VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN PHƯƠNG MAI

HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ

CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI THEO PHÁP LUẬT

VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN PHƯƠNG MAI

HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ

CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI THEO PHÁP LUẬT

VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. TRẦN VĂN BIÊN

Hà Nội - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, các

số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn này là hoàn toàn hợp lệ và đảm bảo

tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về đề tài nghiên cứu của mình.

Tác giả

Nguyễn Phương Mai

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ............................................ 6

1.1. Khái niệm và bản chất hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ......................................................................................................................... 6

1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ............................................................................................................ 18

Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 22

Chương 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN ............................................................................................................ 23

2.1. Khái quát sự phát triển của các quy định pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ............................................................. 23

2.2. Nội dung các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ...................................................................... 26

2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ............................................................................................................ 51

Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 62

Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ......................................................... 63

3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới .......................... 63

3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ................................................................................................. 64

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ............................................................................... 65

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 73

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bảo hiểm là một trong những ngành dịch vụ tài chính có vai trò quan trọng

trong đời sống hàng ngày bởi phạm vi của nó liên quan đến tất cả các hoạt động sản

xuất, kinh doanh khác. Tuy nhiên, đặc điểm tạo nên sự khác biệt quan trọng của bảo

hiểm so với các ngành tài chính khác, đồng thời củng cố vai trò của bảo hiểm trong

đời sống xã hội đó chính là bảo hiểm cung cấp cơ chế bảo đảm tài chính tốt nhất

cho cá nhân và các tổ chức – một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại.

Khi nền kinh tế – xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu đi lại của nhân dân ngày

càng tăng, số lượng các loại phương tiện tham gia giao thông gia tăng nhanh chóng

và hết sức đa dạng, phong phú. Đặc biệt là xe cơ giới, với tính cơ động cao, tính việt

dã tốt, tham gia triệt để quá trình vận chuyển nên lượng xe tham gia giao thông

ngày càng nhiều. Mặc dù xe cơ giới ngày một hiện đại hơn, cơ sở hạ tầng giao

thông ngày càng được mở rộng, nâng cấp và hoàn thiện, song tai nạn giao thông vẫn

gia tăng qua các năm làm ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và tài sản của con

người. Vì thế, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ra đời là hết sức cần

thiết và được triển khai dưới hình thức là hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự

của chủ xe cơ giới.

Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới có vai trò quan

trọng như góp phần ổn định tài chính, khắc phục hậu quả khi rủi ro xảy ra cho

người tham gia bảo hiểm đồng thời cũng là một trong các biện pháp hỗ trợ, có ý

nghĩa quan trọng trong việc hạn chế, khắc phục hậu quả tai nạn giao thông và xây

dựng văn hoá giao thông lành mạnh.

Trên thực tế, khi có tai nạn xảy ra, chủ phương tiện giao thông nhiều trường

hợp không có khả năng tài chính để khắc phục sẽ để lại hậu quả lâu dài cho bản

thân và người không may gặp tai nạn. Nhưng khi chủ phương tiện tham gia hợp

đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ

đứng ra giải quyết hậu quả bằng việc bồi thường tai nạn những điều khoản đã ký

kết trong hợp đồng, giúp đỡ chủ phương tiện và người bị nạn giảm tổn thất về tài

chính trên cơ sở sử dụng tiền phí bảo hiểm của nhiều người, giúp đỡ những người

1

không may gặp rủi ro.

Với ý nghĩa xã hội to lớn đó của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới, ở nước ta, chế độ hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe

cơ giới trong thời gian qua đã được nhà nước quan tâm triển khai và chủ xe cơ giới

hưởng ứng, các doanh nghiệp chấp hành. Tuy nhiên do một số lý do khách quan và

chủ quan từ phía người tham gia hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm, cơ

quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm, các bộ, ngành có liên quan và sự

hạn chế, thiếu tính khả thi của một số quy định pháp luật nên pháp luật về hợp đồng

bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới chưa thực sự được doanh nghiệp

bảo hiểm, chủ xe cơ giới tuân thủ đầy đủ, do vậy chưa phát huy được hết giá trị xã

hội của các loại hình hợp đồng bảo hiểm này.

Xuất phát từ thực tế đó thì việc nghiên cứu đề tài để tiếp tục đưa ra những giải

pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hợp đồng bảo

hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là vấn đề cần thiết. Với lý do đó, tác giả

đã lựa chọn đề tài: “Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

theo pháp luật Việt Nam hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Việc nghiên cứu pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ

xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay chủ yếu được đề cập dưới dạng các bài viết được

đăng tải rải rác trên các tạp chí hoặc dưới hình thức các ý kiến tản mạn của các

chuyên gia, các đại diện của cơ quan quản lý nhà nước trong các cuộc trả lời phỏng

vấn của các cơ quan báo chí.

Ngoài ra, ở Việt Nam đến nay đã có luận văn thạc sĩ luật học của tác giả

Nguyễn Thị Thúy tại Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội năm 2012 về đề tài:

“Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam theo pháp

luật dân sự Việt Nam”, luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Thu Trang tại Khoa Luật –

Đại học quốc gia Hà Nội năm 2011 về đề tài: “Pháp luật về bảo hiểm bắt buộc

trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay”, và một số nghiên

cứu khác cũng có liên quan tới đề tài luận văn của tác giả.

2

Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chỉ nghiên cứu ở mức độ chung về

hợp đồng bảo hiểm hoặc chỉ nghiên cứu ở phạm vi hẹp về các vấn đề như: hợp đồng

bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ phương tiện cơ giới mà chưa có tác

giả nào nghiên cứu một cách hệ thống, đánh giá một cách toàn diện về thực trạng

xây dựng, thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe

cơ giới, một đề tài cần phải được làm rõ cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.

Vì vậy, đề tài “Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là một đề tài độc lập và không trùng lặp với các

đề tài đã được nghiên cứu từ trước đến nay. Tuy nhiên, tác giả luôn có ý thức kế

thừa, học hỏi những kết quả mà các công trình khoa học, các bài viết và các ý kiến

của các chuyên gia cũng như các kinh nghiệm thực tiễn có liên quan đến đề tài

trong quá trình thực hiện luận văn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Luận văn có mục đích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của hợp đồng bảo

hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Theo đó, luận văn có những mục đích

cụ thể sau:

Thứ nhất, luận văn làm rõ cơ sở lý luận về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới;

Thứ hai, luận văn phân tích thực trạng pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và thực tiễn thực hiện;

Thứ ba, luận văn đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

3.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả của luận văn đặt ra các nhiệm

vụ nghiên cứu sau đây:

Thứ nhất, phân tích khái niệm và làm rõ đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm

trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới;

3

Thứ hai, nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chế định hợp đồng bảo

hiểm trách nhiệm dân sự nói chung và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới nói riêng đồng thời làm rõ nội dung cụ thể của chế định này trong

pháp luật Việt Nam hiện hành;

Thứ ba, tổng kết thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đồng thời đưa ra các kiến nghị, giải pháp để hoàn

thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn chọn những yếu tố liên quan đến

pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới tại Việt

Nam làm đối tượng nghiên cứu. Từ đó tìm hiểu sự ảnh hưởng của các yếu tố đó tới

quá trình thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe

cơ giới.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn có phạm vi nghiên cứu như sau:

 Về thời gian: Luận văn nghiên cứu những quy định pháp luật của Việt Nam

được ban hành từ năm 1988 cho đến nay.

 Về không gian: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lenin

và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước ta về nhà nước và

pháp luật, về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là:

(i) Phương pháp khai thác tài liệu sẵn có là các bài viết, các kết quả nghiên

cứu của các tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài;

(ii) Phương pháp thống kê;

(iii) Phương pháp phân tích và luật học so sánh;

(iv) Phương pháp diễn dịch và phương pháp tổng hợp.

4

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân

sự của chủ xe cơ giới: khái niệm, đặc điểm, vai trò của hợp đồng bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới để rút ra ý nghĩa xã hội to lớn của loại hình hợp

đồng bảo hiểm này.

Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn tham gia hợp đồng bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới hiện nay ở Việt Nam, qua đó đưa ra những hạn

chế, thiếu xót dẫn đến loại hình hợp đồng bảo hiểm này chưa được phổ biến và đi

sâu vào mọi tầng lớp dân cư ở Việt Nam.

Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm mục đích đưa hợp đồng bảo hiểm

trách nhiệm của chủ xe cơ giới thực sự được triển khai một cách rộng rãi tại Việt

Nam và phát huy được ý nghĩa xã hội to lớn của nó.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết

cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự

của chủ xe cơ giới.

Chương 2: Pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới và thực tiễn thực hiện.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện

pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

5

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM

TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI

1.1. Khái niệm và bản chất hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe

cơ giới

1.1.1. Khái niệm và bản chất hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

a. Khái niệm “Hợp đồng”

Khái niệm “hợp đồng” tại Việt Nam được quy định tại Điều 385 Bộ luật dân

sự năm 2015, theo đó:

“Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc

chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”[26].

Ngoài chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự, hợp đồng còn được điều chỉnh bởi

các lĩnh vực pháp luật khác như kinh doanh thương mại, lao động, xây dựng,…

b. Khái niệm “bảo hiểm”

Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, loài người luôn phải

đối mặt với rất nhiều rủi ro như thiên tai, địch họa, tai nạn, bệnh tật,… và cao hơn

nữa là những biến động về kinh tế, chính trị, xã hội,… gây xáo trộn cuộc sống, thậm

chí đe doạ tới tính mạng và của cải của mình. Chính vì vậy, con người luôn luôn tìm

cách để bảo vệ mình khỏi những tác động không mong muốn đó, cũng như dự trữ

tài chính để bù đắp cho những thiệt hại có thể xảy ra nhằm nhanh chóng ổn định

cuộc sống và công việc.

Ngay từ xa xưa, con người đã dự trữ lương thực để đề phòng những trường

hợp khẩn cấp như mất mùa, hạn hán lập các quỹ dự trữ chung cho cộng đồng để đề

phòng những thảm họa, hoặc những tổn thất lớn liên tiếp ngoài sự chống đỡ của

mỗi cá nhân, mỗi gia đình. Đời sống kinh tế, xã hội của loài người càng phát triển,

các rủi ro tiềm ẩn mà loài người có thể gặp phải càng phức tạp, khó lường và vì thế

mà nhu cầu được bảo vệ, được an toàn của con người ngày càng cao. Ngành bảo

hiểm ra đời chính là để đáp ứng nhu cầu đó của con người.

6

Trên thực tế, hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về bảo hiểm.

Dưới góc độ tài chính, “bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính nhằm

phân phối lại những chi phí mất mát không mong đợi” [19, tr.9].

Dưới góc độ pháp lý, “bảo hiểm là một nghiệp vụ, qua đó, một bên là người

được bảo hiểm chấp nhận trả một khoản tiền (phí bảo hiểm hay đóng góp bảo hiểm)

cho chính mình hoặc cho một người thứ ba khác để trong trường hợp rủi ro xảy ra,

sẽ được trả một khoản tiền bồi thường từ một bên khác là người được bảo hiểm,

người chịu trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền bù những thiệt hại” [19, tr.10].

Tuy nhiên, khái niệm có nội dung đầy đủ và logic nhất đó là: “bảo hiểm là

phương pháp chuyển giao rủi ro được thực hiện qua hợp đồng bảo hiểm, trong đó

bên mua bảo hiểm chấp nhận trả phí bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm cam kết

bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm” [25, tr.16].

Như vậy, thực chất của hoạt động bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng

sản phẩm xã hội giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát

sinh khi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm.

c. Khái niệm “hợp đồng bảo hiểm”

Theo quy định tại Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ

sung năm 2010), “hợp đồng bảo hiểm” được định nghĩa như sau:

“Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh

nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp

bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người

được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”[26].

Như vậy có thể hiểu hợp đồng bảo hiểm là việc tổ chức bảo hiểm cam kết bảo

đảm bồi thường một số tiền nhất định cho cá nhân, tổ chức khi sự kiện bảo hiểm xảy ra

và có gây thiệt hại cho đối tượng được bảo hiểm trong một thời gian nhất định, còn bên

mua bảo hiểm phải đóng một khoản tiền nhất định gọi là phí bảo hiểm.

d. Khái niệm “trách nhiệm dân sự”

Theo quy định của pháp luật, bên có nghĩa vụ phải làm một công việc hoặc

không được làm một công việc vì lợi ích của bên có quyền. Trường hợp bên có

nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa

7

vụ của mình sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Bên có nghĩa vụ

không có nghĩa vụ chịu trách nhiệm dân sự nếu việc không thực hiện, thực hiện

không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ đó hoàn toàn phát sinh bởi lỗi của bên có

quyền. Bên không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ

nghĩa vụ dân sự chịu trách nhiệm dân sự khi việc không thực hiện, thực hiện không

đúng hoặc thực hiện không đầy đủ đó phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý của bên đó trừ

trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc theo quy định của pháp luật.

Trách nhiệm dân sự nói chung được hiểu là sự quy định của pháp luật dân sự

về hậu quả pháp lý được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng buộc người có

hành vi vi phạm quy tắc xử sự phải gánh những hậu quả pháp lý nhất định nhằm

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bên có quyền dân sự bị xâm phạm [30, tr.152].

Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm bồi thường của một cá nhân, tổ chức gây

thiệt hại đến tài sản, sức khoẻ,... của chủ thể khác mà hành vi đó chưa phải là tội

phạm theo quy định tại Bộ luật hình sự.

Trách nhiệm dân sự thường được hiểu là một loại trách nhiệm pháp lý. Trách

nhiệm pháp lý được cho là việc một chủ thể phải gánh chịu những hậu quả bất lợi

theo quy định của pháp luật do có hành vi vi phạm pháp luật. Trách nhiệm dân sự

không phải là một sự trừng phạt mà là một biện pháp buộc người có hành vi vi

phạm pháp luật vào nghĩa vụ bồi thường cho người bị tổn hại do hành vi đó gây ra.

Trong lĩnh vực bảo hiểm, trách nhiệm dân sự được hiểu là nghĩa vụ dân sự

của bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm mà từ đó nghĩa vụ dân sự phát

sinh.

đ. Khái niệm “chủ xe cơ giới”

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, xe cơ giới bao gồm ô tô, rơ moóc

hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi ô tô và các loại xe tương tự.

Chủ xe cơ giới có thể là người chủ sở hữu hợp pháp của xe cơ giới hoặc bên

bất kỳ nào đó được chủ sở hữu xe cơ giới giao quyền chiếm hữu, sử dụng hoặc điều

khiển xe cơ giới. Chủ xe cơ giới có thể là tổ chức hoặc cá nhân.

8

e. Khái niệm “hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới”

Từ những phân tích trên, có thể hiểu rằng:

Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới chính là sự thoả

thuận bằng văn bản giữa bên bảo hiểm, hay còn gọi là doanh nghiệp bảo hiểm với

bên tham gia bảo hiểm, hay còn gọi là chủ xe cơ giới. Theo đó, doanh nghiệp bảo

hiểm cam kết sẽ thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với người thứ ba

thay cho bên được bảo hiểm nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời hạn có hiệu lực

của hợp đồng, còn bên tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm đầy đủ và

đúng hạn theo như thỏa thuận giữa các bên.

1.1.1.2. Bản chất của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

Khoản 1 Điều 8 Văn bản hợp nhất 25/VBHN-BTC năm 2014 hợp nhất Nghị

định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do Bộ Tài chính

ban hành ngày 27/6/2014 quy định:

“Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

(sau đây gọi là Giấy chứng nhận bảo hiểm) là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo

hiểm trách nhiệm dân sự giữa chủ xe cơ giới với doanh nghiệp bảo hiểm”[9].

Khoản 3 Điều 6 Văn bản này cũng quy định:

“Ngoài việc tham gia hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự, chủ

xe cơ giới có thể thỏa thuận với doanh nghiệp bảo hiểm để tham gia hợp đồng bảo

hiểm tự nguyện”[9].

Như vậy, có thể hiểu rằng, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe

cơ giới chính là giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

do doanh nghiệp bảo hiểm cấp cho chủ xe cơ giới. Theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm

cam kết bồi thường phần trách nhiệm dân sự của người bảo hiểm theo cách thức và

hạn mức đã được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng với điều kiện người tham gia

bảo hiểm phải đóng một khoản phí tương ứng. Mục đích của người tham gia chính

là chuyển giao phần trách nhiệm dân sự của mình, và ở đây chủ yếu là trách nhiệm

bồi thường.

9

1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là một loại hợp

đồng bảo hiểm, do đó nó cũng mang những đặc điểm chung của một hợp đồng bảo

hiểm. Cụ thể:

Thứ nhất, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới mang

tính đồng thuận. Hợp đồng bảo hiểm được thiết lập dựa trên sự chấp thuận của cả

đôi bên trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tự do giao kết trong khuôn khổ pháp

luật và đạo đức xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế nội dung hợp đồng chủ yếu đều do

doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo sau khi đã được cơ quan quản lý xét duyệt. Dựa

trên nhu cầu của mình, người tham gia bảo hiểm sẽ tự do lựa chọn có giao kết hợp

đồng hay không.

Thứ hai, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là hợp

đồng song vụ. Điều này có nghĩa là, các bên ký kết đều có quyền và nghĩa vụ với

nhau. Quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Nghĩa vụ của bên

tham gia bảo hiểm là nộp phí bảo hiểm, là đề phòng và hạn chế tổn thất, yêu cầu

bên bảo hiểm trả tiền bảo hiểm theo thoả thuận hoặc do pháp luật quy định,…

Nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm là thực hiện trách nhiệm bồi thường (hoặc chi

trả bảo hiểm) khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng

đều quy định rõ và thể hiện ở các điều khoản bảo hiểm. Bên tham gia bảo hiểm sau

khi xem xét thấy phù hợp với nhu cầu của mình thì ký kết và ngược lại.

Thứ ba, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới có tính

chất may rủi. Trong thời hạn hợp đồng có hiệu lực, nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra,

bên tham gia bảo hiểm sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hoặc chi trả. Trái

lại, mặc dù đã nộp phí bảo hiểm, nếu không xảy ra sự kiện bảo hiểm, người mua

bảo hiểm sẽ không nhận được bất cứ một khoản chi hoàn trả nào từ phía doanh

nghiệp bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro từ phía người tham gia

bảo hiểm chuyển giao cho họ, đổi lại doanh nghiệp nhận được phí bảo hiểm. Nhưng

rủi ro này mới tồn tại ở trạng thái tương lai, có thể xảy ra và cũng có thể không xảy

ra. Vì thế không xác định được hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm khi ký kết hợp

đồng và người ta thường quan niệm là loại hợp đồng may rủi.

10

Thứ tư, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới có tính

chất tin tưởng tuyệt đối. Mối quan hệ giữa bên mua bảo hiểm và người bảo hiểm

được thiết lập trong tình trạng tạo ra rủi ro cho nhau. Do đó, để tồn tại và có thể

thực hiện thì hai bên phải có sự tin tưởng lẫn nhau.

Thứ năm, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là hợp

đồng có bồi thường. Mối quan hệ quyền và nghĩa vụ giữa hai bên – doanh nghiệp

bảo hiểm và người mua bảo hiểm thể hiện ở mối quan hệ tiền tệ. Tức là, người tham

gia bảo hiểm phải trả tiền bằng cách nộp phí bảo hiểm mới được đảm bảo có quyền

lợi kinh tế từ doanh nghiệp bảo hiểm. Còn doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả

tiền bảo hiểm/bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Tuy nhiên, dù hợp đồng

đã được ký kết, nhưng người tham gia bảo hiểm chưa nộp phí, thì hợp đồng vẫn

chưa có hiệu lực và người tham gia chưa thể đòi hưởng quyền lợi của mình.

Thứ sáu, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới có tính

chất gia nhập. Hợp đồng bảo hiểm là một hợp đồng theo mẫu. Quy tắc bảo hiểm

(nội dung chính của Hợp đồng) do doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo trước, bên mua

bảo hiểm sau khi tìm hiểu, nếu họ thấy phù hợp với nhu cầu của mình thì hai bên sẽ

tiến hành ký kết hợp đồng.

Ngoài những đặc điểm trên, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ

xe cơ giới còn mang những đặc điểm riêng biệt:

Thứ nhất, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới chỉ giới

hạn trong phạm vi trách nhiệm bồi thường về mặt kinh tế, không chịu các trách

nhiệm khác của người tham gia bảo hiểm trước pháp luật như: trách nhiệm hành

chính, trách nhiệm hình sự.

Phạm vi bảo hiểm là thiệt hại mà bên mua bảo hiểm đã gây ra cho người thứ

ba và trong giới hạn bảo hiểm đã được các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định.

Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới chính là để bảo hiểm cho

những khoản chi phí cần thiết để khắc phục hậu quả của tai nạn, rủi ro cho bên thứ

ba bị thiệt hại. Mặc dù việc bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm không phải là

những thiệt hại trực tiếp về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người được bảo hiểm

mà là những thiệt hại về tài chính của người được bảo hiểm đối với người thứ ba

11

căn cứ vào những tổn thất về tài sản, sức khỏe, tính mạng mà họ đã gây ra cho bên

thứ ba. Doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường trên cơ sở quy định của pháp luật hoặc

quy định trong hợp đồng đối với số tiền tối đa bằng với thiệt hại của người thứ ba.

Thứ hai, đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới là trách nhiệm về bồi thường thiệt hại, là loại bảo hiểm không thể xác định

được giá trị đối tượng bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng. Điều 52 Luật kinh

doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) quy định:

“Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm dân

sự của người tham gia bảo hiểm đối với bên thứ ba theo quy định của pháp

luật”[26].

Không giống như hợp đồng bảo hiểm tài sản với đối tượng bảo hiểm là một

loại tài sản cụ thể hay hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là bảo hiểm cho một con người

cụ thể, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự có đối tượng là trách nhiệm bồi

thường thiệt hại của người tham gia bảo hiểm đối với bên thứ ba. Đó là thiệt hại có

thể xảy ra trong tương lai, trong phạm vi giới hạn bảo hiểm và thuộc trách nhiệm

bồi thường của bên tham gia bảo hiểm. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại mang tính

trừu tượng chúng ta không nhìn thấy, không cảm nhận được bằng các giác quan và

thực tế chúng không tồn tại hiện hữu trong không gian tại thời điểm giao kết hợp

đồng. Chỉ khi nào người tham gia bảo hiểm gây thiệt hại cho người khác và phải bồi

thường thì mới xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt hại là bao nhiêu.

Thứ ba, trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, yếu

tố lỗi có vai trò rất quan trọng.

Lỗi của người tham gia bảo hiểm khi thực hiện hành vi gây thiệt hại cho

người thứ ba chính là cơ sở để phát sinh trách nhiệm dân sự của người tham gia bảo

hiểm đối với người thứ ba và do đó cũng làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của

bên bảo hiểm đối với người thứ ba.

Theo cách hiểu thông thường thì lỗi là những sai sót trong xử sự, về bản chất

lỗi được các ngành luật quy định giống nhau – đó là quan hệ giữa chủ thể thực hiện

hành vi trái pháp luật với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định những yêu cầu

của xã hội đã được thể hiện thông qua các quy định của pháp luật: khi một người có

đủ nhận thức và điều kiện để lựa chọn cách xử sự sao cho xử sự đó phù hợp với

12

pháp luật, tránh gây thiệt hại cho người khác nhưng vẫn thực hiện hành vi gây thiệt

hại thì người đó bị coi là có lỗi. Như vậy, lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi

gây thiệt hại phản ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành

vi mà họ đã thực hiện. Điều 364 Bộ Luật dân sự năm 2015 chia lỗi làm hai loại và

lỗi cố ý và lỗi vô ý. Cụ thể:

Việc phân biệt lỗi làm lỗi cố ý và lỗi vô ý nhằm mục đích xác định nghĩa vụ

bồi thường của bên gây ra thiệt hại, nghĩa vụ bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm,

đồng thời cũng là để xác định chủ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Thứ tư, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới bao giờ

cũng có mối liên quan đến chủ thể thứ ba. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phải thực

hiện nghĩa vụ bảo hiểm khi có yêu cầu bồi thường của người thứ ba.

Quan hệ giữa người bảo hiểm, người được bảo hiểm là quan hệ hợp đồng mà

ở đó người bảo hiểm phải bồi thường thay cho người được bảo hiểm khi trách

nhiệm dân sự của họ phát sinh đó chính là trách nhiệm bồi thường khi gây thiệt hại

cho người thứ ba. Giữa người thứ ba và người bảo hiểm không có mối quan hệ hợp

đồng mà họ là bên có quyền đối với người được bảo hiểm.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000

(sửa đổi, bổ sung năm 2010):

“Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường khi người

được bảo hiểm nhận được yêu cầu phải bồi thường của người bị thiệt hại”[26].

Doanh nghiệp bảo hiểm không phải chịu trách nhiệm đối với bên mua bảo

hiểm nếu bên thứ ba bị thiệt hại không có yêu cầu bồi thường và bên mua bảo hiểm

không có nghĩa vụ trả tiền bồi thường cho dù trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã

phát sinh. Khi xảy ra rủi ro về trách nhiệm, người gây thiệt hại phải chịu trách

nhiệm dân sự trước pháp luật, nhưng doanh nghiệp bảo hiểm không có trách nhiệm

trực tiếp với người bị thiệt hại. Có thể hiểu rằng, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới chỉ ràng buộc doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo

hiểm.

13

Nếu pháp luật không có quy định khác thì người thứ ba chỉ có quyền đòi bồi

thường đối với người tham gia bảo hiểm, trên cơ sở đó doanh nghiệp bảo hiểm trả

tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm và trách nhiệm bồi thường cho người

thứ ba thuộc về người tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và người tham

gia bảo hiểm có thể thoả thuận về việc doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường trực

tiếp cho người thứ ba bị thiệt hại. Trong một số trường hợp đặc biệt, để đảm bảo

quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại; khắc phục kịp thời thiệt hại vật

chất góp phần bình ổn tài chính đối với người bị thiệt hại, pháp luật quy định người

thứ ba có thể trực tiếp khiếu nại đến doanh nghiệp bảo hiểm để yêu cầu bồi thường.

Thứ năm, tùy từng loại hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới có tính chất bắt buộc hoặc không.

Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới bao gồm hai loại

hợp đồng khác nhau đó là hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ

xe cơ giới và hợp đồng bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

Việc tham gia vào hợp đồng bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

có tính chất bắt buộc. Mọi chủ xe cơ giới tham gia giao thông trên lãnh thổ nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới theo quy định của pháp luật Việt Nam dù chủ sở hữu xe

cơ giới đó là cá nhân hay tổ chức, kể cả là người quốc tịch Việt Nam hay nước

ngoài đều phải tham gia. Việc chủ xe cơ giới phải có loại bảo hiểm này là để đảm

bảo quyền lợi cho bên thứ ba (người bị va chạm với xe) được hỗ trợ và người tham

gia lái xe phải có trách nhiệm khi gây ra thiệt hại.

Ngoài loại bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, chủ xe

cơ giới có thể thỏa thuận với doanh nghiệp bảo hiểm để tham gia hợp đồng bảo

hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự. Từ đó, chủ xe cơ giới sẽ được chia sẻ gánh

nặng rủi ro về tài chính; khắc phục kịp thời thiệt hại về vật chất của bên thứ ba bị

thiệt hại; góp phần bình ổn đời sống vật chất của các chủ thể trong xã hội.

14

Thứ sáu, tùy từng loại hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới có tính chất bắt buộc hoặc không.

Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới bao gồm hợp

đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự và hợp đồng bảo hiểm tự nguyện trách

nhiệm dân sự.

Việc tham gia vào hợp đồng bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

có tính chất bắt buộc. Mọi chủ xe cơ giới tham gia giao thông trên lãnh thổ nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới theo quy định của pháp luật Việt Nam dù chủ sở hữu xe

cơ giới đó là cá nhân hay tổ chức, kể cả là người quốc tịch Việt Nam hay nước

ngoài đều phải tham gia. Việc chủ xe cơ giới phải có loại bảo hiểm này là để đảm

bảo quyền lợi cho bên thứ ba (người bị va chạm với xe) được hỗ trợ và người tham

gia lái xe phải có trách nhiệm khi gây ra thiệt hại.

Ngoài loại bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, chủ xe

cơ giới có thể thỏa thuận với doanh nghiệp bảo hiểm để tham gia hợp đồng bảo

hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự. Từ đó, chủ xe cơ giới sẽ được chia sẻ gánh

nặng rủi ro về tài chính; khắc phục kịp thời thiệt hại về vật chất của bên thứ ba bị

thiệt hại; góp phần bình ổn đời sống vật chất của các chủ thể trong xã hội.

1.1.3. Ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

Tai nạn giao thông luôn là một tồn tại khách quan, ta chỉ có thể hạn chế và

giảm bớt chứ không thể ngăn không xảy ra được. Chính vì vậy, bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới luôn là một nghiệp vụ cần thiết và ích lợi cho xã

hội. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các phương tiện tham gia giao thông

ngày càng nhiều trong khi hệ thống đường xá của Việt Nam không đáp ứng được

tiêu chuẩn an toàn kĩ thuật, khoa học, cũng như nhu cầu xã hội; ý thức chấp hành

luật lệ giao thông của người dân còn kém. Do vậy không tránh khỏi sự gia tăng

không ngừng các vụ tai nạn giao thông, kéo theo các vụ kiện đòi bồi thường của nạn

nhân hoặc gia đình họ đối với người gây thiệt hại. Có tai nạn, có kiện đòi bồi

thường, rồi xác định được mức bồi thường thì vấn đề đặt ra lại là thực tế việc bồi

thường được tiến hành như thế nào? Một vấn đề kéo theo là xã hội còn phải đối mặt

15

với tình trạng bồi thường cho nạn nhân trong các vụ tai nạn giao thông. Có rất nhiều

trường hợp nạn nhân không nhận được tiền bồi thường từ những người gây ra tai

nạn, thậm chí trong những trường hợp người gây ra tai nạn được xác định rõ ràng.

Lý do rất đơn giản là người gây ra tai nạn không có đủ nguồn tài chính tối thiểu để

thực hiện nghĩa vụ luật định đối với nạn nhân.

Trên thực tế, không phải trường hợp nào người không may bị tai nạn cũng được

đền bù, bồi thường nhanh chóng đúng như theo luật định, và người gây tai nạn không

phải lúc nào cũng sẵn sàng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm tài chính của

mình đối với những thiệt hại của người bị nạn do mình gây ra khi điều kiện tài chính

không đủ để đáp ứng. Tuy nhiên nếu chủ chiếc xe đó đã tham gia mua bảo hiểm bắt

buộc hoặc ký kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì mọi việc sẽ được giải

quyết thuận lợi hơn cho cả đôi bên. Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thay mặt chủ xe đền bù

cho nạn nhân nếu được yêu cầu hoặc trong trường hợp chủ xe đã đền bù cho nạn nhân

thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả lại số tiền đã bồi thường cho chủ xe, đảm bảo khả

năng tài chính của họ. Vì vậy, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới là một chế định có nhiều ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới giúp

giảm thiệt hại cho chủ phương tiện nếu không may rủi ro xảy ra khi tham gia giao

thông. Tất nhiên, không một ai mong muốn xảy ra tai nạn, nhưng rủi ro lại không

tránh né bất kỳ ai, bởi nếu mọi người đi cẩn thận không để xảy ra tai nạn thì rủi ro

có thể lại đến từ các phương tiện giao thông khác. Khi xảy ra tai nạn, thường sẽ có

thiệt hại cho cả hai bên, chủ phương tiện sẽ được bảo hiểm đứng ra bồi thường cho

người thứ ba nếu chủ phương tiện sai hoặc sẽ đứng ra đòi quyền lợi chủ phương tiện

nếu người thứ ba sai. Việc làm này giúp giảm thiệt hại cho chủ phương tiện cơ giới

sau khi xảy ra rủi ro. Thiệt hại xảy ra có thể là rất lớn, nó vượt quá khả năng tài

chính của người có trách nhiệm, đồng thời ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của

người có trách nhiệm bồi thường và người bị thiệt hại. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự

là một cơ chế chắc chắn để khắc phục điều đó. Nhiều khi người gây thiệt hại không

đủ khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ bồi thường, nên đối với người gây ra

16

thiệt hại bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ chế đảm bảo trách nhiệm bồi

thường của họ khi họ gây ra thiệt hại cho người khác

Thứ hai, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn đảm

bảo quyền được bồi thường của bên bị thiệt hại trong mọi trường hợp. Khi tai nạn

xảy ra, rất nhiều trường hợp chủ phương tiện gây ra tai nạn bị tử vong không còn

khả năng chi trả hoặc bỏ trốn. Trong khi đó những người bị nạn vẫn còn sống và rất

cần có các chế độ đền bù thỏa đáng khi không có một tổ chức nào có kinh phí, chế

độ giải quyết các trường hợp này. Đồng thời, tạo cho người bị thiệt hại một tâm lý

yên tâm khi những thiệt hại của họ được một doanh nghiệp bảo hiểm đứng ra bồi

thường thay cho người tham gia bảo hiểm.

Thứ ba, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới góp phần

không nhỏ vào việc tăng thu ngân sách Nhà nước, chia sẻ rủi ro và bình ổn xã hội.

Nguồn thu từ các công ty bảo hiểm là một nguồn thu làm tăng Ngân sách Nhà nước.

Từ đó Nhà nước có kinh phí cho việc đầu tư, nâng cấp, xây dựng các cơ sở hạ tầng,

công trình công cộng nâng cao mức sống dân cư. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự ra

đời đóng vai trò chia sẻ gánh nặng rủi ro về tài chính cho người có hành vi gây thiệt

hại; khắc phục kịp thời thiệt hại về vật chất của bên thứ ba bị thiệt hại; góp phần

bình ổn đời sống vật chất của các chủ thể trong xã hội.

Thứ tư, nghiệp vụ này góp phần không nhỏ trong việc các công ty bảo hiểm

tái đầu tư một phần lợi nhuận vào việc đề phòng hạn chế tổn thất. Các công ty bảo

hiểm lớn đầu tư hàng tỷ đồng cho việc xây dựng các đường lánh nạn, đường phụ,

hốc cứu nạn tại các đèo dốc và nguy hiểm như: đèo Cả, đèo Cù Mông, đèo Hải

Vân,… hay tuyên truyền, khuyến khích các chủ phương tiện tự giác thực hiện các

biện pháp hạn chế, đề phòng tổn thất hoặc giảm phí bảo hiểm cho các phương tiện

sau một thời gian không gặp sự cố nào. Các biện pháp trên trước mắt giúp các công

ty bảo hiểm giảm bớt rủi ro trong kinh doanh bảo hiểm và tăng thu nhập, nhưng

cũng góp phần quan trọng làm giảm thiểu tai nạn giao thông, hạn chế tổn thất góp

phần ổn định đời sống xã hội.

17

1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự

của chủ xe cơ giới

1.2.1. Đối với hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

Các quy định chung được áp dụng đối với tất cả các loại hình bảo hiểm trong

đó có bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được quy định trong

Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010), Nghị định số

73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm, Thông tư số 50/2017/TT-

BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành

Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh

doanh bảo hiểm. Đây là những quy định chung nhất, là cơ sở pháp lý cho hoạt động

kinh doanh bảo hiểm nói chung. Các tổ chức cá nhân tham gia giao kết hợp đồng

bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới trước tiên phải tuân theo các quy

định điều chỉnh chung này, bao gồm các quy định về doanh nghiệp bảo hiểm, hợp

đồng bảo hiểm, về hạch toán doanh thu, đại lý, hoa hồng bảo hiểm…, bao gồm các

quy định sau:

Nghị định số 103/2008/NĐ-CP về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới ngày do Chính phủ ban hành ngày 16/09/2008.

Thông tư số 103/2009/TT-BTC Quy định việc quản lý, sử dụng, thanh toán

và quyết toán quỹ bảo hiểm xe cơ giới do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành ngày

25/05/2009.

Thông tư liên tịch số 35/2009/TTLT/BTC-BCA Hướng dẫn thực hiện một số

điều của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 9 năm 2008 về bảo hiểm bắt

buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày 25/02/2009 của Bộ trưởng Bộ Tài

chính và Bộ trưởng Bộ Công an.

Các quy định riêng áp dụng trong chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự trong

đó áp dụng đối với bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là các

quy định áp dụng chung cho tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự trong

đó có bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Các quy định này

18

được quy định tại mục 4 (từ Điều 52 đến Điều 57) Luật Kinh doanh bảo hiểm năm

2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010).

Các quy định đặc thù của bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe

cơ giới trong hợp đồng bảo hiểm: được quy định trong văn bản do Chính phủ ban

hành và văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính: Nghị định 103/2008/NĐ-CP ngày

16/9/2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới; Nghị định số 214/2013/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều

của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 9 năm 2008 của chính phủ về bảo

hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày 20/12/2013; Thông tư số

151/2012/TT-BTC về sửa đổi, bổ sung Thông tư số 126/2008/TT-BTC ngày

22/12/2008 của Bộ Tài chính quy định quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách

nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và Thông tư số

103/2009/TT-BTC ngày 25/5/2009 của bộ tài chính quy định việc quản lý, sử dụng,

thanh toán và quyết toán quỹ bảo hiểm xe cơ giới ngày 12/09/2012; Thông tư

35/2009/TTLT-BTC-BCA ngày 25/02/2009 của liên bộ tài chính, Bộ Công an

hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày

16/9/2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới; Thông tư số 43/2014/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số

126/2008/TT-BTC ngày 22/12/2008 của Bộ tài chính quy định quy tắc, điều khoản,

biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới, Thông tư số 103/2009/TT-BTC ngày 25/5/2009 của Bộ Tài chính quy định

việc quản lý, sử dụng, thanh toán và quyết toán quỹ bảo hiểm xe cơ giới và Nghị

định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm và

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm, Thông tư số

50/2017/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi

tiết thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

Luật Kinh doanh bảo hiểm. Văn bản hợp nhất số 25/VBHN-BTC của Bộ tài chính

về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày 27/06/2014;

Thông tư số 22/2016/TT-BTC của Bộ tài chính quy định quy tắc, điều khoản, biểu

phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

ngày 16/02/2016; Văn bản hợp nhất số 37/VBHN-BTC của Bộ tài chính quy định

19

quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới ngày 29/07/2014.

1.2.2. Đối với hợp đồng bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 6 Nghị định 103/2008/NĐ-CP và Văn bản

hợp nhất số 25/VBHN-BTC của Bộ tài chính về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân

sự của chủ xe cơ giới ngày 27/06/2014: “Ngoài việc tham gia hợp đồng bảo hiểm

bắt buộc trách nhiệm dân sự, chủ xe cơ giới có thể thỏa thuận với doanh nghiệp

bảo hiểm để tham gia hợp đồng bảo hiểm tự nguyện”[16].

Bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là bảo hiểm trách

nhiệm dân sự mà việc tham gia bảo hiểm hay không tùy thuộc vào ý chí của mỗi

khách hàng.

Trong trường hợp khách hàng tham gia bảo hiểm theo nhiều hợp đồng bảo

hiểm thì việc chi trả bồi thường sẽ áp dụng theo những quy định trên và quy định

bảo hiểm chung theo nhiều hợp đồng bảo hiểm. Khi đó việc phân chia số tiền bồi

thường thiệt hại trên mỗi hợp đồng bảo hiểm sẽ được tính dựa theo tỷ lệ số tiền bảo

hiểm trên mỗi hợp đồng với tổng số tiền bảo hiểm xe ô tô trên tất cả các hợp đồng

bảo hiểm khác

Bên cạnh đó, hợp đồng bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ xe

cơ giới còn áp dụng theo quy tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đã

được ban hành theo Văn bản hợp nhất số 37/VBHN-BTC của Bộ tài chính quy định

quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới ngày 29/07/2014 và Thông tư số 22/2016/TT-BTC của

Bộ tài chính quy định quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm

bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày 16/02/2016. Ngoài ra, mẫu

giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện của chủ xe mô tô – xe máy và ô tô được quy

định tại Phụ lục 5.1, 5.2 ban hành kèm theo Thông tư số 151/2012/TT-BTC ngày 12

tháng 09 năm 2012 của Bộ Tài chính và Văn bản hợp nhất số 37/VBHN-BTC của

Bộ tài chính quy định quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm

bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày 29/07/2014 tại khoản 1.3 Điều

1 Chương II.

20

Ngoài ra, việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự

tự nguyện của chủ xe cơ giới cũng cần đảm bảo các nguyên tắc chung, cơ bản của

hợp đồng bảo hiểm nói chung, được điều chỉnh tại: Luật Kinh doanh bảo hiểm năm

2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2010), Nghị định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết

thi hành Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật

Kinh doanh bảo hiểm.

21

Tiểu kết chương 1

Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới cho thấy, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

xuất phát từ nhu cầu bảo vệ của con người. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ

chế bảo đảm phòng ngừa, hạn chế và khắc phục kịp thời những tổn thất do bên mua

bảo hiểm gây ra cho bên thứ ba. Với ý nghĩa đó, dù không khắc phục được hoàn toàn

tổn thất xảy ra, song bảo hiểm trách nhiệm dân sự góp phần bình ổn tài chính cho cả

bên được bảo hiểm và bên thứ ba khi người tham gia bảo hiểm gây ra thiệt hại.

Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới khác vừa có

những đặc điểm chung của một hợp đồng bảo hiểm, đồng thời cũng có những đặc

điểm khác biệt với các loại hình hợp đồng bảo hiểm khác ở điểm hợp đồng bảo

hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới không bảo hiểm cho tính mạng, thân

thể, tài sản của chính đối tượng mua bảo hiểm, mà bảo hiểm cho những trách nhiệm

mà họ phải gánh chịu với bên thứ ba do quá trình điều khiển xe cơ giới gây ra. Hợp

đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới có vai trò rất quan trọng,

không những là để bồi thường cho các tổn thất mà còn góp phần khắc phục hậu quả

do các vụ tai nạn giao thông mang lại.

Mặt khác, trong chương 1, tác giả luận văn cũng chú ý đến việc khái quát sự

phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam, đồng thời chỉ ra nguồn luật điều chỉnh

về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Nghiên cứu này sẽ hỗ trợ

một phần nhỏ cho các nhà hoạch định chính sách, pháp luật có cái nhìn toàn diện và

bao quát hơn về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

22

Chương 2

PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH

NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN

2.1. Khái quát sự phát triển của các quy định pháp luật Việt Nam về hợp đồng

bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

Quy định pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới ra đời khá muộn so với sự phát triển chung của các quy định pháp

luật thế giới về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do nhiều điều kiện

chủ quan cũng như khách quan. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật đã kịp

thời điều chỉnh để phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội Việt Nam và quốc

tế và ngày càng chứng tỏ vai trò không thể thiếu được của mình đối với nền kinh tế.

Chúng ta có thể nhận thấy điều này khi theo dõi sự phát triển của pháp luật Việt

Nam từ những ngày đầu đến nay.

Hoạt động bảo hiểm ở nước ta ít nhiều cũng đã có những bước phát triển

ngay từ thời thực dân Pháp. Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh được trôi chảy,

cạnh tranh lành mạnh, các văn bản pháp luật điều chỉnh như Luật bảo hiểm cũng

sớm ra đời.

Ngày 18/12/1993, Nghị định số 100 - CP về hoạt động kinh doanh bảo hiểm

đã được Chính phủ ban hành, mở ra bước phát triển mới cho ngành bảo hiểm Việt

Nam. Nó phá vỡ thế độc quyền đang tồn tại, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ

chức bảo hiểm với nhiều hình thức khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế.

Chế độ bảo hiểm bắt buộc đối với chủ xe cơ giới được quy định tại Nghị

định số 30/1988/NĐ-HĐBT ngày 10/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng. Sau gần 10

năm thực hiện, Nghị định này được thay thế bởi Nghị định số 115/1997/NĐ-CP

ngày 17/12/1997 của Chính phủ (Nghị định 115). Từ khi Nghị định số 115 có hiệu

lực, Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành chính sách bảo

hiểm bắt buộc đối với chủ xe cơ giới. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện các quy

23

định vẫn chưa triệt để. Những người tham gia giao thông bằng phương tiện cơ giới

chưa quan tâm đến việc mua bảo hiểm bắt buộc.

Để giảm tải và khắc phục hậu quả tai nạn giao thông, Bộ tài chính đã ban

hành Quyết định số 23/2007/QĐ-BTC ngày 9/4/2007 (Quyết định 23/2007) thay thế

Quyết định số 23/2003/QĐ-BTC ngày 25/2/2003 (Quyết định số 23/2003) về việc

ban hành chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

Quyết định số 23/2007 đã quy định rõ: Các doanh nghiệp có trách nhiệm

trích tối thiểu 2% doanh thu phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự thực thu

hàng năm, đóng góp vào quỹ tuyên truyền và bảo đảm an toàn giao thông đường bộ

do Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam quản lý và sử dụng, Quyết định mới cũng thay đổi

các trường hợp loại trừ bảo hiểm theo hướng mở rộng phạm vi bảo hiểm. Khác với

quy định trước đây, Quy tắc bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới

ban hành kèm theo Quyết định số 23/2007 không đưa vào phần loại trừ bảo hiểm

bốn trường hợp tai nạn xảy ra khi: Xe không có giấy chứng nhận kiểm định an toàn

kỹ thuật và môi trường; Lái xe có nồng độ cồn vượt quá quy định của pháp luật hiện

hành; Xe sử dụng để đua thể thao, đua xe trái phép, chạy thử sau khi sửa chữa; Xe

đi vào đường cấm. Nhiều ý kiến cho rằng điểm mới này không có tác dụng kiềm

chế tai nạn giao thông. Trong quy tắc bảo hiểm ban hành theo Quyết định số

23/2003, trường hợp chủ xe tham gia nhiều hợp đồng bảo hiểm cho cùng một xe cơ

giới thì khi xảy ra tai nạn, số tiền bồi thường đối với cả thiệt hại về người và thiệt

hại về tài sản chỉ được tính trên 1 hợp đồng bảo hiểm. Nhưng theo Quyết định số

23/2007, trong trường hợp này số tiền bồi thường đối với thiệt hại về người tối đa sẽ

là tổng mức trách nhiệm bồi thường thiệt hại về người của các hợp đồng bảo hiểm,

không vượt quá số tiền thực tế mà chủ xe phải bồi thường cho các nạn nhân và được

chia đều cho các hợp đồng bảo hiểm. Quy định này hạn chế sự bất hợp lý của quy

tắc bảo hiểm cũ và chủ xe được hưởng sự bảo đảm lớn hơn, công bằng hơn. Còn

quy tắc bảo hiểm cũ quy định mức trách nhiệm bảo hiểm tối thiểu đối với thiệt hại

về người cho cả xe mô tô và xe ô tô là 30 triệu/1người/vụ. Nhưng trên thực tế nhiều

trường hợp chủ xe phải bồi thường cho nạn nhân đối với thiệt hại về người lớn hơn

24

mức trách nhiệm tối thiểu đó, nên quy tắc bảo hiểm theo Quyết định số 23/2007 đã

nâng mức trách nhiệm bảo hiểm tối thiểu đối với xe ô tô thành 50 triệu/người/vụ và

50 triệu/tài sản/vụ.

Những quy định mới của Quyết định số 23/2007 đã phù hợp hơn với yêu cầu

thực tế. Tuy nhiên, từ khi Quyết định số 23/2007 có hiệu lực thi hành đến trước năm

2008, việc thực hiện bảo hiểm trách nhiệm dân sự của các chủ xe cơ giới vẫn ở mức

thấp.

Từ năm 2008, chế độ bảo hiểm bắt buộc dân sự của chủ xe cơ giới được quy

định trong các văn bản sau: Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung

năm 2010); Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11, sau này là Bộ luật dân sự 2015; Luật

Giao thông đường bộ số 23/2008/QH12; Nghị định số 34/2010/NÐ-CP ngày

2/4/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao

thông đường bộ; Nghị định số 103/2008/NÐ-CP ngày 16-9-2008 của Chính phủ về

bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; Thông tư số

126/2008/TT-BTC ngày 22/12/2008 của Bộ Tài chính quy định Quy tắc, điều

khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ

xe cơ giới; Thông tư số 103/2009/TT-BTC ngày 25/5/2009 của Bộ Tài chính quy

định việc quản lý, sử dụng, thanh toán và quyết toán Quỹ bảo hiểm xe cơ giới;

Thông tư liên tịch số 35/2009/TTLT-BTC-BCA ngày 25/2/2009 của Bộ Tài chính -

Bộ Công an hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 103/2008/NÐ-CP,

chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được Chính phủ

quy định tại Nghị định số 103/2008/NĐ-CP và Nghị định số 214/2013/NĐ-CP sửa

đổi, bổ sung Nghị định số 103/2008/NĐ-CP. Sau 10 năm thực hiện, Nghị định số

103/2008/NĐ-CP, Nghị định số 214/2013/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thực

hiện đã tạo lập hành lang pháp lý đầy đủ, minh bạch và thống nhất về chế độ bảo

hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự trách nhiệm của chủ xe cơ giới, hỗ trợ nạn nhân

tai nạn giao thông khắc phục hậu quả, giúp cho nạn nhân và chủ xe, người điều

khiển xe nhanh chóng ổn định cuộc sống, sinh hoạt và hoạt động sản xuất kinh

doanh, góp phần thực hiện mục tiêu an sinh - xã hội của Đảng và Nhà nước.

25

2.2. Nội dung các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng bảo

hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

2.2.1. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

Cũng giống như với các loại hình hợp đồng bảo hiểm khác, chủ thể tham gia

hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới bao gồm: Doanh nghiệp

bảo hiểm, tức bên bán bảo hiểm và bên mua bảo hiểm (hay còn gọi là bên tham gia

bảo hiểm), tức chủ xe cơ giới.

Khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Văn bản hợp nhất 25/VBHN-BTC năm 2014 hợp

nhất Nghị định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do Bộ

Tài chính ban hành ngày 27/6/2014 quy định:

“Doanh nghiệp bảo hiểm” là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động

kinh doanh bảo hiểm hợp pháp tại Việt Nam và được phép triển khai bảo hiểm bắt

buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.[9]

“Chủ xe cơ giới” (tổ chức, cá nhân) là chủ sở hữu xe cơ giới hoặc được chủ

sở hữu xe cơ giới giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp, điều khiển xe cơ giới.[9]

Có thể hiểu rằng, doanh nghiệp bảo hiểm là bên đã nhận phí bảo hiểm của

người tham gia bảo hiểm và cam kết nhận rủi ro bảo hiểm về phía mình. Theo quy định

của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm phải là một tổ chức

có tư cách pháp nhân và được phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm – một ngành nghề

kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam. Điều 63 Luật Kinh

doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) đã nêu ra những điều kiện để

được cấp giấy phép thành lập và hoạt động của Doanh nghiệp bảo hiểm:

“Các điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động bao gồm:

1. Có số vốn điều lệ đã góp không thấp hơn mức vốn pháp định theo quy

định của Chính phủ;

2. Có hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định tại Điều

64 của Luật này;

3. Có loại hình doanh nghiệp và điều lệ phù hợp với quy định của Luật này

và các quy định khác của pháp luật;

26

4. Người quản trị, người điều hành có năng lực quản lý, chuyên môn, nghiệp

vụ về bảo hiểm

5. Tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp bảo hiểm,

doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải có đủ năng lực tài chính và có bằng chứng để

chứng minh nguồn tài chính hợp pháp khi tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp

bảo hiểm”[26].

Bên mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là bên đã nộp cho

doanh nghiệp bảo hiểm một khoản tiền là phí bảo hiểm. Khác với doanh nghiệp bảo

hiểm, bên mua bảo hiểm là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khi có nhu cầu bảo hiểm về

một đối tượng bảo hiểm nhất định hoặc trong trường hợp pháp luật buộc phải tham

gia bảo hiểm về một trách nhiệm dân sự nhất định. Mọi chủ xe cơ giới tham gia

giao thông trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tham gia

bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo quy định của pháp luật Việt

Nam dù chủ sở hữu xe cơ giới đó là cá nhân hay tổ chức, kể cả là người quốc tịch Việt

Nam hay nước ngoài đều phải tham gia. Nếu bên tham gia hợp đồng bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là cá nhân thì phải có đủ năng lực hành vi dân sự. Như

vậy, bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới rất đa dạng, bao gồm: cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình,…

2.2.2. Hình thức của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

Hình thức của hợp đồng là phương tiện để thể hiện và ghi nhận ý chí của những

chủ thể hợp đồng. Ý chí của chủ thể hợp đồng có thể hiểu là các thỏa thuận và những

thỏa thuận đó bao giờ cũng phải được thể hiện bằng hình thức nhất định, ví dụ như là lời

nói, cử chỉ, hành động hoặc bằng văn bản. Hình thức của hợp đồng đóng vai trò hết sức

quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia hợp đồng khi xảy ra

tranh chấp. Trường hợp pháp luật có quy định bắt buộc hợp đồng phải được giao kết

dưới một hình thức nhất định thì các chủ thể phải tuân theo quy định đó.

Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới về bản chất là một

hợp đồng bảo hiểm, do đó cũng tuân theo những quy định về hình thức của một hợp

đồng bảo hiểm nói chung. Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi,

bổ sung năm 2010) quy định:

27

“Hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản”[26].

Nói chung, bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo

hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex, fax và các hình thức khác do pháp luật quy

định. Đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bằng

chứng giao kết hợp đồng giữa doanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe cơ giới đó là giấy

chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Tuy nhiên, doanh

nghiệp bảo hiểm chỉ cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm cho chủ xe cơ giới khi chủ xe

cơ giới đã đóng đủ phí bảo hiểm.

Việc tham gia hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới là bắt buộc theo quy định của pháp luật Việt Nam. Người tham gia bảo hiểm

thường phải chứng minh với người thứ ba rằng họ đã tham gia bảo hiểm và hợp

đồng đó đang có hiệu lực pháp luật. Nghĩa là họ luôn phải mang theo bên mình một

bằng chứng chứng minh hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực. Vì vậy, hình thức của

hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được thiết kế dưới dạng

giấy chứng nhận bảo hiểm. Mẫu Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới được quy định tại Phụ lục 3, Phụ lục 4, Phụ lục 5.1 và Phụ lục 5.2

của Văn bản hợp nhất số 37/VBHN-BTC của Bộ Tài chính quy định quy tắc, điều

khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ

xe cơ giới do Bộ Tài chính ban hành ngày 29/07/2014.

2.2.3. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

2.2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm

Một mặt, doanh nghiệp bảo hiểm có các quyền cơ bản sau:

Thứ nhất, thu phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Trường

hợp có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến tăng các

rủi ro được bảo hiểm, có quyền yêu cầu chủ xe cơ giới nộp thêm phí bảo hiểm cho

thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Đối với hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, doanh nghiệp bảo hiểm không được tự ý đề ra

mức phí bảo hiểm mà phải tuân theo các quy định của pháp luật. Còn đối với hợp

đồng bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ tự đưa ra

28

mức phí bảo hiểm, người mua bảo hiểm tự cân nhắc và lựa chọn mức phí phù hợp

với mình.

Thứ hai, yêu cầu chủ xe cơ giới cung cấp đầy đủ và trung thực những nội

dung đã được quy định trong Giấy chứng nhận bảo hiểm; xem xét tình trạng xe cơ

giới trước khi cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm. Có thể thấy rằng, để được cấp giấy

chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự, chủ xe cơ giới phải trải qua quá trình xem

xét hồ sơ kỹ càng, do đó giảm thiểu được rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm.

Thứ ba, đề nghị cơ quan công an cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến

vụ tai nạn, từ đó doanh nghiệp bảo hiểm có cơ sở để xác định thiệt hại và thực hiện

các nghĩa vụ đối với bên thứ ba bị thiệt hại.

Thư tư, từ chối giải quyết bồi thường đối với những trường hợp không thuộc

trách nhiệm bảo hiểm. Điều này có nghĩa là, không phải mọi thiệt hại do xe cơ giới

gây ra đều thuộc giới hạn trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm.

Thứ năm, kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm

trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới phù hợp với thực tế triển khai loại hình bảo

hiểm này. Quy định này mang tới sự khách quan cho các quy định pháp luật, đồng thời

doanh nghiệp bảo hiểm cũng có cơ hội đóng góp và nói lên những nguyện vọng của

mình, từ đó hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân

sự của chủ xe cơ giới nói riêng và các quy định pháp luật Việt Nam nói chung.

Mặt khác, doanh nghiệp bảo hiểm cũng có những nghĩa vụ cơ bản đối với

bên mua bảo hiểm, bao gồm:

Thứ nhất, phải bán bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo

đúng quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm theo quy định của Bộ Tài

chính hoặc mức phí như hai bên đã thỏa thuận. Trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm

nhận được thông báo của chủ xe cơ giới về sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để

tính phí bảo hiểm, dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm

phải giảm phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm và hoàn trả số

tiền chênh lệch cho chủ xe cơ giới.

29

Thứ hai, cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm và giải

thích rõ quy tắc, điều khoản và biểu phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới cho chủ xe cơ giới.

Thứ ba, phải sử dụng mẫu Giấy chứng nhận bảo hiểm theo quy định của Bộ

Tài chính để cấp cho chủ xe cơ giới tại Phụ lục 3, Phụ lục 4, Phụ lục 5.1 và Phụ lục

5.2 của Văn bản hợp nhất số 37/VBHN-BTC của Bộ Tài chính quy định quy tắc,

điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới do Bộ Tài chính ban hành ngày 29/07/2014.

Thứ tư, không được chi hỗ trợ đại lý bán bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới dưới mọi hình thức ngoài mức hoa hồng bảo hiểm đại lý được hưởng

theo quy định của Bộ Tài chính.

Thứ năm, thanh toán cho cơ quan công an chi phí sao chụp những hồ sơ, biên

bản tai nạn đã được cung cấp và có trách nhiệm giữ gìn bí mật trong quá trình điều tra.

Thứ sáu, chi trả bồi thường nhanh chóng và chính xác theo quy định của

pháp luật. Theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm kịp thời

cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện

bảo hiểm; có quyền từ chối trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc từ chối bồi

thường cho người được bảo hiểm trong trường hợp không thuộc phạm vi trách

nhiệm bảo hiểm hoặc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thoả thuận

trong hợp đồng bảo hiểm; có nghĩa vụ giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả tiền

bảo hiểm hoặc từ chối bồi thường; phối hợp với bên mua bảo hiểm để giải quyết

yêu cầu của người thứ ba đòi bồi thường về những thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo

hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; có quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm áp dụng các

biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của pháp luật.

Thứ bảy, phải hạch toán tách biệt doanh thu phí bảo hiểm, hoa hồng, bồi

thường và các khoản chi phí khác liên quan đến bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới.

Thứ tám, xây dựng và vận hành hệ thống công nghệ thông tin đảm bảo việc

thống kê và cập nhật tình hình triển khai bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới đảm bảo kết nối vào cơ sở dữ liệu về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe

cơ giới theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.

30

Thứ chín, báo cáo Bộ Tài chính về tình hình thực hiện bảo hiểm trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới theo định kỳ hoặc khi có yêu cầu.

Thứ mười, chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền trong việc thực hiện bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

2.2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của chủ xe cơ giới

Như đã phân tích tại chương 1 của luận văn này, hợp đồng bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là hợp đồng song vụ, do đó quyền của bên này là

nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.

Một mặt, chủ xe cơ giới có các quyền cơ bản sau đây:

Thứ nhất, được lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm để tham gia bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Như vậy, bên mua bảo hiểm có quyền lựa chọn

mua bảo hiểm ở bất kỳ doanh nghiệp bảo hiểm nào miễn là doanh nghiệp đó đang

tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên lãnh thổ Việt Nam. Bên mua bảo

hiểm có thể lựa chọn mua bảo hiểm ở doanh nghiệp bảo hiểm nào có mức phí bảo

hiểm đối với loại bảo hiểm đó thấp nhất và chất lượng cao nhất. Quyền này đồng

thời thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với nhau trong hoạt

động kinh doanh bảo hiểm: mức phí thấp hơn, thủ tục bồi thường nhanh chóng, hợp

tình, hợp lý hơn, kịp thời khắc phục được những tổn thất về tài chính đối với bên

tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.

Thứ hai, yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích, cung cấp các thông tin

liên quan đến việc giao kết, thực hiện và hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm. Do đó, chủ xe

cơ giới sẽ có cơ hội tìm hiểu những thông tin cần thiết, xem xét hợp đồng bảo hiểm

đó có phù hợp với nhu cầu, điều kiện, hoàn cảnh của mình hay không.

Thứ ba, trường hợp có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo

hiểm dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm, có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo

hiểm giảm mức phí bảo hiểm phù hợp cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm.

Thứ tư, yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường nhanh chóng, đầy đủ và

kịp thời theo hợp đồng bảo hiểm.

Thứ năm, chủ xe cơ giới là đơn vị sản xuất kinh doanh, phí bảo hiểm được

tính vào chi phí hoạt động kinh doanh; chủ xe cơ giới là cơ quan hành chính, đơn vị

31

sự nghiệp của Nhà nước, phí bảo hiểm được bố trí trong kinh phí hoạt động thường

xuyên của cơ quan, đơn vị.

Mặt khác, chủ xe cơ giới có những nghĩa vụ cơ bản sau đây:

Thứ nhất, phải tham gia và đóng đầy đủ phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới theo quy định tại hợp đồng bảo hiểm. Khi mua bảo hiểm, chủ xe cơ

giới phải cung cấp đầy đủ và trung thực những nội dung đã được quy định trong

Giấy chứng nhận bảo hiểm.

Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp bảo hiểm xem xét tình trạng

xe trước khi cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm.

Thứ ba, trường hợp có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo

hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm, chủ xe cơ giới phải kịp thời thông báo

cho doanh nghiệp bảo hiểm để áp dụng mức phí bảo hiểm phù hợp cho thời gian còn

lại của hợp đồng bảo hiểm. Đồng thời có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp đề phòng,

hạn chế tổn thất theo quy định của pháp luật; thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm

về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm, khai báo trung thực về tình hình diễn biến của rủi

ro, thiệt hại thực tế giúp bên bảo hiểm xác định chính xác về thiệt hại để làm cơ sở

cho việc xét bồi thường.

Thứ tư, đối với bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, chủ

xe cơ giới phải luôn mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn hiệu lực khi tham gia

giao thông, xuất trình giấy tờ này khi có yêu cầu của lực lượng cảnh sát giao thông

và cơ quan chức năng có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.

Thứ năm, tuân thủ các quy định về đảm bảo an toàn giao thông đường bộ.

Thứ sáu, khi tai nạn giao thông xảy ra, chủ xe cơ giới có trách nhiệm:

(i) Thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm để phối hợp giải quyết, tích

cực cứu chữa, hạn chế thiệt hại về người và tài sản, bảo vệ hiện trường

tai nạn; đồng thời thông báo cho cơ quan công an hoặc chính quyền địa

phương nơi gần nhất;

(ii) Không được di chuyển, tháo gỡ hoặc sửa chữa tài sản khi chưa có ý kiến

chấp thuận của doanh nghiệp bảo hiểm; trừ trường hợp cần thiết để đảm

32

bảo an toàn, đề phòng hạn chế thiệt hại về người và tài sản hoặc phải thi

hành theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền;

(iii) Chủ xe cơ giới phải cung cấp các tài liệu trong hồ sơ yêu cầu bồi thường

và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình

xác minh các tài liệu đó.

Thứ bảy, chủ xe cơ giới phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo

hiểm trong trường hợp xe cơ giới thuộc đối tượng được hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm

theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, còn có các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.

2.2.3.3. Sự kiện bảo hiểm

Các quan hệ bảo hiểm được hình thành từ thời điểm hợp đồng bảo hiểm có

hiệu lực. Tuy nhiên, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo

hiểm hoặc bồi thường thiệt hại cho người tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm

xảy ra. Điều này có nghĩa là rủi ro được bảo hiểm chỉ là giả thiết xảy ra trong tương

lai nhưng không biết chính xác diễn biến sự kiện sẽ xảy ra ở đâu, bao giờ và cụ thể

rủi ro là gì, mức độ tổn thất bao nhiêu,… Mua bảo hiểm chính là phòng tránh rủi ro

trước khi nó xảy ra.

Khoản 10 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung

năm 2010) có định nghĩa về “sự kiện bảo hiểm” như sau:

“Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thoả thuận hoặc pháp

luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo

hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm”[26].

Theo đó, một sự kiện xảy ra trên thực tế chỉ được coi là sự kiện bảo hiểm nếu

nó là sự kiện khách quan và khi sự kiện đó xảy ra đã gây thiệt hại, tổn thất thực tế.

Mặt khác, bên bảo hiểm chỉ phải trả tiền bảo hiểm khi tổn thất xảy ra trong phạm vi

bảo hiểm đã được các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định và trong thời hạn có

hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm đó. Hiểu một cách chung nhất thì sự kiện bảo hiểm

là những rủi ro xảy ra nằm ngoài ý chí của các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm và

đã gây ra những tổn thất nhất định trong phạm vi bảo hiểm đã được xác định trước

theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Hay sự kiện bảo hiểm chính là rủi

ro được bảo hiểm.

33

Một sự kiện được coi như là sự kiện bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nếu thỏa mãn các điều kiện sau:

Thứ nhất, sự kiện đó xảy ra một cách khách quan. Theo đó, những thiệt hại

xảy ra là bất ngờ, khách quan, hoàn toàn không phải do hành vi cố ý và cũng không

phải thiệt hại biết trước sẽ xảy ra.

Thứ hai, sự kiện đó phải thuộc phạm vi bảo hiểm. Trong một hợp đồng bảo

hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, sự kiện bảo hiểm được liệt kê trong

phần phạm vi bảo hiểm. Một nghiệp vụ bảo hiểm thường chỉ nhận bảo hiểm rủi ro

cho những nguyên nhân nhất định và doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chỉ bồi thường khi

có thiệt hại xảy ra do những nguyên nhân đó [30, tr.157].

Thứ ba, sự kiện đó phải xảy ra trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm. Thời hạn

hợp đồng bảo hiểm được xác định theo quy định của hợp đồng. Và chỉ khi có thiệt

hại phát sinh từ sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời hạn bảo hiểm thì doanh nghiệp

bảo hiểm mới có trách nhiệm bồi thường. Trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới, thời hạn bảo hiểm là khoảng thời gian kể từ khi hợp đồng

có hiệu lực cho tới khi hợp đồng được coi là chấm dứt.

2.2.3.4. Phí bảo hiểm

Như đã trình bày ở những phần trước, trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu phí bảo hiểm, còn

bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm đầy đủ theo thời hạn và phương

thức đã thỏa thuận trong hợp đồng. Bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm đầy

đủ, theo đúng thời hạn và phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm, bởi

hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm người tham gia bảo hiểm đóng

phí bảo hiểm. Tuỳ từng loại sản phẩm bảo hiểm cụ thể mà thời hạn và phương thức

nộp phí bảo hiểm được quy định cụ thể hoặc theo thoả thuận của các bên. Bên mua

bảo hiểm phải đóng toàn bộ phí bảo hiểm trong một lần trước khi bên bảo hiểm cấp

giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm; hoặc phí bảo hiểm được đóng

nhiều lần theo định kỳ thì bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm vào định kỳ

đầu tiên trước khi được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm và

phải tiếp tục đóng phí của các kỳ sau theo đúng định kỳ.

34

Trong hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân

sự của chủ xe cơ giới nói riêng thì phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều

khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm là các yếu tố để xác định phí bảo hiểm và theo

đó xác định số tiền bảo hiểm. Phí bảo hiểm là lợi ích mà các bên tham gia hợp đồng

bảo hiểm hướng tới khi giao kết một hợp đồng bảo hiểm. Để đảm bảo tính lợi nhuận

và sự cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh, đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm

phải tính toán phí bảo hiểm với một mức thích hợp. Phí bảo hiểm được tính toán

dựa trên nhiều yếu tố khác nhau, song nguồn tài chính thu được từ phí bảo hiểm

theo mức đã được tính toán tối thiểu phải có dư sau khi đã chi phí cho các hoạt động

kinh doanh bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm. Để xác định một mức phí bảo

hiểm bảo đảm có lợi nhuận, còn cần phải cân nhắc đến các yếu tố quan trọng như:

sự trượt giá của đồng tiền, sự thay đổi lãi suất vốn vay bởi khoản tiền thu được từ

phí bảo hiểm hiện tại được dùng để bồi thường thiệt hại xảy ra trong tương lai. Phí

bảo hiểm là khung giá định cho một sản phẩm bảo hiểm nhất định. Trong hợp đồng

bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thì phí bảo hiểm được xác định

theo mức trách nhiệm mà pháp luật quy định hoặc hai bên đã thỏa thuận. Đối với

mỗi loại sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm dân sự khác nhau, phí bảo hiểm được xác

định trên những căn cứ khác nhau xuất phát từ những cơ sở để xác định trách nhiệm

của người tham gia bảo hiểm.

Khoản 11 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung

năm 2010) quy định về phí bảo hiểm như sau:

“Phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho doanh

nghiệp bảo hiểm theo thời hạn và phương thức do các bên thoả thuận trong hợp

đồng bảo hiểm”[26].

Đối với hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới,

phí bảo hiểm dựa trên nguyên tắc là do pháp luật quy định. Mức phí bảo hiểm bắt

buộc trách nhiệm dân sự của từng loại xe cơ giới khác nhau được quy định tại Phụ

lục 5, Thông tư số 22/2016/TT-BTC quy định quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức

trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do Bộ trưởng

Bộ Tài chính ban hành ngày 16 tháng 02 năm 2016.

35

Ngoài ra, mức phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới còn tính theo tỷ lệ phần trăm mức phí theo năm đối với

thời hạn bảo hiểm ngắn hạn và dài hạn. Khi đó, mức phí bảo hiểm sẽ được tính dựa

trên thời hạn được bảo hiểm ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm. Công thức tính cụ

thể như sau:

Phí bảo hiểm năm theo loại xe cơ giới Thời hạn được Phí bảo hiểm = 365 (ngày) x bảo hiểm phải nộp (ngày)

Ngược lại, đối với hợp đồng bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ

xe cơ giới, doanh nghiệp bảo hiểm có thể tự đưa ra mức phí bảo hiểm cho bên mua

bảo hiểm. Với nhiều lựa chọn mà doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra, bên mua bảo hiểm

tùy thuộc vào nhu cầu và tình hình tài chính của mình để chọn ra mức phí bảo hiểm

phù hợp cho mình.

2.2.4. Hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

2.2.4.1. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng

Một hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới chỉ có hiệu

lực khi đã đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:

Thứ nhất, điều kiện về năng lực hành vi dân sự của chủ thể tham gia hợp

đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

Đối với doanh nghiệp bảo hiểm phải đáp ứng các điều kiện như đã trình bày

ở phần 2.1.1 của luận văn này.

Đối với bên tham gia bảo hiểm – chủ xe cơ giới, có thể là tổ chức, cá nhân,

tổ hợp tác, hộ gia đình. Đối với cá nhân, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về năng

lực tham gia giao dịch của các chủ thể với nguyên tắc: người tham gia giao dịch

phải có đủ năng lực hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả

năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân

sự. Vậy một cá nhân đạt được sự phù hợp giữa ý chí và lý trí được coi là người có

đủ năng lực hành vi dân sự.

36

Thứ hai, điều kiện về mục đích và nội dung của hợp đồng bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới có hiệu lực pháp

luật nếu mục đích và nội dung của nó không vi phạm điều cấm của luật, không trái

đạo đức xã hội. Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ

thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những trật tự xã hội, thuần

phong mỹ tục được hình thành trên cơ sở kinh tế nhất định và được cộng đồng xã

hội thừa nhận. Đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thì

mục đích của các chủ thể khi tham gia hợp đồng là nhằm bảo hiểm đối với những

tổn thất về tài chính có thể xảy ra do có những hành vi gây thiệt hại cho người khác,

thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của mình. Mọi trường hợp tham gia bảo

hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm thì đều vi phạm pháp luật.

Thứ ba, điều kiện về tính tự nguyện của chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm

trách nhiệm dân sự.

Tự nguyện có thể hiểu là sự thống nhất giữa mong muốn chủ quan bên trong

với biểu hiện bên ngoài của mong muốn đó thông qua một hình thức nhất định (văn

bản của hợp đồng). Mong muốn chủ quan của người tham gia hợp đồng bảo hiểm

trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được thể hiện ra bên ngoài thông qua hình

thức văn bản của hợp đồng bảo hiểm. Nếu việc tham gia hợp đồng cũng như các

thoả thuận về nội dung của hợp đồng được ghi nhận trong văn bản đó không phải là

ý nguyện đích thực của các bên tham gia hợp đồng thì hợp đồng đó bị coi là được

thiết lập không có sự tự nguyện của chủ thể tham gia hợp đồng.

Tuy nhiên, trên thực tế, để xác định trường hợp nào được coi là đã có sự

thống nhất là điều rất khó. Vì vậy, pháp luật nước ta quy định theo hướng mặc

nhiên suy đoán là tất cả các hợp đồng đều được giao kết dựa trên sự tự nguyện của

các bên chủ thể. Khi các bên đã cam kết thoả thuận và ký tên vào văn bản của một

hợp đồng bảo hiểm thì đều được coi là đã tự nguyện giao kết hợp đồng đó. Một hợp

đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới sẽ bị coi là được xác lập thiếu

yếu tố tự nguyện nếu thuộc các trường hợp: hợp đồng giả tạo; hợp đồng được xác

37

lập do nhầm lẫn; hợp đồng xác lập do bị lừa dối; hợp đồng xác lập bởi sự đe dọa,

cưỡng ép; xác lập hợp đồng trong lúc không nhận thức, điều khiển được hành vi.

Tóm lại, các yếu tố chủ thể, nội dung và mục đích, sự tự nguyện của các bên

là những yếu tố quan trọng góp phần vào quá trình hình thành và tồn tại của hợp

đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

Thứ tư, điều kiện về hình thức của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự

của chủ xe cơ giới.

Như đã phân tích tại phần 2.1.2 của luận văn, hình thức của hợp đồng bảo

hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới bắt buộc phải bằng văn bản nên nếu

hợp đồng bảo hiểm được giao kết bằng hình thức khác sẽ không có hiệu lực pháp

luật. Giấy chứng nhận bảo hiểm chính là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm

trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

2.2.4.2. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng

Thời hạn được hiểu là một khoảng thời gian nhất định, từ thời điểm bắt đầu

của thời hạn cho tới thời điểm kết thúc của thời hạn.

Thời điểm bắt đầu

Thời điểm có hiệu lực của một hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng đối với

những người có quyền, nghĩa vụ từ hợp đồng đó. Đối với hợp đồng bảo hiểm lại

càng quan trọng hơn, bởi các rủi ro mà người tham gia bảo hiểm gặp phải chỉ được

coi là sự kiện bảo hiểm nếu rủi ro đó xảy ra sau thời điểm có hiệu lực của hợp đồng

bảo hiểm.

Theo Điều 400 Bộ luật dân sự năm 2015, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng

dân sự là thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết. Đối với hợp đồng

bằng văn bản, thời điểm giao kết là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay

bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.

Như vậy, với loại hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được xác định là thời điểm bên sau cùng ký vào

văn bản được coi là bằng chứng của hợp đồng.

Thời điểm kết thúc

Căn cứ theo quy định tại Điều 23 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa

đổi, bổ sung năm 2010) và Điều 6, Điều 10 Văn bản hợp nhất 25/VBHN-BTC năm

38

2014 hợp nhất Nghị định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới do Bộ Tài chính ban hành ngày 27/6/2014, một hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới sẽ được chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp sau:

Thứ nhất, hợp đồng được hoàn thành. Đối với hợp đồng bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thì hợp đồng hoàn thành khi sự kiện bảo hiểm xảy

ra và doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thay cho người tham

gia bảo hiểm hoặc hết thời hạn thoả thuận trong hợp đồng đó.

Thứ hai, hợp đồng bảo hiểm chấm dứt khi đối tượng được bảo hiểm không

còn. Trách nhiệm dân sự là đối tượng của hợp đồng bảo hiểm không còn khi chủ thể

tham gia bảo hiểm không có khả năng gây thiệt hại cho người khác từ hoạt động

tương ứng với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm mà họ tham gia.

Thứ ba, đơn phương chấm dứt hợp đồng bảo hiểm.

Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt khi một bên đơn phương chấm dứt thực hiện

hợp đồng. Khi một bên trong hợp đồng đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng

thì hợp đồng đó được coi là chấm dứt tại thời điểm bên kia nhận được thông báo

đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng của bên này.

Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng là ý chí của một trong hai bên về

việc không tiếp tục duy trì hợp đồng theo các điều khoản đã cam kết vì bên kia có

hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.

Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng

bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong các hành vi sau: cố ý cung cấp thông

tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc để

được bồi thường; không thông báo cho bên bảo hiểm những trường hợp có thể làm

tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của bên bảo hiểm trong quá trình

thực hiện hợp đồng bảo hiểm dù bên bảo hiểm đã yêu cầu; khi có sự thay đổi những

yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm thì

doanh nghiệp bảo hiểm có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp

đồng bảo hiểm, trong trường hợp bên mua bảo hiểm không chấp nhận tăng phí bảo

hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng

bảo hiểm nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm. Trường

39

hợp chủ xe cơ giới không thanh toán đủ phí bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm sẽ chấm

dứt hiệu lực vào ngày kế tiếp ngày chủ xe cơ giới phải thanh toán phí bảo hiểm.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày hợp đồng bảo hiểm chấm dứt hiệu lực,

doanh nghiệp bảo hiểm phải thông báo bằng văn bản cho chủ xe cơ giới về việc

chấm dứt hợp đồng bảo hiểm và hoàn lại cho chủ xe cơ giới phần phí bảo hiểm đã

thanh toán thừa (nếu có) hoặc yêu cầu chủ xe cơ giới thanh toán đủ phí bảo hiểm

đến thời điểm chấm dứt hợp đồng bảo hiểm.

Bên mua bảo hiểm – chủ xe cơ giới có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện

hợp đồng bảo hiểm trong các trường hợp sau: trong trường hợp doanh nghiệp bảo

hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm, trường

hợp này doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên mua

bảo hiểm do việc cung cấp thông tin sai sự thật; khi có sự thay đổi những yếu tố làm

cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm thì bên mua bảo

hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giảm phí bảo hiểm cho thời gian còn

lại của hợp đồng bảo hiểm, trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không chấp

nhận giảm phí bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực

hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho doanh

nghiệp bảo hiểm.

Ngoài ra, hợp đồng bảo hiểm chấm dứt khi bị huỷ bỏ trong trường hợp:

(i) Xe cơ giới bị thu hồi đăng ký và biển số theo quy định của pháp luật.

(ii) Xe cơ giới hết niên hạn sử dụng theo quy định của pháp luật.

(iii) Xe cơ giới bị mất được cơ quan công an xác nhận.

(iv) Xe cơ giới hỏng không sử dụng được hoặc bị phá huỷ do tai nạn giao

thông được cơ quan công an xác nhận.

Theo đó, chủ xe cơ giới phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo

hiểm kèm theo Giấy chứng nhận bảo hiểm và các bằng chứng về việc xe cơ giới

thuộc đối tượng được hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm theo các trường hợp trên. Hợp

đồng bảo hiểm chấm dứt từ thời điểm doanh nghiệp bảo hiểm nhận được thông báo

huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm.

40

2.2.4.3. Hợp đồng vô hiệu

Hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về những trường hợp

hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới vô hiệu. Tuy nhiên, do

hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là một loại hợp đồng bảo

hiểm nên loại hợp đồng này cũng tuân thủ theo các quy định tại Luật kinh doanh

bảo hiểm. Cụ thể, theo quy định tại điều Điều 22 về Hợp đồng bảo hiểm vô hiệu tại

Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, Hợp đồng bảo hiểm vô hiệu trong các trường

hợp đó là:

Thứ nhất, bên mua bảo hiểm không có quyền lợi có thể được bảo hiểm.

Thứ hai, tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm

không tồn tại.

Thứ ba, tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm biết sự

kiện bảo hiểm đã xảy ra.

Thứ tư, bên mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có hành vi lừa dối

khi giao kết hợp đồng bảo hiểm.

Ngoài ra còn các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Các trường

hợp khác này có thể được hiểu là các trường hợp hợp đồng vô hiệu theo quy định tại

Bộ luật dân sự năm 2015, bao gồm:

 Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội;

 Hợp đồng vô hiệu do giả tạo;

 Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân

sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế

năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện;

 Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn;

 Hợp đồng vô hiệu do vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;

 Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành

vi của mình;

 Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức.

41

2.2.5. Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm và các trường hợp loại trừ trách nhiệm

bảo hiểm

2.2.5.1. Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm

Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm là công việc không thể thiếu trong hoạt động

kinh doanh bảo hiểm và là một trong những nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo

hiểm nói chung; đặc biệt đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe

cơ giới để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Lợi

ích của việc giới hạn trách nhiệm bảo hiểm là làm cho nhà bảo hiểm chủ động hơn

trong việc dự phòng các tình huống có phát sinh trách nhiệm và họ có thể đánh giá

được mức độ bồi thường tối đa trong từng tình huống có phát sinh trách nhiệm đối

với từng hợp đồng cụ thể. Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có quy định mức

giới hạn trách nhiệm của bên bán bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm sẽ chỉ được

bảo hiểm trong phạm vi giới hạn bảo hiểm đó mà không được bảo hiểm cho toàn bộ

trách nhiệm dân sự của mình đối với người thứ ba, do đó họ phải tự thực hiện phần

trách nhiệm vượt quá giới hạn bảo hiểm đối với người thứ ba.

Điều 55 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010)

quy định về giới hạn trách nhiệm bảo hiểm như sau:

“1. Trong phạm vi số tiền bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho

người được bảo hiểm những khoản tiền mà theo quy định của pháp luật người được

bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường cho người thứ ba.

2. Ngoài việc trả tiền bồi thường theo quy định tại khoản 1 Điều này, doanh

nghiệp bảo hiểm còn phải trả các chi phí liên quan đến việc giải quyết tranh chấp

về trách nhiệm đối với người thứ ba và lãi phải trả cho người thứ ba do người được

bảo hiểm chậm trả tiền bồi thường theo chỉ dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm.

3. Tổng số tiền bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm quy định tại khoản 1

và khoản 2 Điều này không vượt quá số tiền bảo hiểm, trừ trường hợp có thoả

thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm.

4. Trong trường hợp người được bảo hiểm phải đóng tiền bảo lãnh hoặc ký

quỹ để bảo đảm cho tài sản không bị lưu giữ hoặc để tránh việc khởi kiện tại toà án

thì theo yêu cầu của người được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện

việc bảo lãnh hoặc ký quỹ trong phạm vi số tiền bảo hiểm”[26].

42

Bên cạnh đó, Điều 9 Văn bản hợp nhất số 25/VBHN-BTC năm 2014 hợp

nhất Nghị định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do Bộ

Tài chính ban hành ngày 27/6/2014 đã làm rõ hơn quy định liên quan tới giới hạn

bảo hiểm đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới:

Mức trách nhiệm bảo hiểm là số tiền tối đa doanh nghiệp bảo hiểm có thể

phải trả đối với thiệt hại về thân thể, tính mạng và tài sản của bên thứ ba và hành

khách do xe cơ giới gây ra trong mỗi vụ tai nạn xảy ra thuộc phạm vi trách nhiệm

bảo hiểm.

Đối với hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

thì mức trách nhiệm bảo hiểm được quy định như sau:

(i) Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về người do xe cơ giới gây ra là

100 triệu đồng/1 người/1 vụ tai nạn.

(ii) Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về tài sản do xe mô tô hai bánh,

xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe cơ giới tương tự (kể cả xe cơ

giới dùng cho người tàn tật) gây ra là 50 triệu đồng/1 vụ tai nạn.

(iii) Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về tài sản do xe ô tô, máy kéo, xe

máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác

sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng (kể cả rơ-moóc và sơ mi rơ-moóc

được kéo bởi xe ô tô hoặc máy kéo) gây ra là 100 triệu đồng/1 vụ tai nạn.

Ngược lại, mức trách nhiệm bảo hiểm đối với hợp đồng tự nguyện trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới được doanh nghiệp bảo hiểm tự đưa ra sao cho phù hợp.

2.2.5.2. Các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm

Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm quy định trường hợp doanh nghiệp

bảo hiểm không phải bồi thường hoặc không phải trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự

kiện bảo hiểm. Việc xác định thiệt hại không được bảo hiểm có ý nghĩa hết sức

quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Phần loại

trừ này nhằm hạn chế phạm vi những thiệt hại có thể xảy ra đối với đối tượng được

bảo hiểm, đảm bảo hiệu quả trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Bởi lẽ, nếu bảo

hiểm với phạm vi không hạn chế thì rủi ro sẽ rất lớn dẫn đến sự kiện bảo hiểm trong

một hợp đồng luôn có thể xảy ra. Thông qua phần loại trừ này, doanh nghiệp bảo

43

hiểm giữ phí bảo hiểm ở một mức hợp lý vì nếu bảo hiểm với phạm vi không hạn

chế mức phí sẽ phải rất cao, như vậy sẽ hạn chế khả năng tham gia hợp đồng bảo

hiểm của những người có nhu cầu bảo hiểm.

Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm là một trong những điều khoản bắt

buộc phải có của hợp đồng bảo hiểm nói chung và đã được quy định trong Luật

Kinh doanh bảo hiểm. Điều khoản được đặt ra nhằm mục đích cho phép các doanh

nghiệp bảo hiểm từ chối bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm trong trường hợp bên

mua bảo hiểm có ý định trục lợi bảo hiểm bằng những hành vi cố ý. Điều khoản loại

trừ cũng có thể bao gồm việc từ chối trả tiền bảo hiểm trong những trường hợp có

thảm hoạ, có thể gây tổn thất trên diện rộng và làm mất khả năng thanh toán của

doanh nghiệp bảo hiểm. Ví dụ: sóng thần, động đất, núi lửa,… thì thiệt hại là vô

cùng lớn. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm phải chi trả số tiền bảo hiểm cho các trường

hợp này thì rất có thể sẽ đưa đến việc mất khả năng thanh toán do cùng một lúc phải

chi trả một khoản tiền quá lớn.

Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm phải được quy định rõ trong hợp

đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Doanh nghiệp bảo hiểm phải

giải thích rõ cho bên mua bảo hiểm khi giao kết hợp đồng.

Đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới,

doanh nghiệp bảo hiểm không bồi thường thiệt hại đối với các trường hợp sau:

(i) Hành động cố ý gây thiệt hại của chủ xe, lái xe hoặc của người bị thiệt hại.

(ii) Lái xe gây tai nạn cố ý bỏ chạy không thực hiện trách nhiệm dân sự của chủ

xe, lái xe cơ giới.

(iii) Lái xe không có Giấy phép lái xe hoặc Giấy phép lái xe không phù hợp đối

với loại xe cơ giới bắt buộc phải có Giấy phép lái xe. Trường hợp lái xe bị

tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe có thời hạn hoặc không thời hạn thì

được coi là không có Giấy phép lái xe.

(iv) Thiệt hại gây ra hậu quả gián tiếp như: giảm giá trị thương mại, thiệt hại gắn

liền với việc sử dụng và khai thác tài sản bị thiệt hại.

(v) Thiệt hại đối với tài sản bị mất cắp hoặc bị cướp trong tai nạn.

(vi) Chiến tranh, khủng bố, động đất.

44

(vii) Thiệt hại đối với tài sản đặc biệt bao gồm: vàng, bạc, đá quý, các loại giấy tờ

có giá trị như tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, hài cốt.

Ngoài ra, điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm không được áp dụng

trong các trường hợp sau đây:

(i) Bên mua bảo hiểm vi phạm pháp luật do vô ý;

(ii) Bên mua bảo hiểm có lý do chính đáng trong việc chậm thông báo cho doanh

nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm.

2.2.6. Thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới

2.2.6.1. Thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

Pháp luật về thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới về cơ bản đã đảm bảo được tính kịp thời, phù hợp, thống nhất, đồng bộ tạo

hành lang pháp lý cho bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nói riêng và

thị trường bảo hiểm nói chung phát triển mạnh, góp phần tích cực vào việc duy trì

trật tự, kỷ cương thị trường, đấu tranh ngăn ngừa các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh, trục lợi, cố ý làm trái pháp luật; đấu tranh chống tiêu cực trong lĩnh vực kinh

doanh bảo hiểm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia

hợp đồng bảo hiểm; duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các

doanh nghiệp bảo hiểm, bảo đảm các quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm

trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được thực hiện nghiêm túc.

Bên cạnh đó, loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ra

đời từ rất lâu, và hầu hết là loại hình bảo hiểm bắt buộc. Quá trình triển khai đã bộc

lộ không ít những bất cập trong việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân

sự của chủ xe cơ giới. Hiện nay, ở nước ta đã có khoảng 90% số chủ xe ô-tô và

29% số chủ xe mô-tô tham gia loại hình bảo hiểm bắt buộc này. Tuy nhiên, với

khoảng 12.000 người chết vì tai nạn giao thông hằng năm (mà hầu hết các vụ tai

nạn giao thông liên quan đến xe cơ giới đều gây tử vong, thương tích cho nạn nhân)

và với mức bồi thường theo quy định hiện hành thì việc giải quyết bồi thường bảo

hiểm đã chiếm một lượng kinh phí không nhỏ. Bên cạnh đó, một lượng lớn chủ xe

mô-tô chưa chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật; việc xác định lỗi trong

45

một số vụ tai nạn chưa rõ ràng, cán bộ giải quyết bồi thường có hành vi gây khó

khăn trong giải quyết bồi thường cho chủ xe cũng như người bị thiệt hại [31]…

Ðây là những bất cập cơ bản trong quá trình thực hiện chế độ hợp đồng bảo hiểm

trách nhiệm dân sự của xe cơ giới

Rủi ro khách quan luôn tiềm ẩn trong đời sống xã hội hàng ngày. Cùng với

sự phát triển của nền kinh tế, các phương tiện tham gia giao thông ngày càng nhiều

trong khi hệ thống đường xá của Việt Nam không đáp ứng được tiêu chuẩn an toàn

kĩ thuật, khoa học, cũng như nhu cầu xã hội; ý thức chấp hành luật lệ giao thông của

người dân còn kém. Do vậy không tránh khỏi sự gia tăng không ngừng các vụ tai

nạn giao thông, kéo theo các vụ kiện đòi bồi thường của nạn nhân hoặc gia đình họ

đối với người gây thiệt hại. Có tai nạn, có kiện đòi bồi thường, rồi xác định được

mức bồi thường thì vấn đề đặt ra lại là thực tế việc bồi thường được tiến hành như

thế nào? Một vấn đề kéo theo là xã hội còn phải đối mặt với tình trạng bồi thường

cho nạn nhân trong các vụ tai nạn giao thông. Có rất nhiều trường hợp nạn nhân

không nhận được tiền bồi thường từ những người gây ra tai nạn, thậm chí trong

những trường hợp người gây ra tai nạn được xác định rõ ràng. Lý do rất đơn giản là

người gây ra tai nạn không có đủ nguồn tài chính tối thiểu để thực hiện nghĩa vụ

luật định đối với nạn nhân. Trên thực tế, không phải trường hợp nào người không

may bị tai nạn cũng được đền bù, bồi thường nhanh chóng đúng như theo luật định,

và người gây tai nạn không phải lúc nào cũng sẵn sàng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và

trách nhiệm tài chính của mình đối với những thiệt hại của người bị nạn do mình

gây ra khi điều kiện tài chính không đủ để đáp ứng. Tuy nhiên, nếu chủ chiếc xe đó

đã tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thì

mọi việc sẽ được giải quyết thuận lợi hơn cho cả đôi bên. Doanh nghiệp bảo hiểm

sẽ thay mặt chủ xe đền bù cho nạn nhân nếu được yêu cầu hoặc trong trường hợp

chủ xe đã đền bù cho nạn nhân thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả lại số tiền đã bồi

thường cho chủ xe, đảm bảo khả năng tài chính của họ.

Thiệt hại xảy ra có thể là rất lớn, nó vượt quá khả năng tài chính của người

có trách nhiệm, đồng thời ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người có trách

nhiệm bồi thường và người bị thiệt hại. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là

46

một cơ chế chắc chắn để khắc phục điều đó. Nhiều khi người gây thiệt hại không đủ

khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ bồi thường, nên đối với người gây ra thiệt

hại thì tham gia hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ chế đảm bảo trách

nhiệm bồi thường của họ khi họ gây ra thiệt hại cho người khác. Đối với người bị

thiệt hại thì việc tham gia hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự tạo cho họ một

tâm lý yên tâm khi những thiệt hại của họ được một doanh nghiệp bảo hiểm đứng ra

bồi thường thay cho người tham gia bảo hiểm. Về phía doanh nghiệp bảo hiểm, khi

họ ký hợp đồng bảo hiểm và có quyền thu phí bảo hiểm theo quy định của hợp đồng

bảo hiểm từ khách hàng song không phải lúc nào họ cũng phải đứng ra bồi thường

thay cho khách hàng. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự ra đời đóng vai trò

chia sẻ gánh nặng rủi ro về tài chính cho người có hành vi gây thiệt hại; khắc phục

kịp thời thiệt hại về vật chất của bên thứ ba bị thiệt hại; góp phần bình ổn đời sống

vật chất của các chủ thể trong xã hội.

2.2.6.2. Giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là ý

kiến không thống nhất của các bên về việc đánh giá hành vi vi phạm hoặc cách thức

giải quyết hậu quả phát sinh từ vi phạm đó. Các đặc điểm của tranh chấp hợp đồng

là phát sinh trực tiếp từ hợp đồng, mang yếu tố tài sản (vật chất hay tinh thần) và

gắn liền lợi ích các bên trong tranh chấp, nguyên tắc giải quyết các tranh chấp hợp

đồng là bình đẳng, thỏa thuận nhưng phải đảm bảo chính xác, nhanh chóng và đúng

pháp luật.

Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe

cơ giới đòi hỏi phải được giải quyết thỏa đáng bằng một phương thức lựa chọn phù

hợp để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp khác của các bên trang chấp, vừa đảm bảo

trật tự pháp luật và kỷ cương xã hội, giáo dục được ý thức tôn trọng pháp luật của

công dân, góp phần chủ động ngăn ngừa các vi phạm hợp đồng bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

Quyết định giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới phải có tính khả thi cao, thi hành được và quá trình giải quyết tranh

chấp phải đảm bảo tính dân chủ và quyền tự định đoạt của các bên với chi phí giải

47

quyết thấp. Thông thường, tranh chấp hợp đồng nói chung và tranh chấp hợp đồng

bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nói riêng có thể được giải quyết

bằng các phương thức khác nhau sau: thương lượng, hòa giải, trọng tài hay tòa án.

Các bên có thể lựa chọn một phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng phù hợp

hoặc sử dụng phối hợp nhiều phương pháp. Các yếu tố tác động chi phối việc các bên

chọn lựa phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng như: các lợi thế mà phương thức

đó mang lại cho các bên, mức độ phù hợp của phương thức đó đối với nội dung và tính

chất của tranh chấp hợp đồng với cả thiện chí của các bên, thái độ hay quy định của

nhà nước đối với quyền chọn lựa phương thức giải quyết của các bên.

Thứ nhất, về phương thức thương lượng. Đây là phương thức giải quyết

được các bên ưu tiên sử dụng đầu tiên khi có tranh chấp hợp đồng nói chung và hợp

đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nói riêng xảy ra. Các bên

tranh chấp sẽ cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận để đi đến thống nhất một phương án

giải quyết bất đồng giữa họ và tự nguyện thực hiện phương án đã thỏa thuận qua

thương lượng. Ưu điểm của phương thức này là giải quyết nhanh chóng, đơn giản

và ít tốn kém. Khi thương lượng thành, không có kẻ thắng người thua, không gây ra

tình trạng đối đầu giữa các bên nên sẽ duy trì được quan hệ hợp tác giữa các bên,

đặc biệt là doanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe cơ giới, thông tin bí mật giữa hai bên

sẽ dễ dàng kiểm soát. Tuy nhiên, trong trường hợp thương lượng không thành công,

người thiếu thiện chí sẽ lợi dụng việc thương lượng để trì hoãn việc thực hiện nghĩa

vụ của mình và có thể đưa đến hậu quả là bên có quyền lợi (chủ xe cơ giới) bị mất

quyền khởi kiện tại tòa án hoặc trọng tài do hết thời hiệu khởi kiện.

Thứ hai, phương thức giải quyết bằng hòa giải. Hòa giải là phương thức giải

quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hoà giải để hỗ trợ, thuyết

phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.

Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải cũng có nhiều ưu điểm như

phương thức thương lượng, bởi tính đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, sự linh hoạt,

hiệu quả và ít tốn kém.

Bên cạnh những ưu điểm chung, hòa giải còn có ưu điểm vượt trội được

mang lại bởi sự tham gia của người thứ ba trong quá trình giải quyết tranh chấp mà

48

bản thân phương thức thương lượng không thể có được. Người thứ ba được các bên

chọn làm trung gian hòa giải thường là người có trình độ chuyên môn, có kinh

nghiệm, am hiểu lĩnh vực và vấn đề đang tranh chấp. Khi hiểu rõ được nguyên

nhân, hoàn cảnh phát sinh mâu thuẫn cũng như quan điểm, nhận thức của mỗi bên,

họ sẽ biết cách làm cho ý chí của các bên dễ gặp nhau trong quá trình đàm phán để

loại trừ tranh chấp. Vì vậy, trong những trường hợp kinh nghiệm và sự hiểu biết của

các bên về vấn đề tranh chấp còn nhiều hạn chế, giải quyết tranh chấp bằng thương

lượng sẽ khó có khả năng đạt kết quả, nhưng khi có sự can thiệp của người thứ ba

làm trung gian hòa giải thì cơ hội thành công lại cao hơn.

Ngoài ra, kết quả hòa giải được ghi nhận và chứng kiến bởi người thứ ba nên

mức độ tôn trọng và tự nguyện tuân thủ các cam kết đã đạt được trong quá trình hoà

giải giữa các bên cũng cao hơn so với phương thức thương lượng.

Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, hòa giải cũng không thoát ly được những

hạn chế tương tự như phương thức thương lượng, bởi nền tảng của hòa giải vẫn

được quyết định trên cơ sở ý chí thỏa thuận cũng như sự tự nguyện thi hành của mỗi

bên tranh chấp. Bởi vậy, dù có sự trợ giúp của người thứ ba làm trung gian hòa giải

mà một bên không trung thực, thiếu sự thiện chí, hợp tác trong quá trình đàm phán

thì hòa giải cũng khó có thể đạt được kết quả mong đợi.

Ngoài ra, trong quá trình hòa giải các bên phải trao đổi, cung cấp thông tin

với người thứ ba về hoạt động kinh doanh của mỗi bên liên quan đến vụ tranh chấp

nên uy tín cũng như bí mật trong kinh doanh của mỗi bên dễ bị ảnh hưởng hơn

phương thức thương lượng. Bên cạnh đó, chi phí cho quá trình giải quyết tranh chấp

thương mại bằng hòa giải cũng thường tốn kém hơn so với thương lượng, bởi một

hoặc các bên tranh chấp phải trả khoản dịch vụ phí cho người thứ ba làm trung gian

hòa giải.

Thứ ba, phương thức giải quyết bằng trọng tài. Các bên thỏa thuận đưa

những tranh chấp đã phát sinh giữa họ ra giải quyết tại trọng tài và trọng tài sau khi

xem xét việc tranh chấp, sẽ đưa ra phán quyết có tính chất chung thẩm và không bị

kháng cáo. Phương thức này cũng bắt nguồn từ sự thỏa thuận giữa các bên trên cơ

sở tự nguyện, các bên được quyền lựa chọn một trọng tài phù hợp. Do trọng tài là

49

một cơ quan tài phán, nên quyết định của trọng tài có giá trị cưỡng chế thi hành.

Mọi sự thay đổi, đình chỉ hủy bỏ hay vô hiệu của hợp đồng này không làm ảnh

hưởng đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài (trừ trường hợp lý do làm hợp đồng này

vô hiệu cũng là lý do làm thỏa thuận trọng tài vô hiệu). Giải quyết tranh chấp bằng

trọng tài không công khai nên doanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe cơ giới hạn chế tiết

lộ bí mật kinh doanh, giữ được uy tín của các bên, đặc biệt là doanh nghiệp bảo

hiểm trên thị trường cạnh tranh. Thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài rất linh

hoạt, đơn giản, các bên có thể chủ động về thời gian và địa điểm giải quyết tranh

chấp tùy vào từng trung tâm trọng tài có thể thỏa thuận lựa chọn. Tuy nhiên chi phí

trọng tài thường cao hơn Tòa án và tính cưỡng chế của trọng tài thường không cao

bằng Tòa án. Vì phán quyết của trọng tài là chung thẩm nên trường hợp trọng tài ra

phán quyết không chính xác sẽ gây khó khăn cho các bên, sau đó có thể đề nghị hủy

phán quyết nhưng gây mất thời gian, công sức hơn.

Thứ tư, phương thức giải quyết bằng tòa án. Phương thức này được lựa chọn

khi tranh chấp hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới phát sinh,

các bên không thương lượng, hòa giải được với nhau. Vì tính chất của hợp đồng này

mang tính kinh tế, thương mại nên tranh chấp phát sinh có thể được tòa án giải

quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế. Án phí thực tế tại Việt Nam khi giải quyết bằng

tòa án thấp hơn so với trọng tài. Các quyết định của tòa án có tính cưỡng chế thi

hành đối với các bên, những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp có khả

năng được phát hiện khắc phục. Các bên không có quyền lựa chọn thẩm phán và hội

đồng xét xử và phải chấp hành các phán quyết của tòa án. Vì thời gian giải quyết

tranh chấp thường kéo dài, đòi hỏi các bên phải nghiêm túc tuân thủ trong suốt quá

trình giải quyết tranh chấp.

Các bên có quyền lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng bất kỳ phương thức

nào, nhưng mọi sự thỏa thuận và quyết định cũng phải tuân thủ và phù hợp với quy

định của pháp luật. Theo quy định của pháp luật và thực tế xảy ra, mức bồi thường

cụ thể đối với thiệt hại về tài sản/1 vụ tai nạn được xác định theo thiệt hại thực tế và

theo mức độ lỗi của chủ xe cơ giới nhưng không vượt quá mức trách nhiệm quy

định trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Cơ sở để giải

50

quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới là: Cần phải xác định lỗi của người vi phạm và mức độ vi phạm gây thiệt hại

thực tế như thế nào? Bởi vì doanh nghiệp bảo hiểm không có trách nhiệm bồi

thường phần vượt quá mức trách nhiệm quy định trong hợp đồng bảo hiểm. Trong

trường hợp thiệt hại thực tế vượt quá mức trách nhiệm trong hợp đồng bảo hiểm thì

bên tham gia hợp đồng bảo hiểm (khách hàng) sẽ phải trả cho bên bị thiệt hại phần

vượt quá. Trường hợp chủ xe cơ giới đồng thời tham gia nhiều hợp đồng bảo hiểm

trách nhiệm dân sự cho cùng một xe cơ giới thì số tiền bồi thường chỉ được tính

theo hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực bảo hiểm trước.

Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm

không theo quy tắc, điều khoản, biểu phí đã được Bộ Tài chính ban hành thì doanh

nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên tham gia hợp đồng bảo

hiểm và bên tham gia hợp đồng bảo hiểm không có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm.

2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới

2.3.1. Những kết quả đạt được

Tại diễn đàn trao đổi, tổng quan về thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt

Nam 9 tháng đầu năm 2018, doanh thu thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đạt 33.885

tỉ đồng, tăng trưởng 12,37%, bồi thường 13.980 tỉ đồng, dự phòng bồi thường 292 tỉ

đồng, tỉ lệ bồi thường đã bao gồm dự phòng bồi thường 42%. Trong đó, bảo hiểm

trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới doanh thu đạt 10.426 tỉ đồng chiếm tỉ trọng

31% trong tổng doanh thu toàn thị trường, tăng trưởng 7,4%, bồi thường 5.934 tỷ

đồng, dự phòng bồi thường 22 tỉ đồng, tỉ lệ bồi thường 57% (đã bao gồm dự phòng

bồi thường) [23].

Trên thực tế, những tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự

xảy ra và đã được Tòa án xét xử như: Bản án số 199/2006/KT-PT (cơ quan xét xử là

Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao), bản án số 32/2011/KDTM-PT, bản án số

162/2011/KDTM-PT (cơ quan xét xử là Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao)…

Thứ nhất, pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

51

giới về cơ bản đã đảm bảo được tính kịp thời, phù hợp, thống nhất, đồng bộ tạo

hành lang pháp lý cho bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nói riêng và

thị trường bảo hiểm nói chung phát triển mạnh, góp phần tích cực vào việc duy trì

trật tự, kỷ cương thị trường, đấu tranh ngăn ngừa các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh, trục lợi, cố ý làm trái pháp luật; đấu tranh chống tiêu cực trong lĩnh vực kinh

doanh bảo hiểm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia

hợp đồng bảo hiểm; duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các

doanh nghiệp bảo hiểm, bảo đảm các quy định của pháp luật về bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được thực hiện nghiêm túc.

Thứ hai, sau 05 năm thực hiện Thông tư Liên tịch số 35/2009/TTLT-BTC-

BCA ngày 25/2/2009 của Liên Bộ Tài chính – Bộ Công an hướng dẫn thực hiện

một số điều của Nghị định số 103/2008/NĐ- CP của Chính phủ về bảo hiểm bắt

buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, với sự phối hợp chặt chẽ của Cục Cảnh sát

giao thông đường bộ - đường sắt, Cục quản lý, giám sát bảo hiểm, Hiệp hội Bảo

hiểm Việt Nam và các doanh nghiệp bảo hiểm ý thức của người tham gia bảo hiểm

được nâng cao, đảm bảo quyền và lợi ích của chủ xe, hỗ trợ kịp thời các nạn nhân

trong vụ tai nạn giao thông, góp phần thực hiện mục tiêu an sinh xã hội. Trong 05

năm từ 2009-2014, lực lượng cảnh sát giao thông toàn quốc đã tổ chức tuyên truyền

51.132 lượt với hơn 3,7 triệu người tham gia, trong đó đã xây dựng trên 300 phóng

sự tuyên truyền về bảo hiểm bắt buộc; triển khai trên 3.000 pano, áp phích tại các

ngã ba, ngã tư, chốt đèn tín hiệu giao thông, phát trên 8.000 tờ rơi tuyên truyền…,

để nâng cao nhận thức của người dân về an toàn giao thông cũng như ý thức tham

gia bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới. Theo

đó, qua 05 năm thực hiện, lực lượng cảnh sát giao thông đã lập biên bản xử lý hơn

2,2 triệu trường hợp không có hoặc không mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm

trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực; nộp kho bạc nhà nước số tiền

226,2 tỷ đồng. Lực lượng cảnh sát giao thông cũng đã cung cấp hơn 56.000 hồ sơ

vụ tai nạn giao thông; cung cấp gần 13.000 thông tin, tài liệu có liên quan đến các

vụ tai nạn giao thông cho doanh nghiệp bảo hiểm, để giải quyết bồi thường nhanh

chóng theo quy định được ký kết trong hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm

52

dân sự của chủ xe cơ giới [21]. Các bên liên quan cũng phối hợp chặt chẽ trong việc

tiếp nhận thông tin tai nạn, xử lý tai nạn, thu thập hồ sơ tai nạn giao thông phục

vụ cho công tác giám định, giải quyết bồi thường theo quy định hợp đồng bảo

hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, tạo điều kiện cho chủ xe và

người bị tai nạn.

Thứ ba, trong thời gian qua, Cục quản lý, giám sát bảo hiểm cũng đã phối

hợp với Cục Cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt, Hiệp hội Bảo hiểm Việt

Nam rà soát các điểm bán bảo hiểm xe cơ giới tại nhiều tỉnh thành trên cả nước, kịp

thời chấn chỉnh việc bán bảo hiểm sai quy định, việc tham gia hợp đồng bảo hiểm

không đúng với pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó, ý thức chấp hành các quy định

pháp luật cũng được từng bước nâng lên kể cả các doanh nghiệp bảo hiểm, cũng

như chủ phương tiện xe cơ giới. Đây vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của các bên

liên quan. Phía cơ quan chức năng cũng tăng cường kiểm tra, giám sát trong việc

chấp hành các quy định về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới. Để nâng cao hiệu quả thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân

sự của chủ xe cơ giới, đại diện nhiều doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ cũng kiến

nghị các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện kiểm tra, giám sát và thực hiện chế tài

đủ mạnh để răn đe đối với hành vi trục lợi bảo hiểm xe cơ giới và tiếp tay cho hành

vi trục lợi bảo hiểm; cơ quan công an và doanh nghiệp bảo hiểm cần phối hợp mở

rộng mạng lưới bán bảo hiểm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân mua bảo hiểm

thuận lợi.

Thứ tư công tác tuyên truyền cho sự phát triển của hợp đồng bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được tăng cường. Trong thời gian vừa qua, được

sự quan tâm của chính phủ đối với công tác an toàn giao thông và khắc phục hậu

quả của người bị hại sau khi tai nạn giao thông xảy ra, công tác tuyên truyền về ý

nghĩa, tầm quan trọng, cách thức tham gia hợp đồng bảo hiểm và tính chất bắt buộc

của loại hình bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của người tham gia giao thông

đã được tăng cường. Việc tuyên truyền được thực hiện trên nhiều hình thức khác

nhau: trên các phương tiện thông tin đại chúng, loa đài truyền thanh đi vào từng

thôn xóm, trên các loại báo chí, trên internet, trên panô, áp phích quảng cáo, các

53

buổi hội thảo... Hiệu quả của công tác tuyên truyền là ở chỗ, doanh nghiệp bảo hiểm

và người tham gia giao thông đều ý thức được vai trò và trách nhiệm, quyền và

nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới.

Thứ năm, nhận thức về việc tham gia bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới của người dân được cải thiện từng bước. Cùng với

quá trình mở cửa, hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm đã góp phần quan trọng

vào việc tăng cường nhận thức của người dân về vai trò, chức năng của bảo hiểm

nói chung và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nói riêng,

người dân tự nguyện, tự giác tham gia hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới, đặc biệt là hợp đồng bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ

xe cơ giới. Số liệu từ Bộ Tài chính cho biết, trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ

có 27 doanh nghiệp bảo hiểm triển khai bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới. Trong giai đoạn 10 năm (2008-2017), lượng xe cơ giới tham gia bảo

hiểm và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới khoảng 110,3

triệu lượt xe các loại. Các doanh nghiệp bảo hiểm đã giải quyết được 593.658 vụ tai

nạn giao thông, trong đó có 70.421 trường hợp tử vong. Tổng số tiền bồi thường

giai đoạn 2008 - 2017 khoảng 5.300 tỷ đồng. Tổng doanh thu phí bảo hiểm bắt buộc

trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới trong giai đoạn này đạt khoảng 18.110 tỷ

đồng [31].

Thứ sáu, để khắc phục những bất cập trên thực tế, Cục Quản lý, giám sát bảo

hiểm (Bộ Tài chính) đã phối hợp Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam tổ chức hội nghị góp

ý sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ Tài chính về chế độ trong hợp đồng bảo

hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới tại Hà Nội, Cần Thơ, TP. Hồ Chí Minh

và Ðà Nẵng (là những địa phương đại diện cho bốn vùng miền trong cả nước) [31].

Tại các hội nghị này, các doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp vận tải đều nhất

trí cao với đề xuất tăng phí và mức trách nhiệm bảo hiểm lên 100 triệu

đồng/người/vụ trong trường hợp nạn nhân bị chết, và bồi thường về thiệt hại tài sản

cao nhất cũng ở mức như vậy, tăng gấp hai lần so với mức 50 triệu đồng/người/vụ

theo quy định hiện hành. Tuy nhiên, mức phí bảo hiểm lại không thể tăng gấp hai

54

lần được, bởi như thế thì gánh nặng sẽ đổ lên vai doanh nghiệp vận tải, mà để thực

hiện nguyên tắc không cào bằng, lấy số đông bù số ít thì chúng tôi cho rằng đối với

các đối tượng có rủi ro cao là xe vận tải hành khách đường dài hay xe đầu kéo công-

ten-nơ, xe taxi, phí bảo hiểm cũng cần tăng lên gấp hai đến ba lần so với mức phí

của xe thông thường, còn lại thì nên tăng thêm khoảng 20% là hợp lý. Ðây cũng là

đề xuất nhận được sự đồng thuận cao của đại diện các doanh nghiệp vận tải tại các

hội nghị trên. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp vận tải

cũng đạt được sự thống nhất cao trong nội dung về phân định lỗi trong giải quyết

bồi thường. Về đề xuất tăng thời hạn tham gia bảo hiểm, các đại diện doanh nghiệp

bảo hiểm và doanh nghiệp vận tải đều cho rằng, cần có hướng dẫn đối với thời hạn

tham gia hợp đồng bảo hiểm trên một năm cũng như đối với thời hạn đóng phí áp

dụng cho một số trường hợp đặc thù như chủ xe là các đơn vị hành chính sự nghiệp,

các đơn vị kinh doanh có nhiều xe. Ngoài ra, các ý kiến đều đồng thuận với việc đề

nghị nâng mức hỗ trợ nhân đạo lên 10 triệu đồng/vụ đối với trường hợp nạn nhân bị

chết và mở rộng hỗ trợ nhân đạo cho các trường hợp bị thương tật toàn bộ vĩnh

viễn. Tiếp thu ý kiến của các doanh nghiệp vận tải, doanh nghiệp bảo hiểm và các

cơ quan liên quan, các cơ quan có thẩm quyền đã nhanh chóng nghiên cứu. Ngoài

ra, song song với việc tiếp tục đẩy mạnh công tác quản lý, giám sát, thanh tra, kiểm

tra việc thực hiện chế độ hợp đồng bảo hiểm này của các doanh nghiệp thì việc phối

hợp tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chế độ trong hợp đồng bảo hiểm

này rất được cơ quan quản lý nhà nước quan tâm.

2.3.2. Một số hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện pháp luật

Cơ sở pháp lý hiện hành của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ

xe cơ giới là Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010), Nghị

định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Kinh doanh bảo hiểm và

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm, Nghị định số

103/2008/NĐ-CP về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới,

Nghị định số 214/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

103/2008/NĐ-CP, Văn bản hợp nhất số 25/VBHN-BTC của Bộ Tài chính về bảo

hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày 27/06/2014. Sau 10 năm

55

thực hiện, các quy định tại các văn bản này đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế về cơ chế

chính sách và quá trình tổ chức triển khai thực hiện.

Thứ nhất, ý thức thi hành pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân

sự của chủ xe cơ giới trong thời gian vừa qua chưa cao. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm

chưa cân xứng với tiềm năng thị trường. Mặc dù phần lớn người dân nhận thức

được việc tham gia bảo hiểm là nghĩa vụ bắt buộc đồng thời là quyền lợi của họ khi

không may xảy ra tai nạn giao thông, tuy nhiên, số lượng người dân tham gia bảo

hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới vẫn chưa cao vẫn chưa cao. Điều này

một phần là do Pháp luật về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới mới dừng lại là hình thức Nghị định do Chính phủ ban hành (Nghị định số

214/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP),

hiệu lực thực thi không cao bằng văn bản do Quốc hội ban hành, mức độ phổ biến

không rộng, chưa đi sâu được vào đời sống của tất cả người dân. Do vậy, thời gian

qua, các doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự

của chủ xe cơ giới chưa tự giác thực hiện hoặc có thực hiện nhưng chỉ mang tính

hình thức.

Thứ hai, Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành có

nhiều điểm còn tồn tại. Cụ thể như sau:

Một là, Luật Kinh doanh bảo hiểm không quy định về trình độ đại lý bảo

hiểm phải tốt nghiệp cao đẳng hoặc đại học: Khoản 1, Điều 86 Luật Kinh doanh bảo

hiểm chỉ quy định đại lý bảo hiểm là công dân Việt Nam, cư trú tại Việt Nam, có

chứng chỉ đại lý bảo hiểm do cơ sở đào tạo do Bộ Tài chính chấp thuận cấp mà

không quy định đại lý bảo hiểm phải tốt nghiệp đại học hay cao đẳng. Điều này thực

tế dẫn đến tình trạng, đại lý bảo hiểm khi được đào tạo khó tiếp thu được các kiến

thức cơ bản về bảo hiểm nên không hiểu được bản chất của sản phẩm bảo hiểm

mình đang khai thác nhất là bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới do đó chỉ quan tâm đến doanh thu khai thác mà không giải thích quyền lợi tham

gia bảo hiểm cho chủ xe cơ giới. Vì vậy, để nâng cao chất lượng đại lý bảo hiểm,

cần thiết phải quy định điều kiện về trình độ của đại lý là phải tốt nghiệp cao đẳng

hoặc đại học.

56

Hai là, Luật Kinh doanh bảo hiểm không có quy định bắt buộc người hành

nghề đại lý phải ký cược, ký quỹ cho doanh nghiệp bảo hiểm: Thời gian vừa qua do

Luật Kinh doanh bảo hiểm không quy định trách nhiệm của người hành nghề đại lý là

phải ký cược, ký quỹ tại doanh nghiệp bảo hiểm nên dẫn đến nhiều đại lý bảo hiểm,

sau khi khai thác xong doanh thu phí bảo hiểm đã lấy luôn doanh thu khai thác và từ

bỏ không làm việc tại doanh nghiệp bảo hiểm, gây thiệt hại cho người tham gia bảo

hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm.

Ba là, theo quy định tại khoản 2, Điều 83 Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày

01/7/2016: “Tổ chức, cá nhân không được đồng thời làm đại lý cho doanh nghiệp

bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài khác nếu không được chấp thuận bằng văn bản của

doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài mà mình đang làm đại lý” [18]. Tuy

nhiên, quy định này chỉ mang tính hình thức, trên thực tế vẫn xuất hiện tình trạng

đại lý bảo hiểm bán bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới cùng một lúc

cho hai doanh nghiệp bảo hiểm. Do cơ quan quản lý bảo hiểm không kiểm soát

được tình trạng đại lý bán bảo hiểm cho hai doanh nghiệp bảo hiểm cùng một lúc

mà không được sự đồng ý bằng văn bản của một trong hai doanh nghiệp bảo hiểm

nên không xuất toán được doanh thu phí bảo hiểm do các đại lý bảo hiểm này khai

thác được.

Thứ ba, mặc dù Nghị định số 214/2013/NĐ-CP ngày 20 tháng 12 năm 2013

đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 9

năm 2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới nhưng vẫn có nhiều điểm chưa cụ thể, chưa phù hợp với thực tế dẫn đến tình

trạng các doanh nghiệp bảo hiểm gặp khó khăn khi thực hiện. Cụ thể như sau:

Một là, tại khoản 4 Điều 20 Nghị định số 103/2008/NĐ-CP, có đưa ra quy

định các doanh nghiệp bảo hiểm không được chi hỗ trợ đại lý bán bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới dưới mọi hình thức ngoài mức hoa hồng bảo hiểm

đại lý được hưởng theo quy định của Bộ Tài chính. Quy định này thực chất là để

tăng cường khả năng giám sát của cơ quan quản lý, giám sát bảo hiểm, ngăn chặn

tình trạng chi hỗ trợ bảo hiểm tràn lan, không kiểm soát, ảnh hưởng đến doanh thu,

hiệu quả kinh doanh bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, gây

57

nên tình trạng tranh giành đại lý hỗn loạn trên thị trường trong thời gian vừa qua.

Tuy nhiên, việc cắt khoản thu nhập của đại lý dưới hình thức chi hỗ trợ trong Nghị

định 103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008 chỉ là giải pháp chủ quan, mang tính tình thế

của cơ quan quản lý, giám sát bảo hiểm và chưa có sự kết hợp đồng bộ với việc giải

quyết vấn đề thu nhập cho đại lý - một lực lượng đông đảo có tính chất quyết định

đối với việc gia tăng doanh thu bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới của các doanh nghiệp bảo hiểm.

Hai là, theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày

16/9/2008, Quỹ bảo hiểm xe cơ giới sẽ chi hỗ trợ với hai loại hỗ trợ và hai mức khác

nhau cho 2 trường hợp:

Trường hợp thứ nhất, trường hợp không xác định được xe gây tai nạn hoặc xe

không tham gia bảo hiểm, Quỹ bảo hiểm xe cơ giới sẽ xem xét hỗ trợ nhân đạo cho

những thiệt hại xảy ra đối với người thứ ba và hành khách chuyên chở trên xe do xe

cơ giới gây ra.

Trường hợp thứ hai, các trường hợp loại trừ bảo hiểm, Quỹ bảo hiểm xe cơ

giới sẽ xem xét hỗ trợ chi phí mai táng cho người bị hại.

Theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008,

lái xe gây tai nạn cố ý bỏ chạy không thực hiện trách nhiệm của chủ xe, lái xe cơ

giới được coi là một trong những trường hợp loại trừ bảo hiểm, có thể xem xét hỗ trợ

chi phí mai táng cho người bị hại. Tuy nhiên, xét về mặt lý thuyết, lái xe gây tai nạn cố

ý bỏ chạy có thể coi là một trong những trường hợp không xác định được xe gây tai

nạn, trong trường hợp này, người bị hại sẽ được xem xét để bồi thường nhân đạo.

Như vậy, rõ ràng đối với cùng một nội dung, pháp luật lại quy định hai hình

thức hỗ trợ khác nhau.

Thứ tư, hiện nay có sự mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật liên quan tới

hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Cụ thể, theo quy định tại

điểm a, khoản 2, Điều 22 Nghị định số 103/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày

16/9/2008:

“Bộ Công An có trách nhiệm chỉ đạo lực lượng Cảnh sát giao thông và lực

58

lượng Cảnh sát khác liên quan giám sát và kiểm tra các chủ xe cơ giới trong việc:

Yêu cầu chủ xe cơ giới xuất trình Giấy chứng nhận bảo hiểm còn hiệu lực khi làm

thủ tục cấp đăng ký xe”[16].

Điểm 1.2, khoản 1, Mục II Thông tư liên tịch số 35/2009/TT-BTC-BCA của

liên Bộ Tài chính, Bộ Công an hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định

103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới ngày 25/2/2009 cũng quy định:

“Cục Cảnh sát giao thông đường bộ - Đường sắt; Phòng Cảnh sát giao

thông Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Công an quận, huyện, thị xã,

thành phố thuộc tỉnh khi làm thủ tục cấp đăng ký phương tiện giao thông cơ giới

đường bộ (sau đây viết gọn là xe cơ giới) phải yêu cầu chủ xe cơ giới xuất trình

Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu

lực”[5].

Theo quy định tại hai văn bản này, khi làm thủ tục cấp đăng ký xe, chủ xe cơ

giới có nghĩa vụ xuất trình Giấy chứng nhận bảo hiểm.

Tuy nhiên, trong Thông tư số 15/2014/TT-BCA ngày 04/04/2014 lại không

có quy định nào yêu cầu chủ xe cơ giới phải xuất trình giấy chứng nhận bảo hiểm

bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới khi thực hiện thủ tục cấp đăng ký xe

cơ giới.

Chính bởi các quy định khác nhau giữa những văn bản pháp luật đã gây ra

những khó khăn nhất định cho người dân và cả cơ quan nhà nước có thẩm quyền

trong việc thực thi pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và

từ đó, làm giảm hiệu quả thực thi pháp luật.

Thứ năm, văn bản hợp nhất 25/VBHN-BTC năm 2014 hợp nhất Nghị định về

bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do Bộ Tài chính ban hành

ngày 27/06/2014 quy định doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi thường thiệt hại

cho chủ xe cơ giới trong trường hợp có hành động cố ý gây thiệt hại của chủ xe, lái

xe hoặc của người bị thiệt hại tại khoản 1 Điều 13 văn bản này. Tuy nhiên, pháp luật

59

về hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nói riêng và

pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nói chung chưa có những quy định cụ thể các

trường hợp nào được coi là hành động cố ý gây thiệt hại của chủ xe, lái xe hoặc của

người bị thiệt hại. Điều 364 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về lỗi cố ý như

sau:

“Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây

thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong

muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra”[28].

Việc giải thích này khi áp dụng đối với lĩnh vực bảo hiểm thì quá chung

chung, dẫn đến việc vận dụng tùy tiện của Tòa án trong việc giải quyết các vụ tranh

chấp về bồi thường bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới vì việc

xác định hành vi nào đó có phải là hành vi cố ý gây thiệt hại thuộc trường hợp loại

trừ bảo hiểm hay không phụ thuộc rất nhiều vào giải thích chủ quan của thẩm phán.

Trên thực tế, do nguyên tắc của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi bổ

sung năm 2010) là luôn giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm (Điều

21, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000) trong các vụ việc như thế này, Tòa án

thường giải quyết theo hướng có lợi cho chủ xe cơ giới và các doanh nghiệp bảo

hiểm luôn luôn là người bị thiệt thòi, ví dụ hành vi cố ý chạy ngang qua đường cao

tốc của người bị hại khi xe cơ giới chạy qua, hành vi vượt đèn đỏ gây tai nạn của

chủ xe cơ giới, hành vi đi vào đường ngược chiều gây tai nạn… Chính việc không

hướng dẫn rõ ràng của pháp luật kinh doanh bảo hiểm đối với trường hợp loại trừ

bảo hiểm này đã gây khó khăn cho doanh nghiệp bảo hiểm khi áp dụng, quyền lợi

của doanh nghiệp bảo hiểm nhiều khi không được đảm bảo.

Tuy nhiên, quy định này khá chung chung và dẫn tới nhiều cách hiểu khác

nhau trong khi áp dụng. Chính việc không hướng dẫn rõ ràng của pháp luật kinh

doanh bảo hiểm đối với trường hợp loại trừ bảo hiểm này đã gây khó khăn cho

doanh nghiệp bảo hiểm khi áp dụng, quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm và cả bên

mua bảo hiểm trong nhiều trường hợp không được bảo đảm.

Thứ sáu, khoản 3 Điều 8 văn bản hợp nhất 25/VBHN-BTC năm 2014 hợp

60

nhất Nghị định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do Bộ

Tài chính ban hành ngày 27/06/2014 quy định:

“Bộ Tài chính quy định cụ thể về mẫu Giấy chứng nhận bảo hiểm để áp

dụng và quản lý thống nhất trong phạm vi cả nước”[16].

Ưu điểm của việc quy định cụ thể mẫu Giấy chứng nhận bảo hiểm, bao gồm

cả bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự và bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự

để các doanh nghiệp áp dụng theo là để đảm bảo sự thống nhất trong việc quản lý

hình thức của Giấy chứng nhận bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy

nhiên, hạn chế của quy định này là tính thủ công, không phù hợp với xu hướng phát

triển của giao dịch điện tử. Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển một cách

bùng nổ như hiện nay, các giao dịch, các hợp đồng thực hiện qua hệ thống internet

sẽ giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian, chi phí và tăng tính hiệu quả của

việc kiểm soát các giao dịch thực hiện hàng ngày. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh

doanh bảo hiểm nhỏ lẻ như bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, phần

lớn các giao dịch được thực hiện thông qua các đại lý bảo hiểm, việc thực hiện giao

dịch điện tử sẽ giúp cho doanh nghiệp kiểm soát được một cách hiệu quả số lượng

hợp đồng bảo hiểm được ký kết, giảm thiểu việc thất thoát cho doanh nghiệp bảo

hiểm do hành vi trục lợi của đại lý bảo hiểm. Từ đó, để giúp doanh nghiệp bảo hiểm

kiểm soát được số lượng thực tế của các hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới được đại lý bảo hiểm ký kết với người mua bảo hiểm, giải pháp cần

thiết là phải mở rộng hình thức giao kết hợp đồng dưới dạng thư điện tử [32, tr.73].

61

Tiểu kết chương 2

Việc nghiên cứu các yếu tố liên quan đến hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân

sự của chủ xe cơ giới như chủ thể của hợp đồng, hình thức, nội dung, hiệu lực của

hợp đồng, giới hạn trách nhiệm bảo hiểm cũng như các trường hợp loại trừ trách

nhiệm bảo hiểm là cơ sở để phân tích pháp luật, chính sách bảo hiểm trên cơ sở đó

chỉ ra được những mặt ưu điểm, những hạn chế, tồn tại của chính sách và tìm kiếm

các giải pháp tích cực nhằm khắc phục và phát huy tính ưu việt của loại hình bảo

hiểm này.

Đánh giá thực trạng pháp luật, thực tiễn thi hành pháp luật về hợp đồng bảo

hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, luận văn đã chỉ ra được những ưu điểm

và những tồn tại, hạn chế của hệ thống pháp luật, chính sách về bảo hiểm trách

nhiệm của chủ xe cơ giới và việc tuân thủ pháp luật, chính sách của Nhà nước.

Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới trong

thời gian qua đã tạo ra hành lang pháp lý đồng bộ cho thị trường bảo hiểm phát triển

lành mạnh. Việc tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp bảo hiểm, người tham gia bảo

hiểm được nâng cao. Các bộ, ngành đã có sự phối hợp thường xuyên hơn trong

công tác triển khai thực hiện pháp luật liên quan tới hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới.

Tuy nhiên, xuất phát từ một số nguyên nhân: nhận thức của người tham gia

bảo hiểm về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của của chủ xe cơ giới chưa

cao, các doanh nghiệp bảo hiểm chủ trương chạy theo mục tiêu doanh thu, lợi

nhuận, công nghệ quản lý lạc hậu, công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý,

giám sát bảo hiểm còn mỏng, hời hợt, chưa xử lý nghiêm các doanh nghiệp cố tình

vi phạm, việc ban hành cơ chế chính sách chưa sát với thực tế,... nên mức độ tuân

thủ pháp luật chưa cao, tạo ra những khó khăn nhất định trong quá trình triển khai

thực hiện.

62

Chương 3

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM

DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI

3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện

pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

Trong thời gian qua, pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới đã được thực thi và áp dụng một cách có hiệu quả và trên thực tế đã

cho thấy tính hiệu quả cao. Tuy nhiên, như đã phân tích ở phần trước của luận văn,

pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới cũng bộc lộ

một số hạn chế nhất định.

Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra hiện nay là phải có những giải pháp nhằm hoàn

thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm

dân sự của chủ xe cơ giới. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, tiếp tục bổ sung hoàn thiện khung pháp lý cho hợp đồng bảo hiểm

trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Từ đó, cả các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền, các doanh nghiệp bảo hiểm và cả những người chủ xe cơ giới mua bảo hiểm

trách nhiệm dân sự sẽ có căn cứ để thực hiện và chấp hành pháp luật một cách hiệu

quả hơn.

Thứ hai, tăng cường kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp bảo hiểm kinh

doanh bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới để đảm bảo cho việc thực

hiện pháp luật được minh bạch và chính xác nhất.

Thứ ba, tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật về hợp đồng hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới sao cho người dân có hiểu biết nhất định về sự cần

thiết của loại hợp đồng bảo hiểm này, từ đó nâng cao hiệu quả của việc thực thi

pháp luật.

Thứ tư, xây dựng các thiết chế hỗ trợ quản lý nhà nước về hợp đồng bảo

hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, từ đó, việc thực hiện pháp luật sẽ đạt

được hiệu quả một cách toàn diện nhất.

63

3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

Dựa trên thực tiễn, tác giả luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện

quy định pháp luật về Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

như sau: hoàn thiện khung pháp lý cho hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới. Khung pháp lý cho hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ

xe cơ giới hiện vẫn còn nhiều điểm bất cập. Kiến nghị này được đề xuất bao gồm

giải pháp cụ thể như sau: “Xây dựng riêng về Luật Bảo hiểm xe cơ giới”.

Hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về hợp đồng bảo hiểm

trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới mới chỉ ở tầm Nghị định do Chính phủ ban

hành. Điều đó dẫn đến hệ quả hiệu lực thực thi của loại hình hợp đồng bảo hiểm này

chưa cao. Do vậy, về lâu dài, để nâng cao hiệu quả và hiệu lực thực thi pháp luật về

hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, cần nghiên cứu nhiều

hơn về quy định của hợp đồng bảo hiểm. Kế thừa các quy định pháp luật hiện hành về

hợp đồng, các cơ quan cần lưu ý một số quy định sau:

Một là, quy định cụ thể và rõ ràng về loại hình hợp đồng bảo hiểm trách

nhiệm dân sự bắt buộc và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự tự nguyện (tránh

trường hợp gộp chung dẫn đến tình trạng không minh bạch trong việc giải quyết bồi

thường, theo dõi thống kê, quảng cáo, khuyến mại bất hợp pháp.

Hai là, quy định rõ ràng về chức năng và vai trò của các doanh nghiệp bảo

hiểm, quy định cụ thể về quyền lợi và nghĩa vụ của chủ xe cơ giới, nhằm giảm thiểu

những tranh chấp không mong muốn do nội dung của hợp đồng bảo hiểm gây ra.

Ba là, kiểm soát tình trạng tham gia hợp đồng bảo hiểm của các chủ xe cơ

giới, tránh tình trạng xây dựng hợp đồng giả khi có tai nạn hoặc sự kiện ngoài

mong muốn xảy ra.

Bốn là, đưa ra các chính sách tốt đối với trường hợp các xe tham gia hợp

đồng bảo hiểm nhiều năm hoặc là có tham gia bảo hiểm trong nhiều năm liên tiếp

mà không gây tai nạn.

64

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm

trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới

Cần thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về

hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới như sau:

Thứ nhất, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp bảo hiểm

kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự, bảo hiểm tự nguyện

trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Nâng cao năng lực cơ quan quản lý, giám sát

bảo hiểm. Kinh doanh bảo hiểm là một chuyên ngành tài chính, đòi hỏi cán bộ, công

chức có hiểu biết nghiệp vụ sâu sắc, có tầm nhìn bao quát, biết phân tích dự báo tình

hình, am hiểu thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp. Ngoài ra, cán bộ, công

chức phải xây dựng định hướng, các giải pháp phát triển và là những người trực tiếp

thực thi các giải pháp đó trong bối cảnh thị trường mở, hội nhập với thị trường quốc

tế và khu vực. Vì vậy, việc nâng cao năng lực quản lý gắn liền với nâng cao năng

lực cán bộ, công chức.

Thứ hai, đổi mới phương thức quản lý doanh nghiệp bảo hiểm theo hướng:

- Thay đổi phương thức quản lý bị động sang chủ động; yêu cầu doanh

nghiệp phải tự xây dựng quy trình quản trị, điều hành doanh nghiệp, tự phát hiện,

xử lý những sai phạm.

- Cơ quan quản lý nhà nước thực hiện việc quản lý giám sát doanh nghiệp

thông qua các quy trình của chính doanh nghiệp để chủ động giám sát, xử lý và

thông qua các chỉ tiêu giám sát quản lý mang tính chất khách quan và được công

khai hoá.

- Tăng quyền chủ động và tính tự chịu trách nhiệm cho các doanh nghiệp, về

các vấn đề liên quan đến nội dung các báo cáo, kết quả hoạt động và trong việc thực

hiện các quy định của pháp luật.

- Hạn chế sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp. Hoạt động quản lý mang tính chuyên nghiệp. Quan hệ giữa cơ quan quản lý

và doanh nghiệp dựa trên tinh thần hợp tác, xây dựng.

Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp bảo hiểm

thông qua việc:

65

- Tập trung đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp, khả năng thanh

toán, trích lập dự phòng, tình hình cạnh tranh, hoạt động đại lý bảo hiểm…

- Chú trọng công tác tổng hợp, phân tích, dự báo về tình hình thị trường

trong nước và quốc tế, việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm (trong đó có bảo hiểm bắt

buộc trách nhiệm dân sự và bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới) và tình hình hoạt động của từng doanh nghiệp bảo hiểm nhằm phục vụ cho việc ra

các quyết định quản lý - giám sát một cách khoa học, sát với thực tế và phù hợp với

thông lệ, từng bước xây dựng và hình thành cơ sở dữ liệu thông tin thị trường.

- Kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về hợp đồng bảo

hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, giữ vững trật tự, kỷ cương và đảm bảo

môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, cạnh tranh lành mạnh và

đúng pháp luật.

- Tiếp tục cải cách, đơn giản hoá các thủ tục hành chính; phấn đấu rút ngắn

thời gian và nâng cao chất lượng xử lý công việc; bám sát tình hình hoạt động của

doanh nghiệp để kịp thời phát hiện các vấn đề phát sinh và đề xuất biện pháp giải

quyết phù hợp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động trong khuôn khổ pháp

luật; chủ động đổi mới mối quan hệ giữa cơ quan quản lý bảo hiểm và doanh nghiệp

trên cơ sở quan hệ đối tác xây dựng, hợp tác và thẳng thắn vì sự phát triển chung của

thị trường.

Thứ tư, xây dựng các thiết chế hỗ trợ quản lý nhà nước về hợp đồng bảo

hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới như:

- Thành lập riêng quỹ bồi thường nhân đạo

- Thành lập cơ quan giải quyết bồi thường trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới theo hợp đồng và ngoài hợp đồng bảo hiểm.

- Đẩy mạnh công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Do đề phòng và hạn chế

tổn thất có quan hệ chặt chẽ với nhau, do vậy, thực hiện tốt công tác đề phòng hạn

chế tổn thất do hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới gây ra là

một giải pháp có ý nghĩa xã hội to lớn, nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra, đem lại

lợi ích cho chủ xe cơ giới, đồng thời cũng đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp bảo

hiểm và cho toàn xã hội. Các doanh nghiệp bảo hiểm cần phối hợp chặt chẽ với các

66

cơ quan chức năng có liên quan như giao thông công chính, công an để tăng cường

hệ thống biển báo chỉ đường, xây dựng đường lánh nạn, các đèo dốc nguy hiểm, hỗ

trợ kinh phí tổ chức cuộc thi lái xe an toàn và tuyên truyền giáo dục luật an toàn

giao thông. Đưa ra các cách quản lý rủi ro giúp khách hàng loại trừ hoặc kiểm soát

được rủi ro có khả năng gây tổn thất như: đưa xe đi bảo dưỡng, kiểm tra định kỳ,

thường xuyên, không nên chở người hoặc hàng hóa quá tải trên xe, đưa ra các thông

tin về tình hình tai nạn giao thông trong nước, giúp khách hàng thấy được rủi ro về

việc điều khiển xe tham gia giao thông, từ đó, khách hàng sẽ nhận thức được vai trò

quan trọng khi tham gia hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

- Thành lập trung tâm giám định bồi thường độc lập hoặc xây dựng quy định

về việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn, quy trình giám định bồi thường, bảng giá

phụ tùng... đối với các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai bảo hiểm trách nhiệm dân

sự của chủ xe cơ giới. Giám định và bồi thường tổn thất là khâu quan trọng nhất

trong giải quyết vấn đề của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Làm tốt khâu

này sẽ là phương thức hữu hiệu nhất để quảng bá cho doanh nghiệp bảo hiểm, tăng

độ tin cậy của khách hàng cho doanh nghiệp bảo hiểm. Do đó, để thực hiện tốt khâu

này, các doanh nghiệp bảo hiểm cần: đơn giản các thủ tục bồi thường, giảm bớt

những giấy tờ, công đoạn không cần thiết, hướng dẫn khách hàng thực hiện các thủ

tục kê khai thông tin trong hồ sơ bồi thường cũng như phải thu thập các loại giấy tờ

gì để tránh việc khách hàng phải đi lại nhiều lần. Việc bồi thường cần tiến hành

nhanh chóng để khách hàng kịp thời khắc phục tổn thất, ổn định cuộc sống; các

doanh nghiệp bảo hiểm cần phối hợp với các cơ quan chức năng như cảnh sát giao

thông, y tế, bệnh viện,…giúp cho việc xác minh, thu thập thông tin thuận lợi và

nhanh chóng hơn; Hạn chế tối thiểu việc giải quyết chậm, không giải quyết hồ sơ

tồn đọng khi khách hàng gặp rủi ro trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự

- Tổ chức tuyên truyền về pháp luật bảo hiểm xe cơ giới trên các phương tiện

thông tin đại chúng, các biển hiệu... để doanh nghiệp bảo hiểm, người dân hiểu và

nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của pháp luật; hỗ trợ thực hiện công tác đề

phòng và hạn chế tai nạn giao thông như xây dựng hành lang an toàn giao thông, hỗ

trợ xây dựng biển báo… góp phần làm giảm tai nạn giao thông. Các kênh thông tin

67

khác như Internet và thông tin qua cơ quan trung gian và các đối tác kinh doanh

cũng được áp dụng như: các tờ rơi, các cuốn sách giới thiệu về nội dung, tác dụng

của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nên được phát rộng

rãi cho mọi người dân, hoặc được đặt ở các lối vào của các doanh nghiệp bảo hiểm

cũng như một số công sở nhiều người đi lại; Cử các nhân viên của doanh nghiệp

bảo hiểm đến gặp khách hàng tại nơi khách hàng yêu cầu, và cung cấp cho họ thông

tin trên cơ sở đáp ứng đầy đủ những thông tin cần thiết nhất; Thông qua các đại lý

doanh nghiệp bảo hiểm, cơ quan trung gian của doanh nghiệp bảo hiểm có thể thiết

lập cho họ các chương trình đối với đại lý và cơ quan trung gian cung cấp cho họ tài

liệu về quảng cáo, do vậy họ có thể dễ dàng chuyển tải một cách dễ dàng kiến thức

về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới tới khách hàng; Để

phục vụ cho khách hàng hiện có và các khách hàng tiềm năng, các doanh nghiệp

bảo hiểm cần cung cấp thông tin hoạt động về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân

sự của chủ xe cơ giới, cập nhập liên tục thông tin trên các mạng xã hội,…..

Thứ năm, trong bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra khẩn trương, hội nhập

kinh tế quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm được Chính phủ Việt Nam xác định là một

tất yếu. Hội nhập đem đến nhiều cơ hội cũng như đặt ra những thách thức mới, đòi

hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước phải có sự chuẩn bị nghiêm túc, chủ

động đánh giá khách quan, toàn diện về bản thân doanh nghiệp, trên cơ sở đó tích

cực chuẩn bị cho hội nhập một cách tự tin, tìm cho mình một lối đi riêng, một chiến

lược hành động riêng nhằm đứng vững và phát triển ổn định trên thị trường. Để góp

phần vào việc thực hiện pháp luật hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ

xe cơ giới một cách hiệu quả, các doanh nghiệp bảo hiểm cần chủ động thực hiện

các biện pháp sau:

- Phát triển nguồn nhân lực. Đội ngũ cán bộ giỏi nghiệp vụ, nhiệt huyết với

công việc chính là giá trị cốt lõi làm nên thành công của một doanh nghiệp. Để có

được những thành công lớn hơn nữa trong thời gian tới, các doanh nghiệp bảo hiểm

cần tập trung cho công tác tuyển dụng, đào tạo và nâng cao nghiệp vụ cũng như luân

chuyển cán bộ nghiệp vụ để phù hợp và tăng cường trình độ đáp ứng các nhu cầu

hội nhập. Đối với những cán bộ trẻ, có tiềm năng và cán bộ chủ chốt, các doanh

68

nghiệp bảo hiểm cần mạnh dạn đào tạo chuyên sâu để họ có thể phát huy khả năng

và dẫn dắt những cán bộ cấp dưới của mình hoàn thành tốt nhiệm vụ theo mục tiêu,

kế hoạch mà doanh nghiệp bảo hiểm đã đặt ra. Đẩy mạnh đào tạo chuyên môn cho

cán bộ bảo hiểm dưới nhiều hình thức, nhằm nhanh chóng bồi dưỡng, đào tạo

những nhân tài đang còn thiếu và những nhân tài toàn diện nắm vững kỹ thuật

chuyên môn và những kiến thức có liên quan. Đặc biệt phải coi trọng kết quả đào

tạo, phải tạo ra môi trường thông thoáng để nhân tài phát triển tài năng, đồng thời

phải hết sức coi trọng một cách lâu dài, cần xác định rõ nhu cầu đào tạo, mục tiêu

đào tạo,…

- Đầu tư phát triển hệ thống công nghệ thông tin. Hệ thống công nghệ thông

tin và phần mềm quản lý bảo hiểm chuyên nghiệp, hiện đại chính là một lợi thế

cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Hệ thống thông tin hiện đại giúp khách

hàng nhanh chóng, dễ dàng tiếp cận hơn với các doanh nghiệp bảo hiểm và nó cũng

giúp khách hàng hiểu hơn về các dịch vụ bảo hiểm và quyền lợi của họ khi tham gia

hợp đồng bảo hiểm. Phần mềm quản lý bảo hiểm chuyên nghiệp, hiện đại lại giúp

các doanh nghiệp bảo hiểm quản lý thông tin khách hàng một cách chính xác và đầy

đủ hơn, đồng thời giúp doanh nghiệp bảo hiểm phân tích và quản lý rủi ro một cách

hiệu quả. Vì vậy, trong thời gian tới doanh nghiệp bảo hiểm cần đầu tư mạnh hơn

cho hệ thống công nghệ thông tin và phần mềm quản lý để quản lý tốt hơn tình hình

khai thác, bồi thường hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới của doanh nghiệp, đảm bảo an toàn hệ thống khi

vận hành, quản lý rủi ro, hạn chế tình trạng trục lợi bảo hiểm và phân tích hoạt động

một cách có hiệu quả, cụ thể: tin học hoá công tác quản lý hợp đồng từ khâu thẩm

định rủi ro, khai thác, quản lý hợp đồng, đến các khâu bồi thường, trả tiền bảo hiểm.

- Nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm. Hiện tại, các doanh nghiệp bảo

hiểm Việt Nam không chú trọng vào chất lượng dịch vụ mà chủ yếu cạnh tranh

nhau trên cơ sở giảm phí và trả hoa hồng sai quy định cho khách hàng. Với chiến

lược kinh doanh như hiện nay thì khi các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tham

gia vào thị trường Việt Nam càng nhiều thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm

Việt Nam sẽ càng nhỏ, khả năng thua lỗ phải rút khỏi thị trường càng cao. Trong

69

điều kiện thị trường bảo hiểm cạnh tranh gay gắt như vậy, muốn duy trì và phát

triển hoạt động kinh doanh, trước hết các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và các

doanh nghiệp bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nói riêng phải xây

dựng chiến lược nguồn nhân lực nhằm hướng tới sự hài lòng của khách hàng, sau

đó, cần cải tiến quy trình phục vụ khách hàng, cần có những chương trình ưu đãi

khách hàng khi hợp đồng trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới mà khách hàng ký

kết hết hiệu lực và có mong muốn ký kết tiếp hợp đồng mới, các chương trình ưu

đãi hấp dẫn như sau: tặng quà trong những dịp lễ tết, sinh nhật, trong tư vấn đề

phòng và hạn chế tổn thất, kiểm soát viên tư vấn cho khách hàng những vấn đề về

cách phòng tránh, hạn chế những rủi ro có thể xảy ra. Sự hài lòng của khách hàng

làm tăng uy tín của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp ký kết được nhiều hợp đồng

bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; phục vụ tận nhà cho khách hàng,

không phân biệt khách hàng là người nông thôn hay thành thị, nam hay nữ, già hay

trẻ, giàu hay nghèo,..; tổ chức hội nghị khách hàng để tiếp thu ý kiến phản hồi của

khách hàng về những khó khăn khách hàng gặp phải trong quá trình thực hiện hợp

đồng trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

- Đẩy mạnh phát triển mạng lưới và các kênh phân phối. Muốn nhanh chóng

tiếp cận và phân phối sản phẩm tới khách hàng, các doanh nghiệp bảo hiểm cần đẩy

mạnh công tác phát triển mạng lưới và các kênh phân phối, bao gồm: Mở rộng

mạng lưới chi nhánh; Đào tạo đội ngũ đại lý có hiểu biết chuyên sâu về các hợp

đồng dịch vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới mà mình cung cấp để

có thể tư vấn cho khách hàng;

- Thực hiện tốt công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Đây chính là ý nghĩa

xã hội to lớn mà các doanh nghiệp bảo hiểm đem lại và là ưu thế của ngành bảo

hiểm trong việc phục vụ sản xuất, đời sống xã hội. Tăng cường hợp tác, chia sẻ

thông tin giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong công tác khai thác, giám định, bồi

thường để nâng cao hiệu quả hoạt động, chống trục lợi bảo hiểm, hạn chế cạnh

tranh không lành mạnh.

70

Tiểu kết chương 3

Để thực thi có hiệu quả pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân

sự của chủ xe cơ giới cần kết hợp và thực hiện đồng bộ các giải pháp từ phía cơ

quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và hiệp

hội bảo hiểm Việt Nam: hoàn thiện khung pháp lý cho hợp đồng bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, nâng cao năng lực cơ quan quản lý, giám sát bảo

hiểm, đổi mới phương thức quản lý, tăng cường kiểm tra, giám sát các doanh

nghiệp bảo hiểm kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, xây dựng các thiết chế hỗ trợ

triển khai thực hiện; doanh nghiệp bảo hiểm tự chủ nâng cao năng lực cán bộ, phát

triển kênh phân phối, đầu tư công nghệ thông tin …, người tham gia hợp đồng bảo

hiểm tự giác trau dồi, nâng cao kiến thức và hiểu biết của mình về bảo hiểm trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, các Bộ, ngành nâng cao trách nhiệm của mình

trong việc phối hợp với doanh nghiệp bảo hiểm, cơ quan quản lý, giám sát bảo

hiểm thực thi pháp luật bảo hiểm này.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ là cơ sở để pháp luật về hợp đồng

bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thực sự đi vào cuộc sống, là một

phần không thể thiếu được của xã hội hiện đại. Các cơ quan nhà nước nên tích cực

đẩy mạnh tổ chức tuyên truyền pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự

của chủ xe cơ giới; phổ biến và giải thích đầy đủ về nội dung, ý nghĩa và mục đích

của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đến toàn thể nhân dân, để các

chủ xe hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ của họ khi tham gia bảo hiểm, phổ biến các hình

thức cung cấp bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

71

KẾT LUẬN

Chế định về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là một

chế định quan trọng và thực tế đã có được sự chỉ đạo và giám sát chặt chẽ từ các cơ

quan quản lý nhà nước thông qua quy định việc tham gia bảo hiểm bắt buộc trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là bắt buộc đối với tất cả các chủ xe cơ giới trong

phạm vi lãnh thổ Việt nam. Đồng thời, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng nghiên

cứu, sửa đổi, bổ sung và thường xuyên ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành

sao cho phù hợp và bắt kịp với xu thế phát triển của thị trường.

Tuy nhiên, pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới thực sự vẫn chưa được triển khai hiệu quả, mức độ tuân thủ pháp luật chưa cao

xuất phát do nhiều nguyên nhân, bao gồm cả chủ quan và khách quan, như nguyên

nhân từ phía các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp bảo hiểm, người tham

gia bảo hiểm và từ chính những hạn chế và nhược điểm của văn bản quy phạm pháp

luật và các chính sách của Nhà nước về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới.

Trên cơ sở phân tích những mặt tồn tại, hạn chế của pháp luật và việc thực thi

pháp luật; những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những tồn tại hạn chế đó từ đó luận

văn chỉ ra những giải pháp chủ yếu để nâng cao mức độ tuân thủ pháp luật và đảm

bảo pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được

triển khai một cách toàn diện và đồng bộ ở Việt Nam hiện nay.

Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả đã cố gắng nghiên cứu tài liệu, tư

liệu, tuy nhiên, luận văn chắc chắn còn nhiều hạn chế. Tác giả rất mong nhận được

sự chỉ dẫn, góp ý của các nhà khoa học, các thầy cô giáo và các đồng nghiệp để luận

văn được hoàn thiện hơn.

72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tài chính (2003) Quyết định số 23/2003/QĐ-BTC ngày 25/02/2003 về việc

ban hành chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới,

ban hành ngày 25/02/2003, Hà Nội;

2. Bộ Tài chính (2007) Quyết định số 23/2007/QĐ-BTC ngày 9/4/2007 thay thế

Quyết định số 23/2003/QĐ-BTC ngày 25/2/2003 về việc ban hành chế độ bảo

hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, ban hành ngày

09/04/2007, Hà Nội;

3. Bộ Tài chính (2007) Thông tư số 155/2007/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị

định 45/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007, ban hành ngày 20/12/2007, Hà Nội;

4. Bộ Tài chính (2007) Thông tư số 156/2007/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị

định 46/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007, ban hành ngày 20/12/2007, Hà Nội;

5. Bộ Tài chính – Bộ Công an (2009) Thông tư Liên tịch số 35/2009/TTLT-BTC-

BCA ngày 25/2/2009 của Liên Bộ Tài chính – Bộ Công an hướng dẫn thực

hiện một số điều của Nghị định số 103/2008/NĐ- CP của Chính phủ về bảo

hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, ban hành ngày 25/2/2009,

Hà Nội;

6. Bộ Tài chính (2009) Thông tư số 103/2009/TT-BTC quy định việc quản lý, sử

dụng, thanh toán và quyết toán quỹ bảo hiểm xe cơ giới, ban hành ngày

25/5/2009, Hà Nội;

7. Bộ Tài chính (2012) Thông tư số 151/2012/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông

tư số 126/2008/TT-BTC, ban hành ngày 12/09/2012, Hà Nội;

8. Bộ Tài chính (2014) Thông tư số 43/2014/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số

điều của Thông tư số 126/2008/TT-BTC ngày 22/12/2008 của Bộ tài chính quy

định quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc

trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, ban hành ngày 11/04/2014, Hà Nội;

9. Bộ Tài chính (2014) Văn bản hợp nhất số 25/VBHN-BTC năm 2014 hợp nhất

Nghị định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, ban

hành ngày 27/6/2014, Hà Nội;

73

10. Bộ Tài chính (2014) Văn bản hợp nhất số 37/VBHN-BTC của Bộ tài chính quy

định quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc

trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, ban hành ngày 29/07/2014, Hà Nội;

11. Bộ Tài chính (2016) Thông tư số 22/2016/TT-BTC quy định quy tắc, điều

khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự

của chủ xe cơ giới, ban hành ngày 16/02/2016, Hà Nội;

12. Bộ Tài chính (2017) Thông tư số 50/2017/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị

định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm

và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, ban hành

ngày 15/05/2017, Hà Nội;

13. Bộ Tài chính (2018) “Bảo hiểm-đề xuất chi bồi thường nhân đạo cho nạn nhân

tử vong do xe cơ giới gây ra”,< http://tapchitaichinh.vn/bao-hiem/de-xuat-chi-

boi-thuong-nhan-dao-cho-nan-nhan-tu-vong-do-xe-co-gioi-gay-ra

300450.html>,(05/12/2018);

14. Chính phủ (2007) Nghị định số 45/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một

số điều Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, ban hành ngày 27/03/2007, Hà

Nội;

15. Chính phủ (2007) Nghị định số 46/2007/NĐ-CP quy định chế độ tài chính

trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, ban hành ngày 27/03/2007, Hà Nội;

16. Chính phủ (2008) Nghị định số 103/2008/NĐ-CP về bảo hiểm bắt buộc trách

nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, ban hành ngày 16/09/2008, Hà Nội;

17. Chính phủ (2013) Nghị định số 214/2013/NĐ-CP sửa đổi Nghị định

103/2008/NĐ-CP về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ

giới, ban hành ngày 20/12/2013, Hà Nội;

18. Chính phủ (2016) Nghị định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành

Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh

doanh bảo hiểm, ban hành ngày 01/07/2016, Hà Nội;

19. Nguyễn Văn Định (2008) Giáo trình bảo hiểm, Nhà xuất bản Đại học quốc gia

Hà Nội, 19, tr.9;

74

20. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam (2009), Tạp chí bảo hiểm – tái bảo hiểm Việt

Nam, các số 2006-2009; Hà Nội;

21. Hồng Chi (2015) “Nâng cao ý thức về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ

xe cơ giới”,

12-31/nang-cao-y-thuc-ve-bao-hiem-trach-nhiem-dan-su-cua-chu-xe-co-gioi-

16704.aspx>, (03/01/2015);

22. Nguyễn Vũ Hải Hà (2018) Tin thị trường của Bảo hiểm bưu điện PTI, ban

hành ngày 17/09/2018;

23. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam (2018) Số liệu thị trường Bảo hiểm Việt Nam 9

tháng năm 2018”, tháng 11-2018, Hà Nội;

24. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam (2019) Khuyến khích chủ xe cơ giới tham gia

bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự, ban hành ngày 04/01/2019, Hà Nội;

25. Võ Thị Pha (2005) Giáo trình lý thuyết bảo hiểm, Nhà xuất bản tài chính;

26. Quốc hội (2000) Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10, ban hành ngày

09/12/2000, Hà Nội;

27. Quốc hội (2005) Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11, ban hành ngày 14/06/2005,

Hà Nội;

28. Quốc hội (2010) Luật Kinh doanh bảo hiểm số 61/2010/QH12, ban hành ngày

24/11/2010, Hà Nội;

29. Quốc hội (2015) Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13, ban hành 24/11/2015, Hà

Nội;

30. Phạm Văn Tuyết (2007) Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt

Nam, Nxb Tư pháp Hà Nội;

31. Sông Trà (2012) “Bất cập trong triển khai bảo hiểm trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới,

.html>, (27/05/2012).

32. Vũ Thu Trang (2011) Pháp luật về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của

chủ xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại

học Quốc gia Hà Nội.

75