VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ QUỐC TUẤN
HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI NGƯỜI LÀM CHỨNG
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ QUỐC TUẤN
HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI NGƯỜI LÀM CHỨNG
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN ĐỨC HẠNH
Hà Nội, năm 2019
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI
CỦA NGƯỜI LÀM CHỨNG THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM ........................................................................................................................... 7
1.1. Một số vấn đề chung và khái niệm ................................................................... 7
1.2. Chủ thể có thẩm quyền lấy lời khai của người làm chứng theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam .......................................................................................... 19
1.3. Phân loại, quyền và nghĩa vụ người làm chứng theo quy định của pháp luật tố
tụng hình sự ........................................................................................................... 25
1.4. Mục đích lấy lời khai của người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam ............................................................................................................... 30
1.5. Những yếu tố ảnh hưởng, tác động đến chất lượng của việc lấy lời khai của
người làm chứng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ............ 34
Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI CỦA NGƯỜI
LÀM CHỨNG THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG NÀY TRÊN ĐỊA BÀN HUYÊN CHƠN THÀNH,
TỈNH BÌNH PHƯỚC .............................................................................................. 37
2.1. Quy định về hoạt động lấy lời khai của người làm chứng theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam .......................................................................................... 37
2.2. Thực tiễn hoạt động lấy lời khai người làm chứng trên địa bàn huyện Chơn
Thành, tỉnh Bình Phước ......................................................................................... 46
Chương 3: GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN NHẰM NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI CỦA NGƯỜI LÀM
CHỨNG THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ .......... 63
3.1. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động lấy lời khai của người làm
chứng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự ............................................... 63
3.2. Kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động lấy lời khai của người làm
chứng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự ............................................... 69
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người làm chứng là người biết các tình tiết có liên quan đến vụ án và được
các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để lấy lời khai về những nội dung có liên
quan đến vụ án hoặc vụ việc có tính hình sự. Lời khai của người làm chứng là một
trong những nguồn chứng cứ lâu đời và phổ biến nhất. Luật tố tụng hình sự của
nhiều nước trên thế giới đều quy định về nguồn chứng cứ này, bởi lẽ người làm
chứng nắm được diễn biến của vụ án hình sự, hoàn cảnh phạm tội, nhân thân người
phạm tội, người bị hại... Đây là nguồn chứng cứ rất quan trọng góp phần làm sáng
tỏ sự thật khách quan của vụ án hình sự [18,tr.1]. Trong tố tụng hình sự nói chung,
trong giai đoạn điều tra nói riêng, người làm chứng luôn giữ vai trò quan trọng
trong xác minh làm rõ sự thật khách quan của vụ án hình sự. Họ là người biết các
tình tiết có liên quan đến vụ án nhưng do họ không phải là người có quyền lợi pháp
lý liên quan vụ án nên lời khai của họ thường trung thực, khách quan, có ý nghĩa
lớn trong việc xác định sự thật của vụ án hình sự. Lời khai người làm chứng là
nguồn chứng cứ quan trọng trong giải quyết vụ án hay vụ việc mang tính hình sự.
Những thông tin được phản ánh và tái hiện lại qua lời khai của người làm chứng có
chất lượng phụ thuộc tâm lý, kinh nghiệm xã hội, tính cách và nhân cách... của
người làm chứng.
Việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự định đối với hoạt động lấy lời khai
người làm chứng nhằm đảm bảo tính khách quan, trung thực trong hoạt động lấy lời
khai người làm chứng sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc điều tra giải quyết vụ án
hình sự; góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự công minh của pháp luật,
của Nhà nước trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm.
Tình hình tội phạm trong những năm trở lại đây ngày càng gia tăng, với
những hình thức và thủ đoạn hết sức tinh vi nhằm che giấu hành vi phạm tội trước
cơ quan điều tra, nhất là các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, gây bức xúc trong quần
chúng nhân dân, gây tâm lý hoang mang, lo sợ cho người dân. Xuất phát từ tình
hình trên yêu cầu đặt ra là phải nhanh chóng điều tra phá án xử lý đúng người, đúng
1
tội, bên cạnh đó là sự phối hợp của các ngành có liên quan và quan trọng hơn nữa là
tinh thần tố giác tội phạm, kịp thời cung cấp những thông tin thật sự có giá trị cho
cơ quan điều tra để tiến hành xác minh làm rõ sự thật của các vụ án đã xảy ra trên
địa bàn, để thực hiện có hiệu quả những yêu cầu trên thì người làm chứng cũng có
vai trò quan trọng giúp cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhanh chóng
làm sáng tỏ sự thật của vụ án đã xảy ra.
Trong tố tụng hình sự thì hoạt động lấy lời khai người làm chứng là một hoạt
động rất quan trọng, bởi người làm chứng là một trong những người tham gia tố
tụng hình sự, do lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ
để giải quyết vụ án, nhưng đồng thời đây cũng là hoạt động khó khăn và phức tạp
trong quá trình điều tra vụ án. Tuy nhiên, trong hoạt động lấy lời khai người làm
chứng trong tố tụng hình sự vẫn còn một số thiếu sót, hạn chế nhất định, như: pháp
luật tố tụng hình sự chưa quy định số lần phải tiến hành lấy lời khai người làm
chứng nên có vụ án lấy lời khai nhiều lần gây lãng phí thời gian, công sức... Bên
cạnh đó, vấn đề bảo vệ người làm chứng chưa được luật qui định cụ thể đã có
những tác động tiêu cực như ảnh hưởng xấu đến tâm lí, suy nghĩ của người làm
chứng khiến họ cung cấp những tài liệu, chứng cứ liên quan vụ án cho các cơ quan
tiến hành tố tụng sai sự thật, không dám khai báo những gì họ biết cho cơ quan tiến
hành tố tụng vì sợ bị trả thù... gây khó khăn cho quá trình điều tra, trong thời gian
qua, thực tiễn hoạt động lấy lời khai người làm chứng của các cơ quan tiến hành tố
tụng trên địa bàn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước còn gặp rất nhiều khó khăn
cần được nghiên cứu, tổng kết để có những kiến nghị, giải pháp riêng và chung
thích hợp.
Xuất phát từ các lý do về lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài
“Hoạt động lấy lời khai người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn huyện Chơn thành, tỉnh Bình Phước” làm luận văn thạc sĩ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2
Hoạt động lấy lời khai người làm chứng là một trong số các hoạt động có ý
nghĩa chứng minh trong tố tụng hình sự, Tình hình nghiên cứu hiện nay chủ yếu tập
trung vào hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự mà chưa có nhiều nghiên cứu
chuyên sâu liên quan đến hoạt động lấy lời khai của người làm chứng nên người
viết chủ yếu nghiên cứu hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong các tài liệu
liên quan đến hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự. Đặc biệt, chứng minh là
hoạt động phức tạp, nhạy cảm và được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu.
Một số công trình nghiên cứu về hoạt động chứng minh trong giai đoạn xét
xử chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu ở góc độ lý luận và tham khảo thực tiễn
hoạt động đánh giá chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình
chứng minh vụ án hình sự như:
- Nguyễn Duy Thuận (1998), Sách “Quá trình chứng minh trong tố tụng
hình sự, lý luận và thực tiễn”;
- Vũ Văn Anh (2013), Chứng minh trong tố tụng hình sự, Luận văn Thạc sĩ
luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Nguyễn Thị Thúy Hà (2008), Đánh giá, sử dụng chứng cứ trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Bùi Hữu Danh (2013), Lấy lời khai người làm chứng, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Dưới góc độ bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý có những công
trình điển hình như: “Đặc điểm của hoạt động chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ
án hình sự" (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2006) của tác giả Nguyễn Văn
Du; “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về hoạt động
chứng minh” (Tạp chí Nghề luật, số 4/2008) của tác giả Nguyễn Văn Huyên; “Hoàn
thiện chế định về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự” (Tạp chí kiểm sát,
số 18+20/2008) của tác giả Mai Thế Bày v.v...
Các công trình này đã đề cập đến các góc độ khác nhau về lý luận của hoạt
động chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, nhấn mạnh đến khái niệm
3
chứng minh và vai trò, nhiệm vụ của Tòa án trong hoạt động kiểm tra, đánh giá
chứng cứ để đưa ra phán quyết cũng như việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự hiện hành nhằm nâng cao hiệu quả và tính chính xác của hoạt động
chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, trạng và hoàn thiện pháp luật về
chế định người làm chứng. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu và các bài viết trên
chỉ nghiên cứu chuyên sâu ở một khía cạnh nhất định, hay mới chỉ đề cập đến việc
đánh giá thực tiễn, mà chưa có một công trình nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn
diện về hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự, đánh giá
những tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật về lấy lời khai người làm chứng và
để ra biện pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả hoạt động này trong thực tiễn.
Trên cơ sở kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học nói trên,
cũng như nhiều bài viết trong các tạp chí và sách chuyên khảo luật, luận văn đã tiếp
cận nghiên cứu về chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự một cách toàn
diện về lý luận. Trên cơ sở đó tham khảo thực tiễn hoạt động xét xử các vụ án hình
sự trên địa bàn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước để minh chứng cho hoạt động
này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ lý luận về hoạt động lấy lời khai người làm
chứng trong tố tụng hình sự, qui định của pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động lấy
lời khai người làm chứng và thực tiễn áp dụng thời gian qua. Trên cơ sở đó đánh
giá, rút ra những thiếu sót, hạn chế trong qui định của pháp luật thực định và thực
tiễn áp dụng pháp luật thực định về hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong
điều tra các vụ án hình sự. Đồng thời, để xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật
thực định về hoạt động lấy lời khai người làm chứng và kiến nghị biện pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động này trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu là những vấn đề lý luận cơ bản về tố tụng hình sự, chủ
thể tiến hành tố tụng, chủ thể tham gia tố tụng, chứng cứ và nguồn chứng cứ, các
4
biện pháp điều tra, hoạt động lấy lời khai của người làm chứng theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam.
- Luận văn nghiên cứu các hoạt động lấy lời khai của người bị hại trên địa
bàn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng gồm: Các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án từ đó xác định những thuận lợi và khó khăn vướng
mắc nhằm nâng cao chất lượng hoạt động này trong tố tụng hình sự Việt Nam nói
chung và hoạt động lấy lời khai người làm chứng trên địa bàn tỉnh Bình Phước nói
riêng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn.
+ Trong các vụ án hình sự có những người làm chứng đồng thời cũng là
người bị hại và có những người làm chứng không bị hành vi phạm tội gây thiệt hại
về tài sản, thể chất hoặc tinh thần. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này tác
giả chỉ đề cập và nghiên cứu đến hoạt động lấy lời khai người làm chứng không bị
hành vi phạm tội gây thiệt hại về tài sản, thể chất hoặc tinh thần. Đề tài cũng chỉ tập
trung việc lấy lời khai người bị hại với ý nghĩa là hoạt động thu thập chứng cứ trong
các giai đoạn tố tụng hình sự.
+ Về không gian và vấn đề nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt
động lấy lời khai người bị hại trên địa bàn huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.
+ Về thời gian Luận văn chỉ khảo sát số liệu thực tiễn trong phạm vi từ năm
2014 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về xây dựng nhà nước pháp quyền.
Tác giả sử dụng hệ thống phương pháp phổ biến hiện nay trong nghiên cứu
khoa học như: phân tích, tổng hợp, thống kê, tham khảo ý kiến chuyên gia để làm
5
cách thức tiếp cận đề tài. Các biện pháp này quan hệ biện chứng hỗ trợ nhau trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ để làm sáng tỏ mục tiêu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Các kết quả của luận văn có ý nghĩa trong việc bổ sung lý luận về hoạt động
lấy lời khai của người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Các kết
quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên
cứu, học tập cũng như làm tài liệu cho các cán bộ Kiểm sát trong hoạt động nghiệp
vụ của mình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động lấy lời khai của người làm
chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 2: Quy định về hoạt động lấy lời khai của người làm chứng theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn hoạt động này trên địa bàn huyện
Chơn Thành, tỉnh Bình Phước
Chương 3: Giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động lấy lời
khai của người làm chứng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI
CỦA NGƯỜI LÀM CHỨNG THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề chung và khái niệm
1.1.1. Một số vấn đề chung
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thực hiện chủ
trương cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác điều tra, truy tố, xét
xử và bảo đảm quyền con người. Trong đó, quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải
quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi
hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ
chức, cá nhân; hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự [12, tr.1]. Bên cạnh đó, yêu cầu
đặt ra đối với các cơ quan tiến hành tố tụng là phải phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội. Quá trình này được diễn
ra liên tục, kể từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc vụ án, bao gồm các hoạt động tố
tụng theo quy định của pháp luật (kiểm tra xác minh nguồn tin, khởi tố vụ án hình
sự, tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án...) của cơ quan có thẩm quyền, với
sự tham gia tố tụng của những người có liên quan đến vụ án, cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội cà của công dân nhằm góp phần vào việc giải quyết vụ án hình sự.
Khi một sự kiện pháp lý xảy ra nếu chứa đựng hậu quả hoặc hành vi hay vừa
chứa đựng hậu quả lại vừa chứa đựng hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm
cụ thể thì sự kiện pháp lý đó được gọi là vụ việc mang tính hình sự và các cơ quan
có thẩm quyền tố tụng được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự phải có trách
nhiệm điều tra, xác minh làm rõ xem có khởi tố vụ án hay không.
Vụ án hình sự là vụ việc mang tính hình sự, có dấu hiệu của tội phạm được
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án để tiến hành
7
điều tra, truy tố, xét xử theo các trình tự, thủ tục đã được quy định ở Bộ luật tố tụng
hình sự.
Khái niệm tố tụng hình sự có thể hiểu là quá trình giải quyết vụ án hình sự
theo quy định của pháp luật. Tố tụng hình sự gồm toàn bộ hoạt động của các cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra), người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân, Thư ký Tòa án, Cán bộ được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra), người tham gia tố tụng (Bị can, Bị cáo, Người bào chữa, Người bị hại, nguyên
đơn dân sự, Bị đơn dân sự...) của cá nhân, các cơ quan khác của Nhà nước và các tổ
chức xã hội nhằm góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của luật tố tụng
hình sự.
Giải quyết vụ án hình sự là một quá trình liên tục, gồm nhiều bước khác
nhau, mỗi bước trong quá trình tố tụng thể hiện một hướng nhất định, thực hiện một
nhiệm vụ riêng, góp phần thực hiện nhiệm vụ của tố tụng hình sự và thường được
tiến hành bởi những chủ thể nhất định. Kết quả của các bước tố tụng thường được
thể hiện bằng các văn bản tố tụng đặc thù, các bước đó được gọi là các giai đoạn tố
tụng.
Căn cứ vào mục đích, chủ thể tiến hành, văn bản tố tụng đặc thù và kết quả
của tố tụng thì tố tụng hình sự Việt Nam được chia làm bốn giai đoạn gồm: Giai
đoạn khởi tố, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử.
- Giai đoạn khởi tố bắt đầu từ khi có tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố đến khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hoặc không khởi
tố vụ án hình sự
- Giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án và kết thúc khi
cơ quan điều tra ra Bản kết luận điều tra chuyển hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát để
đề nghị truy tố và được Viện kiểm sát vào sổ thụ lý hoặc kết thúc khi Cơ quan có
thẩm quyền ban hành quyết định đình chỉ vụ án của Cơ quan điều tra hoặc Khi cơ
8
quan có thẩm quyền hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án không có căn cứ và trái pháp
luật.
- Giai đoạn truy tố bắt đầu Viện kiểm sát tiếp nhận hồ sơ do cơ quan điều tra
chuyển đến và kết thúc khi có Quyết định truy tố (Cáo trạng) đề nghị truy tố,
chuyển hồ sơ đến Tòa án đề nghị xét xử và Tòa án thụ lý hồ sơ hoặc kết thúc khi có
Quyết định đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát.
- Giai đoạn xét xử bắt đầu khi Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án và kết thúc khi có
bản án có hiệu lực pháp luật hoặc khi có Quyết định đình chỉ vụ án của Tòa án
Lấy lời khai của người làm chứng là một trong những biện pháp điều tra
được quy định tại Điều 186 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được thực hiện trước
và sau khi khởi tố vụ án hình sự.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của người làm chứng
Theo từ điển tiếng Việt, thuật ngữ người làm chứng dùng để chỉ những người
chứng kiến một sự việc, hiện tượng đã xảy ra và có thể mô tả lại cho người khác về
sự việc đó [31, tr. 539]. Còn trong dân gian, thuật ngữ người làm chứng thường
được gọi là “nhân chứng”, mà theo đó thì “nhân chứng” là người bằng mắt thấy, tai
nghe hoặc do những nguồn tin khác cung cấp mà biết được những tình tiết có liên
quan đến vụ án, được cơ quan điều tra lấy lời khai, được Tòa án, Viện kiểm sát triệu
tập đến làm chứng trước và tại phiên tòa. Làm chứng là một nghĩa vụ của công dân.
Nhân chứng có nhiệm vụ có mặt khi được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập và
phải khai báo đúng sự thật, nếu gian dối trong khai báo hoặc trốn tránh việc khai
báo mà không có lý do chính đáng có thể bị xử lý theo pháp luật.
Theo quan điểm của các nhà khoa học Đại học Luật Hà Nội thì: “Người làm
chứng là người biết các tình tiết có liên quan đến vụ án và được các cơ quan tiến
hành tố tụng triệu tập để khai báo về những sự việc cần xác minh trong vụ án” [21,
tr.145]. Theo cách hiểu này thì người làm chứng là người biết được các thông tin,
tình tiết liên quan đến vụ án đang điều tra nên họ được các cơ quan tiến hành tố
tụng (gồm cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) triệu tập họ để họ khai báo về
9
những gì họ biết liên quan vụ án phục vụ điều tra làm rõ vụ án để xử lý trước pháp
luật.
Còn theo quan điểm của các nhà khoa học thuộc Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh thì: “Người làm chứng là người biết được tình tiết có liên quan đến vụ án
và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập tham gia tố tụng” [22,
tr.189]. Theo quan điểm của các nhà khoa học thuộc Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh thì người làm chứng là người biết về các thông tin, tình tiết liên quan đến
vụ án, được các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập họ tham gia vào
các hoạt động tố tụng, có thể là tham gia vào các hoạt động điều tra (lấy lời khai
người làm chứng, thực nghiệm điều tra, đối chất, nhận dạng...) hay tham gia vào
quá trình xét xử của Tòa án.
Theo quy định tại Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì người làm chứng
là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và
được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng
Người làm chứng tham gia vào quá trình tố tụng theo sự triệu tập của cơ
quan tiến hành tố tụng hoặc tự nguyện đến cơ quan tiến hành tố tụng khai báo về
các tình tiết mà mình biết, được các cơ quan tiến hành tố tụng xác định tư cách là
người làm chứng trong vụ án hình sự.
Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới như Liên
bang Nga, Vương quốc Thái Lan... cho thấy, Bộ luật Tố tụng hình sự của các nước
này, đều quy định về trình tự, thủ tục lấy lời khai của người làm chứng.
Trong Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga, địa điểm và thời gian hỏi
cung người làm chứng được quy định tại Điều 187, thủ tục triệu tập người làm
chứng để hỏi cung được quy định tại Điều 188, những quy định chung khi tiến hành
hỏi cung được quy định tại Điều 189. Điều 189 quy định: “Trước khi hỏi cung, dự
thẩm viên thực hiện những yêu cầu được quy định tại khoản 4 Điều 164 Bộ luật
này. Nếu dự thẩm viên nghi ngờ về việc người bị hỏi cung không sử dụng thành
thạo ngôn ngữ được dùng trong tố tụng, thì dự thẩm viên giải thích cho người được
hỏi cung trình bày nguyện vọng được khai báo bằng ngôn ngữ nào. Nghiêm cấm
10
đưa ra các câu hỏi có tính chất mớm cung. dự thẩm viên được tự do lựa chọn chiến
thuật hỏi cung”.
Bộ luật Tố tụng hình sự Vương quốc Thái Lan quy định về trình tự, thủ tục
hỏi cung người làm chứng, người bị hại và những người khác tại Điều 133: “Trong
quá trình thẩm tra, điều tra viên có thể yêu cầu người đó tuyên thệ hoặc khẳng định
sự trung thực của lời khai trước khi khai báo, đồng thời điều tra viên phải tuân theo
mọi quy định về chứng cứ, lời khai của Bộ luật này... Không điều tra viên nào được
phép gợi ý, khuyến khích hay dùng nhục hình để ngăn cản người bị lấy lời khai khai
báo theo nguyện vọng của họ” [30, tr.37].
Bộ luật Tố tụng hình sự Hàn Quốc quy định về lời thề của người làm chứng
tại Điều 156 và Điều 157. Điều 156 quy định: “Một nhân chứng sẽ bắt buộc phải
thề trước khi bị thẩm vấn, trừ khi Luật quy định khác” [27, tr.33]. Điều 157 Bộ luật
quy định mẫu lời thề tuyên thệ: "Văn bản tuyên thệ sẽ ghi “Tôi thề rằng tôi sẽ nói sự
thật, toàn bộ sự thật và không phải là cái gì khác ngoài sự thật mà tôi được biết, nếu
có điều gì sai trái trong lời nói của tội, tôi sẽ bị xử phạt” [27, tr.33].
Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp, ngoài việc quy định người làm
chứng phải tuyên thệ và khai tại Điều 437, Điều 438 còn quy định cụ thể về trách
nhiệm của người làm chứng: “Nếu người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa hoặc
không chịu tuyên thệ, không chịu khai, thì Viện Công tố có thể yêu cầu Tòa tiểu
hình xử phạt người này theo quy định tại Điều 109” [5, tr.197].
Đáng lưu ý, pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Malaysia phân loại người
làm chứng thành hai loại: người làm chứng buộc tội và người làm chứng gỡ tội. Để
đảm bảo sự có mặt của người làm chứng tại phiên tòa, Điều 145 Bộ luật Tố tụng
hình sự Liên bang Malaysia quy định về cam kết của người làm chứng: “1. Người
làm chứng buộc tội va người làm chứng gỡ tội cần phải có mặt tại phiên tòa xét xử
trước Tòa án cấp cao, phải thực hiện cam kết trước cán bộ xét xử sẽ có mặt tại phiên
tòa xét xử khi được triệu tập để cung cấp chứng cứ và cán bộ xét xử có thể cân nhắc
yêu cầu họ đảm bảo chấp hành cam kết đó” [28, tr.67].
11
Khác với pháp luật tố tụng hình sự các nước nói trên, pháp luật tố tụng hình
sự Nhật Bản quy định người làm chứng được từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào buộc
tội những người thân thích của họ. Điều 147 Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản quy
định: “Một người làm chứng có thể từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào mà có thể
nghiêng về hướng buộc tội những người sau đây:
1. Vợ chồng, người thân ruột thịt trong phạm vi ba đời hoặc người bà con
gần gũi trong phạm vi hai đời của người làm chứng hoặc người đã có mối quan hệ
với người làm chứng.
2. Người giám hộ, người giám sát của người giám hộ hoặc người phụ trách
của người làm chứng.
3. Người mà được người làm chứng giám hộ, phụ trách hoặc giám sát người
giám hộ của người đó” [29, tr.26]. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ở nước ta đã
dựa trên những căn cứ (tiêu chí) nhất định để phân loại người làm chứng. Việc phân
loại người làm chứng thành các nhóm khác nhau dựa trên cơ sở một căn cứ xác định
nhằm phục vụ cho việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người
làm chứng có hiệu quả hơn. Có nhiều cách phân loại khác nhau, nhưng trên thực tế,
các cơ quan tiến hành tố tụng có thể sử dụng các cách phân loại dựa trên tiêu chí độ
tuổi, quốc tịch, ngôn ngữ, nguồn gốc sự hiểu biết các tình tiết có liên quan đến vụ
án, sự liên quan đến vụ án hình sự, quan hệ với bị can, bị cáo, đặc điểm thể chất,
tinh thần, trình độ học vấn...
Sự phân loại người làm chứng theo các tiêu chí khác nhau ở trên có tác dụng
giúp cho việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng
được khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác. Trên cơ sở quan điểm này, chúng ta
không đồng tình với quan điểm tư sản đánh giá chứng cứ dựa vào giới, địa vị xã hội
của người làm chứng: “Khi những người làm chứng hợp pháp đáng tin cậy ngang
nhau, trong trường hợp lời khai của họ mâu thuẫn với nhau thì người được hưởng
ưu tiên là: 1) đàn ông được ưu tiên hơn đàn bà; 2) người cao quý được ưu tiên hơn
thường dân; 3) người học giả được ưu tiên hơn người không phải là học giả; 4) thầy
tu được ưu tiên hơn người thế tục” [17, tr.171].
12
Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, khi thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ từ lời khai của người làm chứng, phải chú ý cả những yếu tố khách quan
lẫn những yếu tố chủ quan ảnh hưởng tới mức độ chính xác trong lời khai của người
làm chứng: thời gian người làm chứng tri giác sự kiện, hiện tượng ngắn; khoảng
thời gian từ khi tri giác sự kiện, hiện tượng cho đến khi cung cấp lời khai cho các cơ
quan tiến hành tố tụng quá lâu; khoảng cách từ người làm chứng đến đối tượng
được tri giác quá xa; điều kiện thời tiết không thuận lợi cho việc tri giác như sương
mù, mưa, gió...); những kẻ phạm tội đã cố ý ngụy trang vấn đề mà người làm chứng
đã nhận biết, tri giác; người làm chứng có mối quan hệ gia đình, công tác... với bị
can, bị cáo hoặc người bị hại; một số giác quan của người làm chứng có khuyết tật;
người làm chứng không chú ý đến sự kiện, hiện tượng đã tri giác... Trong trường
hợp lời khai của những người làm chứng về cùng một sự kiện, hiện tượng có mâu
thuẫn với nhau, thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải làm rõ mâu thuẫn đó, chứ
không được áp đặt, suy diễn theo ý chí chủ quan.
Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến vụ án hình
sự và được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến với tư cách người làm chứng để
lấy lời khai theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Lời khai của người
làm chứng là lời trình bày của một người không bị người phạm tội xâm hại nhưng
đã biết được những tình tiết liên quan đến vụ án. Do lời khai người làm chứng là
nguồn chứng cứ phổ biến và là “một trong những nguồn chứng cứ lâu đời và phổ
biến nhất” [25, tr.62] nên Bộ luật Tố tụng hình sự có quy định về nghĩa vụ khai báo
và trách nhiệm của người làm chứng về việc khai báo đó. Ngoài ra, Bộ luật còn quy
định người làm chứng phải là người có năng lực nhận thức, tỉnh táo không mắc
bệnh tâm thần, phải có khả năng khai báo đúng đắn và có trách nhiệm đối với lời
khai đó. Những người bào chữa cho bị can, bị cáo không được làm chứng trong vụ
án.
Từ những phân tích ở trên, theo tác giả, chúng ta có thể hiểu khái niệm người
làm chứng như sau: “Người làm chứng là người biết được các thông tin, tình tiết có
liên quan đến vụ án hình sự và được các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để lấy
13
lời khai của họ về những sự việc, thông tin tình tiết cần xác minh làm rõ trong vụ án
hình sự”.
Tuy có sự trình bày khác nhau về khái niệm “người làm chứng” người làm
chứng trong vụ án hình sự đều có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, họ là người biết các tình tiết có liên quan đến vụ án đang điều tra.
Những tình tiết mà người làm chứng biết được có thể liên quan đến đối tượng
chứng minh được quy định tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 hoặc các
tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Việc họ biết được các tình tiết
của vụ án là một thực tế khách quan và vì vậy, họ có thể được triệu tập đến để khai
báo về các tình tiết của vụ án với tư cách là người làm chứng. Việc biết có thể là:
- Biết trực tiếp: là trực tiếp tri giác, phát hiện những tình tiết có liên quan đến
vụ án đã xảy ra, thông qua các cơ quan cảm giác như mắt nhìn, tai nghe... không
thông qua khâu trung gian nào. Do vậy, lời khai của người làm chứng biết trực tiếp
thường có độ chính xác cao.
- Biết gián tiếp: là việc họ biết được các tình tiết của vụ án thông quan khâu
trung gian như nghe người khác kể lại, đọc tài liệu... Do vậy, lời khai của người làm
chứng biết gián tiếp thường bị thiếu đầy đủ, thiếu chính xác, sự khách quan bị hạn
chế. Tuy nhiên, từ lời khai của người làm chứng biết gián tiếp có thể xác định được
người làm chứng biết trực tiếp của vụ án. Lời khai của họ cũng góp phần củng cố
thêm tài liệu, chứng cứ của vụ án; là cơ sở để tiến hành các hoạt động điều tra làm
rõ vụ án.
Thứ hai, được Cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến để lấy lời khai theo
đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật Tố tụng hình sự.
Do người làm chứng biết được các tình tiết có liên quan đến vụ án đang được
điều ttra nên họ được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến để lấy lời khai theo
đúng thủ tục pháp luật Tố tụng hình sự. Trong một vụ án, có thể có nhiều người biết
các thông tin liên quan đến vụ án nhưng không phải tất cả những người biết được
các tình tiết liên quan đến vụ án đều là người làm chứng, mà chỉ những người nào
được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến để lấy lời khai mới là người làm chứng.
14
Do vậy, khi triệu tập người làm chứng để lấy lời khai của họ, các cơ quan tiến hành
tố tụng thường lựa chọn triệu tập những người biết được nhiều tin tức quan trọng,
biết được các tình tiết một cách sâu sắc, chính xác, đầy đủ... để lấy lời khai của họ
với tư cách là người làm chứng. Những người được triệu tập làm người làm chứng
có thể là người Việt Nam đã thành niên, người chưa thành niên, người nước ngoài
đang sống ở Việt Nam... hoặc thậm chí có thể là bị can, bị cáo của những vụ khác.
Thứ ba, người làm chứng là người có thể khai báo chính xác, khách quan,
turng thực tất cả những thông tin mà họ biết về vụ án hình sự.
Người làm chứng là người biết được các thông tin, tình tiết có liên quan đến
vụ án hình sự nhưng họ không phải là người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan
đến vụ án nên lời khai của họ thường trung thực, khách quan, có ý nghĩa lớn trong
việc xác định sự thật của vụ án. Do vậy, trong lựa chọn và triệu tập người làm
chứng, các cơ quan tiến hành tố tụng phải lựa chọn triệu tập những người có khả
năng mô tả một cách tốt nhất, trung thực nhất, khách quan nhất những hiểu biết của
họ về các tình tiết của vụ án.
Trong điều tra vụ án hình sự, để đảm bảo lời khai của người làm chứng
khách quan, trung thực thì những người sau đây không được triệu tập với tư cách là
người làm chứng để lấy lời khai của họ gồm:
- Người bào chữa của người bị buộc tội. Người bào chữa của người bị buộc
tội có thể là: Luật sư, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo; bào chữa viên
nhân dân. Pháp luật quy định, người bào chữa chỉ được đưa ra những chứng cứ có
lợi cho bị cáo. Họ không thể làm chứng vì nghĩa vụ của người làm chứng là khai
báo trung thực tất cả những gì họ biết về vụ án hình sự. Nghĩa vụ đó mâu thuẫn với
nghĩa vụ của người bào chữa. Do đó, người bào chữa không được tham gia với hai
tư cách trong cùng một vụ án. Họ có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho bị can, bị cáo. Khi đó nếu để cho họ là người làm chứng trong vụ án sẽ không
đảm bảo tính khách quan, công minh của pháp luật.
- Người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng
nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc
15
không có khả năng khai báo đúng đắn. Người làm chứng phải là người có khả năng
nhận thức đúng đắn về một sự việc và phải có khả năng khai báo đúng đắn về sự
việc đó. Vì vậy, nếu vào thời điểm nhận thức sự việc hoặc thời điểm khai báo về sự
việc mà họ do có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà không có khả năng nhận
thực hoặc khai báo đúng đắn thì họ không được làm chứng. Tuy nhiên, nếu các
nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần không ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và
khai báo đúng đắn thì họ vẫn được làm chứng.
Tóm lại, người làm chứng luôn giữ một vai trò quan trọng trong điều tra làm
rõ sự thật khách quan củ vụ án hình sự. Họ có thể là người trực tiếp hoặc gián tiếp
biết các tình tiết của vụ án nhưng họ là người không có quyền và lợi ích pháp lý liên
quan đến vụ án nên lời khai của họ thường khách quan, trung thực, có giá trị chứng
minh. Việc nhận thức đúng về người làm chứng sẽ có ý nghĩa to lớn trong xác định
sự thật khách quan của vụ án hình sự, đảm bào xử lý đúng người, đúng tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan sai người vô tội.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động lấy lời khai người làm chứng
Lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ truyền
thống và phổ biến trong các vụ án hình sự vì người làm chứng là người biết được
các thông tin, tình tiết của vụ án, như: biết được diễn biến của vụ án hình sự, hoàn
cảnh phạm tội, thời gian, địa điểm, nhân thân người phạm tội, người bị hại... Đây là
nguồn chứng cứ rất quan trọng góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án
hình sự. Nhất là trong giai đoạn đầu điều tra vụ án, lời khai của người làm chứng
thường là cơ sở để tiến hành những biện pháp cấp bách, như: khám nghiệm hiện
trường, truy bắt thủ phạm sau khi thủ phạm gây án bỏ trốn, khám xét... Do vậy, khi
điều tra viên nhận được tin báo tố giác tội phạm cần khẩn trương xác định những
người có thể biết được các thông tin, tình tiết của vụ án để tiến hành lấy lời khai của
họ với tư cách là người làm chứng để thu thập tin tức, tài liệu phục vụ điều tra truy
bắt thủ phạm...
Lời khai người làm chứng là nguồn chứng cứ mà nguồn phản ánh của nó là
những con người cụ thể mang tính cá biệt cao vì lời khai người làm chứng là các
16
thông tin về vụ án được lưu giữ trong ý thức của người làm chứng. Và những thông
tin, tình tiết của vụ án chỉ trở thành chứng cứ khi những thông tin, tình tiết này được
phản ánh và tái hiện qua lời khai của người làm chứng - những con người cụ thể
phản ánh và tái hiện qua lời khai của người làm chứng - những con người cụ thể
hoàn toàn khác nhau về tâm lý, về kinh nghiệm xã hội, về tính cách, nhân cách...
Do vậy, khi hoạt động tố tụng hình sự càng có tính tranh tụng bao nhiêu thì
lời khai người làm chứng càng được sử dụng phổ biến bấy nhiêu. Niềm tin vào lời
khai người làm chứng trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án là một
phần niềm tin của con người vào sự công minh, khách quan của hoạt động xét xử.
Có thể nói trong tương lai, dù khoa học kỹ thuật có phát triển đến đâu đi chăng nữa,
dù máy móc tự động có thể thay thế con người trong nhiều lĩnh vực khác nhau trong
xã hội thì lời khai người làm chứng vẫn có vai trò to lớn trong hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Do lời khai người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng
trong điều tra làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án hình sự. Vì vậy, để lời khai
người làm chứng đảm bảo khách quan, chính xác thì quá trình lấy lời khai phải đảm
bảo công minh theo đúng qui định của pháp luật tố tụng hình sự.
Hiện nay, theo quan điểm của các nhà khoa học thuộc Trường Đại học luật
Hà Nội thì lấy lời khai của người làm chứng được hiểu như sau: “Lấy lời khai của
người làm chứng là hoạt động điều tra nhằm thu thập chứng cứ do người làm chứng
đưa ra góp phần giải quyết vụ án hình sự”. Như vậy, theo quan điểm của các nhà
khoa học thuộc Trường Đại học Luật Hà Nội [21, tr.296] thì nội hàm thuật ngữ “lấy
lời khai của người làm chứng” gồm 02 nội dung lớn sau:
Một là, lấy lời khai người làm chứng là hoạt động điều tra, tức là quá trình
thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm xác định tội phạm và người thực hiện hành vi
phạm tội làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Như vậy, ngay từ đầu các nhà khoa
học thuộc Đại học Luật Hà Nội đã khẳng định lấy lời khai của người làm chứng là
một hoạt động điều tra theo pháp luật tố tụng hình sự.
17
Hai là, mục đích lấy lời khai của người làm chứng là nhằm thu thập chứng
cứ do người làm chứng đưa ra góp phần giải quyết vụ án hình sự. Chứng cứ do
người làm chứng đưa ra có thể là vật chứng mà người làm chứng thu giữ được,
cũng có thể là những thông tin, tình tiết liên quan đến vụ án mà người làm chứng
biết được.
Bên cạnh đó, khi nhìn nhận về lấy lời khai người làm chứng thì các nhà khoa
học thuộc Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh có quan điểm sau: “Lấy lời khai
người làm chứng là hoạt động điều tra nhằm thu thập chứng cứ do người làm chứng
đưa ra bằng việc đặt các câu hỏi để họ trả lời các câu hỏi đó” [22, tr.404]. Như vậy,
theo quan điểm của các nhà khoa học thuộc Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
thì quan điểm về lấy lời khai người làm chứng giống với quan điểm của các nhà
khoa học thuộc Đại học Luật Hà Nội về bản chất, mục đích của lấy lời khai người
làm chứng.
Tuy nhiên, trong quan điểm của các nhà khoa học thuộc Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh thì nội dung lấy lời khai người làm chứng chỉ bó hẹp trong việc
đặt các câu hỏi để người làm chứng trả lời các câu hỏi đó.
Ngoài ra, theo quan điểm của khoa học Điều tra hình sự trong Công an nhân
dân thì lấy lời khai người làm chứng có các đặc điểm đặc trưng sau:
Thứ nhất, lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự là một biện
pháp điều tra nhằm làm rõ những tình tiết, thông tin của vụ án hình sự và những
tình tiết, tài liệu khác có ý nghĩa đối với việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ
án hình sự. Khác với bị can và người bị hại, người làm chứng chỉ có thể cung cấp
cho điều tra viên những tin tức, tài liệu về một hay vài tình tiết nào đó của vụ án.
Lời khai của người làm chứng bao hàm những tin tức, tài liệu về những tình tiết của
vụ án cụ thể, đặc điểm nhân thân của bị can, người bị hại và những tin tức tài liệu
khác mà người làm chứng biết. Mục đích của lấy lời khai người làm chứng không
chỉ nhằm thu thập những tin tức, tài liệu về vụ án mà còn thu thập cả những tin tức,
tài liệu về những tình tiết xảy ra trước, trong và sau khi vụ án xảy ra, những tình tiết
có liên quan đến vụ án; những tài liệu có thể sử dụng trong quá trình điều tra để thu
18
thập những chứng cứ mới; hay để kiểm tra và đánh giá những tài liệu, chứng cứ đã
có trong quá trình lấy lời khai của những người làm chứng
Thứ hai, lấy lời khai của người làm chứng phải được tiến hành nhanh chóng
nhằm thu thập những thông tin về vụ án, như: thời gian, địa điểm xảy ra vụ án; số
lượng, đặc điểm, hướng chạy trốn của đối tượng gây án, tính chất của vụ án; hậu
quả, tác hại do hành vi phạm tội gây ra; đặc điểm người bị hại, đặc điểm những vũ
khí, công cụ, phương tiện gây án...
Chính vì vậy, ngay sau khi tiếp nhận được tin báo, tố giác về vụ án xảy ra,
Điều tra viên cần nhanh chóng xác định những người có thể biết được những tình
tiết của vụ án để triệu tập và lấy lời khai của họ với tư cách là người làm chứng
trong vụ án nhằm khai thác mọi khả năng hiểu biết của họ về vụ án, giúp cho quá
trình điều tra làm rõ vụ án được nhanh chóng, chính xác, khách quan.
Thứ ba, lấy lời khai người làm chứng còn là biện pháp điều tra mang tính
phổ biến, thường xuyên được tiến hành trong điều tra các vụ án hình sự.
Thứ tư, lấy lời khai của người làm chứng là một trong những biện pháp điều
tra có hiệu quả nhất.
Từ những phân tích ở trên, có thể hiểu hoạt động lấy lời khai người làm
chứng trong tố tụng hình sự là: “Hoạt động lấy lời khai của người làm chứng trong
tố tụng hình sự là biện pháp điều tra được tiến hành theo trình tự, thủ tục được qui
định trong Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm thu thập những thông tin, tình tiết, tài liệu
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án hình sự hoặc có ý nghĩa đối với việc làm
sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án hình sự”.
1.2. Chủ thể có thẩm quyền lấy lời khai của người làm chứng theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn khởi tố
Theo quy định tại Điều 186 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định
Điều tra viên là chủ thể tiến hành lấy lời khai người làm chứng. Để trở thành Điều
tra viên thì họ phải là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết,
19
trung thực, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa [12] và phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về Điều tra viên được quy
định trong Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015.
“Điều tra viên là người được bổ nhiệm để làm nhiệm vụ Điều tra hình sự”
được quy định tại Điều 45 của Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015. Họ
là chủ thể được phân công tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự và
không được làm những điều mà người Điều tra viên không được làm, Điều tra viên
là người tham gia trực tiếp vào quá trình điều tra trong tố tụng hình sự, do đó họ
được phép lấy lời khai người làm chứng, để đảm bảo tính khách quan, chính xác
trong việc lấy lời khai và họ được đào tạo về trình độ và chuyên môn nghiệp vụ
theo đúng quy định, bên cạnh đó họ còn phải có kinh nghiệm về lấy lời khai để họ
áp dụng vào thực tế cho phù hợp.
Về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Điều tra viên được quy định cụ
thể tại Điều 37 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 trong đó có quyền triệu tập và
lấy lời khai người làm chứng. Bên cạnh đó, tại khoản 3 Điều 186 của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 quy định việc trước lấy lời khai người làm chứng, trong mọi
trường hợp Điều tra viên phải giải thích quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định tại
Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để họ nắm và biết được quyền và nghĩa
vụ có họ khi tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự, cho họ biết được các quyền và
nghĩa vụ phải thực hiện. Việc giải thích quyền và nghĩa vụ của người làm chứng
phải được ghi vào biên bản. Từ những quy định trên cho thấy, Điều tra viên có
quyền triệu tập và lấy lời khai người làm chứng theo quy định của pháp luật.
Điều tra viên lấy lời khai người làm chứng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình
sự, điều tra viên triệu tập người làm chứng đến để lấy lời khai để thu thập chứng cứ,
nắm thêm các nguồn tin về vụ án như đối tượng gây án, hướng chạy trốn của đối
tượng, hung khí gây án và những tình tiết khác về vụ án để khởi tố vụ án. Đến giai
đoạn điều tra vụ án, Điều tra viên tiếp tục tiến hành triệu tập người làm chứng đến
lấy lời khai, để làm sáng tỏ thêm một số tình tiết có liên quan đến vụ án, khẳng định
20
lại lời khai ban đầu của họ và chứng minh xem họ có khai đúng sự thật vụ án một
cách trung thực, khách quan và chính xác hay không.
Khi tiến hành lấy lời khai người làm chứng Điều tra viên phải nghiên cứu hồ
sơ vụ án, xác định được mục đích lấy lời khai, sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án xong,
phải lập kế hoạch lấy lời khai, có kế hoạch Điều tra viên mới có sự chủ động, nắm
chắc được những nội dung cần phải làm và cần lựa chọn hình thức triệu tập người
làm chứng hợp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập tiếp xúc tâm lý
giữa Điều tra viên và người làm chứng, đồng thời Điều tra viên cũng là người lựa
chọn thời gian và địa điểm lấy lời khai người làm chứng một cách phù hợp.
1.2.2. Giai đoạn điều tra và giai đoạn truy tố
Trong giai đoạn này, bên cạnh thẩm quyền của điều tra viên, theo quy định
tại khoản 5 Điều 186 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: “Trường hợp xét thấy
việc lấy lời khai của Điều tra viên không khách quan hoặc có vi phạm pháp luật
hoặc xét cần làm rõ chứng cứ, tài liệu để quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê
chuẩn quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra hoặc để quyết định việc truy tố thì
Kiểm sát viên có thể lấy lời khai người làm chứng. Việc lấy lời khai người làm
chứng được tiến hành theo quy định tại Điều này”.
Để trở thành Kiểm sát viên thì họ phải là công dân Việt Nam trung thành với
Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất
đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần kiên
quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa [16] và đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về
Kiểm sát viên được quy định trong Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân 2014.
Theo quy định tại Điều 74 của Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân 2014
“Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện
chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Theo đó ta có thể
hiểu Kiểm sát viên kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện trong suốt quá trình giải
quyết vụ án hình sự. Về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên
được quy định cụ thể tại Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Từ những
21
quy định trên cho thấy, Kiểm viên có quyền triệu tập và lấy lời khai người làm
chứng theo quy định của pháp luật.
Trong hoạt động lấy lời khai người làm chứng Kiểm sát viên thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố, đặc biết để có căn cứ phê chuẩn, hủy bỏ các quyết
định của cơ quan điều tra và kiểm sát hoạt động lấy lời khai người làm chứng của
Điều tra viên. Trong trường hợp Kiểm sát viên thấy việc lấy lời khai người làm
chứng của Điều tra viên không khách quan, không đầy đủ chứng cứ, không trung
thực hoặc có vi phạm pháp luật hoặc xét cần làm rõ chứng cứ, tài liệu để quyết định
việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra hoặc
để quyết định việc truy tố thì Kiểm sát viên có thể lấy lời khai người làm chứng, để
làm rõ thêm những nội dung mà cho rằng không khách quan hay thiếu chính xác về
vụ án. Việc Kiểm sát viên tiến hành lấy lại lời khai người làm chứng là thật sự cần
thiết do tình tiết khách quan của vụ án và những yêu cầu trong việc giám sát hoạt
động điều tra, đảm bảo việc tiến hành tố tụng hình sự được đúng theo quy định của
pháp luật.
Trường hợp Kiểm sát viên xét thấy việc lấy lời khai người làm chứng của
Điều tra viên không khách quan là việc Kiểm sát viên nhận thấy trong quá trình lấy
lời khai người làm chứng của Điều tra viên không trung thực, khi đó lời khai của
người làm chứng sẽ không chính xác, không đúng với sự thật của vụ án thì Kiểm sát
viên sẽ tiến hành lấy lời khai người làm chứng lại, để đảm bảo tính khách quan và
trung thực trong việc lấy lời khai người làm chứng.
Trường hợp Kiểm sát viên xét thấy việc lấy lời khai người làm chứng của
Điều tra viên có vi phạm pháp luật, có nghĩa là Kiểm sát viên nhận thấy trong quá
trình lấy lời khai người làm chứng của Điều tra viên không thực hiện đúng nhiệm
vụ, quyền hạn và tiến hành lấy lời khai người làm chứng không đúng trình tự, thủ
tục mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định hoặc Điều tra viên có hành vi bức cung,
nhục hình đối với người chứng, buộc người làm chứng phải khai theo ý muốn chủ
quan của Điều tra viên, thì Kiểm sát viên sẽ tiến hành lấy lời khai người làm chứng
lại nhằm đảm bảo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định.
22
Trường hợp Kiểm sát viên xét thấy việc lấy lời khai người làm chứng của
Điều tra viên và dùng lời khai của người làm chứng dùng để xét cần làm rõ chứng
cứ, tài liệu để quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố tụng
của Cơ quan điều tra, là việc Kiểm sát viên nhận thấy trong quá trình lấy lời khai
người làm chứng của Điều tra viên không trung thực, vi phạm pháp luật trong việc
lấy lời khai, lời khai của người làm chứng không đủ căn cứ để làm rõ những chứng
cứ, tài liệu để quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố tụng
của Cơ quan điều tra, thì Kiểm sát viên sẽ tiến hành lấy lời khai người làm chứng
lại, để làm rõ chứng cứ, tài liệu cho việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết
định tố tụng.
Trường hợp Kiểm sát viên xét thấy việc lấy lời khai người làm chứng của
Điều tra viên để quyết định việc truy tố, là việc Kiểm sát viên nhận thấy trong quá
trình lấy lời khai người làm chứng của Điều tra viên không khách quan, vi phạm
pháp luật hoặc lời khai của người làm chứng không đủ chứng cứ để quyết định truy
tố, thì Kiểm sát viên sẽ tiến hành lấy lời khai người làm chứng lại, để đưa ra đầy đủ
chứng cứ để quyết định truy tố.
1.2.3. Giai đoạn xét xử
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, hoạt động thu thập chứng cứ chủ
yếu được thực hiện thông qua hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ của cơ quan
điều tra. Đến giai đoạn xét xử, các cơ quan và người tiến hành tố tụng chủ yếu tập
trung vào việc kiểm tra và đánh giá các chứng cứ đã được cơ quan điều tra thu thập
để trên cơ sở đó đưa ra kết luận về vụ án; thu thập bổ sung chứng cứ hoặc đề ra
những yêu cầu điều tra bổ sung. Tuy nhiên, với chức năng là cơ quan xét xử nên
việc phát hiện, thu thập chứng cứ ở giai đoạn xét xử mang tính mờ nhạt, không
được đề cao và các biện pháp thu thập chứng cứ áp dụng trong giai đoạn này cũng
hạn chế.
Để thu thập chứng cứ ở giai đoạn xét xử, Hội đồng xét xử có thể áp dụng
một số phương pháp sau:
23
- Triệu tập người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan, bị cáo, người giám định đến phiên tòa để xét hỏi nhằm
kiểm tra lại tính đúng đắn của những lời khai và các tài liệu đã được thu thập trong
giai đoạn điều tra. Thông qua việc xét hỏi và đối chất công khai giữa những người
tham gia tố tụng này giúp làm sáng tỏ những vấn đề mâu thuẫn và thông qua đó
phát hiện những tình tiết mới phát sinh có liên quan đến việc giải quyết vụ án.
- Tiến hành trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định lại khi
có nghi ngờ về các kết luận trước đó.
- Xem xét tại chỗ nơi xảy ra tội phạm, những địa điểm có liên quan đến vụ án
hoặc tại nơi có vật chứng mà không thể đưa đến phiên tòa được.
- Yêu cầu các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình
bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
Kiểm tra chứng cứ trong giai đoạn xét xử là hoạt động của Kiểm sát viên,
Thẩm phán và Hội thẩm tiến hành nhằm xác định một cách thận trọng, toàn diện,
khách quan tính chính xác của những thông tin thực tế và tính đáng tin cậy của
những nguồn chứng cứ đã được thu thập trong quá trình điều tra để xác lập một
cách đúng đắn mọi tình tiết của vụ án hình sự. Kiểm tra chứng cứ chính là kiểm tra
về các thuộc tính, về giá trị sử dụng của các chứng cứ này. Việc không kiểm tra
hoặc kiểm tra không đầy đủ có thể dẫn đến việc ra các phán quyết không đúng với
bản chất, nội dung vụ án.
Kiểm tra chứng cứ trong giai đoạn xét xử phải tập trung làm rõ những vấn đề
sau đây:
- Các chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra có khách quan
không;
- Những chứng cứ này có liên quan đến đối tượng chứng minh do pháp luật
quy định không, tình tiết cụ thể nào của đối tượng chứng minh, mức độ cụ thể ra
sao;
- Nguồn của chứng cứ có ảnh hưởng đến tính khách quan của những thông
tin để chứng minh mà nó phản ánh không;
24
- Quá trình thu thập chứng cứ có tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố
tụng hình sự hay không;
Hoạt động kiểm tra chứng cứ chỉ có thể đạt được mục đích đề ra khi nó được
tiến hành bằng những biện pháp khoa học. Các phương pháp này được áp dụng
trong thực tiễn có nhiều điểm khác nhau tùy theo các vụ án nhưng tựu trung đều
hướng đến mục đích xác định giá trị chứng minh của các chứng cứ. Cụ thể, khi tiến
hành kiểm tra chứng cứ, Kiểm sát viêm, Thẩm phán và Hội thẩm phải:
- Phân tích nội dung của từng chứng cứ để xác định tính chân lý khách quan
của chứng cứ;
- So sánh, đối chiếu chứng cứ cần kiểm tra với những chứng cứ khác đã được
kiểm tra có phù hợp với thực tế khách quan hay không;
- Thông qua hoạt động kiểm tra chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và
tại phiên tòa để đề ra yêu cầu điều tra bổ sung, thu thập các chứng cứ mới nhằm làm
rõ thêm chứng cứ cần kiểm tra.
“Đánh giá” hiểu theo nghĩa chung nhất là “nhận thức cho rõ giá trị một người
hoặc một vật”, là kết quả của việc kiểm tra để thừa nhận việc tồn tại hay không tồn
tại của những sự kiện phạm tội, đánh giá chứng cứ trong giai đoạn xét xử được nhìn
nhận là hoạt động nhận thức phức tạp và quan trọng nhất của quá trình chứng minh
và cũng là hoạt động quan trong nhất trong giai đoạn xét xử.
Như vậy, người viết cho rằng đối với hoạt động lấy lời khai người làm chứng
ở giai đoạn xét xử, thì thẩm phán, hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên chủ yếu thực
hiện hoạt động đánh giá lời khai của người làm chứng trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử và giai đoạn xét xử. Ngoài ra, theo Điều 186 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,
chủ thể có thẩm quyền lấy lời khai người làm chứng là kiểm sát viên và điều tra
viên.
1.3. Phân loại, quyền và nghĩa vụ người làm chứng theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự
1.3.1. Phân loại người làm chứng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự
25
Thứ nhất, căn cứ vào nguồn hiểu biết của người làm chứng, có thể chia làm
hai loại là người làm chứng trực tiếp và người làm chứng gián tiếp, trong đó:
+ Người làm chứng trực tiếp là người làm chứng trực tiếp tri giác một phần
hay toàn bộ các tình tiết có liên quan tới vụ án và bị can khi các sự kiện, tình tiết ấy
đang xảy ra.
+ Người làm chứng gián tiếp là người làm chứng nghe thuật lại những tình
tiết liên quan đến vụ án là do người khác thuật lại cho.
Thứ hai, căn cứ vào độ tuổi của người làm chứng mà chia thành người làm
chứng từ đủ 18 tuổi trở lên và dưới 18 tuổi.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định bổ sung, sửa đổi về thủ tục lấy
lời khai người làm chứng dưới 18 tuổi. Cụ thể:
Khi lấy lời khai người dưới 18 tuổi, cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo
trước thời gian, địa điểm cho người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ biết. Việc lấy lời khai người làm chứng phải có người đại diện hoặc
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ tham dự.
Thời gian lấy lời khai người dưới 18 tuổi không quá 02 lần trong 01 ngày và
mỗi lần không quá 02 giờ, trừ các trường hợp: lấy lời khai trong vụ án có nhiều tình
tiết phức tạp; hỏi cung bị can phạm tội có tổ chức; để truy bắt người phạm tội khác
đang bỏ trốn; ngăn chặn người khác phạm tội; để truy tìm công cụ, phương tiện
phạm tội hoặc vật chứng khác của vụ án; hoặc vụ án có nhiều tình tiết phức tạp
(khoản 4, khoản 5 Điều 421).
Thứ ba, căn cứ vào sự liên quan hay không liên quan tới tội phạm mà chia
người làm chứng thành hai loại:
+ Người làm chứng có mối quan hệ với những người tham gia tố tụng khác
là người mà trong vụ án đó họ có hành vi phạm pháp nhưng cơ quan điều tra chưa
hoặc không khởi tố bị can. Do đó, trong thời điểm lấy lời khai thì họ đang ở vị trí
người làm chứng.
26
+ Người làm chứng không có mối quan hệ với những người tham gia tố tụng
khác là người do điều kiện, hoàn cảnh nào đó mà họ ngẫu nhiên được biết sự kiện
phạm tội hoặc những tình tiết khác của vụ án và bị can của vụ án đó.
Thứ tư, ngoài những cách phân loại trên, có thể phân loại người làm chứng
thành:
- Người làm chứng có đủ năng lực pháp luật và người làm chứng hạn chế về
năng lực pháp luật.
- Người làm chứng bị mù chữ và người làm chứng có trình độ học vấn hoặc
nghề nghiệp nhất định.
1.3.2. Quyền và nghĩa vụ của người làm chứng theo quy định của pháp luật
tố tụng hình sự
1.3.2.1. Quyền của người làm chứng theo quy định của pháp luật Tố tụng
hình sự Việt Nam
Tại khoản 1 Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Người làm
chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ
án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.
Quyền của người làm chứng được quy định cụ thể tại khoản 3 Điều 66, gồm:
a) Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
b) Yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, tài sản và quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình
khi bị đe dọa;
c) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng liên quan đến việc mình tham gia làm chứng;
d) Được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác
theo quy định của pháp luật.
Như vậy, so với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật
mới đã bổ sung một số quyền mới của người làm chứng để không chỉ bảo vệ người
làm chứng mà còn bảo vệ người thân thích của họ, tạo tâm lý tốt cho người làm
chứng khi tham tố tụng; cụ thể là:
27
– Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
– Yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, tài sản và quyền, lợi ích hợp pháp khác của người thân thích của mình khi bị
đe dọa;
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 không quy định riêng về thủ tục tố tụng
đối với người làm chứng là người chưa thành niên, mà chỉ quy định thủ tục tố tụng
đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Vậy
nên, người chưa thành niên khi tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng thì
họ chỉ có quyền, nghĩa vụ như đối với người đã thành niên là chưa phù hợp với tâm
lý, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người chưa thành niên và chưa
phù hợp với chuẩn mực quốc tế, nhất là với Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
Khắc phục hạn chế của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 (tại Chương 28, Phần thứ 7) đã quy định thủ tục tố tụng đặc biệt đối với
người dưới 18 tuổi, trong đó có người làm chứng. Theo đó, khi tham gia tố tụng với
tư cách người làm chứng, người dưới 18 được áp dụng thủ tục tố tụng đặc biệt
nhằm bảo đảm các lợi ích tốt nhất của họ. Đồng thời họ còn được áp dụng những
quy định khác của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không trái với quy định tại
Chương 28 Bộ luật này.
Đối với việc lấy lời khai người làm chứng dưới 18 tuổi, Cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện đúng quy định tại Điều 421 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015, tức là: Phải thông báo trước thời gian, địa điểm lấy lời khai cho
người đại diện của người làm chứng; việc lấy lời khai người làm chứng phải có đại
diện của họ tham dự; thời gian lấy lời khai người làm chứng dưới 18 tuổi không quá
hai lần trong 01 ngày và mỗi lần không quá 02 giờ, trừ trường hợp vụ án có nhiều
tình tiết phức tạp. Đây là quy định mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nhằm
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi. Ngoài việc thực hiện
đúng quy định tại Điều 421 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, việc lấy lời khai
người làm chứng dưới 18 tuổi còn được áp dụng quy định tại các điều 127, 185, 186
và 187 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
28
1.3.2.2. Nghĩa vụ của người làm chứng theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam
Lời khai của nhân chứng trong một số vụ án hình sự có thể là những tình tiết
quan trọng giúp làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Đây cũng là nghĩa vụ của
người làm chứng được quy định rõ tại điểm b, khoản 4, Điều 55 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 (đang có hiệu lực thi hành) và điểm b khoản 4 Điều 66 Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015.
Trong một số vụ án, các nhân chứng đã có những lời khai hoàn toàn trái
ngược với những gì họ đã khai với cơ quan điều tra trước đây. Việc người làm
chứng thay đổi lời khai, làm cho vụ án thêm phức tạp nhưng cũng đã góp phần làm
rõ một số tình tiết quan trọng có thể giúp làm sáng tỏ vụ án.
Tuy nhiên, nếu các lời khai này qua xác minh, giám định, xác định là không
đúng sự thật, cố tình bịa đặt, cung cấp tài liệu giả mạo, gian dối nhằm chuyển
hướng dư luận, nhiễu loạn thông tin, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của
các cơ quan tố tụng thì những người thực hiện hành vi này sẽ phải chịu chế tài hình
sự theo Điều 307 hoặc 308 Bộ luật hình sự. Bởi lẽ, Điều 55 Bộ luật Tố tụng hình sự
quy định về nghĩa vụ người làm chứng: Khai trung thực tất cả những tình tiết mà
mình biết về vụ án. Người làm chứng từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà
không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ
luật hình sự; khai báo gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của
Bộ luật hình sự.
Theo quy định tại Điều 307 Bộ luật hình sự năm 1999 thì người làm chứng
có thể chịu trách nhiệm hình sự về hành vi khai báo gian dối với mức cao nhất là 7
năm tù giam. Các mức phạt cụ thể đối với hành vi người làm chứng khai báo gian
dối như sau:
Người làm chứng mà khai gian dối hoặc cung cấp những tài liệu mà mình
biết rõ là sai sự thật, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc
phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm;
29
Nếu khai gian dối có tổ chức hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì người làm
chứng đó sẽ bị phạt tù từ 1 năm đến 3 năm (tính chất gây hậu quả nghiêm trọng
được Bộ luật hình sự năm 2015 giải thích cụ thể hơn là “dẫn đến việc kết án oan
người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm”);
Nếu người làm chứng khai gian dối gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc
biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm (Bộ luật hình sự năm 2015 nêu
rõ hơn về trường hợp phải chịu mức phạt này đó là khi người phạm tội thuộc 1
trong 2 trường hợp: Phạm tội 2 lần trở lên; và dẫn đến việc kết án oan người vô tội
hoặc bỏ lọt tội phạm).
Ngoài ra, người làm chứng thực hiện hành vi khai báo gian dối ngoài các
mức phạt trên còn có thể chịu hình phạt bổ sung đó là: Bị cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.
Còn đối với Tội từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định hoặc từ chối
cung cấp tài liệu thì người nào từ chối khai báo nếu không thuộc trường hợp quy
định tại khoản 2 Điều 22 Bộ luật hình sự hoặc trốn tránh việc khai báo, việc kết luận
giám định hoặc từ chối cung cấp tài liệu mà không có lý do chính đáng, thì bị phạt
cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1
năm.Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.
1.4. Mục đích lấy lời khai của người làm chứng theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam
Người làm chứng tham gia trực tiếp vào hoạt động tố tụng trình bày cho Cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng về những tình tiết, thông tin mà mình biết có
liên quan đến vụ án, nguồn tin về tội phạm, để làm sáng tỏ những tình tiết cần thiết
trong quá trình điều tra, chứng minh tội phạm. Người làm chứng là một trong những
người tham gia tố tụng thường có vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự
bởi lời khai của họ là một trong những nguồn chứng cứ và cung cấp nguồn chứng
cứ cho cơ quan điều tra trong việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
30
Một vụ án hình sự bao giờ cũng để lại dấu vết và những dấu vết đó được thể
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết
đúng đắn vụ án hình sự, nhằm xác định có hay không có hành vi phạm tội. Cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ căn cứ vào các dấu vết đã thu thập được để khởi
tố, truy tố, xét xử một người có hành vi phạm tội. Những dấu vết đó được gọi là
chứng cứ. Theo quy định khoản Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì lời
khai của người làm chứng được xác định là một trong nguồn chứng cứ góp phần
xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng
như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Thông qua
việc xác định nguồn gốc lời khai của người làm chứng mà cơ quan tiến hành tố tụng
sẽ đề ra được biện pháp thu thập chứng cứ, kiểm tra, đánh giá chứng cứ một cách
hợp pháp, từ đó xác định sự thật của vụ án, người làm chứng sẽ cung cấp thông tin
hữu ích cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc chứng minh làm
sáng tỏ vụ án. Thêm vào đó người làm chứng tham gia với tư cách là người vì lợi
ích chung, lợi ích xã hội, không có bất kỳ lợi ích cá nhân với mong muốn làm sáng
tỏ vụ án.
Việc lấy lời khai người làm chứng nhằm mục đích tìm chứng cứ, thu thập
các thông tin về vụ án để chứng minh sự thật của vụ án mà pháp luật quy định. Việc
chứng minh sự thật vụ án mới đủ căn cứ để kết luận cá nhân hoặc pháp nhân nào đó
có phạm tội hay không phạm tội, trong một vụ án đã xảy ra, nó có ý nghĩa rất quan
trọng trong công tác đấu tranh và phòng, chống tội phạm. Chính vì điều đó, việc
chứng minh sự thật vụ án không những là mục đích cuối cùng của việc điều tra vụ
án hình sự nói chung và hoạt động lấy lời khai người chứng nói riêng mà còn là yêu
cầu của pháp luật đối với giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Ngoài ra trong quá trình lấy khai người làm chứng của cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng thì có thể phát hiện thêm một số tình tiết mới có liên quan
đến vụ án đang điều tra, giúp cho cơ quan điều tranh nhanh chóng tìm ra thủ phạm
để kịp thời giải quyết vụ án, tránh gây dư luận trong quần chúng nhân dân. Có
những vụ án xảy ra trong quá khứ, công tác điều tra lại diễn ra ở thời điểm hiện tại
31
thì hoạt động lấy lời khai người làm chứng sẽ làm sáng tỏ thêm một số nội dung của
vụ án, từ đó mới có sở pháp lý để chứng minh sự thật của vụ án.
Thực tế đã có một số vụ án đã xảy ra thì các đối tượng đã dùng mọi thủ đoạn
để đánh lạc hướng của cơ quan điều tra như: xáo trộn hiện trường của vụ án, xóa
các dấu vết mà đối tượng để lại hiện trường, tạo hiện trường giả…gây khó khăn cho
việc điều tra vụ án của cơ quan điều tra. Chính vì thế cần thiết tiến hành lấy lời khai
người làm chứng nhằm thu thập chứng cứ, xác định đối tượng, để chứng minh sự
thật khách quan của vụ án.
Hoạt động lấy lời khai người làm chứng là một trong những biện pháp điều
tra mang tính phổ biến nhằm xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội
làm cơ sở giải quyết vụ án hình sự. Đây là quá trình cơ quan điều tra thu thập những
thông tin, tình tiết, tài liệu làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án hình sự hoặc có
ý nghĩa đối với việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án hình sự được lưu giữ,
phản ánh trong ý thức của người làm chứng. Theo đó, mục đích của hoạt động lấy
lời khai người làm chứng gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, xác định tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội và các tình
tiết khách quan của vụ án hình sự.
Hoạt động lấy lời khai người làm chứng là một trong những biện pháp điều
tra quan trọng nhằm xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Do
vậy, nhiệm vụ trọng tâm khi tiến hành lấy lời khai người làm chứng là cơ quan điều
tra phải thu thập các thông tin, tình tiết liên quan đến vụ án mà người làm chứng
biết để xác định có tội phạm xảy ra hay không? Thời gian, địa điểm xảy ra tội
phạm? Ai là người thực hiện hành vi phạm tội? Công cụ, phương tiện mà đối tượng
sử dụng để phạm tội... Trong trường hợp chưa bắt được đối tượng phạm tội thì cơ
quan điều tra phải lấy lời khai người làm chứng về tất cả những đặc điểm, dấu hiệu
của người phạm tội, nguyên nhân, diễn biến vụ án mà người làm chứng biết, công
cụ phương tiện đối tượng sử dụng để phạm tội, hướng chạy trốn của đối tượng
phạm tội sau khi gây án; những vật chứng còn lại của vụ án và nơi cất giấu... để có
biện pháp điều tra, truy bắt đối tượng và thu giữ vật chứng.
32
Trong nhiều trường hợp do trực tiếp chứng kiến vụ án xảy ra, người làm
chứng có thể cung cấp cho điều tra viên rất nhiều tình tiết quan trọng về vụ án, như:
số lượng, đặc điểm của đối tượng gây án; hướng chạy trốn của đối tượng gây án;
phương tiện mà đối tượng dùng để chạy trốn; nơi ẩn náu của đối tượng gây án (có
trường hợp người làm chứng biết rõ được nơi ẩn náu của đối tượng gây án, cũng có
trường hợp chỉ là những nhận định của người làm chứng về nơi ẩn náu của đối
tượng gây án, thông qua những hiểu biết của người làm chứng về đối tượng phạm
tội); vũ khí, công cụ, phương tiện mà người phạm tội đã sử dụng để thực hiện hành
vi phạm tội và các vật chứng khác của vụ án (như: tiền, vàng, xe máy, các loại tài
sản khác, các giấy tờ, tài liệu có liên quan đến hành vi phạm tội của thủ phạm).
Ngoài ra, trong một số vụ án bị phát hiện, điều tra ở giai đoạn chuẩn bị, khi
lấy lời khai của người làm chứng, điều tra viên cần phải thu thập những tin tức, tài
liệu về âm mưu và hành động chuẩn bị gây án, như: thăm dò địa bàn, chuẩn bị công
cụ, phương tiện gây án, địa điểm các đối tượng tập trung... để chuẩn bị thực hiện tội
phạm. Từ đó áp dụng các biện pháp ngăn chặn tội phạm.
Thứ hai, thu thập những tin tức, tài liệu khác có ý nghĩa làm sáng tỏ vụ án
hình sự.
Đây là nhiệm vụ cơ bản cần được giải quyết trong suốt quá trình lấy lời khai
người làm chứng. Mục đích của lấy lời khai người làm chứng bên cạnh việc thu
thập các thông tin, tình tiết, tài liệu có ý nghĩa trong việc xác định tội phạm và
người thực hiện hành vi phạm tội thì cơ quan điều tra cần phải thu thập cả những
thông tin, tài liệu khác có ý nghĩa trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ
án hình sự, như: các thông tin mà người làm chứng biết về người làm chứng khác,
các thông tin về điều kiện thời tiết khi người làm chứng chứng kiến đối tượng thực
hiện hành vi phạm tội...
Thứ ba, phục vụ kiểm tra, đánh giá các nguồn chứng chỉ khác.
Để điều tra làm rõ sự thật khách quan của vụ án hình sự, các cơ quan tiến
hành tố tụng phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp điều tra khác nhau, như: Hỏi
cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
33
dân sự; khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, đối chất... mỗi một hoạt
động điều tra sẽ giúp cơ quan tiến hành thu thập được các tài liệu, chứng cứ khác
nhau nhưng tất cả các nguồn chứng cứ này đều nhằm phục vụ mục đích chung là
làm sáng tỏ sự thật khác quan của vụ án hình sự. Do vậy, lời khai của người làm
chứng còn có vai trò quan trọng trong việc kiểm tra, đánh giá các tài liệu, chứng cứ
được thu thập qua các nguồn khác và phục vụ việc thực hiện các biện pháp điều tra
khác theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự.
Mặt khác, trong nhiều vụ án hình sự, có thể có vụ án có nhiều người làm
chứng khác nhau với những khả năng nhận thức, khả năng thị giác, thích giác, trí
nhớ, trạng thái tâm sinh lý khác nhau khi thu nhận, lưu giữ thông tin hoặc cung cấp
lời khai. Do vậy, lời khai người làm chứng còn có vai trò quan trọng trong kiểm tra,
đánh giá tính chính xác, khách quan, trung thực trong lời khai của người làm chứng
khác, góp phần làm sáng tỏ sự thật vụ án khách quan, chính xác.
1.5. Những yếu tố ảnh hưởng, tác động đến chất lượng của việc lấy lời
khai của người làm chứng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam
Người làm chứng trình bày những gì mà họ biết về vụ án, nhân thân của
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, quan hệ giữa họ với
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng khác
và trả lời những câu hỏi đặt ra. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là, mặc dù lời khai người
làm chứng là rất cần thiết nhưng để trở thành chứng cứ có giá trị chứng minh, lời
khai này còn phải phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án và người làm chứng
phải trả lời rõ vì sao mà họ biết được những tình tiết đó. Mặt khác, trong quá trình
thu thập, đánh giá và sử dụng lời khai của người làm chứng, điều tra viên phải nắm
vững được những yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau ảnh hưởng đến lời khai
và sự hiểu biết hay nhận thức của họ, như:
Thứ nhất, các yếu tố khách quan có thể ảnh hưởng đến lời khai của người
làm chứng như: thời gian để họ nhận biết sự việc, hiện tượng diễn ra quá nhanh
hoặc thời gian xảy ra đã quá lâu; người làm chứng không có kiến thức về lĩnh vực
34
đó; hiện trường nơi xảy ra tội phạm người phạm tội đã làm thay đổi, tẩy xóa; điều
kiện thời tiết khí hậu xấu, nơi xảy ra tội phạm lại xa…
Thứ hai, các yếu tố chủ quan cũng có thể ảnh hưởng đến lời khai người làm
chứng. Theo đó, “để có thể biết được lời khai người làm chứng có khách quan hay
không, điều tra viên phải thận trọng, từng bước đi sâu vào nội tâm bên trong người
làm chứng có bị dao động bởi động cơ cá nhân hay không, họ có mối quan hệ thân
thích hay tư thù với những người trong vụ án, quyền lợi của họ có bị thay đổi, ảnh
hưởng bởi phán quyết của Tòa án không” [4, tr.37-38]. Cho nên, luật tố tụng hình
sự quy định trước khi hỏi về nội dung vụ án, điều tra viên cần xác định mối quan hệ
giữa họ với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại và những
người làm chứng khác).
Ngoài ra, tâm lý người làm chứng thường có ý nghĩ không dám khai báo
hoặc không dám khai báo tất cả những gì họ biết về hành vi phạm tội. Lý do đa số
mọi người không thích làm chứng, bởi họ sợ mất thời gian, nhiều lần phải gặp điều
tra viên, kiểm sát viên, phải ra trước phiên tòa; “họ sợ bị liên lụy, bị trả thù nếu
mình trình báo, tố giác hay làm chứng để người phạm tội bị phát hiện và bị bắt nên
tạo ra một tâm lý nặng nề, thiếu nhiệt tình cũng như sự yên tâm, tin tưởng của người
làm chứng khi tham gia thực hiện nghĩa vụ của một công dân”. Thực tế đã có nhiều
trường hợp các gia đình của những người phạm tội đe dọa, trả thù thậm chí còn xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người làm chứng. Sau nữa,
người làm chứng tham gia tố tụng chỉ có nghĩa vụ mà chẳng hề có quyền lợi gì. Nếu
người làm chứng không đến theo giấy triệu tập thì có thể bị dẫn giải, ngoài ra nếu từ
chối hay trốn tránh việc khai báo thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự .
Tuy nhiên, do đây là nguồn chứng cứ có ý nghĩa rất lớn trong việc kết thúc
nhanh chóng quá trình điều tra nên khi tiến hành lấy lời khai, điều tra viên phải
thông báo, giải thích rõ trách nhiệm khai báo sự thật của họ. Cụ thể, nếu người làm
chứng biết được đến đâu thì khai đến đó, không được suy diễn, chỉ trình bày chính
xác những điều mình biết và nếu khai báo gian dối hoặc từ chối khai báo sẽ phải
chịu trách nhiệm hình sự.
35
Tiểu kết chương 1
Chương 1 đã trình bày một cách khái quát và cơ bản hai vấn đề mang tính
nền tảng lý luận và cơ sở pháp lý đối với việc nghiên cứu đề tài luận văn là “người
làm chứng” và “lấy lời khai người làm chứng” như sau:
1. Người viết đã phân tích được những khái niệm cơ bản về vụ án hình sự,
các mô hình tố tụng hình sự trên thế giới, tố tụng hình sự Việt Nam. Trên cơ sở nền
rảng lý luận, người viết nghiên cứu về trình tự tố tụng lấy lời khai người làm chứng
theo pháp luật Việt Nam.
2. Lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ lâu đời
và phổ biến nhất. Luật tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới đều quy định về
nguồn chứng cứ này, bởi lẽ người làm chứng nắm được diễn biến của vụ án hình sự,
hoàn cảnh phạm tội, nhân thân người phạm tội, người bị hại... Đây là nguồn chứng
cứ rất quan trọng góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án hình sự. Vì
vậy, người viết đã phân tích làm mục đích việc lấy lời khai người làm chứng, chủ
thể có thẩm quyền tham gia hoạt động lấy lời khai người làm chứng và những vấn
đề lý luận, pháp lý có liên quan.
Hai nội dung cơ bản trên đã được người viết khái quát trong Chương 1 nhằm
tạo thành cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý để người viết phân tích thực trạng pháp lý
trong Chương 2.
36
Chương 2
QUY ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI CỦA NGƯỜI LÀM
CHỨNG THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG NÀY TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CHƠN
THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC
2.1. Quy định về hoạt động lấy lời khai của người làm chứng theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam
2.1.1. Lược sử quy định lấy lời khai người làm chứng
Chứng cứ là một chế định trung tâm của pháp luật tố tụng hình sự. Chứng cứ
không chỉ đóng vai trò xác định sự thật khách quan của vụ án mà còn phản ánh bản
thân quá trình xác định sự thật khách quan đó. Trong hoạt động tố tụng hình sự, các
cơ quan tố tụng chỉ có thể xác định các tình tiết của vụ án bằng chứng cứ để từ đó
có phương án giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, đồng thời loại trừ, phủ định các sự
kiện, hiện tượng đã không xảy ra hoặc không liên quan đến vụ án.
Lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ lâu đời và
phổ biến nhất. Luật tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới đều quy định về
nguồn chứng cứ này, bởi lẽ người làm chứng nắm được diễn biến của vụ án hình sự,
hoàn cảnh phạm tội, nhân thân người phạm tội, người bị hại... Đây là nguồn chứng
cứ rất quan trọng góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án hình sự.
Trong lịch sử lập pháp tố tụng hình sự Việt Nam, Điều 714 Quốc triều hình
luật (Bộ luật Hồng Đức) lần đầu tiên đã quy định về người làm chứng: “Những
người làm chứng trong việc kiện tụng nếu xét ra ngày thường đôi bên kiện tụng là
người thân tình hay có thù oán, thì không cho phép ra làm chứng. Nếu những người
ấy giấu giếm ra làm chứng, thì khép vào tội không nói đung sự thực. Hình quan,
ngục quan biết mà dung túng việc đó đều bị tội” [23, tr.242].
Trong Bộ luật hình sự tố tụng áp dụng tại Bắc kỳ dưới thời Pháp thuộc,
người làm chứng được quy định tại các điều 20 - 30. Điều 20 Bộ luật quy định:
“Phàm người chứng đã liệt danh trong đơn khống và các người mà quan thẩm phán
liệu nghĩ đến chất vấn trong khi thẩm cứu, thì đều phải bị đòi gọi đến Tòa án để
37
chất vấn” [23, tr.461]. Nghĩa vụ của người làm chứng được quy định tại Điều 22:
“Phàm người chứng đã bị chiếu lệ đòi gọi, không có cớ gì hợp lẽ mà tự ý không đến
hầu trước Tòa sơ cấp nghĩ xử việc vi cảnh, hoặc trước Tòa án tỉnh, hoặc trước Tòa
đệ tam cấp hoăc trước quan thẩm cứu, thì có thể bị ép bắt phải đến hầu, và vì cớ
không đến hầu phải bị xử phạt bạc từ 1 đồng đến 5 đồng, và phạt giam từ 1 ngày
đến 5 ngày, hoặc hai thứ chỉ phải chịu một” [23, tr.469].
Trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ra đời, trong pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam đã có những văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao như
công văn số 98-NCPL ngày 02/03/1974 của Tòa án nhân dân tối cao gửi cho các
Tòa án địa phương đề cập việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của
người làm chứng. Công văn đã phân loại những người làm chứng thành hai loại:
Loại nhân chứng trực tiếp là người nghe và thấy khi việc phạm pháp xảy ra và loại
nhân chứng gián tiếp là người không nghe thấy trực tiếp mà nghe nói lại [20, tr.74-
75].
Công văn cũng đã nêu lên sự cần thiết phải xác minh, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ từ lời khai của người làm chứng: Lời khai của nhân chứng trực tiếp hay
gián tiếp đều phải được xác minh có đúng sự thật không, vì những lý do:
a) Người làm chứng tuy khách quan nhưng vì trí nhớ hoặc mắt có thể không
tốt, nên thuật lại có thể không hoàn toàn đúng diễn biến của sự việc.
b) Việc xảy ra đã lâu nên không nhớ chi tiết, thuật lại có thiếu sót.
c) Ngại phiền phức hoặc thù oán mà không khai hết sự việc mà mình đã biết.
d) Vì cảm tình hoặc có mâu thuẫn với một bên trong vụ án mà khai thêm
hoặc bớt, thiếu chính xác.
đ) Có nhân chứng, vì nhớ không kỹ mà khai thêm, bớt, suy diễn theo chủ
quan của mình.
e) Vì bị đe dọa hoặc bị mua chuộc mà khai sai sự thật.
g) Đã khai không đúng, nhưng sau vẫn khai như trước, vì sợ khai khác thì bị
đánh giá là người không trung thực.
38
Thông thường thì lời khai của những người đúng đắn, ngay thẳng, không có
thân thuộc, bạn bè, không có mâu thuẫn gì với bị cáo, với người bị hại hoặc không
có quyền lợi gì liên quan đến vụ án thì có nhiều khả năng chính xác. Tuy nhiên,
không thể khẳng định trước là lời khai của nhân chứng nào là đáng tin hơn nhân
chứng nào, dù là nhân chứng trực tiếp, nếu lời khai ấy chưa được xác minh [6, tr.74-
75].
Trong Công văn này, Tòa án nhân dân tối cao còn rút ra một vấn đề cần chú
ý khi kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng:
1. Xem nhân chứng thuộc loại trực tiếp hay gián tiếp.
2. Sự việc họ khai có rõ ràng hay chỉ là phỏng đoán, suy diễn.
3. Trạng thái về tinh thần, tuổi của người làm chứng.
4. Cương vị, điều kiện công tác, nơi ở của họ có thể cho phép họ biết rõ sự
việc như họ đã khai không?
5. Họ có quan hệ thân thuộc, bạn bè hoặc có mâu thuẫn gì với bị cáo, với
người bị hại không? Quyền lợi của họ có liên quan đến vụ án không?
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, cũng như Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003, đã quy định về việc lấy lời khai của người làm chứng. Điều 135 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 quy định:
“1. Việc lấy lời khai người làm chứng được tiến hành tại nơi tiến hành điều
tra hoặc nơi cư trú, nơi làm việc của người đó.
2. Nếu vụ án có nhiều người làm chứng thì phải lấy lời khai riêng từng người
và không để cho họ tiếp xúc với nhau trong thời gian lấy lời khai.
3. Trước khi lấy lời khai, điều tra viên phải giải thích cho người làm chứng
biết quyền
4. Trước khi hỏi về nội dung vụ án, điều tra viên cần xác minh mối quan hệ
giữa người làm chứng với bị can, người bị hại và những tình tiết khác về nhân thân
của người làm chứng. Điều tra viên cần yêu cầu người làm chứng kể hoặc viết lại
những gì mà họ biết về vụ án, sau đó mới đặt câu hỏi. Không được đặt câu hỏi có
tính chất gợi ý...”.
39
Việc nghiên cứu chứng cứ nói chung và nguồn chứng cứ nói riêng có ý nghĩa
rất quan trọng không chỉ về mặt khoa học pháp lý mà cả trong thực tiễn xây dựng và
áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 của nước ta quy định chứng cứ và nguồn chứng cứ
chung trong một điều luật dẫn đến trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn áp
dụng pháp luật vẫn còn sự nhầm lẫn giữa chứng cứ với nguồn chứng cứ. Chỉ đến
khi xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, nhà làm luật mới quy định chứng
cứ và nguồn chứng cứ thành hai điều luật khác nhau, giúp cho việc phân biệt khái
niệm chứng cứ và nguồn chứng cứ được rõ ràng hơn.
Khái niệm nguồn chứng cứ trong khoa học pháp luật tố tụng hình sự vẫn còn
nhiều cách định nghĩa khác nhau. Theo Tiến sĩ Trần Quang Tiệp thì “nguồn chứng
cứ là nơi mà từ đó cơ quan tiến hành tố tụng cũng như người tiến hành tố tụng có
thể tìm ra chứng cứ trong vụ án hình sự” [19, tr.47]. Còn theo tác giả Trịnh Tiến
Việt thì “nguồn chứng cứ được hiểu là nơi cung cấp những tài liệu quan trọng để rút
ra được những chứng cứ có giá trị chứng minh sự thật khách quan của vụ án” [33,
tr.26]. Tác giả Nguyễn Nhật Lệ cho rằng “nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự
được hiểu là nơi chứa đựng thông tin tồn tại một cách khách quan, có liên quan đến
vụ án hình sự, được các chủ thể có thẩm quyền thu thập theo trình tự thủ tục do
pháp luật quy định, có ý nghĩa trong việc xác định tính hợp pháp của chứng cứ đối
với mỗi vụ án cụ thể, nhằm giúp giải quyết đúng đắn vụ án hình sự” [3, tr.54]. Theo
từ điển Luật học thì nguồn chứng cứ được hiểu là “nơi thu, nhận được chứng cứ”
[24, tr.563].
Như vậy, có thể thấy dù mỗi quan điểm có cách diễn giải định nghĩa nguồn
chứng cứ khác nhau nhưng tất cả đều khẳng định nguồn chứng cứ là nơi chứa đựng
thông tin và trongnhững thông tin được rút ra từ nguồn chứng cứ có thể có chứng cứ
được dùng để chứng minh sự thật khách quan của vụ án.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chưa có điều luật riêng quy định nguồn
chứng cứ mà nguồn chứng cứ được quy định chung trong điều luật về chứng cứ
(Điều 64) dẫn đến trong khoa học pháp lý và thực tiễn áp dụng pháp luật vẫn còn có
40
sự nhầm lẫn giữa chứng cứ với nguồn chứng cứ. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
đã quy định nguồn chứng cứ trong một điều luật riêng, giúp phân biệt rõ ràng hơn
nguồn chứng cứ với chứng cứ của vụ án hình sự. Khoản 1 Điều 87 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 quy định nguồn chứng cứ gồm:
“Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn:
a)Vật chứng;
b) Lời khai, lời trình bày;
c) Dữ liệu điện tử;
d) Kết luận giám định, định giá tài sản;
đ) Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án;
e) Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác;
g) Các tài liệu, đồ vật khác”.
So với các văn bản pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự
trước đây về chế định chứng cứ thì nguồn chứng cứ được quy định trong Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015 đa dạng hơn. Trong đó nguồn chứng cứ là lời khai, lời trình
bày nói chung và lời khai của người làm chứng nói riêng vẫn là “một trong những
nguồn chứng cứ lâu đời và phổ biến nhất” [19, tr.45, 48]. Những thông tin có được
từ lời khai của người làm chứng là chứng cứ quan trọng để cơ quan, người có thẩm
quyền tố tụng có thể nhanh chóng tìm ra sự thật khách quan của vụ án, bởi lẽ người
làm chứng nắm được diễn biến của vụ án hình sự, hoàn cảnh phạm tội, nhân thân
người phạm tội, người bị hại … Khi bắt đầu điều tra, nhà chức trách thường thẩm
vấn các nhân chứng biết được bất kỳ thông tin gì liên quan đến vụ án để lần ra các
manh mối của vụ án.
Lời khai của người làm chứng là sự trình bày bằng miệng của người làm
chứng về những tình tiết của vụ án hình sự, về đặc điểm nhân thân của người bị
buộc tội, người bị hại, mối quan hệ giữa họ với người bị buộc tội, người bị hại và
những người làm chứng khác. Một người được triệu tập với tư cách là người làm
chứng thì họ phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
đối với người làm chứng. Điểm b, khoản 4 Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự năm
41
2015 quy định người làm chứng có nghĩa vụ “trình bày trung thực những tình tiết
mà mình biết liên quan đến nguồn tin tội phạm, về vụ án và lý do biết được những
tình tiết đó”. Như vậy, khai báo trung thực những gì mình biết liên quan đến vụ án
là nghĩa vụ bắt buộc mà người làm chứng phải thực hiện khi tham gia tố tụng hình
sự. Nếu người làm chứng không có lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại
khách quan mà khai báo gian dối, từ chối khai báo hoặc trốn tránh việc khai báo thì
phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự. Trách nhiệm hình
sự đó có thể là tội khai báo gian dối quy định tại Điều 382 hoặc tội từ chối khai báo
quy định tại Điều 383 Bộ luật hình sự năm 2015.
Lời khai của người làm chứng trước cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng những gì họ biết về vụ án thì những lời khai đó đều là nguồn chứng cứ nhưng
chỉ những thông tin từ lời khai của người làm chứng đảm bảo các thuộc tính của
chứng cứ gồm tính khách quan, tính liên quan, tính hợp pháp thì mới trở thành
chứng cứ của vụ án hình sự. Lời khai của người làm chứng có thể cung cấp nhiều
thông tin khác nhau, vì vậy nó đòi hỏi người tiến hành tố tụng phải có sự kiểm tra,
đánh giá các thông tin đó để xác định thông tin nào là chứng cứ của vụ án hình sự,
thông tin nào không liên quan đến vụ án.
Pháp luật hiện nay không quy định cụ thể việc kiểm tra, đánh giá như thế nào
đối với nguồn chứng cứ lời khai của người làm chứng, do đó việc đánh giá một
thông tin nào đó từ lời khai của người làm chứng có phải là chứng cứ hay không
phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng. Khoản 2 Điều 91 chỉ quy
định“không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày
nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó. Theo quy định này thì việc
đánh giá một thông tin nào đó từ lời khai của người làm chứng có phải là chứng cứ
hay không thì chỉ cần họ nói rõ được vì sao họ biết được tính tiết đó. Tức là một
người khai về một tội phạm và họ nói được rằng tôi đứng gần đó và tôi nhìn thấy sự
việc xảy ra thì lời khai đó là chứng cứ.
Người viết cho rằng, quy định như trên dễ dẫn đến tình trạng khi đánh giá, sử
dụng những thông tin từ lời khai của người làm chứng để chứng minh các tình tiết
42
của vụ án sẽ thiếu cơ sở khoa học để đảm bảo tính chính xác của thông tin từ lời
khai đó. Bởi lẽ “có thể người làm chứng nói toàn sự thật nhưng biết đâu sự thật đó
là do sự sai nhầm mà ra, hoặc nghe nhầm, hoặc nhìn thấy nhầm, hoặc kể lại nhầm”
[2, tr.96]. Lời khai của nhân chứng có mặt tại hiện trường có thể cung cấp những
thông tin không chính xác bởi những gì họ thấy có thể không phản ánh đúng bản
chất của sự việc.
Có quan điểm cho rằng, “nếu có từ hai người làm chứng không có quan hệ
với nhau, họ lại có tất cả những phẩm chất và điều kiện của người làm chứng và
khai thống nhất với nhau thì tình tiết được khai báo có thể tin cậy được” [33, tr.26].
Người viết cho rằng, thông tin có được từ lời khai, dù đó là lời khai của người làm
chứng hay của bất kỳ ai đều phản ánh ý chỉ chủ quan của mỗi người, do đó chất
lượng thông tin từ lời khai phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như thời gian để
họ nhận biết sự việc, hiện tượng diễn ra quá nhanh hoặc thời gian xảy ra đã quá lâu;
người làm chứng không có kiến thức về lĩnh vực đó; hiện trường nơi xảy ra tội
phạm người phạm tội đã làm thay đổi, tẩy xóa; điều kiện thời tiết khí hậu xấu, nơi
xảy ra tội phạm lại xa…. Vì thế, lời khai của người làm chứng sẽ không có giá trị
nếu không có dẫn chứng cụ thể.
Trước đây, Tòa án nhân dân tối cao có công văn số 98-NCPL ngày
02/03/1974 gửi cho các Tòa án địa phương đề cập việc thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ từ lời khai của người làm chứng đã nói rõ những thông tin mà người làm
chứng biết được có thể do “nghe và thấy khi việc phạm pháp xảy ra” [20, tr.74-75]
hoặc “không nghe thấy trực tiếp mà nghe nói lại” [20, tr.74-75], do đó khi sử dụng
lời khai của người làm chứng “đều phải được xác minh có đúng sự thật không, vì
những lý do:
a) Người làm chứng tuy khách quan nhưng vì trí nhớ hoặc mắt có thể không
tốt, nên thuật lại có thể không hoàn toàn đúng diễn biến của sự việc.
b) Việc xảy ra đã lâu nên không nhớ chi tiết, thuật lại có thiếu sót.
c) Ngại phiền phức hoặc thù oán mà không khai hết sự việc mà mình đã biết.
43
d) Vì cảm tình hoặc có mâu thuẫn với một bên trong vụ án mà khai thêm
hoặc bớt, thiếu chính xác.
đ) Có nhân chứng, vì nhớ không kỹ mà khai thêm, bớt, suy diễn theo chủ
quan của mình.
e) Vì bị đe dọa hoặc bị mua chuộc mà khai sai sự thật.
g) Đã khai không đúng, nhưng sau vẫn khai như trước, vì sợ khai khác thì bị
đánh giá là người không trung thực” [20, tr.74-75]. Tinh thần của văn bản này vẫn
còn nguyên giá trị và được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn giải quyết án. Thực tế
có rất nhiều vụ án chỉ có chứng cứ có được từ lời khai của người làm chứng và các
đương sự của vụ án,vì thế việc đánh giá và sử dụng chứng cứ lúc này phụ thuộc vào
ý chí của Hội đồng xét xử. Để sử dụng lời khai của người làm chứng làm chứng cứ
của vụ án một cách khách quan, khoa học, người viết cho rằng, cần sửa đổi khoản 2
Điều 91 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng “Thông tin có được từ lời
khai của người làm chứng được sử dụng làm chứng cứ nếu họ nói rõ được vì sao
biết được những tình tiết đó và phải phù hợp với các chứng cứ khách của vụ án”.
2.1.2. Quy định trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự khác liên quan
đến quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về lấy lời khai người làm chứng
Ngoài Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về lấy lời khai người
làm chứng thì còn một số văn bản quy định về lấy lời khai người làm chứng như:
Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP giữa
Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối, Bộ Quốc phòng
ngày 01 tháng 02 năm 2018 hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc
ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có
âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Thông tư liên tịch này hướng dẫn
trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu
trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can, lấy lời khai
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội trong quá trình
điều tra, truy tố, xét xử. Thông tư liên tịch này áp dụng đối với cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; người tham
44
gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong thực hiện ghi âm hoặc
ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có
âm thanh việc hỏi cung bị can, lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân thương mại phạm tội.. Những quy định của Thông tư liên tịch này được áp
dụng trong các trường hợp lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, đương sự;
đối chất; tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP giữa Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng ngày 07 tháng 9 năm 2005 về quan
hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-
VKSNDTC-BCA-BQP giữa Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng ngày 19 tháng 10 năm 2018 về quy định về phối hợp giữa cơ quan điều tra và
viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
nhằm thay thế Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP.
Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-
BLĐTBXH ngày 21 tháng 12 năm 2018, giữa Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa
án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháo và Bộ Lao động – Thương binh – Xã
hội về về phối hợp thực hiện một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục
tố tụng đối với người dưới 18 tuổi. Thông tư liên tịch này quy định việc phối hợp
giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trong việc thực hiện một
số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người tham gia tố
tụng là người dưới 18 tuổi. Việc lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng dưới 18 tuổi có
thể thực hiện tại nơi học tập, lao động và sinh hoạt của người đó hoặc nơi tiến hành
điều tra. Việc hỏi cung bị can dưới 18 tuổi có thể thực hiện tại nơi cư trú của người
đó hoặc nơi tiến hành điều tra. Trường hợp lấy lời khai, hỏi cung tại nơi tiến hành
điều tra, truy tố, xét xử thì phải sắp xếp, bố trí phòng lấy lời khai, hỏi cung bảo đảm
thân thiện, phù hợp với tâm lý người dưới 18 tuổi.
45
2.2. Thực tiễn hoạt động lấy lời khai người làm chứng trên địa bàn
huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước
2.2.1. Khái quát về huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước và tình hình giải
quyết các vụ án hình sự và lấy lời khai người làm chứng trong những năm qua
2.2.1.1. Khái quát về huyện Chơn Thành
Huyện Chơn Thành nằm ở phía Tây của tỉnh Bình Phước, phía Bắc giáp
huyện Hớn Quản, phía Nam giáp huyện Bến Cát, Phú Giáo (tỉnh Bình Dương), phía
Đông giáp huyện Đồng Phú, thị xã Đồng Xoài, phía Tây giáp huyện Dầu Tiếng
(tỉnh Bình Dương).
Chơn Thành án ngữ Phía Nam Tây Nguyên và Đông Bắc Sài Gòn, nơi có hai
tuyến quốc lộ 13 và 14 đi qua, đồng thời tuyến đường Hồ Chí Minh cũng đang
trong giai đoạn thi công sắp hoàn chỉnh; những đường giao thông quan trọng của
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chạy qua và giao nhau ở trung tâm thị trấn của
huyện, đồng thời là huyết mạch nối liền các tỉnh biên giới miền Đông Nam Bộ, Tây
Nguyên và Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài hai trục đường chính, Chơn Thành còn
có nhiều đường liên xã, hình thành một mạng lưới giao thông thuận lợi cho việc
giao lưu, phát triển kinh tế, văn hóa trong và ngoài huyện.
Diện tích tự nhiên của huyện là 38.357,8 ha với tổng dân số 74.158 nhân khẩu
với 20.993 hộ. Là huyện trung du, địa hình Chơn Thành thoai thoải, độ cao trung
bình từ 50 đến 55m. Vùng đất đỏ bazan ở phía Đông Bắc, vùng tiếp giáp với địa
hình đồi núi lượn sóng của huyện Hớn Quản có độ cao 70m. Còn lại là vùng đất xám
phát triển trên phù sa cổ có địa hình thấp, độ cao so với mực nước biển khoảng 50m,
thấp nhất là 45m. Đất xám chiếm hơn 87% diện tích, đất đỏ 10%, đất dốc tụ và đất
sông suối ao hồ chiếm phần còn lại.
Nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt ở Chơn Thành được cung cấp bởi nguồn
nước ngầm và hàng chục dòng suối lớn nhỏ chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam
thuận tiện cho việc sản xuất, canh tác và chăn nuôi.
Chơn Thành nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc trưng của vùng
Đông Nam Bộ với hai mùa mưa và khô rõ rệt (mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến
46
tháng 10, mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau). Lượng mưa trung bình
hàng năm khá cao từ 2.000 – 3.000 mm/năm. Hướng gió chính là hướng Đông Bắc
vào mùa khô và hướng Tây Nam vào mùa mưa. Nhiệt độ trung bình khoảng 26 0C,
nhưng có sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm từ 7 – 90C. Biên độ chênh lệch
này thuận lợi cho việc tăng năng suất cây trồng, vật nuôi trên địa bàn.
Cộng đồng dân cư trên địa bàn huyện Chơn Thành gồm 15 dân tộc anh em
như: Kinh, STiêng, Khơme, Tàmun, Châu Ro, Hoa… trong có các dân tộc thiểu số
chiếm khoảng hơn 7,6% dân số.
Trên địa bàn huyện có hơn 30 cơ sở thờ tự, có ba tôn giáo chính là Công
giáo (chiếm hơn 10% dân số), Phật giáo (chiếm khoảng 3% dân số), Tin Lành
(chiếm khoảng gần 4% dân số). Ngoài ra còn một số ít người theo các tôn giáo khác
như Cao Đài, Hòa Hảo, Đạo Hồi …
Thế kỷ XIX, nhà Nguyễn chia vùng đất Nam Bộ thành 6 tỉnh (còn gọi miền
lục tỉnh); địa bàn Chơn Thành và toàn bộ vùng Đồng Nai, Sông Bé lúc đó thuộc
tỉnh Biên Hòa.
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược và chia Nam Kỳ thành 4 khu vực:
Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bát Xắc, trong đó khu vực Sài Gòn lại được chia
thành các tiểu khu; vùng đất phía Tây và Nam sông Sài Gòn (trong đó có Chơn
Thành) thuộc tiểu khu Thủ Dầu Một (năm 1889, thực dân Pháp đổi tiểu khu Thủ
Dầu Một thành tỉnh Thủ Dầu Một).
Đầu thế kỷ XX, vùng đất Chơn Thành nằm trong quận Hớn Quản, tỉnh Thủ
Dầu Một. Chơn Thành lúc này có 4 làng người Kinh (gồm Tân Lập Phú, Tân Quan,
Tân Khai, Tân Thạnh nằm trong tổng Tân Minh do tổng Hiển làm Tổng trưởng) và
một số phum, sóc dân tộc thiểu số (nằm trong tổng Lâm Can ở phía Tây do tổng Mé
làm Tổng trưởng). Địa giới hành chính này duy trì đến sau Hiệp định Giơnevơ năm
1954 và thời kỳ đầu chính quyền Ngô Đình Nhiệm.
Về phía cách mạng, năm 1951, sát nhập hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa
thành tỉnh Thủ Biên, Chơn Thành thuộc quận Hớn Quản, tỉnh Thủ Biên.
47
Tháng 10-1956, chính quyền Ngô Đình Diệm cho tách một số vùng ở phía
Bắc của hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa để lập hai tỉnh mới là Bình Long và
Phước Long. Tỉnh Bình Long được thành lập theo Sắc lệnh số 143/NV (ngày 22-10-
1956) gồm ba quận: An Lộc, Lộc Ninh và Chơn Thành. Như vậy, với việc thành lập
tỉnh Bình Long, địa danh Chơn Thành xuất hiện với quy mô hành chính cấp quận
(tuy nhiên, đến ngày 27-1-1964, quận Chơn Thành mới chính thức được ra đời).
Tháng 10-1961, để phù hợp với tình hình chỉ đạo địa bàn hoạt động tương
ứng với phân chia hành chính của chính quyền Sài Gòn, Trung ương Cục miền Nam
cho tách Bình Long khỏi tỉnh Thủ Biên để thành lập một tỉnh mới là tỉnh Bình Long
gồm 3 quận có phiên hiệu theo số là: C45 – Chơn Thành, C55 – Hớn Quản và C65
– Lộc Ninh.
Ngày 30-1-1971, do yêu cầu chỉ đạo kháng chiến, Trung ương Cục giải thể
khu 10, thành lập Phân khu Bình Phước gồm hai tỉnh Bình Long và Phước Long.
Cuối năm 1972, lại giải thể Phân khu Bình Phước và thành lập tỉnh Bình Phước.
Quận Chơn Thành (C45) thuộc phân khu Bình Phước (từ 1972 là tỉnh Bình Phước),
gồm các xã cũ là Hưng Long, Minh Thạnh, Minh Hòa, Nha Bích, Tân Quan, Tân
Khai…
Sau ngày giải phóng miền Nam, địa giới hành chính cũ được duy trì. Nhưng
đến đầu năm 1977, theo Nghị định 55/CP ký ngày 11-3-1977 về việc hợp nhất 3
quận An Lộc, Lộc Ninh và Chơn Thành thành huyện Bình Long. Chơn Thành trở
thành một phần của huyện Bình Long, một huyện khá lớn nằm sát biên giới, ở phía
Bắc tỉnh Sông Bé.
Tháng 3-1978, theo Nghị định 34/CP của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ký ngày 9-2-1978, lại tách thị trấn Lộc Ninh và một số xã phía
Bắc sát biên giới để thành lập huyện Lộc Ninh. Huyện Bình Long còn lại (trong đó
có Chơn Thành) vẫn là huyện lớn của tỉnh Sông Bé, gồm 19 xã và 02 thị trấn (Chơn
Thành và An Lộc).
Đầu năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 17/2003/NĐ-CP ngày 20-
2-2003, về việc thành lập huyện Chơn Thành và Bù Đốp thuộc tỉnh Bình Phước.
48
Theo Nghị định này, huyện Chơn Thành mới được thành lập (Lễ công bố ngày 2-5-
2003) gồm 7 xã (Minh Long, Minh Thành, Tân Quan, Nha Bích, Minh Lập, Minh
Thắng, Minh Hưng) và thị trấn Chơn Thành.
Giữa năm 2005, theo Nghị định số 60/2005/NĐ-CP ngày 16-5-2005 của
Chính phủ, huyện Chơn Thành có thêm một xã mới được thành lập là xã Thành
Tâm (tách ra từ thị trấn Chơn Thành).
Ngày 10/4/2009, Chính phủ đã ban hành nghị định số 14/NĐ-CP, huyện
Chơn Thành có thêm một xã mới được thành lập là xã Quang Minh (được tách ra từ
xã Tân Quan nay thuộc huyện Hớn Quản). Hiện nay, huyện Chơn Thành có 8 xã và
1 thị trấn.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, Chơn Thành từ một vùng đất hoang vu, được
khai phá và trở thành nơi có những lớp người đến sinh sống, hình thành cộng đồng
xã hội, có những truyền thuyết thấm đượm tình người.
Sự hình thành đơn vị hành chính và những thay đổi địa giới hành chính qua
các thời kỳ, chứng tỏ Chơn Thành có vị trí quan trọng trong kháng chiến, cũng như
trong quá trình thực hiện những chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo
vệ an ninh đất nước trong thời kỳ hòa bình xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
2.2.1.2. Tình hình giải quyết các vụ án hình sự trong những năm qua
Do đặc thù địa phương nên tình hình các vụ phạm pháp hình sự cũng gia
tăng và diễn biến hết sức phức tạp, gây khó khăn rất nhiều cho công tác đấu tranh
trấn áp tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Số lượng các đối tượng phạm
pháp hình sự, có tiền án, tiền sự ngày một nhiều; các đối tượng phạm tôi gây án, thủ
đoạn gây án cũng ngày càng tinh vi hơn. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của
kinh tế xã hội trong giai đoạn hội nhập với nền kinh tế quốc tế, đời sống vật chất và
tinh thần của người dân ngày một nâng cao thì những mặt tiêu cực, những hành vi
lệch chuẩn cũng theo đó phát sinh làm gia tăng tỷ lệ tội phạm.
Trước tình hình đó, trong những năm qua, với chức năng là cơ quan xét xử,
Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành đã khắc phục những khó khăn, hạn chế để
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xét xử các vụ án hình sự, đảm bảo không
49
bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; từng bước nâng cao chất lượng và
hiệu quả của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, đảm bảo tất cả những vấn đề có liên
quan đến nội dung vụ án đều phải được làm sáng tỏ thông qua hoạt động xét hỏi và
tranh tụng tại phiên tòa. Theo số liệu thống kê từ năm 2013 - 2017, Tòa án nhân dân
huyện Chơn Thành đã tiến hành thụ lý 634 vụ với 1269 bị cáo. Quá trình nghiên
cứu hồ sơ, Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành đã ra quyết định tiến hành xét xử sơ
thẩm đối với 612 vụ (chiếm 95,6% các vụ án mà tòa thụ lý). Trong 5 năm qua, hoạt
động chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn huyện
Chơn Thành có nhiều tiến bộ rõ rệt, chất lượng xét xử được nâng cao rõ rệt, tình
trạng bị trả hồ sơ điều tra bổ sung vẫn còn tuy nhiên số lượng các vụ án bị trả hồ sơ
điều tra bổ sung ngày một giảm theo từng năm, tình trạng oan sai giảm.
Công tác xét xử của Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành trong giai đoạn từ
năm 2013 đến năm 2017, các bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Chơn
Thành đã tuyên hầu hết đều đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; hình
phạt áp dụng thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo
và đã phát huy được hiệu quả hết sức tích cực trong việc trấn áp tội phạm xảy ra
trên địa bàn, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Tình trạng oan sai giảm một cách
đáng kể,... Có được những kết quả trên trước hết phải nói đến sự nỗ lực cố gắng của
các cơ quan và người tiến hành tố tụng, trong đó đặc biệt phải kể đến đội ngũ Thẩm
phán, Hội đồng xét xử… những người trực tiếp tham gia vào hoạt động chứng minh
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Bên cạnh đó, việc Nhà nước ban
hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược cải
các tư pháp đến năm 2020” góp phần làm cho hoạt động chứng minh trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự càng được chú trọng quan tâm thông qua việc
nâng cao hiệu quả, chất lượng của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, đảm bảo mọi
chứng cứ của vụ án phải được xem xét, đánh giá một cách công khai, khách quan và
bình đẳng tại phiên tòa.
Cũng trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017, Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Phước đã tiến hành xét xử phúc thẩm đối với 222 vụ án mà Tòa án nhân dân huyện
50
Chơn Thành đã xét xử sơ thẩm do có kháng cáo, kháng nghị. Số vụ án có người làm
chứng tham gia tố tụng chiếm 90% đến 95%. Trong đó có 116 vụ tòa án cấp phúc
thẩm giữ nguyên bản án của tòa án cấp sơ thẩm; 77 vụ án có sự thay đổi trong việc
quyết định hình phạt (hình phạt nhẹ hơn so với hình phạt do tòa sơ thẩm đã tuyên
án) do quá trình xét xử đã thu thập thêm những thông tin, tài liệu, chứng cứ mới.
Trong thời gian 05 năm, trong quá trình xét xử phúc thẩm, tòa án cấp phúc thẩm chỉ
ra quyết định hủy 01 bản án sơ thẩm. Điều này khẳng định, hoạt động chứng minh
trong quá trình xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm nói riêng của tòa án nhân dân
huyện Chơn Thành nói riêng đã có những tiễn bộ đáng kể. Đồng thời, khẳng định
hiệu quả của của hoạt động chứng minh trong công tác xét xử các vụ án hình sự xảy
ra trên địa bàn huyện Chơn Thành trong thời gian vừa qua, minh chứng cho những
quy định tiến bộ của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành cũng như những văn bản
hướng dẫn, áp dụng pháp luật, thể chế hóa các quy định của pháp luật hình sự và tố
tụng hình sự, góp phần rất lớn trong công tác đấu tranh trấn áp tội phạm trên địa
bàn.
2.2.1.3. Việc lấy lời khai người làm chứng trong những năm qua
Thứ nhất, thực tế khi có vụ án xảy ra và trong công tác chuẩn bị lấy lời khai
người làm chứng, một số Điều tra viên vẫn chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ của vụ án,
chưa xác định việc đặt các câu hỏi như thế nào là phù hợp với nội dung của vụ án,
độ tuổi, trình độ văn hóa, tâm lý của người làm chứng. Bên cạnh đó, một số Điều tra
viên chưa lập kế hoạch lấy lời khai người chứng hoặc lập kế hoạch nhưng không
đầy đủ nội dung và việc bổ sung kế hoạch lấy lời khai người làm chứng không được
tiến hành. Qua quá trình trao đổi với một số Điều tra viên cho rằng việc lập kế
hoạch lấy lời khai người làm chứng bằng văn bản là cần thiết nhưng sẽ gây mất
nhiều thời gian cho quá trình điều tra vụ án.
Thứ hai, việc tiến hành lấy người khai người làm chứng trong một số vụ án
còn rập khuôn máy móc; một số Điều tra viên chưa thực hiện tốt sự tiếp xúc tâm lý
với người làm chứng, người đại diện hợp pháp. Bên cạnh đó, một số Điều tra viên
do áp lực của công việc hay một số yếu tố khác nên có thái độ lạnh lùng, nóng vội
51
gây cho người làm chứng tâm lý lo sợ không dám tiếp xúc với Điều tra viên; chưa
xác định được tầm quan trọng của việc cho người làm chứng tự khai, trong quá
trình người làm chứng tự khai không tập trung lắng nghe, khích lệ người làm chứng
tự khai, khi người làm chứng tự khai thì một số Điều tra viên cho rằng người làm
chứng khai không phù hợp với nội dung của vụ án mà bác bỏ lời khai người làm
chứng yêu cầu người làm chứng phải khai theo hướng mà Điều tra viên gợi ý.
Thứ ba, trong trường hợp người làm chứng chủ động, tích cực phối hợp với
cơ quan điều tra và thành khẩn khai báo nội dung của vụ án, khi đó một số Điều tra
viên chưa chủ động đưa ra các câu hỏi để làm rõ thêm một số nội dung của vụ án,
cho nên phải lấy lời khai nhiều lần sẽ gây mất thời gian cho cơ quan điều tra và ảnh
hưởng đến công việc của người làm chứng; có trường hợp người làm chứng khai
không đúng sự thật do trí nhớ, nhầm lẫn, hay sự việc xảy ra đã lâu nên không nhớ
chi tiết, một số Điều tra viên lại đưa ra các câu hỏi mang tính gợi ý, liên tưởng sẽ
dẫn đến việc mớm lời khai, làm cho người làm chứng khai theo nội dung mà Điều
tra viên đưa ra dẫn đến lời khai sai so với thông tin, tài liệu và các chứng cứ khác;
trường hợp người làm chứng bị đe dọa hoặc bị mua chuộc mà khai không đúng sự
thật, gây khó khăn cho công tác điều tra và ảnh hưởng đến tâm lý của những người
làm chứng sợ sự phiền phức, thù oán mà khai không hết sự việc mình đã biết, việc
người làm chứng cho lời khai giả sẽ gây nhiều khó khăn cho cơ quan điều tra trong
quá trình thu thập thông chứng cứ, từ đó sẽ làm sai lệch mội dung của vụ án, Điều
tra viên chưa tìm hiểu nguyên nhân ngay từ ban đầu, so sánh tìm ra sự mâu thuẫn,
sự gian dối trong lời khai…khi đó chưa đưa ra biện pháp xử lý, để áp dụng thủ thuật
lấy lời khai người làm chứng, cho nên đôi khi chưa lại hiệu quả.
Thứ tư, có trường hợp người được phân công tiến hành lấy lời khai người
làm chứng không phải là Điều tra viên, Kiểm sát viên hoặc cấp trưởng, cấp phó, cán
bộ điều tra của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
mà là cán bộ thuộc cơ quan điều tra là do cơ quan điều tra có ít Điều tra viên và khi
có nhiều vụ án xảy ra trong cùng một thời điểm cho nên thủ trưởng cơ quan điều tra
phân công cán bộ điều tra để tiến hành lấy lời khai người làm chứng sau khi người
52
làm chứng được triệu tập, về trường hợp này thì không đúng so với pháp luật quy
định về việc triệu tập và tiến hành lấy lời khai người làm chứng, nếu cán bộ điều tra
được giao nhiệm vụ lấy lời khai người làm chứng sẽ không đáp ứng về trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng lấy lời khai, bên cạnh đó còn có kinh nghiệm
trong hoạt động lấy lời khai người làm chứng, dẫn đến việc bỏ sót thông tin có giá
trị để giải quyết vụ án, từ đó tiến hành lấy lời khai người làm chứng nhiều lần.
2.2.2. Những thuận lợi và một số khó khăn trong việc lấy lời khai người làm
chứng trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong những năm qua
2.2.2.1. Những thuận lợi trong công tác lấy lời khai người làm chứng
Chất lượng và hiệu quả lấy lời khai người làm chứng chịu sự tác động của
nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có các yếu tố như: Sự hoàn thiện của pháp luật;
trình độ chuyên môn; kỹ năng của các chủ thể có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai
người làm chứng; đạo đức nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm của Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán; trình độ dân trí của người làm chứng; đó là những yếu
tố tác động đến chất lượng và hiệu quả lấy lời khai người làm chứng và đó cũng là
những yếu tố làm ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án và được thể hiện
thông qua hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai của người
làm chứng.
Trong những năm qua, hệ thống pháp luật về tố tụng hình sự ngày càng được
bổ sung và hoàn thiện, cơ sở pháp lý để thực hiện hoạt động lấy lời khai của người
làm chứng ngày càng vững chắc là nền tảng để các cơ quan tiến hành tố tụng thực
hiện hoạt động tố tụng này.
Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn của Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra
viên ngày càng được nâng cao, số lượng cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố tụng
nâng cao trình đô chuyên môn đại học và sau đại học ngày càng nhiều nên chất
lượng lấy lời khai của người làm chứng cũng được nâng cao.
Cùng với, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của huyện Chơn Thành, tỉnh
Bình Phước nhanh, cơ sở hạn tầng ngày càng hoàn thiện nên trình độ dân trí của
53
người dân trên địa bàn huyện cũng được nâng cao. Từ đó, các vụ án hình sự cần lấy
lời khai người làm chứng cũng có phần dễ dàng hơn so với trước đây.
2.2.2.2. Một số khó khăn, vướng mắc
Thứ nhất, Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trong đó khoản 5 có
quy định Người làm chứng khai báo gian dối hoặc từ chối khai báo, trốn tránh việc
khai báo thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Cũng theo quy định tại Điều 66 Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về nghĩa vụ của người làm chứng là trình bày
một cách trung thực về những tình tiết mà mình biết liên quan đến nguồn tin về tội
phạm, về vụ án và lý do mình biết được những tình tiết đó. Theo quy định tại Điều
382 Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối và Điều 383 Tội từ chối
khai báo của người làm chứng được quy định ở Bộ luật hình sự năm 2015. Như vậy,
người làm chứng phải có nghĩa vụ khai báo toàn bộ những gì mà mình biết và
không được khai báo gian dối hoặc từ chối khai báo, trốn tránh việc khai báo mà
không có lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan. Nhưng việc khai
báo gian dối hoặc từ chối khai báo, trốn tránh việc khai báo đến mức nào thì mới
phải chịu trách nhiệm hình sự thì vẫn còn chung chung, hình thức xử lý như thế nào
thì chưa quy định rõ sẽ gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Thực tế nhiều vụ án vụ án hình sự liên quan đến gia đình, đồng nghiệp, bạn bè…,
nên người làm chứng không dám khai báo hoặc có khai báo thì không trung thực và
họ luôn tìm cách lẫn trốn, từ đó gây khó khăn cho công tác điều tra vụ án, cơ quan
được giao nhiệm vụ điều tra khó tiến hành thực hiện việc lấy lời khai người làm
chứng, để thu thập thêm thông tin có liên quan về vụ án để làm rõ sự thật và giải
quyết vụ án một cách nhanh chóng, chính xác.
Thứ hai, khoản 1 Điều 186 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định
“Việc lấy lời khai người làm chứng được tiến hành tại nơi tiến hành điều tra, nơi cư
trú, nơi làm việc hoặc nơi học tập của người đó”. Về quy định này chưa thực sự hợp
lý, vì khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai người làm chứng tại
nơi đang tiến hành điều tra, nơi cư trú có thể tạo tâm lý hoang mang, lo sợ việc đối
tượng hay người thân của đối tượng trả thù hoặc có thái độ không hợp tác với cơ
54
quan điều tra gây khó khăn cho việc điều tra vụ án, có thể dẫn đến lời khai của
người làm chứng không chính xác, khai không đúng sự thật. Còn lấy lời khai người
làm chứng tại nơi nơi làm việc hoặc nơi học tập, sẽ tạo tâm lý không thoải mái cho
người làm chứng, có thể ảnh hưởng đến quá trình giải quyết công việc cũng như
việc học tập của người làm chứng, gây dư luận, bàn tán và cách nhìn nhận sự việc
của những người trong cơ quan, tổ chức, trường học từ đó ảnh hưởng đến công việc
cũng như việc học tập của người làm chứng.
Thứ ba, trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa có quy định cụ thể về
việc lấy lời khai người làm chứng là bao nhiêu lần, sẽ gây khó khăn cho công tác
điều tra, còn một số người làm chứng được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng thường xuyên được triệu tập để lấy lời khai, dẫn đến tâm lý lo sợ, sợ ảnh
hưởng đến công việc của bản thân, ảnh hưởng đến thời gian học tập, cũng như uy
tính, danh dự của họ, ngoài ra việc thường xuyên lấy lời khai của người làm chứng
sẽ không đảm bảo tính khác quan, tính chính xác và trung thực trong lời khai…
Thứ tư, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không có quy định về thời gian
lấy lời khai người làm chứng là bao lâu, do đó gây khó khăn trong công tác điều tra,
không biết lấy lời khai thời gian là như thế nào mới phù hợp, việc lấy lời khai quá
lâu do luật không có quy định về thời gian sẽ tạo nên sự mệt mỏi, lời khai không
đảm bảo tính khách quan.
Thứ năm, tại Điều 187 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có quy định việc
lấy lời khai của người làm chứng có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Như
vậy, sẽ gây khó khăn cho Cơ quan có thẩm quyền tiến tiến hành tụng khi nào sẽ áp
dụng ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh vào việc lấy lời khai người làm chứng, khi
đó tại khoản 1 Điều 186 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định việc lấy lời khai
người làm chứng được tiến hành tại nơi tiến hành điều tra, nơi cư trú, nơi làm việc
hoặc nơi học tập của người làm chứng và nếu việc lấy khai người làm chứng được
tiến hành có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh thì sẽ không đảm bảo các quy định
về phòng để ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, nhưng bên cạnh đó, theo quy định
tại Thông tư liên tịch số 03/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP, ngày 01
55
tháng 02 năm 2018 thì phòng để ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh là phòng chuyên
dụng bảo đảm đủ điều kiện về diện tích, ánh sáng, an toàn và được trang bị phương
tiện, thiết bị kỹ thuật sử dụng để ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh đạt chất lượng
về âm thanh và hình ảnh. Do đó, việc lấy lời khai người làm chứng mà được áp
dụng ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh thì sẽ gây không ít khó khăn cho cơ quan
điều tra.
Thứ sáu, về quy định quyền được bảo đảm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
tài sản và các quyền và lợi ích hợp pháp khác của người làm chứng. Điểm b, khoản
3 Điều 55 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người làm chứng có quyền
“Yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản
và quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe
dọa”. Như vậy, pháp luật đã thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước đối với nhân dân
trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.Qua đó, tạo niềm tin nơi nhân dân,
đề cao vai trò và quyền lợi hợp pháp của mỗi người dân khi hợp tác với cơ quan
chức năng để làm rõ sự thật khách quan. Điều luật này cho phép người làm chứng
yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ quyền lợi của mình, đồng thời đặt cơ quan
tiến hành tố tụng dưới trách nhiệm phải áp dụng các biện pháp phù hợp và cần thiết
để bảo vệ người làm chứng theo quy định của pháp luật Tuy nhiên, quy định này
trên thực tế không hữu hiệu vi những lý do sau:
Một là, ngoài những vụ trọng án hoặc những vụ án mà người làm chứng có
thể gặp nguy hiểm cao thì những trường hợp khác người làm chứng ít khi được đặt
dưới sự bảo vệ gắt gao của lực lượng chức năng. Người làm chứng có thể yêu cầu
cơ quan triệu tập họ bảo vệ tỉnh mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các
quyền, lợi ích hợp pháp khác khi tham gia tố tụng, nhưng luật không quy định rõ
mức độ bảo vệ như thế nào. Ở trường hợp này thì mức độ bảo vệ của cơ quan có
thẩm quyền thường dựa vào nhận định, kinh nghiệm hoặc từ những tình tiết mà cán
bộ có thẩm quyền thu được. Ví dụ trong những vụ trọng án có liên quan đến những
tội phạm nguy hiểm thì người làm chứng và cả người thân của họ thường được đặt
dưới sự bảo vệ gắt gao, nhưng trong những vụ án khác, người làm chứng có thể chỉ
56
được bảo vệ trên quãng đường từ nhà đến nơi lấy lời khai hoặc tòa án trong khi
những mối đe dọa nguy hiểm có thể xuất hiện bất cứ nơi đâu.
Hai là, luật chỉ quy định bảo vệ người làm chứng trong quá trình tố tụng.
Điều này đồng nghĩa với việc người làm chứng chỉ được pháp luật bảo vệ cho đến
khi tòa án cấp phúc thẩm tuyên án. Như vậy, có thể thấy rõ mức độ nguy hiểm mà
người làm chứng buộc phải chấp nhận sau khi đứng ra làm chứng khi vụ án kết
thúc, đặc biệt là trong những vụ án liên quan đến các tội phạm có tính chất “xã hội
đen”. Trên thực tế, sau khi không còn nằm trong phạm vi bảo vệ của pháp luật, đã
có nhiều trường hợp người làm chứng bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm và quyền, lợi ích hợp pháp khác.
Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách cần phải sớm sửa đổi, bổ sung cơ chế đảm
bảo quyền lợi cho người làm chứng để họ có thể yên tâm thực hiện nghĩa vụ của
mình cũng như đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Thứ bảy, về quy định bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài
sản người thân thích của người làm chứng.
Một trong những điểm tiến bộ trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đó là
luật còn bảo vệ người thân thích của người làm chứng, cụ thể được quy định tại
điểm b khoản 3 Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: “Yêu cầu cơ quan triệu
tập bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và quyền, lợi ích hợp
pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa”.
Quy định này để cập đúng vào vấn đề gây ra nhiều khó khăn trong mỗi vụ
án, đặc biệt là những vụ trọng án hoặc có yếu tố “xã hội đen”. Khi tiến hành lấy lời
khai, người làm chứng thường lo sợ bản thân, gia đình, người thân thích của mình
bị đe dọa, trả thù. Do đó, ít nhiều lời khai của họ bị ảnh hưởng hoặc họ không muốn
đứng ra làm chứng, giúp đỡ cơ quan tiến hành tố tụng vì an nguy của bản thân và
người thân. Vì thế quy định này được đưa ra là điều tất yếu, góp phần tạo niềm tin,
sự yên tâm nhất định cho người làm chứng. Từ đó, khuyến khích họ hợp tác với cơ
quan chức năng và khai báo trung thực những gì mình biết. Tuy nhiên, khi đưa vào
57
cuộc sống thì quy định này lại không đáp ứng mục tiêu của các nhà làm luật bởi họ
chỉ dừng lại ở tỉnh nguyên tắc mà chưa đề cập đến cơ chế đảm bảo thực thi, cụ thể:
- Pháp luật tố tụng không quy định như thế nào là “người thân thích” của
người làm chứng cũng như quy định cụ thể về “những biện pháp cần thiết” để bảo
vệ họ. Vì không có cơ chế cụ thể nên cơ quan có thẩm quyền không áp dụng quy
định trên một cách thống nhất. Họ thường dựa theo ý chí chủ quan sau khi xem xét
vụ việc thông qua các biện pháp nghiệp vụ để áp dụng các biện pháp khác nhau
nhằm bảo vệ người thân thích của người làm chứng. Bên cạnh đó có những trường
hợp cơ quan tiến hành tố tụng thoái thác trách nhiệm khi xảy ra các hành vi xâm hại
đến người làm chứng và người thân thích của họ.
- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đề cập đến việc bảo vệ người thân thích
của người làm chứng là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự và
chỉ cụ thể hóa nguyên tắc này tại khoản 4 Điều 311 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 về bảo vệ người thân thích của người làm chứng trong giai đoạn xét xử vụ án.
Như vậy, luật chưa có quy định rõ ràng về các biện pháp bảo vệ người thân thích
của người làm chứng trong giai đoạn điều tra và truy tố.
Do vậy, trên thực tế nhiều địa phương đã xảy ra tình trạng người thân thích
của người làm chứng bị đe dọa, trả thù nhưng không được cơ quan chức năng bảo
vệ kịp thời. Hậu quả là càng ngày số lượng trường hợp người làm chứng không dám
khai bảo hoặc khai báo không đầy đủ vì “sợ” càng tăng cao, gây bất lợi cho công tác
điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự.
Thứ tám, xuất phát từ những hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định của
pháp luật trong hoạt động lấy lời khai người làm chứng. Ngoài những hạn chế và
những vướng mắc do thiếu cơ chế đảm bảo thực thi quy định pháp luật, việc áp
dụng các quy định trên thực tiễn trong hoạt động lấy lời khai người làm chứng còn
tồn tại nhiều bất cập, thiếu sót mà nguyên nhân chính đến từ cơ quan tiến hành tố
tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
- Thực tiễn xảy ra nhiều trường hợp người làm chứng bị triệu tập và dẫn giải
không tuân thủ các quy định về trình tự và thủ tục luật định.
58
Ví dụ: Cơ quan chức năng triệu tập người làm chứng đến địa điểm triệu tập
để tiến hành lấy lời khai nhưng lại không gửi giấy triệu tập mà thông qua hình thức
khác như gọi điện thoại hoặc gặp mặt trực tiếp để lấy lời khai.
Trường hợp này thường xảy ra khi mà cán bộ có thẩm quyền có quan hệ thân
quen với người làm chứng, hoặc người làm chứng là người có uy tín, địa vị ở địa
phương mà cán bộ có thẩm quyền chỉ cần gọi” chứ không gửi giấy triệu tập. Một số
trường hợp khác nhưnội dung giấy triệu tập không bao gồm các thông tin theo quy
định, gây khó khăn cho người làm chứng khi được triệu tập đến làm việc; hoặc dẫn
giải người làm chứng mà không lập biên bản... Những thiếu sót này trên thực tế khá
phổ biến, gây tổn hại đến quyền và lợi ích của người làm chứng, vi phạm nghiêm
trọng nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự. Tong
quá trình lấy lời khai, cán bộ lấy lời khai không khách quan, công minh gây ảnh
hưởng đến kết quảlấy lời khai. Ngoài ra có thể họ không có phương pháp, kỹ thuật
lấy lời khai phù hợp. Lấy lời khai người làm chứng là một hoạt động đòi hỏi ở cán
bộ lấy lời khai phải có chuyên môn nghiệp vụ cao, tính ti mi, linh hoạt và khả năng
phân tích tốt. Vì thế trên thực tế, không phải cán bộ lấy lời khai nào cũng đáp ứng
được các yêu cầu trên. Có những trường hợp lời khai của người làm chứng không
được xem xét một cách đầy đủ, khách quan. Trình độ, năng lực cán bộ lấy lời khai
không cho phép họ đánh giá chính xác, phân tích kĩ lưỡng hơn lời khai của người
làm chứng. Hoặc do họ có thể không lập kế hoạch lấy lời khai chi tiết không nghiên
cứu và nắm bắt được người làm chứng cũng như những thông tin, tình tiết khách
quan. Cho nên, họ thường bỏ sót những thông tin quan trọng hoặc không xác định
được lời khai có mâu thuẫn hay không. Điều này có thể gây sai lệch kết quả lấy lời
khai, hơn nữa có thể kéo dài hoạt động tố tụng do cán bộ lấy lời khai cần phải lấy
lại nhiều lần, gây ra tốn kém về mặt thời gian lẫn vật chất cho người làm chứng và
Nhà nước.
- Công tác lấy lời khai không đúng trình tự, thủ tục luật định.
59
Ví dụ như trước khi lấy lời khai, điều tra viên không giải thích cho người làm
chứng biết quyền và nghĩa vụ của họ hoặc nếu có thì cũng chỉ qua loa, không đầy
đủ.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không quy định cụ thể trách nhiệm của
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền của người làm
chứng, cho nên trên thực tiễn, tình trạng quyền của người làm chứng bị vi phạm từ
chính người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thường xuyên xảy ra. Trong một số
trường hợp khác do có thể bị mua chuộc hoặc vì mục đích nào đó, điều tra viên còn
đọc cho người làm chứng ghi lại tình tiết vụ việc hoặc đặt ra những câu hỏi mang
tính gợi ý theo hướng mớm cung để làm sai lệch sự thật vụ án. Bên cạnh đó có một
số điều tra viên hù dọa, gây áp lực tâm lý lên người làm chứng để ép buộc họ khai
theo hướng chủ quan của điều tra viên...
Thứ chín, cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện cần thiết để phục vụ cho hoạt
động lấy lời khai người làm chứng còn nhiều hạn chế. Kinh phí cho cán bộ lấy lời
khai đi công tác, chi phí chi trả cho người làm chứng sinh hoạt còn nhiều khó khăn.
Thực tiễn cho thấy có rất nhiều sai phạm, thiếu sót trong công tác lấy lời khai
người làm chứng mà trên hết đó là những sai phạm do chính cán bộ có thẩm quyền
thực hiện. Pháp luật hiện hành có quy định chế tài để xử lý những sai phạm trong
hoạt động tố tụng, tuy nhiên việc phát hiện và xử lý vẫn còn nhiều hạn chế. Vì thế
cần phải sớm hoàn thiện, mở rộng và nâng cao những quy định của pháp luật về lấy
lời khai người làm chứng, nhằm gia tăng trách nhiệm cho các cơ quan tiến hành tố
tụng trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
2.2.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong việc lấy lời khai
người làm chứng
2.2.3.1. Nguyên nhân khách quan
Nhiều vụ án rất khó khăn trong việc định tội, xác định người phạm tội,
những chứng cứ vật chất để chứng minh tội phạm không có nhiều, không thu giữ
được hoặc có thu giữ được nhưng không đủ điều kiện để giám định; do địa điểm,
thời gian thực hiện tội phạm phần lớn ở khu vực trong rừng, nơi vắng vẻ, không có
60
người làm chứng; sự đối phó quyết liệt, tinh vi, xảo quyệt của người thực hiện tội
phạm. Đặc biệt, có sự chỉ dẫn của người bị tạm giam, tạm giữ chung trong phòng và
một số người am hiểu pháp luật đã lợi dụng sơ hở, thiếu sót, vi phạm của người tiến
hành tố tụng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử để xúi giục người phạm tội
khai báo gian dối, không đúng sự thật. Vì vậy, khi lấy lời khai người làm chứng,
nhiều trường hợp vì tâm lý của người làm chứng, địa hình vắng vẻ, trí nhớ của
người làm chứng không rõ ảnh hưởng đến việc xác định bản chất của vụ án.
2.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
(i) Các thẩm quyền tố tụng tập trung chủ yếu vào Thủ trưởng Cơ quan điều
tra, Viện trưởng Viện kiểm sát. Điều tra viên, Kiểm sát viên là những người trực
tiếp giải quyết vụ án nhưng chỉ được giao những thẩm quyền rất hạn chế, chỉ trực
tiếp ký quyết định triệu tập bị can, triệu tập người làm chứng, người bị hại, dẫn giải,
áp giải... Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến thời hạn giải quyết vụ án
còn dài, đồng thời chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm của Điều tra viên, Kiểm sát
viên trong quá trình giải quyết vụ án. Một số biện pháp tố tụng đơn giản có thể giao
cho Trợ lý Điều tra viên, Kiểm tra viên, Thẩm tra viên nhưng do không quy định họ
được tiến hành tố tụng nên chưa phúc đáp yêu cầu của thực tiễn.
(ii) Trình độ của một bộ phận Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán còn
hạn chế trong áp dụng pháp luật, đánh giá và sử dụng chứng cứ; các hoạt động điều
tra và kiểm sát điều tra để thu thập các chứng cứ ban đầu không đầy đủ, bỏ qua
không thu thập các chứng cứ có ý nghĩa trực tiếp chứng minh tội phạm, không tuân
thủ trình tự, thủ tục pháp lý trong quá trình thu thập chứng cứ, đặc biệt đối với lời
khai của người làm chứng.
(iii) Trách nhiệm người đứng đầu ba cơ quan tiến hành tố tụng chưa cao,
chưa sâu sát chỉ đạo quyết liệt giải quyết vụ án; không thực hiện đầy đủ trách nhiệm
và còn có phần hạn chế trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động nghiệp
vụ; chưa rút kinh nghiệm các vụ án bị hủy, bị trả lại điều tra bổ sung… liên quan
đến lời khai người làm chứng.
61
(iv) Quan hệ phối hợp giữa các ngành tố tụng tuy có quy chế, nhưng việc tổ
chức thực hiện không thường xuyên, chưa kịp thời cùng nhau tranh luận để tìm ra
chân lý, bản chất sự việc.
(v) Trách nhiệm của một số Kiểm sát viên chưa cao; trình độ, kiến thức về
hoạt động điều tra và THQCT, kiểm sát điều tra, kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự
của một số Kiểm sát viên còn yếu; không nắm chắc các căn cứ pháp lý và nội dung,
phương pháp tiến hành các hoạt động kiểm sát; đánh giá chứng cứ chủ yếu thiên về
các chứng cứ buộc tội hoặc thoả mãn với lời khai của người làm chứng do điều tra
tiến hành thu thập, nên không yêu cầu điều tra các tài liệu, chứng cứ khác để chứng
minh hành vi phạm tội, đến khi bị can không nhận tội, thì không thể thu thập được.
(vi) Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, một số Kiểm sát viên còn nể nang,
ngại va chạm; thực hiện không đầy đủ các thao tác nghiệp vụ được quy định tại các
quy chế của ngành.
Tiểu kết chương 2
Trên cơ sở kế thừa những nội dung Chương 1 về những cơ sở lý luận và cơ
sở pháp lý hoạt động tố tụng lấy lời khai người làm chứng, Chương 2 phân tích và
nghiên cứu tổng quan về tình hình lấy lời khai người làm chứng và thực tiễn giải
quyết vụ án hình sự trên địa bản huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.
Về tổng quan, các chủ thể có thẩm quyền tiến hành hoạt động tố tụng đều
thực hiện tốt hoạt động lấy lời khai người làm chứng. Tuy nhiên, thực trạng pháp
luật và thực tiễn áp dụng pháp luật lấy lời khai người làm chứng vẫn còn nhiều bất
cập, hạn chế.
Cuối cùng, nếu Chương 1 có ý nghĩa then chốt trong việc xác định những
vấn đề pháp lý và lý luận của lấy lời khai người làm chứng, Chương 2 vừa có vai
trò bổ sung làm rõ những tình huống pháp lý thực tế xảy ra cũng như giữ vai trò cơ
sở cho việc nghiên cứu và phân tích nhằm hoàn thiện pháp luật ở Chương 3.
62
Chương 3
GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN, NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI CỦA NGƯỜI LÀM CHỨNG
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
3.1. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động lấy lời khai của
người làm chứng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự
3.1.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
Qua quá trình phân tích các quy định của pháp luậtvề hoạt động lấy lời khai
người làm chứng cho thấy có rất nhiều hạn chế, thiếu sót, gây ảnh hưởng không nhỏ
đến quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do đó, để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp,
bảo đảm hơn nữa quyền lợi của người làm chứng cũng như tăng cường sự hiệu quả
của hoạt động lấy lời khai người làm chứng thì cần phải xây dựng được hệ thống
các quy định pháp luật hoàn thiện về lấy lời khai người làm chứng.
Từ những phân tích, đánh giá khách quan quy định của pháp luật và thực tiễn
áp dụng trong hoạt động lấy lời khai người làm chứng, tác giả có một số giải pháp
sau nhằm hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật. Cụ thể:
Thứ nhất, bổ sung, hoàn thiện quy định về triệu tập và lấy lời khai người làm
chứng. Lấy lời khai người làm chứng là hoạt động có vai trò rất quan trọng trong
việc điều tra làm sáng tỏ vụ án. Để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động lấy lời khai người làm chứng trong thực tiễn đòi hỏi pháp luật phải có sự sửa
đổi, bổ sung mới phù hợp hơn. Qua phân tích, nhận xét dựa trên thực tiễn thi hành
các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự, tác giả xin đưa ra kiến nghị, bổ sung
sau:
- Bổ sung quy định về Giấy triệu tập người làm chứng sẽ được gửi cho gia
đình người làm chứng. Cụ thể điểm a khoản 2 Điều 185 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015 nên được sửa đổi, bổ sung như sau: “Giấy triệu tập được giao trực tiếp
cho người làm chứng hoặc thông qua gia đình của người làm chứng hoặc chính
quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng cư trú, làm
việc”. Quy định này sẽ tránh được trường hợp cơ quan chức năng không gửi giấy
63
triệu tập cho người làm chứng do không xác định được nơi người làm chứng cư trú,
qua đó khắc phục được những hạn chế trong hoạt động lấy lời khai người làm
chứng.
- Bổ sung quy định về thời hạn tối thiểu mà người làm chứng phải có mặt tại
địa điểm lấy lời khai kể từ lúc người làm chứng nhận được giấy triệu tập. Quy định
này sẽ tránh được trường hợp người làm chứng vừa nhận được giấy triệu tập thì
phải có mặt để lấy lời khai, tạo điều kiện để người làm chứng sắp xếp công việc,
thời gian, qua đó tạo tâm lý thoải mái hơn cho người làm chứng khi họ thực hiện
nghĩa vụ đối với pháp luật Cụ thể nên bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 185 Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng như sau: “Giấy triệu tập phải được giao
trực tiếp cho người làm chứng trước 48 giờ tính từ thời điểm người làm chứng phải
có mặt theo giấy triệu tập” [1].
- Ngoài ra, cần sửa đổi về việc giấy triệu tập phải được ký nhận trong mọi
trường hợp. Theo đó giấy triệu tập người làm chứng trong mọi trường hợp đều phải
được người làm chứng ký nhận, thay cho quy định tại điểm a khoản 3 Điều 185 Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015 “trong mọi trường hợp việc giao giấy triệu tập phải
được ký nhận”. Vì trên thực tế khi cán bộ giao giấy triệu tập cho địa phương hoặc
cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng cư trú, làm việc thi cán bộ tại đây sẽ là người
ký nhận chứ không phải người làm chứng. Trong đó có nhiều trường hợp cán bộ địa
phương, cơ quan quên giao giấy triệu tập cho người làm chứng, hoặc đã giao nhưng
người làm chứng không ký nhận lại, gây ra tình trạng người làm chứng không biết
hoặc “vợ” như không biết việc mình bị triệu tập, kéo dài thời gian giải quyết vụ án
cũng như gây khó khăn cho cơ quan chức năng trong việc xác định người làm
chứng có trốn tránh hay không. Việc quy định chính người làm chứng ký nhận khi
nhận được giấy triệu tập sẽ giúp cho cơ quan chức năng xác định được rằng bản
thân người làm chứng đã biết và phải biết nghĩa vụ của mình, qua đó dễ dàng xem
xét và đưa ra quyết định dẫn giải nếu người làm chứng không có mặt.
64
- Bên cạnh đó, nên điều chỉnh các bước lấy lời khai người làm chứng quy
định tại khoản 3, 4, 5 Điều 186 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo trình tự nhất
định chứ không phân chia thành các khoản riêng biệt, cụ thể:
Khi lấy lời khai người làm chứng, Cán bộ lấy lời khai phải thực hiện theo
trình tự như sau:
(i) Giải thích cho người làm chứng biết quyền và nghĩa vụ của họ. Việc này
phải được ghi vào biên bản.
(ii) Trước khi hỏi về nội dung vụ án, Cán bộ lấy lời khai cần xác minh mối
quan hệ giữa người làm chứng với bị can, người bị hại và những tình tiết khác về
nhân thân của người làm chứng. Điều tra viên yêu cầu người làm chứng trình bày
hoặc tự viết một cách trung thực và tự nguyện những gì họ biết về vụ án, sau đó
mới đặt câu hỏi. Trường hợp xét thấy việc lấy lời khai của Điều tra viên không
khách quan hoặc có vi phạm pháp luật hoặc xét cần làm rõ chứng cứ, tài liệu để
quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố tụng của Cơ quan
điều tra hoặc để quyết định việc truy tố thì Kiểm sát viên có thể lấy lời khai người
làm chứng.
(iii) Yêu cầu người làm chứng kể hoặc viết lại những gì mà họ biết về vụ án,
sau đó đặt cầu hỏi. Không được đặt câu hỏi mang tính chất gợi ý.
- Hoàn thiện hơn quy định tại Điều 186 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về
việc giao giấy triệu tập cho người làm chứng dưới 18 tuổi.
Cụ thể nên sửa đổi theo hướng: “Giấy triệu tập người làm chứng chưa đủ 18
tuổi được giao cho cha, mẹ hoặc người đại diện khác của họ. Trong trường hợp
không xác định được cha, mẹ hoặc người đại diện khác thì giao giấy triệu tập cho
người thân quen của người làm chứng dưới 18 tuổi”. Trên thực tế có những trường
hợp người dưới 18 tuổi biết được thông tin liên quan đến vụ án nhưng không được
triệu tập vì là trẻ em cơ nhỡ, không nơi nương tựa. Đối với trường hợp này cơ quan
tiến hành tố tụngkhông xác định được cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp để gửi
giấy triệu tập, nên thường bỏ qua nguồn chứng cứ quan trọng này. Thiết nghĩ cần
phải có giải pháp hợp lý, linh hoạt hơn trong trường hợp này. Cụ thể nếu không xác
65
định được cha mẹ, người đại diện hợp pháp thi bằng các biện pháp nghiệp vụ, xác
minh người có mối quan hệ thân quen, gần gũi của người dưới 18 tuổi để gửi giấy
triệu tập, qua đó tận dụng tối đa những thông tin quan trọng mà họ biết được.
Đồng thời cũng cần xem xét bổ sung thêm quy định tại khoản 2 Điều 421 Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015 khi lấy lời khai người làm chứng trong trường hợp
trên theo hướng cho phép người có mối quan hệ thân quen, gần gũi của người làm
chứng dưới 18 tuổi cơ nhỡ tham dự vào buổi lấy lời khai. Sự có mặt của người này
có thể giúp cho người làm chứng yên tâm hơn, khuyến khích họ khai báo trung thực
với cơ quan tiến hành tố tụng. Đồng thời tránh trường hợp bỏ qua người làm chứng
này khi không xác định được cha mẹ, người đại diện hợp pháp hoặc giáo viên của
họ.
Thứ hai, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể việc người làm chứng trốn tránh
việc khai báo, nếu người làm đã được Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
triệu tập đúng theo quy định pháp luật mà người làm chứng không đến, cố tình vắng
mặt trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan (Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 có quy định) thì lần đầu có thể bị phạt tiền, mức phạt tiền
tương đối lớn, có quy định như thế buộc người làm chứng phải có mặt tại địa điểm
đã được ghi trên giấy triệu tập, còn họ khai báo gian dối thì bị truy cứu trách nhiệm
hình sự, nhưng phải xác định được mức độ khai báo gian dối của người làm chứng
dẫn đến hậu quả như thế nào thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản khoản 1 Điều 186 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015, thay vào đó có thể quy định về địa điểm lấy lời khai người
làm chứng là tại Công an xã, phường, thị trấn nơi xảy ra vụ án hoặc cho người làm
chứng được lựa chọn địa điểm để lấy lời khai. Tuy nhiên, việc cho người làm chứng
lựa chọn địa điểm thì phải giới hạn một địa điểm nào đó, vì có trường hợp người
chứng ở xa hoặc đi công tác ở nước ngoài sẽ gây khó khăn cho công tác điều tra của
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Còn việc lấy lời khai người làm chứng tại
Công an xã, phường, thị trấn nơi xảy ra vụ án sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người
làm chứng được đến nơi gần nhất, giảm chi phí đi lại và tránh gây mất thời gian về
66
công việc của người chứng, từ đó người làm chứng an tâm, không lo sợ và cung cấp
đầy đủ thông tin cho cơ quan điều tra, lời khai sẽ chính xác và khách quan hơn.
Thứ tư, về việc lấy lời khai người làm chứng cần quy định rõ việc tiến hành
lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự là bao nhiêu lần là đủ, có thể quy
định việc lấy lời khai mỗi người làm chứng trong một vụ án hình sự là 05 lần cho
đến khi kết thúc giai đoạn điều tra vụ án, nhằm tạo tâm lý thoải mái về thời gian
cũng như sự sắp xếp công việc của người làm chứng và đảm bảo tính khách quan về
lời khai của người làm chứng.
Thứ năm, quy định cụ thể hơn về thời gian lấy lời khai người làm chứng như:
mỗi lần lấy lời khai người làm chứng không quá 04 giờ và một ngày chỉ lấy lời khai
01 lần. Việc có quy định về thời gian sẽ giúp cho người làm chứng có trạng thái tâm
lý tốt nhất trong quá trình lấy lời khai, giúp cho người làm chứng hồi tưởng lại
những sự việc mà mình đã chứng kiến, khi đó người làm chứng sẽ nhiệt tình khai
báo những nội dung có liên quan đến vụ án mà họ biết một cách chính xác và đầy
đủ.
Thứ sáu, cần có quy định cụ thể hơn về việc lấy lời khai người làm chứng có
ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, có thể bố trí tại Công an xã, phường, thị trấn một
phòng ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh đảm bảo đủ điều kiện để được tiến hành
lấy lời khai đúng theo quy định của pháp luật và việc lấy lời khai người làm chứng
tại xã, phường, thị trấn.
3.1.2. Giải pháp tổ chức thực hiện
Thứ nhất, trước khi tiến hành lấy lời khai người làm chứng Cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng cần lập kế hoạch lấy lời khai người làm chứng, nêu rõ nội
dung, mục đích, yêu cầu trước khi tiến hành lấy lời khai, đồng thời cần phải nghiên
cứu kỹ hồ sơ vụ án, phối hợp với Công an địa phương để nắm thông tin và tìm
người chứng để phục vụ cho công tác điều tra, bên cạnh đó, trong quá trình điều tra
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thể hiện sự chân thành, kiên nhẫn, tư
thế tác phong nghiêm trang và năng động để thuyết phục người làm chứng. Trường
hợp, Điều tra viên tiến hành lấy lời khai người làm chứng mà không lập kế hoạch
67
thì phải báo cáo cho người đứng đầu Cơ quan Điều tra và lập kế hoạch bổ sung sau
khi đã lấy lời khai người làm chứng.
Thứ hai, nâng cao trình độ chuyên môn về công tác lấy lời khai của Cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điều tra viên, kiểm sát viên…), đồng thời nghiên
cứu, nắm vững các văn bản pháp luật về tố tụng hình sự và các văn bản dưới luật
điều chỉnh các hoạt động có liên quan để vận dụng vào thực tiễn trong hoạt động lấy
lời khai người làm chứng. Quán triệt, triển khai nâng cao bản lĩnh chính trị cho Điều
tra viên, kiểm sát viên, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Nhà nước và nhân dân;
có lập trường, tư tưởng vững vàng không dao động trước mọi tình huống, nâng cao
ý thức cảnh giác và tấn công tội phạm, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công
việc, có đạo đức, lối sống lành mạnh và năng lực hoạt động trong thực tiễn.
Thứ ba, trước khi tiến hành lấy lời khai người làm chứng Cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải xác định cụ thể các tình huống mà người làm chứng
khai báo thành khẩn, khai báo không sai sự thật hay khai báo gian dối bằng hình
thức so sánh, đối chiếu lời khai của người làm chứng với các thông tin, tài liệu đã
thu thập được. Từ đó, tìm hiểu, xác định nguyên nhân vì sao người làm chứng lại
khai báo sai sự thật hoặc gian dối, để có hướng giải quyết phù hợp. Đa phần người
làm chứng khai báo sai sự thật hoạc gian dối là do họ có trình độ nhận thức thấp,
chưa am hiểu về pháp luật, lúc này đòi hỏi Điều tra viên phải kiên nhẫn giải thích
cho người làm chứng nắm rõ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước cũng như các quyền và nghĩa vụ của người làm chứng, việc giải
thích này phải thực hiện ngắn gọn, dễ hiểu và nhất là phải đầy đủ nội dung, để thực
hiện tốt việc này Điều tra viên phải tự nghiên cứu, trao dòi kỹ năng cảm hóa, vận
động, thuyết phục. Điều tra viên phải biết lắng nghe những tâm tư và nguyện vọng
của người làm chứng, để họ được an tâm về mặt tư tưởng, từ đó họ mới trình bày sự
việc đã xảy ra một cách chân thật và đầy đủ. Trong trường hợp người làm chứng cố
tình khai báo gian dối, Điều tra viên không được nặng lời mà phải bình tĩnh, chỉ ra
cho người làm chứng thấy sự vô lý, tính chưa chính xác trong từng lời khai, đồng
thời phải quan sát những biểu hiện về tâm lý trên khuôn mặt của người làm chứng,
68
nhất là trong từng cử chỉ xem có gì khác lạ hay không, từ đó sẽ đánh giá được hiệu
quả của việc vạch trần mâu thuẫn trong lời khai người làm chứng đến đâu.
Thứ tư, đào tạo về trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho những cán bộ điều tra
để đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn để trở thành Điều tra viên, từ đó nâng cao nâng
cao số lượng Điều tra viên cho cơ quan, qua đó đáp ứng vào công tác đấu tranh,
phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.
Trên là một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng hoạt động lấy lời
khai người làm chứng trong tố tụng hình sự. Có thể là những giải pháp chưa hoàn
thiện và đầy đủ, xong đó là quá trình nghiên cứu lý luận cùng với trải nghiệm thực
tiễn mà tôi đúc kết được và với mong muốn đóng góp một phần nào đó trong hoạt
động lấy lời khai người chứng ở thực tiễn địa phương.
3.2. Kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động lấy lời khai của
người làm chứng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Về quyền của người làm chứng: Người viết cho rằng, một trong những lý do
khiến người làm chứng từ chối khai báo hoặc từ chối cung cấp thông tin vì liên
quan đến hoạt động chuyên môn nghề nghiệp nhất là các lĩnh vực: Công nghệ thông
tin, Bác sĩ, Dược sĩ…, họ sợ nếu lộ những thông tin này thì sẽ ảnh hưởng đến tính
độc quyền, tính lợi nhuận của họ trong công việc và hậu quả thiệt hại của việc tiết lộ
thông tin này thì ai sẽ là người phải chịu trách nhiệm, ai sẽ là người bồi thường cho
họ. Vì vậy, pháp luật của một số nước như Đức, Nhật, Mỹ… quy định nhân chứng
có quyền từ chối khai báo, từ chối cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động nghề
nghiệp và nếu họ khai báo thì sẽ được đảm bảo theo quy định của pháp luật. Trong
khi đó Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 của nước ta chưa quy định cơ chế đảm
bảo quyền này nên rất nhiều trường hợp nhân chứng từ chối khai báo, từ chối cung
cấp thông tin cho Cơ quan tiến hành tố tụng (xem Bộ luật Tố tụng hình sự Đức,
Nhật, Mỹ về chế định nhân chứng).
Do vậy, người viết đề xuất sớm có văn bản hướng dẫn cho người làm chứng
được thực hiện quyền này hoặc bổ sung mở rộng thêm lý do, đối tượng nhân chứng
được thực hiện quyền này vào Điều 66 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó
69
nên bổ sung người làm chứng có quyền từ chối cung cấp thông tin liên quan đến
hoạt nghề nghiệp nhất định như: Trong sở hữu trí tuệ, sáng chế, sản xuất, công nghệ
sinh hoá, vi sinh…., mang tính độc quyền mà nếu bị lộ thì sẽ gây thiệt hại lớn cho
họ và xã hội. Ví dụ: Trong lĩnh vực sinh học về biến đổi gen, trong lĩnh vực nghiên
cứu y học về virút nếu bị lộ sẽ có nguy cơ đe doạ đến sự oan toàn của xã hội.
- Về trách nhiệm người làm chứng: Theo quy định tại Điều 66 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015 người làm chứng phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan
có thẩm quyền, nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị dẫn giải, trình bày
trung thực những gì mình biết. Nếu khai báo gian dối, trốn tránh thì phải chịu trách
nhiệm hình sự. Nhưng đến mức nào mới phải chịu trách nhiệm hình sự thì vẫn còn
chung chung, hình thức xử lý ra sao còn chưa quy định nên khó khăn cho cơ quan
tiến hành tố tụng. Thực tiễn nhiều vụ án hình sự liên quan đến gia đình, đồng
nghiệp, bạn bè…, nên người làm chứng không giám khai báo, hoặc có khai thì cũng
không đúng sự thật và họ luôn tìm cách trốn tránh. Vì thế theo quan điểm của người
viết nên quy định nếu nhân chứng đã được triệu tập hợp lệ mà không đến thì đầu
tiền phải chịu thiệt hại về chi phí, sau đó có thể bị phạt tiền, mức phạt tiền cũng
tương đối lớn, vì thế buộc người làm chứng phải có mặt tại Cơ quan tiến hành tố
tụng, còn họ khai báo gian dối thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo luật
định.
Xuất phát từ lý do trên, người viết đề nghị cần hướng dẫn cụ thể việc áp
dụng chế định này và nên bổ sung phạt tiền nếu người làm chứng cố ý vắng mặt.
Đặc biệt xác định mức độ khai báo gian dối của người làm chứng dẫn đến hậu quả
như thế nào thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Về bảo vệ người làm chứng:
Người làm chứng luôn có tâm lý sợ bị trả thù, bị ảnh hưởng đến bản thân và
gia đình, đặc biệt hiện nay xuất hiện nhiều nhóm tội phạm mang tính chất côn đồ,
tội phạm có tổ chức luôn có vũ khí “nóng” sẵng sàng đâm, chém người làm chứng
hoặc đe doạ thân nhân người làm chứng. Pháp luật nhiều nước tiên tiến trên thế giới
có quy định về chế định bảo vệ nhân chứng, thành lập cơ quan bảo vệ nhân chứng
70
và chi phí khoản tiền lớn cho hoạt động này. Điển hình như: quy định Bộ trưởng Bộ
tư pháp Hoa kỳ là người xem xét cho nhân chứng và người thân khi gặp nguy hiểm
tham gia chương trình bảo vệ người làm chứng, với điều kiện nhân chứng phải ký
cam kết về nội dung, phương án bảo vệ, việc giám hộ, thăm nom và biện pháp xử lý
vi phạm….Người tham gia chương trình bảo vệ nhân chứng được đảm bảo an toàn
tính mạng, sức khỏe và tài sản cùng các phúc lợi xã hội khác. Tại Liên bang Nga
năm 2004 nước này ban hành Luật bảo vệ nhân chứng, đến năm 2006 Chính phủ
Nga thông qua chương trình Nhà nước bảo vệ nạn nhân và nhân chứng và những
người tham gia tố tụng khác với số tiền lên đến 1 tỷ rúp (tương đương 633 tỷ đồng)
cho riêng giai đoạn 2006 đến 2008. Ngày 23/6/2010 Nga thành lập Cục bảo vệ nhân
chứng và Quan toà trực thuộc Bộ nội vụ liên bang nhằm bảo vệ những người thuộc
diện bảo vệ của nhà nước. Tại Thái Lan, nhân chứng trong các vụ án rửa tiền, buôn
bán ma tuý, tham nhũng, mại dâm trẻ em hay tội ác có tổ chức được tham gia
chương trình bảo vệ nhân chứng trong một năm, nhân chứng và người thân được
đưa đến nơi an toàn, được trợ cấp hàng tháng, được đào tạo nghề nếu nhân chứng
có nhu cầu và nhân chứng được bồi thường khi họ bị thương hay bị sát hại trong
thời gian tham gia chương trình. Tại Philippines, năm 1991 Bộ tư pháp nước này đã
triển khai trương trình trợ cấp an ninh và bảo vệ nhân chứng, tham gia chương trình
nhân chứng, người làm chứng và người thân có thể thay đổi chỗ ở, trợ cấp tiền bạc,
thanh toán chi phí đi lại và trợ cấp đi lại.Tại nước Anh, trong năm 2002 – 2003 có
2.845 vụ án ở Toà án Hoàng gia Anh và 13.328 vụ án ở Toà sơ thẩm đã bị hoãn vì
nhân chứng vắng mặt, chiếm 22% và 26% số vụ án bị hoãn. Cơ quan kiểm toán
Anh ước tính mỗi năm phiên toà bị hoãn gây thiệt hại khoảng 41 triệu bảng (hơn
1.000 tỷ đồng) [8, tr.39-50]. Ngay trong quy chế Rome về Toà án hình sự quốc tế
cũng đã quy định giải pháp bảo vệ nhân chứng và nạn nhân bằng các biện pháp
phòng ngừa và lập phòng nạn nhân, phòng nhân chứng [7, tr.418].
Ở Việt Nam, việc bảo vệ người làm chứng nói riêng được quy định lần đầu
tiên tại Chương XXXIV Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Đây là bước tiến quan
trọng trong tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta trong việc đảm bảo quyền con
71
người, quyền công dân và tạo tâm lý an tâm cho người làm chứng tham gia tố tụng.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu chế định bảo vệ người làm chứng nói riêng và bảo vệ
người tố giác tội phạm, bị hại, người tham gia tố tụng khác còn một số vướng mắc
như:
+ Về thời hạn thụ lý giải quyết: Theo quy định Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 người làm chứng có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng
biện pháp bảo vệ hoặc trong trường hợp khẩn cấp thì có thể đến trực tiếp cơ quan đề
nghị hoặc thông qua phương tiện thông tin liên lạc nhưng sau đó phải thể hiện bằng
văn bản. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không quy định trong thời
hạn bao nhiêu ngày kể từ ngày nhận được đơn của người làm chứng yêu cầu bảo vệ
thì cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ. Điều này
sẽ không tránh khỏi việc cơ quan có thẩm quyền áp dụng tuỳ tiện, không kịp thời,
thậm chí còn không muốn áp dụng vì liên quan đến kinh phí, cơ sở vật chất phục vụ
người được bảo vệ và quản thúc việc đi lại của họ, nhất là những vụ án có nhiều
nhân chứng, nhiều bị hại cùng có đề nghị bảo vệ.
Do vậy, người viết đề xuất cần quy định cụ thể trong thời hạn bao nhiêu ngày
kể từ ngày nhận được đề nghị, yêu cầu của người được bảo vệ nói chung và người
làm chứng nói riêng thì cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định bảo vệ. Trong
trường hợp khẩn cấp nếu họ trực tiếp đến cơ quan có thầm quyền đề nghị, yêu cầu
thì cơ quan có thẩm quyền có thể xác minh ngay và ra quyết định áp dụng biện pháp
bảo vệ để bảo đảm tính mạng, sức khỏe của họ.
+ Về thẩm quyền áp biện pháp bảo vệ: Theo quy định tại Điều 485 Bộ luật
Tố tụng hình sự thì thì chỉ có Cơ quan điều tra của Công an nhân dân; Cơ quan điều
tra của Quân đội nhân dân có quyền áp dụng biện pháp bảo vệ do cơ quan mình thụ
lý. Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân các cấp nếu thấy cần áp dụng biện
pháp bảo vệ đối với người được bảo vệ nói chung, người làm chứng nói riêng thì đề
nghị Cơ quan điều tra trực tiếp thụ lý vụ án hình sự ra quyết định áp dụng biện pháp
bảo vệ đối với người được bảo vệ, đề nghị phải được thể hiện bằng văn bản. Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân
72
sự trung ương nếu xét thấy cần thiết áp dụng biện pháp bảo vệ đối với người được
bảo vệ trong vụ án hình sự do mình thụ lý thì giải quyết thì báo cáo Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ưng có
văn bản đề nghị với Cơ quan Cảnh sát điều tra, Cơ quan An ninh điều tra Bộ công
an; Cơ quan điều tra hình sự, Cơ quan an ninh điều tra Bộ quốc phòng để ra quyết
định áp dụng biện pháp bảo vệ.
Phạm vi áp dụng biện pháp bảo vệ chỉ giao cho hai cơ quan là Cơ quan điều
tra hình sự của Bộ công an và Cơ quan điều tra hình sự của Bộ quốc phòng còn hẹp
chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ quền hạn của Viện kiểm sát. Vì Hiến
pháp năm 2013 đã khẳng định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp…Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất” (Điều 107 Hiến pháp năm 2013) và tại Điều 20 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015 cũng khẳng định “ Viện kiểm sát thực hành quyền công tố
và kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát
hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp
nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm
minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội”.
Như vậy, với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp thì việc bảo vệ người làm chứng càng thể hiện việc buộc tội của Viện kiểm sát
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự từ giai đoạn khởi tố vụ án đến giai đoạn
điều tra, truy tố và xét xử. Đặc biệt trong giai đoạn truy tố khi hồ sơ đã chuyển sang
Viện kiểm sát, nếu người làm chứng có đơn yêu cầu bảo vệ chính đáng thì theo Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015 Viện kiểm sát đề nghị Cơ quan điều tra ra quyết định
bảo vệ nhưng vì lý do nào đó Cơ quan điều tra không ra quyết định bảo vệ thì vừa
ảnh hưởng đến tâm lý người làm chứng và vừa ảnh hưởng đến quyền con người,
quyền công dân của họ, từ đó sẽ khó khăn cho Viện kiểm sát khi phải củng cố
73
chứng cứ để truy tố. Mặt khác, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao là
một trong những cơ quan điều tra chuyên trách nhưng lại không được quyết định
việc áp dụng biện pháp bảo vệ nhân chứng là bất hợp lý. Vì thế, trong đoạn truy tố
với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp thì Viện
kiểm sát có quyền ra quyết định bảo vệ người làm chứng nói riêng và người cần
được bảo vệ nói chung mới tương xứng với nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát.
Khi tiến hành điều tra các vụ án xâm phạm hoạt động tư pháp theo thẩm quyền, Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải có thẩm quyền áp dụng biện pháp
bảo vệ nhân chứng mà Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.
- Về cơ sở vật chất và kinh phí: Trong thời gian tới chế định bảo vệ người
làm chứng sẽ được thực hiện nhưng hiện trạng cơ sở vật chất để phục vụ cho việc
bảo vệ người làm chứng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 vẫn
chưa được triển khai do chưa có hướng dẫn cụ thể. Vì thế khi Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015 được thực thi thì người làm chứng có yêu cầu được bảo vệ thì cơ quan
tiến hành tố tụng phải làm như thế nào, kèm theo đó là hàng loạt kinh phí như kinh
phí đi lại, sinh hoạt mua sắm, ăn ở, làm việc, học tập, thăm nom của người nhà, bạn
bè…Đặc biệt những vụ án có nhiều nhân chứng, nhiều bị hại và có nhiều người yêu
cầu được bảo vệ. Do vậy, nếu chúng ta có sự chuẩn bị và thực hiện tốt thì sẽ đảm
bảo quyền của họ, đảm bảo pháp luật được thực thi. Nhưng ngược lại nếu chúng ta
thực hiện không tốt sẽ không tránh khỏi Cơ quan điều tra sẽ gây khó khăn cho
người làm chứng khi họ có yêu cầu được bảo vệ vì Cơ quan điều tra lo ngại không
đủ kinh phí để đảm bảo cho họ, dẫn đến người làm chứng mất niềm tin vào quy
định của pháp luật, mất niềm tin vào cơ quan tiến hành tố tụng, không thể hiện được
sự tôn nghiêm của pháp luật. Vì thế cần sớm có hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng
và triển khai thực hiện chế định này.
- Về công tác tuyên truyền: Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trên cơ sở thể
chế hoá Hiến pháp năm 2013 và kế thừa những tinh hoa của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 và tham khảo nhiều pháp luật tiên tiến trên thế giới nên đã phát huy được
quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự, trong đó có quyền được
74
bảo vệ của người làm chứng. Tuy nhiên, không phải người làm chứng nào cũng
nhận thức được quyền này của mình, nhất là những người sống ở các vùng sâu,
vùng xa, vùng nông thôn, cảm giác của họ khi đến cơ quan tiến hành tố tụng tiếp
xúc với cán bộ họ rất sợ. Vì vậy, theo quan điểm của người viết Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Toà án cần phối hợp với các cơ quan như Uỷ ban Mặt trận tổ quốc,
Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Uỷ ban nhân dân xã …. Tổ chức các buổi tuyên
truyền phổ biến về pháp luật hình sự, tố tụng hình sự nói chung và quyền được bảo
vệ của người làm, người bị hại nói riêng. Đồng thời tăng cường tuyên truyền trên
các phương tiện truyền thông như Đài phát thanh, cổng thông tin điện tử…Có như
vậy công dân sẽ sớm biết được quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia làm chứng
trong vụ án hình sự.
Người làm chứng là một trong những người tham gia tố tụng thường có vai
trò quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự bởi lời khai của họ là một trong
những nguồn chứng cứ, không chỉ pháp luật Việt Nam mà hầu hết nền pháp luật
trên thế giới đều khẳng định vị trí quan trọng của người làm chứng. Với những
nghiên cứu và kiến nghị của mình trên đây, người viết mong rằng sẽ góp phần đảm
bảo tốt hơn quyền lợi của người làm chứng góp phần quan trọng trong việc phòng
ngừa và chống tội phạm.
75
Tiểu kết chương 3
Chương 1 và Chương 2 đã được tác giả phân tích trình bày làm rõ những vấn
đề về lý luận, pháp lý và thực tiễn áp dụng pháp luật lấy lời khai người làm chứng.
Chương 3 có ý nghĩa hoàn thiện luận văn khi phân tích những giải pháp và kiến
nghị hoàn thiện pháp luật.
Trong tố tụng hình sự thì hoạt động lấy lời khai người làm chứng là một hoạt
động rất quan trọng, bởi người làm chứng là một trong những người tham gia tố
tụng hình sự, do lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ
để giải quyết vụ án, nhưng đồng thời đây cũng là hoạt động khó khăn và phức tạp
trong quá trình điều tra vụ án. Hoạt động lấy lời khai người làm chứng phải được
tiến hành theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo bí mật về chuyên môn nghiệp
vụ của cơ được giao nhiệm vụ lấy lời khai người làm chứng.
Hoạt động lấy lời khai người làm chứng được tiến hành đối với người làm
chứng, nhằm mục đích thu thập thông, tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ án để
phục vụ cho công tác điều tra giải quyết vụ án, hoạt động này được tiến hành trong
giai đoạn đầu điều vụ án để xác định đối tượng gây án và làm rõ những tình tiết có
liên quan đến vụ án.
Những kiến nghị hoàn thiện và nâng cao chất lượng pháp luật của Chương 3
mặc dù có thể chưa đảm bảo có thể hoàn thiện toàn bộ những hạn chế và bất cập
được trình bày ở Chương 2 nhưng đó những nghiên cứu và phân tích chuyên sâu
của tác giả về lấy lời khai người làm chứng. Tác giả hy vọng những đề xuất cũng
mang giá trị nhất định đối với thực trạng pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật
đối với trong tương lai.
76
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn hiện nay cùng với việc đẩy mạnh hội nhập phát triển kinh tế,
xã hội của đất nước, thì yêu cầu đặt ra cần xây dựng một xã hội có những thiết chế
pháp luật chặt chẽ và cụ thể, trong đó có hoạt động tư pháp nói chung, cũng như các
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử nói riêng đã đạt được những kết quả nhất định.
Hiện nay, chính sách pháp luật về tố tụng hình sự được quy định theo hướng ngày
càng hoàn thiện hơn, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia tiến
hành tố tụng.
Pháp luật tố tụng hình sự từng bước hoàn thiện hơn các quy định đối với hoạt
động lấy lời khai người làm chứng và sự bảo đảm của nhà nước về tính khách quan,
trung thực trong hoạt động lấy lời khai người làm chứng sẽ có ý nghĩa quan trọng
trong việc điều tra giải quyết vụ án hình sự; góp phần củng cố niềm tin của nhân
dân vào sự công minh của pháp luật, của Nhà nước trong công tác đấu tranh, phòng,
chống tội phạm.
Xuất phát từ tình hình trên yêu cầu đặt ra là phải nhanh chóng điều tra phá án
xử lý đúng người, đúng tội, bên cạnh đó là sự phối hợp của các ngành có liên quan
và quan trọng hơn nữa là tinh thần tố giác tội phạm, kịp thời cung cấp những thông
tin thật sự có giá trị cho cơ quan điều tra để tiến hành xác minh làm rõ sự thật của
các vụ án đã xảy ra trên địa bàn, để thực hiện có hiệu quả những yêu cầu trên thì
người làm chứng cũng có vai trò quan trọng giúp cho cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng nhanh chóng làm sáng tỏ sự thật của vụ án đã xảy ra trên địa bàn
huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.
Việc nghiên cứu hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong Bộ luật tố
tụng hình sự Việt Nam để có cái nhìn sâu hơn, đầy đủ hơn và có những giải pháp
hoàn thiện quy định của pháp luật về hoạt động lấy lời khai người làm chứng là
hoàn toàn cần thiết. Xuất phát từ thực tế, do đó tôi đã chọn và hoàn thành đề tài
“Lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự”, góp phần nâng cao hiệu quả
công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm, nhất là công tác điều tra khám phá làm
rõ sự thật của vụ án.
77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Hữu Danh (2013) Hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong Tố
tụng hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật, Đại học Luật TPHCM.
2. Huỳnh Kỳ (1952) Cảnh sát khoa học, NXB Văn Hồng Thịnh.
3. Nguyễn Nhật Lệ (2014) Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam, Luận văn cao học, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội;
4. Lê Thanh Nga (2001) Nguồn chứng cứ trong vụ án hình sự, Khóa luận tốt
nghiệp Cử nhân Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Nhà pháp luật Việt Pháp (1998) Bộ lụât tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Nxb Đông Dương (1922) Các bộ luật An Nam, Nxb Đông Dương, Hà Nội.
7. Nxb Tư pháp (2006) Điều 68 Quy chế Rôm về Toà án hình sự quốc tế
(biên dịch), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
8. Nguyễn Thái Phúc (2007) “Bảo vệ người làm chứng và quyền miễn trừ
làm chứng trong tố tụng hình sự”, Tạp chí khoa học pháp lý, số 03(40), tr.39-50.
9. Quốc hội (2009) Bộ luật Hình sự năm 1991, sửa đổi bổ sung năm 2009,
Hà Nội.
10. Quốc hội (2017) Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017,
Hà Nội.
11. Quốc hội (2003) Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội.
12. Quốc hội (2015) Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hà Nội.
13. Quốc hội (1992) Hiến pháp năm 1992, Hà Nội.
14. Quốc hội (2013) Hiến pháp năm 2013, Hà Nội.
15. Quốc hội (2004) Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Hà
Nội.
16. Quốc hội (2014) Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Hà Nội.
17. Quốc hội (200) Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, Hà Nội.
18. Trần Quang Tiệp (2011) Chế định chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
78
19. Trần Quang Tiệp (2005) “Về lời khai của người làm chứng trong vụ án
hình sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4(29), tr.45-48;
20. Tòa án nhân dân tối cao (1976) Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng hình
sự, Hà Nội;
21. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011) Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt
Nam, NXB CAND;
22. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012) Giáo trình Luật Tố
tụng hình sự Việt Nam, NXB Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam;
23. Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (1995) Quốc triều hình luật, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Viện Khoa học pháp lý (2006) Từ điển Luật học, NXB Từ điển bách khoa,
Hà Nội.
25. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án tối cao – Bộ Công an – Bộ Quốc
phòng (2005) Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-VKSTC-TA TC-BCA -BQP về
Hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật trong công tác thống kê hình sự,
thống kê tội phạm, ban hành ngày 01/7/2005, Hà Nội.
26. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao– Bộ Công an – Bộ Quốc phòng (2005)
Thông tư liên tịch số 05/TTLT-VKSTC-BCA-BQP về quan hệ phối hợp giữa Cơ
quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003, ban hành ngày 07/9/2005, Hà Nội.
27. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1998) Luật tố tụng hình sự Hàn Quốc,
Hà Nội.
28. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1999) Bộ luật tố tụng hình sự Malaysia,
Hà Nội.
29. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1993) Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản,
Hà Nội.
30. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1995) Bộ luật tố tụng hình sự Thái Lan,
Hà Nội.
31. Viện Ngôn ngữ học (2003) Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng;
79
32. Trịnh Tiến Việt (2001) “Cần Quy định quyền của người làm chứng”, Tạp
chí Kiểm sát, số 5/2001.
33. Trịnh Tiến Việt (2009) “Về chứng cứ và nguồn chứng cứ quy định tại
Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Chuyên trang luật hình sự, tố tụng hình
sự, ngày 30/11/2009;
80