VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN PHƯƠNG MAI
HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội - 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN PHƯƠNG MAI
HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. TRẦN VĂN BIÊN
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, các
số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn này là hoàn toàn hợp lệ và đảm bảo
tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về đề tài nghiên cứu của mình.
Tác giả
Nguyễn Phương Mai
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ............................................ 6
1.1. Khái niệm và bản chất hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ......................................................................................................................... 6
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ............................................................................................................ 18
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................... 22
Chương 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN ............................................................................................................ 23
2.1. Khái quát sự phát triển của các quy định pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ............................................................. 23
2.2. Nội dung các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ...................................................................... 26
2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ............................................................................................................ 51
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................... 62
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ......................................................... 63
3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới .......................... 63
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ................................................................................................. 64
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ............................................................................... 65
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 73
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm là một trong những ngành dịch vụ tài chính có vai trò quan trọng
trong đời sống hàng ngày bởi phạm vi của nó liên quan đến tất cả các hoạt động sản
xuất, kinh doanh khác. Tuy nhiên, đặc điểm tạo nên sự khác biệt quan trọng của bảo
hiểm so với các ngành tài chính khác, đồng thời củng cố vai trò của bảo hiểm trong
đời sống xã hội đó chính là bảo hiểm cung cấp cơ chế bảo đảm tài chính tốt nhất
cho cá nhân và các tổ chức – một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại.
Khi nền kinh tế – xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu đi lại của nhân dân ngày
càng tăng, số lượng các loại phương tiện tham gia giao thông gia tăng nhanh chóng
và hết sức đa dạng, phong phú. Đặc biệt là xe cơ giới, với tính cơ động cao, tính việt
dã tốt, tham gia triệt để quá trình vận chuyển nên lượng xe tham gia giao thông
ngày càng nhiều. Mặc dù xe cơ giới ngày một hiện đại hơn, cơ sở hạ tầng giao
thông ngày càng được mở rộng, nâng cấp và hoàn thiện, song tai nạn giao thông vẫn
gia tăng qua các năm làm ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và tài sản của con
người. Vì thế, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ra đời là hết sức cần
thiết và được triển khai dưới hình thức là hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới có vai trò quan
trọng như góp phần ổn định tài chính, khắc phục hậu quả khi rủi ro xảy ra cho
người tham gia bảo hiểm đồng thời cũng là một trong các biện pháp hỗ trợ, có ý
nghĩa quan trọng trong việc hạn chế, khắc phục hậu quả tai nạn giao thông và xây
dựng văn hoá giao thông lành mạnh.
Trên thực tế, khi có tai nạn xảy ra, chủ phương tiện giao thông nhiều trường
hợp không có khả năng tài chính để khắc phục sẽ để lại hậu quả lâu dài cho bản
thân và người không may gặp tai nạn. Nhưng khi chủ phương tiện tham gia hợp
đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ
đứng ra giải quyết hậu quả bằng việc bồi thường tai nạn những điều khoản đã ký
kết trong hợp đồng, giúp đỡ chủ phương tiện và người bị nạn giảm tổn thất về tài
chính trên cơ sở sử dụng tiền phí bảo hiểm của nhiều người, giúp đỡ những người
1
không may gặp rủi ro.
Với ý nghĩa xã hội to lớn đó của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới, ở nước ta, chế độ hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới trong thời gian qua đã được nhà nước quan tâm triển khai và chủ xe cơ giới
hưởng ứng, các doanh nghiệp chấp hành. Tuy nhiên do một số lý do khách quan và
chủ quan từ phía người tham gia hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm, cơ
quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm, các bộ, ngành có liên quan và sự
hạn chế, thiếu tính khả thi của một số quy định pháp luật nên pháp luật về hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới chưa thực sự được doanh nghiệp
bảo hiểm, chủ xe cơ giới tuân thủ đầy đủ, do vậy chưa phát huy được hết giá trị xã
hội của các loại hình hợp đồng bảo hiểm này.
Xuất phát từ thực tế đó thì việc nghiên cứu đề tài để tiếp tục đưa ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là vấn đề cần thiết. Với lý do đó, tác giả
đã lựa chọn đề tài: “Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
theo pháp luật Việt Nam hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay chủ yếu được đề cập dưới dạng các bài viết được
đăng tải rải rác trên các tạp chí hoặc dưới hình thức các ý kiến tản mạn của các
chuyên gia, các đại diện của cơ quan quản lý nhà nước trong các cuộc trả lời phỏng
vấn của các cơ quan báo chí.
Ngoài ra, ở Việt Nam đến nay đã có luận văn thạc sĩ luật học của tác giả
Nguyễn Thị Thúy tại Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội năm 2012 về đề tài:
“Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển Việt Nam theo pháp
luật dân sự Việt Nam”, luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Thu Trang tại Khoa Luật –
Đại học quốc gia Hà Nội năm 2011 về đề tài: “Pháp luật về bảo hiểm bắt buộc
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay”, và một số nghiên
cứu khác cũng có liên quan tới đề tài luận văn của tác giả.
2
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chỉ nghiên cứu ở mức độ chung về
hợp đồng bảo hiểm hoặc chỉ nghiên cứu ở phạm vi hẹp về các vấn đề như: hợp đồng
bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ phương tiện cơ giới mà chưa có tác
giả nào nghiên cứu một cách hệ thống, đánh giá một cách toàn diện về thực trạng
xây dựng, thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới, một đề tài cần phải được làm rõ cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
Vì vậy, đề tài “Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là một đề tài độc lập và không trùng lặp với các
đề tài đã được nghiên cứu từ trước đến nay. Tuy nhiên, tác giả luôn có ý thức kế
thừa, học hỏi những kết quả mà các công trình khoa học, các bài viết và các ý kiến
của các chuyên gia cũng như các kinh nghiệm thực tiễn có liên quan đến đề tài
trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn có mục đích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Theo đó, luận văn có những mục đích
cụ thể sau:
Thứ nhất, luận văn làm rõ cơ sở lý luận về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới;
Thứ hai, luận văn phân tích thực trạng pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và thực tiễn thực hiện;
Thứ ba, luận văn đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả của luận văn đặt ra các nhiệm
vụ nghiên cứu sau đây:
Thứ nhất, phân tích khái niệm và làm rõ đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới;
3
Thứ hai, nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chế định hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự nói chung và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới nói riêng đồng thời làm rõ nội dung cụ thể của chế định này trong
pháp luật Việt Nam hiện hành;
Thứ ba, tổng kết thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đồng thời đưa ra các kiến nghị, giải pháp để hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn chọn những yếu tố liên quan đến
pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới tại Việt
Nam làm đối tượng nghiên cứu. Từ đó tìm hiểu sự ảnh hưởng của các yếu tố đó tới
quá trình thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn có phạm vi nghiên cứu như sau:
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu những quy định pháp luật của Việt Nam
được ban hành từ năm 1988 cho đến nay.
Về không gian: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lenin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước ta về nhà nước và
pháp luật, về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là:
(i) Phương pháp khai thác tài liệu sẵn có là các bài viết, các kết quả nghiên
cứu của các tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài;
(ii) Phương pháp thống kê;
(iii) Phương pháp phân tích và luật học so sánh;
(iv) Phương pháp diễn dịch và phương pháp tổng hợp.
4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ xe cơ giới: khái niệm, đặc điểm, vai trò của hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới để rút ra ý nghĩa xã hội to lớn của loại hình hợp
đồng bảo hiểm này.
Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn tham gia hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới hiện nay ở Việt Nam, qua đó đưa ra những hạn
chế, thiếu xót dẫn đến loại hình hợp đồng bảo hiểm này chưa được phổ biến và đi
sâu vào mọi tầng lớp dân cư ở Việt Nam.
Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm mục đích đưa hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm của chủ xe cơ giới thực sự được triển khai một cách rộng rãi tại Việt
Nam và phát huy được ý nghĩa xã hội to lớn của nó.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết
cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới.
Chương 2: Pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới và thực tiễn thực hiện.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI
1.1. Khái niệm và bản chất hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới
1.1.1. Khái niệm và bản chất hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
a. Khái niệm “Hợp đồng”
Khái niệm “hợp đồng” tại Việt Nam được quy định tại Điều 385 Bộ luật dân
sự năm 2015, theo đó:
“Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”[26].
Ngoài chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự, hợp đồng còn được điều chỉnh bởi
các lĩnh vực pháp luật khác như kinh doanh thương mại, lao động, xây dựng,…
b. Khái niệm “bảo hiểm”
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, loài người luôn phải
đối mặt với rất nhiều rủi ro như thiên tai, địch họa, tai nạn, bệnh tật,… và cao hơn
nữa là những biến động về kinh tế, chính trị, xã hội,… gây xáo trộn cuộc sống, thậm
chí đe doạ tới tính mạng và của cải của mình. Chính vì vậy, con người luôn luôn tìm
cách để bảo vệ mình khỏi những tác động không mong muốn đó, cũng như dự trữ
tài chính để bù đắp cho những thiệt hại có thể xảy ra nhằm nhanh chóng ổn định
cuộc sống và công việc.
Ngay từ xa xưa, con người đã dự trữ lương thực để đề phòng những trường
hợp khẩn cấp như mất mùa, hạn hán lập các quỹ dự trữ chung cho cộng đồng để đề
phòng những thảm họa, hoặc những tổn thất lớn liên tiếp ngoài sự chống đỡ của
mỗi cá nhân, mỗi gia đình. Đời sống kinh tế, xã hội của loài người càng phát triển,
các rủi ro tiềm ẩn mà loài người có thể gặp phải càng phức tạp, khó lường và vì thế
mà nhu cầu được bảo vệ, được an toàn của con người ngày càng cao. Ngành bảo
hiểm ra đời chính là để đáp ứng nhu cầu đó của con người.
6
Trên thực tế, hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về bảo hiểm.
Dưới góc độ tài chính, “bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính nhằm
phân phối lại những chi phí mất mát không mong đợi” [19, tr.9].
Dưới góc độ pháp lý, “bảo hiểm là một nghiệp vụ, qua đó, một bên là người
được bảo hiểm chấp nhận trả một khoản tiền (phí bảo hiểm hay đóng góp bảo hiểm)
cho chính mình hoặc cho một người thứ ba khác để trong trường hợp rủi ro xảy ra,
sẽ được trả một khoản tiền bồi thường từ một bên khác là người được bảo hiểm,
người chịu trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền bù những thiệt hại” [19, tr.10].
Tuy nhiên, khái niệm có nội dung đầy đủ và logic nhất đó là: “bảo hiểm là
phương pháp chuyển giao rủi ro được thực hiện qua hợp đồng bảo hiểm, trong đó
bên mua bảo hiểm chấp nhận trả phí bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm cam kết
bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm” [25, tr.16].
Như vậy, thực chất của hoạt động bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng
sản phẩm xã hội giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát
sinh khi sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm.
c. Khái niệm “hợp đồng bảo hiểm”
Theo quy định tại Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ
sung năm 2010), “hợp đồng bảo hiểm” được định nghĩa như sau:
“Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh
nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp
bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người
được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”[26].
Như vậy có thể hiểu hợp đồng bảo hiểm là việc tổ chức bảo hiểm cam kết bảo
đảm bồi thường một số tiền nhất định cho cá nhân, tổ chức khi sự kiện bảo hiểm xảy ra
và có gây thiệt hại cho đối tượng được bảo hiểm trong một thời gian nhất định, còn bên
mua bảo hiểm phải đóng một khoản tiền nhất định gọi là phí bảo hiểm.
d. Khái niệm “trách nhiệm dân sự”
Theo quy định của pháp luật, bên có nghĩa vụ phải làm một công việc hoặc
không được làm một công việc vì lợi ích của bên có quyền. Trường hợp bên có
nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa
7
vụ của mình sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Bên có nghĩa vụ
không có nghĩa vụ chịu trách nhiệm dân sự nếu việc không thực hiện, thực hiện
không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ đó hoàn toàn phát sinh bởi lỗi của bên có
quyền. Bên không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ dân sự chịu trách nhiệm dân sự khi việc không thực hiện, thực hiện không
đúng hoặc thực hiện không đầy đủ đó phát sinh do lỗi cố ý hoặc vô ý của bên đó trừ
trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc theo quy định của pháp luật.
Trách nhiệm dân sự nói chung được hiểu là sự quy định của pháp luật dân sự
về hậu quả pháp lý được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng buộc người có
hành vi vi phạm quy tắc xử sự phải gánh những hậu quả pháp lý nhất định nhằm
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bên có quyền dân sự bị xâm phạm [30, tr.152].
Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm bồi thường của một cá nhân, tổ chức gây
thiệt hại đến tài sản, sức khoẻ,... của chủ thể khác mà hành vi đó chưa phải là tội
phạm theo quy định tại Bộ luật hình sự.
Trách nhiệm dân sự thường được hiểu là một loại trách nhiệm pháp lý. Trách
nhiệm pháp lý được cho là việc một chủ thể phải gánh chịu những hậu quả bất lợi
theo quy định của pháp luật do có hành vi vi phạm pháp luật. Trách nhiệm dân sự
không phải là một sự trừng phạt mà là một biện pháp buộc người có hành vi vi
phạm pháp luật vào nghĩa vụ bồi thường cho người bị tổn hại do hành vi đó gây ra.
Trong lĩnh vực bảo hiểm, trách nhiệm dân sự được hiểu là nghĩa vụ dân sự
của bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm mà từ đó nghĩa vụ dân sự phát
sinh.
đ. Khái niệm “chủ xe cơ giới”
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, xe cơ giới bao gồm ô tô, rơ moóc
hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi ô tô và các loại xe tương tự.
Chủ xe cơ giới có thể là người chủ sở hữu hợp pháp của xe cơ giới hoặc bên
bất kỳ nào đó được chủ sở hữu xe cơ giới giao quyền chiếm hữu, sử dụng hoặc điều
khiển xe cơ giới. Chủ xe cơ giới có thể là tổ chức hoặc cá nhân.
8
e. Khái niệm “hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới”
Từ những phân tích trên, có thể hiểu rằng:
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới chính là sự thoả
thuận bằng văn bản giữa bên bảo hiểm, hay còn gọi là doanh nghiệp bảo hiểm với
bên tham gia bảo hiểm, hay còn gọi là chủ xe cơ giới. Theo đó, doanh nghiệp bảo
hiểm cam kết sẽ thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với người thứ ba
thay cho bên được bảo hiểm nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời hạn có hiệu lực
của hợp đồng, còn bên tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm đầy đủ và
đúng hạn theo như thỏa thuận giữa các bên.
1.1.1.2. Bản chất của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Khoản 1 Điều 8 Văn bản hợp nhất 25/VBHN-BTC năm 2014 hợp nhất Nghị
định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do Bộ Tài chính
ban hành ngày 27/6/2014 quy định:
“Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
(sau đây gọi là Giấy chứng nhận bảo hiểm) là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự giữa chủ xe cơ giới với doanh nghiệp bảo hiểm”[9].
Khoản 3 Điều 6 Văn bản này cũng quy định:
“Ngoài việc tham gia hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự, chủ
xe cơ giới có thể thỏa thuận với doanh nghiệp bảo hiểm để tham gia hợp đồng bảo
hiểm tự nguyện”[9].
Như vậy, có thể hiểu rằng, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới chính là giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
do doanh nghiệp bảo hiểm cấp cho chủ xe cơ giới. Theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm
cam kết bồi thường phần trách nhiệm dân sự của người bảo hiểm theo cách thức và
hạn mức đã được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng với điều kiện người tham gia
bảo hiểm phải đóng một khoản phí tương ứng. Mục đích của người tham gia chính
là chuyển giao phần trách nhiệm dân sự của mình, và ở đây chủ yếu là trách nhiệm
bồi thường.
9
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là một loại hợp
đồng bảo hiểm, do đó nó cũng mang những đặc điểm chung của một hợp đồng bảo
hiểm. Cụ thể:
Thứ nhất, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới mang
tính đồng thuận. Hợp đồng bảo hiểm được thiết lập dựa trên sự chấp thuận của cả
đôi bên trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tự do giao kết trong khuôn khổ pháp
luật và đạo đức xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế nội dung hợp đồng chủ yếu đều do
doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo sau khi đã được cơ quan quản lý xét duyệt. Dựa
trên nhu cầu của mình, người tham gia bảo hiểm sẽ tự do lựa chọn có giao kết hợp
đồng hay không.
Thứ hai, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là hợp
đồng song vụ. Điều này có nghĩa là, các bên ký kết đều có quyền và nghĩa vụ với
nhau. Quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Nghĩa vụ của bên
tham gia bảo hiểm là nộp phí bảo hiểm, là đề phòng và hạn chế tổn thất, yêu cầu
bên bảo hiểm trả tiền bảo hiểm theo thoả thuận hoặc do pháp luật quy định,…
Nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm là thực hiện trách nhiệm bồi thường (hoặc chi
trả bảo hiểm) khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng
đều quy định rõ và thể hiện ở các điều khoản bảo hiểm. Bên tham gia bảo hiểm sau
khi xem xét thấy phù hợp với nhu cầu của mình thì ký kết và ngược lại.
Thứ ba, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới có tính
chất may rủi. Trong thời hạn hợp đồng có hiệu lực, nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra,
bên tham gia bảo hiểm sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hoặc chi trả. Trái
lại, mặc dù đã nộp phí bảo hiểm, nếu không xảy ra sự kiện bảo hiểm, người mua
bảo hiểm sẽ không nhận được bất cứ một khoản chi hoàn trả nào từ phía doanh
nghiệp bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro từ phía người tham gia
bảo hiểm chuyển giao cho họ, đổi lại doanh nghiệp nhận được phí bảo hiểm. Nhưng
rủi ro này mới tồn tại ở trạng thái tương lai, có thể xảy ra và cũng có thể không xảy
ra. Vì thế không xác định được hiệu quả của hợp đồng bảo hiểm khi ký kết hợp
đồng và người ta thường quan niệm là loại hợp đồng may rủi.
10
Thứ tư, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới có tính
chất tin tưởng tuyệt đối. Mối quan hệ giữa bên mua bảo hiểm và người bảo hiểm
được thiết lập trong tình trạng tạo ra rủi ro cho nhau. Do đó, để tồn tại và có thể
thực hiện thì hai bên phải có sự tin tưởng lẫn nhau.
Thứ năm, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là hợp
đồng có bồi thường. Mối quan hệ quyền và nghĩa vụ giữa hai bên – doanh nghiệp
bảo hiểm và người mua bảo hiểm thể hiện ở mối quan hệ tiền tệ. Tức là, người tham
gia bảo hiểm phải trả tiền bằng cách nộp phí bảo hiểm mới được đảm bảo có quyền
lợi kinh tế từ doanh nghiệp bảo hiểm. Còn doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả
tiền bảo hiểm/bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Tuy nhiên, dù hợp đồng
đã được ký kết, nhưng người tham gia bảo hiểm chưa nộp phí, thì hợp đồng vẫn
chưa có hiệu lực và người tham gia chưa thể đòi hưởng quyền lợi của mình.
Thứ sáu, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới có tính
chất gia nhập. Hợp đồng bảo hiểm là một hợp đồng theo mẫu. Quy tắc bảo hiểm
(nội dung chính của Hợp đồng) do doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo trước, bên mua
bảo hiểm sau khi tìm hiểu, nếu họ thấy phù hợp với nhu cầu của mình thì hai bên sẽ
tiến hành ký kết hợp đồng.
Ngoài những đặc điểm trên, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới còn mang những đặc điểm riêng biệt:
Thứ nhất, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới chỉ giới
hạn trong phạm vi trách nhiệm bồi thường về mặt kinh tế, không chịu các trách
nhiệm khác của người tham gia bảo hiểm trước pháp luật như: trách nhiệm hành
chính, trách nhiệm hình sự.
Phạm vi bảo hiểm là thiệt hại mà bên mua bảo hiểm đã gây ra cho người thứ
ba và trong giới hạn bảo hiểm đã được các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới chính là để bảo hiểm cho
những khoản chi phí cần thiết để khắc phục hậu quả của tai nạn, rủi ro cho bên thứ
ba bị thiệt hại. Mặc dù việc bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm không phải là
những thiệt hại trực tiếp về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người được bảo hiểm
mà là những thiệt hại về tài chính của người được bảo hiểm đối với người thứ ba
11
căn cứ vào những tổn thất về tài sản, sức khỏe, tính mạng mà họ đã gây ra cho bên
thứ ba. Doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường trên cơ sở quy định của pháp luật hoặc
quy định trong hợp đồng đối với số tiền tối đa bằng với thiệt hại của người thứ ba.
Thứ hai, đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới là trách nhiệm về bồi thường thiệt hại, là loại bảo hiểm không thể xác định
được giá trị đối tượng bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng. Điều 52 Luật kinh
doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) quy định:
“Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm dân
sự của người tham gia bảo hiểm đối với bên thứ ba theo quy định của pháp
luật”[26].
Không giống như hợp đồng bảo hiểm tài sản với đối tượng bảo hiểm là một
loại tài sản cụ thể hay hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là bảo hiểm cho một con người
cụ thể, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự có đối tượng là trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của người tham gia bảo hiểm đối với bên thứ ba. Đó là thiệt hại có
thể xảy ra trong tương lai, trong phạm vi giới hạn bảo hiểm và thuộc trách nhiệm
bồi thường của bên tham gia bảo hiểm. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại mang tính
trừu tượng chúng ta không nhìn thấy, không cảm nhận được bằng các giác quan và
thực tế chúng không tồn tại hiện hữu trong không gian tại thời điểm giao kết hợp
đồng. Chỉ khi nào người tham gia bảo hiểm gây thiệt hại cho người khác và phải bồi
thường thì mới xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt hại là bao nhiêu.
Thứ ba, trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, yếu
tố lỗi có vai trò rất quan trọng.
Lỗi của người tham gia bảo hiểm khi thực hiện hành vi gây thiệt hại cho
người thứ ba chính là cơ sở để phát sinh trách nhiệm dân sự của người tham gia bảo
hiểm đối với người thứ ba và do đó cũng làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của
bên bảo hiểm đối với người thứ ba.
Theo cách hiểu thông thường thì lỗi là những sai sót trong xử sự, về bản chất
lỗi được các ngành luật quy định giống nhau – đó là quan hệ giữa chủ thể thực hiện
hành vi trái pháp luật với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định những yêu cầu
của xã hội đã được thể hiện thông qua các quy định của pháp luật: khi một người có
đủ nhận thức và điều kiện để lựa chọn cách xử sự sao cho xử sự đó phù hợp với
12
pháp luật, tránh gây thiệt hại cho người khác nhưng vẫn thực hiện hành vi gây thiệt
hại thì người đó bị coi là có lỗi. Như vậy, lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi
gây thiệt hại phản ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành
vi mà họ đã thực hiện. Điều 364 Bộ Luật dân sự năm 2015 chia lỗi làm hai loại và
lỗi cố ý và lỗi vô ý. Cụ thể:
Việc phân biệt lỗi làm lỗi cố ý và lỗi vô ý nhằm mục đích xác định nghĩa vụ
bồi thường của bên gây ra thiệt hại, nghĩa vụ bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm,
đồng thời cũng là để xác định chủ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Thứ tư, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới bao giờ
cũng có mối liên quan đến chủ thể thứ ba. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phải thực
hiện nghĩa vụ bảo hiểm khi có yêu cầu bồi thường của người thứ ba.
Quan hệ giữa người bảo hiểm, người được bảo hiểm là quan hệ hợp đồng mà
ở đó người bảo hiểm phải bồi thường thay cho người được bảo hiểm khi trách
nhiệm dân sự của họ phát sinh đó chính là trách nhiệm bồi thường khi gây thiệt hại
cho người thứ ba. Giữa người thứ ba và người bảo hiểm không có mối quan hệ hợp
đồng mà họ là bên có quyền đối với người được bảo hiểm.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000
(sửa đổi, bổ sung năm 2010):
“Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường khi người
được bảo hiểm nhận được yêu cầu phải bồi thường của người bị thiệt hại”[26].
Doanh nghiệp bảo hiểm không phải chịu trách nhiệm đối với bên mua bảo
hiểm nếu bên thứ ba bị thiệt hại không có yêu cầu bồi thường và bên mua bảo hiểm
không có nghĩa vụ trả tiền bồi thường cho dù trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã
phát sinh. Khi xảy ra rủi ro về trách nhiệm, người gây thiệt hại phải chịu trách
nhiệm dân sự trước pháp luật, nhưng doanh nghiệp bảo hiểm không có trách nhiệm
trực tiếp với người bị thiệt hại. Có thể hiểu rằng, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới chỉ ràng buộc doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo
hiểm.
13
Nếu pháp luật không có quy định khác thì người thứ ba chỉ có quyền đòi bồi
thường đối với người tham gia bảo hiểm, trên cơ sở đó doanh nghiệp bảo hiểm trả
tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm và trách nhiệm bồi thường cho người
thứ ba thuộc về người tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và người tham
gia bảo hiểm có thể thoả thuận về việc doanh nghiệp bảo hiểm sẽ bồi thường trực
tiếp cho người thứ ba bị thiệt hại. Trong một số trường hợp đặc biệt, để đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại; khắc phục kịp thời thiệt hại vật
chất góp phần bình ổn tài chính đối với người bị thiệt hại, pháp luật quy định người
thứ ba có thể trực tiếp khiếu nại đến doanh nghiệp bảo hiểm để yêu cầu bồi thường.
Thứ năm, tùy từng loại hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới có tính chất bắt buộc hoặc không.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới bao gồm hai loại
hợp đồng khác nhau đó là hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới và hợp đồng bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Việc tham gia vào hợp đồng bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
có tính chất bắt buộc. Mọi chủ xe cơ giới tham gia giao thông trên lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới theo quy định của pháp luật Việt Nam dù chủ sở hữu xe
cơ giới đó là cá nhân hay tổ chức, kể cả là người quốc tịch Việt Nam hay nước
ngoài đều phải tham gia. Việc chủ xe cơ giới phải có loại bảo hiểm này là để đảm
bảo quyền lợi cho bên thứ ba (người bị va chạm với xe) được hỗ trợ và người tham
gia lái xe phải có trách nhiệm khi gây ra thiệt hại.
Ngoài loại bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, chủ xe
cơ giới có thể thỏa thuận với doanh nghiệp bảo hiểm để tham gia hợp đồng bảo
hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự. Từ đó, chủ xe cơ giới sẽ được chia sẻ gánh
nặng rủi ro về tài chính; khắc phục kịp thời thiệt hại về vật chất của bên thứ ba bị
thiệt hại; góp phần bình ổn đời sống vật chất của các chủ thể trong xã hội.
14
Thứ sáu, tùy từng loại hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới có tính chất bắt buộc hoặc không.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới bao gồm hợp
đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự và hợp đồng bảo hiểm tự nguyện trách
nhiệm dân sự.
Việc tham gia vào hợp đồng bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
có tính chất bắt buộc. Mọi chủ xe cơ giới tham gia giao thông trên lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới theo quy định của pháp luật Việt Nam dù chủ sở hữu xe
cơ giới đó là cá nhân hay tổ chức, kể cả là người quốc tịch Việt Nam hay nước
ngoài đều phải tham gia. Việc chủ xe cơ giới phải có loại bảo hiểm này là để đảm
bảo quyền lợi cho bên thứ ba (người bị va chạm với xe) được hỗ trợ và người tham
gia lái xe phải có trách nhiệm khi gây ra thiệt hại.
Ngoài loại bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, chủ xe
cơ giới có thể thỏa thuận với doanh nghiệp bảo hiểm để tham gia hợp đồng bảo
hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự. Từ đó, chủ xe cơ giới sẽ được chia sẻ gánh
nặng rủi ro về tài chính; khắc phục kịp thời thiệt hại về vật chất của bên thứ ba bị
thiệt hại; góp phần bình ổn đời sống vật chất của các chủ thể trong xã hội.
1.1.3. Ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Tai nạn giao thông luôn là một tồn tại khách quan, ta chỉ có thể hạn chế và
giảm bớt chứ không thể ngăn không xảy ra được. Chính vì vậy, bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới luôn là một nghiệp vụ cần thiết và ích lợi cho xã
hội. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các phương tiện tham gia giao thông
ngày càng nhiều trong khi hệ thống đường xá của Việt Nam không đáp ứng được
tiêu chuẩn an toàn kĩ thuật, khoa học, cũng như nhu cầu xã hội; ý thức chấp hành
luật lệ giao thông của người dân còn kém. Do vậy không tránh khỏi sự gia tăng
không ngừng các vụ tai nạn giao thông, kéo theo các vụ kiện đòi bồi thường của nạn
nhân hoặc gia đình họ đối với người gây thiệt hại. Có tai nạn, có kiện đòi bồi
thường, rồi xác định được mức bồi thường thì vấn đề đặt ra lại là thực tế việc bồi
thường được tiến hành như thế nào? Một vấn đề kéo theo là xã hội còn phải đối mặt
15
với tình trạng bồi thường cho nạn nhân trong các vụ tai nạn giao thông. Có rất nhiều
trường hợp nạn nhân không nhận được tiền bồi thường từ những người gây ra tai
nạn, thậm chí trong những trường hợp người gây ra tai nạn được xác định rõ ràng.
Lý do rất đơn giản là người gây ra tai nạn không có đủ nguồn tài chính tối thiểu để
thực hiện nghĩa vụ luật định đối với nạn nhân.
Trên thực tế, không phải trường hợp nào người không may bị tai nạn cũng được
đền bù, bồi thường nhanh chóng đúng như theo luật định, và người gây tai nạn không
phải lúc nào cũng sẵn sàng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm tài chính của
mình đối với những thiệt hại của người bị nạn do mình gây ra khi điều kiện tài chính
không đủ để đáp ứng. Tuy nhiên nếu chủ chiếc xe đó đã tham gia mua bảo hiểm bắt
buộc hoặc ký kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự thì mọi việc sẽ được giải
quyết thuận lợi hơn cho cả đôi bên. Doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thay mặt chủ xe đền bù
cho nạn nhân nếu được yêu cầu hoặc trong trường hợp chủ xe đã đền bù cho nạn nhân
thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả lại số tiền đã bồi thường cho chủ xe, đảm bảo khả
năng tài chính của họ. Vì vậy, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới là một chế định có nhiều ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới giúp
giảm thiệt hại cho chủ phương tiện nếu không may rủi ro xảy ra khi tham gia giao
thông. Tất nhiên, không một ai mong muốn xảy ra tai nạn, nhưng rủi ro lại không
tránh né bất kỳ ai, bởi nếu mọi người đi cẩn thận không để xảy ra tai nạn thì rủi ro
có thể lại đến từ các phương tiện giao thông khác. Khi xảy ra tai nạn, thường sẽ có
thiệt hại cho cả hai bên, chủ phương tiện sẽ được bảo hiểm đứng ra bồi thường cho
người thứ ba nếu chủ phương tiện sai hoặc sẽ đứng ra đòi quyền lợi chủ phương tiện
nếu người thứ ba sai. Việc làm này giúp giảm thiệt hại cho chủ phương tiện cơ giới
sau khi xảy ra rủi ro. Thiệt hại xảy ra có thể là rất lớn, nó vượt quá khả năng tài
chính của người có trách nhiệm, đồng thời ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của
người có trách nhiệm bồi thường và người bị thiệt hại. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
là một cơ chế chắc chắn để khắc phục điều đó. Nhiều khi người gây thiệt hại không
đủ khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ bồi thường, nên đối với người gây ra
16
thiệt hại bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ chế đảm bảo trách nhiệm bồi
thường của họ khi họ gây ra thiệt hại cho người khác
Thứ hai, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn đảm
bảo quyền được bồi thường của bên bị thiệt hại trong mọi trường hợp. Khi tai nạn
xảy ra, rất nhiều trường hợp chủ phương tiện gây ra tai nạn bị tử vong không còn
khả năng chi trả hoặc bỏ trốn. Trong khi đó những người bị nạn vẫn còn sống và rất
cần có các chế độ đền bù thỏa đáng khi không có một tổ chức nào có kinh phí, chế
độ giải quyết các trường hợp này. Đồng thời, tạo cho người bị thiệt hại một tâm lý
yên tâm khi những thiệt hại của họ được một doanh nghiệp bảo hiểm đứng ra bồi
thường thay cho người tham gia bảo hiểm.
Thứ ba, hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới góp phần
không nhỏ vào việc tăng thu ngân sách Nhà nước, chia sẻ rủi ro và bình ổn xã hội.
Nguồn thu từ các công ty bảo hiểm là một nguồn thu làm tăng Ngân sách Nhà nước.
Từ đó Nhà nước có kinh phí cho việc đầu tư, nâng cấp, xây dựng các cơ sở hạ tầng,
công trình công cộng nâng cao mức sống dân cư. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự ra
đời đóng vai trò chia sẻ gánh nặng rủi ro về tài chính cho người có hành vi gây thiệt
hại; khắc phục kịp thời thiệt hại về vật chất của bên thứ ba bị thiệt hại; góp phần
bình ổn đời sống vật chất của các chủ thể trong xã hội.
Thứ tư, nghiệp vụ này góp phần không nhỏ trong việc các công ty bảo hiểm
tái đầu tư một phần lợi nhuận vào việc đề phòng hạn chế tổn thất. Các công ty bảo
hiểm lớn đầu tư hàng tỷ đồng cho việc xây dựng các đường lánh nạn, đường phụ,
hốc cứu nạn tại các đèo dốc và nguy hiểm như: đèo Cả, đèo Cù Mông, đèo Hải
Vân,… hay tuyên truyền, khuyến khích các chủ phương tiện tự giác thực hiện các
biện pháp hạn chế, đề phòng tổn thất hoặc giảm phí bảo hiểm cho các phương tiện
sau một thời gian không gặp sự cố nào. Các biện pháp trên trước mắt giúp các công
ty bảo hiểm giảm bớt rủi ro trong kinh doanh bảo hiểm và tăng thu nhập, nhưng
cũng góp phần quan trọng làm giảm thiểu tai nạn giao thông, hạn chế tổn thất góp
phần ổn định đời sống xã hội.
17
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới
1.2.1. Đối với hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Các quy định chung được áp dụng đối với tất cả các loại hình bảo hiểm trong
đó có bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được quy định trong
Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010), Nghị định số
73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm, Thông tư số 50/2017/TT-
BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh
doanh bảo hiểm. Đây là những quy định chung nhất, là cơ sở pháp lý cho hoạt động
kinh doanh bảo hiểm nói chung. Các tổ chức cá nhân tham gia giao kết hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới trước tiên phải tuân theo các quy
định điều chỉnh chung này, bao gồm các quy định về doanh nghiệp bảo hiểm, hợp
đồng bảo hiểm, về hạch toán doanh thu, đại lý, hoa hồng bảo hiểm…, bao gồm các
quy định sau:
Nghị định số 103/2008/NĐ-CP về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới ngày do Chính phủ ban hành ngày 16/09/2008.
Thông tư số 103/2009/TT-BTC Quy định việc quản lý, sử dụng, thanh toán
và quyết toán quỹ bảo hiểm xe cơ giới do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành ngày
25/05/2009.
Thông tư liên tịch số 35/2009/TTLT/BTC-BCA Hướng dẫn thực hiện một số
điều của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 9 năm 2008 về bảo hiểm bắt
buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày 25/02/2009 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính và Bộ trưởng Bộ Công an.
Các quy định riêng áp dụng trong chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự trong
đó áp dụng đối với bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là các
quy định áp dụng chung cho tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự trong
đó có bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Các quy định này
18
được quy định tại mục 4 (từ Điều 52 đến Điều 57) Luật Kinh doanh bảo hiểm năm
2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010).
Các quy định đặc thù của bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới trong hợp đồng bảo hiểm: được quy định trong văn bản do Chính phủ ban
hành và văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính: Nghị định 103/2008/NĐ-CP ngày
16/9/2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới; Nghị định số 214/2013/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 9 năm 2008 của chính phủ về bảo
hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày 20/12/2013; Thông tư số
151/2012/TT-BTC về sửa đổi, bổ sung Thông tư số 126/2008/TT-BTC ngày
22/12/2008 của Bộ Tài chính quy định quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách
nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và Thông tư số
103/2009/TT-BTC ngày 25/5/2009 của bộ tài chính quy định việc quản lý, sử dụng,
thanh toán và quyết toán quỹ bảo hiểm xe cơ giới ngày 12/09/2012; Thông tư
35/2009/TTLT-BTC-BCA ngày 25/02/2009 của liên bộ tài chính, Bộ Công an
hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày
16/9/2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới; Thông tư số 43/2014/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số
126/2008/TT-BTC ngày 22/12/2008 của Bộ tài chính quy định quy tắc, điều khoản,
biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới, Thông tư số 103/2009/TT-BTC ngày 25/5/2009 của Bộ Tài chính quy định
việc quản lý, sử dụng, thanh toán và quyết toán quỹ bảo hiểm xe cơ giới và Nghị
định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm, Thông tư số
50/2017/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi
tiết thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Kinh doanh bảo hiểm. Văn bản hợp nhất số 25/VBHN-BTC của Bộ tài chính
về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày 27/06/2014;
Thông tư số 22/2016/TT-BTC của Bộ tài chính quy định quy tắc, điều khoản, biểu
phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
ngày 16/02/2016; Văn bản hợp nhất số 37/VBHN-BTC của Bộ tài chính quy định
19
quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới ngày 29/07/2014.
1.2.2. Đối với hợp đồng bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 6 Nghị định 103/2008/NĐ-CP và Văn bản
hợp nhất số 25/VBHN-BTC của Bộ tài chính về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân
sự của chủ xe cơ giới ngày 27/06/2014: “Ngoài việc tham gia hợp đồng bảo hiểm
bắt buộc trách nhiệm dân sự, chủ xe cơ giới có thể thỏa thuận với doanh nghiệp
bảo hiểm để tham gia hợp đồng bảo hiểm tự nguyện”[16].
Bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là bảo hiểm trách
nhiệm dân sự mà việc tham gia bảo hiểm hay không tùy thuộc vào ý chí của mỗi
khách hàng.
Trong trường hợp khách hàng tham gia bảo hiểm theo nhiều hợp đồng bảo
hiểm thì việc chi trả bồi thường sẽ áp dụng theo những quy định trên và quy định
bảo hiểm chung theo nhiều hợp đồng bảo hiểm. Khi đó việc phân chia số tiền bồi
thường thiệt hại trên mỗi hợp đồng bảo hiểm sẽ được tính dựa theo tỷ lệ số tiền bảo
hiểm trên mỗi hợp đồng với tổng số tiền bảo hiểm xe ô tô trên tất cả các hợp đồng
bảo hiểm khác
Bên cạnh đó, hợp đồng bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới còn áp dụng theo quy tắc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đã
được ban hành theo Văn bản hợp nhất số 37/VBHN-BTC của Bộ tài chính quy định
quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới ngày 29/07/2014 và Thông tư số 22/2016/TT-BTC của
Bộ tài chính quy định quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm
bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày 16/02/2016. Ngoài ra, mẫu
giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện của chủ xe mô tô – xe máy và ô tô được quy
định tại Phụ lục 5.1, 5.2 ban hành kèm theo Thông tư số 151/2012/TT-BTC ngày 12
tháng 09 năm 2012 của Bộ Tài chính và Văn bản hợp nhất số 37/VBHN-BTC của
Bộ tài chính quy định quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm
bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày 29/07/2014 tại khoản 1.3 Điều
1 Chương II.
20
Ngoài ra, việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
tự nguyện của chủ xe cơ giới cũng cần đảm bảo các nguyên tắc chung, cơ bản của
hợp đồng bảo hiểm nói chung, được điều chỉnh tại: Luật Kinh doanh bảo hiểm năm
2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2010), Nghị định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết
thi hành Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
Kinh doanh bảo hiểm.
21
Tiểu kết chương 1
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới cho thấy, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
xuất phát từ nhu cầu bảo vệ của con người. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ
chế bảo đảm phòng ngừa, hạn chế và khắc phục kịp thời những tổn thất do bên mua
bảo hiểm gây ra cho bên thứ ba. Với ý nghĩa đó, dù không khắc phục được hoàn toàn
tổn thất xảy ra, song bảo hiểm trách nhiệm dân sự góp phần bình ổn tài chính cho cả
bên được bảo hiểm và bên thứ ba khi người tham gia bảo hiểm gây ra thiệt hại.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới khác vừa có
những đặc điểm chung của một hợp đồng bảo hiểm, đồng thời cũng có những đặc
điểm khác biệt với các loại hình hợp đồng bảo hiểm khác ở điểm hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới không bảo hiểm cho tính mạng, thân
thể, tài sản của chính đối tượng mua bảo hiểm, mà bảo hiểm cho những trách nhiệm
mà họ phải gánh chịu với bên thứ ba do quá trình điều khiển xe cơ giới gây ra. Hợp
đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới có vai trò rất quan trọng,
không những là để bồi thường cho các tổn thất mà còn góp phần khắc phục hậu quả
do các vụ tai nạn giao thông mang lại.
Mặt khác, trong chương 1, tác giả luận văn cũng chú ý đến việc khái quát sự
phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam, đồng thời chỉ ra nguồn luật điều chỉnh
về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Nghiên cứu này sẽ hỗ trợ
một phần nhỏ cho các nhà hoạch định chính sách, pháp luật có cái nhìn toàn diện và
bao quát hơn về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
22
Chương 2
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH
NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
2.1. Khái quát sự phát triển của các quy định pháp luật Việt Nam về hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Quy định pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới ra đời khá muộn so với sự phát triển chung của các quy định pháp
luật thế giới về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do nhiều điều kiện
chủ quan cũng như khách quan. Tuy nhiên, hiện nay, các quy định pháp luật đã kịp
thời điều chỉnh để phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội Việt Nam và quốc
tế và ngày càng chứng tỏ vai trò không thể thiếu được của mình đối với nền kinh tế.
Chúng ta có thể nhận thấy điều này khi theo dõi sự phát triển của pháp luật Việt
Nam từ những ngày đầu đến nay.
Hoạt động bảo hiểm ở nước ta ít nhiều cũng đã có những bước phát triển
ngay từ thời thực dân Pháp. Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh được trôi chảy,
cạnh tranh lành mạnh, các văn bản pháp luật điều chỉnh như Luật bảo hiểm cũng
sớm ra đời.
Ngày 18/12/1993, Nghị định số 100 - CP về hoạt động kinh doanh bảo hiểm
đã được Chính phủ ban hành, mở ra bước phát triển mới cho ngành bảo hiểm Việt
Nam. Nó phá vỡ thế độc quyền đang tồn tại, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ
chức bảo hiểm với nhiều hình thức khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế.
Chế độ bảo hiểm bắt buộc đối với chủ xe cơ giới được quy định tại Nghị
định số 30/1988/NĐ-HĐBT ngày 10/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng. Sau gần 10
năm thực hiện, Nghị định này được thay thế bởi Nghị định số 115/1997/NĐ-CP
ngày 17/12/1997 của Chính phủ (Nghị định 115). Từ khi Nghị định số 115 có hiệu
lực, Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành chính sách bảo
hiểm bắt buộc đối với chủ xe cơ giới. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện các quy
23
định vẫn chưa triệt để. Những người tham gia giao thông bằng phương tiện cơ giới
chưa quan tâm đến việc mua bảo hiểm bắt buộc.
Để giảm tải và khắc phục hậu quả tai nạn giao thông, Bộ tài chính đã ban
hành Quyết định số 23/2007/QĐ-BTC ngày 9/4/2007 (Quyết định 23/2007) thay thế
Quyết định số 23/2003/QĐ-BTC ngày 25/2/2003 (Quyết định số 23/2003) về việc
ban hành chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Quyết định số 23/2007 đã quy định rõ: Các doanh nghiệp có trách nhiệm
trích tối thiểu 2% doanh thu phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự thực thu
hàng năm, đóng góp vào quỹ tuyên truyền và bảo đảm an toàn giao thông đường bộ
do Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam quản lý và sử dụng, Quyết định mới cũng thay đổi
các trường hợp loại trừ bảo hiểm theo hướng mở rộng phạm vi bảo hiểm. Khác với
quy định trước đây, Quy tắc bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới
ban hành kèm theo Quyết định số 23/2007 không đưa vào phần loại trừ bảo hiểm
bốn trường hợp tai nạn xảy ra khi: Xe không có giấy chứng nhận kiểm định an toàn
kỹ thuật và môi trường; Lái xe có nồng độ cồn vượt quá quy định của pháp luật hiện
hành; Xe sử dụng để đua thể thao, đua xe trái phép, chạy thử sau khi sửa chữa; Xe
đi vào đường cấm. Nhiều ý kiến cho rằng điểm mới này không có tác dụng kiềm
chế tai nạn giao thông. Trong quy tắc bảo hiểm ban hành theo Quyết định số
23/2003, trường hợp chủ xe tham gia nhiều hợp đồng bảo hiểm cho cùng một xe cơ
giới thì khi xảy ra tai nạn, số tiền bồi thường đối với cả thiệt hại về người và thiệt
hại về tài sản chỉ được tính trên 1 hợp đồng bảo hiểm. Nhưng theo Quyết định số
23/2007, trong trường hợp này số tiền bồi thường đối với thiệt hại về người tối đa sẽ
là tổng mức trách nhiệm bồi thường thiệt hại về người của các hợp đồng bảo hiểm,
không vượt quá số tiền thực tế mà chủ xe phải bồi thường cho các nạn nhân và được
chia đều cho các hợp đồng bảo hiểm. Quy định này hạn chế sự bất hợp lý của quy
tắc bảo hiểm cũ và chủ xe được hưởng sự bảo đảm lớn hơn, công bằng hơn. Còn
quy tắc bảo hiểm cũ quy định mức trách nhiệm bảo hiểm tối thiểu đối với thiệt hại
về người cho cả xe mô tô và xe ô tô là 30 triệu/1người/vụ. Nhưng trên thực tế nhiều
trường hợp chủ xe phải bồi thường cho nạn nhân đối với thiệt hại về người lớn hơn
24
mức trách nhiệm tối thiểu đó, nên quy tắc bảo hiểm theo Quyết định số 23/2007 đã
nâng mức trách nhiệm bảo hiểm tối thiểu đối với xe ô tô thành 50 triệu/người/vụ và
50 triệu/tài sản/vụ.
Những quy định mới của Quyết định số 23/2007 đã phù hợp hơn với yêu cầu
thực tế. Tuy nhiên, từ khi Quyết định số 23/2007 có hiệu lực thi hành đến trước năm
2008, việc thực hiện bảo hiểm trách nhiệm dân sự của các chủ xe cơ giới vẫn ở mức
thấp.
Từ năm 2008, chế độ bảo hiểm bắt buộc dân sự của chủ xe cơ giới được quy
định trong các văn bản sau: Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung
năm 2010); Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11, sau này là Bộ luật dân sự 2015; Luật
Giao thông đường bộ số 23/2008/QH12; Nghị định số 34/2010/NÐ-CP ngày
2/4/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ; Nghị định số 103/2008/NÐ-CP ngày 16-9-2008 của Chính phủ về
bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; Thông tư số
126/2008/TT-BTC ngày 22/12/2008 của Bộ Tài chính quy định Quy tắc, điều
khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới; Thông tư số 103/2009/TT-BTC ngày 25/5/2009 của Bộ Tài chính quy
định việc quản lý, sử dụng, thanh toán và quyết toán Quỹ bảo hiểm xe cơ giới;
Thông tư liên tịch số 35/2009/TTLT-BTC-BCA ngày 25/2/2009 của Bộ Tài chính -
Bộ Công an hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 103/2008/NÐ-CP,
chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được Chính phủ
quy định tại Nghị định số 103/2008/NĐ-CP và Nghị định số 214/2013/NĐ-CP sửa
đổi, bổ sung Nghị định số 103/2008/NĐ-CP. Sau 10 năm thực hiện, Nghị định số
103/2008/NĐ-CP, Nghị định số 214/2013/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thực
hiện đã tạo lập hành lang pháp lý đầy đủ, minh bạch và thống nhất về chế độ bảo
hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự trách nhiệm của chủ xe cơ giới, hỗ trợ nạn nhân
tai nạn giao thông khắc phục hậu quả, giúp cho nạn nhân và chủ xe, người điều
khiển xe nhanh chóng ổn định cuộc sống, sinh hoạt và hoạt động sản xuất kinh
doanh, góp phần thực hiện mục tiêu an sinh - xã hội của Đảng và Nhà nước.
25
2.2. Nội dung các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
2.2.1. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Cũng giống như với các loại hình hợp đồng bảo hiểm khác, chủ thể tham gia
hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới bao gồm: Doanh nghiệp
bảo hiểm, tức bên bán bảo hiểm và bên mua bảo hiểm (hay còn gọi là bên tham gia
bảo hiểm), tức chủ xe cơ giới.
Khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Văn bản hợp nhất 25/VBHN-BTC năm 2014 hợp
nhất Nghị định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do Bộ
Tài chính ban hành ngày 27/6/2014 quy định:
“Doanh nghiệp bảo hiểm” là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động
kinh doanh bảo hiểm hợp pháp tại Việt Nam và được phép triển khai bảo hiểm bắt
buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.[9]
“Chủ xe cơ giới” (tổ chức, cá nhân) là chủ sở hữu xe cơ giới hoặc được chủ
sở hữu xe cơ giới giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp, điều khiển xe cơ giới.[9]
Có thể hiểu rằng, doanh nghiệp bảo hiểm là bên đã nhận phí bảo hiểm của
người tham gia bảo hiểm và cam kết nhận rủi ro bảo hiểm về phía mình. Theo quy định
của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm phải là một tổ chức
có tư cách pháp nhân và được phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm – một ngành nghề
kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam. Điều 63 Luật Kinh
doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) đã nêu ra những điều kiện để
được cấp giấy phép thành lập và hoạt động của Doanh nghiệp bảo hiểm:
“Các điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động bao gồm:
1. Có số vốn điều lệ đã góp không thấp hơn mức vốn pháp định theo quy
định của Chính phủ;
2. Có hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định tại Điều
64 của Luật này;
3. Có loại hình doanh nghiệp và điều lệ phù hợp với quy định của Luật này
và các quy định khác của pháp luật;
26
4. Người quản trị, người điều hành có năng lực quản lý, chuyên môn, nghiệp
vụ về bảo hiểm
5. Tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp bảo hiểm,
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải có đủ năng lực tài chính và có bằng chứng để
chứng minh nguồn tài chính hợp pháp khi tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp
bảo hiểm”[26].
Bên mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là bên đã nộp cho
doanh nghiệp bảo hiểm một khoản tiền là phí bảo hiểm. Khác với doanh nghiệp bảo
hiểm, bên mua bảo hiểm là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khi có nhu cầu bảo hiểm về
một đối tượng bảo hiểm nhất định hoặc trong trường hợp pháp luật buộc phải tham
gia bảo hiểm về một trách nhiệm dân sự nhất định. Mọi chủ xe cơ giới tham gia
giao thông trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tham gia
bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo quy định của pháp luật Việt
Nam dù chủ sở hữu xe cơ giới đó là cá nhân hay tổ chức, kể cả là người quốc tịch Việt
Nam hay nước ngoài đều phải tham gia. Nếu bên tham gia hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là cá nhân thì phải có đủ năng lực hành vi dân sự. Như
vậy, bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới rất đa dạng, bao gồm: cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình,…
2.2.2. Hình thức của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Hình thức của hợp đồng là phương tiện để thể hiện và ghi nhận ý chí của những
chủ thể hợp đồng. Ý chí của chủ thể hợp đồng có thể hiểu là các thỏa thuận và những
thỏa thuận đó bao giờ cũng phải được thể hiện bằng hình thức nhất định, ví dụ như là lời
nói, cử chỉ, hành động hoặc bằng văn bản. Hình thức của hợp đồng đóng vai trò hết sức
quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia hợp đồng khi xảy ra
tranh chấp. Trường hợp pháp luật có quy định bắt buộc hợp đồng phải được giao kết
dưới một hình thức nhất định thì các chủ thể phải tuân theo quy định đó.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới về bản chất là một
hợp đồng bảo hiểm, do đó cũng tuân theo những quy định về hình thức của một hợp
đồng bảo hiểm nói chung. Điều 14 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi,
bổ sung năm 2010) quy định:
27
“Hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản”[26].
Nói chung, bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo
hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex, fax và các hình thức khác do pháp luật quy
định. Đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bằng
chứng giao kết hợp đồng giữa doanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe cơ giới đó là giấy
chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Tuy nhiên, doanh
nghiệp bảo hiểm chỉ cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm cho chủ xe cơ giới khi chủ xe
cơ giới đã đóng đủ phí bảo hiểm.
Việc tham gia hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới là bắt buộc theo quy định của pháp luật Việt Nam. Người tham gia bảo hiểm
thường phải chứng minh với người thứ ba rằng họ đã tham gia bảo hiểm và hợp
đồng đó đang có hiệu lực pháp luật. Nghĩa là họ luôn phải mang theo bên mình một
bằng chứng chứng minh hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực. Vì vậy, hình thức của
hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được thiết kế dưới dạng
giấy chứng nhận bảo hiểm. Mẫu Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới được quy định tại Phụ lục 3, Phụ lục 4, Phụ lục 5.1 và Phụ lục 5.2
của Văn bản hợp nhất số 37/VBHN-BTC của Bộ Tài chính quy định quy tắc, điều
khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới do Bộ Tài chính ban hành ngày 29/07/2014.
2.2.3. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
2.2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm
Một mặt, doanh nghiệp bảo hiểm có các quyền cơ bản sau:
Thứ nhất, thu phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Trường
hợp có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến tăng các
rủi ro được bảo hiểm, có quyền yêu cầu chủ xe cơ giới nộp thêm phí bảo hiểm cho
thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Đối với hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, doanh nghiệp bảo hiểm không được tự ý đề ra
mức phí bảo hiểm mà phải tuân theo các quy định của pháp luật. Còn đối với hợp
đồng bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ tự đưa ra
28
mức phí bảo hiểm, người mua bảo hiểm tự cân nhắc và lựa chọn mức phí phù hợp
với mình.
Thứ hai, yêu cầu chủ xe cơ giới cung cấp đầy đủ và trung thực những nội
dung đã được quy định trong Giấy chứng nhận bảo hiểm; xem xét tình trạng xe cơ
giới trước khi cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm. Có thể thấy rằng, để được cấp giấy
chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự, chủ xe cơ giới phải trải qua quá trình xem
xét hồ sơ kỹ càng, do đó giảm thiểu được rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Thứ ba, đề nghị cơ quan công an cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến
vụ tai nạn, từ đó doanh nghiệp bảo hiểm có cơ sở để xác định thiệt hại và thực hiện
các nghĩa vụ đối với bên thứ ba bị thiệt hại.
Thư tư, từ chối giải quyết bồi thường đối với những trường hợp không thuộc
trách nhiệm bảo hiểm. Điều này có nghĩa là, không phải mọi thiệt hại do xe cơ giới
gây ra đều thuộc giới hạn trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm.
Thứ năm, kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới phù hợp với thực tế triển khai loại hình bảo
hiểm này. Quy định này mang tới sự khách quan cho các quy định pháp luật, đồng thời
doanh nghiệp bảo hiểm cũng có cơ hội đóng góp và nói lên những nguyện vọng của
mình, từ đó hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ xe cơ giới nói riêng và các quy định pháp luật Việt Nam nói chung.
Mặt khác, doanh nghiệp bảo hiểm cũng có những nghĩa vụ cơ bản đối với
bên mua bảo hiểm, bao gồm:
Thứ nhất, phải bán bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo
đúng quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm theo quy định của Bộ Tài
chính hoặc mức phí như hai bên đã thỏa thuận. Trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm
nhận được thông báo của chủ xe cơ giới về sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để
tính phí bảo hiểm, dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm
phải giảm phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm và hoàn trả số
tiền chênh lệch cho chủ xe cơ giới.
29
Thứ hai, cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm và giải
thích rõ quy tắc, điều khoản và biểu phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới cho chủ xe cơ giới.
Thứ ba, phải sử dụng mẫu Giấy chứng nhận bảo hiểm theo quy định của Bộ
Tài chính để cấp cho chủ xe cơ giới tại Phụ lục 3, Phụ lục 4, Phụ lục 5.1 và Phụ lục
5.2 của Văn bản hợp nhất số 37/VBHN-BTC của Bộ Tài chính quy định quy tắc,
điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới do Bộ Tài chính ban hành ngày 29/07/2014.
Thứ tư, không được chi hỗ trợ đại lý bán bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới dưới mọi hình thức ngoài mức hoa hồng bảo hiểm đại lý được hưởng
theo quy định của Bộ Tài chính.
Thứ năm, thanh toán cho cơ quan công an chi phí sao chụp những hồ sơ, biên
bản tai nạn đã được cung cấp và có trách nhiệm giữ gìn bí mật trong quá trình điều tra.
Thứ sáu, chi trả bồi thường nhanh chóng và chính xác theo quy định của
pháp luật. Theo đó, doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm kịp thời
cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm; có quyền từ chối trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc từ chối bồi
thường cho người được bảo hiểm trong trường hợp không thuộc phạm vi trách
nhiệm bảo hiểm hoặc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thoả thuận
trong hợp đồng bảo hiểm; có nghĩa vụ giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả tiền
bảo hiểm hoặc từ chối bồi thường; phối hợp với bên mua bảo hiểm để giải quyết
yêu cầu của người thứ ba đòi bồi thường về những thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; có quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm áp dụng các
biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của pháp luật.
Thứ bảy, phải hạch toán tách biệt doanh thu phí bảo hiểm, hoa hồng, bồi
thường và các khoản chi phí khác liên quan đến bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới.
Thứ tám, xây dựng và vận hành hệ thống công nghệ thông tin đảm bảo việc
thống kê và cập nhật tình hình triển khai bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới đảm bảo kết nối vào cơ sở dữ liệu về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
30
Thứ chín, báo cáo Bộ Tài chính về tình hình thực hiện bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới theo định kỳ hoặc khi có yêu cầu.
Thứ mười, chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền trong việc thực hiện bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
2.2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của chủ xe cơ giới
Như đã phân tích tại chương 1 của luận văn này, hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là hợp đồng song vụ, do đó quyền của bên này là
nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.
Một mặt, chủ xe cơ giới có các quyền cơ bản sau đây:
Thứ nhất, được lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm để tham gia bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Như vậy, bên mua bảo hiểm có quyền lựa chọn
mua bảo hiểm ở bất kỳ doanh nghiệp bảo hiểm nào miễn là doanh nghiệp đó đang
tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên lãnh thổ Việt Nam. Bên mua bảo
hiểm có thể lựa chọn mua bảo hiểm ở doanh nghiệp bảo hiểm nào có mức phí bảo
hiểm đối với loại bảo hiểm đó thấp nhất và chất lượng cao nhất. Quyền này đồng
thời thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với nhau trong hoạt
động kinh doanh bảo hiểm: mức phí thấp hơn, thủ tục bồi thường nhanh chóng, hợp
tình, hợp lý hơn, kịp thời khắc phục được những tổn thất về tài chính đối với bên
tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Thứ hai, yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích, cung cấp các thông tin
liên quan đến việc giao kết, thực hiện và hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm. Do đó, chủ xe
cơ giới sẽ có cơ hội tìm hiểu những thông tin cần thiết, xem xét hợp đồng bảo hiểm
đó có phù hợp với nhu cầu, điều kiện, hoàn cảnh của mình hay không.
Thứ ba, trường hợp có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo
hiểm dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm, có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo
hiểm giảm mức phí bảo hiểm phù hợp cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm.
Thứ tư, yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường nhanh chóng, đầy đủ và
kịp thời theo hợp đồng bảo hiểm.
Thứ năm, chủ xe cơ giới là đơn vị sản xuất kinh doanh, phí bảo hiểm được
tính vào chi phí hoạt động kinh doanh; chủ xe cơ giới là cơ quan hành chính, đơn vị
31
sự nghiệp của Nhà nước, phí bảo hiểm được bố trí trong kinh phí hoạt động thường
xuyên của cơ quan, đơn vị.
Mặt khác, chủ xe cơ giới có những nghĩa vụ cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phải tham gia và đóng đầy đủ phí bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới theo quy định tại hợp đồng bảo hiểm. Khi mua bảo hiểm, chủ xe cơ
giới phải cung cấp đầy đủ và trung thực những nội dung đã được quy định trong
Giấy chứng nhận bảo hiểm.
Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp bảo hiểm xem xét tình trạng
xe trước khi cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm.
Thứ ba, trường hợp có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo
hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm, chủ xe cơ giới phải kịp thời thông báo
cho doanh nghiệp bảo hiểm để áp dụng mức phí bảo hiểm phù hợp cho thời gian còn
lại của hợp đồng bảo hiểm. Đồng thời có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp đề phòng,
hạn chế tổn thất theo quy định của pháp luật; thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm
về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm, khai báo trung thực về tình hình diễn biến của rủi
ro, thiệt hại thực tế giúp bên bảo hiểm xác định chính xác về thiệt hại để làm cơ sở
cho việc xét bồi thường.
Thứ tư, đối với bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, chủ
xe cơ giới phải luôn mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn hiệu lực khi tham gia
giao thông, xuất trình giấy tờ này khi có yêu cầu của lực lượng cảnh sát giao thông
và cơ quan chức năng có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, tuân thủ các quy định về đảm bảo an toàn giao thông đường bộ.
Thứ sáu, khi tai nạn giao thông xảy ra, chủ xe cơ giới có trách nhiệm:
(i) Thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm để phối hợp giải quyết, tích
cực cứu chữa, hạn chế thiệt hại về người và tài sản, bảo vệ hiện trường
tai nạn; đồng thời thông báo cho cơ quan công an hoặc chính quyền địa
phương nơi gần nhất;
(ii) Không được di chuyển, tháo gỡ hoặc sửa chữa tài sản khi chưa có ý kiến
chấp thuận của doanh nghiệp bảo hiểm; trừ trường hợp cần thiết để đảm
32
bảo an toàn, đề phòng hạn chế thiệt hại về người và tài sản hoặc phải thi
hành theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền;
(iii) Chủ xe cơ giới phải cung cấp các tài liệu trong hồ sơ yêu cầu bồi thường
và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình
xác minh các tài liệu đó.
Thứ bảy, chủ xe cơ giới phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo
hiểm trong trường hợp xe cơ giới thuộc đối tượng được hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm
theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, còn có các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2.2.3.3. Sự kiện bảo hiểm
Các quan hệ bảo hiểm được hình thành từ thời điểm hợp đồng bảo hiểm có
hiệu lực. Tuy nhiên, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo
hiểm hoặc bồi thường thiệt hại cho người tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm
xảy ra. Điều này có nghĩa là rủi ro được bảo hiểm chỉ là giả thiết xảy ra trong tương
lai nhưng không biết chính xác diễn biến sự kiện sẽ xảy ra ở đâu, bao giờ và cụ thể
rủi ro là gì, mức độ tổn thất bao nhiêu,… Mua bảo hiểm chính là phòng tránh rủi ro
trước khi nó xảy ra.
Khoản 10 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung
năm 2010) có định nghĩa về “sự kiện bảo hiểm” như sau:
“Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thoả thuận hoặc pháp
luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo
hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm”[26].
Theo đó, một sự kiện xảy ra trên thực tế chỉ được coi là sự kiện bảo hiểm nếu
nó là sự kiện khách quan và khi sự kiện đó xảy ra đã gây thiệt hại, tổn thất thực tế.
Mặt khác, bên bảo hiểm chỉ phải trả tiền bảo hiểm khi tổn thất xảy ra trong phạm vi
bảo hiểm đã được các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định và trong thời hạn có
hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm đó. Hiểu một cách chung nhất thì sự kiện bảo hiểm
là những rủi ro xảy ra nằm ngoài ý chí của các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm và
đã gây ra những tổn thất nhất định trong phạm vi bảo hiểm đã được xác định trước
theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Hay sự kiện bảo hiểm chính là rủi
ro được bảo hiểm.
33
Một sự kiện được coi như là sự kiện bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nếu thỏa mãn các điều kiện sau:
Thứ nhất, sự kiện đó xảy ra một cách khách quan. Theo đó, những thiệt hại
xảy ra là bất ngờ, khách quan, hoàn toàn không phải do hành vi cố ý và cũng không
phải thiệt hại biết trước sẽ xảy ra.
Thứ hai, sự kiện đó phải thuộc phạm vi bảo hiểm. Trong một hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, sự kiện bảo hiểm được liệt kê trong
phần phạm vi bảo hiểm. Một nghiệp vụ bảo hiểm thường chỉ nhận bảo hiểm rủi ro
cho những nguyên nhân nhất định và doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chỉ bồi thường khi
có thiệt hại xảy ra do những nguyên nhân đó [30, tr.157].
Thứ ba, sự kiện đó phải xảy ra trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm. Thời hạn
hợp đồng bảo hiểm được xác định theo quy định của hợp đồng. Và chỉ khi có thiệt
hại phát sinh từ sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời hạn bảo hiểm thì doanh nghiệp
bảo hiểm mới có trách nhiệm bồi thường. Trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới, thời hạn bảo hiểm là khoảng thời gian kể từ khi hợp đồng
có hiệu lực cho tới khi hợp đồng được coi là chấm dứt.
2.2.3.4. Phí bảo hiểm
Như đã trình bày ở những phần trước, trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu phí bảo hiểm, còn
bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm đầy đủ theo thời hạn và phương
thức đã thỏa thuận trong hợp đồng. Bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm đầy
đủ, theo đúng thời hạn và phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm, bởi
hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm người tham gia bảo hiểm đóng
phí bảo hiểm. Tuỳ từng loại sản phẩm bảo hiểm cụ thể mà thời hạn và phương thức
nộp phí bảo hiểm được quy định cụ thể hoặc theo thoả thuận của các bên. Bên mua
bảo hiểm phải đóng toàn bộ phí bảo hiểm trong một lần trước khi bên bảo hiểm cấp
giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm; hoặc phí bảo hiểm được đóng
nhiều lần theo định kỳ thì bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm vào định kỳ
đầu tiên trước khi được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm và
phải tiếp tục đóng phí của các kỳ sau theo đúng định kỳ.
34
Trong hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ xe cơ giới nói riêng thì phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều
khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm là các yếu tố để xác định phí bảo hiểm và theo
đó xác định số tiền bảo hiểm. Phí bảo hiểm là lợi ích mà các bên tham gia hợp đồng
bảo hiểm hướng tới khi giao kết một hợp đồng bảo hiểm. Để đảm bảo tính lợi nhuận
và sự cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh, đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm
phải tính toán phí bảo hiểm với một mức thích hợp. Phí bảo hiểm được tính toán
dựa trên nhiều yếu tố khác nhau, song nguồn tài chính thu được từ phí bảo hiểm
theo mức đã được tính toán tối thiểu phải có dư sau khi đã chi phí cho các hoạt động
kinh doanh bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm. Để xác định một mức phí bảo
hiểm bảo đảm có lợi nhuận, còn cần phải cân nhắc đến các yếu tố quan trọng như:
sự trượt giá của đồng tiền, sự thay đổi lãi suất vốn vay bởi khoản tiền thu được từ
phí bảo hiểm hiện tại được dùng để bồi thường thiệt hại xảy ra trong tương lai. Phí
bảo hiểm là khung giá định cho một sản phẩm bảo hiểm nhất định. Trong hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thì phí bảo hiểm được xác định
theo mức trách nhiệm mà pháp luật quy định hoặc hai bên đã thỏa thuận. Đối với
mỗi loại sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm dân sự khác nhau, phí bảo hiểm được xác
định trên những căn cứ khác nhau xuất phát từ những cơ sở để xác định trách nhiệm
của người tham gia bảo hiểm.
Khoản 11 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung
năm 2010) quy định về phí bảo hiểm như sau:
“Phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho doanh
nghiệp bảo hiểm theo thời hạn và phương thức do các bên thoả thuận trong hợp
đồng bảo hiểm”[26].
Đối với hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới,
phí bảo hiểm dựa trên nguyên tắc là do pháp luật quy định. Mức phí bảo hiểm bắt
buộc trách nhiệm dân sự của từng loại xe cơ giới khác nhau được quy định tại Phụ
lục 5, Thông tư số 22/2016/TT-BTC quy định quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức
trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do Bộ trưởng
Bộ Tài chính ban hành ngày 16 tháng 02 năm 2016.
35
Ngoài ra, mức phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới còn tính theo tỷ lệ phần trăm mức phí theo năm đối với
thời hạn bảo hiểm ngắn hạn và dài hạn. Khi đó, mức phí bảo hiểm sẽ được tính dựa
trên thời hạn được bảo hiểm ghi trên Giấy chứng nhận bảo hiểm. Công thức tính cụ
thể như sau:
Phí bảo hiểm năm theo loại xe cơ giới Thời hạn được Phí bảo hiểm = 365 (ngày) x bảo hiểm phải nộp (ngày)
Ngược lại, đối với hợp đồng bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới, doanh nghiệp bảo hiểm có thể tự đưa ra mức phí bảo hiểm cho bên mua
bảo hiểm. Với nhiều lựa chọn mà doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra, bên mua bảo hiểm
tùy thuộc vào nhu cầu và tình hình tài chính của mình để chọn ra mức phí bảo hiểm
phù hợp cho mình.
2.2.4. Hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
2.2.4.1. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Một hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới chỉ có hiệu
lực khi đã đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, điều kiện về năng lực hành vi dân sự của chủ thể tham gia hợp
đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Đối với doanh nghiệp bảo hiểm phải đáp ứng các điều kiện như đã trình bày
ở phần 2.1.1 của luận văn này.
Đối với bên tham gia bảo hiểm – chủ xe cơ giới, có thể là tổ chức, cá nhân,
tổ hợp tác, hộ gia đình. Đối với cá nhân, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về năng
lực tham gia giao dịch của các chủ thể với nguyên tắc: người tham gia giao dịch
phải có đủ năng lực hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả
năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân
sự. Vậy một cá nhân đạt được sự phù hợp giữa ý chí và lý trí được coi là người có
đủ năng lực hành vi dân sự.
36
Thứ hai, điều kiện về mục đích và nội dung của hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới có hiệu lực pháp
luật nếu mục đích và nội dung của nó không vi phạm điều cấm của luật, không trái
đạo đức xã hội. Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ
thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những trật tự xã hội, thuần
phong mỹ tục được hình thành trên cơ sở kinh tế nhất định và được cộng đồng xã
hội thừa nhận. Đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thì
mục đích của các chủ thể khi tham gia hợp đồng là nhằm bảo hiểm đối với những
tổn thất về tài chính có thể xảy ra do có những hành vi gây thiệt hại cho người khác,
thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của mình. Mọi trường hợp tham gia bảo
hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm thì đều vi phạm pháp luật.
Thứ ba, điều kiện về tính tự nguyện của chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự.
Tự nguyện có thể hiểu là sự thống nhất giữa mong muốn chủ quan bên trong
với biểu hiện bên ngoài của mong muốn đó thông qua một hình thức nhất định (văn
bản của hợp đồng). Mong muốn chủ quan của người tham gia hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được thể hiện ra bên ngoài thông qua hình
thức văn bản của hợp đồng bảo hiểm. Nếu việc tham gia hợp đồng cũng như các
thoả thuận về nội dung của hợp đồng được ghi nhận trong văn bản đó không phải là
ý nguyện đích thực của các bên tham gia hợp đồng thì hợp đồng đó bị coi là được
thiết lập không có sự tự nguyện của chủ thể tham gia hợp đồng.
Tuy nhiên, trên thực tế, để xác định trường hợp nào được coi là đã có sự
thống nhất là điều rất khó. Vì vậy, pháp luật nước ta quy định theo hướng mặc
nhiên suy đoán là tất cả các hợp đồng đều được giao kết dựa trên sự tự nguyện của
các bên chủ thể. Khi các bên đã cam kết thoả thuận và ký tên vào văn bản của một
hợp đồng bảo hiểm thì đều được coi là đã tự nguyện giao kết hợp đồng đó. Một hợp
đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới sẽ bị coi là được xác lập thiếu
yếu tố tự nguyện nếu thuộc các trường hợp: hợp đồng giả tạo; hợp đồng được xác
37
lập do nhầm lẫn; hợp đồng xác lập do bị lừa dối; hợp đồng xác lập bởi sự đe dọa,
cưỡng ép; xác lập hợp đồng trong lúc không nhận thức, điều khiển được hành vi.
Tóm lại, các yếu tố chủ thể, nội dung và mục đích, sự tự nguyện của các bên
là những yếu tố quan trọng góp phần vào quá trình hình thành và tồn tại của hợp
đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Thứ tư, điều kiện về hình thức của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới.
Như đã phân tích tại phần 2.1.2 của luận văn, hình thức của hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới bắt buộc phải bằng văn bản nên nếu
hợp đồng bảo hiểm được giao kết bằng hình thức khác sẽ không có hiệu lực pháp
luật. Giấy chứng nhận bảo hiểm chính là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
2.2.4.2. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng
Thời hạn được hiểu là một khoảng thời gian nhất định, từ thời điểm bắt đầu
của thời hạn cho tới thời điểm kết thúc của thời hạn.
Thời điểm bắt đầu
Thời điểm có hiệu lực của một hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng đối với
những người có quyền, nghĩa vụ từ hợp đồng đó. Đối với hợp đồng bảo hiểm lại
càng quan trọng hơn, bởi các rủi ro mà người tham gia bảo hiểm gặp phải chỉ được
coi là sự kiện bảo hiểm nếu rủi ro đó xảy ra sau thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
bảo hiểm.
Theo Điều 400 Bộ luật dân sự năm 2015, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
dân sự là thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết. Đối với hợp đồng
bằng văn bản, thời điểm giao kết là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay
bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.
Như vậy, với loại hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được xác định là thời điểm bên sau cùng ký vào
văn bản được coi là bằng chứng của hợp đồng.
Thời điểm kết thúc
Căn cứ theo quy định tại Điều 23 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa
đổi, bổ sung năm 2010) và Điều 6, Điều 10 Văn bản hợp nhất 25/VBHN-BTC năm
38
2014 hợp nhất Nghị định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới do Bộ Tài chính ban hành ngày 27/6/2014, một hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới sẽ được chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, hợp đồng được hoàn thành. Đối với hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thì hợp đồng hoàn thành khi sự kiện bảo hiểm xảy
ra và doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thay cho người tham
gia bảo hiểm hoặc hết thời hạn thoả thuận trong hợp đồng đó.
Thứ hai, hợp đồng bảo hiểm chấm dứt khi đối tượng được bảo hiểm không
còn. Trách nhiệm dân sự là đối tượng của hợp đồng bảo hiểm không còn khi chủ thể
tham gia bảo hiểm không có khả năng gây thiệt hại cho người khác từ hoạt động
tương ứng với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm mà họ tham gia.
Thứ ba, đơn phương chấm dứt hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm chấm dứt khi một bên đơn phương chấm dứt thực hiện
hợp đồng. Khi một bên trong hợp đồng đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng
thì hợp đồng đó được coi là chấm dứt tại thời điểm bên kia nhận được thông báo
đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng của bên này.
Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng là ý chí của một trong hai bên về
việc không tiếp tục duy trì hợp đồng theo các điều khoản đã cam kết vì bên kia có
hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.
Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng
bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong các hành vi sau: cố ý cung cấp thông
tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc để
được bồi thường; không thông báo cho bên bảo hiểm những trường hợp có thể làm
tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của bên bảo hiểm trong quá trình
thực hiện hợp đồng bảo hiểm dù bên bảo hiểm đã yêu cầu; khi có sự thay đổi những
yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm thì
doanh nghiệp bảo hiểm có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp
đồng bảo hiểm, trong trường hợp bên mua bảo hiểm không chấp nhận tăng phí bảo
hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng
bảo hiểm nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm. Trường
39
hợp chủ xe cơ giới không thanh toán đủ phí bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm sẽ chấm
dứt hiệu lực vào ngày kế tiếp ngày chủ xe cơ giới phải thanh toán phí bảo hiểm.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày hợp đồng bảo hiểm chấm dứt hiệu lực,
doanh nghiệp bảo hiểm phải thông báo bằng văn bản cho chủ xe cơ giới về việc
chấm dứt hợp đồng bảo hiểm và hoàn lại cho chủ xe cơ giới phần phí bảo hiểm đã
thanh toán thừa (nếu có) hoặc yêu cầu chủ xe cơ giới thanh toán đủ phí bảo hiểm
đến thời điểm chấm dứt hợp đồng bảo hiểm.
Bên mua bảo hiểm – chủ xe cơ giới có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện
hợp đồng bảo hiểm trong các trường hợp sau: trong trường hợp doanh nghiệp bảo
hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm, trường
hợp này doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên mua
bảo hiểm do việc cung cấp thông tin sai sự thật; khi có sự thay đổi những yếu tố làm
cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm thì bên mua bảo
hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giảm phí bảo hiểm cho thời gian còn
lại của hợp đồng bảo hiểm, trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không chấp
nhận giảm phí bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực
hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho doanh
nghiệp bảo hiểm.
Ngoài ra, hợp đồng bảo hiểm chấm dứt khi bị huỷ bỏ trong trường hợp:
(i) Xe cơ giới bị thu hồi đăng ký và biển số theo quy định của pháp luật.
(ii) Xe cơ giới hết niên hạn sử dụng theo quy định của pháp luật.
(iii) Xe cơ giới bị mất được cơ quan công an xác nhận.
(iv) Xe cơ giới hỏng không sử dụng được hoặc bị phá huỷ do tai nạn giao
thông được cơ quan công an xác nhận.
Theo đó, chủ xe cơ giới phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo
hiểm kèm theo Giấy chứng nhận bảo hiểm và các bằng chứng về việc xe cơ giới
thuộc đối tượng được hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm theo các trường hợp trên. Hợp
đồng bảo hiểm chấm dứt từ thời điểm doanh nghiệp bảo hiểm nhận được thông báo
huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm.
40
2.2.4.3. Hợp đồng vô hiệu
Hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về những trường hợp
hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới vô hiệu. Tuy nhiên, do
hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là một loại hợp đồng bảo
hiểm nên loại hợp đồng này cũng tuân thủ theo các quy định tại Luật kinh doanh
bảo hiểm. Cụ thể, theo quy định tại điều Điều 22 về Hợp đồng bảo hiểm vô hiệu tại
Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, Hợp đồng bảo hiểm vô hiệu trong các trường
hợp đó là:
Thứ nhất, bên mua bảo hiểm không có quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Thứ hai, tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm
không tồn tại.
Thứ ba, tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm biết sự
kiện bảo hiểm đã xảy ra.
Thứ tư, bên mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có hành vi lừa dối
khi giao kết hợp đồng bảo hiểm.
Ngoài ra còn các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Các trường
hợp khác này có thể được hiểu là các trường hợp hợp đồng vô hiệu theo quy định tại
Bộ luật dân sự năm 2015, bao gồm:
Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội;
Hợp đồng vô hiệu do giả tạo;
Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện;
Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn;
Hợp đồng vô hiệu do vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;
Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành
vi của mình;
Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức.
41
2.2.5. Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm và các trường hợp loại trừ trách nhiệm
bảo hiểm
2.2.5.1. Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm
Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm là công việc không thể thiếu trong hoạt động
kinh doanh bảo hiểm và là một trong những nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo
hiểm nói chung; đặc biệt đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Lợi
ích của việc giới hạn trách nhiệm bảo hiểm là làm cho nhà bảo hiểm chủ động hơn
trong việc dự phòng các tình huống có phát sinh trách nhiệm và họ có thể đánh giá
được mức độ bồi thường tối đa trong từng tình huống có phát sinh trách nhiệm đối
với từng hợp đồng cụ thể. Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có quy định mức
giới hạn trách nhiệm của bên bán bảo hiểm thì người tham gia bảo hiểm sẽ chỉ được
bảo hiểm trong phạm vi giới hạn bảo hiểm đó mà không được bảo hiểm cho toàn bộ
trách nhiệm dân sự của mình đối với người thứ ba, do đó họ phải tự thực hiện phần
trách nhiệm vượt quá giới hạn bảo hiểm đối với người thứ ba.
Điều 55 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010)
quy định về giới hạn trách nhiệm bảo hiểm như sau:
“1. Trong phạm vi số tiền bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho
người được bảo hiểm những khoản tiền mà theo quy định của pháp luật người được
bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường cho người thứ ba.
2. Ngoài việc trả tiền bồi thường theo quy định tại khoản 1 Điều này, doanh
nghiệp bảo hiểm còn phải trả các chi phí liên quan đến việc giải quyết tranh chấp
về trách nhiệm đối với người thứ ba và lãi phải trả cho người thứ ba do người được
bảo hiểm chậm trả tiền bồi thường theo chỉ dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm.
3. Tổng số tiền bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm quy định tại khoản 1
và khoản 2 Điều này không vượt quá số tiền bảo hiểm, trừ trường hợp có thoả
thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm.
4. Trong trường hợp người được bảo hiểm phải đóng tiền bảo lãnh hoặc ký
quỹ để bảo đảm cho tài sản không bị lưu giữ hoặc để tránh việc khởi kiện tại toà án
thì theo yêu cầu của người được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện
việc bảo lãnh hoặc ký quỹ trong phạm vi số tiền bảo hiểm”[26].
42
Bên cạnh đó, Điều 9 Văn bản hợp nhất số 25/VBHN-BTC năm 2014 hợp
nhất Nghị định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do Bộ
Tài chính ban hành ngày 27/6/2014 đã làm rõ hơn quy định liên quan tới giới hạn
bảo hiểm đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới:
Mức trách nhiệm bảo hiểm là số tiền tối đa doanh nghiệp bảo hiểm có thể
phải trả đối với thiệt hại về thân thể, tính mạng và tài sản của bên thứ ba và hành
khách do xe cơ giới gây ra trong mỗi vụ tai nạn xảy ra thuộc phạm vi trách nhiệm
bảo hiểm.
Đối với hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
thì mức trách nhiệm bảo hiểm được quy định như sau:
(i) Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về người do xe cơ giới gây ra là
100 triệu đồng/1 người/1 vụ tai nạn.
(ii) Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về tài sản do xe mô tô hai bánh,
xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe cơ giới tương tự (kể cả xe cơ
giới dùng cho người tàn tật) gây ra là 50 triệu đồng/1 vụ tai nạn.
(iii) Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về tài sản do xe ô tô, máy kéo, xe
máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác
sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng (kể cả rơ-moóc và sơ mi rơ-moóc
được kéo bởi xe ô tô hoặc máy kéo) gây ra là 100 triệu đồng/1 vụ tai nạn.
Ngược lại, mức trách nhiệm bảo hiểm đối với hợp đồng tự nguyện trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới được doanh nghiệp bảo hiểm tự đưa ra sao cho phù hợp.
2.2.5.2. Các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm
Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm quy định trường hợp doanh nghiệp
bảo hiểm không phải bồi thường hoặc không phải trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm. Việc xác định thiệt hại không được bảo hiểm có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Phần loại
trừ này nhằm hạn chế phạm vi những thiệt hại có thể xảy ra đối với đối tượng được
bảo hiểm, đảm bảo hiệu quả trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Bởi lẽ, nếu bảo
hiểm với phạm vi không hạn chế thì rủi ro sẽ rất lớn dẫn đến sự kiện bảo hiểm trong
một hợp đồng luôn có thể xảy ra. Thông qua phần loại trừ này, doanh nghiệp bảo
43
hiểm giữ phí bảo hiểm ở một mức hợp lý vì nếu bảo hiểm với phạm vi không hạn
chế mức phí sẽ phải rất cao, như vậy sẽ hạn chế khả năng tham gia hợp đồng bảo
hiểm của những người có nhu cầu bảo hiểm.
Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm là một trong những điều khoản bắt
buộc phải có của hợp đồng bảo hiểm nói chung và đã được quy định trong Luật
Kinh doanh bảo hiểm. Điều khoản được đặt ra nhằm mục đích cho phép các doanh
nghiệp bảo hiểm từ chối bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm trong trường hợp bên
mua bảo hiểm có ý định trục lợi bảo hiểm bằng những hành vi cố ý. Điều khoản loại
trừ cũng có thể bao gồm việc từ chối trả tiền bảo hiểm trong những trường hợp có
thảm hoạ, có thể gây tổn thất trên diện rộng và làm mất khả năng thanh toán của
doanh nghiệp bảo hiểm. Ví dụ: sóng thần, động đất, núi lửa,… thì thiệt hại là vô
cùng lớn. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm phải chi trả số tiền bảo hiểm cho các trường
hợp này thì rất có thể sẽ đưa đến việc mất khả năng thanh toán do cùng một lúc phải
chi trả một khoản tiền quá lớn.
Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm phải được quy định rõ trong hợp
đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Doanh nghiệp bảo hiểm phải
giải thích rõ cho bên mua bảo hiểm khi giao kết hợp đồng.
Đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới,
doanh nghiệp bảo hiểm không bồi thường thiệt hại đối với các trường hợp sau:
(i) Hành động cố ý gây thiệt hại của chủ xe, lái xe hoặc của người bị thiệt hại.
(ii) Lái xe gây tai nạn cố ý bỏ chạy không thực hiện trách nhiệm dân sự của chủ
xe, lái xe cơ giới.
(iii) Lái xe không có Giấy phép lái xe hoặc Giấy phép lái xe không phù hợp đối
với loại xe cơ giới bắt buộc phải có Giấy phép lái xe. Trường hợp lái xe bị
tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe có thời hạn hoặc không thời hạn thì
được coi là không có Giấy phép lái xe.
(iv) Thiệt hại gây ra hậu quả gián tiếp như: giảm giá trị thương mại, thiệt hại gắn
liền với việc sử dụng và khai thác tài sản bị thiệt hại.
(v) Thiệt hại đối với tài sản bị mất cắp hoặc bị cướp trong tai nạn.
(vi) Chiến tranh, khủng bố, động đất.
44
(vii) Thiệt hại đối với tài sản đặc biệt bao gồm: vàng, bạc, đá quý, các loại giấy tờ
có giá trị như tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, hài cốt.
Ngoài ra, điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm không được áp dụng
trong các trường hợp sau đây:
(i) Bên mua bảo hiểm vi phạm pháp luật do vô ý;
(ii) Bên mua bảo hiểm có lý do chính đáng trong việc chậm thông báo cho doanh
nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm.
2.2.6. Thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới
2.2.6.1. Thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Pháp luật về thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới về cơ bản đã đảm bảo được tính kịp thời, phù hợp, thống nhất, đồng bộ tạo
hành lang pháp lý cho bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nói riêng và
thị trường bảo hiểm nói chung phát triển mạnh, góp phần tích cực vào việc duy trì
trật tự, kỷ cương thị trường, đấu tranh ngăn ngừa các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, trục lợi, cố ý làm trái pháp luật; đấu tranh chống tiêu cực trong lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia
hợp đồng bảo hiểm; duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các
doanh nghiệp bảo hiểm, bảo đảm các quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được thực hiện nghiêm túc.
Bên cạnh đó, loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ra
đời từ rất lâu, và hầu hết là loại hình bảo hiểm bắt buộc. Quá trình triển khai đã bộc
lộ không ít những bất cập trong việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ xe cơ giới. Hiện nay, ở nước ta đã có khoảng 90% số chủ xe ô-tô và
29% số chủ xe mô-tô tham gia loại hình bảo hiểm bắt buộc này. Tuy nhiên, với
khoảng 12.000 người chết vì tai nạn giao thông hằng năm (mà hầu hết các vụ tai
nạn giao thông liên quan đến xe cơ giới đều gây tử vong, thương tích cho nạn nhân)
và với mức bồi thường theo quy định hiện hành thì việc giải quyết bồi thường bảo
hiểm đã chiếm một lượng kinh phí không nhỏ. Bên cạnh đó, một lượng lớn chủ xe
mô-tô chưa chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật; việc xác định lỗi trong
45
một số vụ tai nạn chưa rõ ràng, cán bộ giải quyết bồi thường có hành vi gây khó
khăn trong giải quyết bồi thường cho chủ xe cũng như người bị thiệt hại [31]…
Ðây là những bất cập cơ bản trong quá trình thực hiện chế độ hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của xe cơ giới
Rủi ro khách quan luôn tiềm ẩn trong đời sống xã hội hàng ngày. Cùng với
sự phát triển của nền kinh tế, các phương tiện tham gia giao thông ngày càng nhiều
trong khi hệ thống đường xá của Việt Nam không đáp ứng được tiêu chuẩn an toàn
kĩ thuật, khoa học, cũng như nhu cầu xã hội; ý thức chấp hành luật lệ giao thông của
người dân còn kém. Do vậy không tránh khỏi sự gia tăng không ngừng các vụ tai
nạn giao thông, kéo theo các vụ kiện đòi bồi thường của nạn nhân hoặc gia đình họ
đối với người gây thiệt hại. Có tai nạn, có kiện đòi bồi thường, rồi xác định được
mức bồi thường thì vấn đề đặt ra lại là thực tế việc bồi thường được tiến hành như
thế nào? Một vấn đề kéo theo là xã hội còn phải đối mặt với tình trạng bồi thường
cho nạn nhân trong các vụ tai nạn giao thông. Có rất nhiều trường hợp nạn nhân
không nhận được tiền bồi thường từ những người gây ra tai nạn, thậm chí trong
những trường hợp người gây ra tai nạn được xác định rõ ràng. Lý do rất đơn giản là
người gây ra tai nạn không có đủ nguồn tài chính tối thiểu để thực hiện nghĩa vụ
luật định đối với nạn nhân. Trên thực tế, không phải trường hợp nào người không
may bị tai nạn cũng được đền bù, bồi thường nhanh chóng đúng như theo luật định,
và người gây tai nạn không phải lúc nào cũng sẵn sàng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và
trách nhiệm tài chính của mình đối với những thiệt hại của người bị nạn do mình
gây ra khi điều kiện tài chính không đủ để đáp ứng. Tuy nhiên, nếu chủ chiếc xe đó
đã tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thì
mọi việc sẽ được giải quyết thuận lợi hơn cho cả đôi bên. Doanh nghiệp bảo hiểm
sẽ thay mặt chủ xe đền bù cho nạn nhân nếu được yêu cầu hoặc trong trường hợp
chủ xe đã đền bù cho nạn nhân thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả lại số tiền đã bồi
thường cho chủ xe, đảm bảo khả năng tài chính của họ.
Thiệt hại xảy ra có thể là rất lớn, nó vượt quá khả năng tài chính của người
có trách nhiệm, đồng thời ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người có trách
nhiệm bồi thường và người bị thiệt hại. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là
46
một cơ chế chắc chắn để khắc phục điều đó. Nhiều khi người gây thiệt hại không đủ
khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ bồi thường, nên đối với người gây ra thiệt
hại thì tham gia hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một cơ chế đảm bảo trách
nhiệm bồi thường của họ khi họ gây ra thiệt hại cho người khác. Đối với người bị
thiệt hại thì việc tham gia hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự tạo cho họ một
tâm lý yên tâm khi những thiệt hại của họ được một doanh nghiệp bảo hiểm đứng ra
bồi thường thay cho người tham gia bảo hiểm. Về phía doanh nghiệp bảo hiểm, khi
họ ký hợp đồng bảo hiểm và có quyền thu phí bảo hiểm theo quy định của hợp đồng
bảo hiểm từ khách hàng song không phải lúc nào họ cũng phải đứng ra bồi thường
thay cho khách hàng. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự ra đời đóng vai trò
chia sẻ gánh nặng rủi ro về tài chính cho người có hành vi gây thiệt hại; khắc phục
kịp thời thiệt hại về vật chất của bên thứ ba bị thiệt hại; góp phần bình ổn đời sống
vật chất của các chủ thể trong xã hội.
2.2.6.2. Giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là ý
kiến không thống nhất của các bên về việc đánh giá hành vi vi phạm hoặc cách thức
giải quyết hậu quả phát sinh từ vi phạm đó. Các đặc điểm của tranh chấp hợp đồng
là phát sinh trực tiếp từ hợp đồng, mang yếu tố tài sản (vật chất hay tinh thần) và
gắn liền lợi ích các bên trong tranh chấp, nguyên tắc giải quyết các tranh chấp hợp
đồng là bình đẳng, thỏa thuận nhưng phải đảm bảo chính xác, nhanh chóng và đúng
pháp luật.
Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới đòi hỏi phải được giải quyết thỏa đáng bằng một phương thức lựa chọn phù
hợp để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp khác của các bên trang chấp, vừa đảm bảo
trật tự pháp luật và kỷ cương xã hội, giáo dục được ý thức tôn trọng pháp luật của
công dân, góp phần chủ động ngăn ngừa các vi phạm hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Quyết định giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới phải có tính khả thi cao, thi hành được và quá trình giải quyết tranh
chấp phải đảm bảo tính dân chủ và quyền tự định đoạt của các bên với chi phí giải
47
quyết thấp. Thông thường, tranh chấp hợp đồng nói chung và tranh chấp hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nói riêng có thể được giải quyết
bằng các phương thức khác nhau sau: thương lượng, hòa giải, trọng tài hay tòa án.
Các bên có thể lựa chọn một phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng phù hợp
hoặc sử dụng phối hợp nhiều phương pháp. Các yếu tố tác động chi phối việc các bên
chọn lựa phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng như: các lợi thế mà phương thức
đó mang lại cho các bên, mức độ phù hợp của phương thức đó đối với nội dung và tính
chất của tranh chấp hợp đồng với cả thiện chí của các bên, thái độ hay quy định của
nhà nước đối với quyền chọn lựa phương thức giải quyết của các bên.
Thứ nhất, về phương thức thương lượng. Đây là phương thức giải quyết
được các bên ưu tiên sử dụng đầu tiên khi có tranh chấp hợp đồng nói chung và hợp
đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nói riêng xảy ra. Các bên
tranh chấp sẽ cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận để đi đến thống nhất một phương án
giải quyết bất đồng giữa họ và tự nguyện thực hiện phương án đã thỏa thuận qua
thương lượng. Ưu điểm của phương thức này là giải quyết nhanh chóng, đơn giản
và ít tốn kém. Khi thương lượng thành, không có kẻ thắng người thua, không gây ra
tình trạng đối đầu giữa các bên nên sẽ duy trì được quan hệ hợp tác giữa các bên,
đặc biệt là doanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe cơ giới, thông tin bí mật giữa hai bên
sẽ dễ dàng kiểm soát. Tuy nhiên, trong trường hợp thương lượng không thành công,
người thiếu thiện chí sẽ lợi dụng việc thương lượng để trì hoãn việc thực hiện nghĩa
vụ của mình và có thể đưa đến hậu quả là bên có quyền lợi (chủ xe cơ giới) bị mất
quyền khởi kiện tại tòa án hoặc trọng tài do hết thời hiệu khởi kiện.
Thứ hai, phương thức giải quyết bằng hòa giải. Hòa giải là phương thức giải
quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hoà giải để hỗ trợ, thuyết
phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải cũng có nhiều ưu điểm như
phương thức thương lượng, bởi tính đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, sự linh hoạt,
hiệu quả và ít tốn kém.
Bên cạnh những ưu điểm chung, hòa giải còn có ưu điểm vượt trội được
mang lại bởi sự tham gia của người thứ ba trong quá trình giải quyết tranh chấp mà
48
bản thân phương thức thương lượng không thể có được. Người thứ ba được các bên
chọn làm trung gian hòa giải thường là người có trình độ chuyên môn, có kinh
nghiệm, am hiểu lĩnh vực và vấn đề đang tranh chấp. Khi hiểu rõ được nguyên
nhân, hoàn cảnh phát sinh mâu thuẫn cũng như quan điểm, nhận thức của mỗi bên,
họ sẽ biết cách làm cho ý chí của các bên dễ gặp nhau trong quá trình đàm phán để
loại trừ tranh chấp. Vì vậy, trong những trường hợp kinh nghiệm và sự hiểu biết của
các bên về vấn đề tranh chấp còn nhiều hạn chế, giải quyết tranh chấp bằng thương
lượng sẽ khó có khả năng đạt kết quả, nhưng khi có sự can thiệp của người thứ ba
làm trung gian hòa giải thì cơ hội thành công lại cao hơn.
Ngoài ra, kết quả hòa giải được ghi nhận và chứng kiến bởi người thứ ba nên
mức độ tôn trọng và tự nguyện tuân thủ các cam kết đã đạt được trong quá trình hoà
giải giữa các bên cũng cao hơn so với phương thức thương lượng.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, hòa giải cũng không thoát ly được những
hạn chế tương tự như phương thức thương lượng, bởi nền tảng của hòa giải vẫn
được quyết định trên cơ sở ý chí thỏa thuận cũng như sự tự nguyện thi hành của mỗi
bên tranh chấp. Bởi vậy, dù có sự trợ giúp của người thứ ba làm trung gian hòa giải
mà một bên không trung thực, thiếu sự thiện chí, hợp tác trong quá trình đàm phán
thì hòa giải cũng khó có thể đạt được kết quả mong đợi.
Ngoài ra, trong quá trình hòa giải các bên phải trao đổi, cung cấp thông tin
với người thứ ba về hoạt động kinh doanh của mỗi bên liên quan đến vụ tranh chấp
nên uy tín cũng như bí mật trong kinh doanh của mỗi bên dễ bị ảnh hưởng hơn
phương thức thương lượng. Bên cạnh đó, chi phí cho quá trình giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hòa giải cũng thường tốn kém hơn so với thương lượng, bởi một
hoặc các bên tranh chấp phải trả khoản dịch vụ phí cho người thứ ba làm trung gian
hòa giải.
Thứ ba, phương thức giải quyết bằng trọng tài. Các bên thỏa thuận đưa
những tranh chấp đã phát sinh giữa họ ra giải quyết tại trọng tài và trọng tài sau khi
xem xét việc tranh chấp, sẽ đưa ra phán quyết có tính chất chung thẩm và không bị
kháng cáo. Phương thức này cũng bắt nguồn từ sự thỏa thuận giữa các bên trên cơ
sở tự nguyện, các bên được quyền lựa chọn một trọng tài phù hợp. Do trọng tài là
49
một cơ quan tài phán, nên quyết định của trọng tài có giá trị cưỡng chế thi hành.
Mọi sự thay đổi, đình chỉ hủy bỏ hay vô hiệu của hợp đồng này không làm ảnh
hưởng đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài (trừ trường hợp lý do làm hợp đồng này
vô hiệu cũng là lý do làm thỏa thuận trọng tài vô hiệu). Giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài không công khai nên doanh nghiệp bảo hiểm và chủ xe cơ giới hạn chế tiết
lộ bí mật kinh doanh, giữ được uy tín của các bên, đặc biệt là doanh nghiệp bảo
hiểm trên thị trường cạnh tranh. Thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài rất linh
hoạt, đơn giản, các bên có thể chủ động về thời gian và địa điểm giải quyết tranh
chấp tùy vào từng trung tâm trọng tài có thể thỏa thuận lựa chọn. Tuy nhiên chi phí
trọng tài thường cao hơn Tòa án và tính cưỡng chế của trọng tài thường không cao
bằng Tòa án. Vì phán quyết của trọng tài là chung thẩm nên trường hợp trọng tài ra
phán quyết không chính xác sẽ gây khó khăn cho các bên, sau đó có thể đề nghị hủy
phán quyết nhưng gây mất thời gian, công sức hơn.
Thứ tư, phương thức giải quyết bằng tòa án. Phương thức này được lựa chọn
khi tranh chấp hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới phát sinh,
các bên không thương lượng, hòa giải được với nhau. Vì tính chất của hợp đồng này
mang tính kinh tế, thương mại nên tranh chấp phát sinh có thể được tòa án giải
quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế. Án phí thực tế tại Việt Nam khi giải quyết bằng
tòa án thấp hơn so với trọng tài. Các quyết định của tòa án có tính cưỡng chế thi
hành đối với các bên, những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp có khả
năng được phát hiện khắc phục. Các bên không có quyền lựa chọn thẩm phán và hội
đồng xét xử và phải chấp hành các phán quyết của tòa án. Vì thời gian giải quyết
tranh chấp thường kéo dài, đòi hỏi các bên phải nghiêm túc tuân thủ trong suốt quá
trình giải quyết tranh chấp.
Các bên có quyền lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng bất kỳ phương thức
nào, nhưng mọi sự thỏa thuận và quyết định cũng phải tuân thủ và phù hợp với quy
định của pháp luật. Theo quy định của pháp luật và thực tế xảy ra, mức bồi thường
cụ thể đối với thiệt hại về tài sản/1 vụ tai nạn được xác định theo thiệt hại thực tế và
theo mức độ lỗi của chủ xe cơ giới nhưng không vượt quá mức trách nhiệm quy
định trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Cơ sở để giải
50
quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới là: Cần phải xác định lỗi của người vi phạm và mức độ vi phạm gây thiệt hại
thực tế như thế nào? Bởi vì doanh nghiệp bảo hiểm không có trách nhiệm bồi
thường phần vượt quá mức trách nhiệm quy định trong hợp đồng bảo hiểm. Trong
trường hợp thiệt hại thực tế vượt quá mức trách nhiệm trong hợp đồng bảo hiểm thì
bên tham gia hợp đồng bảo hiểm (khách hàng) sẽ phải trả cho bên bị thiệt hại phần
vượt quá. Trường hợp chủ xe cơ giới đồng thời tham gia nhiều hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự cho cùng một xe cơ giới thì số tiền bồi thường chỉ được tính
theo hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực bảo hiểm trước.
Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm
không theo quy tắc, điều khoản, biểu phí đã được Bộ Tài chính ban hành thì doanh
nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên tham gia hợp đồng bảo
hiểm và bên tham gia hợp đồng bảo hiểm không có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm.
2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới
2.3.1. Những kết quả đạt được
Tại diễn đàn trao đổi, tổng quan về thị trường bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt
Nam 9 tháng đầu năm 2018, doanh thu thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đạt 33.885
tỉ đồng, tăng trưởng 12,37%, bồi thường 13.980 tỉ đồng, dự phòng bồi thường 292 tỉ
đồng, tỉ lệ bồi thường đã bao gồm dự phòng bồi thường 42%. Trong đó, bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới doanh thu đạt 10.426 tỉ đồng chiếm tỉ trọng
31% trong tổng doanh thu toàn thị trường, tăng trưởng 7,4%, bồi thường 5.934 tỷ
đồng, dự phòng bồi thường 22 tỉ đồng, tỉ lệ bồi thường 57% (đã bao gồm dự phòng
bồi thường) [23].
Trên thực tế, những tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
xảy ra và đã được Tòa án xét xử như: Bản án số 199/2006/KT-PT (cơ quan xét xử là
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao), bản án số 32/2011/KDTM-PT, bản án số
162/2011/KDTM-PT (cơ quan xét xử là Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao)…
Thứ nhất, pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
51
giới về cơ bản đã đảm bảo được tính kịp thời, phù hợp, thống nhất, đồng bộ tạo
hành lang pháp lý cho bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nói riêng và
thị trường bảo hiểm nói chung phát triển mạnh, góp phần tích cực vào việc duy trì
trật tự, kỷ cương thị trường, đấu tranh ngăn ngừa các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, trục lợi, cố ý làm trái pháp luật; đấu tranh chống tiêu cực trong lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia
hợp đồng bảo hiểm; duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các
doanh nghiệp bảo hiểm, bảo đảm các quy định của pháp luật về bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được thực hiện nghiêm túc.
Thứ hai, sau 05 năm thực hiện Thông tư Liên tịch số 35/2009/TTLT-BTC-
BCA ngày 25/2/2009 của Liên Bộ Tài chính – Bộ Công an hướng dẫn thực hiện
một số điều của Nghị định số 103/2008/NĐ- CP của Chính phủ về bảo hiểm bắt
buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, với sự phối hợp chặt chẽ của Cục Cảnh sát
giao thông đường bộ - đường sắt, Cục quản lý, giám sát bảo hiểm, Hiệp hội Bảo
hiểm Việt Nam và các doanh nghiệp bảo hiểm ý thức của người tham gia bảo hiểm
được nâng cao, đảm bảo quyền và lợi ích của chủ xe, hỗ trợ kịp thời các nạn nhân
trong vụ tai nạn giao thông, góp phần thực hiện mục tiêu an sinh xã hội. Trong 05
năm từ 2009-2014, lực lượng cảnh sát giao thông toàn quốc đã tổ chức tuyên truyền
51.132 lượt với hơn 3,7 triệu người tham gia, trong đó đã xây dựng trên 300 phóng
sự tuyên truyền về bảo hiểm bắt buộc; triển khai trên 3.000 pano, áp phích tại các
ngã ba, ngã tư, chốt đèn tín hiệu giao thông, phát trên 8.000 tờ rơi tuyên truyền…,
để nâng cao nhận thức của người dân về an toàn giao thông cũng như ý thức tham
gia bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới. Theo
đó, qua 05 năm thực hiện, lực lượng cảnh sát giao thông đã lập biên bản xử lý hơn
2,2 triệu trường hợp không có hoặc không mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu lực; nộp kho bạc nhà nước số tiền
226,2 tỷ đồng. Lực lượng cảnh sát giao thông cũng đã cung cấp hơn 56.000 hồ sơ
vụ tai nạn giao thông; cung cấp gần 13.000 thông tin, tài liệu có liên quan đến các
vụ tai nạn giao thông cho doanh nghiệp bảo hiểm, để giải quyết bồi thường nhanh
chóng theo quy định được ký kết trong hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm
52
dân sự của chủ xe cơ giới [21]. Các bên liên quan cũng phối hợp chặt chẽ trong việc
tiếp nhận thông tin tai nạn, xử lý tai nạn, thu thập hồ sơ tai nạn giao thông phục
vụ cho công tác giám định, giải quyết bồi thường theo quy định hợp đồng bảo
hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, tạo điều kiện cho chủ xe và
người bị tai nạn.
Thứ ba, trong thời gian qua, Cục quản lý, giám sát bảo hiểm cũng đã phối
hợp với Cục Cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt, Hiệp hội Bảo hiểm Việt
Nam rà soát các điểm bán bảo hiểm xe cơ giới tại nhiều tỉnh thành trên cả nước, kịp
thời chấn chỉnh việc bán bảo hiểm sai quy định, việc tham gia hợp đồng bảo hiểm
không đúng với pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó, ý thức chấp hành các quy định
pháp luật cũng được từng bước nâng lên kể cả các doanh nghiệp bảo hiểm, cũng
như chủ phương tiện xe cơ giới. Đây vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của các bên
liên quan. Phía cơ quan chức năng cũng tăng cường kiểm tra, giám sát trong việc
chấp hành các quy định về bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới. Để nâng cao hiệu quả thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ xe cơ giới, đại diện nhiều doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ cũng kiến
nghị các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện kiểm tra, giám sát và thực hiện chế tài
đủ mạnh để răn đe đối với hành vi trục lợi bảo hiểm xe cơ giới và tiếp tay cho hành
vi trục lợi bảo hiểm; cơ quan công an và doanh nghiệp bảo hiểm cần phối hợp mở
rộng mạng lưới bán bảo hiểm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân mua bảo hiểm
thuận lợi.
Thứ tư công tác tuyên truyền cho sự phát triển của hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được tăng cường. Trong thời gian vừa qua, được
sự quan tâm của chính phủ đối với công tác an toàn giao thông và khắc phục hậu
quả của người bị hại sau khi tai nạn giao thông xảy ra, công tác tuyên truyền về ý
nghĩa, tầm quan trọng, cách thức tham gia hợp đồng bảo hiểm và tính chất bắt buộc
của loại hình bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của người tham gia giao thông
đã được tăng cường. Việc tuyên truyền được thực hiện trên nhiều hình thức khác
nhau: trên các phương tiện thông tin đại chúng, loa đài truyền thanh đi vào từng
thôn xóm, trên các loại báo chí, trên internet, trên panô, áp phích quảng cáo, các
53
buổi hội thảo... Hiệu quả của công tác tuyên truyền là ở chỗ, doanh nghiệp bảo hiểm
và người tham gia giao thông đều ý thức được vai trò và trách nhiệm, quyền và
nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới.
Thứ năm, nhận thức về việc tham gia bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới của người dân được cải thiện từng bước. Cùng với
quá trình mở cửa, hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm đã góp phần quan trọng
vào việc tăng cường nhận thức của người dân về vai trò, chức năng của bảo hiểm
nói chung và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nói riêng,
người dân tự nguyện, tự giác tham gia hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới, đặc biệt là hợp đồng bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới. Số liệu từ Bộ Tài chính cho biết, trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ
có 27 doanh nghiệp bảo hiểm triển khai bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới. Trong giai đoạn 10 năm (2008-2017), lượng xe cơ giới tham gia bảo
hiểm và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới khoảng 110,3
triệu lượt xe các loại. Các doanh nghiệp bảo hiểm đã giải quyết được 593.658 vụ tai
nạn giao thông, trong đó có 70.421 trường hợp tử vong. Tổng số tiền bồi thường
giai đoạn 2008 - 2017 khoảng 5.300 tỷ đồng. Tổng doanh thu phí bảo hiểm bắt buộc
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới trong giai đoạn này đạt khoảng 18.110 tỷ
đồng [31].
Thứ sáu, để khắc phục những bất cập trên thực tế, Cục Quản lý, giám sát bảo
hiểm (Bộ Tài chính) đã phối hợp Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam tổ chức hội nghị góp
ý sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ Tài chính về chế độ trong hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới tại Hà Nội, Cần Thơ, TP. Hồ Chí Minh
và Ðà Nẵng (là những địa phương đại diện cho bốn vùng miền trong cả nước) [31].
Tại các hội nghị này, các doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp vận tải đều nhất
trí cao với đề xuất tăng phí và mức trách nhiệm bảo hiểm lên 100 triệu
đồng/người/vụ trong trường hợp nạn nhân bị chết, và bồi thường về thiệt hại tài sản
cao nhất cũng ở mức như vậy, tăng gấp hai lần so với mức 50 triệu đồng/người/vụ
theo quy định hiện hành. Tuy nhiên, mức phí bảo hiểm lại không thể tăng gấp hai
54
lần được, bởi như thế thì gánh nặng sẽ đổ lên vai doanh nghiệp vận tải, mà để thực
hiện nguyên tắc không cào bằng, lấy số đông bù số ít thì chúng tôi cho rằng đối với
các đối tượng có rủi ro cao là xe vận tải hành khách đường dài hay xe đầu kéo công-
ten-nơ, xe taxi, phí bảo hiểm cũng cần tăng lên gấp hai đến ba lần so với mức phí
của xe thông thường, còn lại thì nên tăng thêm khoảng 20% là hợp lý. Ðây cũng là
đề xuất nhận được sự đồng thuận cao của đại diện các doanh nghiệp vận tải tại các
hội nghị trên. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp vận tải
cũng đạt được sự thống nhất cao trong nội dung về phân định lỗi trong giải quyết
bồi thường. Về đề xuất tăng thời hạn tham gia bảo hiểm, các đại diện doanh nghiệp
bảo hiểm và doanh nghiệp vận tải đều cho rằng, cần có hướng dẫn đối với thời hạn
tham gia hợp đồng bảo hiểm trên một năm cũng như đối với thời hạn đóng phí áp
dụng cho một số trường hợp đặc thù như chủ xe là các đơn vị hành chính sự nghiệp,
các đơn vị kinh doanh có nhiều xe. Ngoài ra, các ý kiến đều đồng thuận với việc đề
nghị nâng mức hỗ trợ nhân đạo lên 10 triệu đồng/vụ đối với trường hợp nạn nhân bị
chết và mở rộng hỗ trợ nhân đạo cho các trường hợp bị thương tật toàn bộ vĩnh
viễn. Tiếp thu ý kiến của các doanh nghiệp vận tải, doanh nghiệp bảo hiểm và các
cơ quan liên quan, các cơ quan có thẩm quyền đã nhanh chóng nghiên cứu. Ngoài
ra, song song với việc tiếp tục đẩy mạnh công tác quản lý, giám sát, thanh tra, kiểm
tra việc thực hiện chế độ hợp đồng bảo hiểm này của các doanh nghiệp thì việc phối
hợp tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chế độ trong hợp đồng bảo hiểm
này rất được cơ quan quản lý nhà nước quan tâm.
2.3.2. Một số hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện pháp luật
Cơ sở pháp lý hiện hành của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới là Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010), Nghị
định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Kinh doanh bảo hiểm và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm, Nghị định số
103/2008/NĐ-CP về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới,
Nghị định số 214/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
103/2008/NĐ-CP, Văn bản hợp nhất số 25/VBHN-BTC của Bộ Tài chính về bảo
hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ngày 27/06/2014. Sau 10 năm
55
thực hiện, các quy định tại các văn bản này đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế về cơ chế
chính sách và quá trình tổ chức triển khai thực hiện.
Thứ nhất, ý thức thi hành pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ xe cơ giới trong thời gian vừa qua chưa cao. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm
chưa cân xứng với tiềm năng thị trường. Mặc dù phần lớn người dân nhận thức
được việc tham gia bảo hiểm là nghĩa vụ bắt buộc đồng thời là quyền lợi của họ khi
không may xảy ra tai nạn giao thông, tuy nhiên, số lượng người dân tham gia bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới vẫn chưa cao vẫn chưa cao. Điều này
một phần là do Pháp luật về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới mới dừng lại là hình thức Nghị định do Chính phủ ban hành (Nghị định số
214/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP),
hiệu lực thực thi không cao bằng văn bản do Quốc hội ban hành, mức độ phổ biến
không rộng, chưa đi sâu được vào đời sống của tất cả người dân. Do vậy, thời gian
qua, các doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới chưa tự giác thực hiện hoặc có thực hiện nhưng chỉ mang tính
hình thức.
Thứ hai, Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành có
nhiều điểm còn tồn tại. Cụ thể như sau:
Một là, Luật Kinh doanh bảo hiểm không quy định về trình độ đại lý bảo
hiểm phải tốt nghiệp cao đẳng hoặc đại học: Khoản 1, Điều 86 Luật Kinh doanh bảo
hiểm chỉ quy định đại lý bảo hiểm là công dân Việt Nam, cư trú tại Việt Nam, có
chứng chỉ đại lý bảo hiểm do cơ sở đào tạo do Bộ Tài chính chấp thuận cấp mà
không quy định đại lý bảo hiểm phải tốt nghiệp đại học hay cao đẳng. Điều này thực
tế dẫn đến tình trạng, đại lý bảo hiểm khi được đào tạo khó tiếp thu được các kiến
thức cơ bản về bảo hiểm nên không hiểu được bản chất của sản phẩm bảo hiểm
mình đang khai thác nhất là bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới do đó chỉ quan tâm đến doanh thu khai thác mà không giải thích quyền lợi tham
gia bảo hiểm cho chủ xe cơ giới. Vì vậy, để nâng cao chất lượng đại lý bảo hiểm,
cần thiết phải quy định điều kiện về trình độ của đại lý là phải tốt nghiệp cao đẳng
hoặc đại học.
56
Hai là, Luật Kinh doanh bảo hiểm không có quy định bắt buộc người hành
nghề đại lý phải ký cược, ký quỹ cho doanh nghiệp bảo hiểm: Thời gian vừa qua do
Luật Kinh doanh bảo hiểm không quy định trách nhiệm của người hành nghề đại lý là
phải ký cược, ký quỹ tại doanh nghiệp bảo hiểm nên dẫn đến nhiều đại lý bảo hiểm,
sau khi khai thác xong doanh thu phí bảo hiểm đã lấy luôn doanh thu khai thác và từ
bỏ không làm việc tại doanh nghiệp bảo hiểm, gây thiệt hại cho người tham gia bảo
hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm.
Ba là, theo quy định tại khoản 2, Điều 83 Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày
01/7/2016: “Tổ chức, cá nhân không được đồng thời làm đại lý cho doanh nghiệp
bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài khác nếu không được chấp thuận bằng văn bản của
doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài mà mình đang làm đại lý” [18]. Tuy
nhiên, quy định này chỉ mang tính hình thức, trên thực tế vẫn xuất hiện tình trạng
đại lý bảo hiểm bán bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới cùng một lúc
cho hai doanh nghiệp bảo hiểm. Do cơ quan quản lý bảo hiểm không kiểm soát
được tình trạng đại lý bán bảo hiểm cho hai doanh nghiệp bảo hiểm cùng một lúc
mà không được sự đồng ý bằng văn bản của một trong hai doanh nghiệp bảo hiểm
nên không xuất toán được doanh thu phí bảo hiểm do các đại lý bảo hiểm này khai
thác được.
Thứ ba, mặc dù Nghị định số 214/2013/NĐ-CP ngày 20 tháng 12 năm 2013
đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 9
năm 2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới nhưng vẫn có nhiều điểm chưa cụ thể, chưa phù hợp với thực tế dẫn đến tình
trạng các doanh nghiệp bảo hiểm gặp khó khăn khi thực hiện. Cụ thể như sau:
Một là, tại khoản 4 Điều 20 Nghị định số 103/2008/NĐ-CP, có đưa ra quy
định các doanh nghiệp bảo hiểm không được chi hỗ trợ đại lý bán bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới dưới mọi hình thức ngoài mức hoa hồng bảo hiểm
đại lý được hưởng theo quy định của Bộ Tài chính. Quy định này thực chất là để
tăng cường khả năng giám sát của cơ quan quản lý, giám sát bảo hiểm, ngăn chặn
tình trạng chi hỗ trợ bảo hiểm tràn lan, không kiểm soát, ảnh hưởng đến doanh thu,
hiệu quả kinh doanh bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, gây
57
nên tình trạng tranh giành đại lý hỗn loạn trên thị trường trong thời gian vừa qua.
Tuy nhiên, việc cắt khoản thu nhập của đại lý dưới hình thức chi hỗ trợ trong Nghị
định 103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008 chỉ là giải pháp chủ quan, mang tính tình thế
của cơ quan quản lý, giám sát bảo hiểm và chưa có sự kết hợp đồng bộ với việc giải
quyết vấn đề thu nhập cho đại lý - một lực lượng đông đảo có tính chất quyết định
đối với việc gia tăng doanh thu bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Hai là, theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày
16/9/2008, Quỹ bảo hiểm xe cơ giới sẽ chi hỗ trợ với hai loại hỗ trợ và hai mức khác
nhau cho 2 trường hợp:
Trường hợp thứ nhất, trường hợp không xác định được xe gây tai nạn hoặc xe
không tham gia bảo hiểm, Quỹ bảo hiểm xe cơ giới sẽ xem xét hỗ trợ nhân đạo cho
những thiệt hại xảy ra đối với người thứ ba và hành khách chuyên chở trên xe do xe
cơ giới gây ra.
Trường hợp thứ hai, các trường hợp loại trừ bảo hiểm, Quỹ bảo hiểm xe cơ
giới sẽ xem xét hỗ trợ chi phí mai táng cho người bị hại.
Theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008,
lái xe gây tai nạn cố ý bỏ chạy không thực hiện trách nhiệm của chủ xe, lái xe cơ
giới được coi là một trong những trường hợp loại trừ bảo hiểm, có thể xem xét hỗ trợ
chi phí mai táng cho người bị hại. Tuy nhiên, xét về mặt lý thuyết, lái xe gây tai nạn cố
ý bỏ chạy có thể coi là một trong những trường hợp không xác định được xe gây tai
nạn, trong trường hợp này, người bị hại sẽ được xem xét để bồi thường nhân đạo.
Như vậy, rõ ràng đối với cùng một nội dung, pháp luật lại quy định hai hình
thức hỗ trợ khác nhau.
Thứ tư, hiện nay có sự mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật liên quan tới
hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Cụ thể, theo quy định tại
điểm a, khoản 2, Điều 22 Nghị định số 103/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày
16/9/2008:
“Bộ Công An có trách nhiệm chỉ đạo lực lượng Cảnh sát giao thông và lực
58
lượng Cảnh sát khác liên quan giám sát và kiểm tra các chủ xe cơ giới trong việc:
Yêu cầu chủ xe cơ giới xuất trình Giấy chứng nhận bảo hiểm còn hiệu lực khi làm
thủ tục cấp đăng ký xe”[16].
Điểm 1.2, khoản 1, Mục II Thông tư liên tịch số 35/2009/TT-BTC-BCA của
liên Bộ Tài chính, Bộ Công an hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định
103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới ngày 25/2/2009 cũng quy định:
“Cục Cảnh sát giao thông đường bộ - Đường sắt; Phòng Cảnh sát giao
thông Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Công an quận, huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh khi làm thủ tục cấp đăng ký phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ (sau đây viết gọn là xe cơ giới) phải yêu cầu chủ xe cơ giới xuất trình
Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới còn hiệu
lực”[5].
Theo quy định tại hai văn bản này, khi làm thủ tục cấp đăng ký xe, chủ xe cơ
giới có nghĩa vụ xuất trình Giấy chứng nhận bảo hiểm.
Tuy nhiên, trong Thông tư số 15/2014/TT-BCA ngày 04/04/2014 lại không
có quy định nào yêu cầu chủ xe cơ giới phải xuất trình giấy chứng nhận bảo hiểm
bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới khi thực hiện thủ tục cấp đăng ký xe
cơ giới.
Chính bởi các quy định khác nhau giữa những văn bản pháp luật đã gây ra
những khó khăn nhất định cho người dân và cả cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong việc thực thi pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và
từ đó, làm giảm hiệu quả thực thi pháp luật.
Thứ năm, văn bản hợp nhất 25/VBHN-BTC năm 2014 hợp nhất Nghị định về
bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do Bộ Tài chính ban hành
ngày 27/06/2014 quy định doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi thường thiệt hại
cho chủ xe cơ giới trong trường hợp có hành động cố ý gây thiệt hại của chủ xe, lái
xe hoặc của người bị thiệt hại tại khoản 1 Điều 13 văn bản này. Tuy nhiên, pháp luật
59
về hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nói riêng và
pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nói chung chưa có những quy định cụ thể các
trường hợp nào được coi là hành động cố ý gây thiệt hại của chủ xe, lái xe hoặc của
người bị thiệt hại. Điều 364 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về lỗi cố ý như
sau:
“Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây
thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong
muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra”[28].
Việc giải thích này khi áp dụng đối với lĩnh vực bảo hiểm thì quá chung
chung, dẫn đến việc vận dụng tùy tiện của Tòa án trong việc giải quyết các vụ tranh
chấp về bồi thường bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới vì việc
xác định hành vi nào đó có phải là hành vi cố ý gây thiệt hại thuộc trường hợp loại
trừ bảo hiểm hay không phụ thuộc rất nhiều vào giải thích chủ quan của thẩm phán.
Trên thực tế, do nguyên tắc của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi bổ
sung năm 2010) là luôn giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm (Điều
21, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000) trong các vụ việc như thế này, Tòa án
thường giải quyết theo hướng có lợi cho chủ xe cơ giới và các doanh nghiệp bảo
hiểm luôn luôn là người bị thiệt thòi, ví dụ hành vi cố ý chạy ngang qua đường cao
tốc của người bị hại khi xe cơ giới chạy qua, hành vi vượt đèn đỏ gây tai nạn của
chủ xe cơ giới, hành vi đi vào đường ngược chiều gây tai nạn… Chính việc không
hướng dẫn rõ ràng của pháp luật kinh doanh bảo hiểm đối với trường hợp loại trừ
bảo hiểm này đã gây khó khăn cho doanh nghiệp bảo hiểm khi áp dụng, quyền lợi
của doanh nghiệp bảo hiểm nhiều khi không được đảm bảo.
Tuy nhiên, quy định này khá chung chung và dẫn tới nhiều cách hiểu khác
nhau trong khi áp dụng. Chính việc không hướng dẫn rõ ràng của pháp luật kinh
doanh bảo hiểm đối với trường hợp loại trừ bảo hiểm này đã gây khó khăn cho
doanh nghiệp bảo hiểm khi áp dụng, quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm và cả bên
mua bảo hiểm trong nhiều trường hợp không được bảo đảm.
Thứ sáu, khoản 3 Điều 8 văn bản hợp nhất 25/VBHN-BTC năm 2014 hợp
60
nhất Nghị định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới do Bộ
Tài chính ban hành ngày 27/06/2014 quy định:
“Bộ Tài chính quy định cụ thể về mẫu Giấy chứng nhận bảo hiểm để áp
dụng và quản lý thống nhất trong phạm vi cả nước”[16].
Ưu điểm của việc quy định cụ thể mẫu Giấy chứng nhận bảo hiểm, bao gồm
cả bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự và bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự
để các doanh nghiệp áp dụng theo là để đảm bảo sự thống nhất trong việc quản lý
hình thức của Giấy chứng nhận bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy
nhiên, hạn chế của quy định này là tính thủ công, không phù hợp với xu hướng phát
triển của giao dịch điện tử. Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển một cách
bùng nổ như hiện nay, các giao dịch, các hợp đồng thực hiện qua hệ thống internet
sẽ giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian, chi phí và tăng tính hiệu quả của
việc kiểm soát các giao dịch thực hiện hàng ngày. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm nhỏ lẻ như bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, phần
lớn các giao dịch được thực hiện thông qua các đại lý bảo hiểm, việc thực hiện giao
dịch điện tử sẽ giúp cho doanh nghiệp kiểm soát được một cách hiệu quả số lượng
hợp đồng bảo hiểm được ký kết, giảm thiểu việc thất thoát cho doanh nghiệp bảo
hiểm do hành vi trục lợi của đại lý bảo hiểm. Từ đó, để giúp doanh nghiệp bảo hiểm
kiểm soát được số lượng thực tế của các hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới được đại lý bảo hiểm ký kết với người mua bảo hiểm, giải pháp cần
thiết là phải mở rộng hình thức giao kết hợp đồng dưới dạng thư điện tử [32, tr.73].
61
Tiểu kết chương 2
Việc nghiên cứu các yếu tố liên quan đến hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ xe cơ giới như chủ thể của hợp đồng, hình thức, nội dung, hiệu lực của
hợp đồng, giới hạn trách nhiệm bảo hiểm cũng như các trường hợp loại trừ trách
nhiệm bảo hiểm là cơ sở để phân tích pháp luật, chính sách bảo hiểm trên cơ sở đó
chỉ ra được những mặt ưu điểm, những hạn chế, tồn tại của chính sách và tìm kiếm
các giải pháp tích cực nhằm khắc phục và phát huy tính ưu việt của loại hình bảo
hiểm này.
Đánh giá thực trạng pháp luật, thực tiễn thi hành pháp luật về hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, luận văn đã chỉ ra được những ưu điểm
và những tồn tại, hạn chế của hệ thống pháp luật, chính sách về bảo hiểm trách
nhiệm của chủ xe cơ giới và việc tuân thủ pháp luật, chính sách của Nhà nước.
Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới trong
thời gian qua đã tạo ra hành lang pháp lý đồng bộ cho thị trường bảo hiểm phát triển
lành mạnh. Việc tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp bảo hiểm, người tham gia bảo
hiểm được nâng cao. Các bộ, ngành đã có sự phối hợp thường xuyên hơn trong
công tác triển khai thực hiện pháp luật liên quan tới hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới.
Tuy nhiên, xuất phát từ một số nguyên nhân: nhận thức của người tham gia
bảo hiểm về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của của chủ xe cơ giới chưa
cao, các doanh nghiệp bảo hiểm chủ trương chạy theo mục tiêu doanh thu, lợi
nhuận, công nghệ quản lý lạc hậu, công tác kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý,
giám sát bảo hiểm còn mỏng, hời hợt, chưa xử lý nghiêm các doanh nghiệp cố tình
vi phạm, việc ban hành cơ chế chính sách chưa sát với thực tế,... nên mức độ tuân
thủ pháp luật chưa cao, tạo ra những khó khăn nhất định trong quá trình triển khai
thực hiện.
62
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM
DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI
3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Trong thời gian qua, pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới đã được thực thi và áp dụng một cách có hiệu quả và trên thực tế đã
cho thấy tính hiệu quả cao. Tuy nhiên, như đã phân tích ở phần trước của luận văn,
pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới cũng bộc lộ
một số hạn chế nhất định.
Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra hiện nay là phải có những giải pháp nhằm hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, tiếp tục bổ sung hoàn thiện khung pháp lý cho hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Từ đó, cả các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, các doanh nghiệp bảo hiểm và cả những người chủ xe cơ giới mua bảo hiểm
trách nhiệm dân sự sẽ có căn cứ để thực hiện và chấp hành pháp luật một cách hiệu
quả hơn.
Thứ hai, tăng cường kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp bảo hiểm kinh
doanh bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới để đảm bảo cho việc thực
hiện pháp luật được minh bạch và chính xác nhất.
Thứ ba, tổ chức tuyên truyền giáo dục pháp luật về hợp đồng hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới sao cho người dân có hiểu biết nhất định về sự cần
thiết của loại hợp đồng bảo hiểm này, từ đó nâng cao hiệu quả của việc thực thi
pháp luật.
Thứ tư, xây dựng các thiết chế hỗ trợ quản lý nhà nước về hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, từ đó, việc thực hiện pháp luật sẽ đạt
được hiệu quả một cách toàn diện nhất.
63
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Dựa trên thực tiễn, tác giả luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện
quy định pháp luật về Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
như sau: hoàn thiện khung pháp lý cho hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới. Khung pháp lý cho hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới hiện vẫn còn nhiều điểm bất cập. Kiến nghị này được đề xuất bao gồm
giải pháp cụ thể như sau: “Xây dựng riêng về Luật Bảo hiểm xe cơ giới”.
Hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới mới chỉ ở tầm Nghị định do Chính phủ ban
hành. Điều đó dẫn đến hệ quả hiệu lực thực thi của loại hình hợp đồng bảo hiểm này
chưa cao. Do vậy, về lâu dài, để nâng cao hiệu quả và hiệu lực thực thi pháp luật về
hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, cần nghiên cứu nhiều
hơn về quy định của hợp đồng bảo hiểm. Kế thừa các quy định pháp luật hiện hành về
hợp đồng, các cơ quan cần lưu ý một số quy định sau:
Một là, quy định cụ thể và rõ ràng về loại hình hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự bắt buộc và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự tự nguyện (tránh
trường hợp gộp chung dẫn đến tình trạng không minh bạch trong việc giải quyết bồi
thường, theo dõi thống kê, quảng cáo, khuyến mại bất hợp pháp.
Hai là, quy định rõ ràng về chức năng và vai trò của các doanh nghiệp bảo
hiểm, quy định cụ thể về quyền lợi và nghĩa vụ của chủ xe cơ giới, nhằm giảm thiểu
những tranh chấp không mong muốn do nội dung của hợp đồng bảo hiểm gây ra.
Ba là, kiểm soát tình trạng tham gia hợp đồng bảo hiểm của các chủ xe cơ
giới, tránh tình trạng xây dựng hợp đồng giả khi có tai nạn hoặc sự kiện ngoài
mong muốn xảy ra.
Bốn là, đưa ra các chính sách tốt đối với trường hợp các xe tham gia hợp
đồng bảo hiểm nhiều năm hoặc là có tham gia bảo hiểm trong nhiều năm liên tiếp
mà không gây tai nạn.
64
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
Cần thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới như sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp bảo hiểm
kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự, bảo hiểm tự nguyện
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới. Nâng cao năng lực cơ quan quản lý, giám sát
bảo hiểm. Kinh doanh bảo hiểm là một chuyên ngành tài chính, đòi hỏi cán bộ, công
chức có hiểu biết nghiệp vụ sâu sắc, có tầm nhìn bao quát, biết phân tích dự báo tình
hình, am hiểu thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp. Ngoài ra, cán bộ, công
chức phải xây dựng định hướng, các giải pháp phát triển và là những người trực tiếp
thực thi các giải pháp đó trong bối cảnh thị trường mở, hội nhập với thị trường quốc
tế và khu vực. Vì vậy, việc nâng cao năng lực quản lý gắn liền với nâng cao năng
lực cán bộ, công chức.
Thứ hai, đổi mới phương thức quản lý doanh nghiệp bảo hiểm theo hướng:
- Thay đổi phương thức quản lý bị động sang chủ động; yêu cầu doanh
nghiệp phải tự xây dựng quy trình quản trị, điều hành doanh nghiệp, tự phát hiện,
xử lý những sai phạm.
- Cơ quan quản lý nhà nước thực hiện việc quản lý giám sát doanh nghiệp
thông qua các quy trình của chính doanh nghiệp để chủ động giám sát, xử lý và
thông qua các chỉ tiêu giám sát quản lý mang tính chất khách quan và được công
khai hoá.
- Tăng quyền chủ động và tính tự chịu trách nhiệm cho các doanh nghiệp, về
các vấn đề liên quan đến nội dung các báo cáo, kết quả hoạt động và trong việc thực
hiện các quy định của pháp luật.
- Hạn chế sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Hoạt động quản lý mang tính chuyên nghiệp. Quan hệ giữa cơ quan quản lý
và doanh nghiệp dựa trên tinh thần hợp tác, xây dựng.
Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp bảo hiểm
thông qua việc:
65
- Tập trung đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp, khả năng thanh
toán, trích lập dự phòng, tình hình cạnh tranh, hoạt động đại lý bảo hiểm…
- Chú trọng công tác tổng hợp, phân tích, dự báo về tình hình thị trường
trong nước và quốc tế, việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm (trong đó có bảo hiểm bắt
buộc trách nhiệm dân sự và bảo hiểm tự nguyện trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới) và tình hình hoạt động của từng doanh nghiệp bảo hiểm nhằm phục vụ cho việc ra
các quyết định quản lý - giám sát một cách khoa học, sát với thực tế và phù hợp với
thông lệ, từng bước xây dựng và hình thành cơ sở dữ liệu thông tin thị trường.
- Kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, giữ vững trật tự, kỷ cương và đảm bảo
môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, cạnh tranh lành mạnh và
đúng pháp luật.
- Tiếp tục cải cách, đơn giản hoá các thủ tục hành chính; phấn đấu rút ngắn
thời gian và nâng cao chất lượng xử lý công việc; bám sát tình hình hoạt động của
doanh nghiệp để kịp thời phát hiện các vấn đề phát sinh và đề xuất biện pháp giải
quyết phù hợp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật; chủ động đổi mới mối quan hệ giữa cơ quan quản lý bảo hiểm và doanh nghiệp
trên cơ sở quan hệ đối tác xây dựng, hợp tác và thẳng thắn vì sự phát triển chung của
thị trường.
Thứ tư, xây dựng các thiết chế hỗ trợ quản lý nhà nước về hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới như:
- Thành lập riêng quỹ bồi thường nhân đạo
- Thành lập cơ quan giải quyết bồi thường trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới theo hợp đồng và ngoài hợp đồng bảo hiểm.
- Đẩy mạnh công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Do đề phòng và hạn chế
tổn thất có quan hệ chặt chẽ với nhau, do vậy, thực hiện tốt công tác đề phòng hạn
chế tổn thất do hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới gây ra là
một giải pháp có ý nghĩa xã hội to lớn, nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra, đem lại
lợi ích cho chủ xe cơ giới, đồng thời cũng đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp bảo
hiểm và cho toàn xã hội. Các doanh nghiệp bảo hiểm cần phối hợp chặt chẽ với các
66
cơ quan chức năng có liên quan như giao thông công chính, công an để tăng cường
hệ thống biển báo chỉ đường, xây dựng đường lánh nạn, các đèo dốc nguy hiểm, hỗ
trợ kinh phí tổ chức cuộc thi lái xe an toàn và tuyên truyền giáo dục luật an toàn
giao thông. Đưa ra các cách quản lý rủi ro giúp khách hàng loại trừ hoặc kiểm soát
được rủi ro có khả năng gây tổn thất như: đưa xe đi bảo dưỡng, kiểm tra định kỳ,
thường xuyên, không nên chở người hoặc hàng hóa quá tải trên xe, đưa ra các thông
tin về tình hình tai nạn giao thông trong nước, giúp khách hàng thấy được rủi ro về
việc điều khiển xe tham gia giao thông, từ đó, khách hàng sẽ nhận thức được vai trò
quan trọng khi tham gia hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
- Thành lập trung tâm giám định bồi thường độc lập hoặc xây dựng quy định
về việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn, quy trình giám định bồi thường, bảng giá
phụ tùng... đối với các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ xe cơ giới. Giám định và bồi thường tổn thất là khâu quan trọng nhất
trong giải quyết vấn đề của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Làm tốt khâu
này sẽ là phương thức hữu hiệu nhất để quảng bá cho doanh nghiệp bảo hiểm, tăng
độ tin cậy của khách hàng cho doanh nghiệp bảo hiểm. Do đó, để thực hiện tốt khâu
này, các doanh nghiệp bảo hiểm cần: đơn giản các thủ tục bồi thường, giảm bớt
những giấy tờ, công đoạn không cần thiết, hướng dẫn khách hàng thực hiện các thủ
tục kê khai thông tin trong hồ sơ bồi thường cũng như phải thu thập các loại giấy tờ
gì để tránh việc khách hàng phải đi lại nhiều lần. Việc bồi thường cần tiến hành
nhanh chóng để khách hàng kịp thời khắc phục tổn thất, ổn định cuộc sống; các
doanh nghiệp bảo hiểm cần phối hợp với các cơ quan chức năng như cảnh sát giao
thông, y tế, bệnh viện,…giúp cho việc xác minh, thu thập thông tin thuận lợi và
nhanh chóng hơn; Hạn chế tối thiểu việc giải quyết chậm, không giải quyết hồ sơ
tồn đọng khi khách hàng gặp rủi ro trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
- Tổ chức tuyên truyền về pháp luật bảo hiểm xe cơ giới trên các phương tiện
thông tin đại chúng, các biển hiệu... để doanh nghiệp bảo hiểm, người dân hiểu và
nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của pháp luật; hỗ trợ thực hiện công tác đề
phòng và hạn chế tai nạn giao thông như xây dựng hành lang an toàn giao thông, hỗ
trợ xây dựng biển báo… góp phần làm giảm tai nạn giao thông. Các kênh thông tin
67
khác như Internet và thông tin qua cơ quan trung gian và các đối tác kinh doanh
cũng được áp dụng như: các tờ rơi, các cuốn sách giới thiệu về nội dung, tác dụng
của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nên được phát rộng
rãi cho mọi người dân, hoặc được đặt ở các lối vào của các doanh nghiệp bảo hiểm
cũng như một số công sở nhiều người đi lại; Cử các nhân viên của doanh nghiệp
bảo hiểm đến gặp khách hàng tại nơi khách hàng yêu cầu, và cung cấp cho họ thông
tin trên cơ sở đáp ứng đầy đủ những thông tin cần thiết nhất; Thông qua các đại lý
doanh nghiệp bảo hiểm, cơ quan trung gian của doanh nghiệp bảo hiểm có thể thiết
lập cho họ các chương trình đối với đại lý và cơ quan trung gian cung cấp cho họ tài
liệu về quảng cáo, do vậy họ có thể dễ dàng chuyển tải một cách dễ dàng kiến thức
về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới tới khách hàng; Để
phục vụ cho khách hàng hiện có và các khách hàng tiềm năng, các doanh nghiệp
bảo hiểm cần cung cấp thông tin hoạt động về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ xe cơ giới, cập nhập liên tục thông tin trên các mạng xã hội,…..
Thứ năm, trong bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra khẩn trương, hội nhập
kinh tế quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm được Chính phủ Việt Nam xác định là một
tất yếu. Hội nhập đem đến nhiều cơ hội cũng như đặt ra những thách thức mới, đòi
hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước phải có sự chuẩn bị nghiêm túc, chủ
động đánh giá khách quan, toàn diện về bản thân doanh nghiệp, trên cơ sở đó tích
cực chuẩn bị cho hội nhập một cách tự tin, tìm cho mình một lối đi riêng, một chiến
lược hành động riêng nhằm đứng vững và phát triển ổn định trên thị trường. Để góp
phần vào việc thực hiện pháp luật hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới một cách hiệu quả, các doanh nghiệp bảo hiểm cần chủ động thực hiện
các biện pháp sau:
- Phát triển nguồn nhân lực. Đội ngũ cán bộ giỏi nghiệp vụ, nhiệt huyết với
công việc chính là giá trị cốt lõi làm nên thành công của một doanh nghiệp. Để có
được những thành công lớn hơn nữa trong thời gian tới, các doanh nghiệp bảo hiểm
cần tập trung cho công tác tuyển dụng, đào tạo và nâng cao nghiệp vụ cũng như luân
chuyển cán bộ nghiệp vụ để phù hợp và tăng cường trình độ đáp ứng các nhu cầu
hội nhập. Đối với những cán bộ trẻ, có tiềm năng và cán bộ chủ chốt, các doanh
68
nghiệp bảo hiểm cần mạnh dạn đào tạo chuyên sâu để họ có thể phát huy khả năng
và dẫn dắt những cán bộ cấp dưới của mình hoàn thành tốt nhiệm vụ theo mục tiêu,
kế hoạch mà doanh nghiệp bảo hiểm đã đặt ra. Đẩy mạnh đào tạo chuyên môn cho
cán bộ bảo hiểm dưới nhiều hình thức, nhằm nhanh chóng bồi dưỡng, đào tạo
những nhân tài đang còn thiếu và những nhân tài toàn diện nắm vững kỹ thuật
chuyên môn và những kiến thức có liên quan. Đặc biệt phải coi trọng kết quả đào
tạo, phải tạo ra môi trường thông thoáng để nhân tài phát triển tài năng, đồng thời
phải hết sức coi trọng một cách lâu dài, cần xác định rõ nhu cầu đào tạo, mục tiêu
đào tạo,…
- Đầu tư phát triển hệ thống công nghệ thông tin. Hệ thống công nghệ thông
tin và phần mềm quản lý bảo hiểm chuyên nghiệp, hiện đại chính là một lợi thế
cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Hệ thống thông tin hiện đại giúp khách
hàng nhanh chóng, dễ dàng tiếp cận hơn với các doanh nghiệp bảo hiểm và nó cũng
giúp khách hàng hiểu hơn về các dịch vụ bảo hiểm và quyền lợi của họ khi tham gia
hợp đồng bảo hiểm. Phần mềm quản lý bảo hiểm chuyên nghiệp, hiện đại lại giúp
các doanh nghiệp bảo hiểm quản lý thông tin khách hàng một cách chính xác và đầy
đủ hơn, đồng thời giúp doanh nghiệp bảo hiểm phân tích và quản lý rủi ro một cách
hiệu quả. Vì vậy, trong thời gian tới doanh nghiệp bảo hiểm cần đầu tư mạnh hơn
cho hệ thống công nghệ thông tin và phần mềm quản lý để quản lý tốt hơn tình hình
khai thác, bồi thường hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới của doanh nghiệp, đảm bảo an toàn hệ thống khi
vận hành, quản lý rủi ro, hạn chế tình trạng trục lợi bảo hiểm và phân tích hoạt động
một cách có hiệu quả, cụ thể: tin học hoá công tác quản lý hợp đồng từ khâu thẩm
định rủi ro, khai thác, quản lý hợp đồng, đến các khâu bồi thường, trả tiền bảo hiểm.
- Nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm. Hiện tại, các doanh nghiệp bảo
hiểm Việt Nam không chú trọng vào chất lượng dịch vụ mà chủ yếu cạnh tranh
nhau trên cơ sở giảm phí và trả hoa hồng sai quy định cho khách hàng. Với chiến
lược kinh doanh như hiện nay thì khi các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tham
gia vào thị trường Việt Nam càng nhiều thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm
Việt Nam sẽ càng nhỏ, khả năng thua lỗ phải rút khỏi thị trường càng cao. Trong
69
điều kiện thị trường bảo hiểm cạnh tranh gay gắt như vậy, muốn duy trì và phát
triển hoạt động kinh doanh, trước hết các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và các
doanh nghiệp bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới nói riêng phải xây
dựng chiến lược nguồn nhân lực nhằm hướng tới sự hài lòng của khách hàng, sau
đó, cần cải tiến quy trình phục vụ khách hàng, cần có những chương trình ưu đãi
khách hàng khi hợp đồng trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới mà khách hàng ký
kết hết hiệu lực và có mong muốn ký kết tiếp hợp đồng mới, các chương trình ưu
đãi hấp dẫn như sau: tặng quà trong những dịp lễ tết, sinh nhật, trong tư vấn đề
phòng và hạn chế tổn thất, kiểm soát viên tư vấn cho khách hàng những vấn đề về
cách phòng tránh, hạn chế những rủi ro có thể xảy ra. Sự hài lòng của khách hàng
làm tăng uy tín của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp ký kết được nhiều hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; phục vụ tận nhà cho khách hàng,
không phân biệt khách hàng là người nông thôn hay thành thị, nam hay nữ, già hay
trẻ, giàu hay nghèo,..; tổ chức hội nghị khách hàng để tiếp thu ý kiến phản hồi của
khách hàng về những khó khăn khách hàng gặp phải trong quá trình thực hiện hợp
đồng trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
- Đẩy mạnh phát triển mạng lưới và các kênh phân phối. Muốn nhanh chóng
tiếp cận và phân phối sản phẩm tới khách hàng, các doanh nghiệp bảo hiểm cần đẩy
mạnh công tác phát triển mạng lưới và các kênh phân phối, bao gồm: Mở rộng
mạng lưới chi nhánh; Đào tạo đội ngũ đại lý có hiểu biết chuyên sâu về các hợp
đồng dịch vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới mà mình cung cấp để
có thể tư vấn cho khách hàng;
- Thực hiện tốt công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. Đây chính là ý nghĩa
xã hội to lớn mà các doanh nghiệp bảo hiểm đem lại và là ưu thế của ngành bảo
hiểm trong việc phục vụ sản xuất, đời sống xã hội. Tăng cường hợp tác, chia sẻ
thông tin giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong công tác khai thác, giám định, bồi
thường để nâng cao hiệu quả hoạt động, chống trục lợi bảo hiểm, hạn chế cạnh
tranh không lành mạnh.
70
Tiểu kết chương 3
Để thực thi có hiệu quả pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ xe cơ giới cần kết hợp và thực hiện đồng bộ các giải pháp từ phía cơ
quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và hiệp
hội bảo hiểm Việt Nam: hoàn thiện khung pháp lý cho hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, nâng cao năng lực cơ quan quản lý, giám sát bảo
hiểm, đổi mới phương thức quản lý, tăng cường kiểm tra, giám sát các doanh
nghiệp bảo hiểm kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, xây dựng các thiết chế hỗ trợ
triển khai thực hiện; doanh nghiệp bảo hiểm tự chủ nâng cao năng lực cán bộ, phát
triển kênh phân phối, đầu tư công nghệ thông tin …, người tham gia hợp đồng bảo
hiểm tự giác trau dồi, nâng cao kiến thức và hiểu biết của mình về bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, các Bộ, ngành nâng cao trách nhiệm của mình
trong việc phối hợp với doanh nghiệp bảo hiểm, cơ quan quản lý, giám sát bảo
hiểm thực thi pháp luật bảo hiểm này.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ là cơ sở để pháp luật về hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới thực sự đi vào cuộc sống, là một
phần không thể thiếu được của xã hội hiện đại. Các cơ quan nhà nước nên tích cực
đẩy mạnh tổ chức tuyên truyền pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới; phổ biến và giải thích đầy đủ về nội dung, ý nghĩa và mục đích
của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đến toàn thể nhân dân, để các
chủ xe hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ của họ khi tham gia bảo hiểm, phổ biến các hình
thức cung cấp bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
71
KẾT LUẬN
Chế định về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là một
chế định quan trọng và thực tế đã có được sự chỉ đạo và giám sát chặt chẽ từ các cơ
quan quản lý nhà nước thông qua quy định việc tham gia bảo hiểm bắt buộc trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là bắt buộc đối với tất cả các chủ xe cơ giới trong
phạm vi lãnh thổ Việt nam. Đồng thời, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng nghiên
cứu, sửa đổi, bổ sung và thường xuyên ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành
sao cho phù hợp và bắt kịp với xu thế phát triển của thị trường.
Tuy nhiên, pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới thực sự vẫn chưa được triển khai hiệu quả, mức độ tuân thủ pháp luật chưa cao
xuất phát do nhiều nguyên nhân, bao gồm cả chủ quan và khách quan, như nguyên
nhân từ phía các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp bảo hiểm, người tham
gia bảo hiểm và từ chính những hạn chế và nhược điểm của văn bản quy phạm pháp
luật và các chính sách của Nhà nước về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới.
Trên cơ sở phân tích những mặt tồn tại, hạn chế của pháp luật và việc thực thi
pháp luật; những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những tồn tại hạn chế đó từ đó luận
văn chỉ ra những giải pháp chủ yếu để nâng cao mức độ tuân thủ pháp luật và đảm
bảo pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được
triển khai một cách toàn diện và đồng bộ ở Việt Nam hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả đã cố gắng nghiên cứu tài liệu, tư
liệu, tuy nhiên, luận văn chắc chắn còn nhiều hạn chế. Tác giả rất mong nhận được
sự chỉ dẫn, góp ý của các nhà khoa học, các thầy cô giáo và các đồng nghiệp để luận
văn được hoàn thiện hơn.
72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính (2003) Quyết định số 23/2003/QĐ-BTC ngày 25/02/2003 về việc
ban hành chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới,
ban hành ngày 25/02/2003, Hà Nội;
2. Bộ Tài chính (2007) Quyết định số 23/2007/QĐ-BTC ngày 9/4/2007 thay thế
Quyết định số 23/2003/QĐ-BTC ngày 25/2/2003 về việc ban hành chế độ bảo
hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, ban hành ngày
09/04/2007, Hà Nội;
3. Bộ Tài chính (2007) Thông tư số 155/2007/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị
định 45/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007, ban hành ngày 20/12/2007, Hà Nội;
4. Bộ Tài chính (2007) Thông tư số 156/2007/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị
định 46/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007, ban hành ngày 20/12/2007, Hà Nội;
5. Bộ Tài chính – Bộ Công an (2009) Thông tư Liên tịch số 35/2009/TTLT-BTC-
BCA ngày 25/2/2009 của Liên Bộ Tài chính – Bộ Công an hướng dẫn thực
hiện một số điều của Nghị định số 103/2008/NĐ- CP của Chính phủ về bảo
hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, ban hành ngày 25/2/2009,
Hà Nội;
6. Bộ Tài chính (2009) Thông tư số 103/2009/TT-BTC quy định việc quản lý, sử
dụng, thanh toán và quyết toán quỹ bảo hiểm xe cơ giới, ban hành ngày
25/5/2009, Hà Nội;
7. Bộ Tài chính (2012) Thông tư số 151/2012/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông
tư số 126/2008/TT-BTC, ban hành ngày 12/09/2012, Hà Nội;
8. Bộ Tài chính (2014) Thông tư số 43/2014/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số
điều của Thông tư số 126/2008/TT-BTC ngày 22/12/2008 của Bộ tài chính quy
định quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, ban hành ngày 11/04/2014, Hà Nội;
9. Bộ Tài chính (2014) Văn bản hợp nhất số 25/VBHN-BTC năm 2014 hợp nhất
Nghị định về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, ban
hành ngày 27/6/2014, Hà Nội;
73
10. Bộ Tài chính (2014) Văn bản hợp nhất số 37/VBHN-BTC của Bộ tài chính quy
định quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, ban hành ngày 29/07/2014, Hà Nội;
11. Bộ Tài chính (2016) Thông tư số 22/2016/TT-BTC quy định quy tắc, điều
khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự
của chủ xe cơ giới, ban hành ngày 16/02/2016, Hà Nội;
12. Bộ Tài chính (2017) Thông tư số 50/2017/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị
định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm
và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, ban hành
ngày 15/05/2017, Hà Nội;
13. Bộ Tài chính (2018) “Bảo hiểm-đề xuất chi bồi thường nhân đạo cho nạn nhân
tử vong do xe cơ giới gây ra”,< http://tapchitaichinh.vn/bao-hiem/de-xuat-chi-
boi-thuong-nhan-dao-cho-nan-nhan-tu-vong-do-xe-co-gioi-gay-ra
300450.html>,(05/12/2018);
14. Chính phủ (2007) Nghị định số 45/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một
số điều Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, ban hành ngày 27/03/2007, Hà
Nội;
15. Chính phủ (2007) Nghị định số 46/2007/NĐ-CP quy định chế độ tài chính
trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, ban hành ngày 27/03/2007, Hà Nội;
16. Chính phủ (2008) Nghị định số 103/2008/NĐ-CP về bảo hiểm bắt buộc trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, ban hành ngày 16/09/2008, Hà Nội;
17. Chính phủ (2013) Nghị định số 214/2013/NĐ-CP sửa đổi Nghị định
103/2008/NĐ-CP về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới, ban hành ngày 20/12/2013, Hà Nội;
18. Chính phủ (2016) Nghị định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh
doanh bảo hiểm, ban hành ngày 01/07/2016, Hà Nội;
19. Nguyễn Văn Định (2008) Giáo trình bảo hiểm, Nhà xuất bản Đại học quốc gia
Hà Nội, 19, tr.9;
74
20. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam (2009), Tạp chí bảo hiểm – tái bảo hiểm Việt
Nam, các số 2006-2009; Hà Nội;
21. Hồng Chi (2015) “Nâng cao ý thức về bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới”, 12-31/nang-cao-y-thuc-ve-bao-hiem-trach-nhiem-dan-su-cua-chu-xe-co-gioi- 16704.aspx>, (03/01/2015); 22. Nguyễn Vũ Hải Hà (2018) Tin thị trường của Bảo hiểm bưu điện PTI, ban hành ngày 17/09/2018; 23. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam (2018) Số liệu thị trường Bảo hiểm Việt Nam 9 tháng năm 2018”, tháng 11-2018, Hà Nội; 24. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam (2019) Khuyến khích chủ xe cơ giới tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự, ban hành ngày 04/01/2019, Hà Nội; 25. Võ Thị Pha (2005) Giáo trình lý thuyết bảo hiểm, Nhà xuất bản tài chính; 26. Quốc hội (2000) Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10, ban hành ngày 09/12/2000, Hà Nội; 27. Quốc hội (2005) Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11, ban hành ngày 14/06/2005, Hà Nội; 28. Quốc hội (2010) Luật Kinh doanh bảo hiểm số 61/2010/QH12, ban hành ngày 24/11/2010, Hà Nội; 29. Quốc hội (2015) Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13, ban hành 24/11/2015, Hà Nội; 30. Phạm Văn Tuyết (2007) Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam, Nxb Tư pháp Hà Nội; 31. Sông Trà (2012) “Bất cập trong triển khai bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, .html>, (27/05/2012). 32. Vũ Thu Trang (2011) Pháp luật về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. 75