ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐOÀN QUANG HUÂN
TÌM HIỂU HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ
THUỘC LỚP ĐIỀU KHIỂN CỦA NHÂN VẬT NÔNG DÂN TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐOÀN QUANG HUÂN
TÌM HIỂU HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ THUỘC LỚP ĐIỀU KHIỂN CỦA NHÂN VẬT NÔNG DÂN
TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam Mã ngành: 60 22 01 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Lộc
THÁI NGUYÊN - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu khảo
sát, thống kê, nghiên cứu, kết luận trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố
ở bất kì công trình nào khác.
Tác giả
Đoàn Quang Huân
i
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến PGS.TS. Nguyễn Văn Lộc, thầy đã
tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để tôi có thể
hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Luận văn này là kết quả của một quá trình học tập và nghiên cứu. Vì vậy, tôi xin
chân thành cảm ơn đến những người thầy, người cô đã giảng dạy các chuyên đề cao
học cho lớp Ngôn ngữ K23 (2015 - 2017) tại trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái
Nguyên.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, người thân đã luôn ủng hộ và động
viên tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2017
Tác giả luận văn
Đoàn Quang Huân
ii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC .......................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................... iv
DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................. v
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu .................................................... 6
4. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 8
6. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 9
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................................ 10
1.1. Lí thuyết về hành động ngôn ngữ ............................................................... 10
1.1.1. Khái niệm hành động ngôn ngữ .............................................................. 10
1.1.2. Phân loại các hành động ở lời .................................................................. 11
1.1.3. Phát ngôn ngữ vi, biểu thức ngữ vi, động từ ngữ vi ................................ 17
1.1.4. Một số dấu hiệu đánh dấu hành động ở lời ............................................. 20
1.1.5. Hành động ở lời trực tiếp và hành động ở lời gián tiếp........................... 23
1.2. Khái quát về hành động ở lời cầu khiến ..................................................... 24
1.2.1. Khái niệm hành động cầu khiến (điều khiển).......................................... 24
1.2.2. Phân loại hành động cầu khiến tiếng Việt ............................................... 26
1.2.3. Đặc điểm của hành động cầu khiến tiếng Việt ........................................ 28
1.3. Sơ lược về lí thuyết hội thoại...................................................................... 32
1.3.1. Khái niệm hội thoại ................................................................................. 32
1.3.2. Khái niệm chủ ngôn và tiếp ngôn ............................................................ 33
1.3.3. Các qui tắc hội thoại ................................................................................ 33
1.3.4. Các biện pháp làm giảm hiệu lực đe dọa thể diện của người nghe ......... 34
iii
1.4. Vài nét về văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 ................................ 35
1.4.1. Sơ lược về lịch sử xã hội Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 .................... 35
1.4.2. Tình hình văn học .................................................................................... 35
1.4.3. Một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu ........................................................... 36
1.5. Tiểu kết ....................................................................................................... 37
Chương 2. HÀNH ĐỘNG ĐIỀU KHIỂN CỦA NHÂN VẬT NÔNG
DÂN TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 NHÌN
TỪ LÍ THUYẾT HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ .............................................. 38
2.1. Phân loại và miêu tả các hành động điều khiển trong một số tác phẩm
văn xuôi Việt Nam, giai đoạn 1930 - 1945 ....................................................... 38
2.1.1. Kết quả thống kê và tiêu chí phân loại .................................................... 39
2.1.2. Miêu tả các kiểu hành động điều khiển trong một số tác phẩm văn
xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 ............................................................... 39
2.2. Tiểu kết ....................................................................................................... 72
Chương 3. HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ THUỘC LỚP ĐIỀU KHIỂN
CỦA NHÂN VẬT NÔNG DÂN TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 NHÌN TỪ LÍ THUYẾT HỘI THOẠI ................ 74
3.1. Tiếp ngôn của các hành động ở lời thuộc lớp điều khiển của nhân vật nông
dân trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam, giai đoạn 1930 - 1945 ................. 74
3.1.1. Tiếp ngôn của các hành động lớp điều khiển nhìn từ phương diện
thành phần giai cấp và vị thế xã hội .................................................................. 74
3.1.2. Tiếp ngôn với các hành động ở lời lớp điều khiển .................................. 87
3.2. Các hành động ở lời thuộc lớp điều khiển trong các tác phẩm đã khảo
sát với vấn đề lịch sự trong hội thoại ................................................................. 95
3.2.1. Dẫn nhập .................................................................................................. 95
3.2.2. Các phương thức thể hiện tính lịch sự trong các hành động lớp điều
khiển đã thống kê ............................................................................................... 97
3.3. Tiểu kết ..................................................................................................... 104
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 109
PHỤ LỤC
iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BĐC : Bước đường cùng
BTNV : Biểu thức ngữ vi
ĐK : Điền khiển
ĐTNV : động từ ngữ vi
ĐTNVCK Động từ ngữ vi cầu khiến :
HĐ : Hành động
HĐCK : Hành động cầu khiến
HĐNT : Hành động ngôn trung
NC : Nam Cao
NDCK : Nội dung cầu khiến
PNNV : Phát ngôn ngữ vi
SL : Số lượng
SP1 : Người nói (Speaker 1)
SP2 : Người nghe (Speaker 2)
TĐ : Tắt đèn
TL : Tỷ lệ
TN : Tiếp ngôn
TP : Tác phẩm
: Vnhck Vị từ ngôn hành cầu khiến
XH : Xã hội
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Bảng tổng kết số lượng và tỉ lệ % của các hành động ở lời thuộc
nhóm điều khiển đã thống kê: 1610 ............................................... 52
Bảng 2.2. Bảng tổng kết các hành động ở lời lớp điều khiển theo ngữ liệu
thống kê .......................................................................................... 53
Bảng 2.3. Bảng tổng kết các hành động cầu khiến có cấu tạo 4 thành tố ...... 55
Bảng 2.4. Tỉ lệ % tính theo số hành động điều khiển có cấu tạo ba thành tố...... 57
Bảng 2.5. Tỉ lệ % tính theosố tư liệu thống kê ............................................... 57
Bảng 2.6. Bảng tổng kết kiểu động điều khiển có cấu tạo hai thành tố ......... 58
Bảng 2.7. Bảng tổng kết kiểu động điều khiển có cấu tạo một thành tố........ 60
Bảng 2.8. Tổng kết các kiểu tiếp ngôn theo cấu tạo hình thức ...................... 60
Bảng 2.9. Tác phẩm Tắt đèn .......................................................................... 61
Bảng 2.10. Tác phẩm Bước đường cùng .......................................................... 61
Bảng 2.11. Tác phẩm của Nam Cao ................................................................. 61
Bảng 2.12. Bảng tổng kết các kiểu hành động điều khiển theo mối quan hệ
của BTNV và PNNV ..................................................................... 64
Bảng 2.13. Số lượng và tỉ lệ phần trăm của hai kiểu hành động điều khiển
được phân loại theo tiêu chí phát ngôn ngữ vi có mặt hay vắng
mặt động từ ngữ vi ......................................................................... 66
Bảng 2.14. Bảng tổng kếthành động điều khiển được dùng theo lối gián
tiếp hay trực tiếp ............................................................................ 70
Bảng 2.15. Bảng tổng kết khái quát về các kiểu hành động điều khiển theo
tiêu chí ý nghĩa cầu, khiến ............................................................. 71
Bảng 3.1. Bảng tổng kết tiếp ngôn là nhân vật thuộc giai cấp thống trị ........ 77
Bảng 3.2. Bảng tổng kết các tiếp ngôn không có quan hệ thân tộc và cùng
giai cấp với chủ ngôn ..................................................................... 81
v
Bảng 3.3: Tiếp ngôn có quan hệ thân tộc và cùng giai cấp với chủ ngôn ..... 84
Bảng 3.4. Bảng tổng kết các kiểu tiếp ngôn (Sp2) cùng giai cấp với chủ
ngôn (Sp1) ...................................................................................... 85
Bảng 3.5. Bảng tổng kết các kiểu tiếp ngôn xét theo thành phần giai cấp .... 86
Bảng 3.6. Bảng tổng kết các kiểu tiếp ngôn xét theo vị thế xã hội ................ 86
Bảng 3.7. Bảng tổng kết về các kiểu tiếp ngôn của hành động điều khiển
xét từ phương diện vị thế xã hội với hành động ở lời ................... 88
Bảng 3.8. Bảng tổng kết các kiểu tiếp ngôn và các hành động ngôn trung
mang ý nghĩa cầu hay khiến .......................................................... 93
Bảng 3.9. Bảng tổng kết các kiểu tiếp ngôn và các hành động ngôn trung
mang ý nghĩa cầu hay khiến .......................................................... 93
vi
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Lí do khách quan
Trong những năm gần đây, xu hướng nghiên cứu hành động ngôn ngữ đã và đang
thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Hướng tới việc xây dựng bức
tranh khái quát về hành động ngôn ngữ của người Việt nói chung, của các tầng lớp
người thuộc các giai cấp trong văn học nói riêng, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
các nhóm hành động ngôn ngữ, trong đó có hành động điều khiển (có tác giả gọi là
hành động cầu khiến). Song, có thể nói rằng đến nay chưa có một công trình nào nghiên
cứu hành động điều khiển của nhân vật nông dân trong văn xuôi Việt Nam, giai đoạn
1930 - 1945 một cách công phu, bài bản.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 đã có những đóng góp đáng kể trong
lịch sử văn học nước nhà. Sự đóng góp ở đây không chỉ thể hiện ở xu hướng chọn đề
tài, ở sự phản ánh trung thực lịch sử xã hội và cách mạng Việt Nam giai đoạn này mà
còn thể hiện ở phong cách nghệ thuật độc đáo qua ngôn ngữ nhân vật, trong đó hành
động ngôn từ là một biểu hiện.
1.2. Lí do chủ quan
Là một giáo viên giảng dạy văn học trong nhà trường phổ thông, thiết nghĩ muốn
hiểu được lịch sử xã hội Việt Nam, hiểu được con người Việt Nam thuộc các tầng lớp
khác nhau trong giai đoạn xã hội Việt Nam phân chia giai cấp, không thể không nghiên
cứu ngôn ngữ của họ. Vì vậy, chọn đề tàiTìm hiểu hành động ngôn ngữ thuộc lớp
điều khiển của nhân vật nông dân trong một số tác phẩm văn xuôi, giai đoạn 1930
- 1945để nghiên cứu, người viết một mặt muốn làm rõ thêm hành động lớp điều khiển
được dùng trong văn xuôi Việt Nam như thế nào, mặt khác muốn tìm hiểu đặc điểm
ngôn ngữ của nhân vật nông dân, những con người đại diện cho tầng lớp bị trị trong
giai đoạn lịch sử này. Từ đó giúp người đọc hiểu thêm về ngôn ngữ và xã hội Việt Nam
trong thời kì có sự phân chia giai cấp.
1
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu về hành động ngôn ngữ
2.1.1. Các tác giả nước ngoài
Trong lịch sử Ngữ dụng học, đã có nhiều công trình nghiên cứu về hành động
ngôn ngữ. Trên thế giới, phải kể đến các công trình nghiên cứu của ba nhà ngôn ngữ
học là J. L. Austin, J.R. Searle và Wierzbicka.
J. L. Austin là người có công đầu trong việc xây dựng lí thuyết hành động ngôn từ. Lí
thuyết này được thể hiện trong 12 chuyên đề giảng dạy ở Đại học Havard. Những chuyên
đề này, năm 1962 được học trò của ông tập hợp trong cuốn “How to do things with words”
(Hành động như thế nào bằng lời nói).Trong công trình nghiên cứu này, ông đã chia hành
vi ngôn ngữ thành ba loại: hành vi tạo lời, hành vi mượn lời và hành vi ở lời.
Dựa vào các động từ ngữ vi tiếng Anh, J. L. Austin đã tiến hành phân loại hành
vi ở lời thành 5 lớp lớn, đó là: phán xử, hành sử, cam kết, trình bày và ứng xử.
Do không định ra được các tiêu chí để phân loại một cách hợp lí nên kết quả phân
loại hành động ngôn ngữ (ông gọi là hành vi ngôn ngữ) còn chồng chéo, dẫm đạp lên
nhau.
- J. R. Searle là người đã kế thừa và phát triển lí thuyết hành động ngôn từ của
J. J. L. Austin.
Để khắc phục những hạn chế của J. L. Austin, J.R. Searle đã đưa ra một hệ thống
gồm 12 tiêu chí phân loại hành động ngôn từ, ngoài ra ông cũng xác lập một hệ thống
thuận ngôn (bao gồm nội dung mệnh đề, điều kiện chuẩn bị, điều kiện chân thành, điều
kiện căn bản). Đây là những đóng góp to lớn của tác giả trong việc phát triển lí luận về
hành động ngôn từ.
- A. Wierzbicka với công trình nghiên cứu mang tên “English speech act ve rbs
- a semantic dictionary” đã phân loại hành động ngôn từ khá chi tiết dựa trên cơ sở 270
vị từ - động từ nói năng (speech act verbs). Các vị từ này được bà qui về 37 nhóm, tiêu
biểu là: ra lệnh (order), cầu xin (ask1), hỏi (ask2), mời gọi (call), cấm (forbid), cho
phép (permit), tranh cãi (argue), trách mắng (reprimand),...
2
Quan trọng là trong quá trình miêu tả và giải thích, tác giả đã bám theo những
tiêu chí của điều kiện thuận ngôn như: cương vị của Sp1 và Sp2; Sp1 dùng chiến lược
nào (lí trí hay tình cảm) để hành động; Sp2 có quyền từ chối việc thực hiện hành động
được nêu trong nội dung mệnh đề hay không; khi công việc hoàn tất, người hưởng lợi
là Sp1 hay Sp2.
Ngoài ba nhà ngôn ngữ học kể trên, còn một số nhà nghiên cứu nước ngoài kế tục
công việc phân loại hành động ngôn từ của J. L. Austin, đó là: D. Wunderlich, F. Recanati,
K.Bach, R.M. Hanish, K. Allan, ... Song do khuôn khổ của luận văn, chúng tôi không
thể bàn thêm về các căn cứ phân loại cũng như quan điểm của các tác giả này.
2.1.2. Các tác giả trong nước
Ở Việt Nam, từ cuối những năm 1980 trở lại đây, vấn đề hành động ngôn ngữ đã
được sự quan tâm của đông đảo các nhà ngôn ngữ học. Nhiều tác giả và các công trình
nghiên cứu về hành động ngôn ngữ của họ đã được đưa vào giảng dạy trong trường
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, như:
- Tác giả Đỗ Hữu Châu, với công trình tiêu biểu Đại cương ngôn ngữ học Tập
2,Nxb GD, H. 2001, đã đánh dấu một bước tiến mới trong ngành Ngôn ngữ học Việt
Nam. Ông là một trong những dịch giả và cũng là tác giả dành nhiều tâm huyết cho
vấn đề hành động ngôn ngữ (xin nói thêm, hành động ngôn ngữ được tác giả gọi bằng
cái tên khác là hành vi ngôn ngữ).
Không chỉ chuyển tải những quan điểm của J. L. Austin, J. R. Searle, trong công
trình nghiên cứu này, tác giả Đỗ Hữu Châu còn nêu định nghĩa về hành động ngôn ngữ
và các vấn đề liên quan như: phát ngôn ngữ vi, biểu thức ngữ vi, động từ ngữ vi, biểu
thức ngữ vi tường minh và biểu thức ngữ vi nguyên cấp, nghĩa tường minh và nghĩa
hàm ẩn,...
- Tác giả Nguyễn Đức Dân, với công trình Ngữ dụng học, Tập 1, Nxb GD, H.
1998, cũng đã có những đóng góp quan trọng về lĩnh vực nghiên cứu hành động ngôn
ngữ. Ngoài những nội dung giới thiệu quan điểm của J. L. Austin, J. R. Searle, trong
3
công trình này tác giả còn chỉ ra những hiện tượng mơ hồ giữa vị từ ngôn hành (tác giả
dùng thuật ngữ động từ ngữ vi) và động từ trần thuật, giữa câu ngữ vi và câu trần thuật
để từ đó đề xuất một số cách phân biệt hai loại câu này.
2.2. Tình hình nghiên cứu hành động ngôn từ của nhân vật trong tác phẩm
văn chương
Có thể nói, đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp hay gián tiếp
bàn về hành động ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, dưới đây là một số công trình
tiêu biểu (xin liệt kê theo năm công bố):
- Lê Thị Thư (2008), Hành động ngôn ngữ gián tiếp trong Truyện ngắn Nam Cao,
Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP-ĐHTN
- Bùi Kim Tuyến (2009), Bước đầu khảo sát yếu tố phụ kèm theo động từ nói
năng chỉ hành động ngôn ngữ trong tác phẩm văn học của Nam Cao, Ngô Tất Tố,
Nguyễn Công Hoan, Luận văn Thạc sĩ, ĐHQG HN.
- Bùi Minh Toán (2010), Lí thuyết hành động ngôn ngữ với đoạn thơ trao duyên
của Truyện Kiều, Báo điện tử.
- Nguyễn Thị Thu Hiền (2011), Khảo sát đặc điểm ngôn ngữ đối thoại trong kịch
Lưu Quang Vũ, Luận văn Thạc sĩ, ĐHQG HN.
- Đặng Kim Ngân (2011), Tìm hiểu câu ngôn hành trong tiểu thuyết Tắt Đèn và
Lều Chõng của Ngô Tất Tố, Luận văn TNĐH, ĐHCần Thơ.
- Trần Thị Việt Hà (2012), Đặc điểm ngôn ngữ của nữ giới qua hành vi hỏi (trên
ngữ liệu lời thoại nhân vật trong Truyện ngắn Nam Cao trước 1945), Luận văn Thạc
sĩ, Trường ĐHKHXH & NV HN.
Các công trình dẫn trên một lần nữa khẳng định đã có khá nhiều nhà nghiên cứu
ngôn ngữ quan tâm đến hành động ngôn ngữ của nhân vật trong tác phẩm văn chương,
song như đã nói ở trên, chưa có một công trình nào nghiên cứu về hành động ngôn ngữ
nói chung, hành động điều khiển nói riêng qua lời thoại của các nhân vật nông dân
trong văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
4
2.3. Tình hình nghiên cứu câu cầu khiến và hành động cầu khiến
Đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về câu cầu khiến và hành động
cầu khiến tiếng Việt. Xin dẫn một số công trình tiêu biểu:
- Lê Thị Kim Đính (2006), Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt, Luận
văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học, Trường ĐHSP TP HCM.
- Vũ Thị Thanh Hương (1999), “Gián tiếp và lịch sự trong lời cầu khiến tiếng
Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (1), tr. 13-18.
- Vũ Thị Thanh Hương (1999), “Gián tiếp và lịch sự trong lời cầu khiến tiếng
Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (10), tr. 47-57.
- Vũ Thị Thanh Hương (2000), “Chiến lược lịch sự thay đổi mức lợi thiệt trong
lời cầu khiến tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (10), tr. 39-48.
- Vũ Ngọc Hoa (2010), “Phân loại hành vi ngôn ngữ cầu khiến trong văn bản
hành chính”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống (7), tr.8-11.
- Đào Thanh Lan (2010), Ngữ pháp, ngữ nghĩa của lời cầu khiến tiếng Việt, Nxb
KHXH, H.
- Đào Thanh Lan (2004), “Ý nghĩa cầu khiến của các động từ nên, cần, phải trong
câu cầu khiến tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ (11), tr.23-29.
- Đào Thanh Lan (2006), “Hoạt động và ý nghĩa của các tiểu từ biểu thị tình thái
cầu khiến trong câu tiếng Việt”, Những vấn đề ngôn ngữ học, tr.96-105.
- Đào Thanh Lan (2010), “Nhận diện hành động mời và rủ tiếng Việt”, Tạp chí
Ngôn ngữ (3), tr.14-19.
- Đào Thanh Lan (2011), “Về việc phân loại hành động cầu khiến tiếng Việt”,
Tạp chí Ngôn ngữ (11), tr.59-66.
- Nguyễn Thị Lương (2006), “Câu cầu khiến tường minh và câu cầu khiến nguyên
cấp”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống (5), tr. 9-12.
- Trần Chi Mai (2005), Phương thức biểu hiện hành vi từ chối lời cầu khiến trong
tiếng Anh, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Thị Thanh Ngân (2008), “Dạy trẻ mẫu giáo nói đúng khi cầu khiến”,
Kỷ yếu Hội thảo Giáo dục Ngôn ngữ tại Việt Nam (12), tr.277-281.
5
- Nguyễn Thị Thanh Ngân (2016), Các hành động cầu khiến tiếng Việt, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
- Trần Thị Tuyết Nhung (2004), “Về hành vi cầu khiến của nhân vật truyện ngắn
Nam Cao trước 1945”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống (9), tr.9-12.
- Trần Kim Phượng (2000), Khảo sát phương tiện từ vựng(động từ) biểu thị ý nghĩa cầu
khiến trong câu tiếng Việt, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Có thể nói rằng, tuy thống kê chưa đủ nhưng những công trình nghiên cứu vừa
dẫn cũng cho ta thấy các Việt ngữ học đã rất quan tâm đến câu cầu khiến cũng như
hành động cầu khiến tiếng Việt (trong giao tiếp và trong văn chương). Về mặt lí luận,
câu cầu khiến và hành động cầu khiến (điều khiển) tiếng Việt đã được nghiên cứu khá
kỹ lưỡng. Song, như đã nói ở mục lí do chọn đề tài, nghiên cứu chúng (câu cầu khiến
và đặc biệt là hành động cầu khiến) trong văn chương thời kỳ trước Cách mạng tháng
Tám vẫn chưa được giới nghiên cứu ngôn ngữ quan tâm đúng mức.
Trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học đi
trước, luận văn này tập trung tìm hiểu hành động ngôn ngữ lớp điều khiển (hành động
cầu khiến) được các nhân vật nông dân trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam, giai
đoạn 1930 - 1945 sử dụng về một số phương diện. (Nội dung nghiên cứu cụ thể sẽ nói
ở các mục Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu dưới đây).
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hành động ngôn ngữ lớp điều khiển của
nhân vật nông dân trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam, giai đoạn 1930 - 1945.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Về ngữ liệu khảo sát
Ngữ liệu được luận văn chọn để khảo sát hành động ngôn ngữ lớp điều khiển là
một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam trong dòng Văn học hiện thực phê phán, thời kì
1930 - 1945 sau đây:
(1) Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Nxb Đồng Nai, 2001
(2) Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Nxb Đồng Nai, 2000
6
(3) Một số tác phẩm chọn lọc trong Tuyển tập Nam Cao, Nxb Văn học, H. 2016,
cụ thể là các truyện:Nghèo; Chí Phèo; Con mèo; Giăng sáng; Trẻ con không được ăn
thịt chó; Từ ngày mẹ chết; Quái dị; Một bữa no.
Xin nói thêm, chúng tôi chọn các tác phẩm văn xuôi Việt Nam thuộc dòng Văn
học hiện thực phê phán nói trên để khảo sát đối tượng nghiên cứu là bởi ba lí do:
Thứ nhất, các tác phẩm văn xuôi trong những dòng văn học khác ở Việt Nam thời
kì này (Văn học lãng mạn và Văn học cách mạng) không có nhiều;
Thứ hai, nhân vật nông dân chủ yếu chỉ thấy được nói đến nhiều trong các tác
phẩm dòng Văn học hiện thực phê phán;
Thứ ba, dòng Văn học hiện thực phê phán là dòng văn học chiếm ưu thế và công
khai hợp pháp lúc đương thời. Một số tác phẩm mà chúng tôi chọn để khảo sát là những
tác phẩm văn xuôi tiêu biểu, phản ánh trung thực xã hội Việt Nam thời kì đó.
3.2.2. Về nội dung nghiên cứu
Luận văn này nghiên cứu hành động ngôn ngữ lớp điều khiển (từ đây gọi gọn là
hành động điều khiển hay hành động cầu khiến) của nhân vật nông dân trong các tác
phẩm trên dựa vào hai bình diện lí thuyết, theo đó là các vấn đề nghiên cứu cụ thể:
- Dựa vào lí thuyết Hành động ngôn ngữ, luận văn nghiên cứu hành động điều
khiển về các phương diện sau:
+ Các hành động ở lời (hành động ngôn trung) thuộc lớp hành động điều khiển;
+ Cấu trúc hình thức của các hành động ở lời lớp điều khiển;
+ Đặc điểm của hành động ở lời thuộc lớp điều khiển dựa vào mối quan hệ giữa
phát ngôn ngữ vi và biểu thức ngữ vi cầu khiến;
+ Đặc điểm của hành động điều khiển dựa vào sự có mặt hay vắng mặt của động
từ ngữ vi cầu khiến;
+ Phương thức thể hiện các hành động lớp điều khiển (trực tiếp hay gián tiếp);
+ Hành động lớp điều khiển xét về ý nghĩa cầu hay khiến.
- Dựa vào lí thuyết Hội thoại, luận văn nghiên cứu hành động điều khiển về hai
phương diện:
7
+ Tiếp ngôn (Sp2) của hành động điều khiển về phương diện thành phần giai cấp và
vị thế xã hội xét trong mối quan hệ với chủ ngôn (Sp1, ở đây là nhân vật nông dân);
+ Hành động điều khiển với vấn đề phương thức thể hiện tính lịch sự trong lời
cầu khiến.
4. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1.Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu hành động ngôn ngữ thuộc lớp điều khiển của nhân vật nông dân
trong các tác phẩm tiêu biểu, giai đoạn 1930-1945, người viết muốn góp phần làm rõ
đặc điểm ngôn ngữ, đặc biệt là các hành động ở lời thuộc lớp điều khiển của nông dân,
đại diện cho giai cấp bị trị ở Việt Nam thời kì trước Cách mạng tháng Tám, từ đó thấy
được sự chi phối của vị thế xã hội đối với hành động nói năng của con người trong thời
kì lịch sử này như thế nào.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích nói trên, luận văn đặt ra một số nhiệm vụ chính sau đây:
(1) Nghiên cứu và lựa chọn những vấn đề lí thuyết làm căn cứ lí luận cho việc xử
lí đề tài;
(2) Khảo sát, thống kê và phân loại các hành động điều khiển của nhân vật nông
dân trong các tác phẩm được chọn làm nguồn ngữ liệu khảo sát nói trên.
(3) Miêu tả, phân tích các hành động lớp điều khiển của nhân vật nông dân đã
thống kê theo từng tiêu chí đã định trước;
(4) Tổng kết các kết quả nghiên cứu theo các nội dung nói ở mục Phạm vi nghiên
cứu bằng lời hay biểu bảng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp và thủ pháp nghiên cứu chủ yếu được luận văn sử dụng là:
- Phương pháp thống kê, phân loại: Phương pháp nghiên cứu này được dùng để
thống kê và phân loại các hành động điều khiển của nhân vật nông dân trong các tác
phẩm đã chọn làm ngữ liệu thống kê.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Những phương pháp nghiên cứu này được
dùng để phân tích, tổng hợp đặc điểm của các kiểu hành động điều khiển đã được thống
kê, phân loại và miêu tả...
8
- Thủ pháp so sánh, đối chiếu: Thủ pháp so sánh, đối chiếu được dùng để so sánh
các hành động điều khiển được nhân vật nông dân sử dụng với các hành động điều
khiển giả định mà luận văn đưa ra khi cần thiết.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
Chương 2: Hành động điều khiển của nhân vật nông dân trong văn xuôi Việt Nam,
giai đoạn 1930 - 1945 nhìn từ lí thuyết Hành động ngôn ngữ
Chương 3: Hành động điều khiển của nhân vật nông dân trong văn xuôi Việt Nam,
giai đoạn 1930 - 1945 nhìn từ lí thuyết Hội thoại
9
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chương này trình bày sơ lược một số vấn đề lí luận và cơ sở thực tiễn liên quan
đến đề tài, cụ thể đó là: lí thuyết về hành động ngôn ngữ; lí thuyết hội thoại; vài nét về
văn xuôi VN giai đoạn 1930 - 1945.
1.1. Lí thuyết về hành động ngôn ngữ
1.1.1. Khái niệm hành động ngôn ngữ
Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ tuy không phải là phương tiện giao tiếp duy nhất
nhưng là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người. Sử dụng ngôn ngữ nhằm
gây ra hiệu quả, tác động đối với nhân vật giao tiếp là người nói đã sử dụng các hành
vi ngôn ngữ.
Theo cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học (1998) (Nguyễn Như Ý chủ
biên), Nxb Giáo dục, Hà Nội thì hành vi ngôn ngữ (J.R. Searle gọi là hành động ngôn
ngữ) là “Một đoạn lời có mục đích nhất định được thực hiện trong những điều kiện
nhất định, được tách biệt bằng các phương tiện tiết tấu, ngữ điệu, và hoàn chỉnh, thống
nhất về mặt cấu âm - âm học và người nói và người nghe đều có liên hệ với một ý nghĩa
như nhau trong hoàn cảnh giao tiếp nào đó”. [78, tr.107].
Nghiên cứu hành động ngôn ngữ không thể không đề cập đến lí thuyết hành động
ngôn từ (speech act) của J. L. Austin trong công trình How to do things with word
(Hành động như thế nào bằng lời nói). Tuy không đưa ra một định nghĩa cụ thể về hành
động ngôn ngữ nhưng J. L. Austin có khẳng định: “Khi chúng ta nói năng là chúng ta
hành động, chúng ta thực hiện một hành động đặc biệt mà phương tiện là ngôn ngữ”.
[Dẫn theo 8, tr. 87]. Ông còn nói thêm: “Có ba loại hành động ngôn ngữ lớn: hành vi
tạo lời (acte locutoire), hành vi mượn lời (acte perlocutoire) và hành vi ở lời (acte
illocutoire)”. [Dẫn theo 8, tr.87].
Theo lí thuyết này, một lời nói bao giờ cũng phải được thực hiện thông qua các
hành động ngôn từ (hành động nói) gồm ba hành động liên quan đến nhau:
10
- Hành động tạo lời (hành động tạo ngôn) là “hành động sử dụng các yếu tố ngôn
ngữ như ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu... nhằm tạo ra một phát ngôn có hình
thức và nội dung”. [Dẫn theo 8, tr.88].
- Hành động mượn lời (còn gọi là hành động dụng ngôn hay hiệu lực dụng ngôn)
là những hành vi “mượn” phương tiện ngôn ngữ để gây ra một hiệu quả tâm lý nào đó
ở người nghe, người nhận hoặc ở chính người nói, như: vui, buồn, lo lắng, xúc động,
bực tức, phấn khởi,...
- Hành động ở lời (còn gọi là hành động ngôn trung) là hành động người nói thực
hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả của chúng là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, tức là
nó gây ra một hiệu quả ngôn ngữ tương ứng ở người nhận. Chẳng hạn, khi chúng ta
“hỏi” ai một điều gì đó, người được hỏi có trách nhiệm phải “trả lời” chúng ta, dù câu
trả lời là “không biết”.
Hành động ở lời được thực hiện bằng một lực thông báo của phát ngôn (lực ngôn
trung) và thể hiện mục đích giao tiếp nhất định (đích ngôn trung), như: hỏi, cầu khiến,
trần thuật, biểu cảm, ... Đích ngôn trung và lực ngôn trung là tiêu chí nhận diện hành
động ở lời. Khác với hành động mượn lời, hành động ở lời có ý định, qui ước và thể
chế, dù rằng qui ước và thể chế của chúng không hiển ngôn mà mọi người trong một
cộng đồng ngôn ngữ tuân theo một cách không tự giác.
O. Ducrot nói rõ thêm về sự khác biệt giữa hành động ở lời với hành động tạo lời
và hành động mượn lời. Sự khác biệt cơ bản giữa chúng là ở chỗ hành động ở lời thay
đổi tư cách pháp nhân của người đối thoại. Hành động ở lời đặt người nói và người
nghe vào những nghĩa vụ và quyền lợi mới so với tình trạng của họ trước khi thực hiện
hành động ở lời đó.
1.1.2. Phân loại các hành động ở lời
1.1.2.1. Quan điểm và kết quả phân loại của J. L. Austin
Trong công trình How to do thinks with words, J. L. Austin đã dựa vào động từ
ngữ vi tiếng Anh để phân loại các hành động ngôn ngữ thành 5 lớp lớn, đó là (dẫn theo
Đỗ Hữu Châu):
11
- Lớp phán xử (verditives, verditifs): Đây là những hành động đưa ra những lời
phán xét về một sự kiện hoặc một giá trị dựa trên những chứng cớ hiển nhiên hoặc dựa
vào những lí lẽ vững chắc như: xử trắng án, nêu đặc điểm, cho là, xem là, phân tích,
phân loại, miêu tả, ...
- Lớp hành xử (exercitives, exercitifs): Đây là những hành động đưa ra những
quyết định thuận lợi hay chống lại một chuỗi hành động nào đó, chẳng hạn như: Ra
lệnh, chỉ huy, khẩn cầu, van xin, lạy, cảnh cáo, v.v...
- Lớp cam kết (commissiver, commissifs): Đây là những hành động ràng buộc
người nói vào một chuỗi hành động nhất định, chẳng hạn: hứa, bày tỏ lòng mong muốn,
giao ước,bảo đảm, thề nguyền, ...
- Lớp trình bày (expositives, expositifs): Đây là những hành động được dùng để
trình bày, dẫn dắt lập luận, giải thích cách dùng các từ như khẳng định, phủ định, từ
chối, phản bác, nhượng bộ, dẫn thí dụ,...
- Lớp ứng xử (behabitives, comportementaux): Đây là những hành động phản ứng
lại cách xử sự của người khác, đối với các sự kiện có liên quan. Những hành vi này
cũng có khi là cách thể hiện thái độ đối với hành vi và số phận của người khác, như:
xin lỗi, cám ơn, khen ngợi, chào mừng, phê phán,...
Có thể nói ngay rằng, cách phân loại của J. L. Austin có phần không thỏa đáng
vì các hành động ngôn ngữ có chỗ bị chồng chéo, có chỗ mơ hồ không xác định được
rõ ràng.
1.1.2.2. Quan điểm và kết quả phân loại của J. R.Searle
Khắc phục những hạn chế trong cách phân loại của J. L. Austin, tác giả J. R.
Searle đã đưa ra 12 tiêu chí để phân loại các hành động ở lời, đó là: 1) Đích ở lời, 2)
Hướng khớp ghép giữa lời với hiện thực, 3) Trạng thái tâm lí được thể hiện, 4) Sức
mạnh mà đích được trình bày, 5) Tính quan yếu của mối quan hệ liên cá nhân, 6) Định
hướng hành động, 7) Cặp kế cận, 8) Nội dung mệnh đề, 9) Hứa hẹn, 10) Thể chế xã
hội, 11) Động từ ngôn hành, 12) Phong cách thực hiện hành động ở lời.
12
Theo 12 tiêu chí này, lấy 3 tiêu chí đầu và tiêu chí thứ 8 làm căn cứ cơ bản, J. R.
Searle đã chia hành động ở lời thành 5 lớp:
(1) Lớp hành động tái hiện (trước đây ông gọi là xác tín hay biểu hiện):
Lớp hành động này có những đặc trưng sau:
- Đích ở lời: Đích ở đây là miêu tả, xác tín... một sự tình đang được nói tới.
- Hướng khớp ghép: Hướng khớp ghép ở đây là ghép lời với hiện thực mà lời đề
cập. Tức hiện thực là cái có trước, lời có sau, lời phải phù hợp với hiện thực. Nếu lời
không phù hợp với hiện thực tức là hành động miêu tả hay xác tín sai.
- Trạng thái tâm lí: Niềm tin vào điều mình xác tín. Người nói ra hành động xác
tín phải tin là điều mình nói ra là đúng. Người nói ra phát ngôn dẫn trên đã tin vào lời
mình nói ra là đúng với hiện thực.
- Nội dung mệnh đề: một mệnh đề.
(2) Lớp hành động điều khiển
- Đích ở lời: Đặt người nghe vào trách nhiệm thực hiện hành động trong tương lai.
Ví dụ 2: Tôi yêu cầu anh từ mai không được đi học muộn.
Hành động “yêu cầu” trên có đích là đặt người nghe (anh) vào trách nhiệm phải
thực hiện hành động trong tương lai là từ mai phải đi học đúng giờ (tức “không được
đi học muộn”.
- Hướng khớp ghép: Hiện thực ghép vào lời, tức lời có trước, hiện thực có sau. Trong
lời yêu cầu vừa dẫn, hành động “không đi học muộn” (tức hành động đi học đúng giờ) được
thực hiện đúng theo lời “yêu cầu...” của Sp1(hành động yêu cầu).
- Trạng thái tâm lí: Là sự mong muốn người nghe thực hiện hành động. Ở đây,
người đưa ra hành động “yêu cầu” với mong muốn người nghe (anh) thực hiện hành
động trong tương lai: “từ mai phải đi học đúng giờ”.
- Nội dung mệnh đề: Là hành động tương lai của người nghe. Phát ngôn dẫn trên
có nội dung mệnh đề là hành động (đi học đúng giờ) trong tương lai (từ mai) của người
nghe (anh).
13
(3) Lớp hành động cam kết
- Đích ở lời: Là trách nhiệm thực hiện hành động mà Sp1 bị ràng buộc.
Ví dụ 3: Tôi hứa (với bạn) sẽ cho bạn vay 10 triệu.
Đích ở lời của hành động ngôn ngữ “hứa” dẫn trên là trách nhiệm phải thực hiện
hành động “cho bạn vay 10 triệu” của Sp1 (người nói - tôi). Sp1 phải thực hiện hành
động này là bởi sự giàng buộc của lời “hứa” mà Sp1 đã đưa ra.
- Hướng khớp ghép: Hiện thực ghép vào lời. Tức lời hứa (cho Sp2 - bạn vay 10
triệu) của Sp1 là cái có trước, hiện thực Sp1đưacho Sp2 vay 10 triệu là cái xảy ra sau
lời hứa. Nói cách khác, Sp1 nói lời hứa trước rồi sau đó mới có hành động đưa tiền
cho Sp2. Không ai lại đưa tiền rồi mới hứa.
- Trạng thái tâm lí: Trạng thái tâm lí thể hiện qua lớp hành động ngôn ngữ thuộc
nhóm này là ý định của người nói (Sp1). Trong ví dụ vừa dẫn, trạng thái tâm lí của Sp1
ở đây là ý định cho Sp2 (người nghe) vay 10 triệu.
- Nội dung mệnh đề: Nội dung mệnh đề ở đây là hành động trong tương lai của người
nói. Trong ví dụ dẫn trên, nội dung mệnh đề là hành động Sp1 cho Sp2 vay 10 triệu.
(4) Lớp hành động biểu cảm
- Đích ở lời: Là bày tỏ trạng thái tâm lí phù hợp với hành động ở lời.
Ví dụ 4: Trời ơi sao mà nóng thế!
Đây là hành động than vãn (trời nóng) của Sp1. Đích ở lời là Sp1 bày tỏ tâm trạng
khó chịu trước hiện thực trời nóng.
- Hướng khớp ghép: Không có hướng khớp ghép (chỉ là thái độ của người nói,
không đánh giá được chân - ngụy).
- Trạng thái tâm lí: Thay đổi tùy theo từng hành động ở lời. Trạng thái tâm lí thể
hiện trong ví dụ trên là sự khó chịu của Sp1 trước hiện thực trời quá nóng.
- Nội dung mệnh đề: Là một hành động hay tính chất nào đó của Sp1 hay của Sp2.
(5) Lớp hành động tuyên bố
- Đích ở lời: Là gây ra một sự thay đổi bởi lời tuyên bố.
14
Ví dụ 5 (lời của giám đốc công ty): Tôi tuyên bố cuộc họp bắt đầu.
Lời tuyên bố của Sp1 (giám đốc) trong ví dụ (5) kết thúc sẽ gây ra một sự thay đổi:
cuộc họp bắt đầu, mọi người trong hội trường không còn được nói chuyện hay làm việc
riêng nữa mà bắt đầu chú ý nghe và làm theo yêu cầu của chủ tọa (giám đốc công ty).
- Hướng khớp ghép: Là hiện thực ghép với lời. Trong ví dụ vừa dẫn, hướng
khớp ghép là hiện thực(mọi người bắt đầu họp) ghép với lời (tuyên bố của giám
đốc), tức là lời tuyên bố của Sp1 có trước, hiện thực (mọi người họp) có sau.
- Trạng thái tâm lí: Không rõ, có các yếu tố thể chế làm lời nói có giá trị. Trong ví
dụ vừa dẫn, yếu tố thể chế là lời tuyên bố phải có ngữ cảnh mới có hiệu lực. Ngữ cảnh ở
đây là trong một phòng họp, có nhiều người ngồi chờ cuộc họp theo thông báo trước đó.
Giả định trong phòng họp không có ai hay có nhiều người nhưng không phải ngồi chờ
cuộc họp mà là ngồi tán gẫu cho vui thì giám đốc cũng sẽ không đưa ra lời tuyên bố...
- Nội dung mệnh đề: Là một mệnh đề. Trong ví dụ (5), nội dung mệnh đề chính
là mệnh đề “cuộc họp bắt đầu”.
Cách phân loại của J.R. Searle được xem là tương đối hợp lí. Luận văn này cơ
bản tuân thủ những tiêu chí mà J. R. Searle đưa ra để xác định và thống kê các hành
động điều khiển của nhân vật nông dân trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam, giai
đoạn 1930-1945 đã nói trên.
1.1.2.3. Quan điểm và kết quả phân loại của một số nhà Việt ngữ học
Ngoài quan điểm và cách phân loại của hai tác giả nước ngoài tiêu biểu vừa trình
bày, ở Việt Nam cũng có một số tác giả đề cập đến vấn đề phân loại hành động ngôn
ngữ. Không thể không kể đến một số tác giả Việt ngữ tiêu biểu quan tâm đến vấn đề
này, như: Cao Xuân Hạo, Bùi Mạnh Hùng, Hồ Lê, v.v...
a) Quan điểm và kết quả phân loại của tác giả Cao Xuân Hạo
Trong cuốn Sơ thảo ngữ pháp chức năng, quyển 1 (1991) tác giả Cao Xuân Hạo
đã bày tỏ quan điểm rất rõ ràng khi bàn về vấn đề phân loại hành động ngôn ngữ.Theo
ông, khi chúng ta nói ra một câu là chúng ta thực hiện một hành động nhất định. Vì thế,
khi chúng ta xác lập một mệnh đề, cũng tức là chúng ta thực hiện một hành động có
mục đích giao tế nào đấy, đó là một hành động ngôn trung.
15
Tác giả Cao Xuân Hạo còn căn cứ vào hiện thực để chia câu tiếng Việt thành hai
loại lớn, là câu trần thuật và câu nghi vấn. Việc phân loại câu theo lực ngôn trung theo
quan điểm ông là không chỉ dựa vào công dụng mà còn phải dựa vào cả đặc điểm hình
thức. Với quan điểm như vậy, Cao Xuân Hạo đã chia hành động ở lời (hành động ngôn
trung) thành các loại, như miêu tả, nhận xét, hỏi, yêu cầu, bộc lộ thái độ, v.v...
b) Quan điểm và kết qủa phân loại của tác giả Bùi Mạnh Hùng
Kế thừa quan điểm phân loại câu và hành động ngôn trung của tác giả Cao Xuân
Hạo, tác giả Bùi Mạnh Hùng (2003) cho rằng: Trong cấu trúc của câu bao giờ cũng có
phương tiện ngôn ngữ giúp chúng ta qui câu về một kiểu nhất định gắn với mục đích
phát ngôn (lực ngôn trung) điển hình. Đây là vấn đề nguyên tắc của ngôn ngữ học. Tác
giả thay cho cách dùng thuật ngữ “Phân loại câu theo mục đích phát ngôn” của ngôn
ngữ học truyền thống hay “Phân loại câu theo lực ngôn trung” của Cao Xuân Hạo bằng
khái niệm “Phân loại câu theo dấu hiệu hình thức gắn với mục đích phát ngôn điển
hình”.
Tác giả nêu quan điểm khi phân loại câu là dựa vào ba nguyên tắc:
(1) Không xếp một câu nào đó vào hai kiểu khác nhau;
(2) Mỗi một kiểu câu có một hình thức riêng mà kiểu câu khác không có (hình
thức riêng có thể biểu hiện chỉ qua một phương tiện ngôn ngữ mà cũng có thể biểu hiện
qua nhiều phương tiện ngôn ngữ cùng một lúc).
(3) Ngữ điệu không được coi là dấu hiệu đánh dấu các kiểu câu.
Theo tinh thần này, xét về đích ngôn trung, câu tiếng Việt cũng được tác giả chia
thành nhiều kiểu, như: trần thuật, hỏi, cầu khiến, bộc lộ thái độ, v.v...
c) Quan điểm và kết quả phân loại của tác giả Hồ Lê
Tác giả Hồ Lê (1992), trong công trình Cú pháp tiếng Việt, quyển 2, Nxb GD, H.
đã cho rằng mỗi câu đều phải theo một trong 4 định hướng: trần thuật, nghi vấn, cầu
khiến, cảm thán. Người thụ ngôn phải cảm nhận được định hướng của từng câu để có
phản xạ thích hợp.
16
Chẳng hạn, khi nghe một câu cầu khiến, người nghe không những phải hiểu nội
dung của câu mà còn phải nhận ra điểm cầu khiến trong câu và chuẩn bị phản ứng
(bằng lời hay hành động vật lí). Theo quan điểm phân loại này, tác giả Hồ Lê đã chia
câu cầu khiến thành 4 kiểu như nói ở trên.
Tóm lại, quan điểm phân loại hành động ở lời của các tác giả dẫn trên tuy có phần
khác nhau nhưng đều chung nhau ở một điểm: xem trọng đích ở lời và những dấu hiệu
bề mặt của các phát ngôn để xác định từng hành động ngôn trung (hành động ở lời) của
mỗi phát ngôn (câu trong giao tiếp).
1.1.3. Phát ngôn ngữ vi, biểu thức ngữ vi, động từ ngữ vi
1.1.3.1. Phát ngôn ngữ vi
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, “Phát ngôn ngữ vi là những phát ngôn mà khi người
ta nói chúng ra thì đồng thời người ta thực hiện luôn cái việc được biểu thị trong phát
ngôn”. [8, tr. 89].
Ví dụ (6): Tôi xin lỗi anh vì đã dẫm vào chân anh!
Khi người nói phát âm xong phát ngôn trên là đã thực hiện xong cái việc được
biểu thị trong phát ngôn là việc xin lỗi. Nói cách khác, người nói phát âm xong phát
ngôn là đã thực hiện xong hành động xin lỗi.
1.1.3.2. Biểu thức ngữ vi
Một phát ngôn ngữ vi có kết cấu lõi đặc trưng cho hành động ở lời tạo ra nó, kết
cấu lõi đó được gọi là biểu thức ngữ vi.
Ví dụ 7: Nếu cậu đến nhà Minh, cậu chuyển giúp mình quyển từ điển này cho
Minh nhé.
Phần in nghiêng trong phát ngôn vừa dẫn là biểu thức ngữ vi. Đây là phần lõi thể
hiện hành động nhờ của phát ngôn ngữ vi nhờ trên.
Về mặt hình thức, biểu thức ngữ vi có khi trùng với hình thức của phát ngôn ngữ
vi, nhưng cũng có khi chỉ là một bộ phận của phát ngôn ngữ vi.
Biểu thức ngữ vi trong ví dụ vừa dẫn chỉ là một bộ phận của phát ngôn ngữ vi.
Phần không in nghiêng là thành phần mở rộng thể hiện hành vi rào đón.
17
Ví dụ 8: So sánh hai phát ngôn sau đây:
- Tớ ngại quá, nhưng tớ vẫn phải nói với cậu, tớ hết sạch tiền rồi, cậu cho tớ xin
lại số tiền mà cậu vay năm ngoái nhé! (a)
- Cậu cho tớ xin lại số tiền mà cậu vay năm ngoái nhé. (b)
Rõ ràng cách nói như ở ví dụ (8a) lịch sự và tôn trọng thể diện của Sp2 hơn cách
nói như (8b).
Biểu thức ngữ vi trong ví dụ (9) dưới đây có hình thức trùng với phát ngôn
ngữ vi.
Ví dụ 9: Tôi yêu cầu anh xuống xe xuất trình giấy tờ!
Phát ngôn trên là phát ngôn ngữ vi yêu cầu và đồng thời cũng là biểu thức ngữ
vi. Phát ngôn ngữ vi tối thiểu là phát ngôn chỉ có biểu thức ngữ vi (như ví dụ 8b). Trong
giao tiếp thường ngày, phát ngôn ngữ vi thường có biểu thức ngữ vi và thành phần mở
rộng (như ví dụ 7 và ví dụ 8a).
Mỗi biểu thức ngữ vi đều mang những dấu hiệu chỉ dẫn đặc thù để phân biệt hành
động ở lời. Những dấu hiệu đánh dấu biểu thức ngữ vi thường gặp là: kiểu kết cấu,
những từ ngữ đặc thù, ngữ điệu, quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc vị từ tham thể
tạo nên nội dung mệnh đề, động từ ngữ vi, v.v... (sẽ nói kĩ ở mục (1.1.3.3) và mục
(1.1.3.4) dưới đây.
1.1.3.3. Động từ ngữ vi
a) Khái niệm động từ ngữ vi
Trong số các động từ của ngôn ngữ, có một loại động từ chuyên dùng để gọi tên
các hành động ngôn ngữ. Các nhà ngôn ngữ học gọi chúng là động từ nói năng. Ví dụ,
các động từ: hỏi, khuyên, yêu cầu, hứa, xin, nhờ, v.v... là những động từ nói năng.
Những động từ này dùng để gọi tên các hành động ở lời tương ứng, như hành động hỏi,
hành động khuyên, hành động yêu cầu, hành động hứa, v.v...
Động từ nói năng có thể được dùng với chức năng ngữ vi, và cũng có thể dùng
không đúng với chức năng ngữ vi.
18
Những động từ nói năng nào được dùng đúng với chức năng như tên gọi của nó,
đó là động từ ngữ vi. Chẳng hạn, động từ khuyên được dùng đúng với chức năng để
khuyên, động từ nhờ được dùng đúng với chức năng nhờ như ở ví dụ (10) sau đây là
động từ ngữ vi:
Ví dụ 10:
- Tôi khuyên anh nên bỏ thuốc lá. (a)
- Mình nhờ cậu mua cho quyển Tắt đèn. (b)
Hai động từ vừa dẫn nếu được dùng như trong các phát ngôn ở ví dụ (11) dưới
đây sẽ không phải là động từ ngữ vi. Chúng chỉ là động từ nói năng được dùng với
chức năng nhắc lại (ví dụ 11a) hay thông báo (ví dụ 11b) chứ không phải dùng để
khuyên (như ví dụ 10a) và dùng để nhờ (như ví dụ 10b):
Ví dụ 11:
- Tôi đã khuyên anh nên bỏ thuốc lá rồi. (a)
- Mình sẽ nhờ cậu mua cho quyển Tắt đèn. (b).
Tác giả Đỗ Hữu Châu đã đưa ra định nghĩa về động từ ngữ vi: “Động từ ngữ vi
là những động từ mà khi phát âm chúng ra cùng với biểu thức ngữ vi, (có khi không
cần biểu thức ngữ vi) là người ta đã thực hiện xong cái hành vi ở lời do chúng biểu
thị”. [8, tr.97].
Động từ thề trong ví dụ (12) dưới đây là động từ ngữ vi được dùng cùng với biểu
thức ngữ vi:
Ví dụ 12: Tôi thề với anh là tôi không hề biết chuyện đó.
Ngược lại, động từ xin lỗi trong ví dụ (13) lại không cần biểu thức ngữ vi nhưng
nó vẫn diễn đạt được hành động ở lời như tên gọi của nó - hành động xin lỗi.
Ví dụ 13: (Trong quán ăn, A nhỡ tay làm rớt nước mắm vào áo B, A nhìn B và
nói): Xin lỗi!
b) Điều kiện một động từ nói năng được dùng với chức năng ngữ vi
Không phải động từ nói năng nào cũng được dùng với chức năng ngữ vi. Có
những động từ nói năng luôn chỉ dùng trong chức năng miêu tả, như các động từ: dọa,
19
chửi, cằn nhằn, khen, chê, ... Có những động từ nói năng lúc này được dùng với chức
năng ngữ vi, lúc khác lại được dùng với chức năng miêu tả, như các động từ: hỏi,
khuyên, hứa, nhờ, yêu cầu,...
Một động từ nói năng được dùng với chức năng ngữ vi phải đảm bảo 4 điều kiện
sau đây:
- Thứ nhất, chủ thể của động từ phải ở ngôi thứ nhất;
- Thứ hai, đối thể chỉ kẻ tiếp nhận của động từ phải ở ngôi thứ hai;
- Thứ ba, động từ phải được dùng ở thì hiện tại;
- Thứ tư, phát ngôn không có yếu tố tình thái đi kèm.
Phân tích cách dùng của động từ nói năng “khuyên” dưới đây để rõ thêm điều vừa
nói:
+ Tôi khuyên bạn không nên nghỉ học. (a)
+ Anh ta khuyên bạn không nên nghỉ học. (b)
+ Tôi khuyên nó không nên nghỉ học. (c)
+ Tôi đã khuyên bạn không nên nghỉ học. (d)
+ Tôi khuyên bạn không nên nghỉ học đấy thôi. (e)
Năm phát ngôn dẫn trên đều có chứa động từ nói năng khuyên nhưng chỉ có động
từ khuyên trong phát ngôn (a) là được dùng đúng với chức năng ngữ vi, các trường hợp
sử dụng còn lại động từ khuyên không phải là động từ ngữ vi, bởi chúng đã vi phạm
một trong 4 điều kiện trên.
Vận dụng những tri thức về phát ngôn ngữ vi, biểu thức vi và động từ ngữ vi nói
trên, luận văn sẽ xác định và miêu tả các hành động điều khiển của nhân vật nông dân
trong một số tác phẩm văn xuôi tiêu biểu, giai đoạn 1930-1945 đã chọn để thống kê
đối tượng nghiên cứu.
1.1.4. Một số dấu hiệu đánh dấu hành động ở lời
Về mặt hình thức, mỗi hành động ở lời đều có nhiều dấu hiệu đặc thù để nhận
biết. Ở đây chỉ có thể kể ra ba dấu hiệu cơ bản, đó là: động từ ngữ vi, các từ ngữ chuyên
dụng và kiểu kết cấu.
20
1.1.4.1. Động từ ngữ vi
Động từ ngữ vi được coi là dấu hiệu đặc biệt đánh dấu lực ngôn trung (hành động
ở lời). Nói cách khác, một biểu thức ngữ vi có động từ ngữ vi sẽ thể hiện tường minh
hành động ở lời do đó nó còn được gọi là “biểu thức ngữ vi tường minh”. Ngược lại,
những biểu thức ngữ vi không chứa động từ ngữ vi sẽ là “biểu thức ngữ vi nguyên cấp”.
[8, tr.91-92]. Những biểu thức ngữ vi nguyên cấp thường gây mơ hồ về hành động ở
lời.
Ví dụ 14:
- Tôi hứa (với anh) mai tôi sẽ đến trường anh. (a)
- tôi thông báo (với anh) mai tôi sẽ đến trường anh. (b)
- Mai tôi sẽ đến trường anh. (c)
Phát ngôn (14a) và (14b) có chứa động từ ngữ vi (hứa, thông báo) nên hành động
ở lời được tường minh: hành động hứa và hành động thông báo. Ngược lại, phát ngôn
thứ ba (14c) không có động từ ngữ vi để tường minh hành động ở lời nên người nghe
có thể hiểu đây là hành động hứa, và cũng có thể hiểu là hành động thông báo, thậm
chí là hành động dọa. Phải nhờ ngữ cảnh mới có thể xác định được phát ngôn đó có
đích ở lời là gì.
Chẳng hạn, trong ngữ cảnh A mời B đến thăm trường của A, B nói: Mai tôi đến
trường anh! Phát ngôn của B sẽ được hiểu là hành động hứa. Trong ngữ cảnh A là một
lãnh đạo của Bộ Xây dựng có kế hoạch đến trường X để tìm hiểu thực tế để cấp kinh phí
xây dựng cho trường này. Trước khi đến, A gọi điện cho lãnh đạo trường và nói rằng:
Mai tôi đến trường anh thì phát ngôn này nên hiểu là lời thông báo. Lại trong tình huống
A là cán bộ thanh tra tài chính, B là lãnh đạo trường X và B vốn là người đã mắc tội tham
nhũng. Trước khi đến kiểm tra tài chính của trường X, A gọi điện cho B và nói: Mai tôi
đến trường anh thì phát ngôn này có thể hiểu là hành động thông báo (nếu A là người
liêm khiết), cũng có thể hiểu là hành động dọa (nếu A là người thích ăn đút lót, dọa để
B phải đút tiền cho mình nếu B không muốn bị vạch tội tham nhũng).
21
1.1.4.2. Từ ngữ chuyên dụng
Từ ngữ chuyên dụng là những từ ngữ chuyên dùng cho một kiểu hành động ở lời.
Mỗi biểu thức ngữ vi thường có một số từ ngữ chuyên dụng đánh dấu hành động ở lời.
Nhờ những từ ngữ này mà ta có thể biết được hành động ở lời nào đang được thực hiện.
Chẳng hạn, hành động ở lời hỏi thường có những từ ngữ đặc thù như ai, cái gì, bao giờ,
làm sao, à, ư,...; hành động khuyên thường có các từ ngữ chuyên dụng như nên, không
nên, cần, đừng, ...; hành động cảm thán thường được đánh dấu bằng những từ ngữ như
ôi, trời ơi, thật là...
Ví dụ 15:
- Ai đang ngồi ở nhà bạn đấy? (Hành động hỏi).
- Cậu không nên đi ngủ muộn. (Hành động khuyên).
- Ôi, đau quá! (Hành động cảm thán).
1.1.4.3. Kiểu kết cấu
Kết cấu ở đây không chỉ được hiểu là kiểu câu theo cách hiểu của ngữ pháp truyền
thống (câu trần thuật, câu nghi vấn, câu cầu khiến, câu cảm thán) với những dấu hiệu
rất chung chung mà kết cấu ở đây còn được hiểu bao gồm cả những cấu trúc cụ thể ứng
với từng hành động ở lời. Chẳng hạn, hành động hỏi thường có cấu trúc có... không? P
à? P chứ?..., hành động cảm thán thường dùng những kết cấu như P quá, X ơi là X! ...,
hành động điều khiển thường dùng kiểu cấu trúc như: P đi, không nên P, cần phải P,
đừng P nữa,... Đó chính là những dấu hiệu đặc thù đánh dấu hành động ở lời điều khiển,
xin sẽ trình bày kĩ hơn ở mục 1.2.).
Ví dụ 16:
- Mai bạn có đi học không? (Hành động hỏi).
- Chiếc xe này đẹp quá! (Hành động khen).
- Cậu bỏ thuốc đi! (Hành động khuyên).
Chúng tôi dựa vào những dấu hiệu đặc thù đánh dấu hành động điều khiển để xác
định và khảo sát hành động điều khiển của nhân vật nông dân trong văn xuôi Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945.
22
1.1.5. Hành động ở lời trực tiếp và hành động ở lời gián tiếp
Hành động ở lời xét trong mối quan hệ giữa mục đích diễn đạt và hình thức biểu đạt
có thể chia thành hai loại, đó là hành động ở lời trực tiếp và hành động ở lời gián tiếp.
1.1.5.1. Hành động ở lời trực tiếp
Hành động ở lời trực tiếp là những hành động ở lời được sử dụng đúng với điều
kiện sử dụng, đúng với đích ở lời của chúng. Nói như tác giả Nguyễn Thiện Giáp,
“Hành động ngôn từ trực tiếp là hành động ngôn từ được thực hiện ở những phát ngôn
có quan hệ trực tiếp giữa một cấu trúc và một chức năng”. [21, tr.54].
Theo cách hiểu này, hành động hỏi trong ví dụ (17) dưới đây là hành động ở lời
trực tiếp.
Ví dụ 17: Mai bạn có đi học không?
Trong ví dụ vừa dẫn, hành động hỏi được thể hiện bằng hình thức của một câu
(phát ngôn) hỏi. Giữa cấu trúc và chức năng có sự phù hợp: dùng kiểu câu hỏi để nhằm
đích hỏi.
Tương tự, hành động khuyên dưới đây cũng là hành động ở lời trực tiếp:
Ví dụ 18: Tôi khuyên bạn không nên đi học ở nước ngoài (vì mẹ bạn đang ốm).
Sử dụng hành động ở lời trực tiếp sẽ hạn chế được hiện tượng mơ hồ về hành
động ở lời.
1.1.5.2. Hành động ở lời gián tiếp
Khi người nói sử dụng hành động ở lời này nhưng lại nhằm đạt đến đích của
một hành động ở lời khác thì hành động đó được gọi là hành động ở lời gián tiếp.
Tác giả Nguyễn Đức Dân dùng thuật ngữ hành vi tại lời (thay cho hành vi ở lời,
hành động ở lời) và định nghĩa hành động ở lời gián tiếp như sau: “Một hành vi tại lời
được thực hiện gián tiếp qua một hành vi tại lời khác sẽ được gọi là một hành vi tại lời
gián tiếp”. [14, tr. 59].
Ví dụ 19:
- Cháu có thể đóng hộ bác cái cửa được không? (a)
- A: Cậu đi xem phim với tớ đi! (b)
B: Cậu mang xe đón tớ được không? (c)
23
Phát ngôn (19a) là hành động ở lời nhờ. Hành động ở lời nhờ được thực hiện gián
tiếp qua hành động ở lời trực tiếp hỏi. Tức là, Sp1 đã đưa ra hành động hỏi để nhằm
đích ở lời nhờ. Hành động nhờ ở đây là hành động ở lời gián tiếp. Tương tự, phát ngôn
(19c) có đích ở lời là đề nghị nhưng lại được người nói dùng phát ngôn có hình thức
hỏi để thể hiện. Đây cũng là hành động ở lời gián tiếp.
Về lí thuyết, một hành động ở lời trực tiếp có thể nhằm đến đích của nhiều hành
động ở lời gián tiếp. Chẳng hạn, bằng hành động ở lời trực tiếp hỏi, người nói có thể
nhằm đích để chào, yêu cầu/đề nghị, nhờ, bộc lộ thái độ hay để chất vấn, ...
Ví dụ 20:
- Bác đi đâu đấy ạ? (Chào)
- Em đưa bức thư này cho cô Hà giúp cô được không? (Nhờ)
- Con không làm vỡ lọ hoa thì còn ai đánh vỡ? (khẳng định con đánh vỡ lọ hoa).
Sử dụng hành động ở lời gián tiếp dễ tạo ra sự mơ hồ về hành động ngôn ngữ.
Muốn nhận biết được hành động ở lời gián tiếp là gì, người nghe phải qua thao tác suy
ý từ hành động ở lời trực tiếp và ngữ cảnh.
Vận dụng lí thuyết về hành động ở lời trực tiếp và hành động ở lời gián tiếp,
chúng tôi sẽ tiến hành phân loại và miêu tả các hành động điều khiển đã thống kê theo
lối dùng trực tiếp hay gián tiếp.
1.2. Khái quát về hành động ở lời cầu khiến
1.2.1. Khái niệm hành động cầu khiến (điều khiển)
1.2.1.1. Một số quan niệm về hành động cầu khiến
Khái niệm hành động cầu khiến ở đây chính là hành động điều khiển (cách gọi
của Searle và chúng tôi theo cách gọi này).
- Theo cuốn Từ điển tiếng Việt (2007), Hoàng Phê (chủ biên), Trung tâm Từ điển
học, thì “cầu khiến” được hiểu là: yêu cầu làm hay không làm việc gì. [61, tr.165].
- Tác giả J. R. Searle cho rằng, hành động điều khiển (cầu khiến) “là những cố
gắng của Sp1 sao cho Sp2 thực hiện một việc gì đó. Nó có thể là những cố gắng ở mức
thấp ví như khi ta gợi ý ai đó làm việc gì, nhưng có khi là những cố gắng ở mức độ cao
(cương quyết) như khi ta tỏ rõ là nhất thiết ai đó phải làm một việc cụ thể nào đấy”.
(J.R. Searle, [dẫn theo 57, tr.12]).
24
- Theo PGS.TS Đào Thanh Lan, hành động cầu khiến được hiểu là “cầu khiến
người nghe thực hiện hành động mình nêu ra hoặc cầu khiến người nghe cho phép mình
thực hiện hành động”. [43, tr.38].
Tác giả Đào Thanh Lan còn giải thích thêm: “Hành động cầu khiến là khái niệm
tổng quát bao gồm hành động ngôn trung có ý nghĩa “cầu” (cầu, nhờ, mời, xin...) và
các hành động ngôn trung có ý nghĩa “khiến” (yêu cầu, ra lệnh, cấm, cho phép...)”. [43,
tr.40].
Cầu và khiến có đích ngôn trung giống nhau, đều là yêu cầu người nghe thực hiện
hành động mà người nói mong muốn. Sự khác nhau ở chúng chỉ là mức độ của hiệu
lực ngôn trung: hành động cầu kêu gọi thiện chí, sự tự nguyện hành động của người
nghe nên lực ngôn trung thấp hơn hành động khiến (áp đặt cho người nghe, cưỡng ép
người nghe phải hành động). So sánh hành động cầu và hành động khiến trong ví dụ
(21) dưới đây để hiểu thêm về hai tiểu loại của hành động cầu khiến mà tác giả Đào
Thanh Lan đã phân tích.
Ví dụ 21:
- Em nhờ chị mua cho mớ rau. (Hành động cầu). (a)
- Tôi yêu cầu anh xuất trình giấy tờ xe. (Hành động khiến). (b)
Phát ngôn (a) có hiệu lực ngôn trung thấp hơn hiệu lực ngôn trung trong phát
ngôn (b).
- Trong cuốn Các hành động cầu khiến tiếng Việt (2016), Nxb ĐHQG HN, tuy
không nêu định nghĩa trực tiếp hành động cầu khiến là gì nhưng tác giả Nguyễn Thị
Thanh Ngân đã đứng từ góc nhìn của ngữ dụng học để đưa ra một cách hiểu về cầu
khiến và hành động cầu khiến như sau:
“Cầu khiến (directives) được dùng để gọi tên một nhóm hành động ngôn từ
(HĐNT) mang bản chất tương tác rõ rệt giữa chủ thể giao tiếp: người nói (Sp1) dùng
lời để thể hiện mong muốn người nghe (Sp2) thực hiện / không thực hiện hành động
nào đó trong tương lai”. [57, tr.11].
25
Hành động cầu khiến mà tác giả Nguyễn Thị Thanh Ngân quan niệm rộng hơn
tác giả Đào Thanh Lan. Hành động cầu khiến theo Nguyễn Thị Thanh Ngân bao gồm
cả hành động hỏi, tuy tác giả có cho hành động hỏi là hành động cầu khiến đặc biệt,
đứng ở vùng biên của hành động cầu khiến (xét từ phương diện tình thái).
Những cách hiểu về hành động cầu khiến vừa dẫn tuy có phần khác nhau nhưng
đều thống nhất ở một điểm: người nói (Sp1) bằng lời của mình yêu cầu người nghe
(Sp2) thực hiện một hành động nào đó trong tương lai. Hành động mà Sp2 thực hiện ở
đây có thể là hành động bằng lời (như Sp1 hỏi, Sp2 trả lời) và cũng có thể là hành động
vật lý (như Sp1 yêu cầu Sp2 đóng cửa chẳng hạn).
1.2.1.2. Quan điểm của luận văn về hành động cầu khiến
Tiếp thu quan điểm của Đào Thanh Lan và Nguyễn Thị Thanh Ngân, chúng tôi
tạm đưa ra một cách hiểu về hành động cầu khiến (xin nhắc lại, chúng tôi gọi là hành
động điều khiển) như sau:
Hành động cầu khiến là một trong những hành động ngôn từ được người nói thực
hiện để yêu cầu, đề nghị... người nghe (Sp2) hành động theo chủ ý của mình (Sp1) hoặc
yêu cầu, đề nghị... người nghe cho phép mình (Sp1) làm một việc gì đó trong tương lai.
Ví dụ 22:- Tôi yêu cầu anh từ mai phải mặc đồng phục khi đến cơ quan! (a)
- Em xin cô cho em nghỉ học 3 ngày! (b)
Phát ngôn (22a) là hành động cầu khiến của Sp1 yêu cầu Sp2 hành động theo ý
muốn của Sp1 (từ mai Sp2 phải mặc đồng phục khi đến cơ quan). Phát ngôn (22b) là
hành động cầu khiến của Sp1 đối với Sp2, nhưng hành động của Sp2 không phải là
hành động vật lí mà là hành động cho phép Sp1 thực hiện hành động trong tương lai:
cho phép Sp1 nghỉ học 3 ngày.
1.2.2. Phân loại hành động cầu khiến tiếng Việt
Có thể chia hành động cầu khiến tiếng Việt thành nhiều tiểu loại, dựa vào những
tiêu chí khác nhau.
Theo 12 tiêu chí phân loại hành động ngôn trung mà tác giả J.R. Searle đã đưa ra,
hành động cầu khiến được ông xếp vào nhóm thứ hai (mà ông gọi là lớp hành động
điều khiển). Cũng như tất cả các nhóm hành động ngôn trung khác, nhóm hành động
cầu khiến có thể được chia thành những loại nhỏ hơn.
26
Dưới đây là một số tiêu chí để phân loại hành động cầu khiến. Luận văn này sẽ
vận dụng chúng để khảo sát các hành động cầu khiến trong các tác phẩm được chọn
làm ngữ liệu thống kê.
1.2.2.1. Căn cứ vào lực ngôn trung (đích ở lời)
Theo tiêu chí này, các hành động cầu khiến (hành động điều khiển theo cách gọi
của J. R. Searle) có thể được chia thành các hành động cụ thể, như: hỏi, yêu cầu, đề
nghị, khuyên, xin, nhờ, van, lạy, v.v...
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Ngân (2016) đã đưa ra danh sách 28 hành động ở lời
thuộc nhóm hành động cầu khiến (trên cơ sở phân loại các hành động cầu khiến theo
tình thái), đó là: lệnh, yêu cầu, cấm, bắt buộc, giao, phân công, sai, vòi vĩnh, đề nghị,
van, xin, nhờ, nài, dỗ, mời, khuyên, can, khuyến cáo, hướng dẫn, gợi ý, dặn dò, nhắc
nhở, giục, hỏi, đe dọa, cầu nguyện, cảnh cáo, thách đố.
Tác giả Đào Thanh Lan, như đã nói, do quan niệm về hành động cầu khiến có
phần hẹp nên danh sách hành động cầu khiến của tác giả chỉ có 16 hành động, đó là:
ra lệnh, cấm, cho/cho phép, yêu cầu, đề nghị, dặn, khuyên, rủ, mời, nhờ, chúc, xin/xin
phép, cầu xin, nài, van, lạy.
Nhìn vào danh sách hành động của hai tác giả dẫn trên, có thể thấy có những hành
động cầu khiến có trong danh sách của tác giả Đào Thanh Lan nhưng không có trong
danh sách của tác giả Nguyễn Thị Thanh Ngân, và ngược lại.
Luận văn này theo quan niệm của tác giả Đào Thanh Lan, có bổ sung quan điểm
của Nguyễn Thị Thanh Ngân về hành động cầu khiến. Vì vậy, ngoài 16 hành động cầu
khiến tiêu biểu mà tác giả Đào Thanh Lan đã liệt kê, chúng tôi có đưa vào danh sách
hành động cầu khiến cả những hành động, như: hỏi, gợi ý, giục, nhắc nhở, dặn dò, đe
dọa, cảnh cáo, thách, v.v...
1.2.2.2. Căn cứ vào sự có hay vắng mặt của vị từ ngôn hành cầu khiến
Căn cứ vào sự có mặt hay vắng mặt của vị từ ngôn hành (động từ ngữ vi) trong
phát ngôn ngữ vi cầu khiến, có thể chia hành động cầu khiến thành hai loại: Hành động
cầu khiến được thể hiện bằng biểu thức ngữ vi tường minh và hành động cầu khiến
được thể hiện bằng biểu thức ngữ vi nguyên cấp (hàm ẩn).
27
Ví dụ 23:
- Tôi khuyên anh không nên bỏ học. (a)
- Anh không nên bỏ học. (b)
Cả hai phát ngôn trong ví dụ (23) đều có đích ở lời là “khuyên”, song phát ngôn cầu
khiến (a) có động từ khuyên để tường minh nên hành động ở lời này có hình thức là biểu
thức ngữ vi tường minh. Ngược lại, phát ngôn cầu khiến (b) không có động từ ngữ vi nên
hành động cầu khiến ở đây được thể hiện bằng biểu thức ngữ vi nguyên cấp. (chúng tôi tạm
gọi tắt là hành động cầu khiến tường minh và hành động cầu khiến nguyên cấp).
1.2.2.3. Căn cứ vào phương thức thể hiện
Căn cứ vào phương thức thể hiện, có thể chia hành động cầu khiến tiếng Việt
thành hai nhóm: hành độngcầu khiến trực tiếp và hành động cầu khiến gián tiếp. (Về
hành động ở lời trực tiếp và hành động ở lời gián tiếp, xin xem lại mục1.1.5). Hành
động cầu khiến trực tiếp được tác giả Đào Thanh Lan gọi bằng cái tên “hành động cầu
khiến chính danh” và hành động cầu khiến gián tiếp được tác giả này gọi bằng cái tên
“hành động cầu khiến hàm ngôn”. [43, tr.57 và tr. 173].
Ví dụ 23:- Tớ mời cậu mai đến dự lễ khai trương cửa hàng của tớ! (a)
- Cậu có thể cho tớ quyển sách này được không? (b).
Hành động cầu khiến (mời) ở ví dụ (23a) là hành động cầu khiến trực tiếp - hành
động cầu khiến chính danh, còn hành động cầu khiến (xin) trong (23b) là hành động
cầu khiến gián tiếp - hành động cầu khiến hàm ẩn.
Vì dung lượng của luận văn và mục đích nghiên cứu, luận văn này cũng chỉ dựa vào
ba tiêu chí như trình bày để phân loại và miêu tả các hành động cầu khiến đã thống kê.
1.2.3. Đặc điểm của hành động cầu khiến tiếng Việt
1.2.3.1. Mô hình cấu tạo hình thức của hành động cầu khiến
a) Cấu tạo hình thức khái quát
- Dạng hành động cầu khiến có cấu trúc đầy đủ thành phần:
Ở dạng cấu trúc đầy đủ, hình thức của một hành động cầu khiến có các thành tố
cơ bản là:
28
+ Thành tố thứ nhất là từ ngữ chỉ chủ thể cầu khiến: Đây là thành tố chỉ người nói
ra phát ngôn có đích ở lời cầu khiến (Sp1). Thành tố này đóng vai trò làm thành phần
chủ ngữ của câu cầu khiến (theo cách hiểu của ngữ pháp truyền thống).
+ Thành tố thứ hai là động từ ngữ vi gọi tên một hành động cụ thể nào đó trong
nhóm hành động cầu khiến, tạm viết tắt là ĐTNV. Thành tố này chính là thành phần vị
ngữ của nòng cốt câu (xét theo quan điểm ngữ pháp truyền thống).
+ Thành tố thứ ba là từ ngữ chỉ đối tượng tiếp nhận và thực hiện hành động cầu
khiến. Đây chính là người nghe, Sp2, tức là người phải thực hiện nội dung hành động mà
Sp1 đã yêu cầu hay là chủ thể cho phép Sp1 làm một việc gì đó mà Sp1 mong muốn.
+ Thành tố thứ tư là từ ngữ chỉ nội dung cầu khiến mà Sp1 đưa ra cho Sp2 và yêu
cầu Sp2 phải thực hiện. Viết tắt là NDCK.
Như vậy, cấu trúc hình thức khái quát của hành động cầu khiến ở dạng đầy đủ,
nếu hiểu theo ngữ pháp truyền thống, chính là câu đơn đầy đủ thành phần, có vị ngữ
chi phối hai bổ ngữ với mô hình cấu trúc khái quát như sau:
Sp1 + ĐTNV + Sp2 + NDCK
Hành động cầu khiến trong ví dụ 24 dưới đây là kiểu hành động cầu khiến có cấu
tạo hình thức thuộc dạng này:
Ví dụ 24:
- Tôi khuyên bạn đừng bỏ học. (a)
- Con mời bác ăn cơm ạ. (b)
Trong hai phát ngôn có đích ở lời cầu khiến (khuyên, mời) vừa dẫn, thành tố thứ
nhất (Sp1) là Tôi, Con; thành tố thứ hai là ĐTNV khuyên, mời; thành tố thứ ba (Sp2)
là bạn, bác và thành tố thứ tư là đừng bỏ học, ăn cơm.
- Dạng hình thức của hành động cầu khiến tiếng Việt có cấu trúc khuyết thành phần:
Trong bốn thành tố tạo nên cấu trúc hình thức của một hành động cầu khiến nói
trên, ba thành tố có khả năng bị lược bớt, đó là: Sp1, ĐTNV và Sp2. Ba thành tố này có
thể đồng thời bị lược bớt trong phát ngôn cầu khiến, cũng có thể chỉ lược bớt một hay
hai bộ phận. Điều đó cũng có nghĩa là, hành động cầu khiến khuyết các thành tố xét về
mặt hình thức có thể là một trong ba dạng:
29
+ Dạng 1: Hành động cầu khiến có khi chỉ có thành tố thứ tư (NDCK), còn các
thành tố: thứ nhất (Sp1), thứ hai (ĐTNV) và thứ ba (Sp2) đã bị người nói lược bớt, như
hành động nhờ trong ví dụ (25) dưới đây:
Ví dụ 25: Gửi cho tớ bức thư này nhé!
(Cấu trúc đầy đủ của hành động nhờ ở đây có thể là: Tớ nhờ cậu gửi cho tớ bức
thư này nhé!)
+ Dạng 2: Hành động cầu khiến chỉ có thành tố thứ ba và thứ tư: Đây là hành
động cầu khiến được diễn đạt bằng phát ngôn chỉ có Sp2 và NDCK, ví dụ:
Ví dụ 26: Em không được nói xấu bạn!
Hành động cầu khiến yêu cầu/đề nghị vừa dẫn đã khuyết thành tố thứ nhất (Sp1)
và thành tố thứ hai (ĐTNV). Có thể khôi phục giả định hai bộ phận bị khuyết này để
hành động ở lời yêu cầu/đề nghị vừa dẫn có dạng cấu trúc đầy đủ như sau: Cô yêu
cầu/đề nghị em không được nói xấu bạn.
+ Dạng 3: Hành động cầu khiến chỉ có thành tố thứ hai, thứ ba và thứ tư: Đây là
hành động cầu khiến bị lược thành tố thứ nhất (Sp1) như hành động yêu cầu dẫn ở ví
dụ (27) dưới đây:
Ví dụ 27: Yêu cầu các bạn giữ trật tự (để nghe thầy giảng bài)!
Có thể khôi phục giả định thành tố thứ nhất trong cấu trúc hình thức của hành động
cầu khiến vừa dẫn như sau: Tôiyêu cầu các bạn giữ trật tự (để nghe thầy giảng bài).
1.2.3.2. Dấu hiệu ngôn hành
Dấu hiệu ngôn hành “là những phương tiện ngôn từ mang tính qui luật, được Sp1 sử
dụng để thể hiện và là căn cứ để Sp2 nhận diện lực ngôn trung của câu...”. [57, tr.25].
Theo J.R. Searle, lực ngôn trung của phát ngôn được nhận diện qua một/ một số
dấu hiệu ngôn hành, như: vị từ ngôn hành, từ ngữ chuyên dụng, kết cấu thông dụng,
ngữ điệu, quan hệ giữa nội dung mệnh đề và ngữ cảnh. [Dẫn theo 57, tr.25].
Dưới đây là một số dấu hiệu cơ bản đánh dấu hành vi ở lời cầu khiến:
a) Vị từ ngữ vi cầu khiến (động từ ngôn hành cầu khiến)
Tuy không phải là dấu hiệu duy nhất, nhưng động từ ngữ vi cầu khiến là dấu hiệu
đánh dấu hành động ở lời cầu khiến quan trọng và trực tiếp, rõ ràng nhất.
30
Ví dụ 28: Mình khuyên cậu đừng hút thuốc lá!
Động từ ngữ vi khuyên đã giúp người nghe dễ ràng nhận ra hành động ở lời của
phát ngôn vừa dẫn.
Tác giả Đào Thanh Lan đã liệt kê một danh sách gồm 15 động từ ngữ vi cầu khiến
(tác giả gọi vị từ ngôn hành cầu khiến và viết tắt là Vnhck): ra lệnh, cấm, cho, cho
phép, yêu cầu, đề nghị, khuyên, nhờ, mời, chúc, cầu, xin, xin phép, van, lạy. Tương ứng
với các Vnhck này là các hành động ở lời đúng như tên gọi của chúng.
b) Các từ ngữ chuyên dụng thể hiện hành động ở lời cầu khiến
Ngoài động từ ngữ vi cầu khiến, hành động cầu khiến còn được nhận diện bởi
một số từ ngữ chuyên dụng đánh dấu hành động ở lời cầu khiến, như:
+ Nhóm vị từ tình thái tính (theo cách gọi của Nguyễn Thị Thanh Ngân) diễn đạt
thức cầu khiến: hãy, đừng, chớ. Vai trò của các từ này trong việc diễn đạt hành động
cầu khiến khá cao, thậm chí, có những trường hợp không thể vắng chúng, bởi nếu thay
một từ nào đó trong nhóm (hoặc các từ khác nhóm) trên thì lập tức ý nghĩa cầu khiến
bị mờ nhạt, thậm chí không còn. Ví dụ:
Ví dụ 29 [dẫn theo 57, tr.35]:
- Dạo này anh hay đi chơi ghê! (a)
- Đâu có! Chắc chị lầm tôi với ai! (b)
- Thôi đi! Đừng chối! (Nguyễn Nhật Ánh). (c)
Từ đừng trong phát ngôn (c) khó có thể thay bằng một từ nào khác mà vẫn giữ
nguyên nghĩa tình thái lẫn báo hiệu được ý nghĩa ngăn cản hành động từ chối rõ ràng
như từ này.
+ Nhóm động từ tình thái diễn đạt ý nghĩa cầu khiến: Ví dụ: nên, cần, phải,... Ba
động từ vừa dẫn được một số nhà Việt ngữ học gọi bằng cái tên “động từ tình thái” và
nói rõ chúng chuyên dùng trong câu cầu khiến (Diệp Quang Ban, Hoàng Trọng Phiến).
Các động từ tình thái nói trên có hiệu lực cầu khiến khác nhau (mức độ mạnh/yếu của
hành động cầu khiến). Đặc biệt, chúng có thể giúp ta nhận biết một hành động ở lời cụ
thể nào thuộc nhóm cầu khiến đang được thực hiện. Chẳng hạn, nên, cần thường cho
ta biết phát ngôn chứa chúng có thể là hành động khuyên, hành động yêu cầu/đề nghị,
31
còn phải không chỉ cho ta biết nó có khả năng dùng trong phát ngôn khuyên, đề nghị
mà còn dùng trong phát ngôn ra lệnh.
Ví dụ 30: So sánh các phát ngôn cầu khiến sau:
- Con nên làm hết bài tập trước khi đi ngủ! (Khuyên)
- Con cần làm hết bài tập trước khi đi ngủ! (Yêu cầu/ đề nghị)
- Con phải làm hết bài tập trước khi đi ngủ! (Ra lệnh)
+ Nhóm tiểu từ tình thái đứng ở cuối phát ngôn: Tác giả Đào Thanh Lan đã liệt
kê ra 7 tiểu từ tình thái thường đứng ở cuối phát ngôn có giá trị đánh dấu hành động
cầu khiến, là: đi, đã, nào, nhé, thôi, với, xem. [43, tr.94].
Cũng như các động từ vị từ tình thái (nhóm a và b), nhóm tiểu từ tình thái đứng
ở cuối phát ngôn cũng “có tác dụng đắc lực trong việc nhận diện hành động cầu khiến”
[57, tr.37].
So sánh các phát ngôn trong ví dụ 31 dưới đây để thấy vai trò nhận diện hành
động cầu khiến của tiểu từ tình thái đứng ở cuối câu như thế nào.
Ví dụ 31:
- Con ăn cơm. (Trần thuật)
- Con ăn cơm đi. (Giục)
- Con ăn cơm với. (đề nghị)
Nội dung mệnh đề của ba phát ngôn trên giống nhau nhưng lực ngôn trung của
chúng khác nhau.
1.3. Sơ lược về lí thuyết hội thoại
1.3.1. Khái niệm hội thoại
1.3.1.1. Phân biệt giao tiếp một chiều và giao tiếp hai chiều
- Giao tiếp một chiều là hoạt động giao tiếp không có sự luân phiên lượt lời,
tức là người nói từ đầu đến cuối chỉ giữ vai nói, người nghe từ đầu đến cuối chỉ giữ
vai nghe.
- Giao tiếp hai chiều là hoạt động giao tiếp có sự luân phiên vai nói vai nghe. Giao
tiếp hai chiều bằng dạng nói được gọi là hội thoại.
32
1.3.1.2. Định nghĩa hội thoại
Theo cách hiểu hội thoại như trên, có thể đưa ra một định nghĩa về hội thoại
như sau:
Hội thoại là một hoạt động giao tiếp hai chiều bằng dạng nói. Các nhân vật giao
tiếp có sự luân phiên lượt lời và tuân thủ các qui tắc nhất định.
1.3.2. Khái niệm chủ ngôn và tiếp ngôn
Một trong những điều kiện cơ bản để có một cuộc hội thoại là phải có nhân vật
giao tiếp. Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào hoạt động giao tiếp bằng
ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để tạo ra các lời nói, các diễn ngô qua đó mà tác động vào
nhau. Đó là những người tương tác bằng ngôn ngữ. Giữa các nhân vật giao tiếp có quan
hệ vai giao tiếp và quan hệ liên cá nhân.
Trong hội thoại, vai phát ra diễn ngôn tức là vai nói, kí hiệu là Sp1 (speaker 1) và
vai tiếp nhận diễn ngôn, kí hiệu bằng Sp2 (speaker 2). Trong giao tiếp nói, mặt đối mặt,
hai vai nói, nghe thường luân chuyển, Sp1 sau khi nói chuyển thành vai nghe Sp2 và
ngược lại. Trong luận văn này, chúng tôi gọi vai nói Sp1 là chủ ngôn, còn vai nghe Sp2
là tiếp ngôn. Cũng cần nói thêm, khái niệm vai nói, vai nghe khá phức tạp xin xem Đỗ
Hữu Châu [8, tr. 230]. Vận dụng những vấn đề lí luận này, luận văn sẽ miêu tả vai
nói/nghe của hành động điều khiển được thống kê (xem chương 3).
1.3.3. Các qui tắc hội thoại
Qui tắc hội thoại được chia thành ba nhóm: Qui tắc luân phiên lượt lời, qui tắc
cộng tác hội thoại và qui tắc lịch sự
1.3.3.1. Qui tắc luân phiên lượt lời
Trong hội thoại, các nhân vật giao tiếp trước hết phải tuân thủ qui tắc luân phiên
lượt lời. Lượt lời phải luân phiên theo mô hình ababab..., có nghĩa là người này nói rồi
tiếp đến người kia, mỗi lần một người nói, vai nói và vai nghe thường xuyên thay đổi
nhau. Các lượt lời phải nối tiếp nhau một cách nhịp nhàng, không được cách xa hay
liền nhau quá.
33
1.3.3.2. Qui tắc cộng tác
Qui tắc này được khái quát: hãy làm cho phần đóng góp của anh, chị đúng như
nó đòi hỏi ở giai đoạn mà nó xuất hiện phù hợp với đích hay phương hướng của cuộc
thoại mà anh chị đã chấp nhận tham gia vào.
Qui tắc này gồm 4 phương châm: Phương châm về lượng; phương châm quan hệ
và phương châm cách thức. Về các phương châm này, [x.8, tr. 230].
1.3.3.3. Qui tắc lịch sự
Cuộc hội thoại vẫn gặp trở ngại nếu như quan hệ liên cá nhân bị va chạm, cho dù
nội dung thông tin, đích hướng là đúng đắn, khoa học, cấp thiết.
Có hai phương diện lịch sự: Lịch sự qui ước và lịch sự trong hội thoại.
Lịch sự qui ước là kiểu lịch sự chuẩn mực được một cộng đồng xã hội qui ước
mà bất cứ người tham gia giao tiếp nào cũng phải hiểu và tuân thủ, ví dụ: khi giáo viên
vào lớp, học sinh phải đứng dậy chào; gặp người lớn tuổi phải chào trước,v.v...
Lịch sự trong hội thoại còn gọi là chiến lược lịch sự. Biểu hiện của chiến lược
lịch sự là khiêm tốn và tôn trọng thể diện của người khác. Trong giao tiếp, chiến lược
lịch sự gồm chiến lược giao tiếp lịch sự tích cực và chiến lược giao tiếp lịch sự tiêu
cực. [Xin xem 8, tr.272-274].
1.3.4. Các biện pháp làm giảm hiệu lực đe dọa thể diện của người nghe
Biện pháp dịu hóa là biện pháp làm giảm hiệu lực đe dọa thể diện của người nghe.
Biện pháp này trước hết thể hiện ra bằng cách thức dùng các phương tiện ngôn ngữ,
chẳng hạn:
- Dùng hành vi ngôn ngữ gián tiếp;
- Dùng các phương tiện tu từ như nói giảm, nói vòng,...;
- Dùng các phương tiện xưng hô mang tính lịch sự
- Mở rộng các thành phần rào đón trong phát ngôn, như yếu tố cảm thán, thưa
bẩm, dùng các từ ngữ báo trước cho hành động ở lời sẽ thực hiện, v.v...
Vận dụng các lí thuyết về hội thoại, đặc biệt là các biện pháp giảm thiểu sự đe
dọa thể diện của người nghe vừa trình bày, luận văn sẽ phân tích tính lịch sự trong các
phát ngôn thể hiện các hành động ở lời điều khiển do các nhân vật nông dân sử dụng
trong ngữ liệu thống kê đã nói.
34
1.4. Vài nét về văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
1.4.1. Sơ lược về lịch sử xã hội Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
Trong xã hội Việt Nam thời kì này tồn tại những mâu thuẫn gay gắt giữa dân tộc
Việt Nam với thực dân Pháp và bọn tay sai của chúng, giữa các tầng lớp nhân dân mà
chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ, phong kiến.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc đã bước sang một thời kì mới, kết hợp mục tiêu giải phóng dân tộc và dân chủ, lí
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945,
chấm dứt chế độ thực dân và lật nhào ngai vàng phong kiến trên đất nước ta.
1.4.2. Tình hình văn học
Đúng như tác giả Nguyễn Văn Long đã khẳng định [dẫn theo 70, tr.17]: “Giai đoạn
1930 -1945 đã chứng kiến sự phát triển sôi nổi, phong phú và hết sức mau lẹ của nền văn
học dân tộc theo hướng hiện đại, làm thay đổi diện mạo nền văn học”. Hai khuynh hướng
lãng mạn và hiện thực trong văn học hợp pháp đều có sự phát triển mạnh mẽ.
Văn xuôi đã có một vị trí rất quan trọng trong đời sống văn học và phát triển rất sôi
nổi, đa dạng ở cả hai khuynh hướng hiện thực và lãng mạn. Nhóm Tự lực văn đoàn ra đời
năm 1933 đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn xuôi hiện đại và cho
khuynh hướng lãng mạn. Văn xuôi hiện thực phê phán cũng phát triển mạnh với các tên tuổi
tiêu biểu như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, v.v...
Văn học Cách mạng từ đầu những năm ba mươi đã chuyển hẳn sang khuynh
hướng vô sản và vẫn là dòng chảy không đứt đoạn. Tuy nhiên, với dòng văn học này,
thơ chiếm ưu thế, ít có những tác phẩm truyện ngắn hay tiểu thuyết, tức tác phẩm viết
bằng văn xuôi không nhiều.
Tóm lại, “Văn học giai đoạn 1930 - 1945 có sự phát triển mạnh mẽ, phong phú,
đạt đến tính hiện đại và có sự kết tinh ở nhiều hiện tượng tiêu biểu, nhiều tác phẩm xuất
sắc”. [Dẫn theo 70, tr.19].Văn học Việt Nam chỉ trong không đầy một phần tư thế kỉ
đã tạo ra được sự biến đổi toàn diện và sâu sắc.
35
1.4.3. Một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu
Cần phải nói ngay rằng, do mục tiêu của luận văn, chúng tôi không đi sâu vào
việc giới thiệu các tác giả và tác phẩm tiêu biểu thời kì này. Chỉ kết luận vài câu có
tính chất hết sứckhái quát như sau:
- Về tác giả tiêu biểu: Mỗi dòng văn học thời kì này có những tác giả tiêu biểu
mà đến nay, tên tuổi của họ còn được lưu truyền với những tác phẩm làm rạng rỡ nền
văn học dân tộc, như:
+ Dòng Văn học hiện thực phê phán, có những tác giả tiêu biểu như: Ngô Tất Tố,
Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Bùi Hiển,...
+ Dòng Văn học lãng mạn có những gương mặt tiêu biểu, như: Nhất Linh, Khái
Hưng, Thạch Lam, nhóm văn học tự lực văn đoàn,...
+ Dòng văn học cách mạng thời kì này chưa được công khai trên văn đàn và chủ
yếu là các tác giả thơ chứ tác giả văn xuôi không nhiều. Mới thấy một số cây bút có
tiếng nhưng họ nghiêng về thể loại phóng sự hay phê bình văn học, như Lê Văn Hiến,
Hải Triều, Đặng Thai Mai,...
- Về tác phẩm tiêu biểu: Chúng tôi chỉ liệt kê một số tác phẩm tiêu biểu của dòng
văn học hiện thực phê phán, bởi luận văn này, như đã nói, có nhiều liên quan đến dòng
văn học này.
Tác phẩm tiêu biểu của Văn học hiện thực thời kì 1930 - 1945 của một số tác giả sau
đây mà chúng ta không thể không nhắc đến mỗi khi bàn về văn học giai đoạn này, cụ thể:
+ Nguyễn Công Hoan có các tác phẩm tiêu biểu là: Bước đường cùng, Tinh thần thể
dục, Ngựa người và người ngựa, Thằng ăn cắp, Kép Tư Bền, Cụ Chánh Bá mất giầy,...
+ Ngô Tất Tố có các tác phẩm nổi tiếng, như: Tắt đèn, Lều chõng (tiểu thuyết
phóng sự), Tập án cái đình, Việc làng, v.v...
+ Nam Cao có các tác phẩm còn sống mãi với thời gian, như: Chí Phèo, Sống
mòn, Đôi mắt và rất nhiều truyện ngắn khác nữa đã được các nhà nghiên cứu sưu tầm,
tuyển chọn thành một bộ mang tên Tuyển tập Nam Cao.
Một lần nữa khẳng định, tên tuổi cùng những tác phẩm của các nhà văn nổi tiếng
vừa dẫn đã góp phần làm rạng rỡ nền văn học dân tộc thời kì đó và mãi mãi về sau.
36
1.5. Tiểu kết
Chương này đã đề cập đến hai vấn đề lớn:
Thứ nhất, một số vấn đề lý thuyết được dùng căn cứ lí luận để xử lí đề tài;
Thứ hai,sơ lược về văn học giai đoạn 1930 - 1945.
(1) Luận văn đã lựa chọn và trình bày được hai vấn đề lí thuyết làm căn cứ lí luận
để giải quyết đề tài, đó là: i. Lí thuyết hành động ngôn ngữ, và ii. Lí thuyết hội thoại.
Cụ thể:
- Về lí thuyết hành động ngôn ngữ, chương này đã nêu và phân biệt một số khái
niệm, như: khái niệm hành động ngôn ngữ, khái niệm phát ngôn ngữ vi, biểu thức ngữ
vi và động từ ngữ vi; trình bày các quan điểm phân loại hành động ngôn ngữ, mà tiêu
biểu là quan điểm của hai nhà ngôn ngữ học nước ngoài: J. L. Austin và J.R. Searle.
Ngoài ra, ở đây luận văn cũng phân biệt được các cặp khái niệm, như: biểu thức ngữ vi
tường minh và biểu thức ngữ vi nguyên cấp, hành động ngôn ngữ trực tiếp và hành
động ngôn ngữ gián tiếp. Những quan điểm về hành động cầu khiến, cách phân loại
câu và hành động cầu khiến (như đã nói, chúng tôi gọi theo tác giả Searle là hành động
điều khiển) cũng được trình bày khá kĩ lưỡng.
Trên cơ sở giới thiệu và làm rõ những vấn đề lí thuyết về hành động ngôn ngữ vừa nói,
luận văn cũng bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lí thuyết liên quan sẽ được luận
văn tiếp thu trong việc phân loại và miêu tả đối tượng nghiên cứu ở chương 2.
- Về lí thuyết hội thoại, chúng tôi vận dụng các khái niệm hội thoại, các nhân
vật giao tiếp, các qui tắc hội thoại, cụ thể là qui tắc lịch sự để phân tích hành động điều
khiển ở chương 3.
(2) Ngoài những căn cứ lí luận như vừa nêu, chương này còn trình bày sơ lược tình
hình xã hội và tình hình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Như đã nói, đặc điểm
cơ bản của xã hội Việt Nam thời kì này là xã hội có sự phân chia giai cấp, sự phân hóa
xã hội con người (kẻ giàu người nghèo) rất rõ. Văn học thời kì này ảnh hưởng sâu sắc
đặc điểm xã hội lúc bấy giờ. Có ba trào lưu văn học, trong đó có hai trào lưu được công
khai trên văn đàn là trào lưu văn học lãng mạn và trào lưu văn học hiện thực. Mỗi trào
lưu có những tác giả và tác phẩm được lưu danh trong thời gian, đặc biệt, có những tác
giả và tác phẩm làm nên diện mạo của văn học Việt Nam thời kì này.
37
Chương 2
HÀNH ĐỘNG ĐIỀU KHIỂN CỦA NHÂN VẬT NÔNG DÂN
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 NHÌN TỪ LÍ THUYẾT
HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ
2.1. Phân loại và miêu tả các hành động điều khiển trong một số tác phẩm văn
xuôi Việt Nam, giai đoạn 1930 - 1945
- Có thể nghiên cứu hành động ngôn ngữ nói chung, hành động ở lời, trong đó có
hành động điều khiển nói riêng về nhiều phương diện, như: đích ngôn trung (đích ở
lời), phát ngôn ngữ vi và biểu thức ngữ vi thể hiện hành động ở lời, phương thức thể
hiện hành động ở lời, cấu trúc hình thức của hành động ở lời, v.v...
- Hành động điều khiển là một trong 5 lớp hành động ở lời được nhà ngôn ngữ
học J. R. Searle phân loại theo 12 tiêu chí mà ông đưa ra (đã nói ở chương 1). Lớp hành
động điều khiển theo cách gọi của J. R. Searle có người gọi là hành động cầu khiến
(Đào Thanh Lan, Chu Thị Thủy An, Nguyễn Thị Thanh Ngân,...).
Xin nói thêm, chúng tôi dùng cả hai cách gọi này trong luận văn khi cần thiết và
ý nghĩa của cả hai thuật ngữ hoàn toàn đồng nhất.
+ Lí do dùng thuật ngữ hành động điều khiển vì chúng tôi đã tuân thủ cách
phân loại hành động ở lời của J. R. Searle để xem xét đối tượng nghiên cứu. Tác giả
này đã dùng thuật ngữ hành động điều khiển để gọi đối tượng này. Khi nhắc đến lí
thuyết của Searle, chúng tôi sẽ dùng thuật ngữ hành động điều khiển để đúng với
cách dùng của tác giả.
+ Lí do dùng thuật ngữ hành động cầu khiến khi phân tích, miêu tả đối tượng
nghiên cứu vì cách gọi này gần gũi, quen thuộc và được nhiều người dùng hơn.
38
Bởi thế, tùy trường hợp cụ thể, chúng tôi sẽ lựa chọn hai cách gọi này cho phù hợp.
2.1.1. Kết quả thống kê và tiêu chí phân loại
Chúng tôi đã thống kê được 1610 lượt sử dụng hành động điều khiển trong các
tác phẩm đã chọn.
Với 1610 lượt hành động điều khiển được các nhân vật thuộc tầng lớp nông dân
thực hiện đã được thống kê, chúng tôi dựa vào sáu tiêu chí để phân loại chúng thành
các kiểu nhỏ. Dưới đây là các tiêu chí được chúng tôi sử dụng để phân loại (đã nói ở
trên, xin được nhắc lại), đó là:
(1) Căn cứ vào các tiêu chí phân loại hành động ở lời của J.R. Searle;
(2) Căn cứ vào đặc điểm mô hình cấu trúc hình thức của hành động điều khiển;
(3) Căn cứ vào quan hệ hình thức giữa biểu thức ngữ vi và phát ngôn ngữ vi điều
khiển;
(4) Căn cứ vào sự có mặt hay vắng mặt của động từ ngữ vi điều khiển;
(5) Căn cứ vào phương thức thể hiện hành động điều khiển;
(6) Căn cứ vào ý nghĩa cầu hay khiến của hành động điều khiển.
2.1.2. Miêu tả các kiểu hành động điều khiển trong một số tác phẩm văn xuôi Việt
Nam giai đoạn 1930 - 1945
2.1.2.1. Các hành động điều khiển được phân loại căn cứ vào tiêu chí xác định hành
động ở lời của J.R. Searle
Như đã trình bày ở chương 1, tác giả J.R.Searle đã đưa ra 12 tiêu chí để xác định
hành động ở lời. Luận văn này đã vận dụng các tiêu chí mà Searle đưa ra để phân loại
các hành động điều khiển đã thống kê.
Căn cứ vào 12 tiêu chí như đã nói, chúng tôi đã xác định được 20 hành động ở
lờilớp điều khiển đã thống kê, đó là: hỏi, yêu cầu/ đề nghị, khuyên, xin, nài/nằn nì,
van/lạy, chất vấn, nhờ, giục, dặn, can (ngăn), cản, dỗ, mời, sai, xui, đuổi, thách, rủ và
đe dọa. (Số lượng và tỉ lệ phần trăm của các hành động ở lời thuộc nhóm điều khiển
39
được phân loại theo tiêu chí này chúng tôi sẽ trình bày ở bảng tổng kết 2.1 và 2.2).
Dưới đây là các hành động ở lời cụ thể cùng những ví dụ tiêu biểu thuộc nhóm
hành động điều khiển mà chúng tôi phân loại theo tiêu chí vừa trình bày (chúng tôi liệt
kê các hành động ở lời thuộc nhóm cầu khiến theo tần số sử dụng):
(1) Hành động hỏi
Hỏi là “Nói ra điều mình muốn người ta cho mình biết với yêu cầu được trả lời”.
[60, tr.438].
Theo điều tra của chúng tôi, hành động hỏi được sử dụng trong các tác phẩm đã
thống kê có tần số xuất hiện cao nhất, 282 lượt, chiếm xấp xỉ 17,52% (282/1610). Dưới
đây là một số ví dụ về hành động hỏi mà chúng tôi đã thống kê.
Ví dụ (1):
a. Con bé lớn chị đã bán rồi, hai đứa bé con ở nhà với ai? [81, tr.115].
b. Nó ngồi phịch xuống đất, gục đầu vào ngưỡng cửa, ngáp...
- Sắp chín chưa bu? [79, tr.17]
Tất cả bộ phận ngôn ngữ in nghiêng trong ví dụ trên đều là biểu thức ngôn ngữ
diễn đạt hành động hỏi của nhân vật nông dân trong các tác phẩm.
(2) Hành động yêu cầu/đề nghị
Yêu cầu là “Nêu ra điều gì với người nào đó, tỏ ý muốn người ấy làm, biết rằng
đó là việc thuộc trách nhiệm hoặc quyền hạn, khả năng của người ấy”. [60, tr.1129].
Đề nghị là “Yêu cầu, thường là việc riêng,và mong được chấp nhận, được giải
quyết (thường trong đơn từ); như yêu cầu nhưng có vẻ khiêm nhường hơn”. [60,
tr.298].
Theo tư liệu thống kê của chúng tôi, kiểu hành động ở lời này có tần số xuất hiện
cao thứ hai: 234 trường hợp, chiếm xấp xỉ 14,53% (234/1610).
40
Bộ phận in nghiêng trong ví dụ 2 dưới đây đều là hành động yêu cầu/đề nghị:
Ví dụ 2:
a. Chị lục tất cả quần áo cái Tý và gói chung làm một gói. (...), một tay cầm sợi
xích định dắt luôn con chó ra cửa, sụt sịt, chị bảo cái Tý:
- Con hãy đội cái mê nón cho đỡ nắng, và con cắp lấy gói quần áo rồi sang bên
cụ nghị Quế với u. [81, tr.91]
b. Nhưng anh đĩ Chuột bảo:
- Cho cả nó đi, kẻo nó khóc. Bảo cái Gái về tôi bảo. [79, tr. 20]
Phát ngôn trong ví dụ 2a là hành động yêu cầu/ đề nghị của nhân vật chị Dậu đối
với cái Tí, đứa con gái của chị; phần in nghiêng trong ví dụ 2b là hành động yêu cầu /
đề nghị của anh đĩ Chuột đối với vợ. Nội dung của hành động yêu cầu/ đề nghị được
tường minh trong các phát ngôn.
(3) Hành động khuyên
Khuyên là “Nói với thái độ ân cần cho người khác biết điều mình cho là nên
làm”. [60, tr.497].
Trong tác phẩm đã chọn làm ngữ liệu khảo sát, có 228 trường hợp là hành động
khuyên do nhân vật nông dân nói với Sp2, chiếm xấp xỉ 14,16% số hành động điều
khiển đã thống kê (228/1610). Dưới đây là một số ví dụ dẫn ra làm minh chứng:
Ví dụ 3:
a. Bà lão láng giềng lại lật đật chạy sang:
- (...)
- Này, bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn. Chứ cứ nằm đấy, chốc nữa họ vào thúc
sưu, không có, họ lại đánh trói thì khổ.... [81, tr.144-145]
Đây là hành động khuyên của bà lão láng giềng dành cho Chị Dậu trước hoàn
cảnh gia đình chị Dậu không có tiền để đóng sưu cho chồng. Bà lão khuyên chị Dậu
bảo chồng nên trốn đi kẻo “họ” (bọn chức dịch) đến đánh đập, bắt trói.
b. Chị Pha khi ấy đã nhổ xong ngụm nước vào miệng con rồi nên chị được tự do,
41
bèn nói với chồng:
- Quan đã thương thì thầy nó đừng ngại. Tiếc dăm đồng bây giờ, nhỡ tai hại về
sáu thì khốn. [80, tr.45]
Phần in nghiêng trong ví dụ 3b là hành động khuyên của nhân vật chị Pha nói với
chồng khi nhân vật này còn lưỡng lự trước hành động xui (kiện hàng xóm) của nhân
vật nghị Lại.
(4) Hành động xin
Xin có các nghĩa chính như sau: 1)“Ngỏ ý với người nào đó, mong người ấy cho
mình cái gì hoặc đồng ý cho mình làm điều gì”, 2) “Từ dùng ở đầu lời yêu cầu, biểu
thị thái độ khiêm tốn, lịch sự”. [60, tr.1112]
Luận văn này hiểu xin là ngỏ ý với người nghe, mong muốn người nghe làm hoặc
cho phép mình làm điều gì đó theo ý của mình một cách lịch sự, khiêm tốn.
Trong tư liệu thống kê của chúng tôi, hành động xin có 148 trường hợp, đứng thứ tư
về tần số sử dụng, chiếm xấp xỉ 9,19% số hành động điều khiển đã thống kê (148/1610)..
Dưới đây là một số ví dụ về hành động xin được dùng trong các tác phẩm đã nói trên:
Ví dụ 4:
a. Ngoảnh lại thấy chồng bị trói chặt quá, mặt mũi nhăn nhó như chuột kẹp, chị
Dậu lại dẽ dàng kêu van ông cai:
- Nhà tôi đương ốm... Xin ông làm phúc nới rộng nút thừng ra cho! [81, tr. 37]
b. Mấy anh thợ cày của những điền chủ đã nộp đủ thuế, bạo dạn tiến đến trước
mặt ông Lý:
- Thưa ông, trưa lắm rồi! Xin ông cho tuần mở cổng để cho chúng tôi đánh trâu
đi cày!.. [80, tr.11]
Hành động xin trong ví dụ 4a và 4b đều là hành động ở lời điều khiển của Sp1
(chị Dậu và mấy anh thợ cày) xin Sp2 (cai lệ, ông lý), mong Sp2 thực hiện một hành
động vật lý cụ thể nào đó có lợi cho Sp1 (nới dây trói cho chồng Sp1 và mở cổng cho
42
trâu ra đồng).
(5) Hành động nài/nài nỉ/năn nỉ
Nài là “Khẩn khoản xin, yêu cầu”. Nài nỉ là “Nài một cách thiết tha, dai dẳng đến
mức người ta khó lòng từ chối”. “Năn nỉ” giống “nài nỉ”. [60, tr.634].
Trong các tác phẩm đã nói, chúng tôi thống kê được 145 trường hợp tác giả để
nhân vật nông dân sử dụng hành động nài/ nài nỉ/ năn nỉ, chiếm xấp xỉ 9,00% số hành
động ở lời thuộc lớp điều khiển (145/1610). Xin dẫn một ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ 5:
a. Cái Tí khóc hu hu. Nó cứ quấn quýt thằng Dần, không muốn rời ra. Ngảnh lại
nhìn mặt chị Dậu, nó nói bằng giọng năn nỉ:
- Con nhớ em quá! Hay là u hãy cho con ở nhà một đêm nữa, để con ngủ thêm
với em, để con nói chuyện với em. Sáng mai con xin đi sớm. [81, tr.93]
b. Rồi chị bưng một bát cháo đến cạnh chồng và nằn nì:
- Nào, thầy em gượng dậy ăn đi, cho tôi bằng lòng. [81, tr.167]
Hành động nài (năn nỉ, nài nỉ, nằn nì) trong ví dụ 5a vừa dẫn là của nhân vật cái
Tí. Cái Tí nài nỉ chị Dậu. Nó xin chị được ở nhà thêm một đêm vì “nhớ em quá”. Nó
muốn “ở nhà một đêm nữa” để được ngủ, được nói chuyện với em (thằng Dần).
Hành động nài dẫn trong ví dụ 5b là của nhân vật chị Dậu. Chị Dậu nài chồng cố
ăn miếng cháo cho chóng khỏe.
(6) Hành động van/van xin/van lạy
Van là “Nói khẩn khoản, thiết tha và nhún nhường để cầu xin sự đồng ý, đồng
tình”. [60, tr.1058].
Lạy có các nghĩa sau: 1. “Chắp tay, quì gối và cúi gặp người để tỏ lòng tôn kính,
theo lễ nghi cũ” và 2. “Từ dùng trước từ chỉ người đối thoại khi mở đầu lời nói, để tỏ
lòng cung kính hoặc ý cầu xin khẩn thiết”. [60, tr.528].
Theo tư liệu của chúng tôi đã thống kê, có 139 lượt sử dụng hành động ở lời van,
43
van xin, van lạy, chiếm xấp xỉ 8,63% (139/1610). Dưới đây là một ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ 6:
a. Chị Dậu vẫn chưa hết sợ:
- Cháu lạy ông, van lạy xin ông kêu quan để cho cháu sáng mai. [81, tr.191]
b. Chị Dậu nhăn như chuột kẹp..., chị phải mếu khóc, vái lia lịa:
- Cháu van hai ông,hai ông tháo ra cho cháu! [81, tr.192]
Phần in nghiêng trong ví dụ 6 là hành động van/ van xin/ van lạy của chị Dậu đối với
hai tên cai lệ. Trong ví dụ 6a, chị Dậu van hai tên cai lệ với mong muốn chúng hoãn cho chị
việc lên “hầu” quan giữa ban đêm, vì chị nghĩ hầu quan ban đêm là một việc không trong sáng
và nguy hiểm. Trong ví dụ 6b, chị Dậu van hai tên này để chúng mở cùm cho chị.
Xin dẫn thêm một số ví dụ về hành động lạy mà chúng tôi đã thống kê được:
Hắn chào to:
- Lạy cụ ạ! Bẩm cụ... Con đến cửa cụ để kêu cụ một việc ạ. (...). Bẩm cụ, con lại
đến kêu cụ, xin cụ lại cho con đi ở tù. [79, tr.44]
Hành động lạy được dẫn trong ví dụ 7 cho thấy chúng có thể đứng trước hành
động đề nghị hay xin để mong người nghe đồng ý điều mình đề nghị hay xin.
(7) Hành động chất vấn
Chất vấn là “Hỏi và yêu cầu phải giải thích rõ ràng”. [60, tr139].
Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, hành động chất vấn trong các tác phẩm được
chọn khảo sát có 101 trường hợp, chiếm xấp xỉ 6,27% số hành động điều khiển đã
thống kê (101/1610). Dưới đây là một ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ 8:
a. Chớp mắt một cái, hình như nó chợt nghĩ ra cái gì, ngó vào tận mặt chị Dậu,
nó khóc hu hu:
- U vẫn chưa đưa chị Tý về với con kia u? Con bắt đền u đấy? Sao u bán chị ấy
của con? U dậy sang gọi chị Tý về đi! Sao u cứ nằm mãi? Con không cho u nằm nữa.
44
[81, tr.123]
b. Pha cau mặt nhìn người tuần có ý thách. Nhưng Dự sấn ra đứng giữa hai người,
nói:
- Khoan! Tôi hãy hỏi ông lý và ông chánh, chúng tôi có tội gì? [80, tr.142]
Bộ phận in nghiêng trong ví dụ 8 đều là hành động chất vấn. Trong ví dụ 8a, biểu
thức ngôn ngữ hỏi là hành động chất vấn của nhân vật thằng Dần. Thằng Dần chất vấn
mẹ nó vì sao vẫn chưa đưa chị nó về, vì sao mẹ nó “cứ nằm mãi” mà không dậy đi sang
cụ nghị “gọi chị Tý về”. Còn biểu thức hỏi trong ví dụ 8b là hành động chất vấn của
nhân vật Dự đối với hai nhân vật là ông lý và ông chánh, yêu cầu hai nhân vật này phải
trả lời nội dung nêu trong phát ngôn.
(8) Hành động nhờ
Nhờ là “Yêu cầu người khác làm giúp cho việc gì”. [60, tr.701].
Hành động ở lời nhờ được các tác giả sử dụng với tần số cao thứ 8 trong tổng số
lượt dùng các hành động điều khiển đã thống kê (95/1610), chiếm xấp xỉ 5,90%.
Ví dụ 9:
a. Anh Dậu ú ớ:
- U nó đã về đấy ư? Đi lấy cho tôi bát nước. Khát lắm! ráo cổ họng từ sáng đến giờ.
[81, tr.68]
b. Chị Pha quẩy gánh hàng, bà trưởng hỏi:- Hôm nay là phiên chợ huyện đấy nhỉ?
- Vâng.
- Thế chị chịu khó xem lợn có rẻ thì mua cho tôi một đôi, ... [80, tr. 65]
(9) Hành động giục
Giục là “Tác động đến bằng lời nói, động tác, cử chỉ nhằm làm cho làm việc gì
đó nhanh hơn hoặc làm ngay, không để chậm”. [60, tr. 390].
Hành động ở lời giục ở đây được hiểu là hành động tác động đến người khác bằng
45
lời nói để người đó làm một việc gì đó nhanh hơn.
Trong các tác phẩm đã dẫn có 59 lượt nhân vật nông dân sử dụng hành động giục,
chiếm xấp xỉ 3,66% số hành động lớp điều khiển đã thống kê (59/1610). Xin dẫn một
số ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ 10:
a. Thằng Dần với bộ mặt thìu thịu, để đống rễ khoai đứng dậy, lùng bùng:
- Nhặt mãi từ sáng đến giờ mới được mấy mẩu khoai ranh! Con không phải tội
nhặt nữa. U đi mua gạo mau lên! Hàng xóm nấu cơm trưa rồi, nhà ta vẫn chửa ăn cơm
sáng! Chúng con đói quá rồi! [81, tr.25]
b. Chị Pha nghe thấy, giục:
- Thì thầy nó đến một tí vậy. [80, tr.150]
Phần in nghiêng trong ví dụ 10a đều là hành động giục của nhân vật thằng Dần. Thằng
Dần giục mẹ “mau đi mua gạo” về nấu ăn bởi mấy chị em nó đói quá; Phần in nghiêng trong
ví dụ 10b là hành động giục (anh Pha đến nhà nghị Lại) của nhân vật chị Pha.
(10) Hành động dặn/ dặn dò
Dặn là “Bảo cho biết điều cần nhớ để làm”. Dặn dò là “dặn với thái độ hết sức
quan tâm”. [60, tr.237].
Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, có 37 lượt xuất hiện hành động dặn/dặn dò
trong các tác phẩm khảo sát, chiếm xấp xỉ 2,29% số hành động điều khiển đã thống kê
(37/1610). Dưới đây là một số ví dụ về hành động ở lời này:
Ví dụ 11:
a. Cái Tý lễ mễ bưng rổ khoai luộc ghếch vào chân cột, và dặn thằng Dần:
- Hãy còn nóng lắm đấy nhé! Em đừng mó vào mà bỏng thì khốn! [81, tr.85]
b. Vừa nói, nó vừa giàn giụa nước mắt:
- Dần có thương chị không? (...). Dần ở nhà chơi với Tỉu vậy. Nó khóc thì Dần dỗ
nó, không được đánh nó đấy nhé. Bao giờ nó lớn, thì Dần rủ nó sang nhà cụ nghị với
chị. Thôi, Dần ở nhà, chị phải đi với u đây, chị không được về nữa đâu, Dần ạ!
46
[81, tr.93]
c. Tới cổng, anh chàng khốn nạn quay lại dặn vợ:
- U nó để cái Tỉu ở nhà sang ngay bên cụ nghị Quế cho tôi... [80, 39]
d. Pha dặn:
- Mai bác đến sớm, tắm cho cháu.
- Ừ. À này, nhớ xin nước giải cho bu nó uống nhé. Chả thuốc nào bằng. (...).
[80, tr. 11]
Bộ phận in nghiêng trong ví dụ 11a và 11b vừa dẫn là hành động dặn/dặn dò của
nhân vật cái Tý dành cho đứa em trai - thằng Dần; còn bộ phận in nghiêng trong ví dụ
11c là hành động dặn vợ của anh Dậu; bộ phận in nghiêng trong ví dụ 11d, (Mai...cháu)
là hành động dặn bà trùm của nhân vật anh Pha, hành động dặn thứ hai (nhớ...uống
nhé) là của bà trùm dặn anh Pha.
(11) Hành động can/can ngăn
Can là “Khuyên đừng làm”. “Làm cho thấy không nên mà thôi đi, không làm”.
[60, tr.104]. Khái niệm can ở đây được hiểu theo nghĩa thứ nhất.
Hành động can trong các tác phẩm đã thống kê có 34 trường hợp, chiếm xấp xỉ
2,11% số hành động điều khiển chúng tôi đã thống kê được (34/1610).
Dưới đây là một vài ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ 12:
a. Anh Dậu sợ quá muốn dậy can vợ, nhưng mệt lắm ngồi lên lại nằm xuống, vừa
run vừa kêu:
- U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì
phải tù phải tội. [81, tr.149]
b. (...). Nhưng vợ anh lại nói:
- Đi đâu mà vội. Trẻ con mà cứ chụp ảnh là một, khai sinh là hai, là chúa độc đấy.
[80, tr.13]
Hành động can trong ví dụ 12a là của nhân vật anh Dậu. Anh Dậu can vợ không
được đánh lại cai lệ và tên người nhà lí trưởng vì anh biết “Người ta đánh mình không
47
sao, mình đánh người ta thì phải tù phải tội”.
Hành động can trong ví dụ 12b là của nhân vật chị Pha không cho chồng đi làm
giấy khai sinh cho đứa con vừa mới sinh.
(12) Hành động cản
Cản là “Ngăn giữ lại, không cho tiếp tục vận động hoặc hoạt động theo một hướng
nào đó”.
Ngoài nghĩa được giải thích như trên, luận văn này còn hiểu thêm: Cản có nghĩa là
ngăn không cho ai đó làm một việc gì đó không có lợi cho người nói hoặc người nghe.
Theo tư liệu thống kê của chúng tôi, hành động cản có 26 trường hợp, chiếm xấp
xỉ 1,61% (26/1610). Xin dẫn một ví dụ dưới đây:
Ví dụ 13: Pha nắm tay, tiến lại gần:
- Ruộng của tôi, ông không có phép. [80, tr. 181]
Trong ví dụ vừa dẫn, phần in nghiêng là hành động cản của nhân vật anh Pha.
Anh Pha đã ngăn cản không cho bọn tay sai của nghị Lại gặt lúa của gia đình anh.
(13) Hành động dỗ/dỗ dành
Dỗ là “Làm cho bằng lòng nghe theo, làm theo bằng lời nói dịu dàng, khéo léo
hoặc chiều chuộng”. Dỗ dành là “Làm cho nghe theo” (nói khái quát). [60, tr. 254].
Theo tư liệu thống kê của chúng tôi, có 26 trường hợp hành động ở lời dỗ/dỗ dành
được dùng trong các tác phẩm đã nói, chiếm xấp xỉ 1,61% số các hành động điều khiển
đã thống kê (26/1610). Xin dẫn một vài ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ 14:
a. Ngồi dậy, chị bế thằng Dần vào lòng (...)
- Con hãy nín đi, cho em nó ngủ, để u ẵm con đi chơi.
Nó không nín lại còn khóc thêm... [81, tr.123]
b. Chị Dậu sụt sùi sẽ gạt nước mắt:
- Đêm nay con hãy tạm ngủ với u! Con ngủ với u chóng u yêu, nhỉ![81, tr.121]
Tất cả các hành động ở lời dỗ dẫn trên đều là lời của nhân vật chị Dậu dành cho
nhân vật thằng Dần trong tác phẩm Tắt đèn. Chị Dậu đã phải cố tìm “cái giọng ngon
ngọt” để dỗ thằng Dần nín bởi chị biết nó khóc với lí do thật chính đáng: quá nhớ người
48
chị đáng thương vì nhà nghèo mà bị mẹ bán cho vợ chồng nghị Quế.
(14) Hành động mời
Mời là “Tỏ ý mong muốn, yêu cầu người khác làm việc gì một cách lịch sự, trân
trọng”. [60, tr. 624].
Dưới đây là một ví dụ tiêu biểu về hành động mời trong ngữ liệu thống kê của
chúng tôi.
Ví dụ 15:
a. Pha đứng lên, nhường chỗ cho chị vợ, rồi đi rót bát nước vối:
- Bác uống tạm. [80, tr.81]
b. Pha rót rượu và mời:
- Nhà cháu chẳng có gì, mời cậu xơi tạm chén rượu. [80, tr.46]
Phần in nghiêng trong ví dụ vừa dẫn là hành động mời của nhân vật anh Pha dành
cho chị vợ (ví dụ 15a) và tên cai lệ (ví dụ 15b).
Trong tư liệu thống kê của chúng tôi có 24 trường hợp nhân vật nông dân sử dụng
hành động mời, chiếm xấp xỉ 1,49% (24/1610).
(15) Hành động sai
Sai là “Bảo người dưới làm việc gì đó cho mình”. [60, tr.813].
Dưới đây là một ví dụ trong số 10 lượt dùng hành động ở lời này mà chúng tôi đã
thống kê.
Ví dụ 16: Chị đĩ Chuột bảo nó:
- Còn nóng lắm, chưa ăn được. Con ra vườn gọi chị về cho chị ăn với không có phải
tội chết, nó làm quần quật từ sáng đến giờ mà chưa được tí gì vào bụng [79, tr.18]
Trong các tác phẩm đã chọn, chúng tôi mới chỉ thấy có 10 lượt nhân vật nông dân
sử dụng hành động sai, chiếm xấp xỉ 0,62% (10/1610).
(16) Hành động xui
Xui là “Dùng lời lẽ dễ nghe để tác động đến người khác nhằm làm cho nghe theo
mà làm việc gì đó một cách thiếu suy nghĩ, thường là việc đáng lẽ không nên làm”.
49
[60, tr.1121].
Chỉ thấy có 7 lượt hành động xui được nhân vật nông dân sử dụng trong các tác
phẩm đã chọn làm ngữ liệu, chiếm 0,43% (7/1610). Dưới đây là hai ví dụ về hành động
ở lời này:
Ví dụ 17:
a. Chị Pha bản tính tham lam và nông nổi, mồm lúng búng cơm, bèn xui chồng:
- Nếu quan thương thì tội gì. Làm cho nó biết tay chứ. [80, tr. 44]
b. Ba người hớn hở, chị Pha xui chồng:
- Hễ thầy nó nắm được văn tự thì xé tan nát ngay đi. [80, tr. 102]
Phần in nghiêng trong ví dụ 17 là hành động xui của nhân vật chị Pha dành cho
chồng.
(17) Hành động đuổi
Đuổi là “Bắt phải dời khỏi, không cho ở lại”. [60, tr.342].
Theo tư liệu của chúng tôi, có 6 trường hợp hành động đuổi được sử dụng trong
các tác phẩm đã khảo sát, chiếm xấp xỉ 0,38% số hành động điều khiển đã thống kê
(6/1610). Xin dẫn một ví dụ về hành động ở lời này:
Ví dụ 18:Chị Pha tưởng chồng xông xáo, (...), chị đuổi chồng ra quầy quậy:
- Đi ra, khỉ! Phỉ hổ đàn ông! [80, tr.9]
Phần in nghiêng trong ví dụ dẫn trên là hành động ở lời đuổi. Hành động đuổi đã
được nêu ngay trong lời dẫn của tác giả: “chị đuổi chồng ra quầy quậy”.
(18) Hành động thách/thách thức
Thách là “Nói kích nhằm làm cho người khác dám làm mọt việc gì đó có tín chất
đương đầu hoặc thi tài với mình”. Thách thức là “Thách làm điều gì (nói khái quát)”.
[60, tr.876].
Trong các tác phẩm đã chọn, chỉ thấy có 4 trường hợp hành động thách/ thách thức
được nhân vật nông dân dùng để thể hiện thái độ của mình.Dưới đây là một ví dụ:
Ví dụ 19:a. Chị Dậu nghiến hai hàm răng:
50
- Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem! [81, tr.148]
b. Rồi tiếng người đàn bà, gào to hơn:
- Mày cứ đánh chết bà đi! Mày đánh chết bà xem nào! Mày không đánh chết được
bà thì.. [79, tr. 83]
Trong ví dụ 19a, nhân vật chị Dậu đã thách tên cai lệ và người nhà lí trưởng trói
chồng chị, sau khi những kẻ này đã bị chị túm tóc, lẳng ra ngoài thềm. Còn ở ví dụ 19b,
nhân vật chị cu đã thách chồng đánh thêm khi hai vợ chồng nhân vật này đang có xô
xát và anh cu đã đánh vợ.
(19) Hành động rủ
Rủ là “Bảo cho người khác nghe theo để cùng làm với mình”. [60, tr.807].
Trong tư liệu thống kê của chúng tôi, hành động rủ chỉ có 3 trường hợp, chiếm
xấp xỉ 0,19% (3/1610). Dưới đây là một ví dụ về hành động ở lời này:
Ví dụ 20:
Bằng một cái giọng nói và một vẻ mặt rất phong tình, hắn bảo thị:
- Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui. [79, tr. 57]
Phần in nghiêng vừa dẫn là hành động rủ của nhân vật Chí Phèo dành cho thị Nở.
(20) Hành động đe dọa
Đe là “Cho biết trước sẽ làm điều không hay nếu dám trái ý, nhằm làm cho sợ”.
[60, tr. 294].
Đe dọa là “Đe” (nói khái quát). [60, tr.294].
Chúng tôi mới thấy có hai trường hợp hành động đe (dọa) được nhân vật nông
dân sử dụng trong ngữ liệu thống kê. Đây là hành động ở lời nhóm điều khiển được sử
dụng ít nhất, chỉ chiếm xấp xỉ 0,12% (2/1610).
Dưới đây là một ví dụ về hành động đe dọa trong tư liệu thống kê của chúng tôi.
Ví dụ 21: bé vừa gào vừa van lạy:
- Con lạy bu! Cay con lắm! Con lạy bu! Cay mồm...
51
- Mày có câm ngay không tao tát cho vỡ mặt. [79, tr. 112]
Tóm lại, căn cứ vào các tiêu chí phân loại của J. R. Searle, các hành động lớpđiều
khiển trong các tác phẩm đã nói được xác định là 20 hành động ở lời.
Các hành động ở lời thuộc lớp điều khiển và số lượt dùng của từng hành động
được chúng tôi khái quát qua bảng tổng kết 2.1 và 2.2 dưới đây:
Bảng 2.1. Bảng tổng kết số lượng và tỉ lệ % của các hành động ở lời
thuộc nhóm điều khiển đã thống kê: 1610
Số lượng /tỉ lệ% Số lượng Tỉ lệ % Hành động ở lời
Hành động hỏi 282 17,53
Hành động yêu cầu/đề nghị 234 14,53
Hành động khuyên 228 14,17
Hành động xin 148 9,19
Hành động nài, nằn nì 145 9,00
Hành động van, lạy 139 8,63
Hành động chất vấn 101 6,27
Hành động nhờ 95 5,90
Hành động giục 59 3,66
Hành động dặn 37 2,29
Hành động can/can ngăn 34 2,11
Hành động cản 26 1,61
Hành động dỗ (dành) 26 1,61
Hành động mời 24 1,49
Hành động sai 10 0,63
Hành động xui 7 0,43
Hành động đuổi 6 0,39
Hành động thách 4 0,24
Hành động rủ 3 0,19
52
Hành động đe dọa 2 0,12
Tổng kết 1610 99,99%
Bảng 2.2. Bảng tổng kết các hành động ở lời lớp điều khiển
theo ngữ liệu thống kê
Tác phẩm Tác phẩm Tắt đèn Bước ĐC Tổng số Nam Cao HĐ điều khiển
Hành động hỏi Hành động yêu cầu Hành động khuyên Hành động xin Hành động nài Hành động van/lạy Hành động chất vấn Hành động nhờ Hành động giục Hành động dặn Hành động can (ngăn) Hành động cản Hành động dỗ Hành động mời Hành động sai Hành động xui Hành động đuổi Hành động thách Hành động rủ Hành động đe dọa Tổng số 97 88 64 54 67 61 30 42 27 11 10 3 12 5 - - - 1 1 1 574 104 91 89 65 69 73 47 40 24 17 16 19 9 12 4 4 5 1 1 1 691 81 55 75 29 9 5 24 13 8 9 8 4 5 7 6 3 1 2 1 - 345 282 234 228 148 145 139 101 95 59 37 34 26 26 24 10 7 6 4 3 2 1610
2.1.2.2. Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc hình thức của phát ngôn ngữ vi điều khiển
Nói đến đặc điểm cấu trúc hình thức của hành động điều khiển (cầu khiến) trước
hết là nói đến mô hìnhcấu trúc khái quát của chúng.
Như đã trình bày ở chương cơ sở lí luận, một hành động ở lời thuộc lớp điều
khiểnxét về mặt hình thức, ở dạng đầy đủ nhất sẽ được cấu thành bởi bốn thành tố, là:
1) Từ ngữ chỉ chủ thể nói ra hành động điều khiển (Sp1), 2) Động từ ngữ vi cầu khiến
53
(ĐTNVCK), 3) Từ ngữ chỉ đối thể của động từ ngữ vi cầu khiến - người nghe (Sp2) và
4) Từ ngữ chỉ nội dung cầu khiến (NDCK).
Dưới đây là các hành động mà chúng tôi đã thống kê được phân loại theo tiêu chí
này:
a) Hành động điều khiển được cấu tạo bởi bốn thành tố
Mô hình cấu tạo: Sp1+ĐTNV+Sp2+NDCK
(Tác giả Đào Thanh Lan gọi các thành tố cấu tạo hành động cầu khiến là thành
phần. [43, tr.176])
Các hành động điều khiển có cấu tạo hình thức là một biểu thức ngữ vi được cấu
tạo bởi bốn thành tố trong các tác phẩm đã dẫn có số lượng không nhiều lắm. Trong
tổng số 1610 lượt hành động điều khiển chúng tôi đã thống kê, có 194 trường hợp loại
này, chiếm xấp xỉ 12,04% (194/1610). Xin dẫn một số ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ 22:
a. Ngoảnh lại thấy chồng bị trói chặt quá (...), chị Dậu dẽ dàng kêu van ông cai:
- Nhà tôi đương ốm... Tôi xin ông làm phúc nới rộng nút thừng ra cho!
[81, tr.37]
b. Nước mắt ứa ra, chị lại đứng dậy với bộ mặt não nùng:
- Vâng, con xin bán hầu hai cụ. Con nhờ các cụ cho bảo ông giáo làm giấy
giúp con!... [81, tr.57]
Tất cả phần in nghiêng trong hai ví dụ vừa dẫn đều là các hành động ở lời thuộc
nhóm cầu khiến về hình thức được cấu tạo bởi bốn thành tố, theo mô hình cấu trúc khái
quát là Sp1+ ĐTNV+ Sp2 + NDCK.
Thành tố Sp1 trong các ví dụ trên theo thứ tự là: Tôi, con.
Thành tố ĐTNV trong các ví dụ trên theo thứ tự là: xin, nhờ.
Thành tố Sp2 trong các ví dụ trên theo thứ tự là: ông, các cụ.
Thành tố NDCK trong các ví dụ trên theo thứ tự là: tha cho thầy cháu, nới rộng
nút thừng, bảo ông giáo làm giấy.
Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, trong số 20 hành động ở lời thuộc nhóm điều
54
khiển, chỉ có 3 hành động ở lời có cấu tạo đầy đủ các thành tố, đó là các hành động:
xin (94 lượt), van, lạy (83 lượt), nhờ (17 lượt). Tổng cộng là 194 lượt dùng hành động
điều khiển có cấu tạo đủ 4 thành tố như đã nói.
Dưới đây là các bảng tổng kết các hành động điều khiển loại có cấu tạo 4 thành
tố. Xin xem các bảng 2.3 và bảng 2.1 (Phụ lục)
Bảng 2.3. Bảng tổng kết các hành động cầu khiến có cấu tạo 4 thành tố
Số lượng/TL% Tỉ lệ% Số lượng STT, các tiểu loại HĐCK
1 Hành động xin 94 (1) 48,46 (2) 5,83
2 Hành động van/lạy 83 42,80 5,16
3 Hành động nhờ 17 8,73 1,06
Ghi chú:
+(1) Tỉ lệ % tính theo sốhành động cầu khiến có cấu tạo 4 thành tố (194).
+ (2) Tỉ lệ % tính theo sốhành động cầu khiến đã thống kê (1610).
Tổng kết 194 99,99 12,05
b) Hành động điều khiển được cấu tạo bởi ba thành tố
Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, kiểu hành động ở lời thuộc nhóm hành động
cầu khiến được cấu tạo bởi ba thành tố mà chúng tôi đã thống kê cũng có số lượt sử
dụng không nhiều lắm, chỉ có 190 trường hợp, chiếm xấp xỉ 11,80% (190/1610).
Căn cứ vào thành tố vắng mặt trong mô hình cấu trúc hình thức, hành động điều
khiển mà chúng tôi đã thống kê được chia thành hai kiểu: 1) Hành động cầu khiến
khuyết thành tố Sp1, và 2) Hành động điều khiển khuyết thành tố NDCK. Dưới đây là
các ví dụ minh họa:
- Kiểu hành động điều khiển vắng Sp1
Đây là những hành động thuộc lớp điều khiển có mô hình khái quát là:
ĐTNV+Sp2+NDCK
Trong số 190 trường hợp hành động lớp điều khiển vừa nói, kiểu hành động điều
vắng từ chỉ chủ thể của phát ngôn (Sp1) có 154 trường hợp, chiếm xấp xỉ 81,05% số
hành động cầu khiến có cấu tạo ba thành tố (154/190) và chiếm xấp xỉ 9,57% số hành
động cầu khiến đã thống kê (154/1610). Xin dẫn một số ví dụ:
Ví dụ 23:
55
a. Chị Dậu lại tần ngần ngồi xuống:
- Bẩm cụ, một hào ở cụ chẳng thấm vào đâu, ở con thì nó lớn lắm. Xin cụ cho con
lấy năm hào nữa vậy. [81, tr.56]
b. Bằng dáng bộ vui vẻ, nhẹ nhàng, nó đặt một bát lên chõng:
- Mời u xơi khoai đi ạ! [81, tr.85]
Tất cả các hành động điều khiển dẫn trong ví dụ 23 đều được cấu tạo bởi ba thành
tố: ĐTNV, Sp2 và NDCK. Thành tố Sp1 đã bị lược bớt.
Có thể khôi phục giả định thành tố Sp1 (phần in đậm) trong các ví dụ trên nhờ
ngữ cảnh như sau:
23a’. (...) Con xin cụcho con lấy năm hào nữa vậy.
23b’. (...) Con mời u xơi khoai đi ạ!
- Hành động điều khiển vắng thành tố nội dung cầu khiến (NDCK)
Đây là những hành động ở lời thuộc nhóm hành động cầu khiến có mô hình cấu
trúc khái quát là:
Sp1+ĐTNVCK+Sp2.
Trong số 190 hành động cầu khiến có cấu tạo bởi ba thành tố đã thống kê, loại
hành động cầu khiến vắng thành tố biểu thị nội dung cầu khiến (NDCK) có số lượng
không nhiều. Theo thống kê của chúng tôi chỉ có 36 trường hợp, chiếm xấp xỉ 18,94%số
hành động cầu khiến có cấu tạo ba thành tố (36/190) và chiếm xấp xỉ 2,24% số hành
động cầu khiến đã thống kê (36/1610). Xin dẫn một số ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ 24:
a. Con van thầy! Con van u! Thầy u để con ở nhà chơi với em con. Con van thầy!
Con van u! Thầy u đừng đem bán con. [81, tr. 33]
b. Thôi! Em xin ông Quyền. Nhà em đau yếu, ông tha cho! ... [81, tr. 72]
c. Cái Tý mếu máo nhếch nhác, chạy đến cạnh ông cai lệ, chắp tay vái lấy vái để:
- Cháu xin hai ông! Hai ông tha cho thầy cháu. Hai ông đừng trói thầy cháu!
[81, tr.36]
Phần in nghiêng trong ví dụ vừa dẫn đều là các hành động thuộc nhóm điều khiển
56
bị khuyết thành tố chỉ nội dung cầu khiến. Nhờ ngữ cảnh, ta có thể biết bộ phận bị lược
bớt (tức nội dung cầu khiến): cái Tý xin bố mẹ đừng đem nó đi bán (a); chị Dậu xin tên
lính cơ đừng hành hạ chồng chị (b); và cái Tý xin hai tên cai đừng trói bố nó (c). Những
ngữ cảnh này được nói đến ở hậu ngôn, tức những câu (phát ngôn) đứng sau phát ngôn
thể hiện hành động điều khiển đang xem xét.
Khái quát các kiểu hành động điều khiển được cấu tạo bởi ba thành tố xin xem
bảng tổng kết 2.4 và 2.5 dưới đây (tỉ lệ % tính theo số hành động điều khiển có cấu tạo
ba thành tố: 190 (bảng 2.4) và số tư liệu thống kê: 1610.
Bảng 2.4. Tỉ lệ % tính theo số hành động điều khiển có cấu tạo ba thành tố
Kiểu HĐĐK Vắng NDCK Tổng kết
Số lượngvà tỉ lệ% Số lượng Tỉ lệ % Vắng Sp1 154 81,05 36 18,95 190 100,00
Bảng 2.5. Tỉ lệ % tính theosố tư liệu thống kê
Kiểu HĐĐK
Tắt đèn Tác phẩm của Nam Cao Tổng kết
Số lượng và tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % 71 4,40 Bước đường cùng 83 5,16 36 2,24 190 11,80
c) Hành động điều khiển có cấu tạo hình thức là hai thành tố
Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, kiểu hành động ở lời lớp điều khiển được cấu tạo
bởi hai thành tố có số lượng khá lớn: có 710 trường hợp, chiếm xấp xỉ 44,09% (710/1610).
Tất cả các hành động ở lời thuộc nhóm hành động điều khiển có cấu tạo hai thành
tố trong các tác phẩm đã chọn làm ngữ liệu thống kê đều là những hành động ở lời
khuyết Sp1 và ĐTNVCK.
Mô hình cấu trúc khái quát của kiểu hành động cầu khiến này là:Sp2+NDCK
Xin nói thêm, trong thực tế, hành động điều khiển chỉ có cấu tạo hai thành tố có
thể khuyết Sp2 và NDCK, kiểu như (thấy đứa con đang chuẩn bị leo cây, bà mẹ liền
nói): “Mẹ cấm!”. (Phát ngôn đầy đủ phải là, ví dụ: “Mẹ cấm con không được trèo
cây!”. Nhưng nhờ ngữ cảnh nhất định, người mẹ có thể lược bớt tối giản hành động
57
cấm như vừa dẫn.
Dưới đây là một số ví dụ về kiểu hành động điều khiển được cấu tạo bởi hai thành
tố mà chúng tôi đã thống kê:
Ví dụ 25: a. Một lát sau, bác Tân giục:
- Thế ta đi chứ? [80, tr. 102]
b. Cái Tý lễ mễ bưng rổ khoai luộc ghếch vào chân cột, và dặn thằng Dần:
- Hãy còn nóng lắm đấy nhé. Em đừng mó vào mà bỏng thì khốn. [81, tr.85].
c. Bà lão lại khuyên chị Dậu:
- Bác gái cũng phải ăn đi, để lấy sữa cho cháu nó bú. (...). Nếu không đủ thì con
hay sài. [81, tr.168].
Bộ phận in nghiêng trong các ví dụ vừa dẫn đều là những hành động ở lời thuộc
nhóm hành động điều khiển được cấu tạo bởi hai thành tố: Sp2 và NDCK.
Thành tố Sp2 trong ví dụ 25a là ta, gồm nhân vật bác Tân và vợ chồng Pha. Sp2
trong ví dụ 25b là nhân vật Em, tức nhân vật thằng Dần và trong ví dụ 25c là nhân vật
bác gái, tức chị Dậu.
Thành tố nội dung cầu khiến trong ví dụ 25a là “đi (trả nợ nghị Lại)”, trong ví dụ
25b là “đừng mó tay vào...” và trong ví dụ 25c là “cũng phải ăn...”.
Dưới đây là bảng tổng kết về các hành động ở lời thuộc nhóm hành động điều
khiển có cấu tạo hai thành tố (bảng 2.6).
Bảng 2.6. Bảng tổng kết kiểu động điều khiển có cấu tạo hai thành tố
Số lượng/ TL% Số lượng Tỉ lệ%
Tác phẩm Tắt đèn Bước đường cùng Tác phẩm của Nam Cao
Tổng kết 243 384 83 710 15,09 23,85 5,15 44,09
d) Hành động điều khiển có cấu tạo hình thức là một thành tố
Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, trong tác phẩm đã dẫn có 516 trường hợp hành
động lớp điều khiển được cấu tạo bởi một thành tố, chiếm xấp xỉ 32,04% (516/1610).
Thành tố cấu tạo nên các hành động điều khiển loại này là thành tố NDCK (nội
dung cầu khiến). Do vậy, mô hình cấu trúc khái quát của hành động điều khiển ở đây
58
là: NDCK, ba bộ phận không tham gia vào việc cấu tạo hành động điều khiển là: Sp1,
ĐTNVCK và Sp2. Hành động điều khiển chỉ còn duy nhất một thành tố tham gia, đó
là thành tố NDCK.
Dưới đây là một số ví dụ về kiểu hành động điều khiển này:
Ví dụ 26:
a. Anh Dậu xua tay và rên khừ khừ:
- Thôi, tôi mệt lắm. Để tôi nằm nghỉ một lát. U nó ra mà ẵm con, để cụ...
[81, tr.164]
a. Chị Pha nghĩ ngợi rồi nói:
- Thế là phải viết nhà viết ruộng cho ông ấy chứ? [80, tr. 87]
c. Thị Nở xích lại. Đặt bàn tay lên ngực hắn (thị suy nghĩ đến bây giờ mới xong),
thị hỏi hắn:- Vừa thổ hả? [79, tr. 53]
Trong ví dụ 26a, biểu thức ngữ vi “Để tôi nằm nghỉ một lát” là hành động đề nghị
của anh Dậu nói với vợ. Trong ví dụ 26b, biểu thức ngữ vi “Thế là phải viết nhà viết
ruộng cho ông ấy chứ” là hành động chị Pha hỏi chồng. Còn biểu thức “vừa thổ hả?”
cũng là hành động hỏi của nhân vật Thị Nở dành cho Chí Phèo.Tất cả các hành động
điều khiển vừa dẫn đều chỉ có thành tố chỉ nội dung cầu khiến.
Dùng thủ pháp bổ sung, có thể khôi phục giả định các thành tố bị khuyết, cụ thể
là các thành tố: Sp1, ĐTNVCK, NDCK trong các hành động ở lời vừa dẫn như sau
(phần in đậm, nghiêng):
26a’. Anh Dậu xua tay và rên khừ khừ:
- Thôi, tôi mệt lắm. Tôi yêu cầu/xin u em để tôi nằm nghỉ một lát. U nó ra mà ẵm
con, để cụ...
26b’.Chị Pha nghĩ ngợi rồi nói:
- Tôi hỏi thầy nó thế là thầy nó phải viết nhà viết ruộng cho ông ấy chứ?
26c’. Thị Nở xích lại. Đặt bàn tay lên ngực hắn (thị suy nghĩ đến bây giờ mới
59
xong), thị hỏi hắn:- Tôi hỏi anh, anh vừa thổ hả?
Có thể hình dung khái quát số lượng và tỉ lệ % của kiểu hành động điều khiển có
cấu tạo một thành tố bằng các bảng tổng kết 2.7 sau đây:
Bảng 2.7. Bảng tổng kết kiểu động điều khiển có cấu tạo một thành tố
Số lượng/ TL% Số lượng Tỉ lệ% Tác phẩm
193 11,98 Tắt đèn
135 8,38 Bước đường cùng
188 11,68 Tác phẩm của Nam Cao
516 32,04 Tổng kết
e) Bảng tổng kết các kiểu hành động ở lời lớp điều khiển xét về mặt cấu trúc hình
thức
- Bảng tổng kết các kiểu hành động ở lời điều khiển được phân loại theo cấu trúc
hình thức
Bảng 2.8. Tổng kết các kiểu tiếp ngôn theo cấu tạo hình thức
Kiểu HĐĐK
HĐ ở lời Hành động hỏi Hành động yêu cầu Hành động khuyên Hành động xin Hành động nài Hành động van lạy Hành động chất vấn Hành động nhờ Hành động giục Hành động dặn Hành động can ngăn Hành động cản Hành động dỗ Hành động mời Hành động sai Hành động xui 4 thành tố - - - 94 - 83 - 17 - - - - - - - - 3 thành tố - - - 54 - 56 - 64 - - - - - 16 - - 2 thành tố 129 106 138 - 145 - 74 12 34 20 5 - 26 8 4 - 1 thành tố 153 128 90 - - - 27 2 25 17 29 26 - - 6 7 Tổng số 282 234 228 148 145 139 101 95 59 37 34 26 26 24 10 7
60
Hành động đuổi Hành động thách Hành động rủ Hành động đe dọa Tổng cộng - - - - 194 - - - - 190 - 4 3 2 710 6 - - - 516 6 4 3 2 1610
- Bảng tổng kết các kiểu hành động ở lời lớp điều khiển được phân loại theo cấu
trúc hình thức trong các tác phẩm
Phân loại hành động điều khiển theo tiêu chí này trên từng tác phẩm, xin xem các
bảng tổng kết: 2.9, 2.10, 2.11.
Bảng 2.9. Tác phẩm Tắt đèn
Số lượng/TL % Số lượng Tỉ lệ % Kiểu HĐĐK
HĐĐK có 4 thành tố 67 4,16
HĐĐK có 3 thành tố 71 4,40
HĐĐK có 2 thành tố 243 15,09
HĐĐK có 1 thành tố 193 11,98
Tổng số 574 35,65
Bảng 2.10. Tác phẩm Bước đường cùng
Số lượng/TL % Số lượng Tỉ lệ % Kiểu HĐĐK
HĐĐK có 4 thành tố 89 5,52
HĐĐK có 3 thành tố 83 5,16
HĐĐK có 2 thành tố 384 23,85
HĐĐK có 1 thành tố 135 8,38
Tổng số 691 42,91
Bảng 2.11. Tác phẩm của Nam Cao
Số lượng/TL % Số lượng Tỉ lệ % Kiểu HĐĐK
HĐĐK có 4 thành tố 38 2,36
61
HĐĐK có 3 thành tố 36 2,24
HĐĐK có 2 thành tố 83 5,15
HĐĐK có 1 thành tố 188 11,68
Tổng số 345 21,42
2.1.2.3. Căn cứ vào quan hệ hình thức giữa biểu thức ngữ vi và phát ngôn ngữ vi điều khiển
Xét trong mối quan hệ hình thức giữa phát ngôn ngữ vi và biểu thức ngữ vi, có
thể thấy rằng, một biểu thức ngữ vi có thể chỉ là một bộ phận của phát ngôn ngữ vi và
cũng có khi trùng với phát ngôn ngữ vi, tức một phát ngôn ngữ vi cũng chính là một
biểu thức ngữ vi.
Theo tư liệu thống kê của chúng tôi, một biểu thức ngữ vi điều khiển trong các
tác phẩm đã dẫn có khi chỉ là một bộ phận của phát ngôn ngữ vi và cũng có khi trùng
với phát ngôn ngữ vi như các hành động ở lời khác.
Việc biểu thức ngữ vi trùng hay không trùng phát ngôn ngữ vi của các hành động
điều khiển nói chung, trong các tác phẩm chọn làm ngữ liệu khảo sát nói riêng một phần
sẽ cho ta những kết luận về vị thế của các nhân vật giao tiếp hay tính lịch sự thể hiện
trong hành động điều khiển. Về điều này chúng tôi sẽ nói thêm ở chương 3.
a) Biểu thức ngữ vi điều khiển có hình thức trùng với phát ngôn ngữ vi
Trong số 1610 trường hợp hành động nhóm cầu khiến đã thống kê, biểu thức ngữ
vi cầu khiến có hình thức trùng với phát ngôn ngữ vi có 415 trường hợp, chiếm xấp xỉ
25,77% (415/1610).
Hầu hết 20 hành động ở lời (hành động ngôn trung) lớp điều khiển đã thống kê
đều có những trường hợp hình thức là một biểu thức ngữ vi đồng thời cũng là một phát
ngôn ngữ vi. Dưới đây là một số ví dụ mà chúng tôi đã thống kê:
Ví dụ 27: a. Pha chán nản:
- Bu mày đừng nói đến chuyện làm giàu đi. [80, tr.80]
a. Cái Gái lấy ghế và thừng vào. Anh đĩ bảo:
- Để đấy cho thầy rồi ra vườn làm cỏ đi. [79, tr.21]
Tất cả phần in nghiêng trong các ví dụ vừa dẫn đều là hành động ở lời được thể
hiện bằng biểu thức ngữ vi trùng với phát ngôn ngữ vi.
62
b) Biểu thức ngữ vi cầu khiến chỉ là một bộ phận của phát ngôn ngữ vi
Trong số 1610 trường hợp hành động ở lời thuộc nhóm điều khiển đã thống kê, có
1195 trường hợp biểu thức ngữ vi điều khiển chỉ là một bộ phận của phát ngôn ngữ vi điều
khiển tương ứng, chiếm xấp xỉ 74,22% (1195/1610). Xin dẫn một số ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ 28:a. Một người cố nói mấy câu như kẻ đứt hơi:
- Anh ấy phải cảm đấy. Chị xem nhà ai có dầu bạc hà xin một ít mà bôi cho hắn,
may ra hắn tỉnh được chăng. [81, tr.134].
b. Anh Dậu run run khuyên vợ:
- Thôi! U nó đi về với con, kẻo có hai đứa ở nhà khóc hết hơi. Mặc tôi ở đây, bị
trói thêm một đêm nữa cũng chẳng chết nào! Đừng nói nữa, người ta đánh đập khổ
thân! [81, tr.114].
c. Pha rót rượu và mời:
- Nhà cháu chẳng có gì, mời cậu xơi tạm chén rượu. [80, tr. 48]
Tất cả các phát ngôn chứa bộ phận in nghiêng trong ví dụ 28 là phát ngôn ngữ vi
khuyên. Trong ví dụ 28a, phát ngôn “Chị xem nhà ai có dầu bạc hà xin một ít mà bôi
cho hắn, may ra hắn tỉnh được chăng” là phát ngôn ngữ vi khuyên nhưng chỉ có một
bộ phận của phát ngôn thể hiện hành động khuyên “Chị ... mà bôi cho hắn”,phần còn
lại “may ra hắn tỉnh được chăng” là bộ phận thể hiện hành động phỏng đoán.
Trong ví dụ 28b, ba phát ngôn: “U nó đi về với con, kẻo có hai đứa ở nhà khóc
hết hơi”. “Mặc tôi ở đây, bị trói thêm một đêm nữa cũng chẳng chết nào!” “Đừng nói
nữa, người ta đánh đập khổ thân” đều là các phát ngôn ngữ vi đề nghị. Trong các phát
ngôn ngữ vi này chỉ có phần in nghiêng là cái lõi thể hiện hành động đề nghị (biểu thức
ngữ vi), phần còn lại là những hành động phụ bổ sung thêm cho hành động đề nghị.
Như vậy, tất cả các biểu thức ngữ vi trong ví dụ 28b chỉ là một bộ phận của phát ngôn
ngữ vi. Tương tự, biểu thức ngữ vi mời của nhân vật Pha ví dụ 28c cũng chỉ là một bộ
phận của phát ngôn ngữ vi (phần in nghiêng).
Có thể hình dung số lượng và tỉ lệ % của hai kiểu hành động điều khiển được phân
loại theo hai tiêu chí này bằng bảng tổng kết 2.12 và và bảng 2.2 (phụ lục) sau đây:
Bảng 2.12. Bảng tổng kết các kiểu hành động điều khiển
63
theo mối quan hệ của BTNV và PNNV
Số lượng/ tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
Các tiểu loại HĐCK BTNV trùng phát ngôn ngữ vi (PNNV) BTNV là một bộ phận của PNNV
Tổng kết 415 1195 1610 25,77 74,22 99,99
2.1.2.4. Căn cứ vào sự có mặt hay vắng mặt của động từ ngữ vi điều khiển
Bản chất của các hành động ở lời, trong đó có hành động điều khiển là được thể
hiện ra bằng biểu thức ngữ vi. Mỗi một hành động ở lời có một số những dấu hiệu để
đánh dấu (Searle gọi là các phương tiện chỉ dẫn hiệu lực ở lời (dẫn theo Đỗ Hữu Châu,
tr.92)). Một trong những phương tiện quan trọng đánh dấu biểu thức ngữ vi của một số
hành động ở lời là động từ ngữ vi. Mặc dù không phải hành động ở lời nào cũng có
động từ ngữ vi để tường minh.
Theo tiêu chí này, hành động điều khiển được chia làm hai nhóm: hành động điều
khiển tường minh và hành động điều khiển nguyên cấp. (Tác giả Đào Thanh Lan gọi là
hành động cầu khiến chính danh và hành động cầu khiến hàm ẩn). Những hành động
điều khiển được thực hiện bằng phát ngôn có chứa động từ ngữ vi được chúng tôi xếp
vào nhóm hành động điều khiển tường minh; còn hành động điều khiển được thực hiện
bằng phát ngôn không chứa động từ ngữ vi sẽ được chúng tôi xếp vào nhóm hành động
điều khiển nguyên cấp.
a) Hành động điều khiển tường minh
Theo tư liệu thống kê của chúng tôi, số hành động ở lời điều khiển có chứa động
từ ngữ vi có 384 trường hợp (gồm 194 trường hợp hành động cầu khiến có cấu tạo 4
thành tố và 190 trường hợp hành động cầu khiến có cấu tạo ba thành tố). Kiểu hành
động cầu khiến này chiếm tỉ lệ xấp xỉ 23,85% số hành động cầu khiến đã thống kê
(384/1610). Xin dẫn một số ví dụ dưới đây:
Ví dụ 29:
a. (...) Chị Dậu lết thết ôm con bé chạy vào:
- Thôi, tôi xin ông cai tha cho cháu... Chúng nó hãy còn bé bỏng. [81, tr.37]
b. Trong đám đông, mỗi người một câu:
64
- (...).
- Xin mời cụ lên trên. [81, tr.15]
c. Pha rót rượu và mời:
- Nhà cháu chẳng có gì, mời cậu xơi tạm chén rượu. [80, tr.48]
Hành động xin trong ví dụ 29a được tường minh bởi động từ ngữ vi xin. Tương
tự, hành động mời trong ví dụ 29b,c cũng được tường minh bởi động từ mời. Xin và
mời là hai động từ ngữ vi.
b) Hành động điều khiển hàm ẩn
Trong số 1610 lượt sử dụng hành động điều khiển trong các tác phẩm mà chúng
tôi đã thống kê, có 1226 trường hợp hành động điều khiển không được tường minh
hành động ở lời bằng động từ ngữ vi, chiếm xấp xỉ 76,14% (1226/1610). Trong số 1226
lượt sử dụng này, có những hành động ở lời có động từ ngữ vi tương ứng để tường
minh (như hành động hỏi, hành động cấm,...), nhưng cũng có những hành động ở lời
điều khiển không bao giờ có động từ ngữ vi để tường minh, bởi những hành động ở lời
đó luôn luôn phải được thực hiện bằng phát ngôn ngữ vi nguyên cấp, như hành động
giục, hành động dỗ/dỗ dành,... Người ta không nói: “mẹ dỗ con, con hãy nín đi”, hoặc
“mẹ giục con, con hãy ăn nhanh lên”.
Dưới đây là một số ví dụ về kiểu hành động cầu khiến không có động từ ngữ vi
tường minh.
Ví dụ 30:
a. Cái Tý thỏ thẻ khuyên em:
-Tiền bán khoai còn phải để dành đóng sưu cho ông lý chứ? (...). Em có đói thì
hãy ăn tạm củ khoai sống vậy...! [81, tr.25].
b. Bác San hỏi:
- Thế hai bác đã đặt tên cho cháu chưa? [80, tr. 17]
Hành động khuyên trong ví dụ 30a và hành động hỏi trong ví dụ 30b đều vắng
động từ ngữ vi. Cả hai hành động ở lời này đều là hành động cầu khiến hàm ẩn (theo
65
cách gọi của tác giả Đào Thanh Lan).
Có thể hình dung số lượng và tỉ lệ phần trăm của hai kiểu hành động điều khiển
được phân loại theo tiêu chí phát ngôn ngữ vi có mặt hay vắng mặt động từ ngữ vi bằng
bảng tổng kết 2.13 và bảng 2.3 (phụ lục).
Bảng 2.13. Số lượng và tỉ lệ phần trăm của hai kiểu hành động điều khiển được
phân loại theo tiêu chí phát ngôn ngữ vi có mặt hay vắng mặt động từ ngữ vi
Số lượng/ TL% Số lượng Tỉ lệ % Kiểu hành động ĐK
Hành động ĐK có ĐTNV 384 23,85
Hành động ĐK vắng ĐTNV 1226 76,14
Tổng kết 1610 99,99
2.1.2.5. Căn cứ vào phương thức thể hiện hành động điều khiển
Theo tiêu chí này, hành động điều khiển đã thống kê được chúng tôi chia thành
hai nhóm: hành động điều khiển trực tiếp và hành động điều khiển gián tiếp. Hành
động điều khiển nào được thực hiện bởi một phát ngôn có hình thức phù hợp gọi là
hành động điều khiển trực tiếp; còn hành động điều khiển nào được thực hiện bằng
một phát ngôn mang đặc trưng của một hành động ở lời khác được gọi là hành động
cầu điều khiển gián tiếp.
a) Hành động điều khiển gián tiếp
Hành động ở lời lớp điều khiển gián tiếp được sử dụng trong các tác phẩm đã
dẫn có số lượng rất ít. Trong số 1610 hành động điều khiển đã thống kê, chỉ thấy có
33 trường hợp hành động điều khiển được dùng theo lối gián tiếp, chiếm xấp xỉ 2,04%
(33/1610).
Như đã nói, lời điều khiển gián tiếp là lời có mục đích cầu khiến này nhưng được
tạo ra bằng biểu thức (expression) của một hành động ngôn trung khác, như: hỏi với
đích để chất vấn, hỏi với đích để nhờ, hỏi với đích là đề nghị, xin với đích yêu cầu,
trình bày với đích yêu cầu, v.v,... Trong ngữ cảnh cấu trúc hạn định cho phép, tiếp ngôn
66
nhận ra mục đích cầu khiến thông qua thao tác suy ý.
Hành động điều khiển gián tiếp trong tác phẩm đã dẫn chủ yếu thực hiện qua hành
động trực tiếp hỏi, một số trường hợp được thực hiện qua hành động mắng và bày tỏ
(nguyện vọng)... Dưới đây là một số kiểu tiêu biểu về hành động điều khiển được thể
hiện gián tiếp bằng một hành động ở lời trực tiếp khác.
- Các hành động ở lời điều khiển gián tiếp thực hiện bằng hành động ở lời trực
tiếp hỏi
Đây là những phát ngôn có hình thức hỏi (hành động trực tiếp hỏi) nhưng không
nhằm để hỏi mà nhằm đích ở lời khác, như để chất vấn, yêu cầu/đề nghị, giục, v.v...
Ví dụ 31:
a. Thằng Dần tru tréo:
- Con không! Nào! Lúc chiều con đã bảo u lấy được tiền thì đem chị ấy về với
con kia mà? Sao u lại để chị ấy ngủ ở bên ấy? [81, tr.121]
b. Buồn rầu, chị sẽ ghé vào tai chồng:
- Cái Tý để phần thầy em một đĩa khoai đấy. Để tôi bưng sang đây cho nhé?
[81. tr.116]
c. (...). Thầy em cứ yên tâm nằm nghỉ, không phải lo lắng gì cả. Nếu thầy em cứ
kêu khóc mãi, lỡ ra cơn bệnh vật lên, lại lả người đi, thì tôi biết làm thế nào?
[81, tr.140]
d. Ba người thở dài im lặng. Một lát, bác Tân giục:
- Thế ta đi chứ? [80, tr.101]
Phần in nghiêng trong các ví dụ vừa dẫn đều là hành động ở lời cầu khiến gián
tiếp được thực hiện qua hành động ở lời trực tiếp hỏi. Trong ví dụ 31a, hành động trực
tiếp hỏi nhằm đích ở lời gián tiếp chất vấn. Hành động hỏi trong ví dụ 31b nhằm đích
ở lời gián tiếp đề nghị. Hành động hỏi trong ví dụ 31c nhằm đích ở lời khuyên và hành
động hỏi trong ví dụ 31d nhằm đích ở lời giục.
Cần phải nói thêm rằng, việc xác định hành động ở lời gián tiếp như vừa nói chỉ
có tính chất tương đối, bởi lẽ như đã nói, những hành động ở lời được thực hiện bằng
phát ngôn ngữ vi nguyên cấp (vắng động từ ngữ vi) thường “mơ hồ về hành vi ngôn
67
ngữ” [8, tr.103].
- Hành động ở lời điều khiển gián tiếp yêu cầu được thực hiện bằng hành động
ở lời trực tiếp xin
Đây là kiểu hành động ở lời trực tiếp xin nhưng lại nhằm đích là yêu cầu như ví
dụ 32 dưới đây:
Ví dụ 32:
a. Chị Dậu lại tần ngần ngồi xuống:
-Bẩm cụ, một vài hào ở cụ chẳng thấm vào đâu nhưng ở con thì nó lớn lắm. Xin
cụ cho con năm hào nữa vậy. [81, tr.56]
b. Từng ấy con mắt đổ dồn về Pha. (...). Nhưng tâm can anh chỉ rối lên về vợ ốm,
nên phải ở lại, anh tức lắm.
- Bẩm thế xin bà lớn cứ khám. [80, tr.154]
Phần in nghiêng trong ví dụ 32a và 32b là những phát ngôn có đích đề nghị nhưng
đều được các nhân vật thực hiện bằng hành động xin.
- Hành động ở lời điều khiển gián tiếp xinđược thực hiện bằng hành động ở lời
trực tiếp bày tỏ (nguyện vọng)
Đây là kiểu hành động ở lời trực tiếp bày tỏthái độ nhưng nhằm đích ở lời xin.
Trong các tác phẩm chúng tôi mới thấy một trường hợp hành động điều khiển gián tiếp
loại này. Xin dẫn ra dưới đây:
Ví dụ 33:
Chị Dậu năn nỉ:
- Cánh tay nhà em bị trói chặt quá, không thể cầm bút ký được. Giá ông làm phúc
cởi trói ra cho nhà em, thì em ơn ông vạn bội. [81, tr.73].
Phần in nghiêng trong ví dụ vừa dẫn là phát ngôn của nhân vật chị Dậu có hình
thức của hành động bày tỏ (nguyện vọng). Chị Dậu bày tỏ sự mong muốn: Giá...cởi
trói cho nhà em để nhằm đích ở lời xin nhân vật cậu cơ cởi trói cho chồng chị.
- Hành động ở lời cầu khiến gián tiếp yêu cầuđược thể hiện bằng hình thức của
hành động ở lời trực tiếp trình bày
Đây là kiểu hành động ở lời có đích là yêu cầu nhưng người nói đã dùng phát
68
ngôn có hình thức trình bày để thể hiện, như ví dụ 36 dưới đây:
Ví dụ 34:
Mang tai chị thấy hơi rầm rậm như bị sợi râu ngắn quét vào rồi thấy tiếng thì thào:
- Taào! Taào đây! Cụ...đây! Nằm im!
- Bẩm cụ chúng con là phận tôi tớ... [81, tr.214]
Phát ngôn của chị Dậu: “Bẩm cụ....tôi tớ” là hành động chị Dậu yêu cầu nhân vật
cụ dừng lại hành vi sàm sỡ nhưng được chị thực hiện dưới hình thức của hành động
trình bày.
- Hành động ở lời cầu khiến gián tiếp xin thể hiện bằng hình thức của hành động
ở lời trực tiếp trình bày
Đây là kiểu hành động ở lời có đích là xin nhưng người nói đã dùng phát ngôn có
hình thức trình bày để thể hiện, như ví dụ 35 dưới đây:
Ví dụ 35:
- Một đồng bạc! nghe chửa? Thế là ông thương mày đấy, chứ người khác thì phải
năm đồng.
- Lạy ông, ông xét lại cho. Con bán cả con lẫn chó mới được có có hai đồng bạc.
[81, tr.81]
Bộ phận in nghiêng trong ví dụ vừa dẫn là hành động xin. Chị Dậu xin lý trưởng
giảm tiền đóng triện vào văn tự bán con bằng một hành động trực tiếp là trình bày.
b) Hành động điều khiển trực tiếp
Đây là kiểu hành động điều khiển được thực hiện bằng kiểu phát ngôn (câu) cầu
khiến. Nói cách khác, hành động điều khiển ở đây có sự phù hợp giữa hình thức thể
hiện và đích ở lời. Chẳng hạn, dùng kiểu câu hỏi để hỏi, dùng câu cầu khiến để yêu cầu,
dùng câu có các dấu hiệu ngữ vi khuyên để khuyên, v.v...
Tư liệu thống kê của chúng tôi cho thấy, các nhân vật nông dân trong các tác phẩm
đã chọn làm ngữ liệu thống kê đã sử dụng hành động điều khiển theo lối trực tiếp là chủ
yếu. Trong số 1610 lượt dùng hành động điều khiển như đã nói, có tới 1577 trường hợp là
hành động điều khiển trực tiếp (hành động cầu khiến chính danh - cách gọi của tác giả Đào
69
Thanh Lan), chiếm xấp xỉ 97,95% (1577/1610). Dưới đây là một số ví dụ:
Ví dụ 36:
a. Chị Pha rú lên một tiếng, rồi nước mắt chạy quanh, chị bàng hoàng mãi mới
nói được:
- Trại ở đâu, cậu? [80, tr. 68]
b. Bằng cái dáng điệu vui vẻ, nhẹ nhàng, nó đặt một bát lên chõng:
[81, tr.85] - Mời u xơi khoai đi ạ!
c. Chị Dậu rón rén bưng một bát lớn đến chỗ chồng nằm.
- Thầy em hãy có ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột! [81, tr. 145]
Tất cả các hành động ở lời (bộ phận in nghiêng) dẫn trên đều là hành động điều
khiển được thực hiện theo kiểu trực tiếp. Hành động ở lời trong ví dụ 36a là hành động
hỏi; trong ví dụ 36b là hành động mời và trong ví dụ 36c là hành động đề nghị.
Bảng tổng kết 2.14dưới đây cho biết số lượng và tỉ lệ % của kiểu hành động điều
khiển được dùng theo lối gián tiếp hay trực tiếp (tỉ lệ % tính theo số hành động điều
khiển đã thống kê:1610).
Bảng 2.14. Bảng tổng kếthành động điều khiển được dùng
theo lối gián tiếp hay trực tiếp
Kiểu hành động ĐK Hành động gián tiếp Hành động trực tiếp
Tác phẩm SL Tỉ lệ % Tỉ lệ % SL
Tắt đèn 13 0,80 561 34,84
Bước đường cùng 9 0,56 682 42,36
TP của Nam Cao 11 0,68 334 20,75
Tổng số 33 2,04 1577 97,95
2.1.2.6. Căn cứ vào ý nghĩa cầu hay khiến của hành động điều khiển
Như đã nói ở chương 1, hành động cầu khiến là khái niệm tổng quát dùng để chỉ
các hành động ở lời có ý nghĩa cầu và các hành động ở lời có ý nghĩa khiến. Ý nghĩa
cầu hay ý nghĩa khiến phụ thuộc vào tính chất của hành động. Cầu là hành động thiên
về ý nghĩa kêu gọi thiện chí, sự tự nguyện của người nghe; còn khiến là hành động
thiên về sự áp đặt, cưỡng ép người nghe phải thực hiện hành động.
70
Xin nói thêm, chúng tôi dựa vào cách phân loại hành động cầu khiến theo ý nghĩa
cầu hay ý nghĩa khiến của tác giả Đào Thanh Lan [43, tr.40-45] để phân loại các hành
động điều khiển đã thống kê theo tiêu chí này.
Theo tư liệu điều tra của chúng tôi, căn cứ vào ý nghĩa cầu hay ý nghĩa khiến như
vừa nói, có thể chia các hành động điều khiển đã thống kê thành ba nhóm: i) nhóm
hành động điều khiển thiên về ý nghĩa cầu, ii) nhóm hành động điều khiển thiên về ý
nghĩa khiến và iii) nhóm hành động điều khiển vừa mang ý nghĩa cầu, vừa mang ý
nghĩa khiến. Chúng tôi sẽ phân tích kĩ về các kiểu hành động điều khiển được phân loại
theo tiêu chí này ở chương 3.
Dưới đây là bảng tổng kết khái quát về các kiểu hành động điều khiển được phân
loại theo tiêu chí này (xin xem các bảng từ 2.15, và bảng 2.4, 2.5, 2.6 (phụ lục)). Số
lượng và tỉ lệ % tính theo số hành động điều khiển đã thống kê:1610.
Bảng 2.15. Bảng tổng kết khái quát về các kiểu hành động điều khiển
theo tiêu chí ý nghĩa cầu, khiến
Ý nghĩa cầu Ý nghĩa khiến Tổng số Kiểu loại
SL TL%
Hành động Hỏi SL TL% Ý nghĩa cầu & khiến SL 282 TL% SL TL% 17,52 282 17,52
Yêu cầu 234 14,53
Khuyên 228 234 14,53 14,16 228 14,16
Xin 148 9,19 148 9,19
Nài 145 9,00 145 9,00
Van 139 8,63 139 8,63
Chất vấn 101 6,27 101 6,27
Nhờ 95 5,90 95 5,90
Giục 59 3,66 59 3,66
Dặn 37 2,29 37 2,29
Can ngăn 34 2,11 34 2,11
Cản 26 1,61 26 1,61
Dỗ 26 1,61 26 1,61
Mời 24 1,49 24 1,49
Sai 10 0,62 10 0,62
71
7 0,43 Xui 7 0,43
6 0,38 Đuổi 6 0,38
4 0,24 Thách 4 0,24
3 0,18 Rủ 3 0,18
2 0,12 Đe dọa 2 0,12
Tổng kết 561 34,84 479 29,75 570 35,40 1610 99,99
2.2. Tiểu kết
(1) Trong các tác phẩm chúng tôi đã chọn làm ngữ liệu khảo sát, thấy lớp hành
động điều khiển xuất hiện khá nhiều. Chủ ngôn của hành động điều khiển có thể là các
nhân vật thuộc các tầng lớp xã hội khác nhau, như: nhân vật quan lại, địa chủ, tay sai,...
đặc biệt là nhân vật nông dân đã sử dụng hành động điều khiển với tần số khá cao.
Từ góc nhìn của lí thuyết hành động ngôn ngữ, luận văn này xem xét hành động
điều khiển có chủ ngôn là nhân vật nông dân về 6 phương diện, đó là:
(1) Hành động ở lời (hành động ngôn trung);
(2) Cấu trúc hình thức của các hành động ở lời lớp điều khiển;
(3) Mối quan hệ giữa biểu thức ngữ vi và phát ngôn ngữ vi thể hiện hành động
điều khiển;
(4) Sự có mặt hay vắng mặt của động từ ngữ vi trong phát ngôn thể hiện hành
động điều khiển;
(5) Phương thức thể hiện hành động điều khiển (trực tiếp hay gián tiếp);
(6) Căn cứ vào ý nghĩa cầu hay ý nghĩa khiến của hành động cầu khiến.
Với nguồn ngữ liệu trình bày ở mục Đối tượng khảo sát, chúng tôi đã thống kê
được 1610 lượt hành động lớp điều khiển do chủ ngôn là nhân vật nông dân nói với
các đối tượng cùng hoặc không cùng giai cấp.
(2) Dựa vào lí thuyết hành động ngôn ngữ, cụ thể là 6 tiêu chí nói trên, luận văn đã
phân loại và miêu tả các kiểu hành động lớp điều khiển đã thống kê. Cụ thể:
- Theo tiêu chí xác định hành động ở lời của J. R. Searle, chúng tôi đã xác định
được 20 hành động ở lời thuộc lớp điều khiển, đó là các hành động: hỏi, yêu cầu, khuyên,
xin, nài, van/lạy, chất vấn, nhờ, giục, dặn, can, cản, dỗ, mời, sai, xui, đuổi, thách, rủ,
đe dọa. Các hành động vừa nói được liệt kê theo tần số sử dụng. Hành động ở lời có
72
tần số sử dụng cao nhất là hành động hỏi (282 lượt), hành động ở lời có tần số sử dụng
ít nhất là hành động đe dọa (2 lượt).
- Theo tiêu chí cấu trúc hình thức, các hành động lớp điều khiển được chia thành
4 nhóm: 1) Hành động điều khiển có cấu tạo 4 thành tố, 2) Hành động điều khiển có
cấu tạo 3 thành tố, 3) Hành động điều khiển có cấu tạo 2 thành tố và 4) Hành động điều
khiển có cấu tạo 1 thành tố.
Hành động điều khiển có cấu tạo 2 thành tố chiếm số lượng cao nhất (710 lượt),
tiếp theo là hành động điều khiển có cấu tạo 1 thành tố (516 lượt), hành động điều
khiển có cấu tạo 4 thành tố (194 lượt), và cuối cùng là kiểu hành động cầu khiến có cấu
tạo 3 thành tố (190 lượt).
- Theo tiêu chí quan hệ hình thức giữa phát ngôn ngữ vi và biểu thức ngữ vi, các hành
động điều khiển được chia thành hai nhóm: hành động điều khiển có hình thức là biểu thức
ngữ vi trùng với phát ngôn ngữ vi, và nhóm hành động điều khiển có hình thức là một biểu
thức ngữ vi không trùng với phát ngôn ngữ vi (chỉ là một bộ phận của phát ngôn ngữ vi).
Tư liệu khảo sát của chúng tôi cho thấy, loại hành động cầu khiến có hình thức là
một biểu thức ngữ vi chỉ là một bộ phận của phát ngôn ngữ vi chiếm số lượng cao
(1195), trong khi đó, kiểu hành động cầu khiến có hình thức là biểu thức ngữ vi trùng
phát ngôn ngữ vi chỉ có 415 trường hợp.
- Theo tiêu chí có hay không có mặt của động từ ngữ vi điều khiển, tư liệu thống
kê cũng được chia thành hai nhóm: hành động điều khiển tường minh và hành động
điều khiển hàm ẩn. Loại hành động cầu khiến hàm ẩn có số lượng cao hơn loại hành
động cầu khiến tường minh (hành động cầu khiến hàm ẩn có 1226 trường hợp và loại
hành động tường minh có 384 trường hợp).
- Theo tiêu chí phương thức thể hiện (trực tiếp hay gián tiếp), hành động lớp điều
khiển đã thống kê cũng được chia thành hai nhóm: hành động điều khiển là hành động
ở lời gián tiếp (hành động điều khiển hàm ẩn) và hành động điều khiển ở lời trực tiếp
(hành động điều khiển chính danh).
- Theo tiêu chí thiên về ý nghĩa cầu hay khiến của hành động điều khiển, số hành
động điều khiển đã thống kê cũng được chia thành ba nhóm: nhóm hành động điều
khiển thiên về ý nghĩa cầu; nhóm hành động điều khiển thiên về ý nghĩa khiến và nhóm
hành động điều khiển vừa mang ý nghĩa cầu, vừa mang ý nghĩa khiến.
73
Kết quả thống kê của chúng tôi cho thấy, ba loại hành động cầu khiến được phân
loại theo tiêu chí này có tần số sử dụng khác nhau không nhiều: Hành động cầu khiến
thiên về ý nghĩa cầu có 561 lượt dùng, loại thiên về ý nghĩa khiến có ô ̣ trường hợp và
loại vừa mang ý nghĩa cầu, vừa mang ý nghĩa khiến cóđ trường hợp.
Chi tiết về từng tiểu loại với số lượng và tỉ lệ phần trăm đã được chương này trình
bày qua các bảng tổng kết từ bảng 2.1 đến bảng 2.22.
Chương 3
HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ THUỘC LỚP ĐIỀU KHIỂN
CỦA NHÂN VẬT NÔNG DÂN TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 NHÌN TỪ LÍ THUYẾT HỘI THOẠI
3.1. Tiếp ngôn của các hành động ở lời thuộc lớp điều khiển của nhân vật nông
dân trong một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam, giai đoạn 1930 - 1945
Khác với nhiều hành động ở lời khác, bản chất của hành động lớp điều khiển là
phải có người nghe trực tiếp (tiếp ngôn - Sp2), do vậy, hành động điều khiển của bất
cứ người nói (chủ ngôn - Sp1) nào cũng đều phải có người nghe (tiếp ngôn - Sp2).
Nói như vậy có nghĩa là, trong giao tiếp nói chung, trong tác phẩm văn xuôi Việt
Nam giai đoạn 1930 - 1945 nói riêng, mỗi hành động ở lời thuộc lớp điều khiển được nhân
vật nông dân nói ra đều hướng tới một / một số tiếp ngôn cụ thể. Chỉ có điều, tiếp ngôn đó
là ai, có quan hệ như thế nào với người nói, tiếp ngôn có chi phối tới việc sử dụng hành
động ở lời điều khiển cụ thể không mới là điều đáng bàn. Xét về phương diện này, hành
động lớp điều khiển của nhân vật nông dân ở đây có những đặc điểm nhất định. Tuy nhiên,
trong công trình này, chúng tôi chỉ nghiên cứu tiếp ngôn về hai phương diện: i) Thành
phần giai cấp và vị thế xã hội của tiếp ngôn xét trong mối quan hệ với chủ ngôn, ii) Tiếp
ngôn xét trong mối quan hệ với các hành động ở lời điều khiển.
3.1.1. Tiếp ngôn của các hành động lớp điều khiển nhìn từ phương diện thành phần
giai cấp và vị thế xã hội
Xét trong mối quan hệ với chủ ngôn, tiếp ngôn của hành động điều khiển đã thống
kê có thể là các nhân vật thuộc giai cấp thống trị, những nhân vật không cùng giai cấp
74
với chủ ngôn. Tiếp ngôn có thể là các nhân vật thuộc giai cấp bị trị, tức là các nhân vật
là tiếp ngôn có cùng giai cấp với chủ ngôn.
3.1.1.1. Tiếp ngôn là các nhân vật thuộc giai cấp bóc lột
Cần phải nói ngay rằng, phân loại các tầng lớp xã hội vào từng giai cấp khá phức
tạp. Để tiện cho việc phân loại, chúng tôi tạm xếp các nhóm nhân vật sau vào loại nhân
vật thuộc giai cấp bóc lột:
(1) Nhân vật quan lại, địa chủ
(2) Nhân vật làm tay sai cho quan lại, địa chủ hay người nhà của chúng, như: cai
lệ, người nhà lí trưởng, địa chủ, trương tuần, v.v...
Trong các tác phẩm chọn làm ngữ liệu khảo sát, chúng tôi đã thống kê được 967 số
lượt dùng hành động điều khiển do nhân vật nông dân nói (Sp1) nói với các nhân vật thuộc
giai cấp thống trị, tức những nhân vật không cùng giai cấp với mình. Những nhân vật
không cùng giai cấp với người nông dân trong các tác phẩm đã chọn làm ngữ liệu khảo
sát gồm nhân vật địa chủ, quan lại (quan huyện, tri phủ, địa chủ,..., các nhân vật chức dịch
hàng tổng trở xuống (chánh tổng, lí trưởng, lý cựu,...) và tay sai hoặc người nhà của chúng
(vợ quan lại, địa chủ, trương tuần, người nhà lí trưởng, cai lệ, lính cơ,...).
a) Tiếp ngôn là nhân vật quan lại, địa chủ
Trong số 1610 lượt sử dụng hành động điều khiển do các nhân vật nông dân là
chủ ngôn trong các tác phẩm chọn làm ngữ liệu khảo sát, có 574 trường hợp người
nghe (tiếp ngôn) là nhân vật quan lại, địa chủ; chiếm xấp xỉ 39,93% (574/1610).
Số tiếp ngôn là nhân vật quan lại, địa chủ trong mỗi nguồn tư liệu thống kê cũng
không giống nhau, cụ thể:
+ Trong tác phẩm Tắt đèn có 187 trường hợp;
+ Trong tác phẩm Bước đường cùng có 306 trường hợp;
+ Trong một số tác phẩm của Nam Cao (đã nói ở mục Đối tượng khảo sát. Từ
đây, chúng tôi gọi tất cả các tác phẩm của Nam Cao đã chọn làm ngữ liệu thống kê
bằng tên chung “tác phẩm của Nam Cao” thay vì gọi bằng tên cụ thể như tác phẩm Tắt
đèn và tác phẩm Bước đường cùng vì số tác phẩm của Nam Cao sử dụng ở đây khá
75
nhiều) có 81 trường hợp.
Dưới đây là một số ví dụ tiêu biểu về kiểu tiếp ngôn của hành động điều khiển
thuộc nhóm này:
Ví dụ 1:
a. Chị Dậu nhất định cố giằng tay ra và cứ một mực:
- Con lạy quan lớn! Chúng con là gái có chồng, quan lớn tha cho.[81, tr 196]
b. Nghe những câu có lý thì bùi tai, Pha quả quyết:
- Lạy quan, thôi thì trăm sự nhờ quan! [80, tr. 44]
Trong hai ví dụ vừa dẫn, người nói (Sp1- chủ ngôn) ra hai phát ngôn với các hành
động ở lời lạy, xin và nhờ, thuộc nhóm điều khiển là nhân vật chị Dậu và nhân vật anh
Pha. Người nghe (Sp2 - tiếp ngôn) đều là nhân vật quan huyện. Các nhân vật này là
những đại diện của giai cấp bóc lột trong xã hội phong kiến Việt Nam.
Ngoài quan lại hàng huyện hay hàng tỉnh, theo thống kê của chúng tôi, tiếp ngôn
là các nhân vật quan lại hàng tổng, hàng xã, xóm hay địa chủ cũng xuất hiện khá nhiều.
Dưới đây là một số ví dụ:
Ví dụ 2:
a. Hắn xông lại gần, đảo ngược mắt, giơ cái tay lên nửa chừng:
- Bẩm không ạ, bẩm thật là không say. Con đến xin cụ cho con đi ở tù...
[Chí Phèo 79, tr.44]
b. Chị Dậu chờ cho tan cơn ồn ào, mới dám rón rén bước lại nói với lí trưởng:
- Thôi con lạy ông! Xin ông hãy tạm tha trói cho nhà con một lúc, để nhà con kí
vào văn tự, con mới có tiền đóng sưu. [81, tr.79]
Nhân vật cụ trong ví dụ 2a là nhân vật Nghị Quế và nhân vật ông trong ví dụ 2b
là nhân vật lí trưởng. Nhân vật nghị Quế và lí trưởng là những vị quan ở hàng thấp hơn
quan huyện, tri phủ nói ở ví dụ 1.
b) Tiếp ngôn là người nhà, tay sai cho quan lại, địa chủ (vợ quan lại, cai lệ,
trương tuần, người nhà lí trưởng...)
Đại diện cho giai cấp bóc lột ngoài những nhân vật như quan phủ, chánh tổng, lý
76
trưởng, lý cựu, vợ chồng nghị Quế, nghị Lại,... còn một lớp người là hay tay sai cho
chúng như cai lệ, trương tuần, người nhà lí trưởng,... Tuy không phải là đại diện cho
giai cấp bóc lột nhưng việc làm của họ đều dưới sự sai khiến của giai cấp bóc lột, phục
vụ cho giai cấp bóc lột và do đó lời nói của các nhân vật này cũng có phần không khác
lời nói của các nhân vật thuộc giai cấp bóc lột. Bởi vậy, chúng tôi tạm xếp họ vào cùng
giai cấp bóc lột như các nhân vật đã nói ở mục 3.2.1.1.a.
Theo thống kê của chúng tôi, tiếp ngôn của hành động điều khiển thuộc nhóm
này có 967 lượt xuất hiện, chiếm xấp xỉ 60,06% (967/1610). Xin dẫn một vài ví dụ:
Ví dụ 3: a. Pha rót rượu và mời:
- Nhà cháu chẳng có gì, mời cậu xơi tạm chén rượu. [80, tr.48]
b. Chị Dậu năn nỉ:
- Cánh tay nhà em bị trói chặt quá,... Ông làm phúc cởi trói cho nhà em, thì em
ơn ông vạn bội. [81, tr.73]
Nhân vật cậu trong ví dụ 3a chính là nhân vật người lính của viên tri huyện; còn
nhân vật ông trong ví dụ 3b là nhân vật cai lệ. Cả hai nhân vật này đều là tiếp ngôn của
hành động điều khiển có chủ ngôn là nhân vật anh Pha và nhân vật chị Dậu, những
người nông dân đại diện cho giai cấp bị bóc lột.
Tóm lại, tiếp ngôn là nhân vật thuộc giai cấp thống trị có số lượt dùng khá lớn.
Về chi tiết số lượt sử dụng và tỉ lệ % xét trên từng ngữ liệu thống kê, xin xem bảng
tổng kết 3.1 dưới đây:
Bảng 3.1. Bảng tổng kết tiếp ngôn là nhân vật thuộc giai cấp thống trị
Cai lệ, người nhà Tổng hợp theo Tiếp ngôn Quan lại, địa chủ quan lại, địa chủ tác phẩm
Tỉ Số Tỉ Số lượng Số lượng Tỉ lệ % Tác phẩm lệ % lượng lệ %
Tắt đèn 11,61 187 405 25,15 218 13,54
B. đường cùng 19,006 306 468 29,06 162 10,06
Tác phẩm NC 5,03 81 94 5,83 13 0,80
Tổng hợp 39,93 574 967 60,05 393 24,40
77
3.1.1.2. Tiếp ngôn của hành động điều khiển là những nhân vật thuộc giai cấp bị trị
(cùng giai cấp với chủ ngôn)
Đây là những tiếp ngôn cùng thuộc một giai cấp với nhân vật chủ ngôn của hành
động điều khiển đang bàn. Xin nói ngay rằng, tiếp ngôn là những nhân vật thuộc giai
cấp bị trị ở đây chúng tôi chỉ nói đến những nhân vật là nông dân chứ không nói đến
những nhân vật khác. Bởi lẽ, một mặt, những nhân vật như những người buôn bán
nhỏ, tầng lớp trí thức tiểu tư sản,... không đại diện cho những người bị giai cấp thống
trị áp bức, bóc lột; mặt khác những nhân vật loại này đóng vai trò là tiếp ngôn của
hành động điều khiển xuất hiện không nhiều trong các tác phẩm đã chọn làm ngữ liệu
thống kê.
Căn cứ vào mối quan hệ với người nói (Sp1, chủ ngôn), những tiếp ngôn là nhân
vật thuộc giai cấp bị trị mà chúng tôi đã thống kê được xếp vào hai nhóm: 1) Nhóm
tiếp ngôn không có quan hệ thân tộc với Sp1, và 2) Nhóm tiếp ngôn có quan hệ thân
tộc với Sp1.
a) Tiếp ngôn là những nhân vật không có quan hệ thân tộc với Sp1
Trong các tác phẩm văn xuôi đã nói ở trên, tiếp ngôn không có quan hệ thân tộc
với chủ ngôn là những nhân vật hàng xóm, những người anh em cùng cảnh ngộ... mà
không có quan hệ thân tộc với Sp1 - người nói ra hành động điều khiển, chẳng hạn như
nhân vật bà lão láng giềng trong tác phẩm Tắt đèn, nhân vật bà Trùm, vợ chồng Trương
Thi trong Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, nhân vật ông nhiêu Tiêm trong
tác phẩm Quái dị của Nam Cao, v.v... Tất cả những nhân vật này đều được luận văn
xếp vào nhóm tiếp ngôn đang bàn. Dưới đây là một số ví dụ về tiếp ngôn của hành
động điều khiển là những nhân vật không có quan hệ thân tộc nhưng cùng thuộc một
giai cấp với các nhân vật chủ ngôn.
Ví dụ 4:
a. Chừng một giờ sau, người đàn bà bưng về một mâm cơm. (...).
- Mời các ông xơi rượu rồi ăn cơm. Xong đâu đấy, nhà cháu còn nhờ các ông một
78
việc. [79, tr.157]
b. Sau hàng rào, bà trưởng Bạt đứng lấp ló nhìn qua lớp lá dâm bụt, can:
- Thôi mà, chị Pha, một câu nhịn là chín câu lành. [80, tr.22]
Nhân vật các ông trong ví dụ 4a là những người thợ gặt thuê, còn chủ ngôn của
hành động mời và hành động nhờ trong ví dụ này là người đàn bà bưng mâm cơm. Họ
cùng thuộc tầng lớp nông dân nhưng không có quan hệ thân tộc.
Nhân vật chị Pha, tiếp ngôn trong ví dụ 4b cũng là nhân vật nông dân và là hàng
xóm của bà trưởng Bạt. Bà là chủ ngôn của hành động can vừa dẫn.
Tiếp ngôn không có quan hệ thân tộc với chủ ngôn có thể có vị thế xã hội cao hơn
chủ ngôn và cũng có thể có quan hệ bình đẳng hay ở vị thế thấp hơn chủ ngôn. Dưới
đây là một số ví dụ:
- Tiếp ngôn không có quan hệ thân tộc và có vị thế cao hơn chủ ngôn
Chúng tôi thống kê được 45 lượt tiếp ngôn loại này, chiếm xấp xỉ 2,79% số tiếp
ngôn đã thống kê (45/1610). Xin dẫn một số ví dụ dưới đây:
Ví dụ 5:
a. Chị Pha uể oải nói:
- Bà ngủ chơi đằng này, khuya rồi, về làm gì. [80, tr.11]
Nhân vật Bà trong ví dụ vừa dẫn chính là nhân vật bà trùm, người đỡ đẻ cho nhân
vật chị Pha. Xét trong mối quan hệ với chị Pha, người nói ra hành động khuyên thì bà
trùm tuy không có quan hệ huyết thống với chị Pha nhưng là bậc cao tuổi hơn, nên có
vị thế xã hội cao hơn nhân vật chị Pha.
Tương tự, tiếp ngôn trong ví dụ 5b dưới đây cũng có quan hệ xã hội cao hơn chủ
ngôn của hành động điều khiển.
b. Chị Dậu sẽ sàng đứng dậy:
- Thế thì cháu hãy quấy cụ lúc nữa. [81, tr. 164]
Chủ ngôn của hành động nhờ (chị Dậu dùng động từ quấy thay cho động từ nhờ)
là nhân vật chị Dậu. Tiếp ngôn là nhân vật cụ, tức bà lão láng giềng của chị Dậu. Bà
lão láng giềng là người có vị thế xã hội cao hơn chị Dậu bởi tuổi của nhân vật này cao
hơn tuổi chị Dậu.
79
c. Mấy người trèo lên nóc nhà Ninh. Họ dỡ tranh quăng xuống sân rào rào. Ninh
chạy về:
- Ô hay! Sao các ông phá nhà tôi? [79, tr. 167]
Nhân vật các ông trong hành động hỏi vừa dẫn cũng là tiếp ngôn có vị thế xã hội
cao hơn và không có quan hệ thân tộc với nhân vật chủ ngôn (Ninh), người nói ra hành
động hỏi.
- Tiếp ngôn không có quan hệ thân tộc và có vị thế xã hội bình đẳng với
chủ ngôn
Trong tư liệu thống kê của chúng tôi loại tiếp ngôn này có 72 trường hợp, chiếm
xấp xỉ 4,47% số tiếp ngôn đã thống kê (72/1610).
Những nhân vật là tiếp ngôn có quan hệ bình đẳng nhưng không có quan hệ huyết
thống với chủ ngôn thường là những người cùng lứa tuổi hay cùng vị thế xã hội với
chủ ngôn.Trong tác phẩm, quan hệ bình đẳng này thường thể hiện ra bằng lối xưng hô
trống không hay dùng những từ suồng sã, thân mật.
Xin dẫn một số ví dụ về tiếp ngôn là nhân vật có vị thế xã hội bình đẳng với chủ
ngôn của hành động điều khiển:
Ví dụ 6:
Thị Nở xích lại. Đặt bàn tay lên ngực hắn (thị suy nghĩ đến bây giờ mới xong),
thị hỏi hắn:
- Vừa thổ hả?
Mắt hắn đảo lên nhìn thị, nhìn một thoáng rồi lại đờ ra ngay.
- Đi vào nhà nhé? [79, tr.53]
Tiếp ngôn của hành động hỏi và hành động yêu cầu trong ví dụ vừa dẫn là nhân
vật Chí Phèo. Nhân vật tiếp ngôn ở đây không được tường minh bằng câu chữ nhưng
nhờ ngữ cảnh giao tiếp, người đọc vẫn có thể suy ra được. Còn nhân vật chủ ngôn,
người nói ra hai hành động điều khiển trên là nhân vật Thị Nở. Cũng nhờ tiền ngôn mà
ta biết được căn cước của chủ ngôn này. Chí Phèo và Thị Nở là hai nhân vật có vị thế
xã hội bình đẳng trong xã hội nói đến trong tác phẩm Tắt đèn.
80
- Tiếp ngôn không quan hệ thân tộc và ở vị thế thấp so với chủ ngôn
Trong tư liệu thống kê của chúng tôi có 83 trường hợp Sp2 không có quan hệ
huyết thống với chủ ngôn và ở vị thế xã hội thấp hơn chủ ngôn. Chẳng hạn, nhân vật
bà trùm nói lời yêu cầu với nhân vật chị Pha, nhân vật bà lão láng giềng nói lời khuyên
với vợ chồng anh Dậu trong hai tác phẩm: Tắt đèn và Bước đường cùng sẽ dẫn dưới
đây:
Ví dụ 7:
a. Bà trùm quay lại nói:
- Nhà nó biếu bác, bác cứ nhận đi cho nó. (...). [80, tr.16]
Nhân vật bác trong ví dụ vừa dẫn là nhân vật Pha, người nghe (Sp2) trực tiếp
hành động đề nghị của bà trùm (Sp1).
b. Bà lão láng giềng lại lật đật chạy sang:
- Bác trai đã khá rồi chứ?
- Cảm ơn cụ, nhà cháu đã tỉnh táo như thường.(...).
- Này, bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn. Chứ cứ nằm đấy, chốc nữa họ vào thúc
sưu, không có, họ lại đánh trói thì khổ. [81, tr.144]
Chủ ngôn của hành động hỏi và hành động khuyên trong ví dụ 7b dẫn trên là nhân
vật bà lão láng giềng. Tiếp ngôn là nhân vật chị Dậu. Tiếp ngôn không được thể hiện
ra bằng câu chữ như ở ví dụ 7a nhưng nhờ ngữ cảnh, người đọc vẫn có thể hiểu được
đó là ai.
Cũng như ở ví dụ 7a, tiếp ngôn ở ví dụ 7b cũng là nhân vật cùng giai cấp với chủ
ngôn nhưng có khác là tiếp ngôn trong trường hợp này lại ở vị thế thấp so với chủ ngôn.
Về số lượt sử dụng và tỉ lệ % của kiểu tiếp ngôn không có quan hệ thân tộc, xin
xem bảng tổng kết 3.2 dưới đây:
Bảng 3.2. Bảng tổng kết các tiếp ngôn không có quan hệ thân tộc và cùng giai cấp
với chủ ngôn (Tỉ lệ % tính theo số hành động điều khiển đã thống kê: 1610)
81
Tiếp ngôn Sp2 có vị thế xã Sp2 có vị thế xã hội Sp2 có vị thế xã
hội cao hơn Sp1 bình đẳng Sp1 hội thấp hơn Sp1
Tác phẩm Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
Tắt đèn 12 0,74 9 0,55 18 1,11
Bước đường cùng 19 1,18 34 2,11 40 2,49
TP của Nam cao 14 0,86 29 1,80 25 1,55
Tổng kết 45 2,79 72 4,47 83 5,15
b) Tiếp ngôn là những người có quan hệ thân tộc với Sp1
Tiếp ngôn (Sp2) là người có quan hệ thân tộc với chủ ngôn (Sp1) của hành động
điều khiển được nói đến ở đây chủ yếu là những nhân vật có quan hệ huyết thống (gần
hay xa) với Sp1, người nói - chủ ngôn.
Trong các tác phẩm đã chọn, nhìn từ mối quan hệ với chủ ngôn, đó có thể là nhân
vật bố/mẹ, nhân vật vợ/chồng hay nhân vật anh, chị, em,... của chủ ngôn.
Trong tư liệu điều tra của chúng tôi, các nhân vật có mối quan hệ thân tộc với chủ
ngôn như vừa liệt kê đều có cả, chúng chỉ khác nhau về tần số sử dụng trong từng ngữ
liệu thống kê cụ thể.
Để tiện cho việc trình bày và không đi vào phân chia quá chi tiết, chúng tôi cũng
chia tiếp ngôn có quan hệ thân tộc thành ba nhóm như đã làm với kiểu tiếp ngôn
không có quan hệ thân tộc vừa nói ở trên, đó là: tiếp ngôn có vị thế cao hơn chủ ngôn;
tiếp ngôn có vị thế xã hội bình đẳng với chủ ngôn, và tiếp ngôn ở vị thế thấp so với
chủ ngôn.
- Tiếp ngôn có quan hệ thân tộc và có vị thế cao hơn chủ ngôn
Trong tư liệu thống kê của chúng tôi loại tiếp ngôn này có 146 trường hợp, chiếm
xấp xỉ 9,07% số tiếp ngôn đã thống kê (146/1610).
Theo từng nguồn ngữ liệu thống kê, số lượng kiểu tiếp ngôn có quan hệ thân tộc
và vị thế xã hội cao hơn chủ ngôn xuất hiện bằng nhau hoặc chênh lệch không nhiều.
Cụ thể, trong tác phẩm Tắt đèn và trong một số tác phẩm của Nam Cao có 54 trường
hợp, trong tác phẩm Bước đường cùng sử dụng ít hơn không đáng kể (38 lượt dùng).
82
Dưới đây là một số ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ 7:
a. (...), cái Gái hớn hở chạy về,..., vừa đến bếp, nó đã reo lên:
- Sướng quá! (...) Bu lấy đâu được mật mà lại nấu chè thế? [80, tr.18]
b. Cái Tý khóc hu hu. (...). Ngảnh lại nhìn mặt chị Dậu, nó nói bằng giọng năn nỉ:
- Con nhớ em quá! Hay là u hãy cho con ở nhà một đêm nay nữa,...
[81, tr. 93]
c. Thằng Dần níu lấy áo chị và khóc rầm rĩ:
- Chị phải ở nhà với em! Em không cho chị sang nhà cụ nghị. (...).
[81, tr. 93]
d. Bỗng vợ đĩ Dự hớt hơ hớt hải chạy đến bảo:
- Chị về nhà mà xem anh ấy làm sao kia kìa! [80, tr. 23]
Các tiếp ngôn trong bốn ví dụ vừa dẫn: bu, u, chị đều là những nhân vật có vị thế
xã hội cao hơn vị thế xã hội của chủ ngôn, đồng thời đều có quan hệ thân tộc với chủ
ngôn. Đó là các nhân vật có mối quan hệ mẹ - con (ví dụ 8a,b) hay mối quan hệ chị -
em (ví dụ 8c,d) với chủ ngôn.
- Tiếp ngôn có quan hệ thân tộc và có vị thế bình đẳng so với chủ ngôn
Loại tiếp ngôn có quan hệ thân tộc và ở vị thế xã hội bình đẳng với chủ ngôn thể
hiện trong các hành động điều khiển đã thống kê có 163 trường hợp, chiếm tỉ lệ xấp xỉ
10,12 % (163/1610).
Các tiếp ngôn loại này thường là các nhân vật có mối quan hệ vợ - chồng với nhân
vật chủ ngôn.
Xin dẫn một số ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ 8: a. (...). Tới cổng, anh chàng khốn nạn quay lại dặn vợ:
- U nó để cái Tỉu ở nhà sang ngay bên cụ nghị Quế cho tôi... [81, tr. 39]
b. (...). Anh cũng đành cười gượng mà nịnh nọt cho xong chuyện:
- Bu mày chịu khó đi đong chịu vậy? [81, tr.129]
c. Khi bà nghị đi khỏi, chị Pha vừa thở vừa nói:
- Thầy nó chầm chậm cho tôi theo với. Không hát để quên mệt, thì hai tay mỏi
[80, tr.137] rời.
83
Các tiếp ngôn: u nó, bu mày, thầy nó trong các ví dụ vừa dẫn đều là các nhân vật vợ
hoặc chồng của chủ ngôn. Tiếp ngôn (Sp1) và chủ ngôn (Sp2) có quan hệ bình đẳng.
- Tiếp ngôn có quan hệ thân tộc và có vị thế thấp so với chủ ngôn
Theo thống kê của chúng tôi, các tiếp ngôn có vị thế thấp và có quan hệ thân tộc
với chủ ngôn thường là các nhân vật con, em hay cháu của nhân vật chủ ngôn.
Kiểu tiếp ngôn có vị thế thấp hơn so với chủ ngôn của các hành động lớp điều
khiển đã thống kê có 134 trường hợp, chiếm xấp xỉ 8,32% (134/1610).
Xin dẫn một số ví dụ về kiểu tiếp ngôn có vị thế thấp hơn chủ ngôn.
Ví dụ 9:
a. Chị Dậu lã chã hai hàng nước mắt:
- U van con, u lạy con, con có thương thày thương u thì con đi với u, đừng khóc
lóc nữa. (...). [81, tr.93]
b. Chị Pha giật mình hỏi:
- Nhà tôi làm sao hở mợ?
c. Vợ gật đầu bảo thằng cu:
- Con ngồi đây với thầy cho bu đi đong gạo nhé? [79, tr.20].
d. Bà kéo cái nồi vào lòng, nhìn, và bảo con bé cháu:
- Còn mấy hột để nó khô đi mất. Tao vét cho mày ăn nốt đi kẻo hoài, đĩ nhé.
[79, tr. 234]
Tất cả các nhân vật tiếp ngôn in nghiêng dẫn trên (con, mợ, mày) đều có vị thế
thấp so với chủ ngôn. Họ là con (ví dụ 9a,c), là em dâu (ví dụ 9b) hay là cháu của chủ
ngôn (ví dụ 9d).
Có thể hình dung số lượng và tỉ lệ phần trăm của tiếp ngôn có quan hệ thân tộc
và cùng giai cấp với các nhân vật chủ ngôn bằng bảng tổng kết 3.3 dưới đây:
Bảng 3.3: Tiếp ngôn có quan hệ thân tộc và cùng giai cấp với chủ ngôn
(tỉ lệ % tính theo số hành động điều khiển đã thống kê: 1610)
84
Sp2 có vị thế xã hội cao hơn Sp1 Sp2 có vị thế xã hội bình đẳng Sp1 Sp2 có vị thế xã hội thấp hơn Sp1
Tiếp ngôn Tác phẩm Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
Tắt đèn Tỉ lệ % 1,80 Số lượng 47 2,91 54 3,35 29
Bước đường cùng 3,91 29 1,80 38 2,36 63
TP của Nam cao 4,40 58 3,60 54 3,35 71
Tổng kết 58 8,32 146 9,06 163 10,12
c) Tổng kết về các kiểu tiếp ngôn của hành động điều khiển có cùng giai cấp với
chủ ngôn đã thống kê.
Có thể hình dung số lượng và tỉ lệ phần trăm của các kiểu tiếp ngôn cùng giai
cấp với chủ ngôn trong các hành động điều khiển đã thống kê bằng bảng tổng kết
3.4.
Bảng 3.4. Bảng tổng kết các kiểu tiếp ngôn (Sp2) cùng giai cấp với chủ ngôn (Sp1)
(Tỉ lệ phần trăm tính theo tổng số hành động điều khiển đã thống kê: 1610)
Số lượng/ tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Tác phẩm/ kiểu loại tiếp ngôn
Sp2 có vị thế cao hơn Sp1 66 4,09
Tắt đèn Sp2 có vị thế bình đẳng Sp1 38 2,36
65 4.03 Sp2 có vị thế thấp hơn Sp1
57 3,54 Sp2 có vị thế cao hơn Sp1
97 6.02 Bước đường cùng Sp2 có vị thế bình đẳng Sp1
69 4,28 Sp2 có vị thế thấp hơn Sp1
68 4.22 Sp2 có vị thế cao hơn Sp1 Một số tác phẩm của 100 6,21 Sp2 có vị thế bình đẳng Sp1 Nam Cao 83 5,15 Sp2 có vị thế thấp hơn Sp1
643 39,93 Tổng kết
85
3.1.1.3. Tổng kết các kiểu tiếp ngôn của hành động điều khiển trong các tác phẩm đã
thống kê theo tiêu chí thành phần giai cấp và vị thế xã hội
a) Bảng tổng kết các kiểu tiếp ngôn của hành động ở lời thuộc lớp cầu khiến, xét
theo tiêu chí thành phần giai cấp và vị thế xã hội
Về các kiểu tiếp ngôn được phân loại theo thành phần giai cấp và vị thế xã hội so
với chủ ngôn, xin xem bảng tổng kết 3.5 và 3.6 dưới đây:
Bảng 3.5. Bảng tổng kết các kiểu tiếp ngôn xét theo thành phần giai cấp
(Tỉ lệ % tính theo số hành động điều khiển đã thống kê: 1610)
Các tiểu loại Sp2
Tác phẩm Số lượng
Tắt đèn Sp2 cùng giai cấp với Sp1 Tỉ Số lệ % lượng 10,49 169 Sp2 không cùng giai cấp với Sp1 Tỉ lệ % 25,15 405 TK theo tác phẩm Tỉ Số lệ % lượng 35,65 574
Bước đường cùng 223 13,85 29,06 468 691 42,91
Tác phẩm Nam Cao 251 15,59 5,83 94 345 21,42
TK theo giai cấp 643 39,93 60,06 1610 99,99 967
Bảng 3.6. Bảng tổng kết các kiểu tiếp ngôn xét theo vị thế xã hội
(Tỉ lệ % tính theo số hành động điều khiển đã thống kê:1610)
Tiểu loại Sp2 Sp2 có vị thế xã hội cao hơn Sp1 Sp2 có vị thế xã hội bình đẳng Sp1 Sp2 có vị thế xã hội thấp hơn Sp1
Tỉ lệ % Tỉ lệ % Tỉ lệ %
Tác phẩm Tắt đèn Số lượng 471 29,26 Số lượng 65 4,03 2,36 Số lượng 38
Bước đường cùng 525 32,60 69 4,29 6,02 97
Tp Nam Cao 162 10,06 83 5,15 6,21 100
235 Tổng kết 1158 71,92 14,59 217 13,47
b) Kết luận
Nhìn vào bảng tổng kết 3.5 và 3.6 có thể kết luận về các kiểu tiếp ngôn của hành
86
động điều khiển mà chủ ngôn là nhân vật nông dân, xét từ phương diện thành phần giai
cấp và vị thế xã hội như sau:
- Số lượng tiếp ngôn là các nhân vật không cùng giai cấp với chủ ngôn (ở đây là
nhân vật nông dân) chiếm số lượng nhiều hơn số tiếp ngôn là các nhân vật cùng thuộc
giai cấp với chủ ngôn. Tiếp ngôn thuộc giai cấp thống trị xuất hiện 967 lượt, chiếm xấp
xỉ 60,05% như đã nói, còn tiếp ngôn là nhân vật thuộc giai cấp bị trị xuất hiện 643 lượt,
chiếm xấp xỉ 39,93%.
Kết quả điều tra và phân loại này cho thấy, hành động điều khiển được các nhân
vật nông dân nói ra phụ thuộc vào đối tượng tiếp nhận là ai, nội dung cuộc thoại là gì.
Trong các tác phẩm văn xuôi đã chọn làm đối tượng khảo sát, các cuộc hội thoại phần
lớn là giữa nhân vật nông dân với bọn quan lại, địa chủ cùng với tay sai và người nhà
của chúng. Còn cuộc hội thoại giữa nhân vật nông dân với những người cùng giai cấp
không nhiều lắm. Điều đó lí giải vì sao có sự chênh lệch số lượng tiếp ngôn của các
hành động điều khiển đã thống kê theo tiêu chí này.
- Số lượng tiếp ngôn có vị thế xã hội cao hơn chủ ngôn chiếm số lượng cao nhất
(1158 trường hợp), rồi đến kiểu tiếp ngôn có vị thế xã hội bình đẳng với chủ ngôn
(235 trường hợp) và cuối cùng là kiếu tiếp ngôn có vị thế xã hội thấp hơn chủ ngôn
(217 trường hợp).
Như vậy, số liệu về tiếp ngôn xét trong mối quan hệ vị thế xã hội với chủ ngôn
cho thấy các nhân vật nông dân đã tham gia giao tiếp với nhân vật có vị thế xã hội
cao hơn mình không phải là ít, và việc sử dụng hành động điều khiển không phụ thuộc
vào vị thế xã hội của người nghemà phụ thuộc vào tính chất, nội dung của cuộc thoại
như đã nói ở trên.
3.1.2. Tiếp ngôn với các hành động ở lời lớp điều khiển
3.1.2.1. Các kiểu tiếp ngôn xét theo vị thế xã hội với các hành động ở lời
a) Nhận xét chung
- Như đã nói ở chương 2, lớp hành động điều khiển mà chúng tôi thống kê trong
các tác phẩm văn xuôi đã chọn, có 20 hành động ngôn trung (hành động ở lời) được
87
nhân vật nông dân nói ra với các nhân vật thuộc các vị thế xã hội khác nhau. Các nhân
vật đóng vai trò tiếp ngôn của các hành động điều khiển này có thể ở vị thế xã hội cao
hơn, cũng có khi ở vị thế thấp hơn hay bình đẳng với chủ ngôn.
- Các hành động ở lời cụ thể thuộc lớp hành động điều khiển dành cho các đối
tượng tiếp ngôn thuộc từng nhóm vị thế xã hội có không đồng nhất. Chẳng hạn, hành
động nài được nhân vật nông dân chủ yếu nói với người có vị thế xã hội cao hơn mình.
Ngược lại, hành động sai lại chỉ thấy nhân vật nông dân dùng với người nghe có vị thế
xã hội thấp hơn mình.
- Các hành động ở lời thuộc lớp điều khiển dành cho các đối tượng tiếp ngôn không
có qui luật chung. Chẳng hạn, cùng là hành động hỏi nhưng nhân vật nông dân lại dành
cho tiếp ngôn ở vị thế xã hội cao nhiều hơn so với tiếp ngôn ở vị thế xã hội thấp. Song
đi vào chi tiết từng tác phẩm thì con số này không giống nhau. Lại có những hành động
lớp điều khiển được nhân vật nông dân nói cho đối tượng ở vị thế thấp mà không nói với
tiếp ngôn ở vị thế xã hội cao. Chẳng hạn, hành động dỗ (dành) nhân vật nông dân, chủ
ngôn của hành động lớp điều khiển chỉ dành cho nhân vật ở vị thế thấp.
Chi tiết các kiểu tiếp ngôn và các hành động ở lời, xin xem bảng tổng kết 3.7 ở
mục 3.2.2.1.b dưới đây.
b) Bảng tổng kết về các kiểu tiếp ngôn của hành động điều khiển xét từ phương
diện vị thế xã hội với hành động ở lời
Bảng 3.7. Bảng tổng kết về các kiểu tiếp ngôn của hành động điều khiển xét từ
phương diện vị thế xã hội với hành động ở lời
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3
Tổng số
Tiếp ngôn HĐ ở lời Hỏi Yêu cầu Khuyên Xin Nài Van lạy Chất vấn Nhờ Giục Số lượng 213 202 126 113 131 117 74 76 37 Tỉ lệ % 13,22 12,55 7,82 7,01 8,13 7,26 4,59 4,72 2,29 Số lượng 29 14 27 26 8 15 19 13 10 Tỉ lệ % 1,80 0,87 1,68 1,61 0,50 0,93 1,18 0,81 0,62 Số lượng 40 17 75 9 6 7 8 6 12 Tỉ lệ % 2,48 1,06 4,66 0,56 0,37 0,43 0,5 0,37 0,75 282 234 228 148 145 139 101 95 59
88
Dặn Can (ngăn) Cản Dỗ Mời Sai Xui Đuổi Thách Rủ Đe doạ
Tổng kết 37 34 26 26 24 10 7 6 4 3 2 1610 10 18 14 - 20 - - 2 1 - - 1158 0,62 1,12 0,87 - 1,24 - - 0,12 0,06 - - 71,92 17 9 7 12 4 - 3 - 3 - 1 217 1,06 0,56 0,43 0,75 0,25 - 0,18 - 0,18 - 0,06 13,47 10 7 5 14 - 10 4 4 - 10 1 235 0,62 0,43 0,31 0,87 - 0,62 0,25 0,25 - 0,62 0,06 14,60
Chú thích:
- Nhóm 1 là nhóm tiếp ngôn (Sp2) có vị thế cao hơn vị thế của chủ ngôn (Sp1).
- Nhóm 2 là nhóm tiếp ngôn (Sp2) có vị thế bình đẳng vị thế của chủ ngôn (Sp1).
- Nhóm 3 là nhóm tiếp ngôn (Sp2) có vị thế thấp hơn vị thế của chủ ngôn (Sp1).
c) Một số ví dụ minh họa về các kiểu tiếp ngôn đã phân loại trong bảng tổng
kết 3.7
Xin nói ngay rằng, chúng tôi chỉ dẫn một số ví dụ về các kiểu tiếp ngôn nêu trong
bảng tổng kết, bởi dung lượng của luận văn cũng như các ví dụ đã dẫn ở chương 2 và
mục 3.2.1 đã phần nào chứng minh cho các kiểu tiếp ngôn này. Ở đây chúng tôi chỉ
dẫn thêm một số ví dụ và có phân tích để khẳng định thêm điều đã trình bày trong bảng
tổng kết.
- Ví dụ về tiếp ngôn là các nhân vật có vị thế cao hơn chủ ngôn với các hành
động ở lời
Ví dụ 10:
a. Chị Dậu càng run:
- Con lạy quan lớn, chúng con là gái có chồng, quan lớn tha cho...
[81, tr.195]
b. Pha rót rượu và mời
- Nhà cháu chẳng có gì, mời cậu xơi tạm chén rượu.
89
[80, tr.48]
c. Hắn lắc đầu:
- Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết
mảnh chai trên mặt này? [79, tr. 61]
d. Pha nắm tay, tiến lại gần:
- Ruộng nhà tôi, các anh không được phép... [80, tr 181]
e. Cái Tý ôm chầm lấy mẹ và khóc như mưa như gió:
- U đừng về vội! U hãy ngồi đây với con lúc nữa. [81, tr. 109]
f. Chị Dậu nghiến hai hàm răng:
- Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem! [81, tr 148]
Các hành động điều khiển vừa dẫn: xin (ví dụ 10a), mời (ví dụ 10b), chất vấn (ví
dụ 10c), cấm (ví dụ 10d), yêu cầu (ví dụ 10e), thách (ví dụ 10f) đều có tiếp ngôn ở vị
thế xã hội cao hơn vị thế xã hội của chủ ngôn. Hơn nữa, các tiếp ngôn này có thể là
những nhân vật không cùng giai cấp với chủ ngôn (các ví dụ 10 a,b,d,f) và cũng có thể
là những nhân vật có cùng giai cấp với chủ ngôn (ví dụ 10c, 10e). Riêng trong ví dụ
10c, loạt hành động chất vấn là của nhân vật Chí Phèo (chủ ngôn) nói với nhân vật Bá
kiến (tiếp ngôn). Tiếp ngôn không được tường mình bằng câu chữ. Nhờ ngữ cảnh chúng
ta có thể khôi phục được tiếp ngôn trong ví dụ này.
- Ví dụ về tiếp ngôn là các nhân vật có vị thế bình đẳng chủ ngôn với các hành
động ở lời
Ví dụ 11:
a. Anh Dậu sợ quá muốn dậy can vợ, (...), vừa run vừa kêu:
- U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta thì
phải tù, phải tội. [81, tr 149]
b. San hỏi:
- Ngộ chốc nữa lão ta ra, thì anh em nói thế nào? [80, tr 178]
90
c. Chị cu vừa nhảy choi choi, vừa vỗ tay đen đét (...). Rồi tiếng người đàn bà gào
to hơn:
- Mày cứ đánh chết bà đi! Mày đánh chết bà xem nào! Mày không đánh chết được
bà thì... [79, tr. 83]
Các hành động điều khiển: can (ví dụ 11a), hỏi (ví dụ 11b) và thách (ví dụ 11c)
vừa dẫn đều có tiếp ngôn là những nhân vật có vị thế xã hội bình đẳng với chủ ngôn.
Các tiếp ngôn này cũng đều là những nhân vật cùng giai cấp với chủ ngôn. Họ cũng có
thể có quan hệ thân tộc (ví dụ 11a,c) hoặc không có quan hệ thân tộc (ví dụ 11b). Chủ
ngôn của hành động can trong ví dụ 11a là nhân vật anh Dậu, tiếp ngôn là nhân vật vợ
anh, chị Dậu (u nó); chủ ngôn của hành động hỏi trong ví dụ 11b là nhân vật San, tiếp
ngôn là nhân vật anh Pha và nhân vật Dự (anh em). Cuối cùng chủ ngôn của hành động
thách là nhân vật chị Cu, tiếp ngôn là nhân vật anh Cu (mày).
- Ví dụ về tiếp ngôn là các nhân vật có vị thấp hơn chủ ngôn với các hành động
ở lời
Ví dụ 12:
a. (...). Chị bảo nó:
- Còn nóng lắm, chưa ăn được. Con ra vườn gọi chị về cho chị ăn với không thì
phải tội chết, nó làm quần quật từ sáng đến giờ mà chưa được tí gì vào bụng. [Nghèo
82, tr.19].
b. (...). Nó vẫn ủn ỉn bắt mẹ đi gọi cái Tý.
- Con hãy nín đi, cho em nó ngủ, để u ẵm con đi chơi. [81, tr 123]
Hành động sai (ví dụ 12a) và hành động dỗ (ví dụ 12b) đều là hành động của bà
mẹ (Chị đĩ Chuột, chi Dậu - chủ ngôn) dành cho con. Tiếp ngôn là các nhân vật có vị
thế thấp hơn vị thế của chủ ngôn và có quan hệ huyết thống với chủ ngôn (quan hệ
mẹ - con).
Hành động hỏi và ngăncản trong ví dụ 13 dưới đây tiếp ngôn cũng ở vị thế thấp
hơn chủ ngôn, song giữa chủ ngôn và tiếp ngôn không có quan hệ huyết thống:
Ví dụ 13: Bà trùm, cơ chừng vì thông minh hoặc lịch duyệt, đoán ngay ra chủ
91
nhân định làm gì, vội vàng gạt:
- Đi đâu? Này, đừng làm cơm nước gì đấy, chúng tôi ăn cả rồi.
[80, tr.16]
Chủ ngôn trong ví dụ vừa dẫn là bà trùm, còn tiếp ngôn là nhân vật Pha đã bị bà
trùm tỉnh lược trong phát ngôn. Hai nhân vật chủ ngôn và tiếp ngôn này chỉ có quan hệ
láng giềng thân thiết chứ không phải là những người có quan hệ thân tộc. Tiếp ngôn,
nhân vật anh Pha có vị thế thấp hơn vị thế của bà trùm. Chúng ta xác định đây là mối
quan hệ trên dưới là nhờ ngữ cảnh của cuộc thoại, bằng những từ xưng hô của anh Pha
với bà trùm.
Tóm lại, tiếp ngôn của các hành động ở lời thuộc nhóm điều khiển khá phong phú,
đa dạng. Xét về thành phần giai cấp, các nhân vật này có thể là những người cùng hoặc
không cùng giai cấp với chủ ngôn. Xét về mối quan hệ gia đình, các tiếp ngôn có thể
có quan hệ thân tộc hoặc không có quan hệ thân tộc với chủ ngôn. Xét về vị thế xã hội,
họ cũng có thể có vị thế xã hội cao hơn, bình đẳng hay thấp hơn chủ ngôn. Tất cả các
kiểu tiếp ngôn như vừa nói đều phần lớn đều có thể là đối tượng tiếp nhận các hành
động ở lời điều khiển, chỉ có một số ít hành động không được dùng cho một số vài kiểu
đối tượng tiếp ngôn, như hành động sai, doạ không thấy được dùng cho tiếp ngôn có
vị thế xã hội cao. Hay có một số hành động lớp điều khiển không thấy nhân vật nông
dân dùng cho tiếp ngôn ở vị thế thấp như mời, xui…
3.1.2.2. Tiếp ngôn với các hành động ở lời lớp điều khiển mang ý nghĩa cầu hay khiến
a) Nhận xét chung
Cần phải nói ngay rằng, việc xác định ý nghĩa cầu hay ý nghĩa khiến của một
hành động ngôn trung lớp điều khiển là một việc khó và chỉ có tính chất tương đối.
Nhưng có một điều hiển nhiên mà ai cũng có thể nhận thấy là có những hành động điều
khiển thiên về ý nghĩa cầu, như hành động van, xin, cầu, chúc; lại có những hành động
ngôn trung thiên về ý nghĩa khiến, như hành động sai, ra lệnh, cấm, v.v... Dựa vào cách
phân loại hành động điều khiển theo ý nghĩa cầu hay khiến của tác giả Đào Thanh Lan
[43, tr.77], chúng tôi cũng phân 20 hành động ở lời lớp điều khiển đã thống kê thành
92
ba nhóm:
- Nhóm hành động điều khiển mang ý nghĩa cầu cao: Nhóm này gồm các hành
động ngôn trung như: xin, nài,van lạy,nhờ, mời, xui, gợi ý.
- Nhóm hành động điều khiển mang ý nghĩa khiến cao: Nhóm này gồm các hành
động ngôn trung như: yêu cầu, chất vấn, giục, dặn, cản, sai, đuổi, thách…
- Nhóm hành động điều khiển mang ý nghĩa cầu và ý nghĩa khiến ngang nhau:
Đây là nhóm hành động ngôn trung vừa mang ý nghĩa cầu, vừa mang ý nghĩa khiến và
lực của hai ý nghĩa này không có ý nghĩa nào cao hơn ý nghĩa nào. Nhóm này gồm các
hành động ngôn trung như: hỏi, khuyên, can ngăn, dỗ.
b) Bảng tổng kết về tiếp ngôn với các hành động điều khiển mang ý nghĩa cầu
hay khiến
Dưới đây là bảng tổng kết các kiểu tiếp ngôn xét theo vị thế xã hội với các hành
động ở lời lớp điều khiển mang ý nghĩa cầu hay khiến mà chúng tôi đã thống kê được
từ các tác phẩm đã chọn. Xin xem bảng tổng kết 3.8 và bảng tổng kết 3.9:
Bảng 3.8. Bảng tổng kết các kiểu tiếp ngôn và các hành động ngôn trung
mang ý nghĩa cầu hay khiến (theo số hành động điều khiển đã thống kê: 1610)
Các kiểu HĐNT Ýnghĩa cầu Ý nghĩa khiến Ý nghĩa cầu&khiến
Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
Các kiểu TN Sp2 có vị thế XH cao hơn Sp1 460 28,57 341 21,18 357 22,17 (1158)
Sp2 có vị thế XH bình đẳng Sp1 69 4,29 71 4,40 77 4,78 (217)
Sp2 có vị thế XH thấp hơn Sp1 32 1,99 67 4,16 136 8,44 (235)
Tổng kết 561 34,84 479 29,75 570 35,40
Bảng 3.9. Bảng tổng kết các kiểu tiếp ngôn và các hành động ngôn trung
mang ý nghĩa cầu hay khiến (tỉ lệ % theo số hành động điều khiển của từng tiêu chí)
93
Ýnghĩa cầu Ý nghĩa khiến Ý nghĩa cầu &khiến
Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
Các kiểu HĐNT Các kiểu TN Sp2 có vị thế XH cao hơn 460 39,72 341 29,44 357 30,82 Sp1 (1158)
Sp2 có vị thế XH bình đẳng 69 31,79 71 32,71 77 35,48 Sp1 (217)
Sp2 có vị thế XH thấp hơn 32 13,61 67 28,51 136 57,87 Sp1 (235)
Tổng kết 561 34,84 479 29,75 570 35,40
Tư liệu thống kê của chúng tôi cho thấy, tùy từng đối tượng tiếp ngôn có vị thế
xã hội cao hay thấp, tùy tính chất và nội dung cuộc thoại mà nhân vật nông dân trong
các tác phẩm đã dẫn sử dụng hành động điều khiển nào cho phù hợp. Nhìn vào bảng
tổng kết 3.8 dễ dàng nhận thấy việc sử dụng hành động ở lời lớp điều khiển mang ý
nghĩa cầu hay khiến của nhân vật nông dân dành cho các kiểu tiếp ngôn xét theo vị thế
xã hội không giống nhau.
Sự khác nhau này xin được trình bày bằng mô hình (thể hiện ba nhóm tiếp ngôn)
57.87
50
45
39.72
40
35.48
32.71
31.79
30.82
35
Cầu
29.44
28.51
30
Khiến
25
Cầu & Khiến
20
13.61
15
10
5
0
SP2 có vị thế XH cao hơn SP1 (1158)
SP2 có vị thế XH thấp hơn SP1 (235)
SP2 có vị thế XH bình đẳng SP1 (217)
như sau:
94
3.2. Các hành động ở lời thuộc lớp điều khiển trong các tác phẩm đã khảo sát với
vấn đề lịch sự trong hội thoại
3.2.1. Dẫn nhập
- Như đã nói ở chương 2, hành động ngôn từ có thể được thực hiện bằng phương
thức trực tiếp hoặc phương thức gián tiếp. Theo lí thuyết hành động ngôn từ, một hành
động ngôn từ được coi là thể hiện bằng phương thức trực tiếp nếu hành động ngôn
trung của nó được người nói tường minh trong phát ngôn của mình để người nghe có
thể nhận biết nó một cách trực tiếp; còn ngược lại, một hành động ngôn từ được coi là
gián tiếp khi hành động ngôn trung của nó được người nghe nhận thức sau quá trình
suy luận. Hành động điều khiển cũng như nhiều nhóm hành động ngôn ngữ khác, đều
có thể dùng phương thức gián tiếp để thể hiện. Điều này chúng tôi đã chứng minh ở
chương 2.
- Nhìn từ góc độ lịch sự, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng hành động ngôn từ gián
tiếp bao giờ cũng hàm ý lịch sự. Theo tác giả P. Brown và S.Levinson, “tính phổ niệm
của các hành động ngôn từ gián tiếp bắt nguồn từ chức năng cơ bản mà chúng phục vụ
trong quan hệ với các chiến lược phổ niệm của lịch sự”. [dẫn theo 16, tr.36]. Từ quan
niệm này, các tác giả đã đưa ra một hệ thống chiến lược lịch sự dựa trên qui tắc đồng
biến giữa lịch sự và gián tiếp. Nói cụ thể hơn, các tác giả này cho rằng, mức độ lịch sự
tỉ lệ nghịch với mức độ gián tiếp. Tức mức độ gián tiếp càng tăng thì tính lịch sự càng
cao và ngược lại.
Tuy nhiên, với nhiều ngôn ngữ, đặc biệt không phải ngôn ngữ Tây Âu thì mối
tương quan này thay đổi theo từng nền văn hóa. Cứ liệu khảo sát của nhiều nhà nghiên
cứu và của chúng tôi cho thấy, không phải lúc nào gián tiếp cũng lịch sự hơn trực
tiếp.
- Các hành động ở lời lớp điều khiển được các nhân vật nông dân nói ra trong các
tác phẩm mà chúng tôi thống kê không phải trường hợp nào cũng mang tính lịch sự,
nhưng phải thấy rằng số hành động thiếu tính lịch sự đó không nhiều.
95
- Tính lịch sự của các hành động ngôn trung, trong đó có các hành động lớp điều
khiển phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Mục 3.3.2 dưới đây chúng tôi phân tích những
phương thức thể hiện tính lịch sự mà các chủ ngôn nông dân trong các tác phẩm dẫn
trên đã sử dụng khi nói ra các hành động điều khiển.
- Cần phải nói ngay rằng, xác định tính lịch sự hay không lịch sự, lịch sự ở mức
độ nào trong một hành động ngôn ngữ là một vấn đề khó khăn và hết sức phức tạp, chỉ
có tính chất tương đối. Ví dụ, so sánh hai cách diễn đạt hành động điều khiển có cùng
đích ngôn trung trong ví dụ 14a và 14b dưới đây, mỗi cá nhân chúng ta đều cảm nhận
được mức độ lịch sự của chúng có phần khác nhau:
Ví dụ 14:
a. Pha ngạc nhiên:
- Bẩm phạt gì, tạ ai ạ?
b. Pha ngạc nhiên:
- Phạt gì, tạ ai?
Hành động hỏi trong ví dụ 14a chắc hẳn chúng ta đều cảm nhận nó có mức độ
lịch sự cao hơn hành động hỏi trong ví dụ 14b, dù nội dung hỏi cũng như chủ ngôn và
tiếp ngôn giống nhau.
Tư liệu của chúng tôi cho thấy, trong số các hành động ngôn trung thuộc lớp điều
khiển của nhân vật nông dân trong các tác phẩm đã chọn, có hành động ngôn trung thể
hiện rõ tính lịch sự như ở ví dụ 14a, song cũng có hành động ngôn trung thể hiện tính
lịch sự thấp (như ví dụ 14b), hoặc không có tính lịch sự như ở ví dụ 15 sau đây:
Ví dụ 15:
a. Chị Dậu nghiến hai hàm răng:
- Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem! [81, tr. 148]
b. Anh cu biết ngay là vợ dỗi. Anh cười gằn hỏi:
- Nào, có đứa nào ăn không nào? [79, tr. 82]
Hành động thách của nhân vật chị Dậu nói với nhân vật cai lệ và người nhà lý
96
trưởng (ví dụ 15a) và hành động hỏi trong ví dụ 15 b của anh cu trong lúc bực tức dành
cho vợ và người ở đều thiếu tính lịch sự. Chúng ta xác định được các hành động này
thiếu tính lịch sự trước hết là cách dùng từ xưng hô xuồng xã, không đúng vị thế của
người nói và người nghe (mày - bà, đứa).
- Hầu hết các hành động ở lời thuộc lớp điều khiển mà chúng tôi đã thống kê đều
thể hiện tính lịch sự. Chỉ có điều, mức độ lịch sự có thể ở mức độ nào: lịch sự ở mức
độ cao, ở mức độ vừa hay mức độ thấp. Xin nói thêm, chúng ta khó xác định thể nào
là lịch sự ở mức độ cao, thế nào là lịch sự ở mức độ vừa một các rạch ròi, vì thế luận
văn này không chia loại các hành động điều khiển thành các loại theo tiêu chí mức độ
lịch sự.
3.2.2. Các phương thức thể hiện tính lịch sự trong các hành động lớp điều khiển đã
thống kê
Thực tế cho thấy, các phương tiện ngôn ngữ không chỉ thực hiện chức năng ngữ
pháp, ngữ nghĩa mà còn thực hiện cả chức năng ngữ dụng, thể hiện qua khả năng làm tăng
giảm mức độ lịch sự trong các phát ngôn. Đối với các hành động lớp điều khiển có xu
hướng tiềm tàng tính cưỡng bức, đe dọa thể diện cho người nghe (áp đặt người nghe phải
thực hiện hành động nào đó, đe dọa quyền tự do hành động, làm người nghe mất công
sức,...) như các hành động: đề nghị, ra lệnh, yêu cầu,... thì việc sử dụng phương thức nào
đó để giảm thiểu tính cưỡng bức, tăng tính lịch sự là một vấn đề quan trọng.
Xin nói thêm, có một số nhân tố cơ bản chi phối việc sử dụng các phương tiện thể
hiện tính lịch sự trong lời cầu khiến của nhân vật nông dân, là:
+ Nhân tố thứ nhất chi phối việc sử dụng các phương tiện thể hiện tính lịch sự
trong phát ngôn cầu khiến của nhân vật nông dân được luận văn nghiên cứu đó là vấn
đề quan hệ vị thế của người nói và người nghe.
Các phát ngôn cầu khiến được nghiên cứu trong luận văn là hành động cầu khiến
của nhân vật nông dân. Xét trong mối quan hệ với người nghe, nhân vật nông dân ở
đây có thể đưa ra lời cầu khiến với người có vị thế xã hội cao hơn mình (nhân vật quan
lại, địa chủ, nhân vật cao tuổi), vì vậy, người nói cần phải chọn các phương tiện thể
97
hiện tính lịch sự trong các phát ngôn nói chung, trong phát ngôn cầu khiến nói riêng để
đảm bảo tính lịch sự trong giao tiếp với người có vị thế cao hơn mình.
+ Nhân tố thứ hai chi phối việc sử dụng các phương tiện thể hiện tính lịch sự trong
phát ngôn cầu khiến, đó là người nói muốn và thấy cần phải làm giảm thiểu mức độ đe
dọa thể diện của người nghe khi sử dụng hành động cầu khiến, một kiểu hành động
ngôn ngữ vốn có tiềm năng đe dọa thể diện của người nghe.
+ Nhân tố thứ tư chi phối việc sử dụng các phương tiện lịch sự thể hiện trong phát
ngôn cầu khiến của người nông dân đã khảo sát là bởi người nói (nhân vật nông dân)
vốn đã mang trong mình những nét văn hóa của người Việt: luôn muốn tỏ ra là người
có văn hóa, lịch sự trong giao tiếp xã hội.
Sau đây là một số phương tiện ngôn ngữ và cách thức thường được người nông
dân trong các tác phẩm đã nói sử dụng để điều chỉnh tính lịch sự trong các hành động
điều khiển.
3.2.2.1. Sử dụng một số phương tiện thể hiện tính lịch sự qui ước
Những phương tiện thể hiện lịch sự trong các hành động điều khiển thường là
những quán ngữ, là một số động từ hay từ bổ trợ cho động từ cầu khiến, chẳng hạn:
trăm sự nhờ, đội ơn, làm ơn, nhờ, lạy, giùm, giúp, nhón tay,...
Có thể nói, các phương tiện thể hiện tính lịch sự qui ước cao này được sử dụng
khá nhiều trong các hành động ngôn trung lớp điều khiển mà chúng tôi đã thống kê
được. Xin dẫn một số ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ 16:
a. Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con bé xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn:
- Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh dậy, ông tha cho! [81, tr 148]
b. Ông nghị ra dáng giận dữ lắm, còng lưng, nhăn mặt mà phàn nàn:
- Khổ lắm, ai đòi mà mày nộp?
- Lạy quan, quan nhận cho, con sợ để lâu không tiện. [80, tr. 91]
c. - Ông trương ơi, ông làm ơn mở cổng cho tôi đánh trâu ra đồng. (...). Thôi,ông
làm phúc, làm đức... [81, tr.7]
98
d. Rón rén, chị Dậu đứng nép vào cửa và ngập ngừng:
- Thưa lạy hai cụ, nhà con túng quá, xin hai cụ cứu giúp chúng con. [81, tr.49]
e. ... chị Dậu lại dẽ dàng kêu van ông cai:
- Nhà tôi đương ốm... Xinông làm phúc nới nút thừng ra cho! [81, tr. 38]
f. Pha như người bị đẩy ngã không víu vào đâu được. Anh gãi tai, nói:
- (...). Thôi thì trăm sự nhờ quan cho con khất vậy, để xong gặt con bán thóc đi
[80, tr. 171] nộp quan.
g. Dịu dàng chị Pha đáp:
- Cậu làm phúc bảo giùm cháu, cháu đội ơn.
Tất cả những từ ngữ in nghiêng trong các ví dụ vừa dẫn đều là những phương tiện
làm tăng tính lịch sự cho hành động ở lời chứa chúng.
3.2.2.2. Sử dụng hệ thống từ xưng hô biểu thị thái độ lịch sự
Tiếng Việt có một hệ thống từ xưng hô khá phong phú. Để xưng hô, người Việt
có thể dùng tên riêng, dùng đại từ xưng hô, dùng các từ chỉ quan hệ thân tộc, các từ chỉ
chức vụ hay từ chỉ nghề nghiệp,... Trong số các đại từ xưng hô của tiếng Việt, có một
số từ mang sắc thái không lịch sự, như mày, tao. Tránh dùng những từ xưng hô này,
hành động điều khiển sẽ giảm thiểu sự đe dọa thể diện của người nghe, theo đó sẽ làm
tăng tính lịch sự cho hành động điều khiển.
Theo điều tra của chúng tôi, những hành động ở lời lớp điều khiển rất ít dùng
những từ xưng hô thể hiện tính thiếu lịch sự như vừa dẫn mà hầu hết chỉ dùng những
từ góp phần thể hiện tính lịch sự, giảm thiểu sự tổn thất đến thể diện của người nghe.
Chẳng hạn như dùng các từ thể hiện người nói là bậc dưới về vị thế xã hội so với người
nghe để nâng vị thế của người nghe, dù tuổi tác chưa hẳn đã ít hơn người nghe. Tìm
cách nâng vị thế của người nghe lên vị thế trên mình là một trong những phương châm
tôn trọng thể diện của người nghe và làm tăng tính lịch sự cho hành động ngôn ngữ nói
chung, hành động điều khiển nói riêng. Dưới đây là một số ví dụ về việc dùng từ ngữ
xưng hô của nhân vật nông dân trong các hành động lớp điều khiển có tác dụng làm
tăng tính lịch sự cho hành động ngôn từ:
99
Ví dụ 17:
a. Chị Dậu năn nỉ:
- Cánh tay nhà em bị trói chặt quá, không thể cầm bút ký được. Ông làm phúc cởi
trói ra cho nhà em, thì em ơn ông vạn bội. [81, tr. 73]
b. Lễ phép, mẹ con chị Dậu cùng cúi đầu chào:
(...). Vả lại, đường cũng hơi xa, con đi khí chậm, xin cụ tha lỗi cho!
c. Chị Dậu vẫn chưa hết sợ:
- Cháu lạy ông, van lạy xin ông kêu quan để cho cháu sáng mai. [81, tr.191]
d. Bà lão láng giềng đối lời:
- (...). Xem ý nó cũng mến cháu, tôi muốn xin các bác cho nó nuôi giúp con Tỉu,
đến năm nó 12 tuổi thì lại trả bác. [81, tr.209]
e. Chị Dậu mếu máo:
- Thầy em làm sao thế? Có phải lên cơn sốt rét không? Hay là chỗ trói đau quá?
[81, tr. 68]
Các từ ngữ (in đậm) vừa dẫn trong ví dụ là những phương tiện ngôn ngữ được
nhân vật dùng trong hành động điều khiển của mình. Những từ ngữ xưng hô này rất
gần gũi với cách dùng từ ngữ xưng hô trong đời sống hàng ngày của quần chúng nhân
dân ta xưa và nay. Chúng vừa thể hiện được sự tôn trọng người nghe, vừa giảm được
mức độ áp đặt của hành động cầu khiến (điều khiển). Điều cần nói ở đây là, những từ
ngữ xưng hô này phần nhiều là những từ ngữ chỉ quan hệ thân tộc nhưng lại được dùng
trong giao tiếp của những người không có quan hệ thân tộc và ít tính đến tuổi tác (bà
lão láng giềng nhiều tuổi hơn vợ chồng anh Dậu nhưng vẫn gọi vợ chồng anh là “các
bác”. Đó là cách xưng hô thể hiện tính khiêm nhường của người nói và tôn vinh thể
diện của người nghe mà không phải ngôn ngữ nào cũng có kiểu xưng hô này.
3.2.2.3. Thêm các tiểu từ tình thái vào cuối phát ngôn
Trong giao tiếp bằng tiếng Việt, để thể hiện thái độ kính trọng người nghe, người
nói thường thêm tiểu từ tình thái vào cuối phát ngôn điều khiển nói riêng, phát ngôn
thể hiện những hành động khác nói chung.
100
Tư liệu điều tra của chúng tôi cho thấy, nhân vật nông dân đã sử dụng khá nhiều
hành động lớp điều khiển mà có thêm tiểu từ tình thái vào cuối phát ngôn. Xin dẫn một
số ví dụ tiêu biểu:
Ví dụ 18:
a. Hoảng quá, chị Dậu ngồi phịch xuống gạch, vừa vung cái nón khua đuổi những
con ác thú, vừa kêu:
- Anh bếp có nhà không? Làm phúc đánh chó cho tôi với! [81, tr. 45]
b. Mắt hắn đảo lên nhìn thị, nhìn một thoáng rồi lại đờ ra ngay.
- Đi vào nhà nhé! [79, tr. 53]
c. (Mụ Cửu Xung): - Bây giờ bác có muốn đi làm không?
(Chị Dậu): - Thưa bà, làm gì ạ?
Rõ ràng, với các tiểu từ tình thái (in đậm) thêm vào cuối câu, các hành động ở lời:
nhờ, yêu cầu, hỏi đã làm tăng tính lịch sự lên rất nhiều so với các hành động không
dùng tiểu từ tình thái tương ứng.
3.2.2.4. Sử dụng thành phần mở rộng
Biểu thức ngữ vi diễn đạt một hành động ngôn trung lớp điều khiển có thể trùng với
phát ngôn ngữ vi, có thể chỉ là một bộ phận của phát ngôn ngữ vi. Trong trường hợp biểu
thức ngữ vi không trùng phát ngôn ngữ vi, hành động điều khiển có thêm thành phần mở
rộng. Việc người nói sử dụng hành động điều khiển có thêm thành phần mở rộng này sẽ
làm cho hành động ở lời giảm sự áp đặt và tăng tính lịch sự. Thành phần mở rộng có thể
là yếu tố thưa gọi, bẩm báo, có thể là yếu tố cảm thán hay lời rào đón,...
a) Mở rộng yếu tố thưa bẩm
Những từ ngữ thưa gọi thường dùng trong phát ngôn thể hiện hành động điều
khiển thường là những từ như thưa, bẩm... Ví dụ:
Ví dụ 19:
a. Chị Pha sung sướng, Pha hỏi:
-Bẩm quan, tốn độ bao nhiêu? [80, tr.45]
b. Rón rén, chị Dậu đứng nép vào cửa và ngập ngừng:
101
- Thưa lạy hai cụ, nhà con túng quá, xin hai cụ cứu giúp chúng con. [81, tr.49]
Cách dùng từ thưa, bẩm dẫn trên cũng có giá trị làm tăng tính lịch sự cho hành
động ngôn trung lớp điều khiển.
b) Mở rộng yếu tố cảm thán
Thêm yếu tố cảm thán vào phát ngôn thể hiện hành động cầu khiến - điều khiển
cũng làm giảm sự áp đặt cho kiểu hành động này. Ví dụ:
Ví dụ 20:
a. Chị Dậu rụng rời đổ đốt:
- Trời đất ơi, chồng tôi làm sao thế này?
Những người bạn bị trói của anh Dậu mỗi người trả lời một câu:
- (...). [81, tr.66].
b. Bà lão láng giềng ra ý ái ngại:
- Khốn nạn! Bác lại lên cơn sốt rét đấy ư? [81, tr. 163]
c. Chị Pha kinh ngạc hỏi:
- (...).
- Ô hay, văn tự nào? [80, tr.98]
c) Mở rộng yếu tố rào đón
Rào đón có nghĩa là “Nói có tính chất để ngừa trước sự hiểu lầm hay phản ứng
về điều mình sắp nói”. [81, tr792].
Để làm giảm sự áp đặt đồng thời tăng tính lịch sự cho hành động điều khiển,
người ta thường thêm yếu tố rào đón cho phát ngôn diễn đạt hành động này. Từ góc độ
tham thoại trong một cặp thoại (xem Đỗ Hữu Châu, tr. 205-219), đây là kiểu hành động
phụ thuộc trong một tham thoại.
Yếu tố rào đón có thể là hành động giải thích, có thể là hành động nêu lí do, hay
hành động đưa đẩy ... Dưới đây là một số ví dụ về kiểu hành động lớp điều khiển có
sử dụng yếu tố rào đón mà chúng tôi đã thống kê được:
Ví dụ 21:
102
a. Chị Pha thấy chồng oan uổng, vội vàng chạy đến trước mặt người tây đoan,
chắp tay vái lấy vái để và khóc lóc, nói:
- Lạy quan lớn, quan lớn tha cho chồng con, chồng con không biết nấu rượu
bao giờ. Chẳng qua người ta thù. [83, tr.25]
b. Chị Dậu xua tay:
- Nói sẽ chứ, cho em nó ngủ. Thầy con đương về sau ấy. [81, tr.161]
c. Bác san vẫn can:
- Thôi, máu non, đừng nghĩ ngợi. [80, tr.18]
d. Pha rót rượu và mời:
- Nhà cháu chẳng có gì, mời cậu xơi tạm chén rượu.
Khách nhìn hai đĩa thịt gà trắng nõn thì bằng lòng lắm... [80, tr.48]
Bộ phận in đậm trong các ví dụ dẫn trên đều là các yếu tố rào đón được các nhân
vật nông dân sử dụng trong hành động lớp điều khiển.
d) Mở rộng yếu tố bù đắp thể diện Sp2
Để bù đắp sự đe dọa thể diện cho tiếp ngôn (Sp2) khi phải tiếp nhận các hành
động lớp điều khiển, người nói ra các hành động điều khiển thường thêm các yếu tố bù
đắp thể diện cho họ. Yếu tố bù đắp thể diện cho Sp2 có thể là hành động xin lỗi, có thể
là lời hứa mà Sp1 dành cho Sp2 kèm với hành động điều khiển,... Xin dẫn một số ví
dụ về kiểu hành động điều khiển có thêm yếu tố bù đắp thể diện Sp2.
Ví dụ 22:
a. Pha nhìn vào, thấy chỗ góc đình. Cò, một người làm ruộng cũ của ông nghị,
nằm còng queo trên sàn, đương nhăn nhó kêu:
- Con lạy cụ, cụ hãy thư cho đến mai, nhà con đem cháu đi bán, thế nào sớm
tối nay cũng về. [80, tr.119]
b. - Bẩm, bốn con. Nó biết ăn cơm đã hai hôm nay... Hay là xin cụ đỡ con hai
đồng, lờ lãi thế nào con cũng xin vâng, chỉ độ hai phiên chợ nữa, mấy con chó cứng
cát, bán được thì con lại xin nộp cụ. [81, tr.54]
103
c. Cái Tý khóc hu hu. (...). Nó nói bằng giọng năn nỉ:
- Con nhớ em quá! Hay là u hãy cho con ở nhà một đêm nay nữa, để con ngủ với
em, sáng mai con xin đi sớm. [81, tr.93]
Trong tư liệu thống kê của chúng tôi mới chỉ thấy hành động điều khiển mở rộng
yếu tố bù đắp thể diện người nghe bằng hành động hứa đi kèm, như các phần in đậm
trong ở ví dụ 22 vừa dẫn.
3.2.2.5. Dùng cách nói gián tiếp
Như đã nói ở trên, việc dùng phương thức gián tiếp cũng có tác dụng làm tăng
tính lịch sự cho các hành động lớp điều khiển. Về điều này, xin xem các ví dụ ở mục ...
Dưới đây xin dẫn thêm một số ví dụ tiểu biểu:
Ví dụ 23:
a. Một lát, sờ soạng chán, bà lại cười hỏi:
- Ồ, thế kêu ở đâu đấy, tôi chẳng trông thấy gì cả. Có cái đèn vào đây hay không?
[80, tr.7]
b. Bỗng bà đỡ đập tay đánh đét một cái và gắt:
- Ghê gớm muỗi! Bác Pha có cho tôi mượn cái quạt không? [80, tr. 9]
Phần in nghiêng trong hai ví dụ trên đều là hành động yêu cầu nhưng thực hiện
bởi hành động trực tiếp hỏi.
Tóm lại, các hành động lớp điều khiển có chủ ngôn là nhân vật nông dân trong
các tác phẩm mà chúng tôi thống kê hầu hết đều thể hiện tính lịch sự bởi đã sử dụng
những yếu tố giảm mức độ đe dọa thể diện của người nghe.
3.3. Tiểu kết
Vận dụng một số lí thuyết hội thoại, chương này trình bày hai vấn đề lớn:
(1) Về tiếp ngôn của hành động điều khiển:
Nói đến tiếp ngôn là nói đến người nghe (Sp2) như đã nói. Chương này trình bày
tiếp ngôn trong các hành động điều khiển về hai phương diện: thành phần giai cấp, vị
thế xã hội và tiếp ngôn với các hành động ở lời điều khiển.
104
Theo thống kê của chúng tôi, tiếp ngôn của các hành động điều khiển có thể thuộc
giai cấp thống trị hoặc giai cấp bị trị. Giai cấp thống trị của xã hội Việt Nam thời kì
này là những nhân vật quan lại, địa chủ cùng tay sai và người nhà của chúng. Đại diện
cho giai cấp bị trị ở đây là những nhân vật nông dân (luận văn chưa bàn đến tầng lớp
xã hội khác như tiểu thương, trí thức,... bởi trong các tác phẩm này những loại nhân vật
đó không có nhiều).
Các hành động ở lời thuộc lớp hành động điều khiển dành cho các đối tượng
tiếp ngôn thuộc từng nhóm vị thế xã hội không đồng nhất. Chẳng hạn, hành động
nài chỉ được nhân vật nông dân chủ yếu nói với tiếp ngôn có vị thế xã hội cao; ngược
lại, hành động sai chỉ thấy nhân vật nông dân nói với tiếp ngôn có vị thế xã hội thấp
hơn mình.
Xét về vị thế xã hội, tiếp ngôn có thể ở vị thế xã hội cao hơn chủ ngôn (Sp1) hoặc
cũng có thể ở vị thế xã hội thấp hơn hay bình đẳng chủ ngôn.
Theo thống kê của chúng tôi, hành động cầu khiến có tiếp ngôn là các nhân vật có vị
thế xã hội cao hơn chủ ngôn chiếm số lượng cao nhất (1158 trường hợp), tiếp theo là tiếp
ngôn có vị thế xã hội thấp hơn chủ ngôn có số lượng cao thứ hai (235 trường hợp) và cuối
cùng là tiếp ngôn có vị thế bình đẳng với chủ ngôn chiếm số lượng ít nhất (217 trường
hợp). Lí do có sự chênh lệch về số lượt sử dụng này là do tính chất của cuộc hội thoại và
số lượng cuộc hội thoại mà nhân vật nông dân đã thực hiện.
Ngoài phân loại và miêu tả các kiểu tiếp ngôn theo thành phần giai cấp và vị thế xã
hội trong mối quan hệ với chủ ngôn, chương này đã trình bày được quan hệ giữa tiếp ngôn
với hành động ở lời điều khiển. Về vấn đề này, chúng tôi đã xác định được 20 loại hành
động ở lời điều khiển có liên quan đến các loại tiếp ngôn đã nói ở trên.
Số lượng và tỉ lượng và tỉ lệ phần trăm của tất cả các kiểu loại tiếp ngôn đã được
luận văn trình bày trong các bảng tổng kết từ 3.1 đến 3.9.
(2) Từ góc nhìn của qui tắc lịch sự trong hội thoại, chương này cũng đã phân tích
và có được một số kết luận như sau:
- Các hành động ở lời lớp điều khiển được các nhân vật nông dân nói ra trong các
tác phẩm mà chúng tôi thống kê không phải trường hợp nào cũng mang tính lịch sự. Có
những trường hợp nhân vật nói ra lời điểu khiển “bất lịch sự” bởi hoàn cảnh khách quan
105
đã câu thúc nhân vật nông dân phải nói ra những lời như vậy. Tuy nhiên, số các hành
động điều khiển mang tính bất lịch sự này không nhiều. (Xin xem lại ví dụ 15).
- Các nhân vật nông dân đã sử dụng năm phương thức để tăng tính lịch sự, giảm
thiểu sự đe dọa thể diện của người nghe cho các phát ngôn điều khiển của mình, đó là:
+ Sử dụng rộng rãi các một số phương tiện thể hiện tính lịch sự qui ước;
+ Sử dụng hện thống từ ngữ xưng hô thể hiện tính lịch sự;
+ Thêm các tiểu từ tình thái vào cuối câu;
+ Sử dụng một số thành phần mở rộng cho phát ngôn để giảm thiểu sự đe dọa thể
diện của người nghe;
+ Dùng cách nói gián tiếp.
Tất cả những kết quả nghiên cứu vừa trình bày đều được luận văn phân loại và
miêu tả bằng số lượng, tỉ lệ % chính xác và đặc biệt là có ví dụminh họa cụ thể.
KẾT LUẬN
Với đối tượng, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu trình bày ở phần Mở đầu, luận
văn đã đạt được một số kết quả sau đây:
(1) Luận văn đã tổng thuật khá kĩ lưỡng tình hình nghiên cứu về hành động ngôn
ngữ, nghiên cứu về câu cầu khiến và hành động cầu khiến của một số nhà ngôn ngữ
học trong và ngoài nước. Theo đó, những kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu
đi trước đã một phần được luận văn tiếp thu để xử lí đề tài.
(2) Luận văn đã giới thiệu và trình bày một khung lí thuyết cơ bản làm căn cứ lí
luận cho đề tài, đó là lí thuyết về hành động ngôn ngữ và hành động cầu khiến;lí thuyết
về hội thoại. Lí thuyết về hành động ngôn ngữ và hành động cầu khiến được vận dụng
để phân loại và miêu tả đối tượng nghiên cứu ở chương 2.
Trong lí thuyết hội thoại, lí thuyết về nhân vật giao tiếp với các khái niệm như chủ
ngôn và tiếp ngôn, lí thuyết về qui tắc hội lịch sự, v.v... là những vấn đề được vận dụng
để nghiên cứu đối tượng ở chương 3.
(3) Kết quả nghiên cứu cụ thể:
106
- Luận văn đã thống kê được 1610 lượt dùng hành động điều khiển có chủ ngôn là
các nhân vật nông dân, đại diện cho giai cấp bị trị của xã hội Việt Nam, giai đoạn 1930 -
1945, trong các tác phẩm văn xuôi đã chọn làm đối tượng khảo sát. Với số lượng đối tượng
thống kê này, luận văn đã phân loại và miêu tả chúng trên nhiều tiêu chí (6 tiêu chí), như:
+ Phân loại hành động cầu khiến theo đích ở lời: Theo tiêu chí này, luận văn đã xác
định được 20 hành động ở lời thuộc lớp hành động cầu khiến mà nhân vật nông dân đã sử
dụng.
+ Phân loại hành động cầu khiến theo cấu trúc hình thức: Theo tiêu chí này, hành động
cầu khiến được chia thành 4 nhóm, là: hành động cầu khiến có cấu tạo 4 thành tố, hành động
cầu khiến có cấu tạo 3 thành tố, hành động cầu khiến có cấu tạo 2 thành tố và hành động cầu
khiến có cấu tạo 1 thành tố. Số lượng của các tiểu loại này không giống nhau.
+ Phân loại hành động cầu khiến theo mối quan hệ giữa biểu thức ngữ vi và phát
ngôn ngữ vi cầu khiến.
+ Phân loại hành động cầu khiến theo sự có mặt hay vắng mặt của động từ ngữ vi
cầu khiến
+ Phân loại hành động cầu khiến theo phương thức thể hiện hành động cầu khiến
+ Phân loại hành động cầu khiến theo ý nghĩa cầu hay ý nghĩa khiến của hành động
cầu khiến.
Từ góc nhìn của lí thuyết hành động ngôn ngữ, với 1610 lượt sử dụng hành động
ngôn ngữ như đã nói, luận văn đã xác định được 20 hành động ở lời thuộc nhóm điều
khiển, đó là (liệt kê theo tần số sử dụng): hỏi, yêu cầu, khuyên, xin, nài, van/lạy, chất
vấn, nhờ, giục, dặn, can, cản, dỗ, mời, sai, xui, đuổi, thách, rủ và đe dọa. Hành động
hỏi được nhân vật nông dân trong các tác phẩm đã dẫn sử dụng nhiều nhất là hỏi (282
lượt) và hành động ở lời sử dụng ít nhất là đe dọa (2 lượt). Các hành động ở lời vủa nói
được phân loại theo các tiêu chí: có hay không có động từ ngữ vi; quan hệ giữa biểu
thức ngữ vi và phát ngôn ngữ vi điều khiển, phương thức sử dụng hành động điều khiển
theo lối trực tiếp hay gián tiếp, v.v... Tất cả các tiểu loại hành động điều khiển được
107
phân loại ở đây luận văn đã tổng kết bằng các bảng với số lượng và tỉ lệ % được trình
bày rõ ràng.
- Từ góc nhìn của lí thuyết hội thoại, luận văn đã phân loại và miêu tả các hành
động ở lời điều khiển theo hai tiêu chí lớn: Một là tiếp ngôn của hành động điều khiển
xét trong mối quan hệ với chủ ngôn; hai là hành động điều khiển với vấn đề thể hiện
tính lịch sự trong giao tiếp. Theo tiêu chí thứ nhất, với 1610 lượt dùng hành động cầu
khiến đã thống kê được chia thành hai nhóm: tiếp ngôn của hành động điều khiển là
các nhân vật thuộc giai cấp thống trị, và tiếp ngôn của hành động điều khiển là nhân
vật thuộc giai cấp bị trị; tiếp ngôn là nhân vật có vị thế cao hơn hay vị thế bình đẳng,
hoặc vị thế thấp hơn chủ ngôn.
Theo tiêu chí thứ hai của lí thuyết hội thoại, luận văn đã chỉ ra được 4 phương thức
nhân vật nông dân sử dụng để làm tăng tính lịch sự cho phát ngôn điều khiển, đó là:
Thứ nhất, sử dụng những phương tiện ngôn ngữ thể hiện tính lịch sự qui ước;
Thứ hai, sử dụng hệ thống từ xưng hô biểu thị thái độ lịch sự;
Thứ ba, thêm tiểu từ tình thái vào cuối phát ngôn điều khiển;
Thứ tư, sử dụng thành phần mở rộng cho phát ngôn điều khiển.
Cũng như dựa vào các tiêu chí lí thuyết hành động ngôn ngữ, dựa vào lí thuyết
hội thoại để phân loại hành động điều khiển như vừa nói, luận văn cũng đã dùng các
bảng tổng kết để miêu tả số lượng và tỉ lệ phần trăm của từng loại hành động thuộc lớp
điều khiển.
Tóm lại, những kết quả nghiên cứu vừa trình bày ở trên chưa phải đã là tất cả
những gì mà luận văn đã nói về hành động điều khiển do chủ ngôn là các nhân vật nông
dân trong các tác phẩm đã thống kê sử dụng, song đó là những kết quả nghiên cứu cơ
bản mà luận văn đã đạt được khi bàn về đối tượng nghiên cứu đã nói.
108
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chu Thị Thủy An (2002), Câu cầu khiến Tiếng Việt, Luận án TSNV, Viện NNH.
2. Diệp Quang Ban (1989), Ngữ pháp tiếng Việt phổ thông, tập II, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, HN.
3. Diệp Quang Ban (chủ biên), Hoàng Dân (2000), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội
4. Diệp Quang Ban (Chủ biên), Hoàn Văn Thung (2006), Ngữ pháp tiếng Việt, tập
một, Nxb Giáo dục.
5. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo văn bản, Nxb GD, H.
6. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb. ĐH và THCN, Hà Nội.
7. Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (1993), Đại cương ngôn ngữ học, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
8. Đỗ Hữu Châu (1995), Giản yếu về ngữ dụng học, Nxb GD, Huế
9. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb. Giáo dục.
10. Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2, Nxb. Giáo dục.
11. Đỗ Hữu Châu (2011), Từ vựng - Ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội.
12. Lý Doanh Doanh (2009), Khảo sát phương thức trực tiếp biểu hiện hành động
cầu khiến trong tiếng Việt (có liên hệ với tiếng Hán) qua một số tác phẩm văn
học, Luận văn Thạc sĩ, ĐH KHXH&NV.
13. Nguyễn Đức Dân (1987), Logic- cú pháp - ngữ nghĩa, Nxb. Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.
14. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
15. Nguyễn Đức Dân (2000), Ngữ dụng học, Nxb. Giáo dục.
16. Lê Thị Kim Đính (2006), Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt, Luận án
Tiến sĩ, Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.
109
17. Nguyễn Văn Độ (1999), “Những yếu tố làm biến đổi lực ngôn trung của lời thỉnh
cầu trong tiếng Anh và tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1.
18. Quách Thị Gấm (2011), “Hành vi ngôn ngữ điều khiển của giáo viên trên lớp học
cấp tiểu học”, Tạp chí Giáo dục, số 259, kỳ 1.
19. Lê Đông, Nguyễn Văn Hiệp (2003), “Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ học”,
T/c Ngôn ngữ, số 8.
20. Nguyễn Thị Huệ (2015), Đặc điểm ngôn ngữ giới qua hành vi hỏi trong tác phẩm
Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa VN, ĐHSP,
ĐHTN
21. Nguyễn Thiện Giáp (2004), Dụng học Việt ngữ, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
22. Nguyễn Thiện Giáp (2005), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb. Giáo dục.
23. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
24. Nguyễn Thiện Giáp (2010), 777 khái niệm ngôn ngữ học, Nxb. Đại học Quốc Gia,
Hà Nội.
25. Trần Thị Việt Hà (2012), Đặc điểm ngôn ngữ của nữ giới qua hành vi hỏi (trên
ngữ liệu lời thoại nhân vật trong Truyện ngắn Nam Cao trước 1945), Luận văn
Thạc sĩ, Trường ĐHKHXH & NV HN.
26. Nguyễn Thị Hài (2013), “Phép lịch sự qua hành vi mớì và hành vi nhờ vả trong
ca dao người Việt”, Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, số 5.
27. Nguyễn Thị Hài (2014), “Động từ ngữ vi trong ca dao người Việt”, Tạp chí Ngôn
ngữ & đời sống, số 8.
28. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
29. Dương Thị Tuyết Hạnh (1999), Cấu trúc tham thoại trong truyện ngắn Việt Nam
hiện đại, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
30. Cao Xuân Hạo (1991), Tiếng Việt - Sơ thảo Ngữ pháp chức năng, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội
110
31. Cao Xuân Hạo (2001), Ngữ pháp chức năng tiếng Việt, Quyển 1, Câu trong tiếng
Việt, Nxb Giáo dục.
32. Cao Xuân Hạo (2003), Tiếng Việt - mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
33. Nguyễn Thị Thu Hiền (2011), Khảo sát đặc điểm ngôn ngữ đối thoại trong kịch
Lưu Quang Vũ, Luận văn Thạc sĩ, ĐHQG HN.
34. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (Chủ biên) (2004),
Từ điển văn học mới, Nxb Thế giới.
35. Vũ Ngọc Hoa (2010), “Phân loại hành vi ngôn ngữ cầu khiến trong văn bản hành
chính”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 7.
36. Vũ Ngọc Hoa (2011), “Biểu thức ngôn hành cầu khiến nguyên cấp chứa: phải,
cần, nên, được trong văn bản hành chính”, T/c Ngôn ngữ, số 6.
37. Nguyễn Thái Hòa (1997), Dẫn luận phong cách học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
38. Bùi Mạnh Hùng (2003), “Bàn về vấn đề “phân loại câu theo mục đích phát ngôn”,
Tạp chí Ngôn ngữ, số 2.
39. Nguyễn Hữu Huỳnh (2001), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb. Từ điển bách khoa,
Hà Nội.
40. Vũ Thị Thanh Hương (1999), “Gián tiếp và lịch sự trong lời cầu khiến tiếng Việt”,Tạp
chí Ngôn ngữ, số 1.
41. Vũ Thị Thanh Hương (1999), “Gián tiếp và lịch sự trong lời cầu khiến tiếng Việt”,
Tạp chí Ngôn ngữ, số 10.
42. Vũ Thị Thanh Hương (2000), “Chiến lược lịch sự thay đổi mức lợi thiệt trong lời
cầu khiến tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 10.
43. Đào Thanh Lan (2002), Ngữ pháp, ngữ nghĩa của lời cầu khiến tiếng Việt, Nxb
Khoa học xã hội.
44. Đào Thanh Lan (2004), “Ý nghĩa cầu khiến của các động nên, cần, phải trong
câu tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 11.
45. Đào Thanh Lan, (2005), “Vai trò của 2 động từ “mong”, “muốn” trong việc biểu
thị ý nghĩa cầu khiến ở tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 7.
111
46. Đào Thanh Lan (2006), Hoạt động và ý nghĩa của các tiểu từ biểu thị tình thái
cầu khiến trong câu tiếng Việt, Những vấn đề ngôn ngữ học.
47. Đào Thanh Lan (2011), “Về việc phân loại hành động cầu khiến tiếng Việt”, Tạp
chí Ngôn ngữ, số 11.
48. Hồ Lê (1992), Cú pháp tiếng Việt quyển 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
49. Hoàng Xuân Loan (2011), Hành vi cầu khiến trong ca dao về tình yêu lứa đôi
của người Việt, Luận văn Thạc sĩ, ĐH SP - ĐHTN.
50. Nguyễn Thị Lương (1995), “Một số tiểu từ tình thái dứt câu tiếng Việt với phép
lịch sự trong giao tiếp”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2.
51. Nguyễn Thị Lương (1996), Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi với việc biểu thị
các hành vi ngôn ngữ trong tiếng Việt, Luận án tiến sĩ.
52. Nguyễn Thị Lương (2006), “Câu cầu khiến tường minh và câu cầu khiến nguyên
cấp”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống số 5
53. Nguyễn Thị Lương (2009), Câu tiếng Việt, Nxb. ĐHSP, Hà Nội.
54. Trần Chi Mai (2005), Phương thức biểu hiện hành vi từ chối lời cầu khiến trong
tiếng Anh, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
55. Đặng Kim Ngân (2011), Tìm hiểu câu ngôn hành trong tiểu thuyết Tắt Đèn và
Lều Chõng của Ngô Tất Tố, Luận văn TNĐH, ĐHCần Thơ.
56. Nguyễn Thị Thanh Ngân (2008), “Dạy trẻ mẫu giáo nói đúng khi cầu khiến”, Kỷ
yếu Hội thảo Giáo dục Ngôn ngữ tại Việt Nam (12).
57. Nguyễn Thị Thanh Ngân (2016), Các hành động cầu khiến tiếng Việt, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
58. Tô Thị Mỹ Nhật (1999), “Bước đầu tìm hiểu các đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa
trong hành vi cầu khiến của người Việt”, T/c Ngôn ngữ, số 8.
59. Trần Thị Tuyết Nhung (2004), “Về hành vi cầu khiến của nhân vật truyện ngắn
Nam Cao trước 1945”, Tạp chíNgôn ngữ và Đời sống, số 9.
60. Hoàng Phê (chủ biên) (1996), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học Đà Nẵng
- Hà Nội.
112
61. Hoàng Phê (chủ biên) (2007), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học Đà Nẵng
- Hà Nội.
62. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt - câu, Nxb Đại học và Trung
học chuyên nghiệp.
63. Đào Nguyên Phúc (2008), “Những điểm tương đồng và khác biệt cơ bản của hai
hành vi ngôn ngữ “xin” và “xin phép” (dưới góc nhìn dụng học), Tạp chíNgôn
ngữ & đời sống, số 8.
64. Lê Xuân Phước (2006), “Những hình thức thể hiện khuyên bảo trong tiếng Việt,
T/c Ngôn ngữ & đời sống , số 6.
65. Chu Thị Thùy Phương (2010), Hành động cầu khiến trong ngôn ngữ kịch của
Lưu Quang Vũ, Luận văn Thạc sĩ, ĐH SP - ĐHTN.
66. Trần Kim Phượng (2000), “Khảo sát phương tiện từ vựng (động từ) biểu thị ý
nghĩa cầu khiến trong câu tiếng Việt, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
67. Trần Kinh Phượng (2001), Vai trò của động từ để trong câu cầu khiến tiếng Việt,
Ngữ học trẻ.
68. Vũ Dương Quí (1998), Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường: Ngô Tất Tố,
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nxb GD, H.
69. F.de. Sausuare (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb, Khoa học xã hội.
70. Trần Đăng Suyền (Chủ biên) (2010), Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại, Tập
1 (từ đầu thế kỉ XX đến nay), Nxb ĐHSP, H.
71. Lê Thị Thư (2008), Hành động ngôn ngữ gián tiếp trong Truyện ngắn Nam Cao,
Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP-ĐHTN
72. Bùi Minh Toán (2010), “Lí thuyết hành động ngôn ngữ với đoạn thơ trao duyên
của Truyện Kiều”, Báo điện tử.
73. Trịnh Thanh Trà (2002). “Hành vi điều khiển trong sự kiện lời nói hàm ẩn”, Ngôn
ngữ và Đời sống số 4.
113
74. Bùi Thị Kim Tuyến (2005), Hành động cầu khiến trong tiếng Việt, Luận văn Thạc
sĩ, Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.
75. Bùi Kim Tuyến (2009), “Bước đầu khảo sát yếu tố phụ kèm theo động từ nói
năng chỉ hành động ngôn ngữ trong tác phẩm văn học của Nam Cao, Ngô Tất Tố,
Nguyễn Công Hoan”, Luận văn Thạc sĩ, ĐHQG HN.
76. Nguyễn Thị Hồng Vân (2002), “Câu ngữ vi cầu khiến tường minh với phép lịch
sự trong giao tiếp”, Tạp chíNgôn ngữ và Đời sống, số 5.
77. Đỗ Quang Việt (2005), “Những khác biệt chủ yếu trong việc sử dụng các chiến
lược thỉnh cầu của người Việt và người Pháp”, Tạp chí Khoa học, số 3.
78. Nguyễn Như Ý (1998), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb. Giáo dục
TƯ LIỆU THỐNG KÊ ĐỐI TƯỢNG NGHÊN CỨU
79. Nam Cao (2016), Tuyển Tập Nam Cao, Nxb Văn học, H.
80. Nguyễn Công Hoan (2000), Bước đường cùng, Nxb Đồng Nai
81. Ngô Tất Tố (2001), Tắt đèn, Nxb Đồng Nai
114
PHỤ LỤC
Bảng 2.1: Tổng kết hành động điều khiển cấu tạo 4 thành tố
theo tác phẩm (tỉ lệ % tính theo số tư liệu thống kê:1610)
Tác phẩm Bước Tác phẩm của Tắt đèn Tổng số đường cùng Nam Cao Số lượng/%
Số lượng 67 89 38 194
Tỉ lệ % 4,16 5,52 2,36 12,04
Bảng 2.2
Kiểu HĐĐK Kiểu 1 Kiểu2 Tổng số
Tác phẩm SL TL% SL TL% SL TL%
Tắt đèn 179 11,12 395 24,53 574 35,65
Bước đường cùng 187 11,61 504 31,30 691 42,91
Tác phẩm của Nam Cao 49 3,04 296 18,39 345 21,43
415 Tổng số 25,77 1195 74,22 1610 99,99
Bảng 2.3
Tiểu loại HĐĐK tường minh HĐĐK nguyên cấp
Tác phẩm Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
Tắt đèn 138 8,57 436 27,08
Bước đường cùng 172 10,69 519 32,23
TP Nam Cao 74 4,59 271 16,83
Tổng số 384 23,85 1226 76,14
Bảng 2.4: Tác phẩm Tắt đèn
Kiểu loại HĐ có ý HĐ có ý HĐ có nghĩa Tổng số SL/TL% nghĩa cầu nghĩa khiến cầu &khiến
Số lượng 230 161 183 574
Tỉ lệ % % / 1610 14,28 10,00 11.37 35,65
% /574 40,07 28,05 31.88 100,00
Bảng 2.5: Tác phẩm Bước đường cùng
Kiểu loại HĐ có HĐ có Ý nghĩa Tổng số SL/TL% ý nghĩa cầu ý nghĩa khiến cầu & khiến
Số lượng 187 209 295
% / 1610 11,61 12,98 18,32 Tỉ lệ % % / 691 27.06 30,24 42,69
Bảng 2.6:Tác phẩm của Nam Cao
HĐ có ý Kiểu loại HĐ có ý HĐ có ý nghĩa nghĩa cầu & Tổng số SL/TL% nghĩa cầu khiến khiến
Số lượng 144 109 92
% / 1610 8,94 6,77 5,71 Tỉ lệ % % / 345 41,73 31,59 26,66