ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN HÀ NỘI ----------------------------------------------- PHẠM ĐÌNH THẮNG HỢP TÁC VĂN HOÁ VIỆT NAM - ASEAN TỪ 1995 ĐẾN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC Hà Nội - 2008
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN HÀ NỘI ----------------------------------------------- PHẠM ĐÌNH THẮNG HỢP TÁC VĂN HOÁ VIỆT NAM - ASEAN TỪ 1995 ĐẾN NAY
Chuyên ngành : Quan hệ quốc tế Mã số : 60.31.40
LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÀNH QUỐC TẾ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Ngô Văn Doanh Hà Nội - 2008
Các chữ viết tắt
AC
ACC
ACF
AEC
AFTA
AMCA
AMM
AMRI
ARF
ASC
ASC
ASEAN-COCI
: ASEAN Community Cộng đồng ASEAN : ASEAN Socio-Cultural Community Cộng đồng Văn hóa Xã hội : ASEAN Cultural Fund Quỹ Văn hóa ASEAN : ASEAN Economic Community Cộng đồng Kinh tế : ASEAN Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do ASEAN : ASEAN Ministers Responsible for Culture and Arts Hội nghị Bộ trưởng phụ trách Văn hoá và Nghệ thuật ASEAN : ASEAN Ministerial Meeting Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN : ASEAN Ministers Responsible for Information Hội nghị Bộ trưởng Thông tin ASEAN : ASEAN Regional Forum Diễn đàn khu vực ASEAN : ASEAN Standing Committee Ủy ban Thường trực ASEAN : ASEAN Security Community Cộng đồng An ninh : ASEAN Committee on Culture and Information Ủy ban Văn hóa-Thông tin ASEAN
ASEAN
CEPT
COC
IAI
SCC
SCI
SOM
SEANWFZ
TAC
ZOPFAN
: Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á : Agreement On The Common Effective Preferential Tariff Chương trình thuế quan ưu đãi hiệu lực chung : Code of Conduct for South China Sea Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông : Initiative for ASEAN Integration Sáng kiến liên kết ASEAN : ASEAN Sub Committee on Culture Tiểu ban Văn hóa : ASEAN Sub Committee on Information Tiểu ban Thông tin : Senior Officials Meeting Hội nghị Viên chức Cấp cao : Southeast Asia Nuclear Weapon Free Zone Khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân : Treaty of Amity and Cooperation in Southeast Asia Hiệp ước thân thiện và hợp tác : Zone of Peace, Freedom and Neutrality Khu vực hòa bình tự do trung lập
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu .............................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 3
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ........................................ 3
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 4
6. Dư kiến đóng góp của đề tài ................................................................... 4
7. Cấu trúc của đề tài nghiên cứu gồm có 3 phần thuộc 3 chương .............. 5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VĂN HOÁ KHU VỰC ĐÔNG NAM Á .......... 6
1. Khái niệm văn hóa .................................................................................. 6
2. Văn hóa bản địa Đông Nam Á ................................................................ 9
3. Ảnh hưởng văn hoá Ấn Độ ................................................................... 13
3.1. Sự có mặt của Ấn Độ giáo ............................................................. 13
3.2. Sự có mặt của Phật giáo Tiểu thừa ................................................ 15
4. Ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc .......................................................... 19
4.1. Sự ảnh hưởng của Nho giáo ........................................................... 21
4.2. Sự có mặt của Phật giáo Đại thừa .................................................. 23
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VÀ NGUYÊN TẮC HỢP TÁC VĂN HOÁ VIỆT
NAM-ASEAN NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ 21 ................................................ 26
1. Những vấn đề đặt ra cho ASEAN và Việt Nam .................................... 26
2. Nguyên tắc chung trong hợp tác văn hóa Việt Nam-ASEAN ................ 30
2.1. Thống nhất trong đa dạng .............................................................. 30
2.2. Tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc
nội bộ ....................................................................................... 32
3. Quá trình phát triển hợp tác văn hóa ASEAN ...................................... 33
3.1. Lịch sử phát triển và hợp tác văn hóa-thông tin ASEAN ............... 33
3.2. Một số lĩnh vực hợp tác văn hoá ASEAN tới đây .......................... 38
3.2.1. Hợp tác phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh văn hoá ... 38
3.2.2. Phát triển doanh nghiệp sản xuất sản phẩm văn hoá có quy mô
vừa và nhỏ ........................................................................................ 39
3.2.3. Tăng cường, đẩy mạnh hợp tác song phương ASEAN ............. 40
3.2.4. Tăng cường liên kết, hợp tác văn hoá với các nước đối thoại
của ASEAN ...................................................................................... 41
4. Quá trình phát triển quan hệ văn hoá Việt Nam-ASEAN ..................... 42
CHƯƠNG 3. NHỮNG DẤU MỐC VÀ THÀNH TỰU BAN ĐẦU TRONG QUAN HỆ VĂN HÓA VIỆT NAM-ASEAN......................................................................................47
1. Những dấu mốc hợp tác văn hoá........................................................... 47
2. Hợp tác văn hóa-thông tin Việt Nam-ASEAN ...................................... 54
3. Một số thành tựu ban đầu ..................................................................... 58
3.1. Hợp tác trong lĩnh vực văn hóa và nghiên cứu về ASEAN ........... 59
3.2. Hợp tác trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn và trưng bày .............. 61
3.3. Hợp tác trong lĩnh vực thông tin .................................................... 62
3.4. Hợp tác song phương với các nước ASEAN ................................. 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
PHẦN MỞ ĐẦU
1, Tính cấp thiết của đề tài:
Đông Nam Á trong lịch sử vốn là một khu vực từng bị chia rẽ bởi hệ tư
tưởng, sự nghi kỵ và cả chiến tranh. Đã có lúc khu vực này được ví như
“Thùng thuốc súng” của Châu Á. Ngày nay, 11 quốc gia trong khu vực Đông
Nam Á đã liên kết thành một hiệp hội ASEAN và hướng tới hình thành cộng
đồng ASEAN với ba “trụ cột” chính vào năm 2015: Cộng đồng Anh ninh-
Chính trị, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hoá Xã hội (Hội nghị cấp
cao ASEAN lần thứ IX họp tại Bali (Indonesia) tháng 10/2003, những người
đứng đầu chính phủ và quốc gia thuộc ASEAN đã nhất trí thông qua Tuyên
bố hoà hợp Bali II). Hướng đi của ASEAN là trở thành một tập thể hoà hợp
các quốc gia Đông Nam Á gắn bó với nhau thông qua quan hệ đối tác trong
sự phát triển năng động và trong một cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn
nhau; cam kết gìn giữ sự đa dạng văn hoá và hoà hợp xã hội.
Các nước ASEAN đang được đánh giá là một trong những khu vực
phát triển năng động nhất thế giới. Tính tới ngày 6/3/2008, Việt Nam là thành
viên thứ 5 (sau Singapore, Bruney, Malaysia, Lào, Campuchia) phê chuẩn
Hiến chương ASEAN. Ngày 15/12/2008, Hiến chương ASEAN chính thức có
hiệu lực sau khi được Ngoại trưởng các nước thành viên thông qua tại cuộc
họp diễn ra tại trụ sở của Ban Thư ký ASEAN (Thủ đô Jakarta, Indonesia).
Sự ra đời của Hiến chương ASEAN được xem như một bước tiến quan trọng:
Thông qua Hiến chương này, tất cả các nguyên tắc, luật lệ và hành xử của
ASEAN từ trước tới nay được cập nhật và pháp điển hoá một cách có hệ
thống trong một văn kiện pháp lý (Trước khi có Hiến chương, ASEAN hoạt
1
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
động trên cơ sở văn kiện chính trị nền là Tuyên bố Băng Cốc ra đời ngày
8/8/1967). Đây là một dấu mốc thể hiện quyết tâm của các nước thành viên
ASEAN để hình thành cộng đồng ASEAN với ba trụ cột.
Trong 3 trụ cột, cộng đồng văn hoá xã hội được đánh giá đóng vai trò
quan trọng hàng đầu bởi đặc tính liên kết sâu sắc. Đặc điểm của văn hoá
Đông Nam Á là tương đồng trong đa dạng. Do nằm ở vị trí giữa hai nền văn
minh lớn-đồng thời là hai trung tâm kinh tế lớn là Ấn Độ và Trung Quốc, nên
Đông Nam Á đã sớm hình thành điểm đến và hình thành trung tâm truyền tải
các giá trị văn hoá của thế giới Phương Đông. Việt Nam là quốc gia trong khu
vực Đông Nam Á nên cũng mang những nét đặc trưng của khu vực. Có thể
khẳng định rằng, sự hợp tác trong lĩnh vực văn hoá giữa Việt Nam
và ASEAN tạo đà phát triển cho các lĩnh vực hợp tác khác, cũng như góp
phần không nhỏ trong việc hình thành cộng đồng văn hoá xã hội ASEAN.
Xuất phát từ tầm quan trọng đó, tác giả đã lựa chọn để tài này nhằm đánh giá
những thành tựu đạt được trong quan hệ hợp tác về văn hoá giữa Việt Nam và
ASEAN trong 10 năm trở lại đây. Từ những nghiên cứu đánh giá này, tác giả
đề xuất một số định hướng hợp tác về văn hoá nói riêng và các lĩnh vực khác
như kinh tế; an ninh, chính trị.
2, Tình hình nghiên cứu:
Đây là vấn đề mới và đang diễn ra, nên hầu như trong nước và quốc tế
chưa có một công trình nào tổng hợp hoặc nghiên cứu một cách hoàn chỉnh;
ngoài những bài viết nhỏ trên các báo, tạp chí nghiên cứu chuyên ngành hoặc
lồng ghép vào các vấn đề khác trong những nghiên cứu về ASEAN. Trong
khi đó, Việt Nam là nước đề xuất ý tưởng hình thành cộng đồng văn hoá-xã
hội-một trong ba trụ cột chính hình thành Cộng đồng ASEAN.
2
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Đề tài nghiên cứu tập trung chủ yếu vào cơ sở hình thành văn hoá Đông
Nam Á; hợp tác văn hoá giữa Việt Nam và ASEAN từ sau khi Việt nam gia
nhập ASEAN; tác giả có xu hướng nghiên cứu vai trò quan trọng của hợp tác
văn hoá như một mối quan hệ nền tảng tạo đà thúc đẩy các mối quan hệ hợp
tác khác. Đặc biệt, tác giả hướng đề tài gắn với việc hình thành một trong 3
cộng đồng chính để hình thành cộng đồng ASEAN: Đó là Cộng đồng Văn
hoá. Đánh giá sự hợp tác văn hoá giữa Việt Nam và ASEAN như bước chuẩn
bị đóng góp cho việc hình thành cộng đồng này vào năm 2015. Với lý do đó,
đề tài này vừa có ý nghĩa khoa học, vừa mang ý nghĩa thực tiễn phù hợp với
đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay.
3, Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích của đề tài là tìm hiểu phân tích, sau hơn 10 năm quan hệ văn
hóa Việt Nam-ASEAN đạt được những thành tựu và gặp trở ngại gì. Mối
quan hệ này chính thức và bình đẳng, tự chủ từ năm 1995 nhưng do lịch sử để
lại, Việt Nam vốn thuộc cơ tầng văn hóa Đông Nam Á nên mang nhiều giá trị
văn hóa của khu vực Đông Nam Á. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng mang nhiều
giá trị của cơ tầng văn hóa Đông Á. Từ những giá trị này, tác giả tìm hiểu và
đánh giá quá trình quan hệ Việt Nam-ASEAN từ năm 1995 đến nay có đóng
góp như thế nào cho đất nước nói riêng và ASEAN nói chung. Từ đây đưa ra
một số đề xuất, dự báo cho mối quan hệ này phát triển trong thời gian tới.
4, Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cở sở hình thành nét đặc trưng văn
hoá Đông Nam Á, một số hoạt động hợp tác văn hoá song phương và đa
phương giữa Việt Nam và ASEAN.
3
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ giới hạn từ khi Việt Nam gia nhập
ASEAN (1995) tới nay. Bởi vì, trước thời điểm này, quan hệ hợp tác Việt
Nam-ASEAN hình thành dưới góc độ tự nhiên như bị ảnh hưởng qua quá
trình giao thương hoặc bị cưỡng bức văn hóa. Từ sau khi Việt Nam gia nhập
ASEAN, mối quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN chủ động và bình đẳng, tiến
tới mục đích hòa hợp và thịnh vượng chung cho khu vực.
5, Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Đề tài nghiên cứu dựa trên Chủ nghĩa Duy vật biện chứng, đồng thời
dựa trên những quan điểm và đường lối của Đảng và Nhà nước ta.
- Sử dụng phương pháp phân tích chọn lọc, so sánh, đối chiếu và tổng
hợp vấn đề.
- Kết hợp phương pháp lịch sử lô-gích, cụ thể và khái quát.
6, Dự kiến đóng góp của đề tài:
ASEAN được ví như “sân chơi” nhỏ để Việt Nam tạo lập các mối quan
hệ ra với thế giới. Bản thân các nước ở khu vực Đông Nam Á đã chứa đựng
nhiều điểm khác biệt về văn hóa, chính trị, kinh tế… Sự “cọ xát” ở một “sân
chơi” mang tính khu vực sẽ giúp cho Việt Nam có thêm nhiều quan hệ, hơn
nữa, ASEAN là một tổ chức mở khi có ASEAN cộng (+) nên từ đây vị thế
của Việt Nam được nâng lên. Đề tài này chỉ nghiên cứu mối quan hệ văn hóa
Việt Nam-ASEAN giai đoạn từ 1995 đến này (hơn 10 năm). Giai đoạn này
ngắn nhưng là bước đầu Việt Nam tự chủ trong hợp tác văn hóa với ASEAN,
với các nước thành viên ASEAN. Đây có thể xem như đánh giá một giai đoạn
quan hệ văn hóa ở thời kỳ đương đại. Sự đánh giá, phân tích này sẽ gợi mở
4
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
một hướng hợp tác hoàn thiện hơn cho Việt Nam với ASEAN trong bối cảnh
toàn cầu hóa, sự bùng nổ của công nghệ thông tin. Hơn nữa, nghiên cứu này
đóng góp phần nào cho những nhà quản lý văn hóa cập nhật thêm thông tin
tình hình hiện tại để có phương sách kịp thời khi tiến hành các hoạt động hợp
tác văn hóa-thông tin với ASEAN.
7, Cấu trúc của đề tài nghiên cứu gồm có 3 phần thuộc 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cở sở hình thành văn hoá khu vực Đông Nam Á
Chƣơng 2: Một số vấn đề và nguyên tắc hợp tác văn hoá Việt Nam-
ASEAN những năm đầu thế kỷ 21
Chƣơng 3: Hợp tác văn hoá Việt Nam-ASEAN từ 1995 đến nay
5
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
CHƢƠNG 1 CƠ SỞ HÌNH THÀNH VĂN HOÁ KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
1, Khái niệm văn hóa
Trong tiếng Việt, văn hoá là danh từ có một nội hàm ngữ nghĩa khá
phong phú và phức tạp. Người ta có thể hiểu văn hoá như một hoạt động sáng
tạo của con người, nhưng cũng có thể hiểu văn hoá như là lối sống, thái độ
ứng xử, lại cũng có thể hiểu văn hoá như trình độ học vấn.
Ở phương Tây, từ văn hoá xuất hiện khá sớm trong đời sống ngôn ngữ.
Nhà ngôn ngữ học người Đức W. Wundt cho rằng, Văn hoá là một từ có
nguồn gốcLatinh: Colere, sau thành Cultura, nghĩa là cày cấy, gieo trồng. Từ
nghĩa này, sau đó phát triển rộng hơn là sự hoàn thiện, vun trồng tinh thần, trí
tuệ. Ở Trung Quốc, từ văn hoá được cho là xuất hiện từ thời Tây Hán (206
trước công nguyên - 25 năm sau công nguyên). Theo đó, sách Thuyết Uyển
bài Chỉ Vũ có viết: “Thánh nhân cai trị thiên hạ, trước dùng văn đức rồi sau
mới dùng vũ lực. Phàm dùng vũ lực là để đối phó kẻ bất phục tùng, dùng văn
hoá không thay đổi được thì sau đó sẽ chinh phạt”. Theo cách hiểu này thì văn
hoá là một cách giáo hoá đối lập với vũ lực.
Mặc dù có mặt sớm trong đời sống ngôn ngữ phương Tây cũng như
phương Đông nhưng phải đến thế kỷ XVIII, từ văn hoá mới được sử dụng
như thuật ngữ khoa học. Năm 1774, từ này mới được xuất hiện trong thư tịch
và năm 1783 từ điển ở Đức ghi có từ này. Nhiều giả thiết cho rằng, người đầu
tiên sử dụng từ văn hoá trong khoa học là Pufendorf (Đức). Ông cho rằng, văn
hoá là toàn bộ những gì được tạo ra do hoạt động xã hội, đối lập với trạng thái
tự nhiên. Sau này, nhà triết học Herder (1744 - 1803), cho rằng: Văn hoá là sự
hình thành lần thứ hai của con người. Theo ông, lần thứ nhất, con người xuất
hiện với tư cách là một thực thể sinh vật tự nhiên; lần thứ hai hình thành như
một thực thể xã hội, tức là một nhân cách văn hoá.
6
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Đến năm 1855, học giả Klemm công bố công trình Khoa học chung về
văn hoá, người ta mới coi khoa học về văn hoá hình thành và thực sự phát
triển. Năm 1871, E.B.Tylor công bố công trình Văn hoá nguyên thuỷ ở Lôn
Đôn (Anh). Từ sự kiện này, ngành khoa học về văn hoá mới chính thức được
khẳng định bởi E.B.Tylor đã xác lập được đối tượng nghiên cứu của ngành
văn hoá học. Ông đã đưa ra định nghĩa văn hóa. Theo ông, văn hóa là một
phức thể bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập
quán và mọi khả năng, thói quen mà con người với tư cách là thành viên xã
hội, đạt được. Từ đây, khái niệm văn hoá được nhiều người đề cập. Năm
1952, trong công trình Văn hoá: Tổng luận phê phán các quan niệm và định
nghĩa (Culture: A critical review of Concepts and definitions), hai nhà khoa
học Mỹ là A.L.Kroeber và A.C.Kluckhohn đã thống kê và phân tích tới 164
định nghĩa về văn hoá, trong đó có 7 định nghĩa ra đời từ năm 1919 đến 1952.
Năm 1967, nhà văn hoá học người Pháp Abraham Moles lại đưa ra 250
định nghĩa. Tại Hội nghị thế giới về chính sách văn hoá vì sự phát triển (ở
Mehico) đã thông qua Tuyên bố ngày 6/8/1982 về chính sách văn hoá: Theo
nghĩa rộng, ngày nay văn hoá có thể được coi là toàn bộ các đặc tính đặc biệt
về tâm hồn, vật chất, trí tuệ và tình cảm đặc trưng cho một xã hội hay một
nhóm xã hội. Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật và văn học, mà cả lối
sống, các quyền cơ bản của nhân loại, các hệ thống giá trị, truyền thống và
tín ngưỡng.
Việc có quá nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa là do cách tiếp cận
các nhà khoa học. Căn cứ vào cách tiếp cận, GS.TS Hoàng Vinh đã quy về 12 nhóm định nghĩa về văn hoá.. PGS, TSKH Trần Ngọc Thêm chia ra hai loại:
Định nghĩa miêu tả và định nghĩa nêu đặc trưng. Trong loại định nghĩa nêu
đặc trưng, ông lại chia ra 3 khuynh hướng: khuynh hướng coi văn hoá là kết
quả (sản phẩm) nhất định; văn hoá như những quá trình; văn hoá như những quan hệ, những cấu trúc.. Nhìn chung, mọi định nghĩa đều thống nhất văn hoá
có các đặc điểm sau:
7
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
- Văn hoá là sáng tạo của con người, thuộc về con người, những gì
không do con người làm nên không thuộc về khái niệm văn hoá. Từ đó, văn
hoá là đặc trưng căn bản phân biệt con người với động vật, đồng thời cũng là
tiêu chí căn bản phân biệt sản phẩm nhân tạo với sản phẩm tự nhiên. Văn hoá
xuất hiện do sự thích nghi một cách chủ động và có ý thức của con người với
tự nhiên, nên văn hoá cũng là kết quả của sự thích nghi ấy.
- Sự thích nghi này là có ý thức và chủ động nên có sáng tạo, phù hợp
với giá trị chân - thiện - mỹ.
- Văn hoá bao gồm cả những sản phẩm vật chất và tinh thần.
- Văn hoá không chỉ có nghĩa là văn học nghệ thuật như thông thường.
Theo đó, văn học nghệ thuật là bộ phận cao nhất trong lĩnh vực văn hoá.
Đông Nam Á là một khu vực có yếu tố địa lý đặc biệt. Khu vực này
vừa có hải đảo, vừa có lục địa, nằm rải một vòng nhưng lọt giữa hai trung tâm
văn hóa lớn là Ấn Độ và Trung Quốc. Trước khi có sự tiếp biến văn hóa với
Ấn Độ và Trung Quốc, khu vực này đã có nền văn hóa riêng, đậm nét bản địa.
Những yếu tố địa lý quan trọng ở Đông Nam Á: Ở Đông Nam Á có
những yếu tố địa lý quan trọng là đất, sông, biển, gió mùa, khí hậu nhiệt đới.
Năm yếu tố này tạo nên đặc điểm chung của văn hoá vùng.
Đất đai ở Đông Nam Á do có nhiều mưa, nắng nên thích hợp với nông
nghiệp, đặc biệt là cây lúa nước. Vùng đất ở khu vực này không có đồng cỏ
nên chỉ có chăn nuôi nhỏ, ngoài ra chủ yếu là đất đai để trồng trọt.
Sông nước có một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống của cư dân
Đông Nam Á. Con nguời thường sinh sống gần sông suối vì đây là nơi có thể
trồng trọt, canh tác. Hai bên các con sông lớn thường phát hiện thấy các di chỉ
của người xưa. Sông cũng là đường giao thông quan trọng ở Đông Nam Á và
thuyền là phương tiện đi lại chủ yếu của cư dân. Lịch sử cho thấy, các cư dân
Đông Nam Á không biết tạo ra bánh xe [4, tr.33].
8
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Biển ở Đông Nam Á rộng nên các cư dân ven biển đều thạo nghề đi
biển. Cư dân Đông Nam Á vùng biển có diện phân bố rộng lớn, và sớm có
điều kiện tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế trên biển giữa Đông-
Tây. Ở Đông Nam Á chỉ duy nhất có nước Lào là không có biển.
Gió mùa là loại thổi theo hai chiều ngược nhau. Gió này cũng tạo thành
mùa mưa tập trung, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Điều quan trọng nữa
là, gió mùa tạo nên sức đẩy cho thuyền buồm đi lại theo mùa trên biển và tạo
thành hai mùa mưa, nắng rõ rệt ở Đông Nam Á. Điều nổi bật nhất của gió
mùa là một trong những yếu tố tạo nên sự tiếp biến văn hóa trong khu vực.
Điều kiện nóng ẩm, mưa nhiều và gió mùa là hằng số tự nhiên của văn
hóa Đông Nam Á và chính nó đã góp phần tạo nên đặc trưng văn hóa khu vực
này-Nền văn minh thực vật hay nền văn minh lúa nước.
2, Văn hóa bản địa Đông Nam Á
Văn hóa bản địa là văn hóa có nguồn gốc tại chỗ, do cư dân tại chỗ
sáng tạo ra. Văn hóa Đông Nam Á tiếp xúc sớm nhất với văn hóa Ấn Độ và
Trung Hoa vào thời kỳ đầu Công nguyên. Phần lớn các nước Đông Nam Á
chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, riêng Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn
hóa Trung Hoa. Căn cứ vào thời điểm lịch sử, nhiều học giả đã xem văn hóa
bản địa Đông Nam Á là văn hóa trước Ấn trước Hoa. Trong xu hướng toàn
cầu hóa, sự giao thoa văn hóa rộng rãi đã có lúc, những người trẻ khó nhận ra
những nét đặc trưng của văn hóa bản địa Đông Nam Á. Các nhà khoa học
thường dựa vào khảo cổ, văn bản và tư liệu cổ, những tàn tích và di sản để
lại...để nhận biết văn hóa bản địa:
Khảo cổ: Qua khai quật những di sản trong lòng đất, các nhà khoa học
có thể biết được văn hóa cổ xưa của Đông Nam Á trước Ấn, trước Hoa. Ở
Việt Nam, các hiện vật đồ đồng của nền văn hóa Đông Sơn, những mộ chum
của nền văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam, hay những hiện vật của
9
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
nền văn hóa Đồng Nai. Ở Thái Lan, từ khảo cổ, các nhà khoa học đã xác thực
được nền văn hóa trồng trọt trước lúa ở Hang Thẩm Phi, và nền văn hóa lúa
nước ở Non Nốc Tha (Đồi Gà Gô). Ở Campuchia, khảo cổ phát hiện di chỉ
Samrong Sen có nhiều khối vỏ ốc, nhiều vật dụng làm bằng tay, mảnh chén,
đĩa. Những phát hiện khảo cổ gần đây, cho thấy: Niên đại sớm của đồ gốm từ
13.000-6.800 năm trước Công nguyên; trồng lúa là: 3.500 năm trước Công
nguyên; luyện đồng là 2.700 năm trước Công nguyên; luyện sắt là 1.300 năm
trước Công nguyên [4, tr.201].
Tư liệu cổ: Trung Quốc là nước có nhiều tài liệu cổ viết về Đông Nam
Á. Theo tài liệu của Trung Quốc để lại, trong sớ của Tiết Tôn ở đời Tam
Quốc (Tam Quốc chí, quyển 53) có ghi về một tập tục của người Việt cổ: Khi
mới thuộc Hán, người Giao Chỉ ở huyện Mê Linh, Cửu Chân và Đô Lung nếu
anh chết thì em lấy chị dâu [4, tr.202]. Tài liệu của một số học giả Châu Âu
cũng nhắc tới việc, dân Văn Lang trước thế kỷ thứ II và thứ III còn sống trong
chế độ gia đình mẫu hệ...
Các tập tục: Người Việt vẫn giữ tục kết chạ giữa các làng. Những làng
kết chạ không được lấy nhau. Người Miến Điện tuy thờ Phật theo Ấn Độ
nhưng vẫn giữ tục thờ Nát là những vị thần bản địa có từ trước. Người Thái
Lan, Lào tuy thờ Phật nhưng vẫn tiếp tục thờ Phi (ma nhà) [4, tr.203].
Học giả người phương Tây G.Coedès, chuyên nghiên cứu về Đông
Nam Á đã nêu những đặc trưng văn hóa bản địa khu vực này. Về văn hóa vật
chất, gồm có: Trồng lúa nước; thuần hóa gia cầm, gia súc (đặc biệt là trâu để
cày, cấy); sử dụng thô sơ về kim khí; hiểu biết đi biển. Hệ thống xã hội coi
trọng vai trò của phụ nữ (thông qua chế độ mẫu hệ); tổ chức xã hội do yêu cầu
của nền nông nghiệp tưới nước. Tôn giáo gồm: Tín ngưỡng vạn vật hữu linh;
thờ cúng tổ tiên, thổ thần, thổ địa; xây dựng nơi thờ cũng ở chỗ cao; chôn
người chết trong chum và mộ cự thạch. Về thần thoại: Một vũ trụ quan nhị
10
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
nguyên trong đó có sự đối lập giữa núi và biển, loài có cánh và loài ở nước,
người ở trên đất cao và người ở ven biển. Ngôn ngữ: Sử dụng tiếng nói đơn
lập với nhiều khả năng chuyển hóa các tiền tố, vị tố và trung tố.
Một trong những nét đặc trưng của văn hóa bản địa Đông Nam Á là tín
ngưỡng. Vạn vật hữu linh là tín ngưỡng đặc trưng đầu tiên, bởi vì các cư dân
Đông Nam Á cho rằng vạn vật đều có linh hồn. Từ cây cối, con vật, đất
đá...đều có linh hồn. Ví dụ người Thái Lan, người Lào vốn gọi hồn là Khuẩn;
Miến Điện gọi là là Leip Bya; Campuchia gọi là Pralung; Malaysia gọi là
Semangat; người Việt gọi là hồn, vía...[4, tr.221].
Thờ thổ thần là một tín ngưỡng vẫn phổ biến cho tới ngày nay. Cư dân
Đông Nam Á thờ cúng thần đất. Hiện nay, dù ở Thái Lan, Lào hay Việt
Nam... người dân vẫn có tập tục làm bàn thờ thiên ngoài trời, trên sân thượng
để thờ thổ thần, thổ địa.
Người dân Đông Nam Á còn có tín ngưỡng vật tổ. Cư dân khu vực này
tin rằng, mình do một vật tổ sinh ra. Điển hình như người Việt Nam tin rằng,
mình là con rồng cháu tiên, được sinh ra trong cái bọc có 100 trứng; hoặc, căn
cứ vào trống đồng, các nhà khoa học còn cho rằng người Việt xem chim là vật
tổ của mình. Người Campuchia tin rằng, mình là con của thần rắn. Người
Lào, người Thái Lan có truyền thuyết cho rằng con người sinh ra từ quả bầu
[4, tr.225].
Do cây lúa gắn bó trong đời sống nên người dân tin rằng có hồn lúa.
Cây lúa được tôn thờ như một tôn giáo. Người Tagbanuwa ở Philippines cho
rằng, lúa là cây thiêng, một tặng vật của thần linh, và là lương thực đích thực
của con người và các thần linh. Ở Java, cây lúa nước gắn với nghi lễ phồn
thực và thuộc về nữ tính, là hiện thân của nữ thần Devi Sri. Do vậy nên có
nhiều cấm kỵ đối với đàn ông trong sự tiếp xúc với cây lúa. Đàn ông không
được gần nữ thần lúa. Họ chỉ làm các công việc cày bừa, chuẩn bị đất…, còn
các công việc gieo hạt, nhổ mạ, cấy lúa, chăm bón chỉ phụ nữ mới được làm.
11
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Người Malaysia, theo truyền thống; xem cây, đá, sông, lúa đều có hồn như
một sức mạnh bảo hộ hoặc xem hồn như là sự sống đích thực của chính sự vật
đó. Người Khơ-me xem mẹ lúa là một người đàn bà cưỡi trên mình cá, tay
cầm bông lúa. Nhiều dân tộc thiểu số miền núi ở Việt Nam có tập quán thờ
ông bà lúa. Dân tộc Katu ở Trường Sơn (Thừa Thiên-Huế) dành chỗ đẹp nhất
trong bếp và làm rọ đựng lúa để thờ; người Dao quan niệm rằng mỗi một
bông lúa và mỗi hạt thóc đều là sự sống và đều có hồn [4, tr.227].
Đời sống của cư dân bản địa gắn liền với việc cày cấy nên trông chờ
vào thời tiết. Từ đây, các nghi lễ nông nghiệp là điều không thể thiếu trong
đời sống. Người Chăm trước đây, từ khi mở luống cày đầu tiên cho đến khi
gánh lúa về nhà phải làm nhiều nghi lễ: Lễ Padang Paday Tuan (Lễ dựng chòi
cày); lễ Êu Po Bhum (Lễ cúng thần ruộng lúc lúa phát triển); lễ Dôk Tian (Lễ
cúng lúa trổ đòng); lễ Trun Yuak (Lễ xuống gặt); lễ Tagok Di Lan (Lễ cúng
sân); lễ Khoa Paday Da-a (Lễ mừng lúa về nhà); lễ mừng Cơm mới [4,
tr.230]… Ở Indonesia, nghi lễ về nữ thần lúa được tiến hành trên cánh đồng
vào thời gian đập lúa. Người Malaysia hình dung hồn lúa như một con người
bé nhỏ, thanh mảnh, hay giận dỗi và dễ bị tổn thương. Cây lúa được gọi âu
yếm, trìu mến khi vào vụ gặt đầu tiên: “Cậu bé chín tháng”, “công chúa mặt
trời”, hoặc “công chúa pha lê” [4, tr.230]... Từ quan niệm về hồn lúa như vậy,
người Malaysia có những nghi lễ phức tạp diễn ra trong chu trình trồng lúa. Ở
Thái Lan, khi lúa ngậm đòng, nông dân ở tỉnh Ayutthay tổ chức lễ cầu chúc
cho Nữ thần lúa... Cư dân nông nghiệp cũng mong muốn cho cấy trồng, vật
nuôi và bản thân con người sinh sôi nảy nở nhanh chóng đông đúc nên đã
hình những nghi lễ phồn thực để thúc đẩy sự sinh sôi nảy nở của vạn vật.
Trong nhiều tài liệu cho thấy, ở Việt Nam từng có nghi lễ trong đó cho phép
những nam thanh nữ tú dùng hành vi giao hợp, hay tạp giao để cây cối bắt
chước sinh sôi, nảy nở. Đương nhiên, các cư dân Đông Nam Á quá quen
thuộc với các nghi lễ cầu mưa vào những mùa hạn hán. Ở Việt Nam còn có tục
thờ các thần Mây, Mưa, Sấm, Sét (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Lôi).
12
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
3, Ảnh hƣởng văn hoá Ấn Độ
Khu vực Đông Nam Á, gồm cả lục địa và hải đảo, nằm trên đường biển
thông thương giữa phương Đông và phương Tây, giữa hai nền văn mình lớn:
Trung Quốc và Ấn Độ. Ngay từ những năm đầu Công nguyên, hai nền văn
hoá này đã phát huy sự ảnh hưởng tới khu vực Đông Nam Á. Nhiều học giả
cho rằng, văn hoá Trung Quốc ảnh hưởng bằng cách áp đặt, văn hoá Ấn Độ
ảnh hưởng tới nơi này một cách hoà hiếu. Ngoài yếu tố địa lý, nông nghiệp,
thì thương nghiệp là nền tảng hình thành nên văn hoá Đông Nam Á. Thương
nghiệp chủ yếu bằng đường biển. Các lái buôn Ấn Độ đã hành hải theo gió
mùa. Gió mùa thổi định kỳ qua những vĩ độ nhất định ở phía Nam Châu Á và
trên Ấn Độ Dương. Gió mùa thổi hai chiều ngược nhau trong vòng một năm.
Đây là một đặc trưng và là một tác nhân để văn hóa Ấn Độ ảnh hưởng tới
Đông Nam Á.
Ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ, đại diện là hai tôn giáo lớn: Ấn Độ
giáo và Phật giáo đến Đông Nam Á có sức lan toả mạnh mẽ nhất. Những tôn
giáo này theo các thương nhân Ấn Độ đến các điểm dừng ở Đông Nam Á. Từ
đầu Công nguyên trở đi, hai tôn giáo này thay nhau chiếm vị trí chủ đạo trong
từng giai đoạn lịch sử khác nhau ở khu vực này. Từ hai tôn giáo này, đã dẫn
tới sự ra đời của của kiến trúc, hội hoạ, ngôn ngữ, văn tự hay nền văn học
mang những sắc thái đặc trưng.
3.1. Sự có mặt của Ấn Độ giáo
Theo nghiên cứu của các học giả Phương Tây, sự có mặt của Ấn Độ
giáo ở Đông Nam Á là từ những năm đầu Công nguyên. Vào giai đoạn này,
các nước trong khu vực đã có các vị thần riêng. Trong dân gian, tục thờ cúng
tổ tiên cũng đã rất phổ biến.
Thương nghiệp trên biển đã mang theo các thầy tu Bà La Môn để cúng
tế, cầu an cho những chuyến vượt biển. Sự có mặt của các thầy tu dần dần đã
trở nên quen thuộc với các cư dân nơi các thương thuyền cập bến. Từ quen
13
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
thuộc, những cư dân trong khu vực Đông Nam Á bắt đầu tiếp nhận bằng cách
nhờ các thầy tu thực hiện các nghi lễ tôn giáo để cầu an hoặc chữa bệnh.
Trong quá trình thông thương, các cuộc hôn nhân giữa những người Bà La
Môn với người có địa vị trong xã hội, dân thường bản địa tạo điều kiện cho
tôn giáo này “cắm rễ” [13, tr.54]. Uy tín của tôn giáo này ngày một lan toả
khi giới quý tộc của nơi thương thuyền tới buôn bán sùng bái. Hơn nữa, Ấn
Độ giáo không mâu thuẫn với tín ngưỡng bản địa. Điều này được chứng minh
về sự tồn tại của nó trong nhiều giai đoạn lịch sử. Nhiều nhà nước cổ đại ở
Đông Nam Á, như Phù Nam, Chămpa, Chân Lạp...đã thực sự chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của Ấn Độ giáo.
Sự hiện diện của các vị thần Shiva, Vishnu và Brahma có ở hầu hết các
đền thờ của cư dân ở Đông Nam Á. Thần Shiva là hiện thân của sức mạnh tàn
phá và là đấng sáng tạo thế giới. Thần Shiva thể hiện ở hai hình tượng: Người
đàn ông tóc xoăn được búi lên cao, có con mắt thứ ba trên trán và một trong
bốn cánh tay cầm đinh ba, cưỡi trên lưng bò Nan Đin (Bên cạnh thần Shiva
thường có người vợ là nữ thần Parvati). Thần Shiva cũng được thờ phụng
dưới biểu tượng Linga-Sinh thực khí nam luôn đi kèm với Yoni-sinh thực khí
nữ). Các cư dân Đông Nam Á thờ phụng Linga và Yoni để cầu mong phồn
thịnh và sự sinh sôi nảy nở như quyền năng của vị thần ban cho. Các nhà
nghiên cứu ghi nhận rằng, chỉ tới khi Ấn Độ giáo vào, việc thờ phụng này
mới trở nên phổ biến.
Vishnu là chúa tể của thế giới, thể hiện bằng hình tượng một người đàn
ông đội trên đầu chiếc mũ hình trụ, có bốn cánh tay, mỗi cánh tay cầm nắm
các vật dụng khác nhau (chiếc tù bằng vỏ ốc, cái đĩa, cây gậy và hoa sen).
Thần Vishnu giữ vị trí chủ đạo trong việc sai khiến rắn thần Vasuki trong
cuộc khuấy biển sữa tìm thuốc trường sinh bất tử. Thần cưỡi trên con chim
thần Garuda. Vợ thần là nữ thần may mắn Lakshmi. Hiện thần của thần
14
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Vishnu còn là Rama và Krisna (Hai nhân vật nổi tiếng trong trường ca
Ramayana và Mahabharata).
Brahma vị thần sáng tạo có bốn mặt và cưỡi trên con ngỗng Hamsa.
Đây là vị thần thứ ba của Ấn Độ giáo.
Đây là ba vị thần đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của
cư dân ĐNA trong nhiều giai đoạn lịch sử sau này.
3.2. Sự có mặt của Phật giáo
Phật giáo do hoàng tử Siddhartha Gautama (khoảng năm 566-480 trước
CN) sáng lập ra. Hoàng tử là con vua Suddhodana nước Kapilavastu ở chân
núi Hymalaya, hiệu là Thích Ca Mâu Ni [13, tr.15].
Phật giáo đã được truyền bá vào Đông Nam Á ngay từ những thế kỷ
đầu Công nguyên. Nhưng trong thời kỳ đầu, Hinđu giáo có phần thịnh hành
hơn. Từ thế kỉ XIII, dòng Phật giáo Tiểu thừa được phổ biến ở nhiều nước
Đông Nam Á. Đền tháp cũ bị bỏ vắng, các chùa mới mọc lên. Văn học Phật
giáo gồm các tích truyện, được gắn với sự tích lịch sử Phật giáo, phát triển
mạnh. Trong nhiều thế kỷ sau đó, Phật giáo đã có vai trò quan trọng trong đời
sống chính trị, xã hội và văn hoá của các cư dân Đông Nam Á. Vì thế, các tổ
chức sư tăng cũng như nhà nước rất chú ý tới việc phổ biến tư tưởng Phật
giáo trong dân chúng, đặc biệt là qua hệ thống giáo dục. Ngôi chùa không chỉ
là nơi thờ cúng mà còn là một trung tâm văn hoá, là hình tượng về chân -
thiện – mỹ đối với mọi người dân, trở thành nơi lưu giữ và phổ biến văn hoá,
tri thức cho dân chúng.
Đông Nam Á cơ bản tiếp nhận Phật giáo Tiểu thừa và căn cứ vào địa
bàn ảnh hưởng người ta thường gọi Phật giáo Đông Nam Á là Phật giáo Nam
Tông. Còn các nước Bắc Á như Trung Quốc, Triều Tiên và Hàn Quốc, Nhật
Bản (cả Việt Nam) tiếp thu Phật giáo Đại thừa, nên thường được gọi là Phật
giáo Bắc tông.
15
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Phật giáo sở dĩ vào Đông Nam Á “cắm rễ” sâu chắc trong xã hội, lại có
ảnh hưởng to lớn vào đời sống tinh thần của người dân trong vùng bởi nó đã
phải bản địa hoá, đã biết hoà đồng với các tín ngưỡng dân gian bản địa, dung
nạp các yếu tố của các tôn giáo ngoại lai khác. Nói cách khác, Phật giáo vào
từng nước Đông Nam Á đã bị khúc xạ bởi các ý thức hệ ở các quốc gia đó.
Phật giáo vào Đông Nam Á đã được dân gian hoá, bản địa hoá sâu sắc.
Có thể nói, những học thuyết có tính chất tư biện, các tín điều khô khan, các
suy tư huyền bí đã phần nào bị biến đổi, giản lược đi để hoà quyện vào các tín
ngưỡng dân gian bản địa chất phác và đơn giản. Một trong những đặc điểm
nổi bật của Phật giáo ở Đông Nam Á là tính chất đơn giản tượng trưng của
nghi lễ. Khác với nghi lễ trong chùa chiền Bắc tông thường linh thiêng, ồn ào,
trọng tâm của người xuất gia đến chùa chiền ở Nam tông là sự hoà quyện giữa
Đạo và Đời, sự nỗ lực của con người không phải là lễ bái mà là toạ thiền, suy
tư về nguyên lý của Phật.
Đến thế kỷ XIV, Phật giáo Tiểu thừa xuất hiện thay thế Phật giáo Đại
thừa. Thái Lan hiện là nước xem Phật giáo là quốc đạo, đồng thời được xem
như quốc gia Phật giáo lớn nhất khu vực, Phật giáo Tiểu thừa có mặt quãng thế
kỷ I sau công nguyên. Phật giáo có mặt ở Campuchia khoảng thế kỷ V và Lào
khoảng thế kỷ VII và chính thức có ảnh sự hưởng rộng lớn từ giữa thế kỷ XIV.
Phật giáo được truyền bá vào khu vực Đông Nam Á cũng chủ yếu bằng
đường truyền giáo hoặc thông thương qua đường biển. Lúc đầu, Phật giáo từ
Ấn Độ trực tiếp thâm nhập vào các nước vùng ven bờ biển phía Tây của Đông
Nam Á. Sau đó một số nước tiếp nhận Phật giáo gián tiếp qua một nước trung
gian khác. Đây cũng là một nét đặc biệt của Phật giáo ở Đông Nam Á. Ví dụ
như nước Lào tiếp nhận tôn giáo này không trực tiếp từ Ấn Độ, mà qua
Campuchia và Thái Lan-những nước có sự ảnh hưởng lớn của Phật giáo.
Trong nhiều con đường tiếp thụ Phật giáo của Thái Lan và Miến Điện, có một
16
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
con đường qua Srilanca. Thời kỳ đầu, Phật giáo qua các thương thuyền Ấn
Độ vào Việt Nam. Nhưng đến thế kỷ IV – V, Phật giáo lại du nhập từ phương
Bắc. Phật giáo ở Philippin được truyền bá từ Indonesia hoặc Malayssia tới.
Phật giáo đã trở thành tư tưởng chính thống của nhiều quốc gia và được
nhiều quốc gia xem như quốc đạo ở một số nước Đông Nam Á. Nói đến tôn
giáo là nói đến hệ tư tưởng được biểu hiện trong giáo lý. Một tôn giáo muốn
tồn tại và phát triển phải hội tụ 3 yếu tố: Người sáng lập, giáo lý và tăng lữ tín
đồ. Giáo lý là một phương tiện, một công cụ rất quan trọng để truyền bá tư
tưởng tôn giáo. Sở dĩ Phật giáo phát triển mạnh ở Đông Nam Á và có sự ảnh
hưởng to lớn vào đời sống tinh thần của người dân vì nó đã tự bản địa hoá,
tương thích với các tín ngưỡng dân gian bản địa, biết dung nạp các yếu tố của
các tôn giáo ngoại lai khác. Phật giáo đóng một vai trò quan trọng trong đời
sống tinh thần của người dân Đông Nam Á. Ở một số nước như Lào, Thái
Lan, Miến Điện... người ta đều khẳng định Phật giáo đã có những đóng góp
nhất định vào việc xây dựng một nền văn hoá thống nhất, nền văn hoá dân tộc
đều mang màu sắc Phật giáo và chính Phật giáo đã gắn kết Tổ quốc và Dân tộc.
Ở những quốc gia xem Phật giáo là quốc giáo, mỗi người dân từ nhỏ
cho đến lớn, từ lúc sinh ra cho đến lúc chết, niềm tin tâm linh được gửi ở các
ngôi chùa. Mới sinh ra vào chùa đặt tên, đến tuổi trưởng thành vào chùa tu
một thời gian, khi lập gia đình vào chùa làm lễ buộc chỉ cổ tay và đến khi về
cõi Niết bàn, hoả táng rước linh hồn vào chùa. Phật giáo còn tác động tới đời
sống các giai tầng trong xã hội. Chính vì thế ở Việt Nam, nhà vua khi từ bỏ
quyền lực thì khoác áo tu hành hoặc thái tử vào chùa học chữ để làm vua. Về
mặt tổ chức, Phật giáo ở Đông Nam Á (với những nước xem là quốc giáo), hệ
thống chùa chiền và tổ chức sư sãi có từ thôn xóm đến cấp trung ương tương
ứng với các cấp chính quyền của triều đình. Các nhà sư Thái Lan, Campuchia,
Lào, Miến Điện là người có vai trò đặc biệt lớn lao trong đời sống xã hội. Nhà
17
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
sư trở thành tấm gương đạo đức, nhân vật trung tâm, chỗ dựa tinh thần, là
người bảo vệ những giá trị truyền thống của đạo Phật. Ở Thái Lan, nhiều triều
đại phong kiến đã dựa vào uy tín và sức mạnh của Phật giáo để củng cố địa vị
của mình. Ở Lào, trải qua nhiều triều đại, vua - sư gắn bó mật thiết với nhau
trong việc giải quyết nhiều vấn đề triều chính.
Một điều kỳ thú là, hoạt động tôn giáo hầu như quanh năm suốt tháng
từ cộng đồng nhỏ bé ở cấp làng bản đến cộng đồng rộng lớn của cả nước luôn
bị cuốn hút vào các lễ hội vừa mang tính tôn giáo của đạo Phật, vừa có tính
thế tục đậm đà của phong tục xứ sở các nước Đông Nam Á. Ngôi chùa với
các cư dân Đông Nam Á còn như một nơi tụ họp để cố kết cộng đồng. Các
Phật tử có thể đến đó để thoả mãn nhu cầu đời sống tình cảm tâm linh, hướng
về đức Phật từ bi. Đây cũng là nơi được ví như trung tâm văn hoá xã hội.
Chùa đồng thời là trường học dạy chữ, đạo nghĩa cho người dân; các nhà sư
có giai đoạn còn là người sáng tác văn chương. Ở Lào, Campuchia một số nhà
thơ lớn trưởng thành từ trong chùa như Xôm xỉ Đê xa (Lào), Bôtum Mătthê
Xôm (Campuchia); ở Việt Nam có Không Lộ Thiền sư, Mãn Giác Thiền Sư,
Từ Đạo Hạnh... Ngôi chùa là nơi lưu giữ các tác phẩm nghệ thuật, là thư viện,
bệnh viện, nhà trọ, nơi hội hợp quyết định những vấn đề quan trọng của làng,
bản và đất nước. Người dân được mùa, tổ chức hội hè ở chùa. Do đó, có thể
khẳng định rằng, ngôi chùa ở Đông Nam Á trước đây chính là nơi cung cấp tri
thức văn hoá nói chung cho người dân.
Ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn học nghệ thuật Đông Nam Á khá
toàn diện và sâu sắc. Trong quá trình tiếp nhận các giáo lý (kinh kệ), cư dân
bản địa đã tiếp nhận chữ Ấn Độ; qua đó, tiếp nhận cả các đề tài, cốt truyện,
tác phẩm văn học đặc trưng Ấn Độ. Các nước Lào, Thái Lan, Miến Điện, văn
học có nhiều xu hướng, nhiều tính chất nhưng tính chất Phật giáo khá rõ nét;
số lượng tác phẩm chiếm đáng kể. Giáo lý đạo Phật đã trở thành tư tưởng chủ
18
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
đạo trong nhiều áng văn chương. Nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá, chính vì
sự ảnh hưởng này nên tính mâu thuẫn, sự xung đột, đấu tranh giai cấp trong
văn học Lào, Thái Lan và Miến Điện thường không mạnh mẽ bằng các nền
văn học ở các quốc gia Đông Nam Á khác.
Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc chùa chiền ở khắp các nước Đông
Nam Á thể hiện rõ nét nhất về vị trí của đạo Phật trong đời sống tinh thần
người dân. Những ngôi chùa nổi tiếng là công trình kiến trúc đồ sộ như
Borobudur (Indonesia) và Thạt luổng (Lào) hay rất nhiều chùa chiền ở
Campuchia, Thái Lan, Miến Điện đã trở thành niềm tự hào và là biểu tượng
thịnh vượng của đạo Phật Tiểu thừa trong khu vực [3, tr.25].
Tóm lại, sự có mặt của Phật giáo ở Đông Nam Á nằm trong một phức
hợp văn hoá tôn giáo vừa đa dạng, vừa hoà hợp. Trong đó, những tín ngưỡng
dân gian chất phác được thẩm thấu vào trong kinh kệ, nó thiêng liêng đến
mức có thể che lấp hoặc giảm nhẹ tính chất tư biện, cao siêu của giáo lý.
Ngược lại, Phật giáo cũng không bảo thủ, cứng nhắc bởi nó ảnh hưởng những
yếu tố của tín ngưỡng bản địa- tàn dư văn hoá của các tôn giáo vào trước nó.
Sự đan xen hoà hợp giữa yếu tố văn hoá và tôn giáo trên đây đã tạo nên một
nét đặc thù cho Phật giáo ở Đông Nam Á. Từ đây, Phật giáo tồn tại và phát
triển, trở thành tôn giáo chính và đóng vai trò hết sức to lớn trong đời sống
văn hoá, xã hội ở khu vực Đông Nam Á.
4, Ảnh hƣởng văn hoá Trung Quốc
Cùng với sự ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ vào phía Nam khu vực, văn
hóa Trung Quốc cũng có sự “đổ bộ” vào Đông Nam Á từ phía Bắc, bằng sự
giao thoa tự nhiên, lẫn cưỡng bức (thông qua các cuộc chiến tranh).
Việt Nam, Singapore là hai quốc gia có mức độ ảnh hưởng văn hóa
Trung Quốc hơn các quốc gia khác ở Đông Nam Á. Nhiều học giả đánh giá
rằng, Việt Nam là một quốc gia vừa mang những thuộc tính của Đông Nam Á
nhưng cũng có thuộc tính Đông Á (mà điển hình là văn hóa Trung Quốc).
19
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Đây cũng là một vấn đề sớm được đặt ra và có nhiều quan điểm khác nhau,
nhiều cách lý giải khác nhau, nhưng cho đến nay vẫn chưa hết tranh luận.
Những khái niệm Đông Nam Á và Đông Á ra đời trong và sau Chiến
tranh thế giới thứ II.
Từ năm 1948, G.Coedes nghiên cứu quá trình Ấn Độ hoá các quốc gia
vùng Đông Nam Á (từ đầu Công nguyên cho đến trước khi tiếp xúc với
phương Tây vào đầu thế kỷ XVI) và cho rằng Phù Nam, Lâm Ấp (Trung và
Nam Việt Nam) là những quốc gia Ấn Độ hoá sớm nhất, trong lúc An Nam
(Bắc Việt Nam) lại bị Hán hoá. Như vậy, rõ ràng, học giả này phân biệt hai
khu vực Ấn Độ hoá và Hán hoá trong các quốc gia Đông Nam Á và trên lãnh
thổ Việt Nam hiện nay trong thời cổ đại và trung đại đã diễn ra hai vùng Ấn
Độ hoá và Hán hoá. Trong các tài liệu nghiên cứu về khu vực Đông Nam Á,
đa số đều đề cập tới quá trình Ấn hóa; Hán hóa chỉ được nhắc tới ở khu vực
Đông Á, gồm 8 nước và vùng lãnh thổ: Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông,
Bắc Triều Tiên, Nam Hàn, Nhật Bản, Việt Nam, Singapore. Như đã nói ở
trên, Việt Nam và Singapore thuộc vùng địa lý Đông Nam Á được xếp vào
“thế giới Hán hoá”.
Trong những thập kỷ gần đây, các học giả Việt Nam cũng đã có nhiều
công trình nghiên cứu về văn hoá Việt Nam, trong đó nhiều tác giả quan tâm
đến ảnh hưởng của văn minh Trung Quốc, mối quan hệ giữa cơ sở bản địa với
yếu tố ngoại sinh, quan hệ giữa Việt Nam với Đông Á. Xét về mặt địa lý, Việt
Nam là một nước thuộc Đông Nam Á. Tuy nhiên, thời tiền sử và sơ sử, Việt
Nam nằm trong khu vực địa – văn hoá có cơ tầng văn hoá chung bao quát cả
vùng Đông Nam Á hiện nay và vùng nam Trường Giang (nam Trung Quốc),
lúc đó còn là địa bàn sinh tụ của Bách Việt, cư dân phi Hán tộc. Những kết
quả nghiên cứu về khảo cổ học, cổ sử, dân tộc học, văn hoá… đã chứng minh
điều này. Đấy là vùng nông nghiệp trồng lúa nước, có kết cấu xóm làng mang
20
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
đậm tính cộng đồng, với tín ngưỡng vật linh, thờ cúng đa thần, nữ thần, với
những nghi lễ phồn thực, những lễ hội nông nghiệp theo mùa, nhiều phong
tục tập quán chung như ở nhà sàn, ăn trầu, nhuộm răng, xăm mình… Nhiều
nhà khoa học gọi đó là văn hoá Nam Á-gần gũi với văn hóa Đông Á.
Vùng nam Trường Giang từ đời Tần sáp nhập dần vào lãnh thổ Trung
Quốc với sự gia tăng của quá trình Hán hoá. Các nước khác bị thu hút vào
vùng ảnh hưởng của cả hai nền văn minh này: Phù Nam, Champa thuộc vùng
ảnh hưởng văn hoá Ấn Độ trong lúc miền Bắc Việt Nam từ văn hoá Đông
Sơn đã thấy rõ quan hệ giao lưu với văn hóa Trung Quốc. Cũng có ý kiến cho
rằng, nước Âu Lạc bị “cưỡng chế” văn hóa thông qua hơn nghìn năm Bắc
thuộc. Như vậy, văn hóa Trung Quốc đã du nhập vừa bằng con đường cưỡng
chế của chính quyền đô hộ, vừa bằng sự giao lưu và tiếp nhận tự nguyện của
nhân dân. Có người học giả cho rằng, văn hoá Việt Nam (địa bàn Âu Lạc –
Giao Châu – An Nam) trong thời Bắc thuộc là nền văn hoá Hán Việt. Tuy
nhiên, dường như văn hóa bản địa đủ mạnh để chống lại sự Hán hóa hoàn
toàn. Điều này cũng có nghĩa là cơ tầng văn hoá Việt gắn bó với văn hoá
Đông Nam Á vẫn được bảo tồn và phát triển. Do đó, quá trình Hán hoá ở đây
không dẫn đến sự đồng hoá.
Sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc tới khu vực Đông Nam Á rõ nét
nhất là Nho giáo và Phật giáo Bắc tông.
4.1, Sự ảnh hưởng của Nho giáo
Nho giáo là một trường phái tư tưởng, còn gọi là Nho gia, do Khổng
Tử đặt nền tảng đầu tiên. Khổng tử tên là Khâu, tự Trọng Ni (551-479 trước
Công nguyên), người nước Lỗ, sống thời Xuân Thu (tỉnh Sơn Đông ngày
nay). Nho giáo nhấn mạnh đến sự rèn luyện cá nhân, tu thân. Có năm thứ cần
để tu dưỡng thành người (ngũ thường): Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Từ vua tới dân
phải tu thân. Tu thân không phải cho mình mà để “tề gia, trị quốc, bình thiên
21
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
hạ”. Trong công việc, phép xử thế thì phải lấy “danh bất chính tắc ngôn bất
thuận” [13, tr.23]. Như vậy, Nho giáo khuyên người ta giữ tứ đức, làm người
tốt, cư xử đúng chức phận và lo toan gánh vác việc đời.
Nho giáo có một vị thế hết sức quan trọng trong đời sống xã hội Trung
Quốc trong nhiều thế kỷ. Nho giáo như là một thành tố văn hoá góp phần làm
phong phú văn hoá Trung Quốc vốn được hình thành trên nền tảng của văn
hoá Hán cùng với sự giao lưu tiếp xúc văn hoá với các tộc người khác.
Thời Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam,
đến năm 1070, Lý Thái Tổ lập Văn Miếu thờ Chu Công-Khổng Tử. Đây có
thể xem là thời điểm Nho giáo chính thức được công nhận. Tới thế kỷ 15, do
nhu cầu xây dựng đất nước thống nhất, chính quyền tập trung, xã hội trật tự,
Nho giáo thay chân Phật giáo trở thành quốc giáo dưới triều Lê. Nho giáo,
chủ yếu là Tống Nho, bám chắc vào cơ chế chính trị-xã hội, vào chế độ học
hành khoa cử, vào tầng lớp nho sỹ, dần chiếm lĩnh đời sống tinh thần xã hội.
Nhưng Nho giáo cũng chỉ được tiếp thụ ở Việt Nam từng yếu tố riêng lẻ, nhất
là về chính trị-đạo đức, chứ không bê nguyên xi cả hệ thống.
Ở Việt Nam, những tư tưởng “nhà Nho” đã trở nên gần gũi từ rất lâu.
Sự gần gũi này đã gắn vào tiềm thức mỗi nho sỹ ngày trước. Ngày nay, tại
nhiều trường học vẫn đề cao “tiên học lễ, hậu học văn”. Điều này chứng tỏ,
ngay cả trong giáo dục hiện đại của Việt Nam vẫn trọng cung cách ứng xử
làm người hơn kiến thức. Muốn thành danh thì phải học có đạo đức trước.
Cho tới ngày nay, trong nhiều ngôi đền hay Văn miếu, người Việt Nam vẫn
cung kính thờ tự các bậc thánh hiền như Khổng Tử, Mạnh Tử...Trong cuộc
sống hàng ngày, lối ứng xử của người Việt vốn trọng nghĩa và kính người già.
Sự ảnh hưởng đậm nét mà kho tàng lịch sử còn lưu lại là ngôn ngữ. Trải qua
nghìn năm Bắc thuộc, dưới các triều đại phong kiến, ngôn ngữ chính thống là
chữ Hán. Tuy nhiên, đây cũng là thời gian tiếng Việt tỏ rõ sức sống đấu tranh
22
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
tự bảo tồn và phát triển. Chữ Hán được đọc theo cách của người Việt, gọi là
cách đọc Hán-Việt và được Việt hoá bằng nhiều cách tạo ra nhiều từ Việt
thông dụng. Tiếng Việt phát triển phong phú và sau đó hình thành hệ thống
chữ viết ghi lại tiếng Việt trên cơ sở văn tự Hán vào thế kỷ 13 là chữ Nôm.
Trong nhiều tác phẩm văn học ở Việt Nam đều có các điển tích, điển cố
Trung Quốc. Sự ảnh hưởng sâu sắc tới mức, có hẳn cả một dòng thơ viết theo
lối Đường luật của Trung Quốc. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một điển
hình của sự giao thoa văn hóa Việt-Trung. Ngôn ngữ tuy viết bằng chữ Nôm,
cách trình bày theo thể lục bát đậm bản sắc Việt nhưng các điển tích, điển cố
đều của Trung Quốc. Singapore ngoài sự ảnh hưởng nhỏ của văn hóa Ấn Độ,
90% dân số nước này là người Hoa. Cộng đồng người Hoa di cư tới từ Trung
Quốc. Họ được xem như là một bộ phận không tách rời của các tộc người
Trung Hoa di cư đến mà thành. Đây là một cộng đồng mang bản sắc văn hóa
Trung Quốc “cắm rễ” tới khu vực Đông Nam Á.
Có thể kể ngay được tên của các nguyên thủ gốc Hoa, những người đã
tham gia chính trường ở các nước Đông Nam Á và đóng vai trò quan trọng
trong xã hội: Nguyên Thủ tướng Lý Quang Diệu, Ngô Tác Đống và Thủ
tướng Lý Hiển Long ở Singapore; Giôn Sơ Trung (Tổng thống Guyana);
Aquyn (nữ Tổng thông Philippines); Wahir (Tổng thống Indonesia)...
4.2, Sự có mặt của Phật giáo Đại thừa
Nhiều học giả cho rằng, Phật giáo du nhập vào Đông Nam Á khoảng
thế kỷ I-II đầu công nguyên. Ở Việt Nam, Phật giáo Đại thừa du nhập vào
quãng những năm 194-195, trung tâm Phật giáo lớn nhất thời đó là Luy Lâu
(thuộc huyện Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay). Phật giáo Đại thừa vào
Indonesia cũng rất sớm, khoảng thế kỷ II. Phật giáo phát triển cực thịnh thời
kỳ quốc gia Srivijaya và ngôi đền Borobudur nổi tiếng mang biểu tượng của
kiến trúc đặc trưng Phật giáo. Giống như hầu hết các quốc gia Đông Nam Á
23
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
khác, Borobudur là biểu hiện sự kết hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân dan
của người Indonesia. Điều này cũng dễ hiểu khi miền Trung Java, có sự pha
trộn giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo. Tuy nhiên, điểm khác nhau quan trọng
giữa những quốc gia Đông Nam Á hải đảo và lục địa là: Sau thời kỳ phát triển
mạnh của Ấn Độ giáo, Kitô giáo và Hồi giáo từ thế kỷ XIV trở đi đã đến vùng
đảo theo chân các thương lái phương Tây và Trung Cận Đông. Từ đó, Kitô và
Hồi giáo ngự trị tại các quốc gia hải đảo Đông Nam Á cho tới nay.
Khi Phật giáo Đại thừa (Bắc tông) từ Trung Quốc vào Việt Nam, tăng
lữ mới đi sâu hơn vào Phật học, nhưng dần hình thành những tôn phái riêng
như Thiền Tông Trúc Lâm đề cao Phật tại tâm. Thời Lý-Trần, Phật giáo cực
thịnh nhưng vẫn đón nhận cả Nho giáo, Lão giáo, tạo nên bộ mặt văn hoá
mang tính chất “Tam giáo đồng nguyên”.
Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam khoảng cuối thế kỉ 2. Do thuyết vô
vi mang tư tưởng phản kháng sự thống trị, nó được người dân dùng hưởng
ứng tiếp nhận như một tinh thần chống phong kiến phương Bắc. Bên cạnh đó,
Đạo giáo lại có nhiều yếu tố thần tiên, huyền bí nên hợp với tiềm thức con
người và tín ngưỡng nguyên thuỷ một cách tự nhiên. Nhiều nhà nho cũ
ngưỡng mộ khuynh hướng ưa thanh tĩnh, nhàn lạc của Lão-Trang. Tuy nhiên,
sau này, Đạo giáo như một tôn giáo không tồn tại, trong dân gian, nó cũng
giống như một tín ngưỡng.
Khi nghiên cứu tới việc hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và ASEAN,
điều đầu tiên cần phải làm rõ vậy văn hóa ASEAN có những đặc trưng gì. Bởi
vì, mọi mối quan hệ hay hợp tác nếu có sự liên quan sâu xa sẽ trở nên thuận
lợi hơn rất nhiều, nhất là tương đồng về văn hóa. Do đó, đã từ lâu, trong quan
hệ quốc tế, các chủ thể quốc gia luôn tìm tới mẫu số chung để mở đầu mối
quan hệ một cách thuận lợi. ASEAN là một hiệp hội gồm 11 quốc gia, nằm ở
một vị trí địa lý-nơi mà văn hóa bản địa vốn đã nhiều điểm tương đồng.
24
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Không những thế, điều kiện địa lý (nằm giữa hai nền văn minh lớn là Ấn Độ
và Trung Quốc) đã khiến 11quốc này (nằm trọn ở khu vực Đông Nam Á, có
thể gọi ASEAN là khu vực Đông Nam Á) đều chịu sự ảnh hưởng văn hóa Ấn
Độ từ phía Nam, văn hóa Trung Quốc từ phía Bắc. Sự ảnh hưởng từ hai
“luồng” văn hóa đó không làm mất đi văn hóa bản địa, ngược lại, đã có sự
dung hòa giữa văn hóa bản địa với văn hóa Ấn Độ và Trung Quốc (Sau này,
văn hóa phương Tây, Ả rập...cũng có sự giao thoa tương tự với văn hóa Đông
Nam Á). Sự dung hòa này đã hình thành văn hóa khu vực Đông Nam Á. Việt
Nam là một quốc gia mang nhiều nét đặc trưng cơ bản của văn hóa Đông
Nam Á. Việc Việt Nam khởi xướng xây dựng cộng đồng văn hóa-xã hội (một
trong ba cộng đồng để hình thành cộng đồng ASEAN) cũng xuất phát từ lợi
thế này. Bên cạnh đó, từ vai trò khởi xướng, Việt Nam phải là quốc gia tiên
phong trong hợp tác văn hóa với ASEAN.
Hợp tác văn hóa trở thành yếu tố vô cùng quan trọng để các thành viên
ASEAN cùng nhau hướng tới thưc hiện mục tiêu Tầm nhìn 2020 của toàn
khối: Đó là xây dựng một ASEAN hài hòa với các dân tộc Đông Nam Á
hướng ngoại, sống trong hòa bình, ổn định và thịnh vượng, gắn bó và phát
triển năng động trong một cộng đồng đùm bọc lẫn nhau.
25
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
CHƢƠNG 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VÀ NGUYÊN TẮC HỢP TÁC VĂN HOÁ VIỆT NAM - ASEAN NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ 21
1, Những vấn đề đặt ra cho ASEAN và Việt Nam
Hơn 10 năm, Việt Nam chính thức trở thành thành viên ASEAN.
Quãng thời gian này đánh dấu sự phát triển trong quan hệ giữa Việt Nam với
các nước trong khu vực Đông Nam Á. Sự phát triển đó đã mở ra những thuận
lợi nhưng đồng thời cũng tạo nên không ít thách thức cho Việt Nam. Tự thân
tổ chức ASEAN trong tiến trình tiến tới hình thành cộng đồng chung dựa trên
ba cộng đồng (hay còn gọi là ba trụ cột chính: An ninh, chính trị; văn hoá-xã
hội và kinh tế) cũng sẽ tự điều chỉnh lại mình theo phương cách của ASEAN
(ASEAN way).
Mong muốn của ASEAN là củng cố sự liên kết để nâng cao vị thế. Có
nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, mô hình liên kết hiện nay của ASEAN là lỏng
lẻo. Thậm chí, tương lai của ASEAN cũng đã được các học giả đưa ra bàn
thảo. Có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng tựu trung lại có ba mô hình thuyết
phục nhất:
1, ASEAN sẽ bị phân hoá, lu mờ trước các sáng kiến hợp tác lớn hơn
trong khu vực.
2, ASEAN thực hiện thành công Tầm nhìn 2020 và trở thành một cơ
chế hợp tác chặt chẽ giống như Liên minh Châu Âu (EU).
3, ASEAN tiếp tục là một tổ chức hợp tác lỏng lẻo, tuy vậy mức độ có
khác giai đoạn trước.
Đa số các học giả đều cho rằng, mô hình thứ ba có nhiều khả năng xảy
ra nhất, vì phù hợp với khả năng của ASEAN và mong muốn của nhiều nước
thành viên.
26
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Trước thực tiễn này, quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN có đặt ra
những vấn đề sau:
Trước hết phải khẳng định rõ, trong tiến trình Việt Nam quan hệ với
ASEAN, vị trí của Việt Nam được nâng lên (điều này được được đánh giá qua
10 năm thể hiện thiện chí và đóng góp của mình). Nổi bật nhất là quan hệ
kinh tế, văn hoá giữa Việt Nam và ASEAN phát triển theo hướng thuận lợi.
Điều này đóng một vai trò quan trọng trước thời điểm Việt Nam gia nhập
WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới). Thế nhưng, vấn đề đặt ra hiện nay lại
là khoảng cách về kinh tế giữa Việt Nam với một số nước ASEAN cũ. Nếu so
sánh với các nước thành viên khác của ASEAN (5 nước ASEAN cũ) thì Việt
Nam vẫn chưa thể theo kịp. Một chuyên gia của Ngân hàng thế giới đã từng
nhận định rằng, để đuổi kịp như Singapore hiện nay, Việt Nam phải mất đến
197 năm. Có nhiều nguyên nhân khiến Việt Nam có xuất phát điểm chậm hơn
so với các thành viên cũ của ASEAN. Chiến tranh kéo dài dẫn đến Việt Nam
bước vào nền kinh tế thị trường chậm (Ở thời điểm Việt Nam mới bước vào
nền kinh tế thị trường, các nước thành viên ASEAN lúc bấy giờ đã có nền
kinh tế tương đối phát triển trong khu vực). Hiện, một vấn đề cụ thể của Việt
Nam hiện nay có thể nhận ra là, năng lực cạnh tranh thấp, lại chậm được cải
thiện so với các nước ASEAN cũ. Theo đánh giá của WEF (Diễn đàn Kinh tế
thế giới), chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam xếp thứ 48/53 nước (xét
năm 1999), 60/75 nước (xếp loại năm 2001), và 65/80 nước (năm 2002).
Năng lực quản lý của của các doanh nghiệp còn yếu. Đặc biệt các doanh
nghiệp nhà nước hiện vẫn chưa thoát hẳn khỏi cơ chế bảo hộ, trợ cấp. Đây
cũng là một thách thức khi Việt Nam tham gia đầy đủ vào AFTA. Chưa kể tới
năm 2010, nếu hiệp định thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc, và hiệp định
thương mại ASEAN-Nhật Bản thành hiện thực tiến tới ASEAN+3 hoặc mở
rộng ASEAN +n... thành khu vực tự do thương mại rộng lớn toàn Đông Á,
27
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Việt Nam sẽ khó lòng cạnh tranh với các nước thành viên khác (lúc đó, các
hàng rào thuế quan sẽ được dỡ bỏ theo lộ trình sau khi Việt Nam trở thành
thành viên WTO).
Vấn đề an ninh khu vực ASEAN đang trở nên nóng bỏng. Khủng bố,
xung đột sắc tộc, tôn giáo, an ninh quốc gia...là những vấn đề diễn ra phức tạp
tại Đông Nam Á. Đặc biệt, sau sự kiện 11/9, làn sóng khủng bố lan rộng và
bùng phát tại khu vực này. Có nhiều vụ việc đã gây ra những hậu quả nghiêm
trọng như: Các vụ đánh bom liều chết tại khu nghỉ mát nổi tiếng Bali
(Indonesia), xung đột vũ trang đẫm máu giữa người theo đạo Hồi và người
đạo Phật tại miền Nam Thái Lan, tranh chấp di sản văn hoá giữa Campuchia
và Thái Lan, biểu tình kéo dài gây bất ổn chính trị kéo dài ở Băng Cốc (Thái
Lan), bắt cóc con tin ở Philippines... Khủng bố dường như đã trở thành hệ
thống khi nhiều nhân vật khủng bố ở Đông Nam Á tuyên bố có quan hệ với tổ
chức Al Qaida. Tổng thống Philippines không ít lần phải ban bố lệnh giới
nghiêm nhằm ổn định tình hình; Campuchia, Miến Điện vẫn còn lúng túng
trong cách điều hành đất nước...Khủng khiếp nhất là những đợt đánh bom liều
chết của các phần tử vũ trang Hồi giáo cực đoan nhắm vào nơi đông dân cư
như khu du lịch nổi tiếng Bali (Indonesia), các Đại sứ quán nước ngoài; xung
đột vũ trang đe doạ an ninh quốc gia ở Đông Timo... Diễn biến phức tạp này
là một thách thức với Việt Nam, bởi những làn sóng tiêu cực này ít nhiều có
ảnh hưởng tới an ninh trật tự trong nước. Do đó, một mặt, Việt Nam mở rộng
mối quan hệ với các nước thành viên ASEAN trong mọi khía cạnh, mặt khác
phải tăng cường an ninh đảm bảo ổn định xã hội. Thành công lớn nhất của
Việt Nam so với các nước thành viên ASEAN là, cho đến nay vẫn đảm bảo
được sự ổn định chính trị-xã hội, chưa để xảy ra tình trạng như ở một số quốc
gia láng giềng trong khu vực.
28
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Do khoảng cách về kinh tế nên việc Việt Nam thực hiện lộ trình tham
gia AFTA (Khu vực mậu dịch tự do ASEAN) tương đối khó khăn. Từ năm
2006, Việt Nam bắt đầu tham gia AFTA. Đến năm 2008, Việt Nam sẽ phải
hoàn tất lộ trình này và tham gia AFTA một cách đầy đủ. Trên thực tế, từ năm
2006, Việt Nam mới chỉ có một số ngành, lĩnh vực tham gia AFTA. Tuy việc
tham gia AFTA là bước cọ xát trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới nhưng
quá trình này đã bộc lộ sự thiếu mạnh dạn và khâu chuẩn bị của các doanh
nghiệp Việt Nam còn yếu. Bằng chứng là nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa
ứng phó kịp trước việc một số mặt hàng ngoại nhập từ các nước ASEAN tràn
vào với thuế suất bằng không (0). Trong khi đó, bối cảnh kinh tế toàn cầu
cuối năm 2007 và dự báo tới năm 2009 không mấy sáng sủa (Khủng hoảng
kinh tế gây lạm phát, rồi tới thiểu phát đã tác động lớn tới khu vực). Đây
thực sự là một khó khăn lớn với Việt Nam nói riêng và các nước trong khu
vực nói chung.
Sự khác biệt về thể chế chính trị vốn là rào cản lớn trước đây trong
quan hệ Việt Nam-ASEAN. Sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, rào cản đó
đã không còn nữa. ASEAN cũng không chú trọng nhiều tới sự khác biệt này
và đã kết nạp thêm các thành viên có thể chế chính trị khác còn lại thành một
ASEAN thống nhất trong đa dạng.
Quan hệ Việt Nam-ASEAN hiện nay được đặt trong bối cảnh: Có sự
tác động qua lại giữa ASEAN và các cường quốc (mô hình ASEAN +). Có
hai cách hiểu về sự tác động này là: Các cường quốc chi phối ASEAN hoặc
ASEAN tận dụng mâu thuẫn giữa các cường quốc để phát triển. Trên thực tế,
sự tác động này đều có cả hai mặt qua lại, qua đây, vị thế của ASEAN được
củng cố và nâng lên rất nhiều. Nói như vậy, do Việt Nam là thành viên của
ASEAN nên cũng đồng thời bị chi phối, tác động từ các cường quốc. Nhưng,
ngược lại, vị thế của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Tuy nhiên,
29
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
với cơ chế hoạt động lỏng lẻo của ASEAN như hiện nay (mô hình thứ 3 dự
đoán xảy ra trong tương lai), có một thực tế mà Việt Nam cần nhận định rõ là,
tuy cùng hiệp hội ASEAN nhưng lợi ích quốc gia của mỗi nước luôn được đặt
lên hàng đầu. Việc này được thể hiện rõ khi Philippines sẵn sàng bỏ qua Bộ
quy tắc ứng xử Biển Đông, ký với Trung Quốc thoả thuận khai thác dầu khí
tại vùng biển đang tranh chấp với nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á.
Quan hệ Việt Nam-ASEAN trong hơn 10 năm qua đã diễn ra trong
chiều hướng phát triển tốt đẹp. Điều này đã khẳng định đường lối đối ngoại
đúng đắn của nhà nước ta. Bên cạnh đó, luôn có những vấn đề đặt ra trong
quan hệ giữa Việt Nam-ASEAN, như khoảng cách về kinh tế giữa Việt Nam
và một số thành viên cũ, ảnh hưởng từ an ninh khu vực tới quan hệ 2 bên, sự
khác biệt về chính trị, việc thực hiện lộ trình AFTA và quan hệ ASEAN-Việt
Nam trong bối cảnh thế giới hiện nay. Trước xu hướng toàn cầu hoá, chắc
chắn Việt Nam và ASEAN sẽ dần củng cố và giải quyết những vấn đề này
trong tương lai gần bằng phương cách riêng của ASEAN.
2, Nguyên tắc chung trong hợp tác văn hóa Việt Nam-ASEAN
Văn hoá luôn đóng vai trò rất quan trọng trong quan hệ quốc tế của mỗi
nước cũng như trong đời sống quốc tế đương đại nói chung, nhất là trong xu
thế hội nhập khu vực và toàn cầu hoá hiện nay. Trong quá trình hợp tác, có
những nguyên tắc chung để mọi hoạt động quan hệ văn hóa Việt Nam-ASEAN
diễn ra thuận lợi và đạt hiệu quả, như: Nguyên tắc thống nhất trong đa dang; tôn
trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau...
2.1, Thống nhất trong đa dạng
Mỗi quốc gia trên cơ sở phát huy bản sắc văn hoá riêng và học hỏi, tiếp
thu, kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn hoá khác để phấn đấu hợp tác tạo
dựng những nét văn hoá chung, thống nhất của cả khu vực. ASEAN hiện có
11 nước thành viên: Bruney, Campuchia, Đông Timo, Indonesia, Lào,
30
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Malaysia, Miến Điện, Philippin, Thái Lan, Singapore và Việt Nam. Ngoài
những đặc trưng văn hóa chung của văn hóa bản địa Đông Nam Á, tự thân
mỗi nước lại có bản sắc văn hóa riêng. Trong điều kiện này, các quốc gia
ASEAN luôn coi trọng nguyên tắc đầu tiên trong hợp tác văn hóa là thống
nhất trong đa dạng.
Trong lĩnh vực văn hoá, nguyên tắc này được áp dụng phổ biến tích
cực, rõ nét nhất. Có nhiều đặc trưng văn hóa Đông Nam Á đã được phân tích
kỹ ở chương 1, tuy nhiên đánh giá cụ thể thì tương đồng lớn nhất giữa các
quốc gia ASEAN là dựa trên cơ sở nền văn minh nông nghiệp lúa nước.
Chứng cớ rõ nhất của cơ sở này là trống đồng thuộc hệ Đông Sơn được tìm
thấy ở hầu hết các quốc gia trong khu vực. Cho tới nay, đa số cư dân Đông
Nam Á đều dùng lúa làm lương thực chính. Về kiến trúc, ngôi nhà sàn là hình
ảnh đặc trưng cho kiến trúc truyền thống trong các làng quê. Ngay trong khảo
cổ học cũng xuất hiện thuật ngữ truyền thống Sa Huỳnh - Kalamay để chỉ sự
gần gũi đặc biệt giữa những đồ gốm Sa Huỳnh (Việt Nam) với những đồ gốm
Kalamay của Philippines...
Bên cạnh đó, sự khác biệt trong văn hoá các nước khu vực Đông Nam
Á cũng rất nhiều. Sắc tộc, tôn giáo và ngôn ngữ là những khác biệt cơ bản.
Vấn đề đa sắc tộc là điều dễ hiểu nhất vì khu vực này gồm cả lục địa và hải
đảo mà dân cư được hình thành trên cơ sở các tộc người bản địa và người từ
các khu vực và các quốc gia khác di cư tới. Trong từng nước cũng như cả khu
vực đều có nhiều tôn giáo khác nhau: Phật giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo, Thiên
chúa giáo... Ngay trong Phật giáo cũng có sự khác nhau: Nam tông và Bắc
tông. Cũng là công trình thờ Phật nhưng chùa chiển ở Việt Nam, Lào, Thái
Lan khác với ở Campuchia, Miến Điện; Bayon không giống với Borobudur
hay chùa Pagan. Tuy cùng là công trình Ấn Độ giáo nhưng Angkor Wat
(Campuchia) không giống với đền Mỹ Sơn (Việt Nam)... Những nét tương
đồng và khác biệt là đặc thù rất quan trọng của lĩnh vực văn hoá trong quan
hệ quốc tế so với các lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, quân sự...
31
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
2.2, Tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ
Trong quan hệ quốc tế, dù trên lĩnh vực văn hoá nhưng nguyên tắc này
dường như là bất di, bất dịch. Đây là nguyên tắc thường được nêu ra trong các
hoạt động mang tính ngoại giao phòng ngừa. Nêu nguyên tắc này để tránh gây
ảnh hưởng tới chủ quyền dân quốc gia, cũng như động đến lòng tự trọng dân
tộc. Trong thực tế lịch sử và hiện tại đã từng có nhiều cuộc chiến tranh đẫm
máu xuất phát từ mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo. Có những quốc gia muốn
truyền bá, thậm chí áp đặt mô hình văn hoá, lối sống của nước mình cho các
nước, dân tộc khác với suy nghĩ giúp đỡ hoặc khai phá văn minh. Do đó,
nguyên tắc này được nêu phổ biến và được đưa ra đầu tiên trong quan hệ quốc
tế nói chung. Ở phạm vi hợp tác văn hóa, nguyên tắc này cũng phải đảm bảo
và không thể thiếu.
Ngoài ra, nguyên tắc đồng thuận (consensus) của ASEAN cũng có ý
nghĩa quan trọng trong các mối quan hệ dù chỉ trong lĩnh vực văn hoá. Với
nguyên tắc này, mọi quyết định, nghị quyết, đề án của ASEAN phải được các
thành viên nhất trí thông qua thì mới có hiệu lực thi hành.
Trong quan hệ quốc tế, mỗi khi gặp tình thế khó khăn, phức tạp; các
nhà ngoại giao thường bắt đầu từ các cuộc trao đổi, tiếp xúc, giao lưu văn hoá
hay thể thao để tháo gỡ ách tắc hoặc khai thông một mối quan hệ nào đó. Do
đó, mới có ngoại giao bóng bàn, ngoại giao tắm hơi... Những hoạt động ngoại
giao hóa đời thường nhằm giúp tiếp cận với nhiều vấn đề to tát, cứng nhắc
một cách thuận lợi. Thông thường, để giúp khởi động lại mối quan hệ bị
nguội lạnh, cách làm phổ biến vẫn là thông qua các hoạt động văn hoá, như:
Cử các đoàn nghệ thuật biểu diễn giao lưu hay đoàn vận động viên đi thi đấu
giao hữu. Mục đích của những hoạt động văn hóa này là, giúp tăng cường sự
hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, làm cầu nối để các chủ thể quốc gia xích
lại gần nhau hơn hoặc vượt qua sự ngăn cách, trở ngại nào đó.
32
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
3, Quá trình phát triển hợp tác văn hóa ASEAN
3.1, Lịch sử phát triển và hợp tác văn hóa-thông tin ASEAN
Hợp tác văn hoá - thông tin ASEAN có vai trò quan trọng trong việc
góp phần thúc đẩy tiến trình hợp tác ASEAN hướng tới mục tiêu của cả khu
vực như đã được ghi nhận trong Tuyên bố Hoà hợp ASEAN II. Để có được
cái nhìn về các hướng phát triển cũng như các mối liên kết và mô hình hợp
tác văn hoá - thông tin ASEAN trong những năm đầu thế kỷ 21, trước hết cần
đánh giá hiện trạng hợp tác văn hoá - thông tin khu vực.
Một trong những mục tiêu chính của ASEAN đã được những người
đứng đầu các nước ASEAN cam kết trong Tuyên bố thành lập ASEAN ngày
8/8/1967 là, đẩy mạnh hợp tác văn hoá giữa các nước thành viên nhằm tăng
cường sự hiểu biết lẫn nhau, tình đoàn kết và hữu nghị giữa nhân dân các
nước trong Hiệp hội. Tháng 12/1969 tại Cameroon, ASEAN đã ký kết Hiệp
định về tăng cường công tác truyền thông đại chúng và đẩy mạnh hợp tác văn
hoá. Đây là hiệp định đầu tiên của ASEAN về hợp tác văn hoá - thông tin khu
vực. Hiệp định này cũng xác định cụ thể những lĩnh vực hợp tác văn hoá -
thông tin khu vực, như điện ảnh, tổ chức liên hoan phim, tuần phim khu vực,
các liên hoan nghệ thuật, triển lãm, trưng bày; trao đổi nghệ sỹ; hợp tác sản
xuất phim; phối hợp nghiên cứu văn hoá; trao đổi các học giả, nhà báo... Hiệp
định này cũng đề cập đến khả năng thành lập các tổ chức văn hoá - thông tin
của ASEAN. Hợp tác chuyên ngành nói chung và hợp tác văn hoá - thông tin
nói riêng luôn là mối quan tâm của những người đứng đầu nhà nước và chính
phủ các nước ASEAN. Ngay từ năm 1976, tại Bali (Indonesia), Hội nghị Cấp
cao ASEAN lần thứ nhất đã ra Tuyên bố ASEAN Hoà hợp. Trong đó nhấn
mạnh đến việc tăng cường hợp tác văn hoá nhằm thể hiện và xây dựng một
bản sắc văn hoá; tăng cường nghiên cứu về Đông Nam Á và tăng cường trao
đổi giao lưu văn hoá - thông tin khu vực.
33
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Tuy nhiên, hợp tác văn hoá - thông tin khu vực trong giai đoạn đầu
(trước năm 1978) vẫn còn khiêm tốn. Nguyên nhân chính là, ASEAN chưa có
bộ máy riêng về hợp tác văn hoá - thông tin khu vực và quan trọng hơn là
nguồn kinh phí cho các hoạt động này chưa nhiều. Chỉ tới khi Chính phủ Nhật
Bản viện trợ cho ASEAN 20 triệu USD để dành cho lĩnh vực hợp tác văn hoá
- thông tin khu vực, ASEAN đã thành lập Quỹ Văn hoá ASEAN (ACF) và Ủy
ban Văn hoá - Thông tin ASEAN (ASEAN - COCI).
Quỹ văn hoá ASEAN:
Năm 1978, Chính phủ Nhật Bản đã viện trợ cho ASEAN một khoản
tiền khoảng 20 triệu USD dành cho lĩnh vực hợp tác văn hoá ASEAN. Số tiền
này được gửi vào hai ngân hàng ở Singapore và Malaysia để thu lãi. Hàng
năm, 80% tiền lãi được sử dụng cho các dự án hợp tác văn hoá - thông tin khu
vực, 20% còn lại được gửi trở tiếp cùng tiền gốc trong ngân hàng. Cho đến
nay, tổng số tiền gốc của ACF đã vào khoảng 40 triệu USD. Số tiền được chi
cho các dự án hợp tác văn hoá - thông tin ASEAN hàng năm dao động
khoảng 1 triệu 600 ngàn đến 2 triệu USD. Những năm có những hoạt động
đặc biệt, ví dụ như kỷ niệm 30 năm thành lập ASEAN, ngân sách dành cho
các hoạt động hợp tác có thể cao hơn [7, tr. 4]. Nếu 80% tiền lãi hàng năm
không đủ, Ủy ban Văn hoá Thông tin có thể đề nghị trích từ Quỹ dự phòng.
Hiện nay, ACF được sử dụng theo 2 hướng: Các dự án do SOMCA với 3
nhóm công tác đề xuất xuống theo khuyến nghị của AMCA ; và, các dự án do
COCI thông qua như thông lệ. Malaysia đã đề xuất là sẽ phác thảo một cơ chế
tổ chức mới phù hợp hơn trong khuôn khổ hợp tác về văn hoá thông tin của
ASEAN để thông qua Ban Thư ký ASEAN và SOMCA cho ý kiến, sau đó sẽ
tham khảo ý kiến của (Hội nghị Quan chức cấp cao về Thông tin- SOMRI
nhằm thống nhất cơ chế tổ chức này,cũng như đảm bảo việc sử dụng Quỹ Văn
hoá ASEAN một cách hiệu quả hơn.
34
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Ủy ban Văn hoá - Thông tin ASEAN
Cho đến nay, việc hợp tác văn hoá - thông tin ASEAN được thông qua
Ủy ban Văn hoá - Thông tin ASEAN với những chức năng sau đây:
- Xây dựng và thông qua các chương trình, dự án hợp tác trên lĩnh vực
văn hoá - thông tin.
- Theo dõi, điều phối và đánh giá các dự án đã được ASEAN - COCI
thông qua.
- Nghiên cứu, đề xuất các chương trình hợp tác với các nước đối thoại.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ nêu trên, ASEAN-COCI đề ra những
mục tiêu của sự hợp tác khu vực:
- Hợp tác văn hoá - thông tin ASEAN nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn
nhau và tinh thần đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân các nước trong khu vực.
- Hợp tác văn hoá - thông tin ASEAN góp phần xây dựng một nền tảng
ASEAN hoà bình và thịnh vượng.
- Xây dựng một hình ảnh tốt đẹp về ASEAN trong và ngoài khu vực.
Trước năm 2000, cơ cấu tổ chức bộ máy ASEAN - COCI được chia
thành 4 nhóm công tác, gồm:
1. Nhóm công tác về Văn học và Nghiên cứu ASEAN
2. Nhóm công tác về Nghệ thuật Nghe nhìn và Biểu diễn
3. Nhóm công tác về Phát thanh, Truyền hình và Điện ảnh/Video
4. Nhóm công tác về In ấn/Xuất bản, Báo chí và Thông tin đại chúng
Bốn nhóm công tác này có chức năng chủ yếu là đề xuất, xây dựng các
dự án. Sau khi được ASEAN -COCI thông qua, các nhóm công tác chịu trách
nhiệm điều phối, triển khai thực hiện và báo cáo kết quả thực hiện các dự án.
Mỗi năm, bốn nhóm công tác họp một lần, tiếp đến, ASEAN -COCI sẽ họp để
tổng hợp, xem xét và thông qua các dự án hợp tác và trình lên Ban Thư ký
ASEAN xem xét, thông qua.
35
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Từ năm 2000 đến nay, ASEAN - COCI đã tổ chức lại từ bốn nhóm
công tác thành hai Tiểu ban trực thuộc là Tiểu ban Văn hoá ASEAN (SCC) và
Tiểu ban Thông tin ASEAN (SCI). Mỗi năm, hai tiểu ban họp một lần để xem
xét, xây dựng và thông qua các dự án hợp tác của từng lĩnh vực, sau đó vài
tháng, ASEAN-COCI họp toàn thể để xem xét, rà soát, cân đối và thông qua
các dự án của cả hai tiểu ban và trình lên Ủy ban Thường trực ASEAN xem
xét, thông qua để thực hiện.
BỘ MÁY ASEAN - COCI TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
Ủy ban Văn hóa - Thông tin ASEAN - COCI
Tiểu ban Văn hóa ASEAN (SCC)
Tiểu ban Thông tin ASEAN (SCI)
Các cuộc họp cấp Bộ trưởng Văn hóa-Thông tin ASEAN
Trong lĩnh vực Thông tin, đến nay, ASEAN đã tổ chức được gần 10
cuộc họp định kỳ (2 năm một lần) Hội nghị Bộ trưởng phụ trách Thông tin
ASEAN (AMRI) theo cơ chế quay vòng luân phiên. Từ ngày 13 đến
14/10/2003 tại Kuala Lumpur (Malaysia), lần đầu tiên ASEAN đã tổ chức
Hội nghị Bộ trưởng phụ trách Văn hoá và Nghệ thuật ASEAN (AMCA).
Ngay trước mỗi Hội nghị cấp Bộ trưởng là cuộc họp các Viên chức Cấp cao
(SOM) nhằm chuẩn bị nội dung cho các cuộc họp Bộ trưởng được tổ chức
ngay sau đó. Mục đích chính của các Hội nghị AMRI và AMCA là hoạch
định các chính sách, đưa ra các khuyến nghị, định hướng cho hợp tác khu vực
trên từng lĩnh vực văn hoá-thông tin.
36
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
BỘ MÁY HỢP TÁC VĂN HOÁ - THÔNG TIN ASEAN
Hội nghị Bộ trƣởng phụ trách Thông tin ASEAN (AMRI)
Hội nghị Bộ trƣởng phụ trách Văn hóa và Nghệ thuật (AMCA)
cao
cao
Hội nghị viên chức cấp (SOM- AMCA)
Hội nghị viên chức (SOM- cấp AMCA)
Ủy ban công tác kỹ thuật AMRI (TWC)
Ủy ban Văn hóa Thông tin ASEAN - COCI
Tiểu ban Văn hóa ASEAN (SCC)
Tiểu ban Thông tin ASEAN (SCI)
Cho đến nay, mô hình hợp tác văn hoá - thông tin ASEAN trên đã thể
hiện tính hoàn chỉnh của cơ cấu tổ chức bộ máy. Tuy nhiên, qua thực tế, vẫn
tồn tại những bất ổn và cồng kềnh trong bộ máy hợp tác văn hoá - thông tin
khu vực. Theo cơ chế của ASEAN hiện nay được Ban Thư ký ASEAN giải
thích tại Hội nghị Bộ trưởng phụ trách Văn hoá ASEAN lần thứ nhất tổ chức
tại Malaysia vào tháng 10/2003, Hội nghị Viên chức Cấp cao của cả AMRI
(được gọi là AMRI - SOM) và AMCA (được gọi là SOMCA) là cơ quan cấp
trên của COCI. Nhưng những cán bộ của các nước thành viên ASEAN tham
gia COCI thì cũng chính là các viên chức cấp cao của AMRI-SOM và
37
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
SOMCA, trong khi Chủ tịch COCI Quốc gia của một số nước là cấp Thứ
trưởng. COCI lại do Ban Thư ký ASEAN thành lập theo quyết định của Hội
nghị Cấp cao ASEAN, nghĩa là COCI trực thuộc Ban Thư ký ASEAN và có
quyền xem xét, thông qua các dự án sử dụng ngân sách của ACF. Tình trạng
chồng chéo về tổ chức bộ máy này đã khiến cho vai trò của AMRI, AMRI -
SOM, AMCA và SOMCA chỉ là cơ quan có tính cố vấn là chính (chỉ đưa ra
các khuyến nghị), còn COCI có chấp hành hay không thì vẫn chưa có chế tài
thực hiện. Tuy nhiên, Vấn đề này các nước thành viên và Ban thư ký ASEAN
đều hiểu rất rõ. Vấn đề lớn nhất hiện nay là, xây dựng mối liên hệ công tác
giữa AMRI, SOM-AMRI, AMCA và SOMCA với COCI. Tổ chức hợp tác
hiện nay vẫn đang tồn tại như mô hình trên và công tác hợp tác văn hóa -
thông tin khu vực vẫn tiếp tục được triển khai.
3.2, Một số lĩnh vực hợp tác văn hoá ASEAN tới đây
Nhằm thúc đẩy hợp tác văn hoá trong những năm đầu thế kỷ 21, các Bộ
trưởng phụ trách Văn hoá và Nghệ thuật ASEAN đã nhất trí đưa ra một số
lĩnh vực ưu tiên hợp tác trong thời gian trước mắt.
3.2.1, Hợp tác phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh văn hoá
Khu vực Đông Nam Á với hơn 550 triệu người và GDP năm 2007 đạt
khoảng 1.100 tỷ USD [7, tr.8], có những di sản văn hoá đặc sắc, phong phú và
giàu truyền thống. Mỗi nước thành viên cần phải tự chuẩn bị đối mặt với
những thách thức ngày càng lớn về tương lai của quá trình toàn cầu hoá, sự
phát triển của công nghệ và sự gia tăng về nhu cầu của thế giới đối với các
sản phẩm văn hoá. Việc phát triển nguồn nhân lực được coi là một tiền đề
quan trọng tạo nên sự phát triển kinh tế bền vững thông qua văn hoá và nghệ
thuật. Do đó, các nước ASEAN coi trọng việc hợp tác trên lĩnh vực đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực cho văn hoá. Các Bộ trưởng Văn hoá ASEAN đã
38
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
ghi nhận đề xuất của Malaysia về một số hướng hợp tác khu vực trên lĩnh vực
đào tạo và giáo dục nhằm phát triển nguồn nhân lực cho văn hoá, như sau:
- Thành lập các tổ chức liên doanh khu vực nhằm đào tạo, chuyển giao
công nghệ, nâng cao kỹ năng, năng lực, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm văn hoá.
- Khuyến khích các sáng kiến đào tạo cả ở khu vực tư nhân và nhà nước.
- Xây dựng các chiến lược phát triển nguồn nhân lực khu vực.
- Xây dựng các dự án hợp tác về đào tạo chuyên ngành văn hoá và nghệ thuật.
3.2.2, Phát triển doanh nghiệp sản xuất sản phẩm văn hoá có quy mô
vừa và nhỏ
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, văn hoá - nghệ
thuật, ngoài bản chất nhân văn vốn có nó còn có ý nghĩa quan trọng về kinh tế
và đang trở thành ngành công nghiệp sáng tạo đầy tiềm năng. Các sản phẩm
văn hoá vốn khác với các sản phẩm được công nghiệp được sản xuất hàng
loạt theo dây chuyền. Sản phẩm văn hoá là những sản phẩm mang đậm nét
tính sáng tạo cá nhân, yêu cầu cao về những kỹ năng chế tác khéo léo của
người sản xuất và là những sản phẩm có tính sở hữu trí tuệ, do vậy các sản
nghiệp văn hoá thường có quy mô vừa và nhỏ. Trong một Hội nghị AMCA,
các Bộ trưởng Văn hoá ASEAN nhất trí rằng, đã đến lúc ASEAN phải hợp tác
để hoạch định các chiến lược, chính sách nhằm hỗ trợ và phát triển các doanh
nghiệp sản xuất các sản phẩm văn hoá vừa và nhỏ. Đây là một bước đi đúng
và cần thiết nhằm bảo vệ và phát huy những giá trị của văn hoá, làm cho các
sản phẩm văn hoá vừa có giá trị thương mại vừa mang đậm bản sắc văn hoá
riêng biệt của từng địa phương, quốc gia và khu vực, đóng góp vào quá trình
xây dựng và phát triển nền kinh tế bền vững. Trong những năm tới, trên lĩnh
vực này ASEAN dự tính sẽ hợp tác theo các hướng sau:
39
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
- Phát triển các sản phẩm văn hoá, trước hết bao, gồm:
1. Nghệ thuật trình diễn, thu âm, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh.
2. Sản xuất các vật liệu văn hoá và thủ công mỹ nghệ, trong đó công
nghệ thời trang mang bản sắc địa phương và khu vực đang chứng tỏ tiềm
năng thương mại toàn cầu.
3. Kiến trúc truyền thống cũng là một lĩnh vực có khả năng hợp tác
phát triển.
4. Vật dụng, sản phẩm văn hoá dùng trang trí nội, ngoại thất; đồ gốm,
sứ, đồ gỗ truyền thống.
5. Mỹ thuật và điều khắc.
6. Đồ chơi.
7. Đồ hoạ; quảng cáo; thông tin; xuất bản.
- Thành lập các trung tâm khu vực hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho các
doanh nghiệp văn hoá vừa và nhỏ.
3.2.3, Tăng cường, đẩy mạnh hợp tác song phương ASEAN
Có thể nhận thấy, nhờ có Quỹ Văn hoá ASEAN nên trong nhiều năm
qua, các hợp tác văn hoá - thông tin ASEAN chủ yếu được thực hiện thông
qua các dự án, chương trình hợp tác trong khuôn khổ Ủy ban Văn hoá -
Thông tin ASEAN. Hoạt động hợp tác văn hoá - thông tin song phương có
phần bị xem nhẹ. Trong những năm tới, các nước ASEAN sẽ có xu hướng
tăng cường và đẩy mạnh hợp tác văn hoá - thông tin song phương bên cạnh
việc tiếp tục thắt chặt các quan hệ đa phương trong khuôn khổ ASEAN. Giữa
các nước thành viên ASEAN đều đã ký với nhau các Hiệp định, Chương trình
hay Kế hoạch Trao đổi Văn hoá song phương. Tại Hội nghị AMCA lần thứ
nhất tại Malaysia, các Bộ trưởng Văn hoá ASEAN đều cam kết trong năm tới
sẽ thúc đẩy hợp tác văn hoá song phương. Xu hướng này ở Việt Nam được
đánh giá là khả thi không chỉ vì đường lối và chính sách giao lưu văn hoá của
Đảng và Nhà nước ta đã định hướng; và vì trong những năm tới, nhà nước sẽ
bắt đầu tăng ngân sách cho ngành văn hoá.
40
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
3.2.4. Tăng cường liên kết, hợp tác văn hoá với các nước đối thoại của
ASEAN
Tăng cường hợp tác với các nước đối thoại là một chính sách lớn của
ASEAN. Trên lĩnh vực văn hoá, hợp tác với các nước đối thoại cũng là một
ưu tiên của ASEAN. Tại Hội nghị Bộ trưởng Văn hoá ASEAN lần thứ nhất,
lần đầu tiên đại diện ba nước đối thoại khu vực Đông Bắc Á (Trung Quốc,
Hàn Quốc và Nhật Bản) đã tham dự và thảo luận với các nước ASEAN về các
khả năng và lĩnh vực hợp tác văn hoá giữa ASEAN với 3 nước này. Đại diện
Bộ Văn hoá Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản đều nhất trí sẽ xem xét khả
năng hợp tác với ASEAN trong hai lĩnh vực ưu tiên là phát triển nguồn nhân
lực cho văn hoá và phát triển các doanh nghiệp văn hoá vừa và nhỏ. Ngoài ra,
các bên cũng đã xác định các lĩnh vực sẽ nghiên cứu để hợp tác, gồm:
- Các hoạt động hợp tác kỹ thuật như bảo tồn và trùng tu các di sản văn hoá.
- Phối hợp, hỗ trợ nhau trong các hoạt động tại các tổ chức quốc tế.
- Hợp tác xây dựng chương trình nghệ thuật và văn hoá.
- Trao đổi các nghệ sỹ, các nhà nghiên cứu và quản lý văn hoá.
- Chia sẻ và trao đổi thông tin liên quan đến văn hoá, nghệ thuật.
Ngoài ba nước đối thoại trên của ASEAN, trong thời gian trước mắt
ASEAN cũng sẽ tiếp tục tăng cường các mối liên kết, hợp tác văn hoá với
Liên minh châu Âu thông qua mô hình hợp tác Á - Âu (ASEM) và với các
nước đối thoại khác của ASEAN, trước hết là Australia và Ấn Độ.
Trong những năm tới, hợp tác văn hoá ASEAN sẽ tiếp tục được tăng
cường, mối liên kết sẽ càng được thắt chặt và đẩy mạnh không chỉ trong
khuôn khổ Hiệp hội, giữa các nước thành viên ASEAN mà còn là sự gia tăng
mạnh mẽ các mối liên kết và hợp tác văn hóa của ASEAN với các nước, tổ
chức và khu vực khác trên thế giới; trước hết là với các bên đối thoại của
ASEAN. Sự tăng cường hợp tác văn hoá này không ngoài mục đích nâng cao
sự hiểu biết lẫn nhau, tình đoàn kết, hợp tác và tình hữu nghị giữa chính phủ
và nhân dân các nước trong và ngoài khu vực.
41
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
4, Quá trình phát triển hợp tác văn hoá Việt Nam-ASEAN
Như đã đề cập ở chương 1, mối quan hệ và giao lưu văn hoá (cũng như
các lĩnh vực khác) giữa các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á nói chung
và giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á nói riêng đã tồn tại từ rất lâu.
Điều kiện để có giao lưu văn hóa cũng đã được phân tích kỹ ở những phần
trước. Tuy nhiên, điều kiện địa lý gần nhau, do nhu cầu tự thân và cả tác động
của khách quan mà các quốc gia trong khu vực sớm có mối quan hệ, giao lưu
trong đó văn hoá là lĩnh vực đầu tiên. Đương nhiên, do bề dày lịch sử nên mối
quan hệ đó được đánh giá là phát triển và có ảnh hưởng sâu rộng (tích cực lẫn
tiêu cực) đến mọi mặt của đời sống xã hội và quan hệ đối ngoại của từng
nước, cũng như cả khu vực. Tất nhiên cùng với tiến trình lịch sử, mối quan hệ
ấy cũng trải qua nhiều thăng trầm, bao gồm cả những hiện tượng sai lệch như
ý đồ nô dịch nhau về văn hoá, chèn ép hoặc lai căng, đón nhận một cách máy
móc khiến cho mai một dần bản sắc văn hoá tốt đẹp của dân tộc mình. Việt
Nam là một quốc gia trong khu vực, có vị trí quan trọng (nằm ở phía đông
bán đảo Đông Dương) với dân số đông và bề dày lịch sử truyền thống, mang
nhiều nét văn hoá độc đáo của khu vực. Mối quan hệ văn hoá giữa Việt Nam
và các nước ASEAN cũng không nằm ngoài tình trạng vừa nêu trên. Trước
đây, như một điều tất yếu, quan hệ giao lưu văn hoá giữa Việt Nam với các
nước Đông Nam Á đã có từ rất lâu; và càng về sau này, với tác động của xu
thế thời đại, và nhất là sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN (28/7/1995), mối
quan hệ này ngày càng phát triển nhanh và mạnh hơn.
Điều dễ nhận thấy là, hợp tác Việt Nam - ASEAN trong lĩnh vực văn
hoá xuất phát từ lợi ích của cả hai phía và toàn khu vực. Bởi lẽ hợp tác trong
văn hoá nói riêng và khoa học xã hội - nhân văn nói chung sẽ góp phần giải
quyết những vấn đề chung của toàn khu vực cũng như của mỗi nước, đồng
thời là căn cứ khoa học giúp cho việc hoạch định chính sách phát triển của cả
42
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
ASEAN trong thời gian sắp tới. Từ thời điểm ban đầu chỉ có 5 thành viên, đến
nay đã có đầy đủ các thành viên gia nhập ASEAN. Hiện, quan hệ văn hoá
Việt Nam - ASEAN đang ngày một phát triển mạnh thông qua nhiều hình
thức dựa trên cơ sở giữ gìn bản sắc văn hoá độc đáo, phát huy bản sắc của
mỗi dân tộc.
Quan hệ hợp tác lĩnh vực văn hoá giữa Việt Nam và ASEAN chính
thức được khởi động từ ngày 22/7/1992, khi Việt Nam tham gia Hiệp ước
Bali (Hiệp ước hợp tác và thân thiện) và trở thành quan sát viên của ASEAN.
Đến Hội nghị ngoại trưởng ASEAN lần thứ 26 ở Singapore (1993), Việt Nam
được mời tham gia Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) cùng các chương trình
và dự án hợp tác trên 5 lĩnh vực: Văn hoá - thông tin, khoa học - công nghệ,
môi trường, y tế và du lịch. Trong thời gian từ 1993 đến ngày 27/7/1995,
Việt Nam tuy chỉ là quan sát viên nhưng đã tích cực chuẩn bị và trực tiếp
tham gia vào các hoạt động của Uỷ ban Văn hoá - Thông tin (ASEAN -
Committee on Culture and Information). Ủy ban này ra đời với mục đích thúc
đẩy hợp tác văn hóa, thông tin trên cơ sở các mối giao lưu, quan hệ văn hoá
vốn có từ trước, nay mở rộng và dần đi vào thực chất. Từ sau ngày Việt Nam
chính thức là thành viên ASEAN (28/7/1995) đến nay, mối quan hệ hợp tác
văn hóa Việt Nam-ASEA ngày càng được đẩy mạnh. Các hoạt động chính
được thông qua từ bộ máy cơ quan chuyên trách đến tuyên truyền, giới thiệu,
trao đổi đoàn đại biểu. Ngoài Uỷ ban Quốc gia điều phối các hoạt động về
ASEAN, các Bộ, ngành có liên quan đều lập cơ quan chuyên trách về
ASEAN. Uỷ ban ASEAN - COCI của Việt Nam đặt tại Bộ Văn hoá – Thể
thao và Du lịch. Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia đầy đủ và đóng góp tích
cực vào cả ba cuộc họp lớn về ASEAN - COCI.
Ngay từ những ngày đầu mới là thành viên ASEAN, Việt Nam đã thể
hiện vai trò tích cực của mình. Chỉ sau một năm gia nhập ASEAN (năm
43
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
1996), ASEAN - COCI Việt Nam đã triển khai 34 hoạt động với 40 đoàn, 132
lượt quan chức trực tiếp tham gia; đã thực thi 12 dự án tại Việt Nam với tổng
kinh phí hơn 170.000 USD [7, tr.8].
Năm 1997, một luồng sinh khí mới thổi vào đời sống văn hoá - tinh
thần các nước ASEAN nhờ quá trình hội nhập và tăng cường hợp tác văn hoá
giữa các nước thành viên, trong đó có Việt Nam. Theo sự điều phối chung và
cơ chế thúc đẩy, bản thân từng nước cũng có cố gắng với nhiều việc làm bổ
ích, thiết thực. Về phía Việt Nam, các thể loại báo chí (truyền hình, phát
thanh, báo viết...) thường xuyên giới thiệu về lịch sử, văn hoá, phong tục, con
người ASEAN. Có những chuyên mục, chương trình đặc biệt về ASEAN, tổ
chức các cuộc thi ca nhạc, giao lưu giữa các ca sỹ ASEAN - Việt Nam trên
sóng phát thanh - truyền hình; Hội nhạc sĩ tổ chức thi sáng tác Bài ca chính
thức ASEAN; cuộc thi tìm hiểu về ASEAN cho học sinh; tổ chức xuất bản
nhiều ấn phẩm về ASEAN. Tháng 8/1997, Việt Nam đã trao giải thưởng
ASEAN về văn hoá (cho tập thể 2 đài: Phát thanh và Truyền hình Việt Nam)
và thông tin (cho Hội nhạc sỹ). Đặc biệt, Việt Nam đã tích cực tham gia và
giành được thành tích khá tại các kỳ Sea Games gần đây làm tăng vị thế của
Việt Nam trong làng thể thao khu vực...Tất cả các hoạt động đó đã tạo khí thế
sôi động hơn, góp phần nâng cao hiểu biết, tình cảm và nhận thức của các dân
tộc trong khu vực, qua đó tuyên truyền tình hữu nghị và đoàn kết giữa các
thành viên.
Thời gian gần đây, quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN về giáo dục -
đào tạo cũng được đẩy mạnh. Nhiều cán bộ, công chức, sinh viên Việt Nam
đã và đang học tập, khảo sát, nâng cao trình độ thuộc đủ mọi lĩnh vực, kể cả
về ngoại giao, quản lý kinh tế... Ngược lại, nhiều công chức, sinh viên các
nước ASEAN (nhất là Lào, Campuchia...) đến Việt Nam để tìm hiểu, học tập
về văn hoá, ngôn ngữ và kinh nghiệm... phục vụ cho việc tham gia tốt hơn
44
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
vào các hoạt động của ASEAN. Các trường đại học, viện nghiên cứu trong
các nước ASEAN thường xuyên trao đổi các đoàn học giả, nhà nghiên cứu và
sinh viên... và có nhiều cuộc hội thảo, hội nghị chuyên đề, góp phần thúc đẩy
hợp tác về văn hoá nói riêng và khoa học, kinh tế nói chung. Việc này không
những mang ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa văn hoá ở chỗ chúng đã góp
phần tăng thêm sự hiểu biết, thông cảm lẫn nhau giữa các dân tộc trong khu
vực, giúp họ vươn lên và dần hình thành ý thức chung sống hoà bình, hữu
nghị và phấn đấu cho mục tiêu phát triển. Thông qua hợp tác văn hoá và các
lĩnh vực khác, Việt Nam cũng như các nước thành viên ASEAN sẽ dần hình
thành luồng văn hóa tư tưởng đoàn kết nhưng không làm mất đi bản sắc văn
hóa của mình. Điều này cũng được thể hiện rõ qua phương châm của Việt
Nam: Hội nhập để cùng phát triển nhưng vẫn giữ vững bản sắc dân tộc.
Hơn nữa, các nước trong ASEAN đều đã cam kết hợp tác vì sự phát
triển nhưng vẫn tôn trọng và giữ bản sắc dân tộc. Tuyên bố Băng Cốc về
thành lập ASEAN (tháng 8/1967) cũng nêu rõ rằng: Các nước thành viên sẽ
cùng nhau hợp tác để tăng cường sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội và phát
triển văn hoá. Tinh thần hợp tác văn hoá tiếp tục được đề cao tại Hội nghị cấp
cao Bali (tháng 2/1976). Không những thế, tuyên bố của Hội nghị thượng
đỉnh lần thứ IV tại Singapore (tháng 1/1992) đã nhấn mạnh: ASEAN cần đẩy
nhanh quá trình hình thành bản sắc và đoàn kết khu vực.
Ngoài những hiệu quả đạt được trong quá trình quan hệ văn hóa, vẫn
còn những tồn tại đáng lo ngại. Đó là sự khác biệt và không đồng đều về trình
độ dân trí, nhận thức giữa các nước thành viên. Thêm vào đó, mặt tiêu cực
của nền kinh tế thị trường đã tác động đến sự phát triển chung. Một thách
thức lớn đối với những nước thành viên cũ, có nền kinh tế phát triển như
Singapore, Thái Lan, Malaysia, Philippines, Indonesia... là sự gia tăng của lối
sống thực dụng, chạy theo lợi nhuận, dần đánh mất các giá trị truyền thống.
45
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Nhiều nhà nghiên cứu xã hội lo ngại rằng, liệu những thế hệ sau này có còn
giữ được bản sắc riêng của dân tộc mình. Nhận biết điều này để thấy Việt
Nam tuy phát triển kinh tế thị trường sau những nước thành viên cũ nhưng
cũng cần rút kinh nghiệm để tránh bị “hòa tan” trong quá trình hội nhập sâu,
rộng với khu vực và thế giới. Mặt khác, văn hoá nói riêng và kiến trúc thượng
tầng tuy có tác động trở lại nhưng trước hết phụ thuộc vào kinh tế (cơ sở hạ
tầng) quyết định. Tuy nhiên, trình độ phát triển kinh tế thì Việt Nam vẫn đang
có khoảng cách khá xa so với các nước thành viên cũ trong ASEAN.
Quan hệ Việt Nam-ASEAN trong những năm đầu thế kỷ 21 ngày càng
chặt chẽ, phát triển trên nhiều lĩnh vực. Trong lĩnh vực văn hóa, quan hệ giữa
Việt Nam và ASEAN đã đạt được những bước tiến nhất định. Quá trình hợp
tác đó, cả ASEAN và Việt Nam dựa trên những nguyên tắc nhất định, như:
Thống nhất trong đa dạng; tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ và không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau... Cũng trên những nguyên tắc này, các nước
thành viên ASEAN củng cố, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống
tốt đẹp; bỏ qua những yếu tố khác biệt để tiến tới một cộng đồng ASEAN hòa
hợp, thịnh vượng trong tương lai.
46
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
CHƢƠNG 3
NHỮNG DẤU MỐC VÀ THÀNH TỰU BAN ĐẦU
TRONG QUAN HỆ VĂN HÓA VIỆT NAM-ASEAN
1, Những dấu mốc hợp tác văn hoá
Hơn 10 năm, Việt Nam gia nhập ASEAN. Trong lĩnh vực văn hóa
thông tin, thông qua kênh hợp tác đa phương, nước ta đã đạt được một số
thành tựu. Việt Nam đã phối hợp với các nước trong khu vực nghiên cứu
nhiều đề tài về văn hóa, quản lý văn hóa, quản lý thông tin, đặc biệt đã giới
thiệu rộng rãi các nước ASEAN những diện mạo của nền văn hóa đặc sắc
Việt Nam. Hoạt động này góp phần thiết thực giúp các nước thành viên
ASEAN hiểu biết hơn về đất nước, con người Việt Nam và đưa văn hóa của
các nước ASEAN đến với đa số người dân Việt Nam.
Có thể nói, thời gian vừa qua được đánh giá là điều kiện thuận lợi để
giới thiệu văn hóa Việt Nam sâu rộng tại các nước ASEAN. Việc tổ chức
thành công các hoạt động văn hóa lớn của ASEAN tại Việt Nam cũng như
việc Việt Nam tham gia tích cực và có chất lượng vào các hoạt động được tổ
chức tại các nước khác đã góp phần nâng cao vị thế, hình ảnh về đất nước
Việt Nam. Thông qua các hoạt động văn hóa, những người làm công tác văn
hóa, các nghệ sĩ Việt Nam có điều kiện giao lưu, học hỏi kinh nghiệm từ các
nước trong khu vực.
Năm 1998, một dấu ấn đáng nhớ, đánh dấu những bước tiến mới của
Việt Nam trong việc mở rộng hợp tác văn hóa với các nước ASEAN. Hoạt
động giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và các nước ASEAN đạt được những
tiến bộ cả về chiều sâu và chiều rộng. Việt Nam đã cố gắng giới thiệu với
nhân dân các nước khu vực Đông Nam Á diện mạo văn hóa đặc sắc của mình
và ngược lại, nhân dân Việt Nam cũng nhanh chóng nắm bắt được những tinh
47
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
hoa văn hóa của các nước ASEAN thông qua các hoạt động trao đổi văn hóa
trong khuôn khổ hoạt động của Ủy ban Văn hóa - Thông tin ASEAN- COCI.
Đặc biệt, thông qua tổ chức này, lần đầu tiên Việt Nam đứng ra điều phối một
số hoạt động quan trọng về văn hóa thông tin chào mừng Hội nghị cấp cao
ASEAN tổ chức tại Hà Nội từ ngày 15 đến 16/12/1998.
Các hội nghị thượng đỉnh ASEAN đã xác định rằng, đẩy mạnh hợp tác
văn hóa - thông tin nhằm thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, bảo tồn và phát triển
di sản văn hóa ASEAN, phát huy những tiến bộ công nghệ trong văn hóa
thông tin với những chủ đề hợp tác chính là: Môi trường, di sản văn hóa, vai
trò của phụ nữ, bảo vệ quyền trẻ em, ma túy, gắn vấn đề xã hội với kinh tế...
Việt Nam không chỉ tham gia vào các hội nghị cấp cao ASEAN mà còn đóng
góp những giải pháp thiết thực nhằm tăng cường mối quan hệ, trao đổi văn
hóa giữa các nước thành viên của khối. Tại Hội nghị lần thứ 33 của Ủy ban
Văn hóa - Thông tin ASEAN họp tại Singapore, Việt Nam đã đề xuất và xin
điều phối ba dự án về văn hóa thông tin trong số 17 dự án và đã được hội nghị
chấp thuận. Tiếp đó, Việt Nam dự Hội nghị Bộ trưởng Văn hóa-thông tin các
nước ASEAN lần thứ 5 tổ chức tại Thái Lan, Bộ trưởng của Việt Nam đã
được bầu làm Phó chủ tịch Hội nghị. Để tăng cường thông tin đối ngoại, nhất
là kênh thông tin với các nước trong khối, Việt Nam đã xây dựng được cấu
trúc cơ bản của trang chủ về văn hóa thông tin, từng bước hoàn thiện các
trang web trong website riêng về văn hóa thông tin và hòa nhập với các nước
trong khu vực về phát triển công nghệ thông tin.
Kênh truyền hình vệ tinh ASEAN chính thức hoạt động vào ngày
8/8/1999 nhân kỷ niệm 32 năm thành lập ASEAN. Đây là nơi tiếng nói chính
thức của tất cả các nước thành viên ASEAN; góp phần quan trọng và hiệu quả
nhất trong lĩnh vực truyền thông; làm tăng sự hiểu biết trong nhân dân
ASEAN và nhân dân các nước khác trên thế giới về những giá trị truyền
48
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
thống của mỗi nước thành viên. Để triển khai dự án trao đổi tin truyền hình,
Việt Nam đã tích cực chuẩn bị để sớm hòa nhập với hệ thống truyền hình của
các nước trong khu vực. Kênh truyền hình ASEAN đóng góp vai trò quan
trọng giúp các thành viên ASEAN chống lại những thông tin phiến diện,
mang tính xuyên tạc về ASEAN mà một số phương tiên thông tin đại chúng
của phương Tây thù địch đã và đang sử dụng. Việc tham gia kênh truyền hình
vệ tinh ASEAN vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của Việt Nam đối với
ASEAN. Đây là một dự án quan trọng của Ban thư ký ASEAN và của Uỷ ban
Văn hoá - Thông tin ASEAN, được đưa chính thức trong Chương trình Hành
động Hà Nội tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ VI.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chính phủ về việc Việt Nam tham gia
kênh truyền hình vệ tinh ASEAN, Đài Truyền hình Việt Nam đã xây dựng và
triển khai dự án “Sản xuất chương trình và trạm phát lên vệ tinh chương trình
truyền hình ASEAN”. Việc Việt Nam tham gia kênh truyền hình vệ tinh
ASEAN là một cơ hội thuận lợi để tăng cường công tác thông tin đối ngoại
theo Chỉ thị 11/CT-TW của Bộ Chính trị đồng thời góp phần nâng cao chất
lượng về biên tập cũng như về kỹ thuật các chương trình của Đài Truyền hình
Việt Nam ngang tầm với các nước trong khu vực.
Mở rộng giao lưu văn hóa Việt Nam - ASEAN không chỉ thể hiện ở các
văn bản ký kết mà thông qua các hoạt động cụ thể, như: Trao đổi thông tin,
hoạt động liên hoan âm nhạc các nước ASEAN, các cuộc thi mỹ thuật Việt
Nam - ASEAN... Đặc biệt trong khuôn khổ hợp tác văn hóa qua dự án Trật tự
âm thanh trong âm nhạc truyền thống các nước ASEAN, Ủy ban ASEAN -
COCI đã tài trợ cho Việt Nam các dự án về phát triển âm nhạc. Hàng năm,
nhiều hoạt động văn hóa có sự phối hợp giữa các nước ASEAN đã diễn ra
như: Tuần phim ASEAN, Triển lãm thủ công mỹ nghệ ASEAN, Liên hoan
giọng hát vàng ASEAN, biểu diễn vở Ramayana... góp phần thắt chặt tình
đoàn kết hữu nghị giữa các nước ASEAN.
49
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Thời gian tới, Bộ Văn hóa Thông tin xác định cần tiếp tục thúc đẩy để
các hoạt động văn hóa thông tin của ASEAN tập trung vào việc tăng cường
mối giao lưu văn hóa, trao đổi thông tin giữa các nước trong khu vực, làm cho
nhân dân các nước hiểu biết hơn về đất nước, con người, nền văn hóa của
nhau. Tăng cường trao đổi kinh nghiệm về quản lý văn hóa, quản lý thông tin
giữa các nước, phối hợp nghiên cứu các đề tài mà các bên cùng quan tâm,
nghiên cứu để làm rõ bản sắc văn hóa của khu vực, sự thống nhất trong đa
dạng văn hóa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Văn hoá là cầu nối làm cho người dân giữa các quốc gia ASEAN xích
lại gần nhau hơn. Sự đồng cảm, gắn bó để giúp nhau cùng phát triển kinh tế,
văn hoá là những mặt tích cực mà các nước ASEAN ta cần nhân lên nhằm
thúc đẩy một cộng đồng văn hoá ASEAN hoà bình và thịnh vượng. Với chủ
đề “Một ASEAN ở trái tim của châu Á năng động”, Ban tổ chức hoạt động
của các nước Đông Nam Á đã thống nhất lấy logo và câu khẩu hiệu của
Bruney làm thông điệp chung cho năm kỷ niệm ASEAN tròn 40 tuổi (2007).
Kỷ niệm 40 năm ASEAN, nước chủ nhà (Việt Nam) tổ chức hàng loạt hoạt
động văn hoá, như: Chương trình nghệ thuật tại các nhà hát, các cuộc giao
lưu, trao đổi thảo luận tại các trường đại học, các cuộc triển lãm văn hoá
truyền thống. Tại Nhà hát lớn Hà Nội diễn ra chương trình biểu diễn nghệ
thuật đặc biệt nhân dịp kỷ niệm này. Chương trình được truyền hình trực tiếp
trên Đài truyền hình Việt Nam. Nhà triển lãm, 29 Hàng Bài, Hà Nội, Bộ Văn
hoá -Thể thao và Du lịch Việt Nam phối hợp với Đại sứ quán các nước
ASEAN tại Hà Nội tổ chức triển lãm Sắc màu ASEAN. Tiếp đó, tại khách sạn
Daewoo Hà Nội, Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Văn hóa -Thể thao và Du
lịch tổ chức hội thảo chuyên đề về ASEAN với chủ đề Phương hướng và biện
pháp Việt Nam tham gia hợp tác ASEAN, hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng
đồng ASEAN. Cũng trong dip này, Đài Truyền hình Việt Nam mở chuyên
50
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
mục "Góc ASEAN" phát sóng hàng tuần trong tháng 7 và tháng 8. Đài Tiếng
nói Việt Nam cũng đã có nhiều chương trình phát thanh đặc biệt nhân kỷ
niệm ASEAN tròn 40 tuổi. Trước đó, vào tháng 7/2007, Trung ương Đoàn
Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã tổ chức Festival giao lưu thanh niên các
nước ASEAN. Ngoài ra, trong năm 2007, Việt Nam còn tiến hành một số hoạt
động kỷ niệm khác như: Tuần lễ phim, hội chợ hàng thủ công, mỹ nghệ và ẩm
thực, triển lãm tem, các chương trình giao lưu văn hóa, nghệ thuật về
ASEAN; festival thanh niên Việt Nam với ASEAN, diễn đàn chuyên đề, thi
tìm hiểu về ASEAN, cửa nhập cảnh ASEAN (ASEAN lane) được thiết lập tại
cửa khẩu Nội Bài và Tân Sân Nhất; phát hành con tem ASEAN, thẻ điện thoại
ASEAN…
Thông qua các hoạt động văn hoá, Việt Nam muốn khẳng định đường
lối văn hoá, đặc biệt ưu tiên đường lối đối ngoại với các nước láng giềng
trong khu vực. Từ đây, Việt Nam muốn giới thiệu một số hình ảnh tiêu biểu
trong văn hoá các nước ASEAN phong phú, đa dạng.
ASEAN luôn nhấn mạnh mục tiêu xây dựng cộng đồng văn hoá-xã hội
ASEAN nhằm cải thiện nâng cao đời sống các nhóm dân cư, chăm lo sức
khoẻ xã hội, phòng chống các loại bệnh lây nhiễm; gìn giữ và phát triển các di
sản, bản sắc văn hoá của khu vực.
Về mặt văn hoá, các dự án chú trọng việc thúc đẩy bản sắc ASEAN
trên cơ sở phát triển nhận thức và bản sắc khu vực ASEAN; nhằm bảo tồn và
thúc đẩy di sản văn hoá ASEAN; thúc đẩy đối thoại nhằm nâng cao hiểu biết
về văn minh, văn hoá và tôn giáo ASEAN; mở rộng vị thế của ASEAN trên
trường quốc tế.
Thời gian qua, hợp tác chuyên ngành của ASEAN được tập trung và
ngày càng mở rộng qua các chương trình, dự án hợp tác về phát triển xã hội,
văn hoá, thông tin, khoa học công nghệ, môi trường, y tế, phúc lợi xã hội, gia
51
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
đình và dân số, chăm sóc cộng đồng đối với người già, bảo vệ sức khoẻ và an
toàn lao động; trợ giúp thanh niên có việc làm ổn định và đối phó với những
thách thức của toàn cầu hoá. Các nước ASEAN liên tục thực hiện chương
trình trao đổi, giao lưu với các đoàn thanh niên nhằm tuyên truyền phòng
chống các loại dịch bệnh truyền nhiễm: ma tuý, HIV/AISD, tội phạm xuyên
quốc gia, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em, bảo vệ môi trường bền vững, đối
phó với ô nhiễm khói mù xuyên biên giới.
Từ lâu, Việt Nam đã đề ra chủ trương: Phải xây dựng bản sắc ASEAN
trên cơ sở tương đồng về điều kiện lịch sử, khí hậu, địa hình, lối sống, phong
tục tập quán, quan niệm truyền thống về gia đình. Đặc biệt chú trọng xây
dựng ý thức của người dân có trách nhiệm trong việc xây dựng thành cộng
đồng văn hoá ASEAN với mong muốn chung là chia sẻ kinh nghiệm trong
công tác bảo tồn văn hoá. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Việt Nam gặp
không ít những khó khăn, phải đối đầu với những thách thức lớn. Quá trình
hội nhập kinh tế mạnh làm cơ sở tốt để thúc đẩy công tác bảo tồn giá trị di sản
văn hoá. Bên cạnh đó, quá trình giao lưu, văn hoá Phương Tây xâm nhập làm
phai mờ bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc. Những tác động về ngoại cảnh
như mưa, gió, bão tố, thiên tai, hạn hán cũng là những khó khăn làm cản trở
đến công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá vật thể và phi vật thể.
Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất trong qúa trình hợp tác, giao lưu, trao đổi văn
hoá giữa các nước trong khu vực là vấn đề nguồn lực, vì Việt Nam đang thiếu
những chuyên gia giỏi về văn hoá, thiếu những cán bộ am tường cả về văn
hoá, kinh tế để thực hiện các dự án lớn. Có thể nói rằng, mỗi dự án là mỗi
công trình văn hoá nhằm thắt chặt tình hữu nghị giữa các quốc gia với nhau.
Quá trình hội nhập, phát triển kinh tế phải được song hành với quá trình giữ
gìn các giá trị văn hoá truyền thống trong mỗi dân tộc. Để mỗi chương trình
52
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
bảo tồn di sản văn hoá thành công, trước hết những người làm văn hoá trong
mỗi quốc gia phải cùng bắt tay vào việc tuyên truyền; nâng cao nhận thức cho
người dân, cần trang bị cho họ những kiến thức cơ bản về văn hoá của các
nước ASEAN thông qua các cuộc thi tìm hiểu về ASEAN, các chương trình
giao lưu nghệ thuật, các bài báo viết về nét đẹp văn hoá trong các nước
ASEAN... Hơn nữa, Việt nam phải tăng cường việc thực hiện trao đổi đào tạo
chuyên gia văn hoá giữa các nước ASEAN với các nước láng giềng trong khu
vực như Nhật Bản, Trung Quốc... để học hỏi những kinh nghiệm giữ gìn các
giá trị văn hoá của các nước đi trước. Điều này buộc các nước thành viên phải
huy động cả về tài chính, tri thức để phát triển văn hoá.
Trong quá trình giao lưu phải đối đầu với những thách thức lớn, đặc
biệt là vấn đề nguồn nhân lực và khả năng thu nhập giữa các nước ASEAN
không đồng đều. Ví dụ như thu nhập bình quân tính theo đầu người của
Singapore là 26.800 USD, Việt Nam là 600 USD, Campuchia là 500 USD,
Lào là 400 USD, Miến Điện chỉ có 100 USD. Điều này đồng nghĩa với vốn
đầu tư của các nước nghèo vào hợp tác văn hoá trong nước đã khó khăn hơn,
chưa đề cập đến đầu tư vào các dự án hợp tác khu vực và quốc tế...
Mặt trái của những hoạt động giao lưu văn hoá là sự lai tạp hoá các yếu
tố tiêu cực từ văn hoá nước ngoài vào văn hoá bản địa, làm mất đi bản sắc văn
hoá trong mỗi địa phương. Xu hướng thanh niên Việt Nam chuộng phim tây,
ưa chuộng phong cách, ứng xử phi văn hoá, thậm chí đua đòi theo lối sống
buông thả là những điều cần phải cảnh giác và phòng tránh trong quá trình
giao lưu văn hoá.
Điều cần thiết nhất là, lãnh đạo các nước cùng bắt tay hợp tác tôn vinh
văn hoá dân tộc, tích cực trao đổi, giao lưu, học hỏi lẫn nhau trong quá trình hợp
tác để ASEAN luôn trở thành điểm đến của các nhà đầu tư và khách du lịch.
53
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
2, Hợp tác văn hóa-thông tin Việt Nam-ASEAN
Văn hoá đóng vai trò quan trọng trong việc đề cao hình ảnh của
ASEAN. Không thể xây dựng một cộng đồng ASEAN trong tương lai mà
không gắn với việc giữ gìn và làm phong phú hơn những đặc trưng của văn
hoá các dân tộc ASEAN, của con người ASEAN. Văn hoá giúp tạo dựng tinh
thần ASEAN, từ đây dần hình thành nếp nghĩ và hành động của mỗi người
dân trong từng quốc gia có tính khu vực hơn. Dấu ấn quê hương trong mỗi cá
nhân được tạo ra trong môi trường văn hoá thấm đẫm bao bọc xung quanh từ
khi sinh ra đến lúc trưởng thành. Bằng sự trao đổi thường xuyên những nét
đặc sắc của từng nền văn hoá, cụ thể là sự trao đổi hợp tác văn hoá thông tin
Việt Nam-ASEAN, thế hệ trẻ của Đông Nam Á không những có điều kiện
được mở rộng hiểu biết, mà dần dần tạo dựng được ý thức là một thành viên
của cộng đồng ASEAN.
Hợp tác văn hoá song phương và đa phương giữa Việt Nam và ASEAN
thực sự sẽ làm tăng thêm vốn hiểu biết, giúp đỡ nhau cho sự hợp tác giữa các
nước đạt hiểu quả cao hơn. Đặc biệt là hợp tác trong bối cảnh mới của khu
vực và thế giới ngày nay.
Gia nhập ASEAN từ năm 1995, đến nay sau hơn 10 năm, Việt Nam đã
tham gia một cách tích cực và chủ động vào các hoạt động chung của
ASEAN. Tính từ năm 1995 đến nay, trong khuôn khổ hợp tác văn hoá thông
tin khu vực, Uỷ ban văn hoá thông tin ASEAN Việt Nam đã tham gia vào hơn
100 dự án văn hoá thông tin, bao gồm bốn nhóm lĩnh vực: Văn học và nghiên
cứu ASEAN; nghệ thuật biểu diễn và mỹ thuật; phát thanh truyền hình và
điện ảnh; xuất bản và truyền thông báo chí. Các hoạt động chung đều nhằm
mục đích tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, giới thiệu nền văn hoá của nhau
không chỉ trong khu vực mà cả bên ngoài thế giới, thúc đẩy tình hữu nghị,
phát huy bản sắc của mỗi dân tộc; đồng thời tiếp thu, học tập các giá trị văn
54
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
hoá của nhau. Vì thế, hợp tác vì một nền văn hoá ASEAN đậm đà bản sắc, đa
dạng trong thống nhất là một mục tiêu cao cả mà chính phủ và nhân dân các
nước ASEAN đã và đang tiến hành. Để hiện thực hoá tầm nhìn ASEAN 2020,
Hội nghị cấp cao ASEAN tổ chức tại Hà Nội tháng 12/1998, các nước thành
viên ASEAN đã thông qua Kế hoạch hành động Hà Nội với các chương trình,
mục tiêu hoạt động thuộc các lĩnh vực khác nhau, trong đó có văn hoá-thông tin.
Thời gian vừa qua, Uỷ ban văn hoá-thông tin ASEAN đã triển khai
được một số hoạt động hợp tác rất có ý nghĩa và hiệu qủa. Trên lĩnh vực văn
hoá, tháng 7/2000 ở Băng Cốc, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN,
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên cùng các ngoại trưởng ASEAN ký
bản tuyên bố ASEAN về di sản văn hoá. Đây là một văn kiện quan trọng và
có ý nghĩa trong viêc tăng cường nhận thức về ASEAN, tăng cường sự hợp
tác khu vực để bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá các nước ASEAN.
Lĩnh vực thông tin, Hội nghị Bộ trưởng phụ trách thông tin các nước ASEAN
lần thứ VI tại Hà Nội vào tháng 10/2000 đã nhất trí thông qua và ký kết Biên
bản ghi nhớ và kế hoạch truyền thông ASEAN. Những văn bản khu vực có
tính pháp lý cao này đã định ra khung hoạt động chung nhằm tăng cường hợp
tác giữa các nước ASEAN trên lĩnh vực văn hoá thông tin. Trên cơ sở các văn
bản hợp tác đó, Việt Nam đã xác định được những hoạt động cụ thể, những
dự án cụ thể để hiện thực hoá những gì mà các nước ASEAN đã cam kết.
Mục tiêu của sự hợp tác văn hoá-thông tin giữa các nước ASEAN là góp phần
thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, tăng cường tình hữu nghị, giới thiệu những
bản sắc và diện mạo văn hoá quốc gia của các nước ASEAN trong và ngoài
khu vực. Cũng nhằm mục đích đó mà sáng kiến tổ chức Tuần văn hoá
ASEAN do thủ tướng Phan Văn Khải đề xuất đã được các nguyên thủ
ASEAN ghi nhận và đã được triển khai từ năm 2004.
55
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Tháng 8 năm 2005, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin Phạm Quang
Nghị dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam đã tham dự Hội nghị Bộ trưởng Văn
hóa Nghệ thuật các nước ASEAN, tổ chức tại Thái Lan. Bên cạnh hội nghị
này, AMCA+3 cũng sẽ được tổ chức nhằm tăng cường mối quan hệ về văn
hóa giữa các nước ASEAN với ba đối tác khu vực Đông Bắc Á (Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc). Ðây là lần thứ hai Hội nghị Bộ trưởng phụ trách văn
hóa và nghệ thuật của ASEAN được tổ chức nhằm bổ sung xu hướng hợp tác
và hội nhập quốc tế trên nhiều phương diện, trong đó có lĩnh vực văn hóa -
nghệ thuật mang lại lợi ích thiết thực cho người dân. Những chủ đề chính
được thảo luận và nhất trí tại hội nghị lần này gồm: Hợp tác phát triển nguồn
nhân lực trong lĩnh vực văn hóa, kể cả đối với doanh nghiệp văn hóa vừa và
nhỏ; hợp tác trong lĩnh vực xây dựng chính sách văn hóa vì sự phát triển,
trong đó chú trọng tới yêu cầu bảo tồn, phát huy di sản văn hóa; bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ cộng đồng, chống chuyển giao bất hợp pháp quyền sở
hữu các tài sản văn hóa; phấn đấu hiện thực hóa ước muốn chung về một cộng
đồng ASEAN với nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc của mỗi quốc gia,
thống nhất trong tính đa dạng của văn hóa khu vực. Tại hội nghị, Bộ trưởng
Phạm Quang Nghị khẳng định sự nhất trí của Việt Nam về những vấn đề và
nội dung hợp tác văn hóa - nghệ thuật trong nội khối ASEAN cũng như
ASEAN+3 nhằm phục vụ lợi ích của tất cả các quốc gia thành viên, đồng
thời phù hợp với xu hướng hợp tác và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ
trên thế giới. Nhân dịp này, Liên hoan Nghệ thuật Múa rối ASEAN lần thứ
hai với chủ đề "Nghệ thuật rối: Di sản văn hóa chung" cũng đã diễn ra. Ðoàn
múa rối nước của Việt Nam biểu diễn rất thành công và được bạn bè các nước
ASEAN hoan nghênh.
56
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Tháng 8 năm 2007, trong chuyến viếng thăm Philippines, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng và Tổng thống Arroyo đã chứng kiến các lễ ký Chương
trình hành động giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Philippines giai đoạn
2007 đến 2010, nghị định thư về hợp tác văn hóa giai đoạn 2007-2008 giữa
Bộ Văn hóa - thể thao và du lịch Việt Nam với Ủy ban Văn hóa nghệ thuật
quốc gia Philippines... Chuyến thăm này nằm trong khuôn khổ thăm năm
nước ASEAN (Indonesia, Philipines, Singapore, Myanmar và Bruney) của
Thủ tướng Việt Nam. Sự kiện này đã góp phần nâng cao vị thế và vai trò của
Việt Nam trong khu vực, tạo thuận lợi cho việc triển khai quan hệ hợp tác với
từng nước và cả khối ASEAN nói chung. Đồng thời, góp phần quan trọng vào
việc xác định, mở rộng và tăng cường hợp tác các lĩnh vực trọng điểm giữa
Việt Nam với từng nước.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam và Bộ Thông tin Văn hóa
Lào đã thỏa thuận sẽ đẩy mạnh quan hệ hợp tác trực tiếp giữa các ngành, các
đơn vị trong mỗi bộ, đồng thời tăng cường tuyên truyền quảng bá về văn hóa
của hai nước. Trong cuộc hội đàm sáng 21/3/2008 tại Viêng Chăn (Lào), đoàn
đại biểu Bộ Văn hoá-Thể thao và Du lịch, do Bộ trưởng Hoàng Tuấn Anh dẫn
đầu, và đoàn đại biểu Bộ Thông tin Văn hoá Lào do Bộ trưởng Mounkeo
Oraboune dẫn đầu, cũng nhất trí rằng các hoạt động giao lưu, hợp tác văn hoá,
biểu diễn nghệ thuật giữa hai nước tiếp tục được tăng cường và diễn ra sôi
nổi. Hai bên đánh giá cao sự hợp tác song phương trên các lĩnh vực bảo tồn,
bảo tàng, giao lưu văn hoá trong khu vực, đào tạo nhân lực được triển khai
đúng kế hoạch. Về chương trình hợp tác văn hóa giữa hai nước trong thời
gian tới, Việt Nam và Lào thỏa thuận sẽ tăng thêm chỉ tiêu cho các sinh viên
Lào sang học tại các trường thuộc Bộ Văn hoá-Thể thao và Du lịch Việt Nam,
tiếp tục duy trì trao đổi đoàn cấp trung ương cũng như địa phương, thường
xuyên trao đổi thông tin với nhau. Hai Bộ cũng thỏa thuận sẽ cùng tham gia
57
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
vào các sự kiện văn hoá ở mỗi nước để có điều kiện quảng bá, giao lưu học
hỏi lẫn nhau. Hiện nay hai bên đang tích cực chuẩn bị triển khai một số dự án
do Chính phủ Việt Nam viện trợ, trong đó có dự án Trường nghệ thuật Quốc
gia Lào ở thủ đô Viêng Chăn, dự án nâng cấp và sửa chữa Bảo tàng Kaysone
Phomvihane.
Trong lĩnh vực hợp tác văn hoá-thông tin ASEAN, Kế hoạch hành động
Hà Nội là văn bản định hướng các hoạt động hợp tác của Việt Nam.
3, Một số thành tựu ban đầu
Sau hơn 10 năm gia nhập ASEAN, ngành văn hoá thông tin của Việt
Nam đã đạt được một số thành tựu, khoảng 60 dự án chung của các nước
thành viên ASEAN thực hiện trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật truyền thống
đã được triển khai hiệu quả. Việt Nam cũng đã chủ động điều phối một số dự
án và đạt được giá trị cao. Có thể nói, ngay từ những ngày đầu tham gia
ASEAN với phương thức vừa làm vừa học, chủ động tích cực tham gia các dự
án chung về văn hóa thông tin của ASEAN, Việt Nam đã dần dần tích lũy
được nhiều kinh nghiệm quý và phát huy được vai trò vị trí của mình.
Theo Báo cáo Tổng kết về hoạt động của ASEAN - COCI Việt Nam,
năm 1995 Việt Nam tham gia vào 18 dự án ASEAN, năm tài khóa 1996 -
1997: thực hiện 34 dự án ASEAN, trong đó có 12 dự án được triển khai ở
Việt Nam, 22 dự án còn lại Việt Nam cùng tham gia thực hiện ở các nước
ASEAN khác. Trong kế hoạch ba năm lần thứ hai (1997 - 2000), ASEAN -
COCI đã thực hiện các chương trình sau:
- Phát triển hệ thống ASEAN Web
- Triển khai kênh truyền hình vệ tinh ASEAN
- Tổ chức liên hoan nghệ thuật ASEAN
- Tổ chức chương trình hữu nghị tuổi trẻ ASEAN
- ASEAN - COCI tham gia triển lãm World Expo 2000 tại Hanover
(CHLB Đức).
58
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Tháng 8/2001, Tiểu ban Thông tin thuộc Ủy ban Văn hóa ASEAN đã
nhóm họp ở Hà Nội, gần 50 đại biểu gồm đại diện các cơ quan truyền thông
đại chúng như thông tấn xã, đài phát thanh, đài truyền hình, báo viết của các
nước ASEAN đã cùng nhau trao đổi và xây dựng nhiều dự án chung cho lĩnh
vực thông tin trong năm 2001/2002. Đẩy mạnh tuyên truyền giới thiệu hình
ảnh ASEAN ra thế giới, chú ý thông tin về liên kết kinh tế ASEAN thông qua
Chương trình Hành động Hà Nội (HPA); sáng kiến liên kết ASEAN nhằm
nhanh chóng thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước, thực hiện lộ trình
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA)...
3.1, Hợp tác trong lĩnh vực văn hóa và nghiên cứu về ASEAN
Tại Hội nghị "Sách vì mọi người của các nước ASEAN" từ ngày 13 -
15/8/1996 tại Kuala Lumpur (Malaysia) đã thông qua những nghị quyết về
việc xuất bản, thúc đẩy và phân phối phát hành sách và việc phát triển nguồn
lực con người trong đội ngũ những người làm công tác liên quan đến sách.
Trên cơ sở nhận thức rõ việc phát hành sách là dòng chảy giao lưu tự
do của thông tin, sẽ góp phần quan trọng vào sự phát triển văn hóa, xã hội,
kinh tế và chính trị, Việt Nam đã tham gia một cách tích cực và bước đầu đạt
đến một số kết quả nhất định. Theo báo cáo của Nhóm nghiên cứu văn bản và
ASEAN thì Việt Nam đã tham gia 9 dự án của ASEAN giai đoạn 1994-1997 sau:
- Hội thảo các nhà văn ASEAN tại Thái Lan; Dự án xuất bản sách (giai
đoạn Ib) tổ chức tại Bruney, Việt Nam là một trong ba nước đã hoàn thành
đầy đủ ba đề tài về văn học truyền thống; văn học hiện đại và các món ăn dân
tộc ở các nước ASEAN; Dự án xuất bản sách (giai đoạn Ic) tổ chức tại Thái
Lan, Việt Nam tham gia ba đề tài về điện ảnh, phương tiện phát thanh truyền
hình và phương tiện in ấn; Dự án văn hóa ASEAN: Hội thảo lần thứ hai tại
Malaysia tháng 5/1997, Việt Nam cử 4 người tham dự và gửi đầy đủ 3 bài
viết của Việt Nam tham gia theo các chủ đề bạn yêu cầu; tham dự cuộc họp
59
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
về bảo tàng tại Philippines (4/1997); cuộc họp trao đổi về lưu trữ lần thứ 5
của ASEAN tại Singapore (5/1997); Hội nghị về phát triển sách của ASEAN
tại Malaysia (8/1997); cuộc họp trao đổi về lưu trữ lần thứ 6 tại Bruney
(10/1997); Hội thảo về thư viện tại Singapore (11/1997). Tại các cuộc họp đó,
Việt Nam đều cử đoàn đại biểu đi tham dự.
Trong giai đoạn này, Việt Nam tham gia các dự án trên và được các
nước bạn ASEAN đánh giá tốt.
Sau khi kết thúc các dự án giai đoạn 1994-1997, Việt Nam tiếp tục
tham gia các dự án tài chính năm 1997 - 1998:
- Dự án "Triển lãm di sản văn hóa từ khung cửi đến máy vi tính" được
tổ chức tại Kuala Lumpur từ 15 - 17/12/1997. Triển lãm được diễn ra đúng
vào năm kỷ niệm 30 năm ASEAN và vào đúng những ngày các Nguyên thủ
quốc gia các nước ASEAN họp tại Kuala Lumpur. Song song với cuộc triển
lãm là hội thảo khoa học mà các báo cáo viên là những nhà khoa học nghiên
cứu về truyền thống dệt của 9 nước thành viên ASEAN. Các báo cáo tham
luận trình bày về truyền thống dệt, sự phát triển nghề dệt truyền thống của
đất nước mình.
- Tại cuộc họp Nhóm nghiên cứu văn bản của ASEAN lần thứ 12 tại
Udon Thani (Thái Lan) tháng 3/1997, đã đề nghị đưa hai dự án của Việt Nam
vào kế hoạch 1998 - 1999.
- Đến cuộc họp Nhóm nghiên cứu văn bản và ASEAN lần thứ 13 tại
Melaka (Malaysia) tháng 11/1997, hai dự án của Việt Nam đã được thông
qua. Đó là 2 dự án "ASEAN Children's Camp on Song, Dance, Games and
Story Telling" (Hội trại trẻ em ASEAN về ca, vũ nhạc, thể thao và kể chuyện)
và dự án "Publication on ASEAN Traditional Festivals" (Triển lãm lễ hội
truyền thống ASEAN). Đến nay (năm 2003), cả hai dự án này đều đã hoàn
thành và đạt chất lượng tốt.
60
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
3.2, Hợp tác trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn và trưng bày
Đây là lĩnh vực Việt Nam thu được nhiều thành công và đạt được nhiều
giải thưởng trong các cuộc thi khu vực.
Nghệ thuật biểu diễn
- Tại liên hoan múa các nước ASEAN lần thứ 4 tổ chức ở Singapore
tháng 12/1996, đoàn nghệ thuật ca múa nhạc Việt Nam đã tham gia cùng với
các nước ASEAN. Chương trình biểu diễn của đoàn được coi là hấp dẫn nhất,
thu hút sự chú ý của đông đảo khán giả.
- Tại Hội thảo về nghệ thuật múa dân gian các nước ASEAN, Việt Nam
có bản tham luận chuyên đề "Nông thôn Việt Nam, bảo tàng sống của múa
dân gian cổ truyền". Bản tham luận được minh họa bằng ngôn ngữ múa qua
diễn xuất của các nghệ sĩ múa Việt Nam.
Ngoài việc cử các đoàn nghệ thuật đi tham dự các Festival như liên
hoan quốc tế Xylophone ở Thái Lan (Việt Nam cử 10 diễn viên và nhạc công
của đoàn ca múa nhạc Đắc Lắc với 8 nhạc cụ dân tộc và đàn đá, cồng, chiêng
Êđê, chiêng kram...), Việt Nam cũng đã tổ chức hai cuộc liên hoan ca nhạc
năm 1996 và 1997 mang tên "Liên hoan giọng hát vàng Hà Nội - ASEAN 96"
và "Liên hoan giai điệu bạn bè Việt Nam - ASEAN - Hà Nội 97". Tại các
cuộc liên hoan, các ca sĩ, nghệ sĩ Việt Nam gặp gỡ giao lưu cùng các đồng
nghiệp qua những lời ca, tiếng hát thắm đượm tình đoàn kết, hữu nghị.
Nghệ thuật trưng bày
Lĩnh vực này Việt Nam giành được rất nhiều giải thưởng:
Năm 1996, tại nhà triển lãm Băng Cốc (Thái Lan), nghệ sĩ Việt Nam
Nguyễn Tấn Cương đã được nhận bằng khen danh dự cho tác phẩm "Sự sống"
(Tranh sơn dầu) trong cuộc thi mỹ thuật ASEAN 96.
61
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Một loạt các dự án được triển khai tại Việt Nam như: Tuần phim
ASEAN; Dự án Ramayana; Dự án hợp tác văn hóa đa dân tộc ASEAN - Nhật
Bản MCM; Dự án Kênh truyền hình vệ tinh ASEAN.
Năm 1997, cũng tại cuộc thi mỹ thuật ASEAN được tổ chức ở
Philippines, họa sĩ Trần Văn Thảo của Việt Nam đạt được giải thưởng và
được cấp bằng chứng nhận cấp ASEAN. Triển lãm tem quốc tế định kỳ của
các khối ASEAN được tổ chức 2 năm 1 lần. Tại cuộc triển lãm này, cả hai tác
phẩm của Việt Nam đều đạt huy chương bạc và huy chương đồng. Đây là
thành tích cao nhất từ trước đến nay cho các nhà sưu tập tem Việt Nam tham
gia với quốc tế, tiêu biểu cho tinh hoa, trí tuệ và trình độ sưu tập ở Việt Nam.
Trong khuôn khổ các hoạt động văn hóa nghệ thuật chào mừng 30 năm
thành lập ASEAN, triển lãm liên hoan ảnh các nước ASEAN lần thứ nhất
được tổ chức ở Hà Nội. Đây là lần đầu tiên có một hoạt động nhiếp ảnh quy
mô của các nước ASEAN tổ chức tại Hà Nội. Việt Nam đạt một huy chương
vàng. Liên hoan ảnh trở thành một hoạt động truyền thống hàng năm của tổ
chức nhiếp ảnh các nước ASEAN, tạo ra mối quan hệ hợp tác giữa các tổ
chức, các cá nhân nghệ sĩ nhiếp ảnh, góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa
các dân tộc trong cộng đồng.
Khi tham gia giao lưu văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn và
trưng bày, Việt Nam có nhiều yếu tố thuận lợi bởi chúng ta có nền văn hóa
nghệ thuật từ rất sớm với những nét phong phú và độc đáo. Những yếu tố
thuận lợi đó cộng với tinh thần say mê học tập, sáng tạo nghệ thuật của các
nghệ sĩ Việt Nam đã tạo nên một văn hóa Việt Nam có bản lĩnh và đặc sắc
trong con mắt các nước ASEAN.
3.3, Hợp tác trong lĩnh vực thông tin
Tiểu ban Thông tin của ASEAN - COCI Việt Nam gồm: Đài truyền
hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Cục điện
62
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
ảnh, Vụ báo chí, Vụ mỹ thuật. Lĩnh vực thông tin được quan tâm đặc biệt và
có nhiều dự án trong lĩnh vực phát thanh, truyền hình, tin tức và tranh cổ động.
Phát thanh truyền hình và phim video là một trong những phương tiện
truyền thông rất phổ biến và đạt hiệu quả cao. Các dự án quan trọng của
COCI đã được thực hiện ở Việt Nam là:
- Chương trình phát thanh "Hành động ASEAN" của Đài tiếng nói Việt
Nam. Lúc đầu chỉ có 1 chương trình phát thanh ASEAN/tuần, nay đã lên 3
chương trình phát thanh về ASEAN/tuần.
- Chương trình truyền hình thiếu nhi ASEAN của Đài truyền hình Việt
Nam (hoàn thành năm 1998). Các chương trình thiếu nhi này đã được phát sóng
trên hệ thống Đài Quốc gia của các nước ASEAN. Hiện nay chương trình này
không tiếp tục nữa, chỉ phát sóng một số phim của Việt Nam năm 1998.
- Làm băng tư liệu các điệu múa ASEAN của Hội nghệ sĩ múa
- Sáng tác bài ca ASEAN của Hội nhạc sĩ Việt Nam
- Việt Nam tham gia dự án thiếu nhi vẽ áp phích và tranh cổ động về
phòng chống ma túy
Trong khuôn khổ hợp tác thông tin của ASEAN, Việt Nam đã cử được
nhiều đoàn báo chí đi tham gia các khóa đào tạo nâng cao nghiệp vụ báo chí
và quản lý báo chí như: Hội thảo "Thúc đẩy văn hóa - thông tin đại chúng" -
2002 tại Thái Lan; Hội thảo "Đưa tin một cách toàn diện" - 2001; Hội thảo
"ASEAN thông tin và thông tin đại chúng" - 2001 tại Malaysia; Tập huấn
ASEAN "Kỹ năng công nghệ thông tin thư viện" - 2001 tại Singapore; Hội
nghị "Giáo dục ASEAN trước thềm thế kỷ 21" - 2001 tại Singapore; tham gia
đoàn lưu diễn ASEAN "Chàng Rama chân chính" tại châu Âu từ 20/5 -
10/7/2001; tham gia cuộc họp ASEAN lần thứ 36 tại Thái Lan năm 2001;
tham gia cuộc họp về lập Kế hoạch dự án Mạng lưới thông tin di sản văn hóa
ASEAN tại Singapore từ 22 - 23/5/2001; tham gia Trại hè thanh niên ASEAN
63
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
"Con đường hòa hợp" tại Malaysia từ 13 - 22/6/2001; tham gia cuộc họp
chuẩn bị trại Thanh niên ASEAN - 2002 tại Myanmar từ 5 - 6/11/2001. Gần
đây, từ ngày 19 đến 23/5/2008, Việt Nam tham dự diễn đàn hợp tác thông tin
ASEAN+3. Đại diện Thông tấn xã Việt Nam và Báo Nhân dân đã tham dự
Diễn đàn hợp tác thông tin ASEAN+3 lần thứ hai với chủ đề "Olympic cùng
thắng lợi" tại thành phố Thiên Tân và thủ đô Bắc Kinh (Trung Quốc). Tại
diễn đàn, các đại biểu đã thảo luận các biện pháp nhằm phối hợp đưa tin một
cách sâu rộng về các hoạt động tại Đại hội Olympic Bắc Kinh 2008.
Năm 2007, Hội nghị Bộ trưởng Thông tin ASEAN (AMRI) lần thứ 9
đã diễn ra tại Jakata (Indonesia) với chủ đề "Duy trì liên kết để phát triển cộng
đồng quan tâm và chia sẻ thông qua phương tiện thông tin đại chúng". Phát
biểu tại hội nghị này, Thứ trưởng Bộ Văn hoá-Thông tin Việt Nam (nay là Bộ
Thông tin và Truyền thông) Đỗ Quý Doãn đã nhấn mạnh vai trò quan trọng
của việc tăng cường hợp tác thông tin giữa các nước ASEAN trong quá trình
thực hiện mục tiêu xây dựng cộng đồng ASEAN ổn định, thịnh vượng. Các
đại biểu đã tập trung thảo luận các vấn đề như xây dựng và áp dụng quy
chuẩn về phát thanh, truyền hình kỹ thuật số nội khối; đa dạng hoá và tăng
cường hiệu quả của hoạt động trao đổi thông tin giữa các quốc gia thành viên;
xã hội hoá hoạt động truyền thông và xây dựng các dự án hợp tác thông tin
thiết thực hơn hướng vào thế hệ trẻ.
Tham gia vào mạng thông tin khu vực (WEBSITE COCI) từ năm 1998,
Việt Nam đã chính thức hoạt động, đưa trang thông tin của Việt Nam vào
WEBSITE COCI này với khoảng 400 trang, có cả phần tiếng Việt và tiếng
Anh. Năm 2002, Việt Nam cũng tham gia trang WEB Tuổi trẻ châu Á nhằm
giúp độc giả từ 10 - 15 tuổi tìm hiểu về lịch sử - văn hóa của các nước trong
khu vực.
64
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Gần đây, trong hợp tác thông tin ASEAN+3 để mở một trang trang web
chia sẻ những căn bệnh truyền nhiễm; Việt Nam cũng là một thành viên tham
gia tích cực xây dựng và cập nhật thông tin. Website "www.ASEANplus3-
eid.info" đã chính thức được khai trương ngày 17/6/2008, nhằm trao đổi
thông tin giữa các nước thành viên ASEAN với Nhật Bản, Trung Quốc và
Hàn Quốc về bệnh truyền nhiễm. Với tên gọi "Mạng lưới trao đổi thông tin về
dịch bệnh truyền nhiễm trong khối ASEAN+3", website này là một nỗ lực lớn
của các nước nhằm ngăn chặn và kiểm soát các dịch bệnh. Website được thiết
kế để các quốc gia trong khu vực có thể nhanh chóng trao đổi thông tin về các
bệnh truyền nhiễm, đồng thời cung cấp thông tin cần thiết cho các nhà hoạch
định chính sách và quản lý y tế. Đây cũng sẽ là địa chỉ để trao đổi về các vấn
đề liên quan đến dịch bệnh truyền nhiễm
Ngoài ra, trong lĩnh vực in ấn của truyền thông báo chí giữa Việt Nam
với ASEAN, các hoạt động của Việt Nam chủ yếu là cử người đi họp các Hội
nghị, đi học ở các lớp đào tạo. Tháng 4/1996, Việt Nam cử 5 người đi dự Hội
nghị Nhóm công tác về báo chí ở Singapore; tháng 6/1996 Việt Nam cử 3
người đi Tập huấn về trao đổi thông tin báo chí ở Malaysia; và 10 người đi
học lớp Biên tập viên báo chí ở Philippin; tháng 11/1996 tại Inđônêxia diễn ra
Hội nghị báo chí và phòng chống ma túy, Việt Nam cử 5 đại biểu tham dự...
Năm 2002, Việt Nam tham gia vào các hoạt động hợp tác đa phương
ASEAN và đã hòa nhập được vào tất cả các dự án trong khuôn khổ hợp tác
của ASEAN - COCI.
Để phù hợp với từng nước trong vấn đề đào tạo nghiệp vụ báo chí
tuyên truyền về ASEAN, COCI từ năm 2002 đã cấp ngân sách cho từng nước
tổ chức các khóa đào tạo chuyên đề về báo chí. Mỗi năm cấp ngân sách cho
tối đa 3 khóa đào tạo nghiệp vụ báo chí ASEAN.
65
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Nhìn chung, Việt Nam đã tham gia tích cực tất cả các dự án của
ASEAN - COCI về thông tin. Ngân sách hàng năm dành cho lĩnh vực thông
tin của ASEAN từ 800.000 USD đến 1.000.000 USD. Ngân sách này cấp cho
các dự án thông tin với sự tham gia của tất cả các nước thành viên ASEAN.
Những nỗ lực của Việt Nam khi tham gia vào lĩnh vực này đã được
ASEAN đánh giá cao. Năm 1997, Việt Nam đã được trao hai giải: Giải Văn
hóa cho Hội nhạc sĩ Việt Nam có công vận động sáng tác ca khúc kỷ niệm 30
năm thành lập ASEAN và giải về Thông tin cho chương trình ASEAN của
Đài tiếng nói Việt Nam và Đài truyền hình Việt Nam.
3.4, Hợp tác song phương với các nước ASEAN
Bên cạnh những kết quả đạt được qua hợp tác đa phương giữa Việt
Nam với ASEAN - COCI, Việt Nam còn có những hợp tác song phương với
từng nước ASEAN tạo thêm tình hữu nghị, đoàn kết giữa các quốc gia
ASEAN như: Hợp tác với Thái Lan; Lào; Malaysia, Singapore.
- Hợp tác với Thái Lan trên các lĩnh vực như quyền tác giả và quyền kế
cận tại Hà Nội.
- Hợp tác với Lào, trao đổi các đoàn nghệ thuật ở hai nước; Hợp tác
xuất bản Việt - Lào; Thực hiện dự án giúp Lào xây bảo tàng Cay Xỏn Phôm
Vi Hản theo hiệp định giữa hai chính phủ.
- Hợp tác với Malaysia và Singapore: trên lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật
và trưng bày.
Trong quan hệ song phương với từng nước, Việt Nam đã đánh dấu một
bước tiến quan trọng cả về lượng lẫn về chất, các nước ASEAN đã hiểu và
chấp nhận Việt Nam như một thành viên có uy tín và đầy tiềm năng, không còn
mặc cảm e dè như trước đây, khi ta chưa gia nhập tổ chức này. Có thể thấy rằng
quan hệ song phương đã thúc đẩy cho quan hệ đa phương và ngược lại.
66
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Tóm lại, hợp tác Văn hóa và Thông tin Việt Nam - ASEAN mới được
hơn 10 năm nhưng đã gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp. Việt Nam còn nhiều
việc cần phải làm để hoàn thiện hơn nữa các dự án chương trình chung tham
gia trong ASEAN. Tới đây Việt Nam cần đẩy mạnh năng lực quản lý và thực
thi các dự án ở Việt Nam để sự hội nhập của chúng ta ngày càng có hiệu quả
tốt hơn, phát huy được sức mạnh của nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc,
tiếp thu những tinh hoa thế giới (trong đó có ASEAN) để làm giàu nền văn
hóa Việt Nam.
Trong những năm qua, COCI Việt Nam luôn là một trong những đơn vị
hoạt động có hiệu quả nhất trong hợp tác chuyên ngành của ASEAN do có
nhiều thuận lợi hơn các đơn vị khác, đặc biệt là thuận lợi trong ngân sách
triển khai các dự án được đảm bảo từ quỹ văn hóa ASEAN.
COCI Việt Nam luôn nhận được sự hợp tác chặt chẽ của Ban thư ký
ASEAN Việt Nam (Vụ ASEAN - Bộ ngoại giao) trong quá trình triển khai
thực hiện các dự án của COCI tại Việt Nam và hợp tác với các nước đối thoại.
ASEAN - COCI Việt Nam luôn phối hợp rất chặt chẽ với các vụ có liên
quan của Bộ ngoại giao, đặc biệt Vụ ASEAN và Vụ Lễ tân để tổ chức nhiều
hoạt động văn hóa thông tin trong khuôn khổ hợp tác ASEAN.
Việt Nam là nước luôn hoàn thành xong các dự án đúng hạn với chất
lượng tốt. Các dự án của COCI triển khai tại Việt Nam không chỉ bó hẹp
trong Bộ văn hóa Thông tin mà có sự tham gia của nhiều Bộ, Ngành và các
Hội nghề nghiệp.
Các dự án do Việt Nam điều phối hoặc đăng cai tổ chức tại Việt Nam
đều được các nước đánh giá cao về công tác chuẩn bị, nội dung, tổ chức và
lòng hiếu khách.
67
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Bên cạnh một số thành th ành tựu đạt được, trong quá trình hợp tác
cụ thể vẫn còn đặt ra những thách thức trong quá trình hợp tác văn hóa-
thông tin Việt Nam-ASEAN.
Nhìn chung, trình độ tiếng Anh của cán bộ làm công tác văn hóa của
Việt Nam hiện vẫn còn yếu. Đây là một trở ngại trong quá trình triển khai và
tham gia các dự án của ASEAN - COCI. Điều này cũng đồng thời hạn chế rất
nhiều đến sự hòa nhập của Việt Nam trong các hoạt động của khu vực trên
lĩnh vực văn hóa và thông tin, đặc biệt là trong quá trình góp ý đối với các dự
án mới triển khai trong khuôn khổ của COCI.
Tồn tại lớn nhất của hợp tác ASEAN là tuy các dự án nhìn chung triển
khai đúng hạn nhưng chưa quyết toán dự án lại rất chậm, không tuân thủ theo
đúng quy định về quyết toán dự án của Ban thư ký ASEAN. Việt Nam chưa
bao giờ thực hiện đúng nguyên tắc quyết toán trong vòng 60 ngày sau khi kết
thúc dự án.
Tổ chức của Bộ phận điều phối ASEAN - COCI chưa hợp lý, chưa có
cán bộ chuyên trách về ASEAN, cơ chế kiêm nhiệm hiện tại cũng là nguyên
nhân dẫn đến một số dự án của ASEAN triển khai không đúng tiến độ hoặc
hiệu quả chưa cao, bộ phận ASEAN thiếu cán bộ giỏi tiếng Anh.
Để khắc phục những tồn tại này, Việt Nam cần thay đổi một số vấn đề
để đạt hiệu quả cao hơn.
Tiếp tục hoàn thiện lại tổ chức của COCI Việt Nam một cách hợp lý,
đặc biệt là bộ phận thường trực tại Vụ Hợp tác Quốc tế và các Chủ tịch Tiểu
ban tại Bộ Văn hóa Thông tin. Bộ phận thường trực của COCI Việt Nam tại
Bộ Văn hóa-Du lịch và Thể thao cần cơ cấu lại một cách chuyên nghiệp.
Các đơn vị tham gia dự án của ASEAN - COCI cần cử đúng người,
đúng việc và có đủ trình độ ngoại ngữ cần thiết để tham gia tích cực trong các
cuộc họp, hội thảo... của ASEAN - COCI.
68
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Tất cả các dự án COCI đã hoàn thành từ trước đến nay cần được quyết
toán ngay và bộ phận thường trực của COCI Việt Nam cần hoàn tất các báo
cáo tài chính cho Ban Thư ký ASEAN.
Các dự án của ASEAN - COCI khi triển khai tại Việt Nam phải được
giao cho các tổ chức, các cơ quan, đoàn thể thích hợp thực hiện. Các cá nhân
khi trực tiếp tham gia dự án phải do các đơn vị này chỉ định và giới thiệu với
ASEAN - COCI bằng văn bản.
Các đơn vị thực hiện dự án cần chủ động xây dựng dự trù kinh phí khi
triển khai dự án tại đơn vị mình để trình COCI xem xét và đề nghị Bộ Tài
chính cấp kinh phí. 30 ngày sau khi kết thúc dự án, các đơn vị phải gửi toàn
bộ quyết toán tài chính với đầy đủ chứng từ hợp lệ về cho bộ phận thường
trực của COCI xem xét để chuyển cho Bộ Tài chính duyệt quyết toán. 60
ngày sau khi kết thúc dự án COCI Việt Nam phải gửi báo cáo quyết toán cho
Ban Thư ký ASEAN tại Jakarta theo quy định.
Hơn 10 năm, Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN và đã tham
gia một cách tích cực và chủ động vào các hoạt động chung của ASEAN. Hợp
tác văn hóa khu vực không chỉ là sự gia tăng đột biến số lượt các đoàn ra -
vào để giao lưu, trao đổi trong khu vực, mà ở kết quả và tác động của các hoạt
động giao lưu ấy mang lại cho từng nước thành viên.
Việt Nam và các nước ASEAN đều là các quốc gia nằm trong cùng một
khu vực, có sự gần gũi về địa lý, có những nét tương đồng về văn hóa, phong
tục, tập quán, lối sống sinh hoạt... tất cả những yếu tố trên là những tác nhân
tích cực cho việc hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và ASEAN.
ASEAN có hơn 3000 văn hóa bản địa, mỗi một dân tộc lại có một nền
văn hóa riêng biệt, độc đáo, nhưng nét bao trùm lên văn hóa ASEAN mà ta dễ
nhận thấy là văn hóa bắt nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Chính
từ những nét tương đồng này mà Việt Nam dễ hòa nhập vào lĩnh vực hợp tác
văn hóa với các nước ASEAN. Tuy nhiên, khi nói đến văn hóa của một dân
69
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
tộc là nói đến bản sắc, cốt cách riêng thể hiện những yếu tố cấu thành văn hóa
dân tộc đó. Vì thế, bên cạnh những điểm tương đồng, ta có những nét văn hóa
độc đáo riêng mà khi hòa nhập vào văn hóa ASEAN ta không bị hòa tan.
Với tư cách là một kênh hoạt động đối ngoại quan trọng, giao lưu văn
hóa giữa Việt Nam và ASEAN đã làm tốt nhiệm vụ chính trị, ngoại giao, làm
cho nhân dân các nước láng giềng hiểu biết ta, có cảm tình và quý trọng nền
văn hóa truyền thống của Việt Nam, mặt khác nhân dân Việt Nam có điều
kiện học hỏi những di sản văn hóa có giá trị của các nước ASEAN, nâng cao
sự hiểu biết dân trí. Thông qua giao lưu văn hóa ta cũng giới thiệu được nền
văn hóa đậm đà tính dân tộc phong phú, đa dạng của Việt Nam đồng thời giới
thiệu được sự nghiệp đổi mới của đất nước ta bằng các hoạt động giao lưu văn
hóa, thông tin với các nước trong khu vực.
Hợp tác văn hóa - thông tin còn là tác nhân tích cực góp phần phát triển
kinh tế đặc biệt ở các lĩnh vực đầu tư và du lịch. Việt Nam hợp tác văn hóa
với ASEAN là phương tiện hữu hiệu nhất giúp cho các nước thành viên và
Việt Nam hiểu nhau. Đây là môi trường thuận lợi cho việc phát triển hợp tác
về an ninh, kinh tế giữa Việt Nam và các nước ASEAN.
70
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
KẾT LUẬN
Uy tín của ASEAN trên thế giới ngày càng được nâng cao. Sự nỗ lực
vươn lên của ASEAN được thấy rõ qua từng giai đoạn. Gần đây, việc
CHDCND Triều Tiên trong khuôn khổ của Diễn đàn an ninh khu vực lần thứ
15 (ARF-15) tại Singapore (ngày 24/7/2008) đã ký Hiệp ước Thân thiện và
Hợp tác Đông Nam Á chứng tỏ vai trò ngoại giao phòng ngừa của ASEAN có
tầm ảnh hưởng vượt khỏi khu vực Đông Nam Á. Ngày 15/12, Hiến chương
ASEAN có hiệu lực đánh dấu bước phát triển mới trong việc pháp lý hóa hiệp
hội, tiến tới hình thành Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột. Việt Nam là nước
đề xuất hình thành Cộng đồng Văn hóa Xã hội (một trong ba trụ cột). Việt
Nam là thành viên góp phần định hướng ASEAN hướng tới hình thành Cộng
đồng ASEAN năm 2015. Đánh giá quá trình hợp tác văn hóa giữa Việt Nam
và ASEAN từ những ngày mới gia nhập đến nay cho thấy: Việt Nam đề cao
sự hội nhập về văn hóa với ASEAN để hướng tới Cộng đồng ASEAN với
cùng nhận thức chung trong tương lai. Điều này thể hiện qua việc Việt Nam
ưu tiên và tham gia tích cực, đầy đủ vào các hoạt động hợp tác văn hóa giữa
Việt Nam và ASEAN hơn 10 năm từ khi gia nhập đến nay.
Hợp tác văn hóa song phương giữa Việt Nam với các nước ASEAN
mới như Lào, Campuchia ở thời kỳ đầu có hiệu quả hơn so với các thành viên
cũ. Bằng chứng là nhiều chương trình giao lưu văn hóa giữa Việt Nam với
Lào, Campuchia thường xuyên diễn ra ở phạm vi lớn và đạt nhiều hiệu quả
cao. Cùng với thời gian và sự hỗ trợ của ACF, các chương trình giao lưu văn
nghệ, thể thao (đặc biệt là các kỳ SEA GAME) hoặc trao đổi cán bộ diễn ra
định kỳ giữa Việt Nam và các thành viên ASEAN khác. Tháng 8/2007, Thủ
tướng Việt Nam đã có chuyến thăm 5 nước ASEAN (Indonesia, Philipines,
Singapore, Myanmar và Bruney). Đáng lưu ý trong chuyến đi này là hàng loạt
71
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
Bản ghi nhớ về hợp tác văn hóa với những nước này đã được ký kết. Điều này
chứng tỏ, Việt Nam đang giành thế chủ động trong hợp tác văn hóa với với
các nước thành viên ASEAN cũ (Indonesia, Philipines, Singapore và Bruney).
Từ sự chủ động đề xuất hình thành ACC cho đến việc ký các Bản ghi
nhớ hợp tác văn hóa và sự tích cực trong quá trình hợp tác văn hóa với các
nước ASEAN gần đây đã thể hiện quan điểm của Việt Nam tương đồng với
quan điểm chung của ASEAN với tư cách một tổng thể (ASEAN luôn mong
muốn hình thành một nhận thức chung khu vực). Muốn thực hiện được điều
này chỉ còn cách tìm kiếm sự đồng cảm giữa các thành viên qua các quan hệ
văn hóa. Giá trị văn hóa vốn tiềm tàng nhưng có sức gắn kết mạnh mẽ một
khi đã tìm được mẫu số chung.
Có một điều cần nhấn mạnh là việc hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và
ASEAN mang nhiều ý nghĩa quan trọng tới việc mở rộng quan hệ trong khu
vực và trên thế giới. Văn hóa Việt Nam thuộc cơ tầng văn hóa Đông Á nên
cũng có điểm tương đồng với văn hóa Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản…;
do yếu tố lịch sử nên văn hóa Việt Nam cũng ít nhiều chịu sự ảnh hưởng của
văn hóa phương Tây (tiêu biểu là Pháp); và, văn hóa Việt Nam thuộc cơ tầng
văn hóa Đông Nam Á. Như vậy, với đặc trưng văn hóa này, Việt Nam có đầy
đủ cơ sở để kết nối ASEAN với phương Đông và phương Tây.
Tuy nhiên, trong quá trình hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và ASEAN
thời gian qua cũng có một số vấn đề đặt ra. Nếu theo thống kê thì số lượng
các hoạt động có thể lớn nhưng hiệu quả chưa tương xứng. Đa số, các hoạt
động còn nhỏ lẻ và chủ yếu được biết đến qua các cuộc giao lưu văn nghệ,
triển lãm nghệ thuật… Nói chung các hoạt động mang tính bề nổi. Việc đánh
giá hiệu quả các hoạt động hợp tác văn hóa vẫn chưa có tính hệ thống. Những
báo cáo hàng năm của ASEAN- COCI của Việt Nam mới chỉ mang tính liệt
72
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
kê các sự kiện hợp tác văn hóa song phương và đa phương với ASEAN, chưa
có sự đánh giá và định hướng rõ ràng và đề ra kế hoạnh hoạt động ngắn hạn
hay dài hạn trong tương lai. Điều này dường như chưa tương xứng với ý chí
hành động của lãnh đạo nhà nước trong việc góp phần đẩy mạnh hình thành
bản sắc chung ASEAN. Bên cạnh đó, mặt bằng trình độ ngoại ngữ của các
cán bộ thực hiện công tác trao đổi văn hóa nhìn chung vẫn còn hạn chế so với
các nước khác trong khu vực. Đây thực sự là một trở ngại để xúc tiến sự hợp
tác văn hóa nói riêng và hợp tác ở nhiều lĩnh vực khác với ASEAN.
Trước thực tiễn này, tác giả xin đề xuất một số biện pháp cụ thể triển
khai trong thời gian tới:
- Đánh giá một cách có hệ thống những hoạt động hợp tác văn hóa để
rút kinh nghiệm với những hoạt động sau này. ASEAN- COCI của Việt Nam
cần được đầu tư để có hoạt động có hiệu quả hơn, chứ không nặng về hành
chính như hiện nay vì trực thuộc Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch. Có như
vậy, cơ quan chức năng mới có đủ dữ liệu để tham mưu tốt cho lãnh đạo nhà
nước nhằm phục vụ những chính sách hợp tác mang lại hiệu quả chung cho
ASEAN và riêng cho Việt Nam.
- Hiện tuy đã có website và kênh truyền hình về ASEAN nhưng sự
thông tin mờ nhạt và ít phổ cập với người dân Việt Nam. Với truyền hình Việt
Nam, các thông tin về văn hóa các nước ASEAN xuất hiện với tần suất chưa
nhiều. Hiện nay, Việt Nam đã có vệ tinh riêng sẽ rất thuận lợi cho việc thực
hiện một kênh thông tin chuyên phản ánh riêng các hoạt động mang tính đời
sống của người dân các nước ASEAN. Đương nhiên, sự hấp dẫn của kênh
truyền hình sẽ thu hút người dân theo dõi và qua đây, văn hóa được truyền tải
sâu rộng nhất.
73
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
- Có thể tổ chức định kỳ những tour bằng đường bộ kiểu như cuộc hành
trình di sản qua các quốc gia thành viên ASEAN cho những đối tượng là
thanh niên đại diện các nước trong khu vực Đông Nam Á. Mục đích của cuộc
hành trình di sản này là tìm kiếm sự tương đồng trong đa dạng văn hóa nhằm
nâng cao nhận thức về bản sắc ASEAN cho thế hệ kế cận. Điều này không
khó thực hiện vì hầu như các nước ASEAN đã miễn thị thực và ký hiệp định
đường bộ chung xuyên ASEAN…(Năm 2008, Việt Nam đã đề xuất dự án tổ
chức Hội nghị về Luật di sản các nước ASEAN vào năm 2009. Đây là diễn
đàn để các nhà hoạch định chính sách và luật pháp các nước ASEAN trao đổi
kinh nghiệm và nghiên cứu khả năng hợp tác trong lĩnh vực này. Dự án do
Cục Di sản văn hoá đề xuất).
- Công dân Việt Nam gần như không được học các kiến thức chung về
ASEAN trong các chương trình từ phổ thông trung học trở xuống. ASEAN
nói chung và Bộ Giáo dục Việt Nam nên cập nhật thông tin về những đặc
trưng văn hóa ASEAN vào sách giáo khoa từ cấp học cơ sở để giúp thế hệ trẻ
sớm nhận thức về đặc trưng văn hóa Đông Nam Á.
- Hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và ASEAN thời gian qua chủ yếu mới
chỉ tập trung tuyên truyền và xây dựng bản sắc riêng ASEAN mà chưa quan tâm
tới việc chống lại những tác động không tốt của văn hóa hóa ngoại lại.
Có thể thấy rằng, hơn 10 năm Việt Nam là thành viên ASEAN thì cũng
từng ấy thời gian Việt Nam tích cực triển khai các hoạt động hợp tác văn hóa
cả song phương, lẫn đa phương với ASEAN. Bằng thiện chí của mình, Việt
Nam đã nhanh chóng xóa bỏ những thành kiến của các nước thành viên đối
với một nước mới gia nhập có chế độ chính trị khác, xóa bỏ những nghi ngại
của thời "chiến tranh lạnh". Điều này thể hiện rõ khi sự kiện Việt Nam gia
nhập ASEAN đã mở cho các nước còn lại ở Đông Nam Á cùng hình thành
74
Luận văn thạc sỹ Quan hệ Quốc tế
Phạm Đình Thắng
ASEAN với đầy đủ các nước thành viên. Việt Nam đã hòa nhập bằng thiện
chí và những đóng góp cụ thể vào các hoạt động của ASEAN; đã và đang trở
thành thành viên tích cực và có trách nhiệm trong vai trò một hạt nhân đoàn
kết, một nhân tố quan trọng đối với hòa bình, ổn định và hợp tác, là nhân tố
đáng tin cậy của sự phát triển và hội nhập trong khu vực và thế giới. Cần phải
khẳng định rằng, mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN hoàn toàn phù hợp
với đường hướng phát triển của Việt Nam trên bước đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa để trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Rút ngắn
khoảng cách về trình độ kinh tế, giữ vững độ tăng trưởng nhanh, bảo đảm sự
phát triển đồng đều, bền vững và thực hiện nghiêm chỉnh cam kết "là bạn và
là đối tác tin cậy" với các nước là những mục tiêu trên lộ trình xây dựng đất
nước và cũng là đóng góp thiết thực vào sự lớn mạnh của ASEAN.
75
Tài liệu tham khảo
A, Sách và tạp chí:
1, The ASEAN secretariat (2005)- Asean documents series 2004 (Ten
nations one community)-Public affairs office, Jakarta (Indonessia)
2, Nguyễn Phương Bình (2000)- Vai trò của ASEAN đối với các nước thành
viên và đối với khu vực Châu á-Tạp chí Nghiên cứu quốc tế (số 34), tr.12-24
3, Ngô Văn Doanh (1998)-Danh thắng và kiến trúc Đông Nam Á, Nxb Văn
hóa Thông tin, Hà Nội
4, Nguyễn Tất Đắc (2003)-Văn hóa Đông Nam Á- Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội
5, Nguyễn Cảnh Huệ-Suy nghĩ về ASEAN bước vào thế kỷ 21-Những thuận
lợi và khó khăn, Hội thảo ASEAN hôm nay và ngày mai, Hà Nội 1997
6, Trần Khánh (2008)-Tác động của tính “thống nhất trong đa dạng” đối
với xây dựng cộng đồng ASEAN, Nghiên cứu Đông Nam Á (số 8), tr.30-35)
7, Vũ Tuyết Loan (2008)-Báo cáo khoa học tại Hội thảo quốc tế lần thứ 3 về
Việt Nam học tại Hà Nội: Hợp tác văn hóa Việt Nam-ASEAN hướng tới một
cộng đồng văn hóa xã hội
8, Phạm Nguyên Long (Chủ biên 1993) - Đông Nam Á trên đường phát
triển, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội
9, Phạm Nguyên Long (Chủ biên 1998)-ASEAN-Những vấn đề và xu
hướng, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 10, Mohd. Taib Osman (2001)- Cultures in ASEAN & the 21st century,
University of Malaya Press, Malaysia
11, Nguyễn Thu Mỹ (1998)-ASEAN hôm nay và triển vọng phát triển trong
thế kỷ 21, Nxb Chính trị QG, Hà Nội
12, Vũ Dương Ninh (1997)-Hành trình hội nhập Việt Nam-ASEAN, Hội
thảo quốc tế "ASEAN hôm nay và ngày mai", Hà Nội
13, Vũ Dương Ninh (2007)-Đông Nam Á: Truyền thống và hội nhập, Nxb
Thế giới, Hà Nội
14, Lương Ninh (CB), Đỗ Thanh Bình, Trần Thị Vinh (2005)-Lịch Sử Đông
Nam Á, Nxb Giáo Dục, Hà Nội
15, Cao Xuân Phố (1997)- Văn hoá Đông Nam Á với sự hội nhập khu vực -
Nhân Dân cuối tuần số 32 (445) ra ngày 10/8/1997
16, Nguyễn Duy Quý (2001)-Tiến tới một ASEAN hoà bình, ổn định và phát
triển bền vững, Nxb Chính trị QG, Hà Nội
17, Nguyễn Xuân Sơn (Chủ biên 1996)-Một số vấn đề về tổ chức ASEAN,
Nxb Chính trị QG, Hà Nội
18, Phạm Đức Thành (Chủ biên 1998)-Việt Nam-ASEAN cơ hội và thách
thức, Nxb Chính trị QG, Hà Nội
19, Đảng Cộng Sản VN (2001)-Văn kiện Đại hội Đại biểu lần IX, Nxb
Chính trị QG, Hà Nội.
20, Nguyễn Thành Văn (2008)-Sự tiến triển quan điểm của ASEAN về cộng
đồng ASEAN, Nghiên cứu Đông Nam Á (1), tr.34-46.
21, Shaun Narine (2002)-Explainning ASEAN, Regionalism in Southeast
Asia, Boulder. London Publicsher Inc. American
22, Thomas Nicolas and Melisa Curley (2007)-Advancing East Asia
Regionalism, Milton Park, Abingdon, Oxon: Routledge
B, Các trang Web:
http://www.aseansec.org
http://www.dangcongsan.vn
http://www.mofa.gov.vn
http://www.news.xinhuanet.com (www.chinaview.cn)
http://www.vov.org.vn
http://www.mpt.gov.vn
http://www.tuoitre.com.vn
http://www.thanhnien.com.vn
http://www.tienphong.vn
Phụ lục 1
Những mốc phát triển chính của ASEAN
1, Ngày 27/11/1971, các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN ký Tuyên bố
về Khu vực Hòa bình, Tự do, và Trung lập (ZOPFAN) tại Kuala Lumpur.
ZOPFAN khẳng định các nước thành viên quyết tâm xúc tiến những cố gắng
cần thiết để có được sự công nhận và tôn trọng Ðông Nam Á như một khu
vực hòa bình, tự do và trung lập, không có sự can thiệp dưới bất cứ hình thức
và phương cách nào của các nước ngoài khu vực. Hội nghị cấp cao ASEAN
lần thứ nhất (tháng 2/1976) tại Bali (Indonessia) chính thức thông qua
ZOPFAN, coi đó là phác thảo cơ bản cho sự hợp tác chính trị - an ninh của
ASEAN.
2, Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Ðông Nam Á (TAC) được ký tại
Hội nghị cấp cao ASEAN Bali (tháng 2/1976) gồm các nguyên tắc cơ bản chỉ
đạo quan hệ giữa các nước Ðông Nam Á, phù hợp các nguyên tắc của Hiến
chương Liêm Hợp Quốc, là Bộ luật ứng xử giữa các nước Ðông Nam Á với
nhau. Tiếp đó, ASEAN thúc đẩy TAC thành Bộ luật ứng xử giữa các nước
Ðông Nam Á với các nước ngoài khu vực. Từ năm nước thành viên sáng lập
(Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan), nay TAC thu hút
22 thành viên (Việt Nam tham gia năm 1992), Bangladesh và Sri Lanka vừa
tham gia tại Hội nghị Bộ trưởng Manila ngày 1/8/2007.
3, Hiệp ước Ðông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ) được
Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM) lần thứ 17 (tháng 7/1984)
đồng ý thiết lập; tháng 12/1995, những người đứng đầu Nhà nước, Chính phủ
mười nước Ðông Nam Á ký nhằm xây dựng Ðông Nam Á thành khu vực
hoàn toàn không có vũ khí hạt nhân. AMM-40 thông qua Kế hoạch Hành
động cụ thể định hướng cho việc triển khai SEANWFZ trong thời gian tới.
4, Tuyên bố ASEAN về Biển Ðông (Tuyên bố Manila) do AMM-35 tại
Manila tháng 7/1992 đưa ra, nhấn mạnh các nguyên tắc giải quyết hòa bình
các tranh chấp, không sử dụng vũ lực và tự kiềm chế; đề xuất xây dựng Bộ
luật ứng xử ở Biển Ðông trên cơ sở nguyên tắc của Hiệp ước TAC.
5, Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) là nơi đối thoại và trao đổi ý kiến
về các vấn đề an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương, được ASEAN khởi
xướng tháng 7/1994. Hội nghị Bộ trưởng đầu tiên của ARF (ARF1) họp tại
Băng Cốc tháng 7/1994 với sự tham dự của 18 nước thành viên (gồm Bruney,
Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan, Singapore,Việt Nam, Lào, Trung
Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga, Mỹ, EU, New Zealand, Australia và Papua
New Guinea). Ðến nay ARF có 28 thành viên gồm mười một nước thành viên
ASEAN, mười bên đối thoại và bảy quốc gia ngoài khu vực.
6, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) là tiến trình thúc đẩy hợp
tác kinh tế thương mại được Hội nghị cấp cao ASEAN IV họp tại Singapore
tháng 1/1992 thông qua, đánh dấu bước tiến lịch sử về chất trong hợp tác kinh
tế của ASEAN. Theo lộ trình thiết lập AFTA trong 15 năm, các nước ASEAN
thúc đẩy liên kết kinh tế nội khối, từng bước đưa ASEAN thành khu vực sản
xuất quốc tế, có khả năng cạnh tranh và hấp dẫn giới đầu tư quốc tế. Nội dung
quan trọng của AFTA là Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
(CEPT). Các nước thành viên cũ hoàn thành AFTA vào ngày 1/1/2003 (sớm
năm năm so với kế hoạch ban đầu), Việt Nam thực hiện từ năm 2006.
7, Tầm nhìn ASEAN 2020 được Hội nghị cấp cao ASEAN không
chính thức họp tại Kuala Lumpur tháng 12/1997 thông qua. Theo đó, tới năm
2020 ASEAN sẽ là "một nhóm hài hòa các dân tộc Ðông Nam Á hướng ra
bên ngoài, sống trong hòa bình, ổn định và thịnh vượng, gắn bó với nhau
bằng quan hệ đối tác trong phát triển năng động và trong một cộng đồng các
xã hội đùm bọc lẫn nhau". Chủ đề hợp tác kinh tế của ASEAN tiến tới năm
2020 là "Quan hệ đối tác trong phát triển năng động".
8, Kế hoạch Hành động Hà Nội là văn kiện quan trọng được thông qua
tại Hội nghị cấp cao ASEAN VI tại Hà Nội, tháng 12/1998, Hội nghị cấp cao
chính thức cuối cùng của ASEAN trước thềm thế kỷ 21. Kế hoạch Hành động
Hà Nội là nhằm thực hiện Tầm nhìn 2020.
9, Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI) về thu hẹp khoảng cách phát triển
trong ASEAN nhấn mạnh sự cần thiết tăng cường hiệu quả, tính đồng bộ và
sự phối hợp chặt chẽ trong quá trình xây dựng, tăng cường liên kết khu vực và
thực hiện mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN. Tháng 6/2007, Việt Nam
đăng cai tổ chức Diễn đàn về IAI lần thứ hai đề ra chiến lược hợp tác thực
hiện IAI giai đoạn 2008-2015.
10, Tuyên bố hòa hợp ASEAN II hướng tới xây dựng Cộng đồng
ASEAN (Tuyên bố Bali II) được lãnh đạo các nước ASEAN ký tại Bali năm
2003. Theo đó sẽ xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2020 dựa trên ba trụ
cột là Cộng đồng an ninh (ASC), Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng
Văn hóa-Xã hội (ASCC). Hội nghị cấp cao ASEAN X tại Viêng Chăn năm
2004 đề ra các Kế hoạch Hành động ASC, AEC và ASCC và Chương trình
Hành động Viêng Chăn cụ thể hóa các Kế hoạch Hành động trên, giai đoạn
2004 - 2010. Hội nghị cấp cao ASEAN XII ở Cebu (Philippines) tháng
1/2007 quyết định hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 (sớm năm
năm) và hoàn tất Hiến chương ASEAN vào cuối năm 2007.
11, Ngày 15/12 tại trụ sở Ban thư ký ASEAN ở Jakarta (Indonesia), các
Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN nhóm họp để công bố chính thức bản Hiến
chương ASEAN bắt đầu có hiệu lực. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao
Phạm Gia Khiêm dự hội nghị nói trên. Trang tin điện tử của Ban Thư ký
ASEAN cho biết, tại hội nghị này, Tổng Thư ký ASEAN Surin Pitsuwan
tuyên bố rằng các nước ASEAN hứa sẽ bảo vệ và phát huy hết tinh thần và
nội dung của bản Hiến chương này vì lợi ích của tất cả các dân tộc trong cộng
đồng ASEAN. Từ ngày 15/12, ASEAN sẽ hoạt động và vận hành theo một
khuôn khổ pháp lý mới được qui định trong Hiến chương ASEAN.
Phụ Lục 2
Tóm tắt Hiến chương ASEAN
Ngày 15/12/2008, Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 14 họp tại
thủ đô Jakarta, Indonesia chính thức tuyên bố Hiến chương ASEAN bắt đầu
có hiệu lực. Đây được coi là một mốc lịch sử quan trọng trong cơ cấu tổ chức,
xác định lại vị thế của ASEAN để đối phó tốt hơn với những thách thức trong
thế kỷ 21.
Ý tưởng xây dựng một bản Hiến chương khởi đầu từ Hội nghị cấp cao
ASEAN lần thứ 10 năm 2004, khi các nhà lãnh đạo ASEAN nhất trí xây dựng
bản Hiến chương ASEAN. Sau đó, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 11
(năm 2005), ASEAN đã đề ra các nguyên tắc chỉ đạo cho việc xây dựng Hiến
chương và quyết định lập Nhóm các nhân vật nổi tiếng (Eminet Person
Group-EPG) để tư vấn cho việc xây dựng Hiến chương. Tại Hội nghị cấp cao
ASEAN lần thứ 13 (năm 2007), lãnh đạo các nước ASEAN đã ký thông qua
Hiến chương ASEAN và ra Tuyên bố chung khẳng định quyết tâm hoàn tất
việc phê chuẩn Hiến chương trong vòng một năm.
Hiến chương ASEAN gồm Lời nói đầu và 13 Chương, 55 Điều, với
các nội dung: Mục đích - Nguyên tắc hoạt động; Tư cách pháp nhân; Quy
chế thành viên; Cơ cấu tổ chức; Các thể chế liên quan ASEAN; Các ưu đãi
miễn trừ; Ra quyết định; Giải quyết tranh chấp; Tài chính - Ngân sách; Các
vấn đề hành chính - thủ tục; Biểu trưng và biểu tượng; Quan hệ đối ngoại và
các điều khoản chung.
Về mục đích, nguyên tắc, chương I: Hiến chương khẳng định lại các
mục đích và nguyên tắc cơ bản của ASEAN, nhất là mục đích hoà bình, an
ninh, ổn định và hợp tác khu vực cũng như nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền và không can thiệp công việc nội bộ của nhau; đồng thời bổ sung một
số mục đích và nguyên tắc mới phù hợp tình hình như: Nguyên tắc các nước
không tham gia và không cho phép bất kỳ quốc gia, đối tượng nào được sử
dụng lãnh thổ của một nước thành viên để chống lại một nước thành viên
khác.
Tư cách pháp nhân: Chương II của Hiến chương quy định, ASEAN là
một tổ chức hợp tác khu vực liên Chính phủ và có tư cách pháp nhân. Trước
khi có Hiến chương ASEAN, ASEAN hoạt động trên cơ sở văn kiện chính trị
nền là Tuyên bố Băng cốc ra đời ngày 8/8/1967, chứ không phải một văn kiện
pháp lý. Như vậy, lần đầu tiên sau 40 năm tồn tại và phát triển, Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) chính thức có tư cách pháp nhân.
Về cơ cấu tổ chức, Chương IV Hiến chương nêu rõ: Bộ máy chính sẽ
bao gồm Hội nghị cấp cao (là cơ quan quyết định chính sách cao nhất, họp hai
lần một năm thay vì mỗi năm một lần trước đây); lập bốn hội đồng cấp bộ
trưởng, trong đó ba hội đồng về từng trụ cột của Cộng đồng ASEAN (gồm
chính trị - an ninh; kinh tế và văn hoá-xã hội) và một hội đồng điều phối
chung (gồm các bộ trưởng ngoại giao); các hội nghị bộ trưởng chuyên ngành;
Uỷ ban các đại diện thường trực của các nước tại ASEAN, thường trú tại
Jakarta, Indonesia; Ban Thư ký ASEAN và Tổng Thư ký ASEAN; Ban Thư
ký ASEAN quốc gia. Ngoài ra, ASEAN cũng sẽ lập Cơ quan nhân quyền
ASEAN và quy định cơ quan này sẽ phải hoạt động phù hợp điều khoản tham
chiếu do các bộ trưởng ngoại giao quyết định sau, trong đó xác định rõ tính
chất, chức năng, nhiệm vụ và nguyên tắc của cơ quan này.
Về cách thức ra quyết định, Chương VII Hiến chương ASEAN quy
định nguyên tắc chủ đạo là đồng thuận; khi không đạt được đồng thuận, Hội
nghị cấp cao ASEAN sẽ quyết định về cách thức ra quyết định phù hợp.
Về thực thi các quyết định trong lĩnh vực kinh tế, có thể áp dụng công
thức linh hoạt ASEAN-X. Theo đó sẽ cho phép các nước có điều kiện, thực
hiện việc mở cửa kinh tế, thị trường trước, nhưng phải trên cơ sở có đồng
thuận về việc áp dụng phương thức đó.
Giải quyết tranh chấp: Chương VIII của Hiến chương nêu rõ, các nước
ASEAN giải quyết tranh chấp, bất đồng theo nguyên tắc hoà bình, thông qua
thương lượng dựa trên các thoả thuận đã có của ASEAN. Trường hợp bất
đồng không giải quyết được hoặc có vi phạm nghiêm trọng Hiến chương, vấn
đề sẽ được trình lên Hội nghị cấp cao quyết định.
Khẩu hiệu của ASEAN là: “Một tầm nhìn, một bản sắc, một cộng
đồng” và chọn tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của Hiệp hội. Hiến chương
ASEAN quy định Hiệp hội sẽ có một "quốc ca chung" gọi là “ASEAN ca”. Sẽ
có cuộc thi tuyển sáng tác “ASEAN ca” ở mỗi nước thành viên để sau đó lãnh
đạo cấp cao các nước chọn ra “ASEAN ca” chính thức. Hiến chương cũng
quy định ngày 8/8 là Ngày ASEAN.
Hiến chương ASEAN cũng phê chuẩn lá cờ của ASEAN gồm bốn màu:
xanh da trời, đỏ, trắng, vàng, thể hiện bốn màu chủ đạo trên quốc kỳ của các
nước thành viên ASEAN. Trong đó, màu xanh da trời biểu hiện cho hoà bình
và ổn định. Màu đỏ thể hiện dũng khí và sự năng động. Màu trắng là sự thuần
khiết và màu vàng là biểu trưng cho sự thịnh vượng. Bó lúa in trên lá cờ
tượng trưng cho ước mơ của các thành viên sáng lập ASEAN về một ASEAN
gắn bó bằng tình hữu nghị và đoàn kết.
Mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN và Hiến chương ASEAN ra đời
và có hiệu lực là một quá trình phấn đấu bền bỉ của các nước trong Hiệp hội,
là một nhu cầu khách quan, phản ánh sự trưởng thành của ASEAN, thể hiện
tầm nhìn và quyết tâm chính trị mạnh mẽ của các nước thành viên.
Phụ lục 3
Tầm nhìn ASEAN năm 2020
Chúng tôi, những người đứng đầu Nhà nước/Chính phủ Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam châu Á, họp mặt hôm nay tại Kuala Lumpur để khẳng
định lại cam kết của mình đối với các tôn chỉ, mục đích của Hiệp hội như
được nêu trong Tuyên bố Băng Cốc ngày 8 tháng 8/1967, cụ thể là thúc đẩy
hợp tác khu vực ở Đông Nam châu Á trên tinh thần bình đẳng và đối tác,
đóng góp vào hoà bình, tiến bộ và thịnh vượng ở khu vực.
Các nước ASEAN chúng tôi đã tạo ra một cộng đồng các quốc gia
Đông Nam châu Á sống hoà bình với nhau và với thế giới, nhanh chóng đạt
được sự phồn vinh cho nhân dân mình và cải thiện đời sống của họ một cách
vững chắc. Tính đa dạng phong phú của chúng tôi đã đem lại sức mạnh và
nguồn cổ vũ cho chúng tôi giúp nhau xây dựng một ý thức cộng đồng mạnh mẽ.
Các nước ASEAN chúng tôi nay là một thị trường với khoảng 500 triệu
dân có tổng sản phẩm nội địa là 600 tỷ USD. Chúng tôi đã đạt được thành tựu
đáng kể trong lĩnh vực kinh tế, như tỷ lệ tăng trưởng cao, sự ổn định và
thuyên giảm đáng kể tỷ lệ nghèo trong mấy năm qua. Các nước thành viên đã
có được khối lượng thương mại và luồng đầu tư lớn nhờ có nhiều biện pháp
tự do hoá đáng kể. Chúng tôi quyết tâm phát huy những thành tựu đã đạt
được.
Nay, khi thế kỷ 21 sắp tới và 30 năm sau khi ASEAN ra đời, chúng tôi
họp mặt tại đây để vạch ra một tầm nhìn cho ASEAN trên cơ sở tình hình
thực tế ngày nay và triển vọng tình hình trong những thập niên tới năm 2020.
Theo tầm nhìn đó, ASEAN sẽ là một nhóm hài hoà các dân tộc Đông
Nam châu Á hướng ngoại, sống trong hoà bình, ổn định và thịnh vượng, gắn
bó với nhau bằng quan hệ đối tác trong phát triển năng động và trong một
cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau.
Một Nhóm hào hoà các dân tộc Đông Nam châu Á
Chúng tôi hình dung vào năm 2020, khu vực ASEAN sẽ thực sự trở
thành một Khu vực hoà bình, tự do và trung lập như nêu trong Tuyên bố
Kuala Lumpur 1971. Đến năm 2020, ASEAN sẽ thiết lập được một Đông
Nam châu Á hoà bình và ổn định, ở đó mỗi nước sống bình yên, những
nguyên nhân xung đột đã được loại bỏ qua việc tôn trọng công lý và luật pháp
và việc tăng cường tinh thần tự cường quốc gia và khu vực.
Chúng tôi hình dung một Đông Nam châu Á, ở đó tranh chấp lãnh thổ
và các tranh chấp khác được giải quyết bằng biện pháp hoà bình.
Chúng tôi hình dung Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam châu
Á phát huy đầy đủ chức năng của mình như một bộ luật ứng xử có tính ràng
buộc đối với các chính phủ và nhân dân chúng tôi, và được các quốc gia khác
có lợi ích ở khu vực tuân thủ.
Chúng tôi hình dung một Đông Nam châu Á không có vũ khí hạt nhân;
tất cả các nước có vũ khí hạt nhân cam kết tuân thủ những mục đích của Hiệp
ước về khu vực Đông Nam châu Á không có vũ khí hạt nhân bằng cách tham
gia Nghị định thư của Hiệp ước.
Chúng tôi cũng hình dung khu vực của chúng tôi không có tất cả các
loại vũ khí giết người hàng loạt khác.
Chúng tôi hình dung các tài nguyên thiên nhiên và con người phong phú của
chúng tôi sẽ đóng góp cho sự phát triển và thịnh vượng chung của chúng tôi.
Chúng tôi hình dung Diễn đàn khu vực ASEAN sẽ là một phương tiện
vững chắc để xây dựng lòng tin, thực hiện ngoại giao phòng ngừa, và thúc
đẩy giải quyết xung đột.
Chúng tôi hình dung một Đông Nam châu Á ở đó núi, sông và biển
không chia rẽ mà liên kết chúng tôi trong mối quan hệ hữu nghị, hợp tác và
thương mại.
Chúng tôi thấy ASEAN là một lực lượng hữu hiệu đối với hoà bình, công lý
và trung dung ở Châu Á -Thái Bình Dương và trên thế giới.
Quan hệ đối tác trong phát triển năng động
Chúng tôi quyết tâm vạch ra phương hướng mới tiến tới năm 2020 gọi
là ''ASEAN 2020: Quan hệ đối tác trong phát triển năng động'' nhằm tạo quan
hệ liên kết kinh tế chặt chẽ hơn trong ASEAN.
Chúng tôi khẳng định lại quyết tâm nâng cao hợp tác kinh tế ASEAN
qua các chiến lược phát triển kinh tế, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân
mỗi nước, chú trọng tới sự tăng trưởng đồng đều và bền vững, nâng cao tính
tự cường quốc gia cũng như khu vực.
Chúng tôi cam kết duy trì hoạt động kinh tế cao bằng cách bồi đắp cho
nền tảng của những cố gắng hợp tác hiện nay, củng cố những thành tựu đã đạt
được, tăng cường những cố gắng chung và tương trợ lẫn nhau.
Chúng tôi cam kết tiến đến quan hệ gắn bó và liên kết kinh tế chặt chẽ
hơn, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước thành viên, bảo
đảm cho hệ thống thương mại đa biên vẫn công bằng và rộng mở, và đạt trình
độ cạnh tranh quốc tế.
Chúng tôi sẽ tạo ra một Khu vực Kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng,
có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hoá, dịch vụ và đầu tư được lưu
chuyển thông thoáng, vốn được lưu chuyển thông thoáng hơn, kinh tế phát
triển đồng đều, nghèo đói và phân hoá kinh tế-xã hội giảm bớt.
Chúng tôi kiên quyết thực hiện những biện pháp sau:
Duy trì sự ổn định về kinh tế vĩ mô và về tài chính trên toàn khu vực
bằng cách tăng cường tham khảo ý kiến chặt chẽ hơn về chính sách kinh tế vĩ
mô và tài chính.
Tăng cường liên kết và hợp tác kinh tế bằng cách thực hiện những
chiến lược chung sau:thực hiện đầy đủ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (
AFTA) và thúc đẩy sự trao đổi thông thoáng về dịch vụ; thực hiện Khu vực
Đầu tư ASEAN vào năm 2010 và luồng đầu tư thông thoáng vào năm 2020;
tăng cường và mở rộng hợp tác tiểu vùng ở các khu vực và tiểu vùng tăng
trưởng hiện có và sắp có; củng cố và mở rộng hơn nữa các mối liên kết với
các khu vực ngoài ASEAN vì lợi ích chung, hợp tác nhằm tăng cường hệ
thống thương mại đa biên; tăng cường vai trò của giới doanh nghiệp, coi đó là
động lực tăng trưởng.
Thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hiện đại và có tính cạnh tranh
trong ASEAN để góp phần phát triển công nghiệp và tính hiệu quả của khu
vực.
đẩy nhanh sự lưu chuyển thông thoáng về dịch vụ chuyên môn và các dịch vụ
khác trong khu vực.
Thúc đẩy sự thông thoáng trong lĩnh vực tài chính và hợp tác chặt chẽ
hơn trong lĩnh vực tiền tệ và thị trường vốn, thuế, bảo hiểm, và các vấn đề hải
quan cũng như tham khảo ý kiến chặt chẽ hơn về chính sách kinh tế vĩ mô và
tài chính.
Đẩy nhanh sự phát triển khoa học và công nghệ, bao gồm cả công nghệ
thông tin bằng cách thiết lập một mạng lưới công nghệ thông tin và các trung
tâm đầu đàn trong khu vực để phổ biến và tạo điều kiện dễ tiếp cận dữ liệu và
thông tin.
Thiết lập sự liên kết với nhau trong lĩnh vực năng lượng và điện, khí
thiên nhiên và nước dùng trong sinh hoạt trong ASEAN thông qua hệ thống
điện ASEAN và hệ thống ống dẫn khí và nước sinh hoạt xuyên ASEAN, và
thúc đẩy hợp tác trong việc bảo tồn và sử dụng có hiệu quả năng lượng cũng
như phát triển các nguồn năng lượng mới và tái sinh.
Tăng cường an ninh lương thực và nâng cao khả năng cạnh tranh quốc
tế của lương thực và nông, lâm sản; biến ASEAN trở thành một khu vực hàng
đầu sản xuất các sản phẩm này, biến ngành lâm nghiệp thành một mô hình về
quản lý, bảo tồn và phát triển bền vững rừng.
Đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về cải thiện cơ sở hạ tầng và thông tin
liên lạc bằng cách phát triển mạng lưới giao thông vận tải liên kết và hài hoà
xuyên ASEAN, làm chủ được các bước tiến trong công nghệ viễn thông và
công nghệ thông tin, đặc biệt trong việc nối các xa lộ thông tin/các hành lang
đa phương tiện trong ASEAN, khuyến khích chính sách bầu trời rộng mở,
phát triển vận tải đa phương thức, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng quá cảnh;
liên kết chặt chẽ hơn mạng lưới viễn thông thông qua sự kết nối, phối hợp các
tần số và công nhận các thủ tục phê duyệt các chủng loại thiết bị của nhau.
Tăng cường sự phát triển nguồn nhân lực trong tất cả các lĩnh vực kinh
tế thông qua việc giáo dục có chất lượng, nâng cao tay nghề, kỹ năng và huấn
luyện.
Có những cố gắng tiến tới hệ thống tiêu chuẩn và đánh giá phù hợp ở
cấp độ quốc tế để biến hệ thống này thành một hệ thống hài hoà nhằm tạo
điều kiện dế dàng hơn cho việc chu chuyển thương mại ASEAN thông thoáng
trong khi đáp ứng được nhu cầu về an toàn, y tế và môi trường.
Sử dụng Quỹ hợp tác chuyên ngành ASEAN như một công cụ để giải
quyết vấn đề phát triển kinh tế không đồng đều, nghèo và phân hoá kinh tế-xã
hội.
Tăng cường quan hệ đối tác hải quan ASEAN để tiến tới tiêu chuẩn
quốc tế và mức tốt nhất về hiệu quả, trình độ chuyên môn và dịch vụ và đồng
nhất thông qua việc hài hoà thủ tục, để tăng cường thương mại và đầu tư và
để bảo vệ sức khoẻ và cuộc sống của cộng đồng ASEAN.
Tăng cường thương mại bên trong ASEAN trong lĩnh vực khai khoáng
và thông qua mối liên hệ gần gũi hơn và chia sẻ thông tin về khia khoáng và
khoa học trái đất đóng góp để ASEAN làm chủ được công nghệ cũng như
tăng cường quan hệ hợp tác và đối tác với các bên đối thoại để tạo điều kiện
phát triển và chuyển giao công nghệ trong ngành khai khoáng, đặc biệt trong
nghiên cứu hạ lưu và khoa học trái đất và thiết lập cơ chế thực hiện thích hợp.
Một cộng đồng các xã hội đùm bọc nhau
Chúng tôi hình dung đến năm 2020 toàn bộ Đông Nam châu Á sẽ là
một cộng đồng ASEAN nhận thức được các mối liên hệ lịch sử của mình,
hiểu rõ di sản văn hoá của mình và gắn bó với nhau bằng một bản sắc chung
của khu vực .
Chúng tôi thấy xã hội ASEAN sống động và rộng mở nhất quán với đặc điểm
dân tộc của mỗi nước trong đó mọi người đều được tiếp cận một cách công
bằng các cơ hội để phát triển không phân biệt giới tính, sắc tộc, tôn giáo, ngôn
ngữ, hoặc nguồn gốc văn hoá và xã hội.
Chúng tôi hình dung ASEAN đùm bọc và gắn bó về mặt xã hội ở đó
nạn đói, suy dinh dưỡng, thiếu thốn và nghèo khổ không còn là những vấn đề
cơ bản nữa; ở đó gia đình vững mạnh là những đơn vị cơ bản của xã hội chăm
lo cho các thành viên của gia đình, đặc biệt là trẻ em, thanh niên, phụ nữ và
người cao tuổi; và ở đó xã hội công dân được tăng cường sức mạnh và đặc
biệt quan tâm đến những người có hoàn cảnh thiệt thòi, những người tàn tật,
không nơi nương tựa, và ở đó công lý xã hội và pháp quyền ngự trị.
Chúng tôi thấy một Đông Nam châu Á trước 2020 không có ma tuý,
không sản xuất, chế biến, buôn bán và sử dụng ma tuý.
Chúng tôi hình dung một ASEAN có khả năng cạnh tranh về công
nghệ, nắm được những công nghệ có tầm chiến lược và chủ chốt, với một
nguồn nhân lực thoả đáng có trình độ kỹ thuật và được đào tạo, và có một
mạng lưới mạnh các viện nghiên cứu khoa học và công nghệ và các trung tâm
đầu đàn.
Chúng tôi hình dung một ASEAN sạch và xanh, có cơ chế hoàn toàn
vững chắc cho sự phát triển bền vững, để bảo vệ môi trường và bảo đảm sự
bền vững của các nguồn tài nguyên thiên nhiên của khu vực và chất lượng
cuộc sống cao của nhân dân.
Chúng tôi hình dung Đông Nam châu Á dần đi tới thoả thuận về quy
tắc ứng xử và những biện pháp hợp tác để đối phó với những vấn đề mà chỉ
có thể giải quyết ở cấp độ khu vực, kể cả ô nhiễm và suy thoái môi trường,
buôn bán ma tuý, buôn bán phụ nữ và trẻ em, và các tội phạm xuyên quốc gia
khác.
Chúng tôi hình dung các quốc gia của chúng tôi được quản lý với sự
đồng thuận và sự tham gia rộng rãi hơn của nhân dân mà tiêu điểm là phúc lợi
và nhân phẩm của con người và lợi ích của cộng đồng .
Chúng tôi quyết tâm phát triển và tăng cường các thể chế và cơ chế của
ASEAN để tạo điều kiện thực hiện được Tầm nhìn và đáp ứng những thách
thức của thế kỷ tới.
Chúng tôi cũng thấy cần tăng cường Ban thư ký ASEAN để Ban thư ký
có vai trò lớn hơn, hỗ trợ cho việc thực hiện Tầm nhìn của chúng tôi.
Một ASEAN hướng ngoại
Chúng tôi thấy một ASEAN hướng ngoại đóng một vai trò trung tâm
trong các diễn đàn quốc tế, và thúc đẩy lợi ích chung của ASEAN. Chúng tôi
hình dung một ASEAN tăng cường quan hệ với các nước đối thoại và các tổ
chức khu vực khác trên cơ sở đối tác bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau.
Kết luận
Chúng tôi cam kết với nhân dân chúng tôi sẽ quyết tâm và làm việc
toàn tâm để biến Tầm nhìn ASEAN 2020 thành hiện thực.
Kuala Lumpur
Ngày 15 tháng 12 năm 1997
Phụ Lục 4
Tuyên bố Hà Nội năm 1998
Chúng tôi, những Người đứng đầu Nhà nước và Chính phủ của Hiệp
hội ASEAN tham dự Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội;
nhấn mạnh chủ đề của Hội nghị cấp cao Hà nội là "Đoàn kết và hợp tác vì
một ASEAN hoà bình, ổn định và phát triển đồng đều", và nhắc lại Tầm nhìn
2020 hình dung ASEAN như “một nhóm hài hòa các dân tộc Đông Nam châu
Á rộng mở với bên ngoài, sống trong hòa bình, ổn định và thịnh vượng, gắn
bó với nhau bằng quan hệ đối tác trong phát triển năng động và trong một
cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau"; ý thức được những cơ hội để tiếp
tục tăng trưởng, duy trì hoà bình và thịnh vượng cũng như những thách thức,
nhất là những thách thức do cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính khu vực gây
ra khi ASEAN chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ mới; vững tin vào tinh thần tự
cường quốc gia và khu vực, những cơ sở kinh tế vững chắc của mình, cũng
như khả năng và quyết tâm của nhân dân mình vượt qua những khó khăn mà
các nước và khu vực chúng tôi đang gặp phải.
NAY TUYÊN BỐ:
1. Chúng tôi khẳng định quan điểm cho rằng, ASEAN là một thực thể không
thể thiếu được đối với hoà bình và thịnh vượng khu vực, là một hiệp hội có
lịch sử phát triển năng động và hợp tác chặt chẽ, một lực lượng bảo vệ hoà
bình và ổn định ở khu vực.
2. Chúng tôi đã quyết định kết nạp Vương quốc Campuchia thành thành viên
thứ 10 của Hiệp hội ASEAN và đã chỉ thị cho các Ngoại trưởng tổ chức lễ kết
nạp đặc biệt tại Hà Nội.
3. Chúng tôi ghi nhận thành công của ASEAN trong việc thúc đẩy hoà bình
và ổn định khu vực dựa trên các nguyên tắc chủ yếu là tôn trọng lẫn nhau,
không can thiệp, đồng thuận, đối thoại và tham khảo ý kiến, góp phần to lớn
vào sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế và phát triển về xã hội của đất
nước chúng tôi trong nhiều năm qua. Chúng tôi sẽ không chỉ thoả mãn với
việc duy trì hoà bình khu vực mà sẽ tìm cách thường xuyên tăng cường quan
hệ giữa các nước thành viên với nhau.
4. Chúng tôi nhận thấy rằng, những biến động kinh tế và tài chính hiện đang
tác động đến kinh tế và xã hội của chúng tôi đã đẩy lùi nhiều thành quả mà
đất nước và Hiệp hội chúng tôi đã đạt được. Hợp tác và đoàn kết ngày càng
chặt chẽ hơn, chúng tôi sẽ vượt qua những khó khăn kinh tế và xã hội.
5. Chúng tôi sẽ đưa hợp tác khu vực ASEAN lên tầm cao mới để đối phó có
hiệu quả với những thách thức do tính tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng
trong ASEAN và sự hội nhập với nền kinh tế thế giới đang đặt ra. Chúng tôi
cam kết sẽ tăng cường đối thoại về những vấn đề còn tồn tại và đang nổi lên,
củng cố hơn nữa tình đoàn kết trong sự đa dạng, sự gắn bó và sự hoà hợp.
6. Chúng tôi cam kết sẽ thúc đẩy công cuộc cải cách kinh tế và tài chính nhằm
củng cố các nền kinh tế. Chúng tôi tin rằng, những nỗ lực cải cách ở từng
nước phải được thúc đẩy hơn nữa bằng cuộc cải cách trên phạm vi toàn cầu
nhằm giải quyết những khâu yếu nhất trong hệ thống tài chính quốc tế và
hoan ngênh những đóng góp của Nhóm-22 trong lĩnh vực này. Chúng tôi
khẩn thiết kêu gọi phải tiến hành các hoạt động trong khuôn khổ Nhóm - 22
hoặc nhóm nước lớn hơn trên cơ sở Nhóm - 22. ASEAN sẽ tiếp tục đóng vai
trò tích cực trong cộng đồng quốc tế để thúc đẩy nhanh chóng việc xây dựng
và thực hiện các cuộc cải cách kinh tế.
7. Cộng đồng quốc tế cũng có trách nhiệm tiếp tục ủng hộ những nỗ lực cải
cách của chúng tôi thông qua viện trợ song phương và đa phương, kể cả tìm
cách tiếp cận mới, sáng tạo nhằm khuyến khích dòng đầu tư vốn tư nhân trở
lại khu vực. Trong bối cảnh đó, chúng tôi hoan nghênh Kế hoạch Miyazawa
và Sáng kiến giúp châu á khôi phục và tăng trưởng nhằm tăng cường sự phát
triển của khu vực tư nhân tại Châu Á. Chúng tôi mong muốn những kế hoạch
này được thực hiện nhanh chóng.
8. Chúng tôi công nhận rằng, khủng hoảng kinh tế còn có khía cạnh xã hội,
tầng lớp dân nghèo và dễ bị tổn thương của xã hội bị tác động lớn nhất. Trong
lĩnh vực này, chúng tôi sẽ cố bảo đảm rằng những nỗ lực nhằm bảo vệ lợi ích
của tầng lớp dân nghèo sẽ là một bộ phận không thể thiếu được của những nỗ
lực cải cách của chúng tôi. Chúng tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế dành sự viện
trợ kỹ thuật và tài chính cho lĩnh vực này cũng như bảo đảm rằng những cải
cách trong hệ thống tài chính quốc tế bao gồm cả khía cạnh xã hội để bảo vệ
tầng lớp dân nghèo.
9. Chúng tôi cam kết thúc đẩy hơn nữa sự liên kết kinh tế coi đó là biểu hiện
chủ yếu của mối quan hệ hợp tác và tình đoàn kết giữa chúng tôi với nhau.
10. Nhằm mục tiêu đó, chúng tôi sẽ làm hết sức mình để nhanh chóng khôi
phục sự ổn định về tài chính và kinh tế vĩ mô, sớm phục hồi kinh tế và duy trì
tăng trưởng lâu dài. Theo đó, ASEAN đã đưa vào vận hành Quy chế giám sát
trên nguyên tắc bình đẳng, nhấn mạnh những rủi ro mới nổi lên, đưa ra những
kiến nghị chính sách để đối phó thích hợp, và khuyến khích việc sớm đưa ra
biện pháp hành động để tránh những rủi ro đó.
11. ASEAN sẽ tiếp tục mở cửa thị trường vì nhận thức được rằng mấu chốt
cho việc củng cố và ổn định tiền tệ và các nền kinh tế khu vực là thu hút các
đầu tư dài hạn. ASEAN cũng khẳng định sự cam kết tự do hoá và tạo thuận
lợi cho thương mại và đầu tư, ở cấp độ khu vực và cấp độ đa phương, và sẽ
tiếp tục các biện pháp cụ thể để thực hiện các mục tiêu này.
12. Chúng tôi quyết tâm thực hiện đúng tiến độ Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA) và các chương trình và dự án đã thông qua. Ngoài ra, chúng
tôi sẽ tìm cách sớm thực hiện AFTA và nhanh chóng triển khai Kế hoạch hợp
tác công nghiệp ASEAN (AICO). Chúng tôi sẽ mở rộng chế độ đầu tư thông
qua việc thực hiện Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), tăng sức hấp dẫn của khu
vực về đầu tư bằng cách áp dụng các chính sách và luật đầu tư nhất quán.
13. Chúng tôi khuyến khích việc sử dụng rộng rãi hơn các đồng tiền của các
nước ASEAN trong trao đổi mậu dịch giữa các nước ASEAN.
14. Chúng tôi sẽ xây dựng và củng cố cơ sở hạ tầng khu vực thông qua việc
xây dựng mạng lưới đường dây tải điện, đường ống dẫn nước và khí đốt, và
mở rộng liên kết giao thông và viễn thông. Cơ cấu hạ tầng chất lượng cao và
có hiệu quả sẽ tăng cường khả năng cạnh tranh của ASEAN.
15. Chúng tôi sẽ cố gắng thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các
nước thành viên và giảm thiểu nạn nghèo đói và sự chênh lệch về kinh tế và
xã hội thông qua việc tăng cường sự hợp tác tiểu khu vực.
16. Chúng tôi sẽ bảo đảm an ninh lương thực trong khu vực và tăng cường
khả năng cạnh tranh của lĩnh vực lương thực, nông - lâm nghiệp bằng cách
tăng năng suất lao động, đẩy mạnh thương mại giữa các nước trong Hiệp hội
và với các nước bên ngoài, và tăng cường đầu tư tư nhân.
17. Chúng tôi sẽ khuyến khích giới doanh nghiệp tham gia tích cực và đóng
góp có hiệu quả vào việc hoạch định chính sách và sáng kiến nhằm vượt qua
khủng hoảng. Quan hệ đối tác gần gũi giữa chính phủ và khu vực tư nhân ở
các nước ASEAN sẽ là điều kiện thiết yếu giúp khu vực phục hồi và thịnh
vượng.
18. Theo hướng này, ASEAN kêu gọi các nước và thể chế tài chính quốc tế có
liên quan tiếp tục hỗ trợ các nước bị khủng hoảng khôi phục kinh tế thông qua
viện trợ phát triển, tăng luồng đầu tư tư nhân, mở rộng hơn thị trường đối với
hàng hoá xuất xứ từ khu vực ASEAN, tăng cường chuyển giao công nghệ và
hợp tác phát triển nguồn nhân lực.
19. Việc duy trì và tạo việc làm sẽ là mối quan tâm hàng đầu trong chiến lược
phục hồi và tăng trưởng kinh tế của chúng tôi. Điểm cốt lõi của vấn đề này là
những nỗ lực hợp tác toàn diện nhằm đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu và
nắm bắt thời cơ của nền công nghiệp hiện nay cũng như trong tương lai.
20. Chúng tôi sẽ tiếp tục hợp tác và tăng cường năng lực của ASEAN trong
lĩnh vực khoa học và công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông
tin. Để đạt được mục tiêu này, chúng tôi sẽ xây dựng Cơ cấu hạ tầng thông
tin.
21. Chúng tôi công nhận rằng, mục tiêu cuối cùng của công cuộc phát triển
kinh tế là nâng cao mức sống và nâng cao sự phát triển của con người trên
mọi lĩnh vực để tạo điều kiện cho nhân dân ASEAN có đầy đủ cơ hội biến
tiềm năng của mình thành hiện thực.
22. Việc xoá đói giảm nghèo sẽ là mục tiêu cuối cùng của chiến lược phục hồi
và tăng trưởng, và phát triển các vùng nông thôn sẽ là phương tiện chủ yếu để
đạt được mục tiêu đó. Chúng tôi sẽ hợp tác chặt chẽ với nhau để xoá đói giảm
nghèo và phát triển vùng nông thôn và các vùng sâu, vùng xa cũng như khu
vực chậm phát triển liên quốc gia.
23. Chúng tôi sẽ tăng cường và thúc đẩy mối quan hệ liên kết giữa các thiết
chế của ASEAN trong việc chống lạm dụng và buôn lậu ma tuý để xoá bỏ
những hoạt động sản xuất, chế biến, buôn lậu và sử dụng ma tuý vào năm
2020.
24. Chúng tôi sẽ cùng bảo đảm rằng, nhân dân chúng tôi sẽ được chữa bệnh
và có được thuốc men thiết yếu. Chúng tôi sẽ tăng cường hợp tác trong việc
kiểm soát và phòng chống các bệnh truyền nhiễm, kể cả HIV/AIDS.
25. Bảo vệ môi trường sẽ là một bộ phận thiết yếu của hoạt động kinh tế của
chúng tôi để bảo đảm sự bền vững trong phát triển. Chúng tôi sẽ củng cố và
phát huy những thành quả đã đạt được trong việc kiểm soát và ngăn chặn ô
nhiễm xuyên biên giới, đặc biệt là nạn khói mù do nạn cháy than bùn và cháy
rừng gây ra.
26. Chúng tôi sẽ tăng cường những nỗ lực chung và riêng để đối phó với
những tội ác xuyên quốc gia như buôn ma tuý, rửa tiền, khủng bố, cướp biển,
buôn vũ khí và buôn người.
27. Chúng tôi sẽ củng cố lòng tin vào đất nước mình bằng cách tiếp tục duy
trì quan hệ hữu nghị giữa chúng tôi với nhau và củng cố an ninh khu vực
Đông Nam châu Á.
28. Để đạt được mục tiêu này, chúng tôi sẽ nhanh chóng phê chuẩn Nghị định
thư thứ hai của Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Châu Á để tạo
điều kiện cho các nước ngoài khu vực gia nhập Hiệp ước trong thời gian sớm
nhất. Chúng tôi sẽ tăng cường tham khảo ý kiến với các nước có vũ khí hạt
nhân để các nước này gia nhập Nghị định thư của Hiệp định Đông Nam Châu
Á không có vũ khí hạt nhân.
29. Chúng tôi sẽ cố gắng sớm giải quyết, theo phương cách ASEAN và phù
hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, các vấn đề do lịch sử để lại và ngăn
chặn không để xẩy ra tranh chấp mới.
30. Chúng tôi sẽ đẩy mạnh những nỗ lực nhằm giải quyết tranh chấp ở Biển
Đông bằng biện pháp hoà bình phù hợp với luật pháp quốc tế, kể cả Công ước
năm 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển, và theo tinh thần của Tuyên bố
của ASEAN về biển Đông năm 1992. Chúng tôi kêu gọi các bên liên quan
kiềm chế và tránh có những hành động phương hại đến hoà bình, an ninh và
ổn định ở Đông Nam Á và Châu Á-Thái Bình Dương.
31. Chúng tôi hoan nghênh những nỗ lực nhằm phát triển quan hệ lâu dài có
tính xây dựng giữa các nước lớn. ASEAN sẽ tăng cường quan hệ đối thoại và
hợp tác với các nước khác cũng như các tổ chức khu vực và quốc tế trên cơ sở
bình đẳng, không can thiệp, tôn trọng lẫn nhau và các bên cùng có lợi.
32. Chúng tôi sẽ củng cố Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) như một diễn đàn
đối thoại về vấn đề chính trị và an ninh, và quan hệ hợp tác ở khu vực châu á -
Thái Bình dương. ASEAN sẽ tiếp tục duy trì và tăng cường vai trò chủ đạo
ARF, và củng cố tình đoàn kết và vai trò điều phối của mình trong ARF.
33. Để cải thiện môi trường đầu tư và thương mại của ASEAN, các nhà đầu tư
và đối tác thương mại sẽ được hưởng một loạt các biện pháp đẩy mạnh và ưu
đãi. Theo đó, chúng tôi yêu cầu các Bộ trưởng thực hiện đồng bộ các biện
pháp đẩy mạnh bắt đầu từ ngày 1/1/1999.
34. Nay, chúng tôi thông qua Chương trình hành động Hà Nội và giao các Bộ
trưởng và Quan chức cao cấp triển khai thực hiện Chương trình hành động
này. Chúng tôi thoả thuận rằng, sẽ tiến hành kiểm điểm tiến trình thực hiện
vào năm 2001, ba năm sau khi thông qua.
Hà nội, ngày 16 tháng 12 năm 1998