn mà đi mới tuyền.

Tiêu dao phong nguyệt vô biên,

Khác nào nhƣ gặp thần tiên vui vầy.

Có công đức điệp cầm tay,

cho ngũ hành hay ngũ tạng trong cơ thể, ngoài ra còn có phan 8 màu, 9 màu, phan tạp sắc. Tùy theo Pháp sự

và nơi treo có phan có tên gọi khác nhau nhƣ phan Kim Đƣờng phan (phan treo ở Phật điện) tiến vong phan,

tống táng phan…hình vẽ trên Phan cũng đƣợc chia làm 4 loại: Hội phan (phan vẽ hình Phật và Bồ tát);

Chủng tử phan (phan viết các chủng tử thay thế cho hình tƣợng Phật, Bồ tát); tam muội da còn gọi là Phật

pháp phan (phan vẽ hình tam muội da của chƣ Phật, Bồ tát); Tràng phan (phan có hình lục giác hoặc bát giác.

(Từ điển Phật học Huệ Quang, NXB tổng hợp TPHCM, 2016, tr.3483) Tạo phan để cúng dàng chƣ Phật đƣợc

phúc rất lớn nhƣng ngày nay ngoài một số phan treo tại các chùa còn mang mầu sắc Phật giáo, con lại các

Phan trong các buổi tang ma hay cúng 49, gọi là Phan tiến vong, phan tống tang thƣờng đã bị pha tạp Đạo

giáo khi có những hình bùa chú trên đó.

32 Kiến tính: Thấy đƣợc Phật tính (bản tính vốn thanh tịnh) ở nơi tự tâm mình

33 Địa Tạng Vƣơng: xem chú thích số 24 trang 8

34 Phan: xem chú thích số 31 trang 10

35 Áo lục thù: là chiếc áo rất nhẹ có trọng lƣợng 6 thù của chƣ thiên, trong đó 1 thù khoảng 0,75gam.

Đƣợc coi là chiếc áo cao quí dành cho hàng Bồ tát, hoặc ngƣời đã đƣợc tiêu diêu giải thoát hoặc có phúc đức

lớn, nhƣ trong Kinh Ngũ Bách Danh có chép “Hà y quải lục thù, hoa quang trang thất bảo” để miêu tả về

hình tƣợng và trang phục của Bồ tát Quán Thế Âm. Trong bài Vịnh Vân Yên Tử ngài Huyền Trang có câu “

108

Một con gậy chống nƣơng rày thƣợng phƣơng. Mặc áo lục thù35 nghiêm trang,

Mũ ni tràng hạt tùy quang lên đƣờng.

Có ai hỏi sự phi thƣờng,

Thong dong hồn sẽ tìm đƣờng kể ra.[8]

Rằng tôi theo Phật Di Đà, Về nƣớc Cực lạc36 đó là Tây phƣơng.

Hỏi đến tiên Phật da nƣơng,

Phật phụ Phật mẫu nói tƣờng ngay đi.

Phật tử Phật tôn là gì,

Phải chẳng hƣ thực nói thì mỗ hay.

Quán thất bảo về bao Bụt hiện/ Áo Lục thù tiếng gió tiên phiêu/ Thầy tu trƣớc đã lên Phật quả/ Tiểu tu sau

còn vị Tỳ kheo…”

Trong dân gian thƣờng chuẩn bị “áo lục thù” hay “áo hải hội” cho ngƣời sắp mất, xƣa chiếc áo lục

thù làm bằng vải xô trắng, khi ngƣời lâm chung thì mặc vào rồi lấy khăn xô buộc ba đoạn trên thi thể ngƣời

đã mất, ngày nay ngƣời ta thƣờng in hình chữ Phạn, chú Đại bi hoặc chữ Án lên áo và gọi đó là áo hải hội để

mặc cho ngƣời mất. Chƣa có cứ liệu để xác minh và tìm hiểu tận nguồn gốc, nhƣng có thể cho rằng ý nghĩa

về việc chiếc “áo lục thù” ngày nay sử dụng không dúng với ý nghĩa tốt đẹp, cao quí trong “áo lục thù” của

Phật giáo. Bởi chiếc “áo Lục thù” của Phật giáo là của hàng chƣ thiên, lấy đặc tính của chiếc áo làm tên gọi.

Còn áo Lục thù ngày nay lại đƣợc sử dụng với nguyên 1 nghĩa dành cho ngƣời mất…..???

36 Cực Lạc: Gọi đủ là Cực Lạc thế giới, Cực lạc quốc độ, là cõi tịnh độ của đức Phật A Di Đà. Trong

Kinh A Di Đà Có chép “vì nƣớc kia không có những nỗi khổ chỉ hƣởng toàn những điều vui nên gọi tên là

Cực Lạc.

37 Tịnh Phạn Vƣơng: Là thân phụ của thái tử Tất Đạt Đa (sau này là đức Phật Thích Ca Mâu Ni), là

quốc vƣơng của thành Ca Tì La vệ ở Trung Ấn Độ; Ông từng ngăn cản không cho Thái tử -con mình xuất gia

bằng mọi cách, nhƣng sau khi thái tử thành Phật, ông trở thành ngƣời hộ trì Phật pháp, bản thân ông về cuối

đời, dƣới sự chỉ dẫn và thuyết giảng của đức Phật, ông cũng chứng tới Thánh quả Tu Đà hoàn. Sau khi ông

lâm chung đích thân đức Phật đã về thể hiện lòng hiếu sâu đậm bằng cách kề vai khiêng quan tài của Ông.

109

Thì hồn cứ thực thƣa bày, Tịnh Phạn vƣơng phụ37 thực rày là cha.

Ma Da quốc mẫu38 đấy mà,

Phật tử tên gọi Hầu La tự ngày.

Phật tông hồn lại thƣa ngay, Bà la môn tính39 xum vầy nhất môn.

Nghe rồi hẳn bảo vong hồn,

Thực là Phật chủng không còn hồ nghi. Gọi đến đồng khí liên chi40,

Anh em quyến thuộc là gì kể ra.[9]

Thƣa rằng trời cao là cha,

Đất dày là mẹ sơn hà anh em.

38 Ma Da quốc mẫu: hay còn gọi là Ma Da phu nhân, là vợ của Vua Tịnh Phạn và là mẹ đẻ của Thái tử

Tất Đạt Đa. Khi bà tới vƣờn Lâm Tỳ Ni dạo chơi, vừa đƣa tay hái cành hoa Vô ƣu, đã hạ sinh Thái tử, khi

Thái tử mới đƣợc 7 ngày tuổi thì bà đã qua đời, theo một số Kinh điển cho rằng, do Bà đã hoàn thành bản

nguyện cao cả của mình là hạ sinh một đáng giác ngộ, sau khi mất bà đƣợc sinh lên cung trời Đao Lợi. Trong

Kinh Địa Tạng Bồ Tát bản Nguyện có nhắc đến sự kiện đức Phật lên cung trời Đao Lợi thuyết Pháp cho thân

mẫu.

39 Bà La Môn tính: dòng dõi Bà La Môn, xƣa thời đức Phật thì xã hội Ấn Độ chia làm 4 giai cấp, trong

đó giai cấp Bà La Môn là giai cấp cao nhất, họ tự cho mình là dòng dõi cao quí. Sau khi thành đạo đức Phật

cũng giữ gìn một số sinh hoạt tu hành phạm hạnh nhƣ khất thực, an cƣ vào mùa mƣa nhƣ cách mà tầng lớp

Bà La Môn thời đó duy trì. Bà La Môn tính có thể hiểu đơn giản là dòng dõi cao quí với đời sống phạm hạnh.

Gia tộc của đức Phật thực chất theo Lịch sử đức Phật Thích Ca Mâu Ni cho thấy thuộc dòng Vua Chúa,

những ngƣời cầm quyền hành trong tay, và đó là giai cấp Sát Đế Lợi.

40 Đồng khí liên chi: Có thể là hỏi về anh em cha mẹ ruột già của vong hồn, Vì trong dân gian có

truyền nhau bảo rằng khi vong hồn mất thƣờng dặn dò là trên con đƣờng thác sinh quí sứ có hỏi đến thì chớ

nói tên làng mạc xóm làng, cùng anh em họ tộc để tránh không cho quí sử về bắt ngƣời nhà nhà mình.

41 Chu tử: áo đỏ áo tía: chỉ hàng quan lại, những ngƣời giàu sang tôn quí

110

Nhi tôn lan quế mãn thềm, Triều trung chu tử41 áo xiêm sánh bày.

Nghe lời nói ấy yêu thay,

Hóa ngay đồng tử dắt tay hồn vào.

Siêu nhiên thoát sái xiết bao,

Thẳng về cõi Tịnh tiêu dao an thiền. Chữ rằng Phật độ hữu duyên42,

Tự nhiên kim địa dũng liền liên hoa.

Đạo sƣ là đức Di Đà, Quán Âm Thế Chí43 hai tòa thanh liên44.

Tràng phan tán cái che trên,

Rủ tay tiếp dẫn hồn lên bảo đài.

42 Phật độ hữu duyên: Theo Phật pháp căn bản có nói Đức Phật có tam bất năng (ba việc không thể

làm đƣợc) đó là: thứ nhất không thể thay đổi đƣợc định nghiệp của chúng sinh, thứ 2 không thể độ đƣợc

ngƣời vô duyên, thứ 3 không thể độ đƣợc hết chúng sinh trong Pháp giới. Trong đây nói “Phật độ hữu

duyên”: Phật chỉ độ đƣợc những chúng sinh có duyên với Ngài

43 Quán Âm – Thế Chí: Chỉ cho 2 bậc Quán Thế Âm bồ tát và Đại Thế Chí Bồ tát, đây là hai vị Bồ tát

bên phải và bên trái của đức Phật A Di Đà ở thế giới phƣơng Tây. Quán Thế Âm Bồ tát đƣợc nhắc đến trong

văn hóa tín ngƣỡng dân gian nhƣ ngƣời mẹ hiền cứu độ chúng sinh bằng lòng từ bi. Dấu ấn đƣợc ghi lại rõ

nhất hình ảnh của Bồ tát Quán Thế Âm là trong Phẩm Phổ Môn Kinh Pháp Hoa, với năng lực đƣợc tóm tắt

qua câu “thất nạn, nhị cầu, tam thập nhị ứng”. Hình ảnh Bồ Tát Quán Thế Âm gần gũi với ngƣời dân Việt

Nam với sự liên hệ với Phật bà Chùa Hƣơng và Quan Âm Thị Kính; Bồ tát Quán Thế Âm cũng đƣợc thờ

phụng với hình dáng ngƣời nữ, hoặc tạc ngồi trên núi (Quán Âm tọa sơn) hoặc tạc với ngàn tay ngàn mắt….

Bồ tát Đại Thế Chí Bồ tát, trong Kinh Lăng Nghiêm, chƣơng Đại thế Chí Bồ tát niệm Phật có nói đến nhân

địa tu hành của Bồ Tát Thế Chí cùng với 52 vị đồng hạnh, cùng tu tập pháp môn niệm Phật đạt đƣợc “Vô

sinh Pháp nhẫn” vì vậy mà Ngài khuyến chúng sinh niệm Phật và ở cõi Tây phƣơng giúp Phật A Di Đà hóa

độ chúng sinh, Ngài cũng sẽ làm giáo chủ cõi Tây Phƣơng tiếp nối sau Phật A Di Đà và Bồ Tát Quán Thế

Âm.

44 Tòa thanh liên: Tòa hoa sen xanh

111

Ấy là thân cận Nhƣ Lai,

Run rủi con cháu hôm mai ở lành.[10]

Nghe thầy niệm Phật tụng kinh,

Giải thoát mọi sự sảng linh tinh thần.

Nay lời tâm pháp khuyên răn,

Phải chăm niệm Phật ân cần chớ quên.

Những ngƣời thành Phật thành Tiên, Cũng nhờ con cháu thảo hiền kiến trai45.

Vâng lời di giáo truyền lai,

Diễn ra quốc ngữ một bài dạy vong.

Hồn nay thoát sái thong dong, Thần du Tịnh độ46 tính không Sa bà47.

45 Kiến trai: Thiết lễ Trai Tăng, (noi gƣơng hiếu hạnh của ngài Mục Kiền Liên, và lễ vu Lan Bồn) sắm

sửa thức ăn trăm món, cùng các vật dụng cúng dàng mƣời phƣơng Tăng già, nƣơng công đức chú nguyện của

chƣ Tăng mà vong linh đƣợc sinh về cảnh giới an lành

46 Tịnh độ: Chỉ Cõi nƣớc thanh tịnh, là nơi an trú của chƣ Phật nói chung, cõi nƣớc này đƣợc xây

dựng bằng việc tích lũy công đức, cõi Tịnh độ còn dùng để chỉ cho tâm thanh tịnh của chúng sinh, nhƣ Kinh

Duy ma Cật có nói “tâm tịnh thì quốc độ tịnh”

47 Sa bà: Còn gọi là cõi Kham nhẫn, Năng nhẫn, nhẫn độ. Là thế giới hiện thực của đức Phật Thích Ca

Mâu Ni, chúng sinh ở thế giới này làm mƣời điều ác, chịu đựng các phiền não mà không lìa bỏ nên gọi là

Nhẫn. Lại nữa, khi chƣ Phật và Bồ tát làm việc lợi lạc ở cõi này thì các ngài phải chịu đựng các khổ não, nên

gọi là Nhẫn... quốc độ này là nơi tụ hội của tam ác, ngũ thú…. Ngoài ra, từ ngữ Sa bà vốn chỉ cõi Diêm phù

đề mà chúng ta đang ở, đời sau trở thành từ ngữ chỉ thế giới Tam Thiên đại thiên do đức Phật Thích Ca giáo

hóa (Từ điển Phật học Huệ Quang, NXB Tổng hợp TPHCM, 2016, tr 3899)

Hồn du Tịnh độ tính không Sa bà: Sau khi thác sinh thì thần thức đƣợc rong chơi nơi miền Tịnh độ

112

Con hiền cứu đƣợc mẹ già, Nhi tôn đƣợc hƣởng tam đa48 phúc dày.

Gần xa thân thích sau này, Phƣơng lân49 tri thức ngày ngày nhƣ xuân.

Phú quí bằng nhƣ phù vân,

Há nên tham tiếc ái ân làm gì. [11]

Chữ rằng cảm khái hề chi,

Tụng kinh sám hối tu trì là hơn.

Vong hồn chầu Phật chầu tiên,

Vâng hộ con cháu bình yên đời đời.

Vinh hoa phú quí hơn ngƣời,

Mới hay đạo Phật cơ trời nhiệm thay.

Ai mà lòng ở thảo ngay, Tuy trời cao thẳm nhƣng ngài thính ti50. Phó chúc51 cho hồn thông tri,

Trƣớc sau ghi lấy mà đi kẻo nhầm.

Luân hồi tại nhất cá tâm,

Dẫu sang tịnh độ do tâm ta làm.

BẢO ĐƢỜNG CA HOÀN

Thành Thái thất niên tuế thứ Ất Mùi nhuận Xuân Lôi chủ nhân phổ trai

tân đính.[12]

48 Tam đa: Gồm có 3 điều là Phúc – Lộc – Thọ:Những điều lành (Phúc), sự thịnh vƣợng (Lộc), và tuổi

thọ (Thọ).

49 Phƣơng lân: Gần xa, những bạn bè tri thức ở gần ở xa đều biết đến

50 Thính ti: Nghe hết (ý nói tuy trời ở trên cao nhƣng nghe, biết hết mọi việc dƣới trần gian)

51 Phó chúc: Còn gọi là chúc lũy, phụ chúc, là dùng ngôn ngữ để dặn dò gửi gắm một việc gì. (Từ điển

Phật học Huệ Quang, NXB Tổng hợp TPHCM, 2016, tr 3700)

113

Thành Thái năm thứ 7, tháng nhuận năm Ất Mùi (1895)

Bài 2. PHÓNG XÁ BẢN

Phóng xá cùng với khoa nghi Thỉnh xá là nghi thức thỉnh cầu quản ngục

xóa tên các chân linh vong hồn ra khỏi danh sách ở địa ngục để đến đàn

trang thính Pháp văn kinh lễ Phật và Qui Y

Xƣớng vân:

Thái hòa cảnh tƣợng,

Ngọc luật hồi xuân,

Trên chín lần xiêm áo đai cân,

52 Dựng: dựng trai đàn = kiến trai: Thiết lập đàn chay cúng dàng chúng Tăng

53 Vua Lƣơng Vũ: tức Vua Lƣơng Vũ Đế là “vị vua thời Nam triều, Trung Quốc, ngƣời Lan Lăng (nay

là huyện Vũ Tiến, Tỉnh Giang Tô) họ Hiệu tên Diễn tự Thúc Đạt. ông vốn là quan thứ sử Ung Châu đời Nam

Tề, do vua tề tàn nhẫn vô đạo giết chết anh mình là ngƣời đức hạnh nên ông đem quân đánh chiếm Kiến

Khƣơng. Vào năm 502, ông cƣớp ngôi, đặt quốc hiệu là Lƣơng. Trong thời gian tại vị ông sửa đổi về văn

hóa, giáo dục, thế lực quốc gia nhờ đó mà hƣng thịnh. Vua Vũ đế kính tin Phật giáo, hành trì Bồ tát giới, trai

giới và bái sams đến chết không bỏ. Phi Trƣơng Phòng khen tặng là “vua Bồ tát Bất Khả Tƣ Nghì”… ông

xây nhiều chùa, và độ nhiều tăng chúng. Năm 527, khánh thành chùa Đồng Thái, lập đại hội Vô già, Vu Lan

bồn… về sau, do Hầu Cảnh khởi binh làm phẩn, đánh chiếm Kiến Khƣơng. Năm 549, ông nhịn đói mà chết ở

Đài Thành, trị vì ngôi 48 năm, thọ 86 tuổi”. (Từ điển Phật học Huệ Quang, NXB Tổng hợp TPHCM, 2016,

tr2595-2594)

Trong Phật giáo, cuộc đời Lƣơng Vũ Đế đƣợc biết đến với hai sự kiện lớn là Cuộc đối thoại giữa ông

và Đạt Ma Tổ sƣ lúc Tổ Đạt ma mới tới Trung Quốc, rằng ông hỏi rằng mình đã xây chùa hàng ngàn ngôi, độ

114

Dƣới trăm họ âu ca cổ vũ. Dựng52 làm trai tự vua Lƣơng Vũ53,

Cứu Mãng sà54 thoát khỏi tiền khiên55.

Tƣớng hiệu tôi Kim mã tây thiên, Chức sự phải cẩn tê ngọc sắc56.

Vâng lệnh hạ cửu đình bất đắc,

Đệ sắc văn trẩy xuống Diêm đình.

Xin lân mẫn chúng sinh,

Xá chƣ linh oan nghiệp.

Pháp sự viết:

Nào là Tây thiên Kim mã, dạ.

Nghe lời thầy dạy:

Cơ nào đội ấy,

Khí giới nghiêm trang.

Quân phấn uy cƣờng,

Tăng chúng tới hơn 10.000 vị thì có công đức chăng, Đạt ma Tổ sƣ nói “không có Công đức gì cả”…. Thứ 2

là Ông chính là ngƣời đã thỉnh mời Chí Công Hòa thƣợng, thiết lập đàn Sám hối, soạn Kinh văn, thỉnh Tăng

chúng trì tụng để cứu vợ (Hoàng Hậu Hy Thị) thoát khỏi kiếp Mãng Sà… từ đó hình thành bộ kinh Lƣơng

Hoàng Bảo Sám.

54 Mãng Sà: Hoàng hậu Hy Thị vợ Vua Lƣơng Vũ Đế lúc sinh tiền hủy báng Tam bảo, ác độc với mọi

ngƣời… ai cũng gọi bà là “Quái phi” sau bị bệnh nặng mà chết, bị đọa làm rắn mãng xà, ngày đêm chịu khổ,

thân thể tanh hôi, vi vảy đều bị sâu trùng rúc rỉa, nhức nhối không chịu đƣợc, đêm đến đã trở về Hoàng cung

nhờ vua Lƣơng Vũ Đế tìm cách cứu giúp;

55 Tiền khiên: Những tội lỗi đã tạo tác lúc sinh tiền

56 Cẩn tê ngọc sắc: Kính cẩn mang sắc ngọc (giáo sắc của Phật để cứu các tội nhân)

57 Chƣ Phật Bồ tát: Phật là bậc đã tu hành đạt đƣợc giác ngộ, đầy đủ tự giác, giác tha, giác hạnh viên

mãn, đem sự giác ngộ đã đạt đƣợc để giáo hóa chúng sinh cũng đạt đƣợc quả vị giác ngộ nhƣ mình. Là bậc

115

Tùy cơ tiến phát. Trên đã có chƣ Phật Bồ tát57

Dƣới khắp hòa La Hán Thanh Văn58

Đủ đôi bên hiền thánh chƣ thần, Kiêm Tam giới59 công đồng chầu Phật.

Kim niên bản nguyệt,

thấy biết hết thảy tính tƣớng nhƣ thật của hết thảy các pháp, Phật là quả vị cao nhất trên lộ trình tu tập trong

Phật giáo. Bồ tát hán dịch là giác hữu tình, hoặc hữu tình giác. Tức là một ngƣời đã giác ngộ hay là ngƣời

đem sự giác ngộ tới cho chúng sinh; hàng Bồ tát là ngƣời tu hành trên cầu thành quả vị Phật bằng trí tuệ,

dƣới hóa độ chúng sinh bằng tâm từ bi, tu hạnh tự lợi và lợi tha. Danh từ Bồ tát thƣờng chỉ xuất hiện trong hệ

thống kinh điển Phật giáo Đại thừa, ví dụ Bồ tát Văn Thù sƣ Lợi, Bồ Tát Quán Thế Âm

58 La Hán Thanh văn: La hán gọi đủ là A La Hán, (Arahant), Hán dịch là Ứng cúng, Sát tặc, Bất sinh,

Vô sinh… là bậc “sinh dĩ tận, phạm hạnh dĩ lập, sở tác dĩ biện, bất thụ hậu hữu” nghĩa là là bậc đã đoạn hết

Kiến hoặc, Tƣ hoặc, tu hạnh thanh tịnh, việc cần làm đã làm xong không còn trở lại thân sau nữa. là bậc tu

chứng đƣợc quả cao nhất trong hàng Thanh văn. A La Hán chia làm 2 loại: A La Hán hƣớng và A La Hán

quả. Ở nƣớc ta, thƣờng thờ thập bát vị La Hán ở tả vu hữu vũ hai bên chính điện thờ Phật. Thanh văn: là các

đệ tử của đức Phật, nghe âm thanh chƣ Phật thuyết pháp mà tu tập giác ngộ, là ngƣời tu tập pháp Tứ điệu đế

để đoạn trừ phiền não, mục đích hƣớng tới chứng tứ quả sa môn (Tu đà hoàn, Tƣ đà hàm, A na hàm, A La

Hán…) La hán thanh văn chỉ chúng cho các đệ tử của Phật, Thánh Phàm đồng tu.

59 Tam giới: chỉ cho dục giới, sắc giới, vô sắc giới (kiêm Tam giới công đồng chầu Phật: câu này là sợ

dây xâu chuỗi các câu trên, trong đó chƣ Phật Bồ tát La Hán ám chỉ cho cảnh giới vô sắc giới và sắc giới, còn

thanh văn, hiền thánh hai bên chỉ cho dục giới. Ẩn dụ rằng hệ thống thờ tự gồm đủ cả tam giới trong một

ngôi chùa.

60 Trai chủ: Ngƣời đứng ra thiết lập đàn lễ

61 Đàn Việt: Đàn việt thí chủ, thí chủ, đàn na chủ, đàn chủ, là ngƣời cúng dàng 4 món cần dùng (vải

vóc, thuốc men, đồ ăn, tọa cụ) cho chúng tăng, hoặc xuất tiền để làm pháp hội. (Từ điển Phật học Huệ

Quang, NXB tổng hợp TPHCM, 2016, tr5424) dựng đàn việt ở đây có thể hiểu là mở pháp hội làm đám lễ.

116

Lƣơng nhật [13] cát thời. Trai chủ60 đây đốc tín báo ân, Dựng đàn việt61 làm can nhật dạ

Tiệc pháp sự khai phƣơng thỉnh xá62 Phá ngục giải khiên63

Cứu tổ hồn thoát hóa sinh thiên,

Cho trai chủ cam lòng thành cảm.

Bữa trƣớc đã tụng kinh bái sám,

Thầy lại tâu sớ điệp quan đơn.

Ban sắc này đệ xuống minh quan,

Bảo cho biết mai thầy phá ngục.

Kim Mã xuất: Dạ.

Thừa mệnh, nói:

Quốc gia hữu vĩnh,

Phật đạo vô cùng.

Đức thánh quân nhất thống hỗn đồng,

Đạo Phật pháp vạn ban vi diệu.

Trai chủ nay tận thành chí hiếu,

62 Khai phƣơng thỉnh xá: là hai khoa cúng, Khai phƣơng là nghi thức thỉnh ngũ đế ở năm phƣơng là

thanh đế, Xích đế, Bạch đế, Hắc đế, và Hoàng đế, mở đƣờng thông suốt cho các tội nhân ở địa ngục về dự

pháp hội. Thính xá nghi và Phóng xá khoa là nghi thức thỉnh cầu quản ngục xóa tên các chân linh, vong hồn

đến dự lễ ra khỏi danh sách ở địa ngục (Thủy Lục chư khoa, Quang Minh dịch, NXB Hồng Đức, tr 35)

63 Phá Ngục giải khiên: Phá ngục là nghi thức chạy đàn phá ngục, còn gọi là Khai bát, là nghi thƣc các

vị sám chủ mặc áo cà sa, đầu đội mũ thất Phật, tay cầm tích trƣợng, chạy xung quanh đàn ngục, đàn ngục

đƣợc bầy gồm địa ngục ở giữa có 4 cửa xung quang, mỗi cửa ngục có ngƣu đầu ngục tốt canh và ở giữa cửa

ngục để một chiếc bát con, sám chủ dỗng tích trƣợng vào trôn bát và lật ngửa lên ngụ ý cho việc mở ngục.

Đàn tràng này dựa theo tích truyện ngài Mục kiền Liên đƣợc Phật trao cho ngọc Minh châu và tích trƣợng

đến trƣớc của ngục A Tỳ dỗng gậy 3 cái cửa ngục mở ra và cứu đƣợc mẹ là bà Thanh đề. Giải khiên: có thể

là Giải oan, viết giải khiên cho liền mạch văn nghĩa là khoa cúng giải oan cắt kết, hay còn còn là giải kết

khoa.

117

Lập đàn trai phổ độ tổ tiên.

Thỉnh đƣợc thầy đạo đức vô biên,

Niêm hƣơng thỉnh thập phƣơng Phật thánh.

Chủ tín tâm sƣ thời đức hạnh, Hữu kỳ thành tất hữu kỳ thần64

Thời biến đạt phổ [14] thiên chi thƣợng

Phật độ sinh từ bi vô lƣợng,

Phép làm trai bí mật nan lƣờng.

Sắc thị không báo ứng vô phƣơng,

Không thị sắc tùy cơ phó cảm.

Phép linh linh bất tăng bất giảm,

Đạo huyền huyền vô cổ vô kim.

Thánh thâm thời hà dị phàm tâm,

Nhân đạo cũng năng thông Phật đạo.

Trong ngoài trang nghiêm tố hảo,

Dƣới trên chế độ nguy nga.

Thƣợng điện lộ diệu tƣớng kim tòa,

Trung điện hiển liên hoa ngọc bệ.

Bẩm ngũ vị ngũ phƣơng ngũ đế,

Tổng tam nguyên tam phẩm tam quan.

Tả hữu thì hai dãy tôn nhan,

Tay chấp giản mƣời vua minh phủ. Nhớ truyện cũ đời vua Hán tổ65

64 Chủ tín tâm sƣ thời đức hạnh, Hữu kỳ thành tất hữu kỳ thần: tức là ngƣời thiết lập đàn tràng có lòng

tin sâu sắc, pháp sƣ chủ lễ lại là ngƣời có đức hạnh cao vời, có sự thành tâm cầu khẩn ắt thần mình sẽ hiển

linh ứng nghiệm.

65 Hán Tổ: chỉ cho vua Hán Cao Tổ, tên Lƣu Bang, ngƣời mở đầu cho cơ nghiệp gần 200 của nhà Hán

118

Cũng lấy ngựa dẹp khắp bốn phƣơng.

Kìa thầy Tam Tạng đời Đƣờng66

Sang Tây phƣơng vị Quốc cầu kinh.

Lấy Bạch Mã hành [15] trình đã mỏi

Kim Mã tôi khâm sai Mã đội, Tê sắc văn tấu khải phong đô67. Cứu đẳng hồn thoát khỏi tam đồ68

Nhà trai chủ muôn nhờ phúc cả.

Chƣ quân ta sắp vào bái tạ,

Lĩnh nhật trình trảy xuống phong đô.

Nhƣng còn thiếu một tên Thảo Mã.

Nào là Thảo Mã?

Thảo Mã: Dạ

Năm nay tôi không phải tên là Thảo Mã.

Đòi tên lính Cỏ, tôi ra ngay.

Chớ nào là Lính Cỏ?

Dạ, Cỏ tôi nay là cỏ có tích.

66 Tam tạng đời Đƣờng: “Là một vị cao Tăng Trung Quốc, sống vào thời Đƣờng, họ Trần tên Huy,

ngƣời huyện Câu Thị, Lạc Châu (nay là huyện yển Sƣ tỉnh Hà Nam), là sơ tổ của Pháp tƣớng tông, nhà dịch

Kinh nổi tiếng nhất Trung Quốc, đƣợc ngƣời đời tôn xƣng là tam tạng Pháp sƣ, hoặc là Đƣờng Tam tạng…”

(Từ điển Phật học Huệ Quang, NXB tổng Hợp TPHCM, 2016, tr 2021). Đây là một nhân vật nổi tiếng của

Trung Quốc, đã soạn ra bộ “Đại Đƣờng Tây vực kí 12 quyển, để tƣờng thuật lại quá trình Tây du cầu pháp

của Ngài trong 17 năm trải qua 138 nƣớc… Trung Quốc đã xây dựng một bộ phim “Tây Du kí” bộ phim rất

gần gũi với nhiều thế hệ ngƣời Việt Nam chúng ta, mà nhân vật chính trong phim chính là tái hiện phần nào

về quá trình Tây du của Ngài Huyền Trang.

67 Tê sắc văn tấu khải phong đô: Đem văn sắc dâng tấu lên cửa Diêm Vƣơng

68 Tam đồ: Địa ngục, ngã quỉ, súc sinh.

119

Ba bốn đời bia biển đó mà,

Ơn vũ lộ khắp hòa thảo mộc.

Cỏ hoa tới mùa xuân đua mọc,

Thụ khí trời cành tốt lá xanh.

Dẫn tích cỏ đã đành,

Còn khiếm lƣơng hành lý.

Kim Mã cáo viết:

Sắm sửa đồ lƣơng thảo hành trang,

Theo kịp ngựa kẻo [16] phƣơng pháp sự.

Lính Cỏ bạch:

Bạch lạy thầy cả,

Khắp hết đạo tràng.

Họ đám trai gia.

Cỏ ngựa tôi tuổi cũng chƣa già,

Năm nay mới xuân thu bát thập nhất.

Vốn tôi xƣa đội ơn đức Phật,

Cho tôi ra giữ ngựa nhà quan.

Dốc một lòng chẳng quản cơ hàn,

Vui việc cỏ thanh nhàn khoái lạc.

Khi tôi chơi non bồng nƣớc nhƣợc,

Khi tôi về tiêu sái Chiền già.

Cũng khi tôi dắng kệ ngâm nga,

Vui việc cỏ tháng quên đại tiểu.

Trai chủ nay lập đàn báo hiếu,

Bèn truyền tôi theo ngựa tức thì.

Phép việc quan chẳng dám hoãn trì,

Chân đăm đá chân chiêu chan chát

120

Vội vàng quên nhạc

Tiền chẳng có gạo hãy còn không.

Tuổi thì già hơi chẳng còn đông,

Cật thời rét vai mang gánh cỏ.

Tôi mà [17] nói thì ra ngƣời nhỏ,

Trình quan họ thẩm lại cho cùng.

Đƣờng Phong đô thăm thẳm xa trông,

Lƣơng chẳng có lấy gì theo đƣợc.

Tiền trà nƣớc xin lĩnh mƣời quan,

Gạo tám xoan xin lĩnh mƣời thúng.

Đem ra cho chúng,

Bất khả hoãn trì.

Lệnh Phật truyền hỏa tốc nhƣ phi,

Cấp chỉnh thúc kẻo vi quân hiến.

Trai chủ bạch:

Trai chủ tôi lòng thành có mấy,

Xin tôn ông lƣợng cả từ bi.

Nhân gian thời nhục nhãn nan tri,

Cảm đến chữ cù lao chi đức.

Họ chúng tôi dốc lòng tín thực,

dãi tỏ sự tình

Phật từ bi quảng độ chúng sinh,

Sƣ đức hạnh thủ trì trai giới.

69 Bề cúc dục thâm vi trọng đại/việc luân hồi na miễn khiên diên: công ơn nuôi dƣỡn là sâu nặng to

lớn, việc luân hồi sao khỏi vạ lây. Ý nói cha mẹ vì nuôi nấng con cái mà không tránh khỏi tạo tác các nghiệp

121

Bề cúc dục thâm vi trọng đại, Việc luân hồi na miễn khiên diên69

Họ chúng tôi cảm đến tổ tiên,

Vì vậy phải thỉnh sƣ [18] tý hựu.

Lễ tuy bạc tấc lòng thậm hậu,

Ơn tôn ông đa thiểu tùy tình.

Cúng tiền nay chƣ Phật chứng minh,

Để tôn ông nhật trình hành lý.

Thảo Mã viết:

Thậm hỷ, thậm hỷ,

Thiện tai, thiện tai!

Kim Mã viết:

Quá ngán, quá ngán, quá ngán!

Thực ghê tên Cỏ Ngựa, toan làm kẻ cả.

Chỉ biết đƣờng Thảo Mã,

Không biết đƣờng hồ thỉ can qua.

Lƣơng thực muốn nại hà,

Can chiến trận hồn phiêu phách lạc.

Chúng anh đây sắc vàng gƣơm bạc,

Dãi tuyết sƣơng chƣa dễ hơn lƣơng.

Tuồng chi mày cỏ ngựa nhái chàng,

Lƣơng lại muốn gấp năm gấp bảy.

Thảo Mã viết:

Ủy ủy!

Chú xuất hành thì 亻+ 綿 cũng trảy,

Chú mắng ai thảo ngựa nhái chàng.

lành dữ khác nhau, nên khó tránh khỏi tội khiên luân hồi, vì công ơn to lớn nhƣ thế nên con cái ngày nay cần

lập đàn chay cứu độ mẹ cha.

122

Miễn cho chú dũng mãnh uy cƣờng,

Rày mai lại sa cơ thất thế.

Chú chẳng nhớ đời [19] vua Bình đế

Vƣơng Mãng ra đoạt vị quyền hành.

Đến sau vua Quang Vũ khởi binh,

Diệt Vƣơng Mãng Mãng liền kinh chạy

Cỏ ngựa 亻+ 綿 đến liền nắm gáy,

Đem về dâng trƣớc mặt cửu trùng.

Phong cho là đệ nhất quân công,

Cứ việc cỏ tài đâu đƣợc thế.

Kim Mã viết:

Thôi thôi đừng kể lể

Anh em ta sắm sửa đăng trình,

Dời chân bƣớc lên đƣờng một vãn.

Vãn ca

Phụng chỉ truyền lộ đồ sƣơng tuyết,

Bái tạ từ Kim khuyết dời chân.

Trống tùng mõ điểm khao quân,

Ngựa dong cờ phất dần dần trẩy ra.

Nam mô hai chữ Di Đà,

Hiếu trung hằng giữ gian tà lánh xa.

Ngọn cờ thẳng trỏ Diêm la,

U minh cách trở đƣờng xa dặm ngàn.[20]

Sơn nguy nguy thủy sàn sàn,

Biết đâu là nẻo u quan minh đồ.

Ba mƣơi sáu cửa Phong đô,

Thành trì nghiêm cẩn tù đồ kiên lao.

123

Phiền quan Điển ngục Minh tào,

Sai quân mở cửa để trao lệnh truyền.

Lƣu ân giáng phúc vẹn tuyền,

Tớ thầy dong ngựa tới miền Phong đô.

Bạch vân:

Xin Tôn sƣ lui vào Phƣơng trƣợng,

Cho thần hạ phụng mệnh thi hành.

Nhiễu đàn ngoài tam táp lập vu đàn trung.

Kim Mã viết:

Nay đây đã đến chốn Diêm La,

Tƣờng Điển ngục cấp sai quân ra mở cửa.

Điển Ngục viết:

Mỗ đây quyền cấm phòng thủ ngự,

Quân nào đội mở cửa đó mà.

Bắt cho đƣợc giam lại chớ tha,

Rồi đem nộp kẻo mà đắc tội.

(Ngục tốt dữ Kim Mã chư quân phân đạo, đồng nhiễu đàn [21] tam táp,

tương kiến gian)70

Điển Ngục viết:

Quân nào đó phải nói cho ta biết,

Kẻ dữ hay ngƣời lành?

Hoặc phải là gian nghịch đích tình,

Thời ta cứ y nhƣ quân hiến.

Kim Mã viết:

Chúng tôi đây vâng lời Phật khiển,

70 Ngục tốt cùng với các quân Kim mã chia thành 2 đƣờng, đi nhiễu xung quang đàn ngục ba vòng,

đến lúc gặp nhau thì dừng lại

124

Tê sắc văn phi đệ Diêm vƣơng.

Trình các quan Điển ngục xem tƣờng,

Xin phóng xá tù đồ cấm cố.

Kim Mã viết:

Chuyển giao ngọc sắc dữ sứ quân,

Điển Ngục nhận lĩnh sắc tất.

Viết:

Thừa mệnh phụng hành.

Chiếu sắc văn phóng xá can danh, Giải thích hết kẻo vi Từ chỉ71.

Tái tẩu mã phần sắc tịnh mã vu tịnh xứ tán vân:

Hƣơng phụng tống, tây thiên Kim mã Dịch lại đại tƣớng quân.

Bất xả uy quang giáng đạo tràng,

Tốc đáo phong đô địa ngục môn.

Xá hựu thử u hồn. Đăng vân lộ v v…72

71 Chiểu theo giáo sắc mà thả những kẻ phạm tội, phóng thích hết kẻo trái với chỉ dạy của đấng Từ tôn

(đức Phật)

72 Rồi Tẩu mã hóa (đốt) tờ Sắc và vàng mã ở chỗ đất sạch rồi tán tiếp rằng: hƣơng xin tiễn Tây thiên

Kim mã Dịch lại đại tƣớng quân, không bỏ uy quang mà giáng ngữ nơi đạo tràng này, nhanh đến cử Địa ngục

chốn Phong Đô, thả cho hết những u hồn này….

125

Tất. [22]

Bài 3. CHÈO THUYỀN BẢN73

Xướng vân

Càn khôn hanh thái,

Nhật nguyệt quang minh.

Vận thái bình nhất lộ phúc tinh,

Hàng lê thứ muôn dân tôn Phật.

Đàn tuất đã hồ mãn tất,

Lắng nghe tôi dẫn tích huyết hồ.

Bà Thanh Đề quê ở Mộ Châu,

Lòng độc dữ thế gian vô nhị.

Khi nguyệt tín cùng ngày sinh đẻ,

Đem áo quần giặt cận giếng sông.

Khí hôi tanh phạm đến thủy cung,

Nhật thần đã chủ biên tằng tội.

Bà Thanh Đề ngày sau trăm tuổi,

Xuống cửu tuyền phải hãm ngục trung.

Chân đeo cùm cổ lại mang gông

Đầu đội máu lấy làm khổ nhục.

Con là tiểu, tiểu xƣng là Bốc, Trƣởng hiệu Mục Liên74.

73 Chèo thuyền bản: Nội dung có liên quan tới khoa cúng Huyết hồ và tích truyện Đƣờng tam tạng đi

nhờ thuyền không đáy qua sông để sang cõi Tịnh Độ.

74 Con Bà Thanh Đề khi ở nhà tên là La Bốc, lúc lớn lên đầu Phật xuất gia hiệu là Mục Kiền Liên

126

Từ ngày mẹ phút trở gót tiên,

Lòng thƣơng nhớ năm canh chẳng nhắp.

Quyết lòng tu tập,

Đắc pháp nhiệm mầu.

Trên tay [23] cầm nhất quả minh châu,

Chiếu địa ngục thiên trùng phá tán.

Cứu đƣợc mẹ thoát ly khổ nạn,

Lại đƣa về chầu Phật tây thiên.

Ấy thuở xƣa những đấng thánh hiền,

Cũng vì bởi đền ơn cha mẹ.

Huống chi ta là ngƣời dƣơng thế,

Cũng phải lo giả nghĩa sinh thành.

Tội huyết hồ há phải mẹ sinh,

Cũng vì bởi sinh con nên thế.

Con cháu đã có lòng hiếu nghĩa,

Ơn Phật trời ngƣời đã chứng tri.

Huyết hồ thời hóa tác Liên trì,

Vong hồn ắt xuất ly Địa ngục.

Còn hiềm khúc thế này

Sao Hiềm khúc

75 Ái hà thiên xích lãng/ khổ hải vạn trùng ba/ dục miễn sinh Tịnh độ/ cấp cấp niệm Di Đà: 愛河千尺

浪 苦 海 萬 重 波 欲 免 輪 迴 苦 急 急 念 彌 陀 : Sông ái dài muôn dặm, Biển khổ sóng chập chùng,Muốn

thoát luân hồi khổ Mau mau niệm Di Đà (愛河) Sông yêu. Còn nói là Tình thiên dục hải (tình trời dục

biển). Ái dục làm ngƣời chìm đắm nên dùng sông để thí dụ. Ngoài ra, tâm tham ái, nắm chặt vật mà không

rời, cũng nhƣ nƣớc thấm vào vật, nên cũng dùng nƣớc sông để ví dụ ái dục. (苦海) Biển khổ. Chỉ cho thế

giới có nhiều khổ nạn, cũng tức là 3 cõi 6 đƣờng, sống chết vòng quanh. Chúng sinh chìm đắm trong sự khổ

127

Ái hà thiên xích lãng, Khổ hải vạn trùng ba75

Muốn qua sông chầu Phật Di Đà,

Muôn duyên phải tâm vô quải ngại.

Nhớ trong truyện tiền nhân truyền lại,

Có một ông tên gọi Sãi Công

Phật ban [24] cho một chiếc thuyền đồng

Thuyền ấy gọi là thuyền Bát Nhã.

Ông ấy cũng là ngƣời đức dạ,

Vốn xƣa nay vẫn chở đò ngang.

Tỏ nghe rằng khách một nhỡ nhàng,

Tiền đò đủ một quan hai quí.

Dẫu có tổn trai gia đừng nghĩ,

Có chữ rằng vô vật bất linh.

Cấp đƣa ra chớ có chùng chình,

Việc sông nƣớc không nên trì hoãn.

Hò vân :

Chớ nào là ông Sãi công!

Ông đi đâu để bến lạnh lùng

Hay là ngủ xin ông hãy dậy.

Sãi công viết:

Ủa tiếng ai ngoài ấy,

Gọi Sãi có việc chi?

Thức cả đêm vừa mới nhắp đi,

Làm cho Sãi mắt thì cay trách.

Trình vân:

não của 3 cõi, mông mênh mờ mịt, không bờ không bến, giống nhƣ ngụp lặn trong biển lớn khó thoát ra

đƣợc, cho nên dùng biển cả vô biên để ví dụ.

128

Trình ông sãi:

Tôi cũng là ngƣời bên Thích,

Vốn xƣa nay thực tính nhân hiền.

Muốn qua sông về cõi Tây thiên,

Xin ông hãy [25] chở thuyền sang đón mới

Sãi xuất khà khà:

Lênh đênh duyên nổi phận bèo,

Tránh sao cho khỏi nƣới triều đầy vơi.

Ấy ai nói những tiếng khó nghe.

Đi đâu còn sớm không về,

Đêm khuya khoắt Sãi không chở nữa.

Trình:

Trình ông Sãi,

Xin ông đừng lời giận dữ

Vả tôi nay là kẻ hiền lành.

Có chữ rằng lân mẫn chúng sinh,

Xin ông hãy đƣa sang làm phúc.

Sãi:

Già tuổi tác lão hay nói thực,

Song còn hiềm sông nƣớc đêm khuya.

Chèo sang ắt phải chèo về,

Già yếu đói trong lòng còn mỏi.

Nói ra ngƣời cƣời xấu thói,

Nỗi lòng không ắt rã tay chèo.

Hãy dừng chân đứng đợi ít lâu,

Để sãi kiếm chút chi lót dạ.

Trình:

129

Trình ông Sãi,

Ông đã có lời nói sất,

Tôi xin thƣa sự [26] thực ông hay.

Ông hãy sang cho đến bên này

Đủ oản chuối dâng ông thụ phúc.

Sãi đại tiếu viết:

Ấy già hãy còn có lộc,

Ấy mới gọi là may.

Không nói ra nào có ai hay,

Việc oản chuối lão nay sở thích.

Chớ cƣời lão quê mùa cục kịch,

Lắng tai nghe lão dẫn cho hay. Vua Thần Nông76 ngƣời dạy cấy cày,

Cũng vì bởi thƣơng dân đói khát. Thuở Nghiêu Thuấn77 tiền gạo ban phát,

Cũng vì thƣơng già yếu cơ hàn.

76 Vua Thần Nông: Vị vua thời tối cổ, dạy dân làm ruộng, 1 trong ba vị hoàng đế thời tối cổ ở Trung

Hoa gồm Phục Hi, Thần Nông, Hoàng đế

77 Thuở Nghiêu Thuấn: Vua Nghiêu đời Đƣờng và vua Thuấn đời Ngu, hai vị thánh quân đƣợc ngƣời

đời ca tụng, thuở 2 vị vua trị vì đất nƣớc thái bình, thịnh trị, đƣợc coi là chuẩn mực cho các thời đại phong

kiến,

78 Thủ ngao thƣơng túc: lấy thóc ở đất Ngao Thƣơng, khi hai bên Hán - Sở tranh đấu, quân hán thua

trận phải xây đƣờng ống qua hoàng hà để về lấy thóc ở đất Ngao Thƣơng; nhƣng quân Sở của Hạng Vũ lại

kéo tới, phá đƣờng ống đó chặn đƣờng lƣơng thực của quân Hán làm quân của Lƣu Bang phải khốn đốn…

79 Hạng Vũ: (232-202TCN) tên là Tịch, tự Vũ là tƣớng của nƣớc Sở, ông là một nhà chính trị, là cháu

của danh tƣớng nƣớc sở Hạng Yến, năm 7 tuổi theo thúc phụ Hạng Lƣơng sang nƣớc Ngô, khi nƣớc Tần có

130

Ông Bái Công trƣợng nghĩa bình tàn, Thì cũng phải thủ ngao thƣơng túc78. Ngài Hạng Vũ79 cậy tài phá trúc,

Bỏ ngao thƣơng nào có hay chi. Đến Cố Lăng80 thân bị trùng vi

Cũng vì bởi binh bì thực tận. Vua Hán Vƣơng81 ngày sau thắng trận

Cũng vì chƣng thực túc binh cƣờng.

Ấy những [27] tài tranh bá đồ vƣơng,

Thời cũng phải lấy ăn làm trƣớc.

Huống chi lão đêm khuya sông nƣớc,

Nỗi lòng không có mạnh chi già.

Lời thế gian ngƣời đã đặt ca,

Hễ có thực mới vực đƣợc đạo.

Quí khách đã có lòng kính lão,

Âu là ta gắng sức ra công.

Quyết chèo sang đón khách qua sông,

Sau mới đƣợc ngao du sơn thủy.

Xướng

biến thì ông khởi binh phản Tần, đƣợc Sở Hậu Hoài Vƣơng phong là Lỗ công, năm 207 TCN trong cuộc

chiến Cự Lộc, Hạng Vũ thống lĩnh 5 vạn đại quân phá tan 40 vạn đại quân của Tần, đánh dấy sự bại vong của

nƣớc Tần hùng mạnh, vị vua cuối cùng của nhà Tần cũng tự giáng xuống là tần Vƣơng không dám xƣng là

Hoàng đế. Hạng Vũ dấy binh đƣợc 3 năm, thống lĩnh 6 nƣớc chƣ hầu diệt nhà Tần, nổi tiếng với sự kiện đốt

cung A Phòng. Sau đó phân chia thiên hạ cho chƣ hầu và tự xƣng là “Tây Sở Bá Vƣơng”. Năm 206 TCN,

Hán vƣơng Lƣu bang tiến quân đánh Hạng Vũ, Hán và Sở tranh đấu khoảng 4 năm, cuối cùng Hạng Vũ thua

trận mà tự tử tại Ô Giang. Hạng Vũ đƣợc tôn xƣng là bậc tƣớng quân dũng mãnh trong lịch sử Trung Hoa,

các nhà sử gia gọi ông là “Vũ chi thần dũng, thiên cổ vô nhị” và “bá Vƣơng là từ chỉ cho Hạng Vũ. Ông còn

là ngƣời đƣợc đi vào trong văn, đƣợc ngƣời ta ngƣỡng mộ nhƣ bậc anh hùng hơn là Lƣu Bang.

80 Cố Lăng: Một địa danh trong cuộc giao chiến giữa quân Hán và quân Sở, nay là Hà Nam -Thái

Khang- Trung Quốc

81 Hán vƣơng: Hán Cao tổ đã đánh bại Sở Bá Vƣơng Hạng vũ và các chƣ hầu lập nên nhà Hán

131

Bán điểm trần ai vô thiếu lũy,

Nhất sinh tiên cảnh hữu dƣ nhàn82

Hò khoan

Cầm sào chở chiếc thuyền ra,

Trăng thanh gió mát khéo là có duyên.

Bây giờ hồn bƣớc xuống thuyền,

Thuận buồm xuôi gió băng miền Tây thiên.

Quyết lòng chở khách hữu duyên,

83 Sát na: (kasna) Hán dịch là tu du, niệm khoảnh, là khái niệm chỉ cho thời gian rất ngắn, giây lát,

nhanh hơn chớp mắt

84 Địa Tạng vƣơng: xem chú thích số 24 trang 8

132

Thuyền từ nhẹ mái đƣa lên tây cù. Thung dung khoái lạc ngao du, Tự nhiên tống thực thiên trù dƣờng bao. Bữa thƣờng sẵn [28] có tiên đào, Bây giờ hồn đƣợc tiêu dao trăm đƣờng. Hộ trì bát bộ kim cƣơng, Sắp hàng tả hữu rõ ràng uy linh. Bây giờ tuệ tính quang minh, Tiêu dao tự tại thanh danh an nhàn. Vong hồn gội đức từ nhan, Bể bay chèo quế buồm lan đƣa về. Sát na83 vƣợt khỏi sông mê, Vân trình thẳng trỏ đƣờng về am thanh. Ở lành thì lại gặp lành, Dẫu mà lên thác xuống gành quản chi. Đã có đức Phật độ trì, Đón hồn về cảnh lƣu ly khác thƣờng. Đội ơn đức Địa Tạng vƣơng84 Minh đồ cứu bạt ngục đƣờng tan không. 82 Xƣớng bán điểm trần ai vô thiếu lũy, Nhất sinh tiên cảnh hữu dƣ nhàn:

Mặc dầu chơi cảnh non bồng, Mặc dầu bạn mới Xích Tùng85 sánh đôi. Non tiên cảnh Phật bầu trời, Yên hà là thú chơi bời ngao du. Ái hà nghìn thƣớc sóng sô, Có [29] thuyền Bát nhã là đò Tây qui. Đã có chƣ Phật phù trì, Đƣa hồn về cảnh từ bi an thiền. Này đây đã đến tây thiên, Hồn lên cõi Tịnh, Sãi xin trở về. Bây giờ nam bắc phân kì, Hồn đăng thƣợng phẩm liên trì hóa sinh. Hồn rày chầu Phật nghe kinh, Sãi về chốn cũ thích tình ngao du. Áo lục thù Phật cho hồn mặc, Bạn đồng du ngũ lão bát tiên86. Vong hồn đƣợc tự nhiêu siêu thoát, Con cháu thì khang cát dài lâu.

85 Xích Tùng: 赤松 thông đỏ, “hắc tùng” 黑松 thông đen, Cây thông đến mùa lạnh vẫn xanh, nên

mới ví nó với ngƣời có khí tiết hoặc ngƣời sống lâu. Câu này ý nó giao thiệp vui với những ngƣời giữu khí

tiết, dạo cảnh thanh nhàn.

86 Ngũ lão bát tiên: Bát Tiên là những vị tiên đƣợc tôn sùng bởi những ngƣời theo Đạo giáo và là một

thành tố đƣợc biết đến rộng rãi của văn hoá Trung Hoa. Ngƣời ta cho rằng họ sống ở đảo núi Bồng Lai. Gồm

có 8 vị là Lý Thiết Quải cƣỡi bạch tƣợng; Hán Chung Ly cƣỡi Nai tiên; Lã Động Tân cƣỡi Hạc tiên; Trƣơng

Quả Lão cƣỡi Lừa ngƣợc; Lam Thái Hòa cƣỡi mây; Hà Tiên Cô cƣỡi chim Phƣợng hoàng; Hàn Tƣơng Tử

cƣỡi chim Công; Tào Quốc Cữu cƣỡi Mai Hoa Lộc. Ngũ Lão: Thanh Linh Thủy Lão Thƣơng Đế Quân; Đan

Linh Chân Lão Xích Đế Quân; Hạo Linh Hoàng; Lão Bạch Đế Quân; Ngũ Linh Huyền Lão Hắc Đế Quân;

Nguyên Linh Nguyên Lão Hoàng Đế Quân

133

Kỷ Sửu hạ/ Xuân Lôi Tự tân san [30]

Bài 4. TRIỆU LINH THÁN

Hỡi ôi!

Con ngƣời ta sống ở trên đời,

Khác chi nhƣ chiếc thuyền trôi.

Lênh đênh mặt nƣớc,

sớm xuôi tối ngƣợc,

Mạn nọ bến kia.

Phỏng có vỡ lìa,

Còn hòng sửa lại.

Cái thân tứ đại,

Chịu mệnh chƣng trời.

Bồng đảo xa chơi,

Muôn điều tiếp hết.

Theo lời tiên triết,

Nhủ bảo hồn hay.

Mệnh đã thác nay,

Trăm đƣờng tiếp vậy.

Hỡi ôi!

Con ngƣời ta sống ở trên đời,

Khác chi nhƣ ong làm tổ.

Sớm mai hăm hở,

Bay khắp gần xa.

Tìm mọi thức hoa,

Đem về gây mật.

Đủ no mọi vật,

134

Mùi ngọt mùi cay.

Giành để tổ đầy,

Dƣỡng nhàn sẵn đó.

Trăm hoa góp đủ,

Tổ cả mật đầy.

Ai ngờ ngày nay,

Gió mƣa da dã.

Bay tan tất tả,

Làm [31] tổ luống công.

Vì trận cuồng phong,

Cái con tan tác.

Thân ngƣời chẳng khác,

Nhƣ thể loài ong.

Rày có mai không,

Sự đời thế vậy.

Hỡi ôi!

Con ngƣời ta sống ở trên đời,

Nên biết rằng: ơn sâu bác mẹ có lúc phân ly,

Nghĩa cả vợ chồng chung qui hữu biệt.

Loài ngƣời nhất thiết,

Nhƣ điểu đồng lâm.

Gió cả ầm ầm,

Lạc đàn tan tác.

Chi bằng Cực lạc,

Giải thoát vi tông.

Phật thuyết sinh không,

Tử lại hoàn không.

135

Sự đời là vậy!

Bài 5. PHỤ LINH PHAN LUYỆN VĂN Tứ cú thượng trung nguyên dụng, tứ cú hạ thông dụng87

(Trung nguyên dụng) Hạ qua sang tiết thu thiên,

Kim phong hây hẩy Trung nguyên tiết lành.

Địa quan xá tội rành rành,

Tìm đƣờng báo đáp thân sinh một tuần.[32]

(thông dụng) Hƣơng từ thơm sực rừng thiền,

Tấc thành cũng thấu Phật thiên chứng tình.

Mắt phàm khôn tỏ u minh,

Tìm đƣờng báo đáp thân sinh một tuần.

Tâm hƣơng mật đảo ân cần,

Thỉnh mƣời phƣơng Phật hiện thân giáng đàn.

Trƣớc đà Phát tấu Biểu quan,

Tụng Kinh Sám hối cho an tấm lòng.

Bây giờ thầy mới triệu vong,

Linh thiêng tốc giáng đàn trung tức thì.

Việc đời chớ tiếc làm chi,

Khấu đầu lễ Phật rồi thì nghe kinh.

Mƣời phƣơng chƣ Phật chứng minh,

Phóng quang tiếp dẫn đƣợc sinh thiên đƣờng. Song le88 con cháu nhớ thƣơng,

Nỗi niềm tâm sự tƣ lƣờng khôn thay.

87 Bốn câu trên dùng trong tiết Trung Nguyên (tiết rằm tháng 7) bốn câu dƣới dùng thông dụng các

khoa cúng tuần thất, tuần 49, lễ cầu siêu…

88 Song le: là từ cổ có nghĩa là “nhƣng mà”

136

Cho nên thiết lập đàn chay,

Linh hồn có biết thảm89 này hay không.[33]

Từ ngày hồn xuống âm cung,

Tử sinh khác lối khôn thông thăng trầm.

Muôn sầu nghìn thảm âm thầm,

Cửa nhà vắng vẻ biết nhằm cậy ai.

Muôn trông Phật tổ bi ai,

Chƣ đại Bồ tát vân lai chứng đàn.

Hồn thiêng tốc giáng thần phan,

Triệu linh tốc giáng trai đàn,

Cam lòng con cháu lập đàn báo ân.

Xuống cùng tộc thuộc tông thân,

Kẻ xa ngƣời gần hồn có yêu ai.

Thần phan rủ đến từng ngƣời Linh hồn than với từng ngƣời90

Cũng nhƣ thuở sống qua chơi chớ nề. Nhớ hồn nên vội hàm bi91

Tang thƣơng sao nỡ biến di cuộc đời.

Nỗi niềm đất hỡi trời ơi,

Vàng nan áo giấy mà ngƣời thì không. Trông lên chỉ thấy vị vong92,

Bao giờ cho thấy hình dung nhƣ là.[34]

89 Thảm: thảm cảnh, nghĩa nhƣ “cảnh này hay không”

90 3 câu này ý nói, khi lễ triệu linh, pháp sƣ sẽ cầm cành phan, rủ cành phan ấy vào từng ngƣời trong

gia quyến, nếu linh hồn hợp ai thì có thể nhập vào ngƣời đó trong gia đình.

91 Hàm bi: Ngậm buồn

92 Vị vong: Bài vị của vong linh

137

Bao giờ cho thấy vào ra,

Cửa nhà vắng vẻ biết là vì đâu.

Khi phấp phới lúc dầu dầu,

Linh phan một đỉnh biết hầu làm sao.

Nƣớc mắt chảy nhƣ mƣa rào,

Đau lòng thảm thiết trời cao đất dày.

Cho nên mới dựng đàn chay,

138

Muôn nhờ Phật tổ hồn rày siêu sinh.

Bài 6. KHAI QUANG TẨY UẾ NGHI

(Cáo viết tiên niệm chú tẩy uế tất, thứ dụng dương liễu nhất chi, cân

nhất điều, tiền nhất bách văn, hương thủy nhất trản, minh kính nhất diện, chú

viết.)

Bảo rằng trƣớc là niệm chú tẩy uế, sau dùng 1 cành dƣơng liễu, 1 chiếc

khăn đỏ, tiền 100, nƣớc hƣơng 1 chén, gƣơng soi 1 chiếc đọc chú nhƣ sau

Âm: Thanh thanh chi thủy, Tạm dịch: Nƣớc xanh xanh

Liểu liểu hoa khai. Hoa thăm thẳm

Trung tàng bắc đẩu, Giữa chứa Bắc đẩu,

Nội ẩn tam thai. trong ẩn Tam thai

Thần thủy giải uế, nƣớc thần giải uế

Họa khứ phúc lai. họa khứ phúc lai

Úm lam sa hạ (tam biến). Úm lam sa hạ (tam biến).

Nhất sái thiên thiên thanh, Một rảy trời trời xanh

Nhị sái địa địa linh. Hai rảy đất đất linh

Tam sái nhân nhân trường sinh, Ba rảy ngƣời ngƣời trƣờng sinh

Tứ [35] sái quỉ quỉ tiềm hình. Bốn rảy quỷ quỷ tàng hình

Ngũ sái tà tà tẩu tán, Năm rảy tà tà chạy tán

Lục sái ban ban thanh tịnh. Sáu rảy nơi nơi đều thanh tịnh

Nam Mô Ly Cấu Địa..vân vân Nam mô Ly Cấu Địa….

xướng vân:

Đại khai trí kính minh như nhật, khai quang trí sáng nhƣ ánh

Thước phá hôn cù thế giới trung. mặt trời

Nhất niệm liễu nhiên siêu bách ức, soi phá tối tăm trong thế giới

Quang khai vạn vật tổng giai không. một niệm hiểu rõ siêu thoát

Nam mô khai bảo kính… vân vân trăm ngàn

139

sáng khắp muôn vật đều là

không

Hương thư nhập kính Án Lam (bằng chữ phạn) quang minh biến chiếu

hương thư nhập thủy Án lam (bằng chữ Phạn)

Xướng vân:

Ngã kim quán mộc chƣ Nhƣ Lai,

Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ.

Ngũ trƣợc chúng sinh linh ly cấu,

Nguyện chứng Nhƣ Lai tịnh pháp thân.

Án chiết lệ chủ lệ chủ lệ chuẩn đề sa bà ha (tam biến).

Tạm dịch: nay con được tắm cho Như Lai

Trí tuệ trang nghiêm công đức lớn

Ngũ trược chúng sinh lìa trần cấu

Nguyện chứng Như Lai tịnh pháp thân

Án chiết lệ chủ lệ chủ lệ chuẩn đề sa bà ha (tam biến).

Tuy nhiên, Ngũ nhãn thông quán chiếu,

Nhân tƣ bệnh mục kiến không huê.

Kim nhật hoàn cừ cựu quang thể,

Bích mâu xán xán chiếu trần sa. (hương thư ….)[36]

Úm tát rô tát rô, tam mãn đá tát nhất rô, vĩ tuất đà ninh sa bà ha (tam

biến quán mộc tất)

Tuy nhiên, năm nhãn quán chiếu thông nhau

Do nay mắt bị bênh mà không thấy hoa

Ngày nay trở lại ánh sáng lớn xưa

Mắt xanh biếc long lanh thấy rõ trần sa

Cung văn.

Phật cụ lục thông minh minh bất ngại,

140

Thánh khai ngũ nhãn hách hách vô tƣ.

Bản nhiên tự hữu linh quang,

Điêu trác khởi do nhân lực.

Cung kính nghe rằng:

Đức Phật có đủ lục thông, sáng tỏ không chướng ngại

Bậc Thánh mở năm mắt, chói lọi không suy nghĩ

Vốn sẵn tự có linh quang

Mài Ngọc đều do sức người

Chân thân vô tƣớng tiên tịch tƣớng,

Hậu dĩ chứng chân diệu đạo vô ngôn.

Thủy nhân ngôn chung qui chí diệu,

Thí nhƣ không cốc hồng âm.

Chừng giang hạo nguyệt kim tắc.

Trƣợng thừa lục trí,

Khai điểm ngũ mâu.

Ban ban phi ngại phi thông,

Hách hách nhƣ thiên nhƣ nhật.

Hội kiến nhân nhân giai cụ túc,

Tòng tƣ vật vật tổng viên thông.

Giáo hữu khai quang chân ngôn cẩn đƣơng phúng tụng.

[37] Phụng thỉnh Nhƣ Lai điểm khai thiên nhãn, nhục nhãn, pháp nhãn,

tuệ nhãn.

Phật nhãn chiếu quang minh,

Thiên nhãn thông phi ngại.

Nhục nhãn ngại phi thông,

Pháp nhãn do quan tục.

Tuệ nhãn trực duyên không,

141

Phật nhãn nhƣ thiên nhật.

Chiếu dị thể hoàn đồng,

Viên minh pháp giới nội,

Vô xứ bất hàm dung,

Nhân nhân giai cụ túc,

Vật vật tổng viên thông.

Đính môn khai điểm xứ,

Tòng giáo hóa mãn không.

Dung nhan thậm kỳ diệu,

Quang minh chiếu thập phƣơng.

Ngã tích tằng cúng dàng,

Kim phục hoàn thân cận.

Thánh chúa thiên trung vƣơng,

Già lăng tần già thanh.

Ai mẫn chƣ chúng sinh,

Cố ngã kim đính lễ.

Quang minh biến chiếu thiên tôn.

142

Khai Ngũ nhãn vân vân…. [38]

Bài 7. KHAI QUANG VONG LINH NGHI

Niệm chú tất…

Nhất sái nhãn thường kiến thập phương Phật, nhị sái nhĩ thường văn

thập phương pháp, tam sái linh thân tâm giai thanh tịnh.

Đại khai trí kính chiêu nhƣ nhật

Thƣớc phá vi trần xán lạn sinh

Nhất tính liễu nhiên siêu bách ức

Lục trần thanh tịnh biến quang minh

Khai bảo kính vân vân…dĩ hương thư nhập kính diện Án lam (bằng chữ

phạn)

Tuy nhiên, Ngũ nhãn thông quán chiếu

Nhân tƣ bệnh mục kiến không hoa

Kim nhật hoàn cừ cựu quang thể

Bích mâu xán xán chiếu trần sa

Án tát lỗ …vân vân…chiếu kính hương thư nhân; tam thứ như chi.

U sảng linh hồn tri bất tri

Hảo bằng tri kính điểm khai nghi

Nhất chân bất muội linh nhi sảng

Ngũ nhãn thông quan hiển cánh vi [39]

Bảo kính viên minh thƣờng biến chiếu

Chân hình tốc hiện đổ quang huy

Tƣ bằng bí ngữ gia trì lực

Tảo tảo hồi đầu thị độ nhi

Thiết dĩ, âm dƣơng chiếu diệu, nhật nguyệt trừng quang, thiên đạo nhân

luân, tịnh đồng nhất lý, phàm tình thánh ý, tổng qui nhất tâm. Tƣ hữu tín chủ

mỗ…phục vị mỗ… linh ƣ .mỗ…nguyệt nhật, giới đƣơng mỗ…tiết chi thời. Dục

143

sảng linh hồn, phân minh chiếu điểm, do lực mê vân ám tế, lục thức hôn

mông, tu bằng tuệ kính khai quang ngũ mâu chiếu kiến, tiên khai lục thức ngũ

uẩn giai không, thứ điểm ngũ mâu lục trần thanh tịnh, thƣờng tƣơng trí kính

biến chiếu quang minh, đại chúng kiền thành gia trì giáo pháp, giáo hữu khai

quang chân ngôn cẩn đƣơng phúng tụng. [40]

Khai nhãn, nhãn thần thông minh hiện

Khai nhĩ nhĩ thần thông minh thính

Khai tị tị thần thông minh khứu

Khai thiệt thiệt thiệt thần thông minh thƣờng;

Khai thân thân thần thông minh tịnh;

Khai ý ý thần thông minh linh;

Dung nhan thậm kì diệu

Quang minh chiếu thập phƣơng,

Ngã kim khai lục thức,

Vong giả sảng linh hồn,

Quang minh biến chiếu thiên tôn.

144

Nam Mô Khai Lục Thức Bồ Tát Ma Ha Tát.

Bài 8. CÁC BÀI TÁN

BÁT NHÃ TÁN

Bát nhã thị chƣ Nhƣ Lai mẫu,

Tiêu trừ bát nạn tam tai khổ.

Thiên cung niệm trụy đỉnh sinh vƣơng,

Hạ giới tụng linh ban túc ngộ.

Phúc giáng ân lƣu nguyện đại bi,

Thời hƣng đạo thái dân an đổ.

Thử kinh phó chúc cổ đế vƣơng,

Năng dữ quần sinh tác y hỗ. [41]

Nam Mô Trường Thọ Vương Bồ Tát Ma Ha Tát.

LỤC CÚNG TÁN

Chân hƣơng ngũ phận bảo lƣ phần,

Hoa nhị phân phƣơng ngọc án trần.

Đăng tâm bất muội thƣờng viên giác,

Trà vị vô trần hải chính chân.

Quả thục kì viên vƣu quí trọng,

Thực trình thiền duyệt phối châu trân.

Nhất niệm cảm thông chƣ quốc độ,

Nguyện thùy nạp thụ bá từ ân. Nam Mô Lục Cúng Dàng Bồ Tát Ma Ha

Tát.

AN VỊ TÁN

Chƣ Phật Bồ tát hiện chân hình,

Hộ pháp long thiên ứng khẩn tình.

145

Vạn thánh thiên hiền lai giám cách,

Từ bi bất xả tác chứng minh. Nam Mô Vân Lai Tập Bồ Tát Ma Ha Tát

[42]

BÀI 9. THỈNH ÂM HỒN VĂN DỤNG QUỐC ÂM

Xuân Lôi tự tân san

Từng mảng93 rằng,

Thiện ác bởi lòng,

Phật ma khác giới.

Tử sinh hữu mệnh, lòng chẳng hay nhẫn nhục từ bi,

Nhân quả tùy ngƣời, thác cho phải luân hồi vật vã.

Trên đã dâng Tam Bảo thánh thần,

Dƣới lại tỉnh mƣời loài cô quả.

Thí chủ nay lễ bạc lòng thành,

Trầm hinh giám quang lâm đàn hạ.

Cảm ơn đại sĩ hiện thân,

Nhờ đức A Nan khai hóa.

Thuyền Bát nhã là thuyền chở phúc, Ai hữu duyên tấn tốc yêu nghinh94.

Cửa từ bi là cửa độ sinh, Bậc thƣợng thiện tinh linh thân chá95.

Kìa nhƣ:

Ngọc diệp kim chi,

Công khanh tƣớng tá.

Mở mang bờ cõi lập qui mô, dụng võ dụng văn,

93 Mảng: Từ cổ nghĩa là “nghe”

94 Yêu nghinh: đón rƣớc

95 Thân chá: thân gần để học hỏi

146

Gìn giữ thảo ngay bề trung nghĩa, ghi lòng ghi dạ.

Gặp buổi tang thƣơng biến hóa,

Những đắng cay cám cảnh ngậm ngùi.

Tƣởng [43] khi xã tắc đổi dời,

Càng thảm thiết thƣơng thay buồn bã.

Nọ thì tƣớng sĩ đảm đƣơng, lƣợc thao đon đả, dẹp tây đánh bắc.

Thuở sa cơ bại trận càng thƣơng, vực nƣớc yên nhà.

Khi giả nghĩa liều mình xông phá.

Thoát thấy cờ sai cắm trỏ,

Mây sầu tuôn đôi đoạn mơ màng.

Vẳng nghe trống giục chiêng hồi,

Nƣớc mắt rỏ hai hàng ròng rã.

Giang sơn kìa biết mấy anh hùng,

Phong thổ nọ thực nhiều tài lạ.

Cảm thay hổ giảo xà thƣơng, tên rơi đạn xạ,

Ngậm ngùi không kẻ tế đơm,

Chua xót ai nhận mồ mả.

Trong non ngoài nội, biết bao nhiêu dầu dãi tuyết sƣơng.

Dƣới bể trên ngàn, kể sao xiết bộn bề chim cá.

Ấy ai khiến trai lành gái tốt,

Nghĩa vợ chồng bỗng phút xa quê.

Ấy ai thứ kẻ bắc ngƣời nam,

Đạo phụ tử đôi đƣờng phân ngả.

Thƣơng thay tai dịch lao đao, cơ hàn tất tả, miếng ăn manh mặc.

96 Thuốc dã: "bùa thiêng thuốc dã". "Dã" với nghĩa là khỏi, nhƣ "thuốc đắng dã tật", "dã rƣợu".

147

Nào [44] ai đem cơm sẻ áo nhƣờng, gối đất nằm sƣơng. Nào ai cứu phù thiêng thuốc dã96

Sa cơ phải nƣơng mình chốn khác,

Giá sƣơng lạnh lẽo thuở đông trƣờng.

Nhớ dƣờng nào biết gởi thân đâu,

Thần khí nặng nề nhƣ khói tỏa.

Vẳng trông chừng chim nhạn lạc đàn,

Buồn thấy nỗi cành ngô rụng lá.

Lại thƣơng kẻ mắc lao tù, ngƣời mang thai đọa.

Một mình than thở, khi lâm hình ít kẻ viếng thăm.

Nhiều nỗi oan gia, khi phận vãn không ngƣời khán quá

Ngậm ngùi thay trƣớc chẳng khéo tu,

Ngao ngán nhẽ sau nên vụng hóa.

Thƣơng thay khách dạo giang hồ, ngƣời buôn thủy bộ.

Thuyền đầy sóng cả, vậy cho nên mặt nƣớc lênh đênh.

Của trọng thân khinh, vậy cho phải quê ngƣời nấn ná

Lỗi mùa sinh nên lận đận phong sƣơng,

Xui đến nỗi phải chở giang đƣờng xá

Hỡi ôi ca xƣớng mỗi loài, ngao du mấy gã.

Đƣờng hòe dặm liễu, mải [45] vui nào nhớ sự cửa nhà.

Học đạo tìm thầy, chƣa ngộ đã say miền sơn dã.

Bằng ai còn trở chốn âm cung,

Hay là đã lên đƣờng vân giá.

Rày nhân thiết lập trai diên, phô trƣơng tài mã.

Hàn lâm khoáng dã, triệu chƣ linh nào quản trẻ già.

Âm giới dƣơng gian, thỉnh cả thảy nào nề quen lạ.

Bơ vơ góc bể bên trời,

148

Phảng phất đầu thành cuối chợ.

Khuyên mƣời loài trệ phách u hồn,

Cập nhất thiết phi đồ ác bộ.

Nay thời gái ở bên hữu, trai ở bên tả.

Cháo cơm dẫu có ít nhiều,

Ăn uống đều cùng thong thả.

Tụng chân ít biến nên nhiều,

Niệm bí chú không mà có cả.

Chẳng đƣợc cậy lớn mà tranh bé,

Ấy hãy còn tham chƣa đƣợc thỏa.

Đã qui y cải dữ về lành,

Nên hỷ xả tu nhân chứng quả.

Trƣớc đã nhờ giải thoát oan khiên,

Sau tiếp dẫn lên thuyền bát nhã.

Tìm [46] về nơi cõi tịnh nghỉ ngơi,

Lƣu đức trạch trừ tai ngừa họa.

149

Hoàn

BÀI 10. HỰU QUỐC ÂM VĂN.

(Từ tiết tháng bảy chí huống là cõi âm thất nguyệt dụng, tự niêm hương

thỉnh chí đó mà thương tâm thông dụng)

Tiết tháng bảy mƣa ngâu sùi sụt,

Gió heo may lạnh lọt xƣơng khô.

Não nùng thay mấy chiều thu,

Ngàn lau điểm trắng nhánh ngô rụng vàng.

Đƣờng bạch dƣơng bóng chiều man mác,

Ngọn đƣờng lê lác đác mƣa sa.

Lòng nào lòng chẳng thiết tha,

Cõi dƣơng còn thế huống là cõi âm.

Niêm hƣơng thỉnh cô hồn chƣ vị.

Diệu gia trì pháp khí tam thông,

Tấc thành kính đãi đàn trung.

Khắp mời nam bắc tây đông tinh hồn.

Kiêm thƣợng hạ càn khôn cấn tốn,

Trẻ cùng già trai gái biết bao.

Than rằng đất rộng trời cao,

Sao dời vật đổi biết bao nhiêu lần.

Dãi dầu mấy mƣa xuân nắng hạ,

Sớm khuya cùng [47] trăng gió cỏ hoa.

Cũng là đồng loại ngƣời ta,

Sa cơ nên phải nghĩ mà thƣơng tâm.

Trong trƣờng dạ tối tăm trời đất,

150

Sảng linh hồn phảng phất u minh.

Thƣơng thay thập loại chúng sinh,

Hồn đơn phách lẻ lênh đênh quê ngƣời.

Hƣơng khói đã không nơi nƣơng tựa,

Hồn mồ côi lần lỡ đêm đen,

Còn chi ai khá ai hèn,

Còn chi mà nói ai hiền ai ngu.

Tiết sơ thu (tùy cải) dựng đàn siêu độ.

Nƣớc cam lồ mật chú gia trì,

Muôn nhờ Phật đức từ bi,

Giải oan cứu khổ dắt về tây phƣơng.

Cũng có kẻ toan đƣờng kiêu hãnh,

Chí những lăm cất gánh non sông,

Gớm thay đƣơng buổi tranh hùng.

Nào ngờ thế khuất vận cùng mà đau.

Bỗng phút đâu tro bay khói tỏa,

Khôn đem mình làm đứa sất phu,

Cả giàu sang nặng oán thù,

Máu tƣơi lai láng xƣơng khô rã rời.

Đoàn [48] vô tự lạc loài eo óc,

Quỷ không đầu lăn lóc tri tru.

Nào hay thành bại là cơ,

Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.

Nào những ả màn lan trƣớng huệ,

Những cậy mình cung quế Thƣờng Nga?

Gặp phen thay đổi sơn hà,

Thân nhƣ mảnh lá biết là làm sao.

151

Trên lầu cao dƣới dòng nƣớc chảy,

Phận đã đành trâm gãy bình rơi,

Khi sao đông đúc vui cƣời,

Mà khi nhắm mắt không ngƣời nhặt xƣơng.

Đau đớn nhẽ không hƣơng không khói,

Hồn ngẩn ngơ bãi ngái đồi sim.

Thƣơng thay chân yếu tay mềm

Càng nằm càng héo càng đêm càng dài. Nào những đấng mũ đai áo rộng97,

Ngọn bút phê thác sống trên tay.

Kinh luân xếp một túi đầy, Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu98.

Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,

Trăm loài ma xăm nắm chung quanh.

Nghìn vàng khôn chuộc đƣợc mình,

Lầu ca viện xƣớng tan tành còn đâu. [49]

Kẻ thân thích trƣớc sau vắng vẻ,

Biết lấy ai đơm tế lửa hƣơng,

Cô hồn phảng phất tha phƣơng,

Nặng oan khôn nhẽ tìm đƣờng hóa sinh. Nào những đấng bài binh bố trận99,

Vâng lệnh sai lĩnh ấn nguyên nhung,

97 Chỉ những kẻ Tể thần thất thế

98 Quản Cát , Ychu: Là hai hiền nhân hoặc địa danh xƣa của Trung quốc

99 Đại tƣớng bại trận

100 Phơi thây muôn họ làm công một ngƣời: Nhất tƣớng công thanh vạn cốt khô

152

Gió mƣa sấm sét đùng đùng, Phơi thây muôn họ làm công một ngƣời100.

Khi thất thế tên rơi đạn lạc,

Bãi sa trƣờng thịt nát máu trôi.

Bơ vơ góc bể bên trời,

Nắm xƣơng vô chủ biết rơi chốn nào.

Trời u uất mƣa gào gió thét,

Khí âm ngƣng mờ mịt trƣớc sau.

Trăm năm sƣơng tuyết dãi dầu,

Nào đâu điếu tế, nào đâu chƣng thƣờng. Cũng có kẻ tìm đƣờng trí phú101,

Làm tội mình nhịn ngủ bớt ăn.

Ruột già không kẻ chí thân,

Dẫu làm nên nữa để phần cho ai.

Khi nằm xuống không ngƣời gắn bó,

Của phù vân dẫu có nhƣ không,

Tuy rằng tiền chảy bạc dòng,

Khi đi mang đƣợc một đồng nào đi.

Khóc [50] ma mƣớn thƣơng gì hàng xóm,

Hòm gỗ đa bó đóm đƣa đêm.

Thẩn thơ lối dọc đồng chiêm, Xuân thu hƣởng tự102 biết tìm vào đâu. Cũng có kẻ rắp cầu chữ quí103,

Dấn mình vào thành thị phồn hoa.

Mấy thu lìa cửa lìa nhà,

101 Trí phú: chỉ những kẻ tham giàu chết đƣờng

102 Hƣởng tự: những ngƣời nói dõi hƣơng hỏa

103 Chỉ những ngƣời tham danh lời chết nơi cầu quán

153

Văn chƣơng đã chắc đâu mà trí thân.

Chốn hàng quán tế tuần104 mƣa nắng,

Vợ con nào nuôi nấng kiêng khem.

Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,

Bạn bè thiên hạ láng giềng ngƣời dƣng. Bóng tang tử105 xa chừng hƣơng khúc,

Bãi sa ma kẻ dọc ngƣời ngang.

Cô hồn nhờ gửi tha hƣơng,

Dƣới trăng héo hắt nén huơng lạnh lùng. Cũng có kẻ qua sông vƣợt bể106,

Cánh buồm giây phút hí gió đông.

Gặp cơn giông tố giữa dòng,

Tấm thân mai một vào lòng kình nghê.

Cũng có kẻ chăm nghề buôn bán,

Đòn gánh tre chín dạn trên vai

Gặp cơn nắng hắt mƣa rơi,

Nào ngờ lữ thứ xa chơi suối vàng. [51]

Có kẻ đến lệ làng góp lính

Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan.

Nƣớc bầu cơm nắm gian nan

Dãi dầu muôn dặm lầm than một đời.

Khi lâm trận thân ngƣời nhƣ rác,

Phận đã đành đạn lạc tên rơi.

Lập lòe ngọn lửa ma trơi,

104 Tế tuần mƣa nắng:

105 Bóng tang tử: bóng của ngƣời mặc áo tang

106 Chỉ những ngƣời đi buôn đƣờng thủy, làm ăn trên biển

154

Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thƣơng.

Cũng có kẻ nhỡ nhàng một tiết107,

Lúc tuổi xanh bán nguyệt buôn hoa.

Nào ngờ khi trở về già,

Không chồng nỗi ấy biết là cậy ai.

Sống đã chịu mỉa mai phiền não,

Thác lại nhờ hớp cháo lá đa.

Não nùng thay số đào hoa,

Kiếp đày ra thế biết là vì đâu. Cũng có kẻ nằm cầu gối đất108,

Vì cơ hàn hành khất mọi nơi.

Thƣơng thay cũng một kiếp ngƣời,

Sống nhờ hàng xứ thác vùi đƣờng quan.

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc,

Gửi mình vào chiếu lác một manh.

Nắm xƣơng chôn lấp góc thành,

Bao giờ giải đƣợc oan tình ấy đi. [52]

Cũng có đứa cô nhi tấm bé,

Mới sinh ra lìa mẹ lìa cha.

Nào ai bú mớm đấy mà,

U ơ tiếng khóc xót xa não nùng. Cũng có kẻ bỗng không lôi đánh109,

Lại có ngƣời vì ngã cành cây.

Có ngƣời sa giếng dớt dây,

107 Chỉ gái lầu xanh, kỹ nữ

108 Kẻ lang thang không nhà cửa

109 Kẻ bị sét đánh

155

Ngƣời trôi suối lũ ngƣời lây lửa thành.

Ngƣời thì mắc sơn tinh thủy thú,

Cùng độc xà vuốt hổ ngà voi.

Có ngƣời thuốc sái mê chơi,

Đa mang nghiện ngập của trời phá tan.

Sau gặp buổi vô nhan mới tỉnh,

Phút đăng tiên khôn lánh lƣới trời.

Có ngƣời có đẻ không nuôi,

Kẻ vì tiểu sản mệnh ngƣời lâm nguy. Mắc phải lúc đƣờng đi nhỡ bƣớc110

Cầu Nại Hà kẻ trƣớc ngƣời sau.

Mỗi ngƣời một nghiệp khác nhau

Hồn phiêu phách lạc biết đâu bây giờ.

Hoặc là ẩn ven bờ cạnh lối,

Hoặc là nƣơng đầu núi bên sông.

Hoặc là mông quạnh đồng không,

Hoặc là viễn tái thú [53] cùng diêm lƣ.

Hoặc là tựa thần từ Phật tự,

Hoặc là nƣơng ngọn cỏ bóng cây.

Khi cầu nọ lúc quán này

Chợ quê mỗi chốn thây ngày ủ ê.

Mấy thu chịu nhiều bề sầu khổ,

Ruột héo khô họng nhỏ nhƣ châm.

Dãi dầu biết mấy trăm năm,

Thở than dƣới đất ăn nằm trên sƣơng.

Nghe gà gáy tìm đƣờng lánh ẩn,

110 Cảnh lang thang cơ cực

156

Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra.

Lôi thôi ẵm trẻ dắt già,

Nghe lời triệu thỉnh lại mà chứng minh.

Ân chƣ Phật thùy tình cứu khổ,

Tiếp dẫn về Tịnh độ ngao du.

Còn trong tứ đại bộ châu,

Phiền não trút sạch oán thù rửa không.

Nhờ Phật pháp linh thông quảng đại,

Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao. Tự ti kíp đến ngôi cao111,

Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.

Nhờ Phật đƣợc siêu sinh cõi tịnh,

Mới biết rằng vạn cảnh giai không.

Dám khuyên lấy Phật làm lòng,

Tự nhiên siêu thoát khỏi [54] trong luân hồi.

Đàn chẩn tế vâng lời di giáo,

Vật có khi bát cháo nén hƣơng.

Gọi là manh áo thoi vàng,

Giúp cho làm của ăn đƣờng sinh thiên.

Đã đến đây dƣới trên ngồi lại,

Chứng lòng thành chớ ngại bao nhiêu.

Phép thiêng biến ít nên nhiều,

Nhờ thầy Tôn Giả chia đều phân minh.

Quả vô sinh khuyên ai tảo chứng,

Giong buồm từ bỉ ngạn đồng đăng.

Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng.

111 Từ kẻ thấp hèn đến ngƣời cao quí

157

Phổ nguyện nhất thiết siêu thăng bảo đài.

Lại có bài kệ than rằng:

Hàn lâm là chốn tối dầm dầm,

Khổ não lòng kia trải mấy năm.

Thơ thẩn gió trăng hƣơng khói vắng,

Ngậm ngùi hoa cỏ khóc than thầm.

Bữa nay may gặp đƣờng phƣơng tiện,

Lũ chúng mừng qua cõi tối tăm [55]

Gang tấc thiên đƣờng xa mấy bƣớc,

Thảnh thơi thoát khỏi chốn hàn lâm.

(Thứ bạch tam qui)

Tự qui chƣng Phật, nguyện cho chúng sinh, làu thông đạo cả, mở lòng vô

thƣợng bồ đề.

Tự qui chƣng Pháp, nguyện cho chúng sinh, tƣờng tỏ nghĩa mầu, trí tuệ

rộng sâu nhƣ bể.

Tự qui chƣng Tăng, nguyện cho chúng sinh thống lý trong chúng, nhất

thiết không ngăn ngại vậy.

Khí thi chi sở viết hàn lâm (nơi bỏ xác gọi là hàn lâm). Nguyên chú

PHỤ TÁN BÁT NHÃN TÂM KINH KỆ NHẤT LUẬT

Hành thâm Bát Nhã Ba la mật

158

Chiếu kiến bản lai vô nhất vật

Sắc tức thị không không thị sắc

Dĩ vô sở đắc cố đắc Phật

Nam Mô Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát

ỨNG PHÓ DƢ BIÊN TỔNG TẬP HOÀN.

ỨNG PHÓ DƢ BIÊN PHẦN BIỆT TẬP

159

Bài 11. TRAI ĐÀN BAN SẮC XÁ CÁCH

Cáo viết tiên khai phương thứ ban sắc, kim sử xuất vãn

Bõ công đầu Phật xuất gia, Từ thân112 nhờ đƣợc gần tòa kim liên.

Danh thơm kinh Phật còn truyền,

Đã vẹn chữ hiếu lại tuyền chữ nhân.

Đƣờng sang Cực lạc cũng gần,

Có lòng báo hiếu có thần dẫn đi.

Nhất sinh bổ xứ cũng kỳ,

Thế gian kia vẫn còn nghi chƣa tƣờng.

Nói điệu:

Nhất thiên hòa khí,

Vạn tƣợng duy tân.

Chúc hoàng đồ ngự trị muôn xuân,

Đâu đâu chẳng vong bần lạc đạo.

Tôi xin dẫn, bàng nhân vấn vân…v.v

Dẫn thế nào:

Tôi xin dẫn trai đàn triệu tạo, Đời vua Lƣơng113 trị giáo bốn phƣơng.

Đắc sủng thì đệ nhất Hy nƣơng

Đã nanh độc lại nhiều đƣờng ghen ghét. Mệnh chung đọa Mãng Xà114 yêu nghiệt,

Hiện [57] vào đền giở quái lạ sao.

Vua bèn triệu Chí Công ban hỏi,

112 Chỉ cha và mẹ

113 Vua Lƣơng: tức chỉ Lƣơng Vũ Đế:

114 Mãng xà

160

Tâu minh bạch dựng đàn sám hối.

Đạo huyền vi nối dõi nghìn thu,

Lại dẫn tích chân tu ngày trƣớc.

Vấn thời trước thế nào: Bà Duyệt Lợi115 sinh bình thuở trƣớc.

Những cậy mình khuê các giầu sang,

Có con là Quang Mục nàng,

Những khuyên mẹ tu đƣờng nhân quả.

Nào ngờ tính khắt khe nan hóa,

Lúc mệnh chung tuyền hạ câu lƣu.

Quang Mục nàng nhật dạ sầu ƣu,

Sau cảm đƣợc lòng cầu cứu mẹ.

Tích phá ngục khai phƣơng là thế,

Hạt minh châu còn để làm gƣơng.

Vậy có thơ rằng:

Nhờ ơn quảng đại rộng lòng thƣơng,

Nức tiếng thơm danh dậy bốn phƣơng.

Dịch đệ xá thƣ từng đắc lực,

Đàn chay đâu cũng một mình đƣơng.

Pháp sự xướng…v.v [58]

Nguy nguy kim khuyết,

Lẫm lẫm ngọc đƣờng.

Trai chủ nay thiết lập đàn trƣờng,

Cờ tế độ tiên linh thoát hóa.

Nay chƣ Phật đƣợc ban sắc hạ,

Quan sứ đâu binh mã chỉ huy.

115 Bà Duyệt Đế Lợi mẹ của Nàng Quang Mục trích trong Kinh Địa Tạng

161

Việc công sai bất khả hoãn trì,

Ra lĩnh sắc tức thì mà trảy.

Truyền lệnh hạ tam quân ai nấy,

Đem sắc văn đệ tại Phong Đô.

Có chữ rằng đại sự bất hồ đồ,

Từ vãng phản hạn cho nửa tháng.

Phụ phái nhất đạo Kim Sứ dạ dạ

Ngài truyền nửa tháng tới, ngày về bao nhiêu?

Pháp sự viết:

Chữ vãng phản là cả đi về có nửa tháng đó mà.

Kim sứ vi ngôn bạch vân:

Bạch tôn giả: nửa tháng là mƣời lăm ngày.

Thế là bảy ngày đi tám ngày về,

Cái việc ấy xin khiêm cho mới đƣợc.

Pháp Sự viết:

Chƣ quan Kim Sứ có việc chi mà ngại.

Kim Sứ viết: [59]

Bạch Tôn giả: sách có chữ rằng:

"Thất bất vãng, bát bất qui",

Cho nên tôi lấy làm nghi lắm.

Pháp Sự viết:

Nhƣng có chữ "bách vô cấm kỵ" đó mà.

Lĩnh sắc mau binh mã chỉ huy,

Cấp thƣợng lộ vật nghi trì hoãn.

Kim Sứ dạ, nghi lưỡng thủ bổng sắc cử quá ngạch thả thoái thả ca.

Liên đài khấu thủ bổng ty luân,

Cửu phẩm từ hàng giá bạch lân.

162

Trực chỉ Phong Đô thiên lý ngoại,

Thừa phong phá lãng tẩu phi trần116

Thét tiên thanh.

Hỏa tốc, hỏa tốc!

Vật đình, vật đình!

Tiên phong Chu tƣớc,

Huyền vũ hậu binh.

Tả thừa Cƣơng đẩu,

Hữu đạp Khôi tinh.

Sinh môn tiến bộ,

Ác quỉ tiềm hình.

Túc thanh đạo lộ,

Phúc quả viên thành.

Nào là đội trưởng,

Đội trưởng:

Dạ! Dám bẩm có việc chi

Kim Sứ viết:

[60] Nhân trai chủ lập đàn thỉnh Phật,

Có lời xin phổ độ tiên linh.

Xá thƣ đây thầy cả giao cho mình,

Tƣờng địa phủ phụng hành phóng xá.

Cấp thƣợng lộ tu du mãnh hỏa,

Trì hoãn thì bắt tội không tha.

Đội trưởng viết:

Dám bẩm bắt phạt đòn hay bắt phạt hoa xôi.

Thừa phong phá lãng tẩu phi trần:

163

Kim Sứ viết: 116 Liên đài khấu thủ bổng ty luân/Cửu phẩm từ hàng giá bạch lân/Trực chỉ Phong Đô thiên lý ngoại,

Tiền con gái cũng được.

Đội trưởng viết:

Quân ta đâu việc chẳng phải nhƣ việc nhà nƣớc.

Phƣơng tiện môn cũng có chữ cần,

Đi đƣợc việc thì thầy khen tốt đó.

Đội trưởng ca viết:

Thử hành binh mã lui mau,

Cung lƣng gia sức kỳ đầu tranh phong,

Ra uy đâu cũng hãi hùng,

Thế nhƣ cự núi luân sông lạ nhƣờng,

Danh tham ghi tạc miếu đƣờng,

Ra tay tế độ mở đƣờng siêu sinh,

Đội trưởng viết:

Bạch lạy thầy cả,

Trai chủ nay biết dựng đàn chay.

E trai chủ chƣa hay sự thể,

Hẵng đứng đó nghe lời tôi [61] kể.

Thuở trƣớc tôi nhờ ơn thƣợng đế,

Phái tùy tùng dịch mã tƣớng quân.

Phàm đám trai chẳng nề xa gần,

Đã ủy thác phải ân cần khích thiết.

Nay địa phủ âm dƣơng cách biệt,

Đƣờng đi trở gánh nhất thân đƣơng.

Trải ba mƣơi sáu cửa ngục trƣờng,

Tê Phật sắc để thông đƣờng thiên giới.

Nào những kẻ u tù oan trái,

164

Đem làm sao cho thoát cửa Phong Đô.

Ấy thực là khó nhọc công phu,

Nào đã kể lộ đồ nhu phí.

Ngƣời tri kỷ ắt là tri bỉ,

Song chủ đây một tí chƣa tƣờng.

Chẳng nói ra thì thiếu nhật lƣơng,

Nói ra thì bằng dƣờng sách nhiễu.

Chủ nhân bổng tiền xuất viết:

Nay cửa Phật thênh thênh nào hẹp,

Chữ tham kia còn chép rành rành.

Hễ có nhân thì lại gặp lành,

Hẵng nhờ đƣợc tiên linh thoát hóa.

Xin nghĩ chữ từ bi hỷ [62] xả,

Của chẳng bao những dạ kính thành.

Kiếm mƣời gián tiền hàng trầu nƣớc.

Đội trưởng viết:

Nghe chủ nói nể lòng châm chƣớc,

Mà nhận ra tựa nhƣợc tham tiền.

Phép hành binh dĩ thực vi tiên,

Việc chi cấp mặc viên thƣ lại.

Chớ nào thư lại, chú thư xuất viết:

Dám bẩm Kim Mã đội thƣ lại là tôi,

Nghe lệnh đòi ra hầu bẩm mệnh.

Đội trưởng viết:

Kiếm bút giấy mà làm từ biên nhận, rồi chi cấp hữu sai,

Chiếu quân số để lƣợng tài thƣởng tứ,

Phải cho công mà chớ tham lam,

165

Hễ hà lạm đàn em nó kiện.

Chú thư lại viết:

Thƣa thầy giỏi làm từ thì viết những chữ chi?

Đội trưởng viết:

Chú đã làm việc quan, mà không biết lối làm từ biên nhận a.

Thư lại viết:

Nghề làm việc quan, tôi quen lối dĩ sinh vi tử, dĩ tại vi đào,

Mạnh [63] thì gạo, bạo thì tiền, khôn ngoan 虫殊 mọc.

Đội trưởng viết:

Thôi, chú chớ nói trạc đa chi cho lắm,

Chú không nhớ chữ đại học rằng:

"Tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ƣ chí thiện" a.

Thư Lại dạ, đáp viết:

Tôi đã kén những quân tráng kiện,

Trừ chú phòng châu huyện phía ngoài.

Số quân để phỏng độ trăm hai,

Xin sử quan truyền gọi chú cai,

Phải cắt lấy một vai gánh cỏ.

Cắt lính cỏ rồi, gọi:

Chớ nào là lính cỏ!

Lính cỏ xuất ca viết:

Chẳng tham chen chốn hồng trần,

Những quen dạo gót đƣờng xuân chơi bời.

Cỏ đâu xanh ngắt da trời,

Chín lần mƣa móc nhờ hơi đƣợm nhuần.

Quanh co sƣờn núi bƣớc lần,

Đƣa ngang bán dọc muôn phần về tay.

166

Dạ dạ

Thảo mã là tôi, giáo ngựa đã rồi,

Lẳng lặng nghe tôi giáo cỏ.

Nghề cắt cỏ ấy là việc khó.

[64] Hễ biết tƣờng tên cỏ mới là.

Giống gì cỏ xƣớc,

Giống gì cỏ gà.

Nhuận huyết ngƣời ta,

Là loài cỏ cấu.

Áo ngƣời hay bám,

Loài cỏ lông may.

Lấy nấm ăn chay,

Cỏ dày là nó.

Ai hay dạo đƣờng hoa,

Nó dành nghề cắt cỏ.

Tôi lại nói, bàng nhân vấn nói, thế nào?

Thảo Mã viết:

Việc Thảo Mã khá là việc dễ,

Xem mã kinh biết nghĩa làm sao.

Ngựa trăm con đứng cả trong tàu,

Ông Bá Nhạc chỉ con nào con ấy nhất.

Ngựa nào hay đá,

Ngựa nào hay cất.

Xem tƣờng rồi mới dắt mới chăn,

Dẫu no đói trông lƣng về ngựa.

Trải tuế nguyệt cơm hàng cháo chợ,

Gót yên hà chẳng sợ xa xôi.

167

Chăm ngựa no nào mấy lúc rỗi,

Vả đƣờng xá theo khe sông núi.

Nghe lệnh truyền thậm chƣng là vội,

Hiếm nhật lƣơng vì nỗi rộng tiêu. [65]

Trai chủ đây phỏng có biết điều,

Cũng nên biệt phù trà mời quí.

Trai chủ viết:

Tôi cũng biết lệ tiền hành lý,

Đƣơng công nhiên không nhẽ đƣa tiền.

Đã vậy xin tòng quyền, nạp tiền đen quan quí.

Thảo Mã nhận tiền viết:

Thiện tai! thiện tai!

Kim Sứ viết:

Truyền chƣ quân.

Dạ dạ.

Hựu viết:

Từ vãng phản hạn cho nửa tháng,

Chớ có nên trì hoãn trùng trình.

Chữ sách rằng “binh quí hồ tinh”,

Trống xúc bác hàm mai ta trảy.

Quân xuất nhất thứ quá quỉ môn quan, ngục chủ xuất quân sất viết:

Uở uở, quân nào qua đó,

Vả đây là đệ nhất u quan.

Ta tự vâng chiếu chỉ Diêm hoàng,

Cho ra để quyền cƣơng thủ bả.

Quân nào dám hoành hành binh mã,

Ắt hẳn là gian trá chi đây.

168

Truyền quân ta giàn trận chớ chầy,

Sinh hoạch lấy lũ này giải nạp.

Thử hồi lưỡng quân thả chiến thả tẩu, Kim Sứ dừng quân phủ úy viết:

[66] Khoan khoan đã để ta nói thực,

Bởi ta vâng sắc Phật qua đây.

Vì mỗ gia dựng mở đám chay,

Có sắc xá mang để làm chuẩn.

Ngƣơi cũng nên một lòng qui thuận,

Nay từ đây niêm cẩn cho coi.

Chớ ngáng trở nữa thời đắc tội.

Quỉ tốt viết:

Tội gì tội lội xuống sông,

Đánh ba tiếng cồng lại nổi tội lên.

Chẳng qua chú có lý chú, tôi có nhẽ tôi,

Chú không nhớ sách có chữ rằng:

“Văn tƣớng quân lệnh, bất văn thiên tử chiếu”,

Chú có biết điều đem quân trở lại.

Kim Sứ viết:

Quân ta đâu!

Kinh nhà Phật có câu rằng: “cố tâm vô quải ngại”,

Vả chữ trong từ rằng, “vô đắc tịch sự vi phi”.

Âu trở lại trình bày sự thể.

Phản hồi, pháp sự vấn viết:

Chớ quan Kim Sứ có trở trệ việc chi, mà hồi quân lại đó.

Kim Sứ viết:

[67] Bạch tôn giả,

Tôi lĩnh mệnh cao chân.

169

Gắng sức phải ân cần,

Đi cũng đã tới gần Bắc phủ

Quân thủ bả là quân cắng cổ,

Nó ra tiệt lộ vãng lai.

Tôi đã đƣa tờ trát cho coi,

Nó cứ chữ Diêm đài làm chuẩn.

Vả phép Phật từ bi nghiêm cẩn,

Vậy đem binh gấp tấn hồi trình.

Pháp sự viết:

Ơ đã vậy,

Ta tái hoán cấp điệp thông hành,

Cấp hạ lệnh chƣ quân tiến phát.

Tức cấp điệp nhất đạo, hựu vân:

Kim Sứ quan bái lĩnh

Tất

Hựu vân: Tái mệnh khâm thừa trì Bắc phủ, vạn linh trợ thuận tảo thành

công. Luân tẩu tam táp chí ngục đàn, tường điệp văn dữ ngục tốt nhi hành, tái

luân tẩu nhị táp, tựu đàn tiền phần xá thư tất hồi quân, nhiên hậu hành phá ngục khoa117

. BAN SẮC TỊNH CẤP THÔNG HÀNH PHÁI

Đƣơng đàn pháp sự.. mỗ.. phái Kim Sứ viên tuân cứ, tƣ nghi phụng xá

thƣ nhất đạo tê đệ Phong Đô, thử hành hạn bán nguyệt nội, nhƣợc tịch sự vi

117 Mệnh khâm thừa trì Bắc phủ….hành phá ngục khoa: lại nói rằng: lại vâng mệnh từ nói Bắc phủ,

muôn

170

phi, tất can huyền hiến, tƣ phái

HOÁN PHÁI VĂN.

Đƣơng đàn pháp sự ..mỗ.., vi tuân cấp thông hành sự, chiếu chi trai

chủ ..mỗ.., khải kiến trai đàn, trừ dĩ tấu văn ngoại, sở hữu xá thƣ nhất đạo,

ngƣỡng giao Kim Sứ quan phi đệ minh ti, phàm u quan kinh quá tƣờng văn

nhi hành, nhƣợc sở sự phất kiền tất can.

Huyền hiến, cố điệp

171

Đinh Dậu niên thu tân san.[69]

Bài 13. CHÈO THUYỀN CA CÁCH

Xa trông bể hoạn mênh mông,

Đục trong ai rẽ đôi dòng lạ sao.

Bể dâu mấy lớp sóng đào,

Ái hà ai kẻ tìm vào hay ra.

Mênh mông nam hải nẻo xa,

Có thuyền của đức Phật bà Quan Âm.

Nói điệu:

Cửu thiên xán lạn, tứ hải trừng thanh,

Tuổi bảy mƣơi gặp hội thăng bình.

Duyên cá nƣớc nghĩ mình còn chƣa lão.

Ông Phạm Lãi Ngũ Hồ vui dạo,

Một tay chèo vẹn đạo quân vƣơng. Già Giác Duyên đỗ bến Tiền Đƣờng118,

Thuyền tế độ xênh xang chở phúc,

Kìa vãng sự còn lời thế tục.

Thuyền lão đây ngang dọc bể sông.

Buồm minh nguyệt lƣới thanh phong,

Ta thủng thỉnh chơi dòng bích thủy.[70]

Lão tiếu ha ha hựu viết:

Nhân đêm thanh vắng ngâm câu thơ lả lƣớt thế nào.

Thơ rằng:

118 Già Giác Duyên- Bến tiền đƣờng

119 Bá Vƣơng chỉ cho Hạng Vũ khi chiếm đƣợc nƣớc Tần đã xƣng ngôi Sở Bá Vƣơng

172

Thuyền ai lãng đãng bến ô giang, Chở khách hay là chở Bá vƣơng119. Bên mạn đò đƣa lời Đình trƣởng120,

Trên lèo quấn quýt mão Trƣơng Lƣơng121.

Người xá chư linh tác thanh hò viết:

Ở đây có đò nào cho bà con tôi sang mới.

Sãi vấn viết:

Chớ đêm khuya khoắt, lão hồ đi nghỉ.

Bên tả hà ti tỉ nghe xa,

Phải tiếng ngƣời hay là tiếng ma,

Yếu bóng vía lão đà chẳng dại.

Chư linh đáp viết:

Thuyền ai đấy hẵng xin chèo lại,

Việc chở đò chớ ngại công lênh,

Chúng tôi đây nhờ đƣợc siêu sinh.

Cách sông nƣớc phải lụy tình ông sãi.

Sãi viết:

Nghe tiếng nói giọng ngƣời cũng phải,

Một ngày đƣờng bằng sải nƣớc sông.

Chẳng chở sang thì cũng ngại [71] lòng.

Song trong bụng kiến hòng những khoét.

Chư linh viết:

Chúng tôi đây vâng lời biết vậy,

Xin sãi ông hẵng cậy thuyền sang.

Tuy chúng tôi không sẵn tiền lƣơng.

Song đã có trăm vàng kén lại,

Sãi tiếu viết:

120 Đình trƣởng chỉ cho Vua Hán Cao Tổ Lƣu Bang

121 Trƣơng Lƣơng: một quân sƣ tài giỏi của Lƣu Bang

173

Chuyến trƣớc đã e gặp gái,

Sao cái dung nó hãy quanh co.

Đã phô song lãng bụng chẳng no,

Khách lại kén vàng hồ trừ bữa

Ai ai đó, thoi ngƣời khác chở,

Lão còn đƣơng bận vả chƣa cơm.

Giở tiêu khiển vài chung lếu láo,

Chư linh đáp viết:

Nghe ông sãi là ngƣời lão mạo,

Có nhẽ đâu vong đạo cứu nhân.

Lộc Phật ban trân trọng muôn phần.

Xin nhƣờng sãi thụ cho khỏe sức,

Sãi tiếu ha hả viết:

Lão nóng nảy xin đừng vội giận,

Khẩu tuy xà tâm vẫn từ bi,

Xuống thuyền mau bơi hộ lão đi.

Đã [72] nặng bụng chèo thì cũng đặng,

Lão thì chèo hàng xứ hò khoan cho đều nhỉ.

Hò khoan!

Thênh thênh một nƣớc một trời,

Một thuyền một lƣới chở ngƣời thiện duyên.

Kìa kìa cảnh Phật non tiên,

Cũng muốn đi đến mà Tiên có khồng.

Mặc ai cá chậu chim lồng,

Đã sang cực lạc dầu lòng ngao du.

Tiếng đàn tiếng địch vi vu,

Tiếng chuông tiếng mõ trên chùa tụng kinh.

174

Hoa đâu mƣa khắp quanh mình,

Có vàng giải đất có thành lƣu ly.

Đạo này là đạo từ bi,

Ai hay giáo giở đừng đi đò này.

Sãi viết:

Trình hàng xứ thuyền đã hồ đến bến, tính tiền mà giả sãi.

Hàng xứ viết:

Thƣa ông Sãi thuyền đã hồ đến bến cực lạc dầu a.

Sãi viết:

Cứ giang trình mƣơi phần chừng đƣợc bảy,

Muốn mau [73] về chầu Phật, mỗi suất giả bao tiền.

Khách viết:

Xin ông Sãi đừng điều giá cả,

Phật còn thuyền Bát Nhã chở không.

Khuyên Sãi ông hẵng cứ bằng lòng,

Rồi ông cũng lên vòng thiên giới.

Sãi viết:

Ơ mà nói ra điều trục lợi,

Bản lão đây suất tính từ nhân.

Bởi tay chèo lão cũng yếu gân,

Xin hàng xứ cứ phân cho lão.

Khách viết: Thƣa ông sãi chúng tôi đã viễn ly điên đảo.

Đã biết rằng công của đôi đƣờng,

Đâu dám để phân mang lòng Sãi.

Sãi viết: Ơ đã vậy, ta cố chèo cho đến Cực lạc.

Xin hàng xứ nghe nhịp tôi chèo,

Đừng ai ngủ gật nhé,

175

Chèo ca: Chèo này, chèo này,

Chèo nhịp tiên cô, ngâm thơ cụ Lã,

Nhấp hồ ông Tô, cảnh đâu cây mộc sô bồ.

Những là hổ phách san [73] hô điệp trùng, Cửa đâu năm thức122 mây lung,

Ấy là nƣớc nhƣợc non bồng phải chăng.

Nghe kinh kìa cá thung thăng,

Gật đầu kìa đá mấy tầng xum quanh.

Hễ tin thì đƣợc ích mình,

Hoàng thiên có phụ tấc thành kia du.

Lòng tin hai chữ Nam mô,

Một niềm chẳng rối ắt thu công này.

May sao may khéo khéo là may.

Thuyền đà đến bến ta nay lên chầu.

Hoàn.

Hà Nội Đồng Quang tự Tùng Hiên nguyên thảo. Bắc Ninh Xuân Lôi tự

Phổ Trai trùng đính. Xuân Lôi tân bản.

Bài 14. PHỤ CÔ HỒN BẢNG.

122 Năm thức: Nhãn, Nhĩ, tị, Thiệt, Thân

176

Đương đàn pháp sự ..mỗ.. vi hiểu thị cô hồn đẳng chúng.

Phàm viết nhân tâm, thị danh Phật tính, hoạt bát bát như châu tại địa,

quang thước thước tự nguyệt đương [75] thiên, nại hà dẫn nhập ư tha kì, mạc

thức qui tầm vu bỉ ngạn, thị vị sinh vi hữu lậu, cố lệnh tử tắc vô già, hoàng

hoàng hề hà chi, thê thê nhiên nhi dĩ.

Hạnh. Ngã Phật vận từ bi chi niệm, vị chúng sinh khai phương tiện chi

môn; nhữ đẳng, ngũ đài sơn hạ hảo tầm tông, bách xích cán đầu nghi tiến bộ,

sắc thị không không thị sắc, vô lệnh nhận giả thành chân, tâm tức Phật Phật

tức tâm, thả tự hồi quang phản chiếu, cố tư phổ thị, các xứ chu tri, đặc bảng.

U sảng thông tri. Tuế thứ

BẢNG PHỤ CÔ HỒN

Tạm dịch: Nay đàn Pháp sự… mỗ… là để thông báo tới chúng cô hồn

Phàm là lòng ngƣời, đều mang Phật tính, sáng bóng nhƣ ngọc châu trong

lòng đất, vằng vặc nhƣ ánh trăng trên trời cao, cầu Nại hà đƣa ngƣời vào chốn

núi cao kia, chẳng biết đƣờng tìm về bờ giác. Là bởi con ngƣời có hữu lậu,

nên cái chết không tránh khỏi, hoảng hốt thế biết làm sao? Thê thảm vậy mà

thôi.

May thay! Đức Phật đã vận tâm niệm từ bi, vì chúng sinh mà mở đƣờng

phƣơng tiện. Các ngƣời! dƣới núi Ngũ đài khéo tìm vết tích, trăm thƣớc ngọn

sào nên tiến bộ. sắc là không, không là sắc. Không khéo biết giả thành chân,

tâm tức Phật, Phật tức tâm, hãy tự quay về soi xét. Nên nay rộng khai thị, các

sứ đều biết.

Bảng riêng biệt

Thông báo cõi U sảng

… Năm….

177

Bài 15. THIÊN TIÊN THÁNH MẪU CÔNG ĐỒNG VĂN

Thần kim ngƣỡng khải tấu chƣ tôn,

Tại thƣợng dƣơng dƣơng nghiễm nhƣợc tồn.

Nguyện thính pháp âm thi tuệ lực,

Tùy cơ phó cảm nạp trần ngôn.

Giọng tâu đức chúa thiên tiên,

Gồm tâu tam giới thánh hiền mƣời phƣơng,

Chứng minh bất xả uy quang,

Cửu trùng ngọc khuyết tòa vàng đài xuân,

Kiền thành kính chúc ân cần,

Hƣơng tin khẩn khẩn cung phần dâng lên.

Nay tôi thỉnh đức Chúa Tiên,

Ở trên thƣợng giới cai quyền tây đông.

Anh linh biến hóa thần thông,

Cao ngự cửu trùng tam thập tam thiên.

Quản cai thập nhị động tiên,

Lại hay ngự viện trần thế ngƣỡng trông.

Có khi hóa phép linh thông,

Chiếu kính phụ đồng bắt kẻ tà gian.

Lại hay có thuốc linh đơn,

Trƣờng [77] sinh bất lão thần tiên độ ngƣời.

Có khi chúa ngự trang đài,

Nghe tiếng tôi mời ngài xuống cứu dân.

Nay vừa ..mỗ.. tiết lƣơng thần,

Có nhà tín chủ ân cần lòng tin.

Kính trần lễ vật nhất duyên,

Bái vọng khấn nguyện cảm kích bất thắng,

178

Kim ngân tài mã kính dâng,

Cầu lộc đắc lộc cao thăng vĩnh trƣờng.

Chúa sai các bộ đàn nƣơng,

Vâng lệnh Ngọc hoàng cứu trợ quần phƣơng.

Lại sai lục lục tiên nƣơng,

Vâng lệnh tòa vàng hộ quốc tý dân.

Nguyên hoàng ngọc nữ tiên nhân,

Xe loan tán phƣợng xa gần dậy uy.

Đùn đùn năm sắc mây che,

Đằng vân giá vũ ngự xe hạc rồng.

Khi thì ngự quảng hàn cung,

Khi ngự thuyền rồng tuyết nguyệt phong hoa.

Có khi vui thú yên hà,

Cảnh thanh là chốn vào ra chơi bời.

Có khi dạo cảnh bồng [78] lai,

Linh lung bệ ngọc lâu đài rèm châu.

Tôi nay vọng bái khấu đầu,

Dao trì vƣơng mẫu nghe tâu tinh tƣờng.

Tôi mời tiên chúa nguyệt quang,

Ở trên tiên giới hiển dƣơng nhiều bề.

Tôi mời đức chúa tiên phi,

Pháp giá bôn trì hỏa sậu cấp lai.

Nguyệt nga là chúa thiên tài,

Xuống đất lên trời chắp cánh thƣờng bay.

Hào quang sáng rợp lạ thay,

Khi ngự bạch tƣợng khi say lâm tuyền.

Tuy rằng ngôi ở thƣợng thiên,

179

Có khi lại ngự xuống viện giúp công.

Tôi mời tiên chúa phù dung,

Ở chốn non bồng cảnh trí tự nhiên.

Ngày thƣờng luyện tập phép tiên,

Văn võ kiêm tuyền vịnh tuyết ngâm phong.

Thôn trang thành ấp ngƣỡng trông,

Cảm thông cầu ứng thỏa lòng trần gian.

Chúa ba thƣờng ở phƣơng càn,

Động khẩu thạch bàn Vị Thủy tào khê.

Xe rồng tán [79] phƣợng xinh ghê,

Dạo chơi hạ giới nhiều bề thanh tân.

Có phen chúa ngự vƣờn xuân,

Yểu điệu tinh thần cốt cách tƣ phong.

Tôi mời đức chúa hoa dung,

Vạn tử thiên hồng băng ngọc tố nga.

Tôi mời đức chúa Xuân Hoa

Tóc phƣợng da ngà chầu trực thiên nhan.

Tòa vàng từng lớp? trùng quan,

Ấy tòa vƣơng mẫu ngự ban cửu trùng.

Giƣờng ngà chiếu ngọc chăn hồng,

Ngọc nữ kim đồng dâng hiến đào tiên.

Bên lầu bóng mát nghinh hiên,

Dắng khúc quản huyền lƣu thủy hành vân.

Có khi chúa cũng giáng trần,

Ngao du viễn phố nhiều phần ung dung.

Lại mời các bộ lục cung,

Hầu chữ cửa rồng chầu trực chốn tiên.

180

Khắp mời tiên nữ dƣới trên,

Tốc giáng viện tiền báo ứng chớ sai.

Trà thang lễ vật tiến lai,

Nguyện kỳ giám nạp khắc hài động minh.

Kim [80] ngân tài mã đại hình,

Là lễ đảo mệnh tấc thành cầu an.

Độ trì tín chủ vạn toàn,

Hiển linh cảm ứng giáng đàn chứng tri.

Lại mời các bộ tiên phi,

Nhiều bề lịch sự nhiều bề thanh tao.

Điểm trang áo tía quần đào,

Khăn xanh yếm thắm gót câu da ngà.

Có khi tiến quả dâng hoa,

Có khi chầu trực vào ra Hán hài.

Có khi hầu hạ trong ngoài,

Phấn tô gƣơng lƣợc ống vôi hộp trầu.

Có khi dẽ tóc chải đầu,

Khi xe chỉ thắm khi xâu hột vàng.

Có khi khăn túi sửa sang,

Khi tấu tiên nhạc tƣ thƣơng phím đàn.

Có khi tình tính nhặt khoan,

Khi trầm tiếng sắt khi ran tiếng đồng.

Khúc đâu đẹp ý bằng lòng,

Khác gì phong vận chốn bồng lai tiên.

Cảnh trần uyển thiết tự nhiên,

Cũng vui nhƣ chốn thần tiên khác [81] gì.

Có lòng tiên cũng chứng tri,

181

Trắc giáng tức thì tích phúc độ nhân.

Tửu bôi kính chúc ba tuần,

Năm thể kiều cần tiến hiến hƣơng trai.

Đông tây chiêu lộc chiêu tài,

Lạc hồ cận duyệt viễn lai dần dần.

Chữ rằng thánh giáng lƣu ân,

Thần giáng lƣu phúc thiên xuân thọ trƣờng.

182

Bài 16. ĐỆ NHỊ VĂN

Giọng tâu đế tử hoàng công,

Hiệu ông đệ nhị thần đồng giáng sinh.

Vốn xƣa ngài ở thiên đình,

quyền cao vị liệt ngọc kinh thiên đài.

Số sinh số tử dƣới đời,

Một tay biên chép nào sai số nào.

Quản cai văn võ quan liêu,

Khi ra điện ngọc khi vào tòa trƣơng.

Thông minh trí tuệ trăm đƣờng,

Tài năng gom vẹn chẳng nhƣờng phần ai.

Thiên cung hoàng tử thứ hai,

Thông tri thiên địa mỗi nơi xa gần.

Ra uy cấp vũ sậu vân,

Đâu [82] đâu là chẳng phục thần làm tôi.

Khi trời đại hạn nắng nôi,

Thƣơng dân giáng vũ nơi nơi đƣợm nhuần.

Lại sai hà bá thủy thần,

Tự nhiên dâng nƣớc ải tần cõi xa.

Ấm ầm gió giật mƣa sa,

Thấm nhuần khắp cả gần xa chan hòa.

Muôn dân kính chúc tụng ca,

Nam nữ trẻ già đều sợ phép ông.

Lại truyền lệnh xuống thủy cung, Ra uy hành vũ tám ông123 những là.

Ông cả ông hai ông ba,

123 Tám ông: chỉ cho tám vị long vƣơng

183

Ông sáu ông bảy cùng là ông năm.

Ông tƣ ông tám đồng tâm,

Làm mƣa khắp cả thiển thâm đồng điền.

Ngƣời triều kẻ dã dƣới trên,

Khác nào nhƣ thể gặp tiên bấy giờ.

Dầu lòng đi sớm về trƣa,

Cau sai lúa tốt tiền thừa của rơi.

Nhân khi thong thả ngồi chơi,

Tìm ngƣời sổ mực dịch ngƣời sổ son.

Vua cha quở trách phạm [83] can,

Tự nhiên tác tự thụ không còn kêu oan.

Đày xuống hạ giới nhà quan,

Vào nơi lệnh tộc dung nhan tốt lành.

Năm Ất Dậu tháng dƣơng sinh

Mồng ba giờ Mão đản sinh ra ngƣời.

Tuổi vừa lên bốn đi chơi,

Thông minh tài trí mắt tai khác thƣờng.

Ông bà mừng rỡ yêu đƣơng,

Rằng ta có phúc kẻ thƣơng ngƣời vời.

Nào ngờ thƣợng đế dự kỳ,

Mồng ba tháng chín đƣơng khi giờ Dần.

Sắc sai hà bá thủy thần,

Tức thì giá vũ đằng vân rƣớc ngƣời.

Sai thêm ngũ lôi tƣớng trời,

Kim cƣơng lực sĩ tức thì bƣớc ra.

Hội đồng vâng lệnh vua cha,

Rƣớc quan đệ nhị lên tòa thƣợng thiên.

184

Ông bà lăn khóc chẳng yên,

Sao con nỡ để mẹ phiền hỡi con.

Công sinh xem bằng núi non,

Lấy ai khuya sớm thần hôn bao đành.

Nào ngờ ngài [84] ở thiên đình,

Con vua thƣợng đế giáng sinh trần hoàn.

Dầu ai có bệnh kêu van,

Ông hay cứu trợ bình an tốt lành.

Lễ thƣờng nguyện tứ chứng minh,

Giám nạp lòng thành giáng phúc trừ tai.

Chữ rằng thiện giả thiện lai,

Đắc lộc đắc tài các xƣớng thiên thu.

Bài 17. CỬU TRÙNG VĂN

185

Thuận bốn mùa âm dƣơng tiết hảo,

Lòng chí thành cầu đảo bình an.

Đăng trà quả thực dâng lên,

Nhất tâm phụng thỉnh chúa tiên cửu trùng.

Ngự ngai rồng linh tiêu chính vị,

Ở trên trời sửa trị bốn phƣơng.

Lòng ngài sáng sạch nhƣ gƣơng,

Tùy cơ phó cảm tùy phƣơng độ ngƣời.

Mặt hoa mi liễu đua tƣơi,

Hình dung yểu điệu miệng cƣời nhƣ hoa.

Lƣng ong tóc phƣợng da ngà,

Áo ngào hƣơng xạ hài hoa sánh bày.

Cửu trùng ngự chín tầng mây,

Quản [85] cai các bộ tiên giai thƣợng đình.

Có khi chúa mặc áo xanh,

Ngự chơi đông điện đàn tranh quyện trầm.

Dập dìu hầu hạ dƣ trăm,

Kẻ bƣng khay hộp ngƣời cầm hƣơng xông.

Áo xanh thay đổi áo hồng, Nam cung lại ngự xe rồng đỉnh đƣơng124

Tay dao đũa ngọc vành vàng,

Hoa cài trăm thức điểm trang những là.

Ngự rồi chúa lại bƣớc ra,

Áo trắng quần là ngự tới tây cung.

Thiên nhiên cảnh trí lạ lùng,

Trƣờng sinh tiên dƣợc mùi thông trân kỳ.

124 Đỉnh đƣơng: là cái Xanh, cái chảo có đáy bằng

186

Lại truyền các bộ tiên phi,

Cờ đen thẳng trỏ trảy đi dần dần.

Đó là cung bắc thanh tân,

Phong hoa tuyết nguyệt nhiều phần sạch ghê.

Chúa liền ngự đến một khi,

Màn che tán phủ chỉnh tề trên vân.

Chầu hầu sửa túi nâng khăn,

Hƣơng xông mùi xạ hoa ngăn hộp trầu.

Lƣợc ngà trâm ngọc cài [86] đầu,

Áo vàng chúa ngự khăn đào cầm tay.

Cờ vàng chỉ phất nhƣ bay,

Xe loan tán phƣợng về rày tiên cung.

Hễ ngƣời hạ giới có lòng,

Cảm thông cũng thấu cửu trùng thiên thai.

Đằng vân giá vũ tức lai,

Tự thiên cung xuống hƣơng đài chứng minh.

Hữu tình kíp đến vô tình,

Ai ai là chẳng đốc thành kính tin.

Khấu đầu vọng bái vị tiền,

Lễ tuy bất túc tinh kiền hữu dƣ.

Muôn trông tuệ giám vô tƣ,

Mặc trì đệ tử ƣu du đất đồ. Tứ thời bát tiết vô ngu, khang ninh phú thọ gồm thu lâu dài. Chữ rằng thiện giả thiện lai, Đắc lộc đắc tài các xƣớng thiên thu. Bài 18. THỦY TINH CÔNG CHÚA VĂN

Lòng Lòng tin dâng một triện hƣơng,

187

Thấu đến tam giới cùng phƣơng động [87] đình.

Tôi mời đức chúa Thủy Tinh,

Xin ngài hóa phép anh linh giáng đàn.

Cờ vàng tán tía xe loan,

Tốc giáng hoa đàn cứu trợ sinh nhân.

Nguyện dời ngọc bộ giáng thần,

Hay chúa còn ở Hải Tần cõi xa.

Hay còn vui thú yên hà,

Hay chúa còn ngự ở tòa thƣợng thiên.

Hay là chúa ở động tiên,

Hay chúa còn ngự đào nguyên non bồng.

Hay là chúa ở ngàn thông,

Hay là chúa ở trong dòng nam minh.

Khi vui thƣởng ngoạn non xanh,

Quần đào áo tía đàn tranh hát mƣờng.

Mặt hoa mày liễu phi phƣơng,

Má hồng nức khí thiên hƣơng đƣợm nhuần.

Mây che sặc sỡ muôn phần,

Ngồi xe lồ lộ tinh thần ai đƣơng.

Tiên phi các bộ đàn nƣơng,

Đứng chầu tả hữu hai hàng uy nghi.

Nay tôi phục vọng tâu quì,

Thỉnh đức chúa về giám [88] nạp khói hƣơng.

Hộ trì tín chủ an khang,

Thân cung tráng kiện mọi đƣờng hanh thông.

Giải bệnh bệnh tán phƣơng đông,

Trừ cả hàn nhiệt tống vùng ải xa.

188

Tiêu tai sát quỉ trừ tà,

Trừ bệnh bệnh khỏi trấn ma ma dời.

Đội ơn đức chúa bằng trời,

Từ đây tín chủ đời đời thọ khang.

Bài 19. CHẦU BÁT VỊ VĂN

Tiểu tôi vọng bái khấu đầu,

Tiến một văn chầu tám vị chứng minh.

189

Phủ Thái Ninh về miền Phù Dực,

Dậy tiếng đồn náo nức gần xa.

Điện trên sông vắng ngã ba,

Tối linh thƣợng đẳng thánh tòa uy nghi.

Đôi bên voi ngựa đứng quì,

Nhãn nhƣ phƣợng múa hạc thì chầu lên.

Trƣớc án tiền nức mùi lan xạ,

Trên bệ rồng khói tỏa hƣơng xông.

Anh linh cầu ứng cảm thông,

Nghi môn lồ lộ điện rồng nguy nga.

Dƣới sông thuyền chở chèo qua. [89]

Buồm trƣơng thuận gió thực là uy dƣơng.

Cảnh lạ nhƣờng đƣờng hòe dặm liễu,

Lá phất phơ yểu điệu mầu xanh,

Bốn bề sơn thủy hữu tình,

Gần xa đều đến hiến thành làm tôi.

Địa linh biệt chiếm cảnh trời,

Thiên hạ mọi ngƣời biện lễ kính dâng.

Minh đƣờng sông cái đại giang,

Bên sau huyền vũ nổi càng thêm cao.

Các anh hào gần xa đều đến,

Cầu việc gì hiển hiện linh thông.

Phép thiêng hành vũ hành phong,

Phép linh tựa nƣớc độ long đi về.

Dƣới thủy tề công đồng nghị luận,

Trên thƣợng thiên mặc vận thần thông.

Phép thiêng thánh giá ngự đồng,

190

Có lòng phụng sự ban công lộc nhiều.

Bách quan văn võ thần liêu,

Khâm sai quốc tế dập dìu đai cân.

Đứng chật sân y quan lễ nhạc,

Tửu tam tuần tiến chuốc thung dung.

Tuần sơ tuần á [90] tuần chung,

Nội thông ngoại tán đều cùng không sai.

Ngày thƣờng tiến cúng lễ tƣơi,

Sắc phong thƣợng đẳng muôn đời truyền lai. Hạ tuần tháng tám đôi hai125,

Trải qua xem dƣờng khoan bơi đua chèo.

Cả hò reo dƣới sông lừng lẫy,

Trên xƣớng ca đàn hát sênh rung

Trống thùng thùng chuông vàng điểm rót.

Giọt đồng hồ thánh thót thánh tha,

Đôi bên trống gióng kèn loa.

Thƣợng du độ kỷ hạ hà độ bông.

Đôi bên sông đỏ đào sắc sở,

Nhác trông lên vẫn ngỡ động tiên.

Phàm trần dễ mấy nơi hơn,

Thơm danh nức tiếng dậy miền Thái Ninh.

Trên đế đình khâm sai sắc mệnh,

Xuống An Nam nhất lệnh cứu dân.

Chúc mừng đế thế nhƣ xuân,

Độ trì hải hội nhân nhân an toàn,

Sở cầu nhƣ ý tự nhiên,

125 Đôi hai: hai mƣơi

191

Gia gia đại tiểu thiên niên thọ trƣờng.[91]

Bài 20. LIỄU HẠNH CÔNG CHÚA VĂN

Triện hƣơng thơm dốc lòng bái thỉnh.

Vọng cảm thông tiên thánh uy linh,

Chữ rằng thiên tích thông minh,

192

Đảo từ tiêu sái anh linh chi cần.

Thƣợng đại nhân quản cai tam giới,

Vua Ngọc hoàng chính vị trung ƣơng.

Cửu trùng lồ lộ ngai vàng,

Anh hùng hào kiệt bốn phƣơng lại chầu.

Chốn long lâu hữu ti tấu sự,

Tâu rằng nàng công nữ thế gia.

Vào chầu thƣợng đế trƣớng tòa,

Đánh rơi chén ngọc tội đà thông thiên.

Lệnh chỉ truyền tứ phƣơng dẽ gió,

Nhiễu thiên thƣờng chính thống chƣa yên.

Phán rằng bình trục trung hiền,

Xuống huyện Thiên Bản kiết duyên họ Trần.

Việt tuyên nhân nữ trung Nghiêu Thuấn,

Minh tắc quân tử tiến chi gian,

Triều đình dĩ chính bách quan.

Thủy chung nhƣ nhất thân đoan tâm thành.

Tri cửu kinh tôn hiền [92] kính sĩ,

Biện nhân tài vô nhị vô ngu.

Chúa hằng thận quyết thân tu,

Tạ từ kim khuyết tu du bấy chầy.

Xuống Nghĩa Hƣng phủ Dầy Thiên Bản.

Thác sinh vào thế phiệt trâm anh,

Mừng nay thiên hạ thái bình.

Hình thố bất dụng triều đình âu ca,

Vận thái hòa đĩnh sinh anh chúa.

Quốc sắc thời yển vũ tu văn,

193

Phong lƣu tiết hạnh thanh tân.

Khí chất vƣu mỹ có phần hiếu trung.

Ngự trong cung lan đài thạch thất,

Vân Cát thôn là đất vào ra.

Chúa từ tuổi mới mƣời ba,

Định kỳ giá thú thông gia họ Trần.

Đôn nhân luân thuận nhi dĩ hỹ,

Đà khẳng tòng phụ phụ phu phu.

Trinh nguyên gặp hội Đƣờng Ngu,

Thung dung tựu nghĩa công phu sự thƣờng.

Tam bách niên cƣơng thƣờng chi trọng.

Nghĩ phận rằng đã xứng trần duyên,

Hai mƣơi mốt [93] tuổi xuân nguyên,

Luân đài chi chiếu đội lên thiên đình.

Nghĩ sự tình năm canh thắc mắc,

Lệnh thiên tào thời khắc bất phân.

Mồng ba tháng ba giờ dần,

Hài hoa trở gót đằng vân lên tòa.

Để mẹ cha bồi hồi lăn lóc,

Những ngậm sầu dằn dọc tƣởng trông.

Xét soi mặc ý cửu trùng,

Đạo tắc vị tận hiếu trung vị hoàn.

Bài 21. BẢN LUYỆN LONG THẦN VĂN

Chính khí hòa lòng gƣơng dãi tỏ

Chốn Già Lam soi rõ tôn dung

Đức ông chính ngự ngai rồng,

194

Mặt hây hây đỏ uy hùng long nhan,

Đệ tử tôi trƣớc ban trầu trực,

Giọng ngũ âm cung bực bẻ bai.

Lòng tin già trẻ ai ai,

Lầm rầm khấn vái hôm mai khấu đầu.

Hiển phép mầu uy cƣờng dũng mãnh,

Chốn Phạm đƣờng quản lĩnh sơ [94] sau.

Nhân gian nào có biết đâu,

Đêm ngày kiểm sát một mầu bỉnh công.

Phép đức ông linh thông đệ nhất,

Biện ngay gian chẳng nhặt một phần.

Lại hay giá vũ đằng vân,

Ra uy hách dịch làm thần Già lam.

Ấy ai mà gian tham xâm phạm,

Ra uy làm sầu thảm nào oan.

Biết đâu mà vái mà khấn,

Chẳng là đức đại tôn nhan ngƣời hành.

Thế giới rộng thênh thênh đất đất.

Quyền ông hay kiểm sát gần xa,

Ông hay sát quỉ trừ tà,

Khuông phù thiện tín đàn na mỗi ngƣời.

Hay xét soi việc đời lành dữ,

So hào ly bằng tựa cầm cân,

Thông minh chính trực chi thần.

Hộ ngƣời sát quỉ thập phần chí công.

Pháp đức ông linh thông hiển hách,

Thƣờng âm hành khiển trách càng ghê.

195

Nhân gian ai dám động hề,

Của trong Tam bảo126 chiêu [95] đề127 thiêng thay.

Ấy ai mà tính hay chấp chiếm,

Hạ lệnh hành linh nghiệm càng gia,

Bởi vì chiếm làm của nhà,

Của thuộc Tam bảo chiếm hòa sao an.

Bóng chỉ toàn mƣu gian chƣớc dối,

Không nghĩ rằng đến tội về sau,

Nào ngờ nã tróc giám thu,

Ba hồn bảy vía dễ hầu đƣợc ra.

Lƣợc hỏi tra ám hành khảo đánh

Thân tự nhiên sinh bệnh ốm đau.

Nghĩ ra mà biết khấu đầu,

Điền hoàn lễ tạ khấn cầu mới tha.

Ấy biết là pháp ông trách khiển,

Hiển uy linh phúc thiện họa dâm.

Bỉnh công pháp nhất tâm,

Ra tay cân nhắc chẳng nhầm ly phân.

Đâu đó hiện phép thần kinh khủng.

Gần xa đều ngƣỡng tụng thần uy.

Thế nhân ai có việc gì,

Tấc thành dãi tỏ tức thì cảm thông.

Dậy uy phong lệnh sai binh mã,

Ứng khẩn [96] tình cứu cả toàn gia.

Lên tay phép nghiệm càng gia.

126 Tam bảo: Chỉ vật của Phật, Pháp, Tăng

127 Chiêu đề: Chỉ vật chung của Tăng đoàn

196

Diệt loài yêu nghiệt an hòa phƣơng dân.

Cứu sinh nhân pháp thần hiển hách,

Độ u hồn trệ phách đƣờng âm,

Dƣơng thời già trẻ an tâm,

Âm thời thoát khỏi u trầm siêu sinh,

Hộ trì nhân vật khang ninh,

Chu niên vƣợng tƣớng hiển vinh lâu dài.

Hoặc là già trẻ gái trai,

Kính tin đạo Phật trì trai khẩn cầu.

Xét gót đầu dĩ công chuẩn quá,

Hiện điềm lành phúc lạ đến ngay

Mới hay phong cảnh chùa này,

Cảnh thì sầm uất chùa rày càng linh.

Dù khi đảo vũ kỳ tình,

Nẫm trứ linh ứng duy thành khả thông.

Sở cầu nhƣ ý bằng lòng.

Thọ tăng lộc tiếp thông đồng vào ra.

Xét soi trong cõi ngƣời ta,

Hễ giồng cây phúc nở hoa đời đời.

Tiểu tôi kính chúc mấy lời,

Thƣờng [97] thƣờng tiến lộc chiêu tài đề đa.

Hoặc ai trêu gở đó mà,

Xin ông phụ chính tồi tà làm uy.

Mặc trì thọ khảo duy kỳ,

Lửa hƣơng rạng rỡ phụng trì hôm mai.

Chữ rằng họa khứ phúc lai,

197

Dực phù quốc tộ lâu dài thiên xuân.

Bài 22. BÁCH HOA VĂN

Nay mừng gặp hội đỉnh tân

Trƣớc đàn hiên cung chúc muôn thần giáng linh

Gió xuân hay háy chiều thanh

Mƣa xuân lún phún phát sinh đó mà

198

Nhìn xem trăm thức cỏ hoa

Hoa nào là chẳng đƣợm hòa hơi xuân

Khuyến mời các bộ hoa thần

Rẽ mây mà xuống mừng xuân đua tài

Đầu non vài điểm hoa mai

Cả hƣơng hoa mộ trang đài tiêm xuân

Hoa lan nức của thiên quân (vua chơi lan)

Hoa sen thơm thấu chín lần từ tôn (hoa sen nơi cửa Phật)

Hoa quì hƣớng vọng thiên môn

Hoa hồng dãi tỏ tấm son hiến thành

Hoa ông bụt lòng lành phổ tế

Hoa tử vi giáng thế diên linh

Tƣờng vi hoa nhiễu quanh thành

Cát tƣờng hoa hiện [103] điềm lành trƣờng sinh

Dƣỡng tính tình rồi hoa thƣợc dƣợc

Hoa sơn trà cũng trạc thanh cao

Mẫu đơn hoa bậc phú hào

Xuyến châu hoa lủa ngọt ngào thanh tao

Phù dung sớm trắng giờ điều

Mơ mơ mận mận dập dìu ngày xuân

Kìa kìa hoa cúc trƣớc sân

Tuy rằng vãn tiết có phần ngạo sƣơng

Đỏ tƣơi kìa đóa hải đƣờng Trăng thu ghi bóng nghê thƣờng128 hoa lê

Đôi bên kim phƣợng đứng kề

128 Nghê thƣờng: thƣ xiêm áo của nàng tiên

199

Gà quan hạc đỉnh trƣớc hè nghiêm trang

Hoa cam hoa quýt nhỏ hƣơng

Tìm hoa thiên lý dặm trƣờng kết thân

Hoa bách nhật thay lần chầu chực

Hoa phèn đen một mực thảo ngay

Nữ trinh trong sạch ai tày

Tầm xuân hoa nụ tháng ngày tiêu dao

Tuổi thơ đƣơng trạc lầu đào

Đây hoa bƣơm bƣớm lén vào vƣờn xuân

San hô châu bảo không ngần

Đồng nam đồng nữ tấn tần đẹp duyên

Hoa thủy tiên tòng thiên giáng hạ

Thoạt gấm hoa vẻ lạ muôn phần

Quế hoa [104] cung cấm mấy lần

Hạnh hoa nàng chốn vƣờn xuân …. Hình

Này hoa dạ hợp cũng thanh

Yêu vì một nỗi năm canh thơm nồng

Hoa cà hoa pháo một lòng

Thú quê lẩn quẩn mến lòng nông gia

Mặt hoa đậu ván kia là

Cớ gì sám ngắt nhƣ là giận ai

Thoảng thơm kìa giống hoa nhài

Tuy thần chẳng cúng nhƣng ngƣời vẫn ƣa

Giống đâu có giống hạng hờ

Hoa trang hoa súng lờ mờ vẻ sao Li ti mấy giống hoa lâu129

129 Lâu: cỏ lâu, mầm của nó ăn đƣợc

200

Cúc tần hoa nọ hiếm đâu cúc vàng

Thơm tho hƣởng mùi hƣơng hoa cải Hoa tiểu hồi130, kinh giới, hồ tuy131

Hoa bầu hoa bí thơm gì

Ong kia khi cũng yêu vì ngẩn ngơ

Lại còn mấy giống hoa dƣa

Dƣa gang dƣa chuột quen ƣa dãi đằng

Này hoa đơn quế cung trăng

Sớm khuya đà cậy chị hằng hái cho

Hoa gì đệ nhất thơm tho

Phải chăng hoa huệ mấy chòm trƣớc sân

Móng rồng mây cách mấy lần

Tranh thi cùng xuống theo [105] chân chị hằng

Kì lân hoa nở bôn đằng

Ai hay linh vật lạc chừng thôn chăng

Phƣợng tiên hoa cũng khác thƣờng

Kìa hoa Phật thủ mƣời phƣơng xƣng hiền

Nay lời thế tục còn truyền

Hoa sung kia dẫu có tiền khó mua

Hoa ngâu bé muốn thơm tho

Sao bằng bách hợp về hòa trăm hoa

Trơ hoa nhãn rạng hoa na

Sắc tài thôi cũng kể là chẳng không

Sao bằng vận đỏ hoa phong

130 Hồi hƣơng: cây hồi hƣơng hoa có tám cánh, mùi thơm lạ, hoặc dùng ép dầu để xoa, hoặc làm

thuốc, nấu ăn

131 Hồ tuy: một thứ rau, lá non dùng nấu đồ ăn thơm ngon, cũng dùng làm thuốc

201

Hoa xoan hoa gạo một dòng từ bi

Chua ngoa hoa quất hồng bì

Kìa nhƣ hoa ổi mùi thì ƣơng ƣơng

Hoa cà thơm ngát mùi hƣơng

Hoa lựu phun lửa bên tƣờng sáng trƣng

Lăng Tiêu hoa mọc lƣng chừng

Tía sao hoa nở ngát lừng trên không

Lại còn hoa thị hoa bòng

Tên hoa thục đấy là dòng đỗ quyên

Hoa chanh hoa bƣởi hoa hiên

Sắc hƣơng nghe cũng có tên trong đời

Hoa cau vốn sẵn hƣơng trời Cùng hoa cẩm trƣớng hoa roi hoa đình132

Kìa hoa dừa bẹn cũng xinh [106]

Rủ hoa […] mãn đình hồng trang Hoa hòe hoa khế hoa dƣơng133

Hoa xoan hoa […] sắc hƣơng kém gì

Hoa gừng hoa nghệ tranh thi

Để hoa quít kim yêu vì loanh quanh

Hoa đèn báo tín phân minh Cẩm cù134 hoa nở hiến thành thùy lƣu135

Lạ thay mấy nhánh hoa giầu

Bồ đào nguyệt tú đua nhau lạc tòng

132 Hoa đình: đình lịch loại rau đay, lá để ăn, hạt để làm vị thuốc

133 Hoa dƣơng: hoa dƣơng liễu

134 Cẩm cù: một loại rồng trong truyền thuyết

135 Thùy lƣu: tua cờ rủ xuống

202

Trăm hoa đều đến đàn hiên

Chung dâng hoa vạn thọ chúc đồng muôn thu.

Năm ất mùi, tháng ba ngày tám đem tài hoa ngâm tạm mà chơi

Bắc Ninh huyệnVũ, chùa Lôi, trụ trì Chính Đại là tôi đính đề

Tùng hiên nguyên thảo

Bài 23. SAI TIÊN DƢỢC VĂN.

Trầm hƣơng một triện kính dâng,

Thỉnh chƣ tiên dƣợc tới chƣng bản đàn.

Nhà quan quế bây giờ chỉ thực,

Cửa thiên môn thiết lập hoàng đàn.

Kim ngân hoa quả tức an,

Nhũ hƣơng một dƣợc trạch lan đƣợm hòa.

Lễ bạc hà tân lang xuy tửu,

203

Gọi lấy lòng cam thảo kính tin.

Đăng tâm cao bản xa tiền, Cộng chƣ hậu phác136 khấn nguyền Quan Âm.

Tốc lai lâm huyền tham phá cố.

Thƣơng nhĩ nghe đậu cổ tam thông.

Luyện chƣ tiên dƣợc đả đồng, [98]

Dẫn đem đồng tử tới cùng qua lâu.

Hồng hoa nàng hỡi đi đâu,

Để thầy độc lực diễn thâu đêm trƣờng.

Mộc hoa bách hợp trăm phƣơng, Nhân ngôn triệt ngƣợc mãi đƣờng xuyên khung137.

Chày kình ai luyện đêm đông,

Uy nghi thần khúc đẹp lòng hay chƣa.

Nhân trần đôi đoạn phất phơ, Mƣợn tay tạo138 giác xin đƣa duyên cùng.

Thanh bì tƣớng ở phƣơng đông,

Nam phƣơng xích thƣợc tây cung bạch đàn.

Bắc phƣơng hắc đậu đã an,

Trung ƣơng hoàng bách đáo đàn khi nay.

Ngũ phƣơng ngũ vị mạnh thay,

Ra tay kết gánh ta nay đánh đồng.

Cắm Liên Phòng Sơn chi điểm đốt,

136 Hậu phác: cây phác, vỏ của nó dùng để làm thuốc gọi là hậu phác, thƣờng mọc ở tỉnh Tứ Xuyên

Trung Quốc

137 Xuyên khung chính là một loại cỏ có tên là Khung Cùng, sinh ra ở đất Thục nên gọi là Xuyên

Khung, củ của nó dùng để làm thuốc

138 Tạo: chỉ quả bồ kết dùng để tẩy rửa mang chức năng nhƣ xà phòng bây giờ

204

Giọt đồng hồ thánh thót thánh tha.

Nào là hòe hoa quế hoa,

Đôi nàng thì chớ ở ra hai lòng,

Nhục thung dung đƣơng qui đỗ trọng.

Đại hoàng kỳ chính thống chấm binh.

Mai hoa quán chúng [99] phụng hành,

Cùng thầy quốc lão tính tình tiêu dao.

Đã hay viễn chí giá cao,

Lâm râm đèn hạnh thì nào mộc thông.

Ngày thì sứ điệp tín ong,

Đêm thì đồng nữ liên phòng vu qui.

Tốt đôi bạn hạ trần bì,

Mảng tham đậu khấu yêu vì nhân sâm. Nào khi thấy có hoàng cầm139, A giao140 qui bản âm thầm non tiên.

Chỉ thiên thục địa thề nguyền,

Đồng nam đồng nữ kết duyên giao hòa.

Đa đoan hay nết đào hoa. Ra lòng thiền thuế141 khéo là buồn tênh.

Nỗi tính tình thần qui trạch tả.

Mối tơ hồng ai gỡ giúp cho,

Nào ngƣời yến hạc bơ vơ,

Tấn Tần ngao ngán Việt Hồ buồn tênh.

139 Hoàng cầm: loại cỏ nhƣ lá tre, chồi hình vuông, lá giống mũi tên, mùa hè nở hoa tía, rễ vàng, có

tên khác là Không tràng, mọc ở nơi ẩm thấp, rễ thƣờng dùng làm thuốc

140 A giao: một loại cao đƣợc nấu từ da của các loại động vật,

141 Thiền thuế: xác con ve sầu

205

Bằng nay thấy có nam tinh,

Liền quên bán hạ bỏ anh chẳng nhìn.

Nào khi Liên nhục kết nguyền,

Bỗng tham phụ tử tích miền bồng nga.

Ấy ai [100] sứ điệp mật đà,

Mảng tham thạch lãnh xà sàng mặc ai.

Thắm cấp phai hồng hoa tô,

Mộc khi động eo tục đoạn tần giao,

Thì nào tiên nữ dẹp vào,

Gió lay trúc điệp non cao tiền hồ,

Hỡi các cô thung dung ta nhủ,

Chớ ra lòng thạch nhũ đà hoa.

Tính thiêng sát quỉ trừ tà,

Sƣơng siêu thiên tải hòe hoa rũ cành.

Tráng tính tình bát trân cẩu dĩ.

Chuyển lục tình mối rối tàm khƣơng.

Thẩn thơ thay nỗi sa đƣờng,

Đều ở mát mẻ khang cƣờng tỉnh tao.

Thần sa định phách chiêm bao,

Trừ tà trị bệnh phép nào thần thông.

Tôi khuyên các vị công đồng.

Mà hoàng quỉ kiến đồng đồng phá tan.

Thiên binh thiên tƣớng đáo đàn,

Áp cùng một dƣợc lôi phàm sơn tra.

Đồng nam mạnh khỏe thay là,

Hợp cùng thiên tuế tƣớng ta áp vào.[101]

Xạ hƣơng đƣờng đột thiên tào,

206

Lƣơng long rủ xuống ba đào thủy tinh.

Nào là thiên binh địa binh,

Áp vào một trận chấp anh phen này.

Khƣơng hoạt độc hoạt áp tay,

Ngƣu tất địa cốt áp rày hai chân.

Trên đầu sai ngũ linh quân,

Hai vai hai tƣớng thiên thần phục linh.

Ba trăm đậu phác khƣơng hành,

Chuyển tâm chuyển phúc thời mình liền mê.

Dẫn đem đồng tử một khi,

Thanh đậu bạch mễ đều thì đốc thôi,

Dẫn đồng thăm hỏi mọi nơi,

Đƣơng qui sứ giả theo đòi hồi hƣơng.

Hợp tam hoàng hoàng liên hoàng bách,

Cộng hoàng cầm phụ tá tứ quân.

Uy linh bạch chỉ tế tân,

Ba tƣớng phép nghiệm uy thần chỉn ghê.

Vâng lời thánh tổ Phục Hy,

Thần Nông Hoàng Đế uy nghi dậy nhƣờng.

Ba trăm sáu mƣơi uy cƣờng,

Tốc giáng bản đàn đều hộ [102] mọi nơi

Trƣớc lên trời hỏi thăm duyên số,

Sau xuống tìm địa phủ dƣơng gian.

Thầy nay có lệnh luyện hoàn,

Các chƣ tiên dƣợc đáo đàn nhƣ phi.

Nhƣ ý dĩ quân thần tá sứ,

Cứu ngƣời ta nam nữ chƣ nhân,

207

Cấp nhƣ luật lệnh.

Bài 24. BỒNG LAI VĂN

Bồng lai cảnh trí tự nhiên

Hoa lồng nguyệt cảnh phong truyền thiên hƣơng

Trùng sơn điệp thủy thanh lƣơng

Hà thôn xa cái vân hƣơng tinh kỳ

Nhàn tuế nguyệt cầm kì tửu hội

Nhạc phong quang bất miễn trần ai

Cửu thiên dật hứng vô nhai

Yên lung bút trát hoa bày thi thiên

208

Hồ sơn tiêu tửu niên [107] niên thập phần

Hoán hảo tam niên hồi trần

Diệu trắc giáng hàn sinh vũ hóa

Giá vân xa phong mã trì [..] khu

Cảm thông cơ tiệp cổ phù

Mao đƣờng (ngôi nhà bằng tranh) chỉ xích bồng châu thiên trùng

Thiên tƣ phong cách hào hùng

Tĩnh đƣờng sấn bộ (theo bƣớc chân) tín đồng giáng linh

Điện quang chiếu thấu kiền thành

Hiện thành diệu pháp thổ thành giai thi

Thần thông lực vân trì thỏ quản

Uyển nhiên thành cẩm tú văn chƣơng

Thanh quang tảo lệ (vẻ rất đẹp) phi thƣờng

Tao nhân giác úy thƣ đƣờng sinh huy

Tƣơi nghiên câu sảo vận kì

Từ trung thoát tận thiên cơ nhân tình

Tùy sở vấn tƣờng minh khải cáo

Khai đồng mông chỉ giáo hiềm nghi

Vấn chi mạc bất cáo chi

Quang thùy duệ giám chiếu chi phàm tình

Điều nhiên thần hóa anh linh

Sơn trang khể thủ kì binh khấu đầu

Thành tất ứng một cầu nghi vật

Phù chú tuy dục khuất bất năng

Đại tai tiên thánh chi xƣng

209

Bao xƣng bất dĩ hình dung hạt cùng (sao cùng) [108]

Bài 25. NGỰ VẤN

Lê triều Vĩnh Hựu hoàng đế

a. Phiên âm

Ngự đề

Vấn :

Phật đạo vô cùng, duy dĩ từ bi vi niệm, khảo chi ư Kinh hữu viết: Phật

tam thế Như Lai nhất thiết Phật, hà dĩ thành Phật dư ?

Bát nhã chi Kinh, cứu khổ chi thuyết, hà do nhi tác dư ?

210

Tha như ô nãi ác vật hữu hà công đức nhi cư phan thụ chi thượng ?

Qui nãi thạch tinh, hữu hà tôi khiên nhi phụ bi văn chi hạ ? Thử đẳng hà

hữu dị dư ?

Tứ Bồ tát, Bát Kim cương, tả thánh tăng, hữu thổ địa, bất tri sở chưởng

hà chức ? sở ti hà sự ? nhi quân liệt ư tự nội dư ?

Đạt Ma thiền sư, hà đương thế nhi khước thụ ô sô chi ách, Sài Nham lão

tổ thị hậu thân lưỡng hóa mãnh hổ chi kì [109] thị hà đạo pháp tinh vi, nhi

khước hữu thử dị sự dư ?

Thiện ác lưỡng hộ pháp quân thị ư Phật tiền, nhược nhiên thiện giả khả

dụng, nhi ác giả diệc khả dụng dư ?

Chân nhạn nhất Quan Âm, đắc thành ư Phật đạo, nhược nhiên chân tu

khả thành nhi nhạn tu diệc khả thành dư ?

Phật thị Phật dã, thanh tịnh pháp thân, bất tri tửu sắc hà sự, nãi hữu

Quan Âm chi bão tử. Thế Chí chi huề hồ nhậm tình hà phóng đãng dư ?

Pháp thị pháp dã, tu luyện tân khổ bất thức thế tục nhân tình, nãi hữu

Tuyết Sơn chi thậm sấu, Di Lặc chi thậm phì. Thành công khước hữu dị dư ?

Giải oan chi thuyết, thuyết cứu vong nhân, thị nhi phi phi nhi thị, quả

năng tri dư ?

Địa ngục chi phá, phá cứu tội nhân, sắc thị không, không thị sắc, quả

năng thức dư ? Trẫm lệnh dục [110]

Hoàng đồ hữu vĩnh, Phật đạo tăng huy, vi hà nhi khả, thiền sư tu luyện

thiền môn, thiệp tri kinh giáo, thí vi trần chi, dĩ quán đắc đạo chi học.

Đối

Tăng văn

Cùng thiên địa nhi hậu tri thái cực chi hỗn luân; hợp sơn thủy nhi hậu

tri thương minh chi hạo đãng. Phật đạo khôi khôi diệc du thị dã, cái hoằng

thâm tinh mật, ẩn cơ giam ư bất không chi không, nhi minh tâm kiến tính chi

211

linh miêu, tuy vô dã nhi vị thường bất hữu, thần diệu cảm thông, tạng căn chi

ư vô tướng chi tướng, nhi xiển đạo tế nhân chi tuệ quyết. Tuy cao dã nhi bất

chí ư hư, thị cố niệm niệm khấu tức tâm chi Phật, tức phản vọng qui chân, nhi

bà tâm tự tại, tự khả huân, đàm hoa bối diệp chi chân hương, khẩn khẩn cầu

tại ngã chi thiên. Tức giải niêm thích phược, nhi phúc nguyện [111] Như Lai

tự khả lạc Thứu Lĩnh, Kì Viên chi cảnh giới. Cầu kì liễm phúc tích dân, lập

địa thành Phật, khâm hữu vọng ư kim nhật yên. Tư thừa sách vấn chân ngôn,

cảm bất cẩn đương trì tụng.

Thiết vị Phật khởi bằng không thuyết xuất đế đạo da, cái tối diệu tối

huyền, tiên thiên địa nhi bất kiến kỳ thủy, hậu thiên địa nhi bất kiến kỳ chung.

Nhi kỳ vi giáo dã.

Dĩ trí tuệ giác nhân, dĩ từ bi lợi vật, hiếu sinh chi đức, bất sát chi nhân,

chân cá thị từ bi chi đại nguyện dã. Khảo chi Hoa Nghiêm kinh hữu viết :

Phật tam thế Như Lai nhất thiết Phật, hà dĩ thành Phật dã.

Tận tâm yên dĩ hĩ, cái tâm vi thánh phàm chi bản thiện chi căn, nhược tu

luyện thử tâm, nhi chí ư thiện ác song kị, thánh phàm câu dẫn tịch nhiên vô

tâm chi cảm, tắc đăng bỉ ngạn, như sát na gian, thử thành Phật chi diệu chỉ

dã.

Tức [112] kỳ viết: nhược nhân dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng

quán Pháp giới tính, nhất thiết duy tâm tạo. khả kiến Phật thị tâm, tâm thị

Phật dã. Suy thử tâm dã, mẫn chúng sinh chi tâm tùy cảnh chuyển, nhi trí

hữu bát nạn tam tai chi khổ não. Ư thị hồ hữu Bát Nhã lục bách quyển kinh,

duy nguyện nhân chi giác ngạn đồng đăng tức mê chuyển trí, ám chuyển minh.

Thứ khả phá trùng chi chướng ế. Niệm nhân thế chi tâm vi vật dụ, nhi trí hữu

thiên sầu vạn khổ chi tai ương.

Ư thị hồ hữu cứu khổ chi tụng thiên vạn biến. duy nguyện Thế Tôn chi

212

nhân thân đắc độ, tức nhân ly nạn, nạn ly nhân, thứ khả siêu khổ hải chi trầm

luân, tức kệ vân: thử kinh phó chúc ngã đế vương, vị nhữ quần sinh tác y hỗ,

bát nhã chi tác vi thử dã.

Tức nguyện vân: phổ nguyện trầm nịch chư hữu tình, tốc vãng vô lượng

quang Phật sái, cứu [113] khổ chi tác dĩ thử dã.

Chí như ô nãi ác vật, tự vô công đức hĩ, nhiên chuyển pháp luân ư tháp

thượng chi hàm phan, nhi cửu trùng tật liệu, khả tế tam sinh chi thọ toán, ô

chi công dã, tắc dĩ ác vật nhi cư phan thụ chi thượng.

Chính sở dĩ tiêu thục phụ chi âm công, qui nãi thạch tinh, tuy vô tội

khiên dã, nhiên ưởng tư dục ư thủy trung chi tạng giáp, nhi tam tạng kinh

trầm, quang minh tam cú chi khuyết vong, qui chi tội dã, tắc dĩ thạch tinh nhi

phụ bi văn chi hạ.

Chính sở dĩ hiển thấp kinh chi ác báo, hoàn quán Phạm vũ, sự hiển thần

ư nội liệt chi đản sinh, nãi cải ác dĩ tòng thiện, trì giới dĩ tụng Kinh, quân hữu

nghiệm, phù tam thiên Phật cúng dàng chi thiện báo, ư thử liệt tứ bộ nhi tham

thiền chầu Phật.

Bồ tát sở ti chi sự dã, liệt bát bộ nhi hộ Phật hàng ma, Kim cương sở

chưởng chi chức dã [114]

Hữu lạc đạo ư bát bình chi tu luyện, nhi trai thực chi giám đàn, thỉnh

diên chi áp quỷ, quân hữu dĩ tạo phù bất nhị môn huyền diệu chi chân thuyên,

ư thử tại hữu biên nhi kiểm sát thực hư. Thánh tăng sở chưởng chi chức dã.

Tại hữu biên nhi chứng giám văn từ, thổ địa sở ti chi chức dã. Kiến chư thánh

chi liệt ư tự nội giả, phi vô sự dã, phi vô chức dã.

Đạt Ma thiền sư nãi tây thiên tự tổ dã, năng chuyển tâm ấn độ mê tình,

ninh phục hữu túc duyên chi vị thoát, duy nam hải ngưng thần chi hậu, thủy lộ

phùng qui, bất phù kí ngữ, nhi qui văn loạn nhĩ, bật ngộ đạo giả. Do thử toại

213

thành ế nguyệt chi tiêm trần.

Đạo Hạnh đại sư, nãi Quán Âm đệ tử dã. Tức tọa Sài Nham hoằng diệu

pháp, ninh phục dung nghiệp chướng chi hoặc khiên, duy thanh quan đản

thánh chi dư nghiệp ấm [115] dĩ hổ. Du kí tiền khiên nhi hổ biến kì hình, thị

đắc đạo giả ?

Do thử toại chức hậu thân chi quả báo, thị tắc ô sô chi ách. Bất khế giả

ách chi dã, mãnh hổ chi kì tương hí giả kì chi dã.

An khả dĩ thử nhi ngưng nhị tổ tai, Quán chư thiện ác lưỡng hộ pháp dã.

Thiện hữu dĩ Khẩn Na La vương thái tử, nhân hoằng bá thí lân mẫn chúng

sinh, niệm trì công ư Quảng Lợi vương cung chi cầu ngọc, dĩ thử nhi Bồ tát

hóa thân tự tả hữu duyên thường thị Phật.

Thiện thần giả, thành khả dĩ vô quí sắc hĩ, nhược ác hữu chi thủy vi bạo

ác, đặc khí loại chi tự nhiễm sở sinh nhĩ. Tự cảm ngộ ư thủy cung đắc bảo chi

huyền cơ, tùy Phật xuất gia hữu đại thần lực. tích thời chi ác giả, dĩ nhất biến

nhi vi thiện chi bà tâm. Tắc hữu biên thị Phật, dữ thiện giả nhi quân thị Phật

tiền [116] Diệc hà ách độ môn chi thụ dụng.

Khảo chư chân nhạn nhất Quán Âm dã. Tiền thân dĩ Diệu Trang vương

nữ tử, chí mộ xuất gia thiện tâm tu đạo, gia trì lực ư Bổ Đà sơn thượng chi

truyền đăng, dĩ thử nhi mê tân khả độ. Thần thông vô xứ bất hiện thân, chân

tu giả thành khả dĩ tê chân đạo hĩ.

Nhược hậu thân chi hứa tác nam nhi, trì thụ oan chi tự tuần chân tích

nhĩ, nhiên thành khẩn ư vân tự tham thiền chi khổ hạnh. Chân tâm kiệt lực tận

tẩy trần duyên, hậu kiếp chi nhạn tu tự vô dị ư chân tu chi thiện niệm. tắc hóa

pháp thành tiên dữ chân tu nhi đắc thành Phật đạo. Diệc hà phương tuệ quả

chi đoàn viên.

Ngu cố viết: hộ pháp quân thị hộ pháp dã, tuy thủy hữu thiện ác chi thù

nhi yếu chi chung, đồng thử đạo tâm tắc lưỡng hộ pháp đồng vu qui nhất cố

214

thiện giả khả dụng, nhi ác giả diệc [117] bất phương ư khả dụng dã. Quán

Âm quân thị Quán Âm dã, tuy tích hữu chân nhạn chi dị, nhi nguyên kì tâm

chuyên trì Phật pháp, tắc nhất Quán Âm bất khả dĩ nhị, cố chân tu khả thành

nhi nhạn tu diệc bất hại kì vi khả thành hĩ.

Vạn phái tuy dị nhi đồng nguyên, Phật quân thị tây thiên nhất thiết Phật

dã. Thanh tịnh pháp thân, ngũ uẩn trí nghiêm ư phạn giới, cố bất tri tửu sắc

hà sự dã. Duy tam niên cưỡng bảo, khởi nhẫn vong bảo xích chi hằng tâm,

Quán Âm chi bão tử minh linh tử dã.

Hà tằng khiên ái hà hữu dục chi ba đào, bát đức thanh lương thực hữu

hệ tẩy trần chi pháp thủy. Thế Chí chi huề hồ nhất cam lộ hồ dã. Hà tằng

luyến hoàng hoa đa tình chi khúc bách, pháp thân thanh tịnh, quả bất tri tửu

sắc chi tư hề.

Phật chân thị Phật dã, hựu hà hữu dụng tình chi phóng đãng tai, vạn

[118] xa tuy thù nhi đồng triệt, pháp quân thị Cù Đàm nhất chính pháp dã, tu

luyện tân khổ nhất trần bất nhiễm ư tâm nguyên, cố bất thức thế tục nhân tình

dã.

Duy tuyết sơn lục niên bạch tuyết chi thanh tâm tằng kiệt đạo ư chân

kinh chi hữu vị, nhi chu cương, thước sào, tâm vô quản ngại.

Tự bất giác kỳ vi khô sấu chi đà nhan; Di Lặc tam hội long hoa chi cực

lạc, khả liệu cơ ư thiên hạ chi giai phì, tức thể bàn tâm quảng ngoại phát anh

hoa.

Tự bất giác kỳ vi sung phì chi phúc tướng, thị tắc băng kính vô trần, lật

bất thức thế tình chi tục lụy, pháp chân thị pháp dã. Hà tu biện thành công

chi đồng dị tai.

Khảo chư ư Kinh, giải oan chi thuyết, thuyết cứu vong nhân, thị khởi

bằng hư vô cứ tai.

Cái bản tự tính chi viên minh, nguyên vô tình dục nghiệp chướng dã. Sơ

215

khởi hữu oán chi tất tu giải tai. Duy [119] giác hải động dao chi hậu. Tình

sinh ái, ái sinh dục, ngũ nội si mê, nhi vạn kiếp luân hồi do thử thủy. Toại chí

thành kì vi lục kết oán gia, mẫn chúng sinh chi nhất kiếp trầm mê nhi giải oan

thuyết pháp, diệu thiền cơ ư chân kinh, lục tự chi tâm tâm, dĩ thử vi tế mê

xuyên chi bảo phiệt. Do chi nhi hàng lục tặc chứng lục thông, tắc thoát oan

khiên nhi đăng bỉ ngạn, tự ưng hữu lương đình thoát cốc chi chân cơ. Địa

ngục chi phá phá cứu tội nhân, thị khởi quả kiếp nan tín tai.

Cái bản chân như bình đằng, nguyên vô chư Phật chúng sinh dã, sơ khởi

hữu ngục chi tất tu phá tai. Tự minh đăng hắc ám chi dư, thức y căn căn y

trần, tam duyên hòa hợp, nhi thập bát tưởng tư do thử sinh. Toại chí thành kỳ

vi thập bát địa ngục, mẫn phàm tình chi vạn ban khổ não, nhi phá ngục khai

phương, mật tâm ấn ư Di Đà nhất cú [120] chi niệm niệm, dĩ thử vi siêu khổ

hải chi từ hàng. Do chi chuyển địa ngục thành La Hán, tắc xuất địa ngục nhi

thăng thiên đường, tự ưng hữu Địa Tạng độ thân chi cổ kính, tức kỳ viết pháp

giới bản vô chúng sinh, chúng sinh duyên hồ vọng kiến.

Phật đạo bản vô ngôn thuyết, ngôn thuyết vi ư hữu tình, tắc tri giải oan

chi thuyết, thuyết cứu vong nhân, thị nhi phi, phi nhị thị dã. Địa ngục chi phá

phá cứu tội nhân, sắc thị không không thị sắc dã. Phương kim, Thánh Thiên

tử, thừa lục đức dĩ ngự. Thiên phụng tam vô nhi hóa hạ, ngưng thần ư chí đạo,

nhi thận nhật trì trai tuất, Hình tỉnh ngục tắc. Thiên chi đức diệc Đường

Nghiêu chi vô năng danh.

Phật chi vô thượng giả, diệc dữ chi vô thượng hĩ. Chú niệm ư quần sinh,

nhi tuy điêu phủ sát, hàng [121] xá quyên tô, thí tế chi nhân, diệc Nghiêu

Thuấn chi kỳ du bệnh.

Phật chi độc tôn giả, diệc dữ chi vi độc tôn hĩ, ngưỡng vô lượng vô biên

chi công đức, nhất thiết Tăng tục mạc bất hỉ kỳ vi cổ Phật chi tái lai hĩ. Tư

giả, kiền thành bách bái, duy nguyện đăng doanh vô trần chi tâm kính, nhi tài

216

thành phụ tướng bản hồ nhất tâm chi thành. Thần linh bảo tự tịnh chi tâm

châu, nhi phu bố kinh luân bất ngoại thử tâm chi diệu. Suy thị tâm dĩ chính

triều đình, tắc thê ngô hối hối chi phượng minh. Nhất thị chi vi đăng long chi

lí, tắc nhất lộ phúc tinh vạn gia sinh Phật, Quân tử giả, quân đắc dĩ phúc tư

dân nhi cao chiêm nhạn trạch hữu địa giai xuân, tự khả hưởng lạc quốc hà sa

chi giải thoát. Suy thị tâm dĩ lâm thiên hạ, tắc trác lật uyên uyên chi hoàng

điểu, nhất [122] thị chi vi du phủ chi ngư, tắc nhân đầu la sát quỉ diện dạ xoa,

tham tàn giả bất đắc dĩ oan chúng đẳng nhi hoa lạc phúc đường vô tù khả cúc.

Tự bất phiền Mục Liên tích trượng chi chấn cổ, như thử đế đạo hà xương nhi

hoàng đồ củng cố, tuệ đăng phổ chiếu nhi Phật nhật tăng huy.

Phục nguyện quốc gia hữu vĩnh sơn hà cố, Phật đạo vô cùng nhật nguyệt

trường, tín chi vi lệnh nhật tụng dã. Tăng dã.

Cung vi hữu tướng sinh nhân không môn, tây hữu đại thánh nhân, tôn

đạo ngưỡng đồng ư Khổng tử, Nam mô Di Đà Phật, niệm kinh khẩn khấu ư từ

tôn, Bát Nhã Tâm Kinh, gia truyền khẩu chúc, Ca sa pháp phục đoan tọa diện

tường đạo vị dung ngũ pháp nhất tông, cự vị thiền môn chi tu luyện, Pháp vị

lĩnh lục thông tam muội. Cảm vân Kinh [123] giáo chi thiệp tri, dư tôn khấu

văn phụng hành. Thượng ngưỡng phủ thùy đỗng giám

Tăng cẩn đối

Tạm dịch

Hoàng đế Vĩnh Hựu triều Lê

Nhà vua hỏi:

Đạo Phật mênh mông, chỉ lấy từ bi làm tâm niệm. Xem trong kinh điển,

có câu: Hết thảy các đức Phật trong Tam thế Nhƣ Lai, vì sao có thể thành

Phật? (1)

Kinh Bát Nhã là kinh cứu khổ, từ đâu mà làm ra vậy? (2)

Còn nhƣ loài quạ là ác điểu, có công đức gì mà đƣợc đậu trên cành

217

phan? (3)

Rùa là loài thạch tinh, có tội gì mà phải đội văn bia? Những việc đó há

chẳng kì lạ lắm sao? (4)

Bốn vị Bồ Tát, tám vị Kim Cƣơng, Thánh Tăng bên trái, Thổ địa bên

phải, không biết các vị đó nắm giữ chức trách gì? làm công việc gì? mà đều

đƣợc đặt ở trong chùa? (5)

Thiền sƣ Đạt Ma, sao đang nhiên lại phải chịu ách nạn ô sô? (6)

Lão tổ Sài Nham, lƣờng trƣớc đƣợc hiện thân sau sẽ hóa thành mãnh hổ,

sao bảo đạo pháp tinh vi, mà lại có sự việc kì dị nhƣ thế? (7)

Hai vị Hộ pháp Khuyến thiện, Trừng ác, đều đứng hầu ở trƣớc Phật, nếu

thế thiện cũng dùng, mà ác cũng dùng sao? (8)

Thật giả một vị Quán Âm đắc đạo thành Phật, nếu thế chân tu đƣợc

thành Phật, mà giả tu cũng thành Phật ƣ? (9)

Phật là Phật, Pháp thân thanh tịnh, không biết việc tửu, sắc là gì, mà lại

có Bồ Tát Quán Âm ẵm đứa trẻ? (10)

Đức Thế Chí cầm hồ lô, buông thả tình cảm, sao phóng đãng vậy? (11)

Pháp là Pháp, tu luyện khổ cực, không biết chuyện thế thái nhân tình, mà

lại có Tuyết Sơn gầy còm, Di Lặc béo tốt, thành công sao lại có sự khác nhau

thế? (12)

Thuyết giải oan, cứu vớt vong nhân, phải là trái, trái là phải, quả báo có

thể biết đƣợc không? Phá địa ngục, phá cứu tội nhân, sắc là không, không là

sắc, quả báo có biết đƣợc không? (13)

Trẫm muốn cơ đồ đƣợc dài lâu, đạo Phật huy hoàng, làm thế nào để

đƣợc? (14)

Thiền sƣ tu luyện nơi cửa thiền, làu thông kinh giáo, thử trình bày cho

trẫm biết, để xem đó mà học đạo.

218

Tăng đáp rằng:

Nghe rằng: Cùng cực của trời đất, rồi sau mới biết hỗn độn của thái cực,

gộp núi sông rồi sau mới thấy mênh mông của sông bể, đạo Phật rộng lớn

cũng nhƣ vậy. Bởi rộng sâu tinh mật, ẩn giấu điều then chốt ở chỗ Không mà

chẳng Không. Mà mầm mống minh tâm kiến tính, tuy không đấy mà lại chƣa

từng không có. Thần diệu cảm thông, chứa gốc rễ ở chỗ tƣớng mà không

tƣớng, mà diệu pháp truyền đạo cứu ngƣời, tuy cao mà không đến tận tầng

không. Vì thế, niệm niệm dứt, liền tâm đó là Phật, tức là phản vọng về chân;

Mà bà tâm tự tại, tự có thể đốt lên chân hƣơng của đàm hoa bối diệp; khẩn

thiết tìm ở trong ta, liền giải chấp cởi buộc, mà phúc nguyện Nhƣ Lai, tự có

thể vui cảnh giới núi Thứu vƣờn Kì. Cầu mong góp phúc cho dân, thì đứng

trên đất bằng cũng thành Phật, ngày nay mới có chỗ trông mong đƣợc. Nay

vâng lệnh trả lời câu hỏi, đâu dám không cẩn thận dâng lời.

Trộm nghĩ, Phật há nƣơng vào Không thuyết chỗ tột cùng của đạo vậy

thay, bởi vì tối diệu tối huyền, trƣớc trời đất mà không thấy có bắt đầu, sau

trời đất mà không chỗ kết thúc, mà Phật lại dạy nhƣ thế, lấy trí tuệ mà giác

ngộ ngƣời, đem từ bi làm lợi vật, hiếu sinh là đức, không sát là nhân. Đó thực

là đại nguyện từ bi.

Xét trong Kinh Hoa Nghiêm có chép: Hết thảy Phật trong Tam Thế Nhƣ

Lai, vì sao thành Phật? Tận cùng của tâm, bởi tâm là gốc của thánh và phàm,

là gốc rễ của thiện và ác. Nếu tu luyện tâm này đạt đến chỗ thiện ác đều quên,

thánh phàm cùng bỏ, cảm ứng đƣợc sự vắng lặng vô tâm, thì lên bờ kia, chỉ

trong khoảng sát na. Đây là diệu chỉ thành Phật vậy. Liền ngâm bài kệ :

Nếu ngƣời muốn biết rõ,

Hết thảy Phật Tam thế

Nên xem tính Pháp giới

219

Hết thảy do tâm tạo. (1)

Có thể thấy Phật là tâm, tâm là Phật vậy. Suy tìm tâm này, thƣơng xót

tâm chúng sinh lƣu chuyển theo cảnh, mà dẫn đến nỗi khổ não nơi tám nạn ba

đƣờng, chính vì thế mới có sáu trăm quyển kinh Bát Nhã chỉ mong mọi ngƣời

cùng lên bờ giác, liền từ mê lầm chuyển thành trí tuệ, tối tăm chuyển thành

sáng tỏ, có thể phá hết chƣớng ngại che lấp của trùng mây. Nghĩ đến tâm

ngƣời đời bị vật dẫn dụ, đến nỗi tai ƣơng ngàn sầu vạn khổ, do đó mà tụng

kinh cứu khổ muôn ngàn lƣợt, chỉ mong cứu độ đƣợc nhân thế. Ấy là ngƣời

khỏi nạn, nạn rời ngƣời, có thể vƣợt khỏi trầm luân khổ hải. Liền nói kệ rằng :

Kinh này phó chúc cho đế vƣơng ta

Vì ngài quần sinh đƣợc nƣơng cậy

Làm ra Bát nhã là vì thế

Liền nguyện rằng :

Nguyện khắp chúng sinh đang chìm đắm

Nhanh chóng vãng sinh cõi vô lƣợng quang.

Làm ra kinh cứu khổ là nhƣ thế. (2)

Đến nhƣ quạ là ác vật, tƣởng nhƣ không có công đức, song lại cắp cành

phan đậu trên tháp Chuyển Pháp Luân, để chữa bệnh cho đế vƣơng, có thể

giúp tăng thọ ba đời, là công đức của quạ. Cho nên tuy ác điểu mà vẫn đậu

trên cành phan, chính là bởi lấy cành cây mà chuộc âm công của cha. (3)

Rùa là thạch tinh, tuy không có tội lỗi, nhƣng vì lòng muốn riêng mà khi

chở kinh trên sông đã đánh chìm kinh Tam Tạng, kinh Kim Quang Minh bị

mất 3 chữ, ấy là tội của rùa vậy. Do đó lấy việc thạch tinh đội bia văn, chính

là để hiển bày quả báo làm ƣớt kinh điển. (4)

Lại xem trong Phạm vũ, sự việc đản sinh hiển thần ở hàng trong, bèn đổi

ác theo thiện, trì giới để tụng kinh, đều có ứng nghiệm, thiện báo cúng dàng

ba ngàn Phật, ở đây đặt tứ bộ mà tham thiền chầu Phật. Đó là việc làm của Bồ

220

tát.

Xếp bát bộ mà hộ Phật hàng ma, là chức trách của Kim Cƣơng vậy. Vui

đạo ở chỗ tu luyện bát, bình, để giám xét đàn tràng, trai hội, mời về dẹp ma

quỷ khi có cỗ bàn, đều lấy chân thuyên huyền diệu của pháp môn bất nhị. Nên

đặt bên trái để kiểm xét thực hƣ, là chức việc của Thánh Tăng vậy.

Ở bên phải để chứng giám ngôn từ, là chức trách của Thổ địa.

Thấy các bậc thánh đặt ở trong chùa, không ai là không có việc, không ai

là không có chức trách. (5)

Đạt Ma thiền sƣ là tổ truyền từ tây thiên, có thể truyền tâm ấn, độ mê

tình, há lại có mối duyên chƣa cởi thoát, chỉ sau Ngƣng thần (?) ở biển nam,

đƣờng biển gặp rùa, không giữ lời nhờ cậy, mà rùa nghe loạn tai, không ngộ

đƣợc đạo, do đây liền thành bụi trần che ánh trăng. (6)

Đạo Hạnh đại sƣ, là đệ tử của Quán Âm, khi ở Sài Nham hoằng dƣơng

diệu pháp, há nào lại tạo phiền não nghiệp chƣớng. Chỉ vì dƣ báo bậc thánh

sinh nơi thanh cung, nhiều lông giống hổ, do nghiệp trƣớc ràng buộc nên biến

thành hình hổ. Là bậc đắc đạo, do đây mà kết thành quả báo của thân sau.

Đúng là nạn ô sô, ngƣời không hiểu các ách nạn đó; chuyện mãnh hổ kì lạ,

ngƣời cùng chế nhạo điều kì lạ đó, sao có thể lấy việc này mà nghi ngờ hai vị

tổ. (7)

Xét đến hai vị hộ pháp thiện - ác, Thiện hữu vốn là thái tử Khẩn Na La

vƣơng, lòng từ rộng lớn, bố thí thƣơng xót chúng sinh, lòng chỉ muốn dụng

công cầu ngọc nhƣ ý ở cung Quảng Lợi vƣơng. Do đó mà Bồ Tát hóa thân

đứng ở bên trái trong chùa hầu Phật. Bậc thiện thần quả thực là không có gì

phải hổ thẹn vậy. Còn Ác hữu vốn là bạo ác, giữ khí ác nên mới hiển thị ra vẻ

mặt nhƣ vậy, tự cảm ngộ huyền cơ quý báu nơi thuỷ cung, theo Phật xuất gia

có thần lực lớn lao. Vị Ác thuở trƣớc, liền biến thành lòng từ của vị thiện, nên

đứng thị giả bên phải của Phật, cùng với bậc Thiện đều đứng hầu trƣớc Phật,

221

cũng là có tác dụng răn dè nơi cửa tế độ. (8)

Thật giả một vị Quan Âm, tiền thân là con gái vua Diệu Trang vƣơng,

dốc chí xuất gia, lòng thành tu đạo, nhờ sức gia trì đƣợc truyền đăng trên núi

Bổ Đà, từ đây có thể cứu độ bến mê, sự thần thông hiện khắp mọi nơi, là bậc

chân tu đắc quả có thể lên ngôi chân đạo vậy.

Thân sau cải trang làm nam nhi, phải chịu nỗi oan khiên mà giấu đi chân

tích của mình. Rồi chí thành tu khổ hạnh, tham thiền ở chùa Vân, hết lòng dốc

sức gột rửa duyên trần. Giả tu ở kiếp sau, vốn không khác gì với thiện niệm

chân tu, liền hóa phép thành tiên, cùng với chân tu mà đắc thành đạo Phật,

cũng nào có phƣơng hại gì đến sự vẹn toàn của của tuệ quả?

Là ngu muội nếu nói hộ pháp đều là hộ pháp vậy, tuy ban đầu có sự khác

nhau giữa thiện và ác, nhƣng rốt cuộc đều cùng là đạo tâm này, thì hai hộ

pháp đều qui về một vị thiện mà có thể dùng vậy. Song vị ác dùng cũng

không trở ngại gì.

Quán Âm đều là Quán Âm vậy, tuy có thật giả khác nhau, nhƣng vốn

đều đƣợc truyền tâm ấn và giữ gìn Phật Pháp, thì Quán Âm không thể là 2,

nên chân tu cũng có thể thành, mà giả tu cũng không hại gì đến việc đắc thành

Phật quả. (9)

Muôn dòng tuy khác nhƣng cùng một nguồn, Phật đều là hết thảy các vị

Phật ở Tây Thiên, pháp thân thanh tịnh, ngũ uẩn chí nghiêm nơi Phạm giới,

cho nên không biết việc tửu sắc là gì. Duy 3 năm ẵm bồng, há nỡ quên hằng

tâm bảo bọc con đỏ hay sao. Đứa trẻ mà Quan Âm ẵm bồng là con nuôi, nào

phải từng bị sóng lớn của sông ái cuốn lôi đâu. Tám đức thanh lƣơng, thực là

nƣớc pháp gội sạch trần ai. (10)

Bình Hồ lô của đức Thế Chí là bình cam lộ vậy, nào từng say đắm hoàng

hoa, lụy tình nơi rƣợu bách. Pháp thân thanh tịnh, thực là không biết chỗ ồn

222

ào riêng của tửu sắc (11)

Phật đích thị là Phật, sao lại có thể phóng đãng tình cảm đƣợc! Muôn xe

tuy khác nhƣng cùng một trục, Pháp đều là chính pháp của đức Cù Đàm vậy.

Tu luyện khổ hạnh, không nhiễm chút bụi trần ở nơi nguồn tâm, cho nên

không biết chuyện nhân tình thế tục vậy.

Chỉ có Tuyết Sơn sáu năm ròng lòng thanh tịnh nhƣ tuyết trắng, mong

mỏi thèm khát mùi vị của chân kinh, mà tâm không vƣớng víu vào nơi lƣới

nhện, tổ quạ, vì chƣa giác ngộ nên mang hình hài gầy còm, khô héo.

Đức Di Lặc nơi cực lạc Long hoa tam hội, có thể trừ đói khát cho thiên

hạ khiến đều béo tốt, nên là hình mập, tâm rộng bên ngoài phát tiết anh hoa.

Do chƣa giác ngộ nên thân ấy có tƣớng phúc to lớn. Đó là nƣớc gƣơng không

chút bụi, thực không biết đến tục lụy cõi nhân tình. Pháp chính là pháp, sao tu

biện thành công lại khác nhau nhƣ thế ? (12)

Xét trong các kinh có chép:

Thuyết giải oan, thuyết cứu vong nhân, há nào dựa vào chỗ hƣ vô đâu!

Đại khái là bản tính vốn viên minh, không có tình dục nghiệp chƣớng vậy.

Ban đầu có oan ắt phải tu để giải. Chỉ có sau này biển giác xoay chuyển, tình

sinh ái, ái sinh dục, 5 thứ sinh mê, mà muôn kiếp luân hồi, từ đó mới tạo

thành lục kết oan gia. Thƣơng hết thảy chúng sinh bị trầm luân mê muội, mà

thuyết pháp giải oan. Cơ thiền huyền diệu ở nơi chân kinh, sáu chữ ở nơi tâm.

Tâm lấy đó bùa quý vƣợt sông mê. Do đó mà hàng phục đƣợc lục tặc, chứng

đƣợc lục thông, liền thoát khỏi oan khiên lên bờ giác ngộ, tự mình ứng đƣợc

cách thức không lệ thuộc vào lƣơng thực (?) (lƣơng đình thoát cốc - đánh rơi

thóc ở sân)

Phá địa ngục, phá cứu tội nhân, há nào là quả báo khó tin sao? Bởi vì

vốn dĩ chân nhƣ bình đẳng, vốn không có chƣ Phật và chúng sinh; ban đầu có

địa ngục ắt phải tu để phá, giống nhƣ đèn sáng còn bị che lấp, thức dựa căn,

223

căn dựa trần, ba duyên hòa hợp, mà 18 tƣởng từ đó sinh ra, bèn dẫn đến hình

thành 18 địa ngục. Thƣơng phàm tình chịu muôn ngàn khổ não, mà khai

phƣơng phá ngục. Ẩn tâm ấn ở niệm niệm Di Đà, lấy đó làm thuyền từ qua

biển khổ. Do đây mà chuyển địa ngục thành La hán, liền ra khỏi địa ngục mà

lên thiên đƣờng, bởi đây mà có gƣơng xƣa Bồ tát Địa Tạng độ thân mẫu.

Liền nói rằng: Pháp giới vốn không có chúng sinh, chúng sinh do cái

thấy sai lệch; Phật đạo vốn không có ngôn ngữ, ngôn ngữ là vì có tình. Nên

biết: thuyết giải oan, thuyết cứu vong nhân, đúng mà sai, sai mà đúng; Phá địa

ngục, phá cứu tội nhân, sắc là không, không là sắc.

Còn nay, bậc thánh thiên tử ban 6 đức mà cai trị, thiên tử vâng theo tam

vô mà cảm hóa kẻ dƣới, thần khí ở nơi chí đạo, mà cẩn trọng hằng ngày trì

trai giới, giảm hình phạt, xét ngục giam, đức của Thiên tử cũng không kém

Đƣờng Nghiêu vậy.

Phật là đấng vô thƣợng, Ngài (vua) cùng giống nhƣ là bậc vô thƣợng,

chuyên nhớ về quần sinh, thƣơng sự điêu linh, vỗ về nỗi thống khổ, ban lệnh

ân xá, miễn giảm tô thuế, ban bố đức nhân rộng khắp, cũng giống nhƣ Nghiêu

Thuấn lo cho dân vậy.

Phật là đấng Độc tôn, Ngài (Vua) cũng nhƣ ngôi độc tôn vậy, công đức

nhiều vô lƣợng vô biên, hết thảy Tăng tục, không ai không vui mừng, nhƣ là

cổ Phật hiện về. Nay tôi trăm lạy khấu đầu, chỉ mong chứng đƣợc gƣơng lòng

sáng suốt không chút bụi trần, mà làm nên bậc lƣơng tƣớng đầu triều vốn bởi

lòng thành vậy. Tâm châu ngọc thanh tịnh quý báu của thần linh, mà hiển bày

kinh luân không ngoài chỗ diệu tâm, dùng cái tâm này để nhiếp chính triều

đình thì nhƣ chim phƣợng đậu trên cây ngô đồng hót hối hối, nhƣ nhìn thấy cá

chép hóa rồng, một cửa phúc tinh muôn nhà sinh Phật.

Bậc quân tử đều có phúc này thì dân đƣợc thấm nhuần ân trạch, muôn

chỗ đều là xuân, hƣởng niềm vui giải thoát ở rất nhiều Lạc Quốc. Xét cái tâm

224

để mà cai trị thiên hạ thì nhƣ tiếng hoàng điểu mổ hạt giẻ kêu uyên uyên. Vừa

nhìn thấy nó bơi, mà đã nhƣ cá trên chảo. Giống nhƣ mình ngƣời, đầu la sát,

mặt quỉ dạ xoa. Kẻ tham tàn không đƣợc đƣợc lòng của chúng sinh oan ức,

mà hoa rụng nơi nhà phúc không tù ngục nào có thể nuôi. không phiền đến

ngài Mục Liên rung tích trƣợng.

Nhƣ vậy thì: đạo vua thêm vững bền mà hoàng đồ đƣợc củng cố; tuệ

đăng chiếu khắp mà Phật nhật sáng thêm.

Lại nguyện: Quốc gia hữu vĩnh sơn hà cố; Phật đạo vô cùng nhật nguyệt

trƣờng. (Quốc gia sông núi mãi bền lâu, Đạo Phật trƣờng tồn cùng nhật

nguyệt).

Tin vào điều đó cho nên mới lệnh cho Tăng sĩ tụng niệm hàng ngày, thẹn

vì có hình tƣớng, sinh nhập nơi cửa Không. Phƣơng tây có bậc đại thánh nhân,

đạo đƣợc tôn sùng giống nhƣ Khổng tử vậy.

Nam mô A Di Đà Phật

Niệm kinh khấn nguyện đức Từ tôn, Bát Nhã Tâm Kinh gia truyền tụng,

Cà sa Pháp phục ngồi thẳng quay vào tƣờng, đạo chƣa dung năm phái nhất

tông, đâu dám bảo tu luyện chốn thiền môn, Pháp chƣa từng lĩnh lục thông,

tam muội. mạo muội dẫn những hiểu biết trong Kinh giáo. Vâng mệnh trả lời

câu hỏi, dâng lên rủ lòng soi xét.

Tăng kính cẩn đáp lời.

225

Bài 26. PHI LAI TỰ PHÚ

Hữu nam truyền động thượng chính phái bản lai hòa thượng mặc

quyển.

Mạc Thuần Phúc, Nhâm tuất khoa, tiến sĩ Quế Dương huyện Đại

Toán xã Nguyễn Văn Giáp phụng sứ Bắc Kinh mệnh đề tức cảnh.

Đài phong tiến phúc, cức man từ tôn, quang chiếu đoài thiên nhật nguyệt,

trùng khôi chấn địa càn khôn, tự hiệu Phi lai, quán tùng lâm nhi tuyệt dị,

quốc danh cực lạc, đẳng hạo kiếp dĩ trường tồn. Quan kỳ vận thuộc lương

triều giáo long phạn ngữ, sáng tu cám vũ chi thiền liên, nguy nghiệp hoa sơn

chi bàn cứ. Kỉ lí hử thư châu viễn khứ, tự giới vu hà. Nhất dạ gian, khoáng lộ

phi lai, nhân danh kỳ tự.

Đãi kiến : kì viên hoằng tế, tịnh độ khoát khai. Tịch diệt chi giang hoành

quá giáp, tu di chi sơn trĩ huyền nhai, hoàn [124] bất cưu tất tập chi công,

uyển nhĩ hoành kim cung điện ; kiều như huy tư phi chi trạng, y nhiên bích

ngọc lâu đài thiên biệt hữu nhất hồ thế giới, địa hồn vô bán điểm trần ai.

Hoán luân yên họa đống điêu lương, tuệ nhãn quang sinh chính giác, yếm

ánh nhĩ châu manh ngọc hạm, sắc thân phổ hiện Như lai.

Nội tắc, liên tòa huy hoàng đàn yên phức úc, bối diệp tuyên bảo tạng

chân kinh, từ đăng chiếu hôn cù cự chúc. Cúng dư kệ bãi bế môn bằng đồng

tử họa khai, trà kiệt chung tàn, tịnh viện nhậm lão tăng dạ túc. Đề thi chi bích

thượng lưu châu, đỉnh lễ chi đài trung tịnh ngọc.Thanh trang song hạ, tứ tự

khai Bát nhãn chi hoa ; lục ấm giai tiền, thiên niên trưởng chân như chi trúc.

Ngoại tắc, quynh khai giáp ất, bi liệt cao đê, vững ngọc thản tằng tằng

thạch kính, đạp quỳnh siêu bộ bộ thiên thê. Ấp tuyền đài, đài [125] thượng

hữu từ, nhị tượng bí Hiên Viên chi tử ; Phiến vân đình, đình trung hữu kí,

nhất viên hài Tôn Khác chi thê. Tống khách chi đỗng hoa nhàn tiếu, nghinh

226

xuân chi sơn điểu huyên đề. Bích giản hàm phún thủy chi long, cựu ô tận địch,

thanh tùng dẫn tị yên chi hạc, lão cán thường thê. Phi Lai chi cảnh sắc, danh

thắng chi chiêu đề.

Nhiên hậu tri, tự dĩ phụng Phật vi danh, nhi Phật hữu phi tiên chi thuật,

huống tiên cư bích thủy thanh sơn, nhi Phật trụ từ vân tuệ nhật. Thanh cánh

thanh, bồng hồ lãng uyển, tằng tằng bối quyết châu cung ; Kỳ vưu kỳ, thứu

Lĩnh Tào Khê, tại tại bảo phường kim thất. Cố tư thiền vũ khoát khai, thị bỉ

vân tiêu cao xuất. Lịch duyệt oanh thoa tuế nguyệt, bồ đề địa thụ thực bồ đề ;

Chu lưu yến chủy quang âm, Đâu suất thiên vũ linh Đâu suất, biến quan thế

giới chi tam thiên, thật nãi danh lam chi đệ nhất. Ức hựu luận chi, sự dục kê

chư cổ, lí thượng nghiệm vu câm (kim), tha hồ từ chi dị hoặc, khái vãng diệc

chi nan tầm. Khẩu đãn truyền tự đáo năng phi, sáp không trương phượng

dực ; nhĩ mạn thính chung tùy mạt độ, cách ngạn hống kình âm. Bỉ dĩ vật phối

vi phu phụ, thử hà nhân hỗn dư thú cầm. Tuy lý vô hư huyễn chi ngôn, sắc thị

không không thị sắc ; nhiên khách hữu đăng lâm chi hứng, tâm tức Phật, Phật

tức tâm.

Dư, hương hỏa duyên hài hoàng hoa dự tuyển. Cửu trùng khâm phượng

chiêu khẩu hàm. Vạn lý ưởng hồng quỳ dực triển. Quan quang thượng quốc,

ninh từ dịch lộ chi viễn trì. Toàn tế trung đình, mật tiếp long nhan chi cận

kiến. Tự bắc tài trước khước dương xuân, nhi nam dĩ trì tâm hiên miện. Chu

trung mãn song thanh phong nguyệt túc khiếu vịnh cung ; chỉ thượng thu tứ

cố sơn hà, tương đề phẩm biến.

Kim tắc án tiết lâm thanh viện, ngoạn cảnh thướng Phi Lai, hà dị nhâp

thiên thai chi lưu nguyễn.

Thượng quốc ngự phê vân

Tam nguyệt chi công, bất như mã thượng nhất khắc chi công, án tặc mạt

hữu hà dị nhập thiên thai chi lưu nguyễn chi cú khẩu tựa tiên cách, đãn hiềm

227

vô tự phong, nhữ vị Hán Vương dĩ huyết thực vạn thế

Thời

Đại Nam Thành Thái, Bính thân niên, Trung thu tiết, Xuân Lôi Hưng

Phúc tự, chủ nhân Phổ Trai đính san

Bản lưu bản tự dĩ hiểu hậu ấn

Đạo thuộc hà Liễu xã, nguyễn Hi Quang phủ phụng thư

Tạm dịch :

BÀI PHÚ CHÙA PHI LAI

Nhà Mạc, niên hiệu Thuần Phúc, tiến sĩ khoa thi năm Nhâm Tuất

Nguyễn Văn Sảng, ở huyện Quế Dƣơng, xã Đại Toán, phụng mệnh đi sứ ở

Bắc Kinh, thấy cảnh đẹp mà làm phú

Bia phúc rêu phong, dây leo nơi cửa Từ, sáng soi nhật nguyệt trời Đoài,

dựng lại càn khôn đất Chấn. Chùa hiệu Phi Lai, xem ra là tuyệt lạ chốn Tùng

lâm ; nƣớc tên Cực Lạc,vẫn trƣờng tồn nhƣ hạo kiếp.

Xét thấy nơi này, vận thuộc triều Lƣơng, Phật giáo hƣng thịnh, xán lạn,

dựng xây cửa nhà san sát, sừng sững núi hoa vững bền. Bao nhiêu dặm Thƣ

châu đã xa, giới hạn bởi sông ; khoảng một đêm, đƣờng rộng bay tới, nhân đó

mà đặt tên Chùa.

Kịp thấy, vƣờn Kì rộng lớn, đất Tịnh mở mang. Sông Tịch Diệt chảy

ngang qua khe núi ; núi Tu Di chót vót bên núi dốc. Làm xong công việc còn

dở dang, nơi đó cung điện vàng son ; kiểu nhƣ hình chim trĩ đang bay, y nhƣ

lâu đài ngọc bích. Ngoài trời có một bầu thế giới, khắp đất không chút bụi

trần ai.

To lớn huy hoàng thay ! vẽ cột khắc xà, mắt tuệ phát sinh chính giác ;

lấp lánh huy hoàng đó ! rui châu cửa ngọc, sắc thân phổ hiện Nhƣ Lai.

Bên trong thì, tòa sen sáng rực, hƣơng trầm thơm phức, bối diệp truyền

chân kinh bảo tạng, ngọn đèn từ soi chiếu đƣờng mê. Cúng tụng xong xuôi,

228

cửa đóng kín nhờ tiểu đồng ngày mở ; trà hết chuông tàn, tịnh viện thanh u

tùy lão tăng ngủ nghỉ. Lƣu châu trên vách đề thơ, tịnh ngọc trong đài đỉnh lễ,

đẹp đẽ dƣới song cửa, bốn mùa hoa Bát Nhã nở tƣơi ; râm mát trƣớc thềm,

ngàn năm trúc chân thêm tốt.

Bên ngoài thì, biển đăng giáp ất, bia bày thấp cao. Nƣơng dải ngọc từng

từng lối đá ; dẫm hàng châu bƣớc bƣớc thang mây. Dài Ấp Tuyền, trên đài có

miếu, hai pho tƣợng con Hiên Viên rực rỡ ; đình Phiến Vân, trên đình có bia

kí, một con vƣợn đẹp duyên vợ chàng Tôn Khác. Tiễn khách đỗng hoa cƣời

nhẹ, đón xuân chím núi líu lo. Khe xanh rồng phun nƣớc, nhơ cũ sạch làu ;

tùng xanh dẫn hạc tránh mây mù, cành già thƣờng đậu. cảnh sắc chùa Phi Lai,

danh thắng chốn Chiêu Đề. Giờ mới biết chùa mang danh thờ Phật, mà Phật

có thuật tiên bay, huống tiên ở non xanh nƣớc biếc, mà Phật trụ nơi tuệ nhật

mây từ. Thanh lại thanh, Bồng hồ Lãng uyển, tầng tầng cửa ngọc cung châu;

kì càng kì, Thứu Lĩnh Tào Khê, nơi nơi nhà báu phòng vàng. Nhìn đây Thiền

vũ rộng mở, xem kia trời mây cao chót. Trải qua năm tháng thoi đƣa, đất Bồ

đề trồng cây Bồ đề ; quanh quẩn quang âm thấm thoắt, trời Đâu Suất tuôn

mƣa Đâu Suất. Xem khắp ba ngàn thế giới, thật là danh lam đệ nhất.

Nhƣng lại bàn thêm, sự muốn xét về thời cổ, lý cần nghiệm ngày nay.

Ôi chuyện phù phiếm dễ tin, buồn dấu vết xƣa khó kiếm. lời đồn chùa có thể

bay, lơ lửng trên không dƣơng cánh phƣợng ; tiếng nghe chuông dồn hồi cuối,

xa cách bên bờ nhịp mõ kình. Kia loài vật sánh làm vợ chồng, đây nào ai lẫn

với thú cầm. dẫu lý không nói lời hƣ huyễn, sắc là không, không là sắc ; song

khách có hứng đăng lâm, tâm tức Phật, Phật tức tâm.

Tôi, hƣơng hỏa đẹp duyên, hoàng hoa dự tuyển, vâng lệnh nhà vua ban

chiếu phƣợng, muôn dặm thuận cánh hồng di chuyển, xem khắp thƣợng quốc,

há có ngại đƣờng trạm xa xôi. Nghỉ tạm chốn trung đình, gần sát chốn diện

229

kiến long nhan. Từ khi đặt chân đất Bắc đƣợm vẻ dƣơng xuân, mà lòng ngƣời

Nam đã thấy nhẹ tâm quan tƣớc. Trong thuyền đầy gió mát trăng thanh, đủ

cung ngâm vịnh ; trên giấy thu núi sông tứ phía, giúp để phẩm bình.

Nay thì, đúng tiết vào thanh viện, ngoạn cảnh chùa Phi Lai, nào khác

Lƣu Nguyễn vào cảnh Thiên Thai.

Thƣợng quốc ngự phê: ba tháng không bằng ông trên lƣng ngựa 1 khắc,

cầm bài phú đọc câu: khác nào Lƣu Nguyễn vào cảnh thiên thai, khẩu khí tựa

Tiên Khác, chỉ hiềm nỗi không có kế thừa. Phong ông là Hán Vƣơng nhận

bổng lộc muôn đời.

Thời

Niên hiệu Thành Thái,Tiết trung thu, năm Bính Thân, chủ nhân chùa

Hƣng Phúc xã Xuân Lôi hiệu Phổ Trai đính san.

Bản lƣu ại chùa để đời sau ấn tống

230

Đạo Chúc, xã Liễu Hà, ông Đỗ Hi Quang phụng viết.