ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

HOÀNG NGỌC THẮNG

Kế thừa và phát triển trong việc xây dựng

nền văn hóa mới ở Việt Nam hiện nay theo

tư tưởng Hồ Chí Minh

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Luân

HÀ NỘI - 2007

MỤC LỤC

Mở đầu 3

Chương 1. Quan điểm Hồ Chí Minh về sự cần thiết kế thừa và phát

triển trong xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam 9

1.1. Kế thừa và phát triển trong phép biện chứng duy vật. 9

1.1.1. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về kế thừa và phát triển. 9

1.1.2. Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm triết học Mác - Lênin 12

về kế thừa và phát triển.

1.2. Khái niệm văn hoá và tính cần thiết kế thừa và phát triển trong 14

xây dựng nền văn hoá mới.

1.2.1.Khái niệm văn hoá. 14

1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính cần thiết kế thừa và phát triển

văn hoá trong xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam. 17

Chương 2. Nội dung của sự kế thừa và phát triển trong tư tưởng Hồ

Chí Minh về xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam 27

2.1. Một số giá trị cơ bản của truyền thống văn hóa dân tộc. 27

2.2. Những đặc trưng của văn hóa hiện đại 31

2.3. Kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc tiếp thu

những yếu tố tiên tiến của văn hoá thế giới trong tư tưởng văn hóa Hồ

Chí Minh 34

Chương 3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá trong điều

49 kiện Việt Nam hiện nay

3.1. Xây dựng một nền văn hoá giàu bản sắc, mang đậm truyền thống

49 dân tộc là nền tảng cơ bản.

3.1.1. Một nền văn hoá Việt Nam luôn nêu cao chủ nghĩa yêu nước,

49 lòng tự hào dân tộc.

3.1.2. Nền văn hoá biết tôn trọng đạo đức, đề cao vai trò giáo dục

. 1

bằng đạo đức. 51

3.1.3. Bảo tồn những giá trị nhân nghĩa nhân đạo trong truyền thống

dân tộc. 55

3.1.4. Nêu cao truyền thống đoàn kết nhất trí trong sự nghiệp đấu

tranh, bảo vệ nền độc lập dân tộc. 57

3.2. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến hoà nhập với dòng chảy văn hoá

nhân loại. 59

3.2.1. Xây dựng nền văn hoá lấy giá trị truyền thống làm nền tảng. 59

3.2.2. Biết học tập những giá trị tốt đẹp trong văn hoá nhân loại làm

giàu cho nền văn hoá dân tộc. 62

3.2.3. Trong việc tiếp thu những giá trị tích cực cần phải loại trừ

những yếu tố tiêu cực hoặc có ảnh hưởng không tốt với nền văn hoá

Việt Nam. 64

3.2.4. Văn hoá Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ

nam cho hành động. 66

Kết luận 70

Danh mục tài liệu tham khảo 72

. 2

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Phát triển bền vững từ lâu đã trở thành mục tiêu xuyên suốt trong chiến

lược phát triển của các quốc gia, dân tộc. Bên cạnh sự phát triển bền vững về

môi trường sinh thái, phát triển bền vững về môi trường xã hội là một trong

những nội dung và điều kiện cơ bản của phát triển xã hội bền vững. Trong đó,

xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc là một trong

những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển của quốc gia, dân tộc.

Tăng trưởng kinh tế nhưng không giữ được văn hóa truyền thống là sự tăng

trưởng mất gốc (rootless growth). Vì vậy, bề dày của văn hóa truyền thống

được xem như là “sức bật”, động lực bên trong của sự phát triển.

Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nhiệm vụ

hàng đầu, không thể thiếu trong chiến lược phát triển. Nhiệm vụ đó đã và

đang được đặt ra trong bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra một cách mạnh mẽ

và sâu rộng, trong bối cảnh đó tất yếu các nền văn hóa khác nhau có sự tiếp

xúc biến đổi và được gọi là tiếp biến văn hóa (acculturation). Trong quá trình

tiếp biến văn hóa ấy, tiếp thu một cách có chọn lọc những giá trị của các nền

văn hóa khác nhưng phải giữ được những giá trị tích cực của văn hóa truyền

thống là một bài toán khó, luôn thường trực trong tư duy, hoạch định đường

lối chính sách phát triển của mỗi quốc gia dân tộc.

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chứng minh

rằng đằng sau những cuộc xâm lược là sự “xâm lăng” văn hóa. Trong những

chiến thắng oai hùng của dân tộc trước quân xâm lược thì có một chiến thắng

âm thầm, ít được nhắc tới đó là chiến thắng về mặt văn hóa và kết quả là văn

hóa Việt Nam không những không bị đồng hoá mà trái lại vẫn đứng vững và

ngày càng khẳng định một cách rõ nét bản sắc riêng của mình.

. 3

Thắng lợi đó là công lao của nhiều tầng lớp trong xã hội, trong đó phải

nhắc đến vai trò chủ yếu, to lớn của các chí sỹ yêu nước; của các vị lãnh tụ

trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể.

Bề dày lịch sử của cuộc đấu tranh xây dựng và gìn giữ, phát triển văn

hóa truyền thống dân tộc ấy đã để lại cho chúng ta kho tàng các bài học kinh

nghiệm quý báu. Vì vậy, nghiên cứu và khảo sát các bài học kinh nghiệm lịch

sử nói chung và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa

tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc là một việc làm cần thiết, hữu ích

cho việc xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong bối cảnh giao lưu và

hội nhập quốc tế hiện nay đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ.

Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng giải phóng

dân tộc. Tuy vậy con đường giải phóng dân tộc của Người lại mang những

đặc trưng riêng so với con đường giải phóng dân tộc của các nhà cách mạng

khác. Một trong những nét đặc trưng đó là việc xây dựng và vận dụng sức

mạnh của văn hoá dân tộc vào sự nghiệp cách mạng, góp phần giải phóng xã

hội, giải phóng con người.

Hồ Chí Minh với cách nhìn biện chứng sâu sắc đã nhìn thấy sức mạnh

thực sự của văn hoá trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Văn hoá

cũng giống như mạch nguồn đã chảy qua hàng ngàn năm lịch sử và từ đó tạo

ra sức mạnh nội sinh của mỗi dân tộc. Kế thừa có chọn lọc những giá trị tinh

hoa văn hóa nhân loại để xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc chính là để

tăng cường sức mạnh nội sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chắc chắn

đó là bài học vẫn còn nguyên giá trị cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại

hoá Việt Nam hiện nay.

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng nền văn hoá

Việt Nam, rút ra những bài học mang tính phương pháp luận là một việc làm

cần thiết để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

. 4

trong bối cảnh toàn cầu hoá, quốc tế hoá với mục tiêu xây dựng đất nước ta

ngày càng ấm no, tự do, hạnh phúc.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hiện nay trên lĩnh vực lý luận nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về

xây dựng và phát triển văn hóa nói riêng đã được khảo cứu trong nhiều công

trình khác nhau. Trong khuôn khổ luận văn này chúng tôi xin điểm qua một

số công trình tiêu biểu.

Võ Nguyên Giáp trong tác phẩm “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con

đường cách mạng Việt Nam” tập hợp, hệ thống hoá những luận điểm khoa

học trong di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh. Công trình đã đề cập đến tư

tưởng Hồ Chí Minh trên nhiều khía cạnh khác nhau trong đó có tư tưởng về

nhân văn, đạo đức và văn hoá của Hồ Chí Minh. Cuốn sách cho thấy rằng “tư

tưởng Hồ Chí Minh là niềm tin, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt

Nam, là di dản vô cùng quý báu Người để lại cho Đảng ta, dân tộc ta.” [1,

tr.11].

“Văn hoá Việt Nam - tìm tòi và suy ngẫm” của Trần Quốc Vượng là

tập hợp những bài viết về văn hoá Việt Nam và về các danh nhân văn hoá

trong đó có chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo Trần Quốc Vượng, Chủ tịch Hồ Chí

Minh là “biểu tượng và người mang chở những giá trị văn hoá Đông - Tây

kim cổ” [21, tr.344].

“Bản sắc văn hoá Việt Nam” là tác phẩm tập hợp những bài viết của

nhà nghiên cứu Phan Ngọc về văn hoá Việt Nam trong quá trình giao lưu văn

hoá và bảo vệ, phát huy các giá trị văn hoá trong đời sống xã hội. Tác giả

trong tác phẩm này đã có cách nhìn khá chính xác khi đánh giá tư tưởng Hồ

Chí Minh đựoc nhìn nhận như là “đỉnh cao của văn hoá Việt Nam” [3, tr.79].

Nguyễn Trọng Chuẩn, trong tác phẩm “Một số vấn đề về triết học -

con người và xã hội” có quan điểm khá tương đồng với UNESCO khi đánh

giá về tư tưởng của Hồ Chí Minh nói chung, và tư tưởng về văn hoá nói riêng

. 5

của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh “đã có những đóng góp lớn lao cho văn hóa

Việt Nam và văn hóa nhân loại” [4, tr.814]

Phạm Minh Hạc trong bài “Phát triển văn hoá, giữ gìn và phát huy bản

sắc văn hoá dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại” thuộc

“Tài liệu bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị” năm 1995 đã nhìn nhận tư

tưởng Hồ Chí Minh như là “đỉnh cao mới của văn hoá và là hiện thân kết tinh

truyền thống văn hoá Việt Nam” [8,tr.158].

Đỗ Huy trong “Nhận diện văn hóa Việt Nam và sự biến đổi của nó

trong thế kỷ XX” đã có hệ thống các luận điểm khá chi tiết về văn hóa Việt

Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, những đóng góp của Hồ Chí Minh

trong việc xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam. Tư tưởng văn hóa Hồ Chí

Minh không chỉ mang “tính giai cấp, dân tộc, nhân loại… văn hóa còn là kết

tinh bản chất loài của con người vượt qua những giới hạn của các quan hệ lịch

sử cụ thể” [11, tr.235].

Như vậy, các công trình khoa học trên đề cập đến tư tưởng Hồ Chí

Minh về văn hóa khá toàn diện và hệ thống. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có

một chuyên khảo, chuyên luận nào khai thác khía cạnh phương pháp biện

chứng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng nền văn hóa

Việt Nam. Tiếp cận, khai thác tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng

nền dân tộc ở khía cạnh phương pháp luận biện chứng là một công việc khó,

đòi hỏi có sự tham gia đóng góp của nhiều công trình nghiên cứu. Trong

khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chỉ tập trung khai thác tư tưởng Hồ Chí

Minh về văn hóa dưới góc độ phương pháp luận phủ định biện chứng. Với lý

do đó chúng tôi xác định đề tài nghiên cứu của mình là “Kế thừa và phát triển

trong việc xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ

Chí Minh”.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

. 6

Mục tiêu: Trên cơ sở phân tích làm rõ kế thừa và phát triển trong tư

tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hoá Việt Nam. Luận văn đề xuất

những quan điểm, giải pháp vận dụng tư tưởng đó vào thực tiễn xây dựng nền

văn hóa Việt Nam trong điều kiện hiện nay.

Nhiệm vụ:

Để có thể đạt mục tiêu trên, luận văn giải quyết một số nhiệm vụ sau:

- Trình bày khái quát nguyên lý của triết học Mác - Lênin về phủ định

biện chứng, ý nghĩa phương pháp luận của nó trong việc nhìn nhận, khảo cứu

các quá trình phát triển nói chung và phát triển văn hóa nói riêng.

- Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về kế thừa và phát huy giá trị

tích cực của văn hoá truyền thống.

- Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về tiếp thu có chọn lọc các giá trị

văn hoá tiên tiến trên thế giới.

- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng văn hoá Việt

Nam trong điều kiện hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng Hồ Chí Minh về xây

dựng nền văn hoá Việt Nam.

- Đối tượng nghiên cứu của luận văn được khảo sát trong toàn bộ lịch

sử của sự hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.

5. Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở nghiên cứu

- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp

luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng

và nhà nước.

- Luận văn cũng được thực hiện trên cơ sở kế thừa một số công trình

nghiên cứu khoa học có liên quan.

* Phương pháp nghiên cứu

. 7

- Luận văn được nghiên cứu và trình bày trên cơ sở phương pháp luận

phép biện chứng duy vật, và một số phương pháp khác như phân tích - tổng

hợp, lôgic - lịch sử.

6. Đóng góp của luận văn

- Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học làm phong phú và

làm rõ thêm những vấn đề phương pháp luận trong việc nghiên cứu tư tưởng

Hồ Chí Minh về văn hoá Việt Nam.

- Với việc làm rõ phương pháp luận phủ định biện chứng trong tư

tưởng Hồ Chí Minh và xây dựng nền văn hóa Việt Nam, chắc chắn luận văn

có nhưng gợi mở quan trọng cho việc hoạch định chiến lược phát triển văn

hóa Việt Nam hiện nay.

- Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho những người nghiên

cứu, giảng dạy và học tập trong lĩnh vực tư tưởng Hồ Chí Minh.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được kết cấu thành 3 chương:

- Chương 1: Quan điểm Hồ Chí Minh về sự cần thiết kế thừa và phát

triển trong xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam.

- Chương 2: Nội dung kế thừa và phát triển trong tư tưởng Hồ Chí

Minh về xây dựng nền văn hoá mới

- Chương 3: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá trong điều

kiện Việt Nam hiện nay

. 8

. 9

Chương 1

QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ CẦN THIẾT

KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN TRONG XÂY DỰNG

NỀN VĂN HOÁ MỚI VIỆT NAM

1.1. Kế thừa và phát triển trong phép biện chứng duy vật

1.1.1. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về kế thừa và phát triển

Phép biện chứng là tài sản vô cùng giá trị của triết học Mác nói riêng và

chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung. Có thể nói phép biện chứng là linh hồn của

triết học Mác - Lênin.

Kế thừa phương pháp luận duy vật biện chứng của triết học Mác -

Lênin là một yêu cầu tất yếu nếu muốn trang bị cho mình một phương pháp

luận khoa học. Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh:

“Toàn bộ quan điểm của Mác không phải là một học thuyết mà là một

phương pháp, nó không đưa ra những giáo điều định sẵn mà là những điểm

xuất phát cho việc nghiên cứu thêm và phương pháp cho việc nghiên cứu

này” [17, tr.808].

Còn V.I. Lênin, người phát triển học thuyết C.Mác thì nhận định:

“Những người Macxit chắc chắn là chỉ mượn của học thuyết Mác

những phương pháp quí báu mà nếu không có thì không thể hiểu được những

quan hệ xã hội”[34, tr.239]

Thế giới không chỉ thống nhất ở tính vật chất mà còn thống nhất ở tính

biện chứng vốn có của nó. Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ

biến và sự phát triển. Trong phép biện chứng có nhiều nội dung và khía cạnh

khác nhau nhưng trong phạm vi luận văn chúng tôi chỉ đề cập đến khía cạnh

kế thừa và phát triển cho phù hợp với phạm vi luận văn nghiên cứu.

Sự vật hiện tượng trong thế giới có mối liên hệ, tác động lẫn nhau. Sự

liên hệ, tác động đó là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.

. 10

Ph. Ăngghen khẳng định:

“Tất cả thế giới tự nhiên mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một hệ

thống, một tập hợp các vật thể khăng khít với nhau… Việc các vật thể ấy đều

có liên hệ với nhau đã có nghĩa là các vật thể này tác động lẫn nhau và sự tác

động qua lại ấy chính là sự vận động” [16, tr.230]

“Vận động” không đồng nhất với “phát triển”. Sự vận động của sự vật

hiện tượng đa dạng, phong phú, vô tận và có nhiều khuynh hướng,kết quả

khác nhau. Vận động đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn

thiện đến hoàn thiện. Đó là sự vận động theo hướng tiến lên và sự vận động

theo hướng thụt lùi, đi xuống.

Vận động có nhiều hình thức cơ bản và “đều do bản chất của những

vật thể đang vận động mà ra” [14, tr.743].

Khái niệm “vận động” chỉ phản ánh sự biến đổi nói chung, còn

khái niệm “phát triển” phản ánh tính chất, khuynh hướng tiến lên của sự biến

đổi nói chung ấy.

V.I. Lênin viết hai quan niệm cơ bản về sự phát triển (sự tiến hoá): “sự

phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như là lặp lại và sự phát triển coi như

là sự thống nhất của các mặt đối lập…

Với quan niệm thứ nhất về sự vận động, sự tự vận động, động lực của

nó, nguồn gốc của nó, động cơ của nó nằm trong bóng tối…Với quan niệm

thứ hai sự lưu ý chủ yếu lại hướng chính vào sự nhận thức nguồn gốc của tự

vận động. Quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô khan, quan niệm

thứ hai là sinh động. Chỉ có quan niệm thứ hai mới cho ta chìa khoá của sự tự

vận động của tất cả mọi cái đang tồn tại, chỉ có nó mới cho ta chìa khoá của

những bước nhảy vọt, của sự gián đoạn của tính phiến diện, sự chuyển hoá

thành mặt đối lập, sự tiêu diệt cái cũ và nảy sinh cái mới. Theo quan điểm của

V.I.Lênin nếu tất cả đều phát triển thì tức là tất cả đều chuyển hoá từ cái nọ

sang cái kia, bởi vì như người ta đã biết, sự phát triển không phải là một sự

. 11

lớn lên, một sự tăng thêm… đã như vậy thì… phải hiểu một cách chính xác

hơn sự tiến hoá là sự sinh ra và sự huỷ diệt của mọi vật, là những sự chuyển

hoá lẫn nhau” [14, tr.270].

“Bản thân sự vận động đã là một mâu thuẫn; ngay như sự di động một

cách máy móc và đơn giản sở dĩ có thể thực hiện được cũng chỉ là vì một vật

trong cùng một lúc vừa ở nơi này lại vừa ở nơi khác…Và sự nảy sinh thường

xuyên và việc giải quyết đồng thời mâu thuẫn này - đó cũng chính là sự vận

động…”. [14, tr.173].

Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định sự phát triển là một phạm

trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn

giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.

Theo quan điểm đó phát triển chỉ bao quát xu hướng vận động đi lên

của sự vật, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ. Sự phát triển chỉ là một

trường hợp đặc biệt của sự vận động.

Sự phát triển diễn ra không ngừng trong thế giới tự nhiên, trong xã hội

và trong bản thân con người, trong tư duy. Đó là khuynh hướng chung của

mọi sự vật, hiện tượng.

Sự phát triển có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong

phú.

Mỗi sự vật lại có sự phát triển không giống nhau.Điều đó phụ thuộc

vào không gian - thời gian khác nhau và những yếu tố tác động khác nhau.

Quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng luôn chịu sự tác động và

diễn ra tuân theo quy luật khách quan. Phép biện chứng duy vật khách quan

khái quát được ba quy luật của sự phát triển khách quan ấy. Phát triển có

nguồn gốc, động lực từ sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Sự

phát triển không phải do ý chí con người áp đặt mà có nguồn gốc từ những

mâu thuẫn (kể cả mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài) của chính sự

vật và hiện tượng.

. 12

Phát triển theo Từ điển Tiếng Việt là sự “Biến đổi hoặc làm cho biến

đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp”.[26,

tr.769]

Bên cạnh đó:

“Kế thừa là thừa hưởng, giữ gìn và tiếp tục phát huy (cái có giá trị tinh

thần)”[36, tr.486]

Phát triển không chỉ đơn thuần là sự tăng lên về lượng hay sự tiến hóa

mà phát triển là sự thống nhất giữa thay đổi về lượng và những bước nhảy

vọt về chất. Do sự tác động của quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến

những thay đổi về chất này, sự phát triển của sự vật, hiện tượng biểu hiện ra

như một quá trình biện chứng thống nhất mang tính liên tục và đứt đoạn, giữa

tiệm tiến và nhảy vọt.

Đặc trưng quan trọng nữa của sự phát triển là sự ra đời của cái mới thay

thế cái cũ. Cái mới ra đời không phải là sự đoạn tuyệt hoàn toàn với cái cũ mà

nó luôn kế thừa một cách có chọn lọc những yếu tố tích cực của cái cũ, cải tạo

nó cho phù hợp với cái mới. Nói cách khác, phát triển luôn chịu sự chi phối

của quy luật phủ định biện chứng.

Quá trình kế thừa cho thấy sự khẳng định những mặt tốt và những mặt

tích cực, đồng thời phủ định những mặt tiêu cực, lạc hậu.

Kế thừa chính là sợi dây liên hệ giữa cái cũ và cái mới, sự vật cũ và sự

vật mới, khẳng định và phủ định, quá khứ với hiện thực…

1.1.2. Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm triết học Mác -

Lênin về kế thừa và phát triển

Chúng ta biết, suy cho cùng, triết học và sức mạnh của triết học là ở

phương pháp luận của nó.

. 13

Mọi sự vật hiện tượng mới ra đời đều dựa trên sự kế thừa những nhân

tố tích cực của các sự vật cũ. Do vậy cần phải luôn biết phát hiện cái và giúp

đỡ cái mới ra đời, chọn lọc cái cũ có giá trị phục vụ cho hiện tại và biết trân

trọng những giá trị của quá khứ. Ngoài ra phải khắc phục những tư tưởng trì

trệ, lỗi thời, bảo thủ cản trở quá trình phát triển.

Quan điểm về sự phát triển cho chúng ta bài học về tránh tuyệt đối hoá

nhận thức. Nếu rơi vào tuyệt đối hoá nhận thức sẽ làm cho thực tiễn không

thể phát triển và thực tiễn dậm chân tại chỗ.

Quan điểm phát triển yêu cầu phải thấy rõ khuynh hướng phát triển

trong tương lai của sự vật hiện tượng từ sự khái quát những khuynh hướng

cho sự biến đổi đó.

Phép biện chứng mácxít chỉ ra rằng, bản chất của phát triển là sự vận

động theo hướng đi lên của bản thân sự vật, của giới tự nhiên,của con người

và của xã hội. Nguyên lý của sự phát triển là sự biến đổi về lượng dẫn đến sự

biến đổi về chất, tạo nên mâu thuẫn trong bản thân sự vật và sự phủ định của

phủ định tạo nên bước nhảy vọt, đưa sự vật này chuyển sang sự vật khác mới

cao hơn về chất. Trong quá trình đó bao hàm cả sự kế thừa những mặt tích

cực tiến bộ, mà quá trình chuyển hoá đã làm thay đổi từ sự vật cũ sang sự vật

mới. Đó là một tiến trình mang tính khách quan, vô tận và làm cho thế giới

ngày càng hoàn thiện.

Nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân tích một cách khoa học

và chỉ ra quá trình phát triển biện chứng từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ cho

đến các xã hội ở trình độ cao hơn. Hơn thế, nguyên lý còn chỉ ra rằng xã hội

được cấu thành bởi những quan hệ chặt chẽ và phức hợp giữa con người và

con người, con người và xã hội, con người và tự nhiên.Sự phát triển xã hội

diễn ra bởi những mâu thuẫn cơ bản giữa sản xuất và tiêu dùng, nhu cầu và

khả năng… Do đó, động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội sẽ có rất nhiều yếu

tố trong đó nền sản xuất vật chất là nền tảng, là yếu tố cơ bản. Bên cạnh đó,

. 14

nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ ra rằng sự giải phóng và phát

triển con người, của lực lượng sản xuất và tương xứng với sự phát triển của

quan hệ sản xuất. Khẳng định vai trò quyết định của lực lượng sản xuất nhưng

chủ nghĩa Mác - Lênin không hề coi nhẹ các yếu tố khác trong đó đặc biệt là

lĩnh vực văn hóa. Văn hóa và một sô yếu tố khác cũng được coi như là nguồn

động lực mạnh mẽ cho sự phát triển con người và toàn bộ xã hội.

Chủ nghĩa Mác - Lênin với quan điểm phát triển là sự phát triển những

yếu tố nội sinh kết hợp ngoại sinh, con người, xã hội và tự nhiên … Tất cả

những yếu tố đó đều mang tính tổng hợp và toàn diện.

Với cách nhìn sự vật mang tính biện chứng như vật Hồ Chí Minh đã kế

thừa và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc xây dựng

một xã hội mới, một đất nước mới, một diện mạo mới và một sức sống mới.

1.2. Khái niệm văn hoá và tính cần thiết kế thừa và phát triển

trong xây dựng nền văn hoá mới

1.2.1. Khái niệm văn hoá

Trong tiếng Việt, “theo nghĩa thông dụng thì văn hóa chính là học

thức(trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa) hoặc theo nghĩa chuyên

biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (như văn hóa Đông Sơn…)

Theo nghĩa rộng thì văn hóa gồm tất cả những sản phẩm tinh vi hiện

đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động” [34, tr.56].

Có thể nói cách hiểu thứ nhất chưa phản ánh đầy đủ bản chất của văn

hóa. Nếu hiểu văn hóa theo nghĩa rộng thì văn hóa mới là đối tượng đích thực

của văn hóa học.

Có thể nói văn hóa bao hàm phạm vi rộng như vậy ta có thể thấy đã

tồn tại rất nhiều định nghĩa văn hóa của các nhà nghiên cứu văn hóa trên thế

giới từ nhiều góc độ khác nhau khi nghiên cứu về văn hóa.

Nhà nghiên cứu E.B. Tylor năm 1871 lần đầu tiên đưa ra định nghĩa về

văn hóa trong tác phẩm “Văn hóa nguyên thuỷ” xuất bản ở Luân Đôn: “văn

. 15

hóa hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết,

tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và những khả năng và

tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã

hội” [34, tr.62].

Tuy vậy để văn hóa trở thành đối tượng của một khoa học độc lập thì

đến năm 1885 mới có tác phẩm “Khoa học chung về văn hóa” của Klemm

(Đức) đã trình bày sự phát sinh phát triển toàn diện của loài người như một

lịch sử văn hóa.

Thuật ngữ “văn hóa học” xuất hiện năm 1898 tại Đại hội giáo viên sinh

ngữ họp ở Viên (Áo)

Năm 1949 trong tác phẩm “Khoa học về văn hóa” của L.White xuất

bản ở Mỹ thì thuật ngữ “văn hóa học” trở nên phổ biến.

Có thể nói khi đưa ra định nghĩa văn hóa thì cần phải hiểu văn hóa

không bó hẹp vào một số biểu hiện của đời sống tinh thần mà bao gồm tất cả

những lĩnh vực của đời sống xã hội.

Tổ chức UNESCO đưa ra khái niệm về văn hóa như sau: “Đó là một

phức thể - tổng thể các đặc trưng - diện mạo về tinh thần và vật chất,trí thức

và tình cảm… khắc hoạ nên bản sắc một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng

miền quốc gia, xã hội…

Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà cả những lối

sống, những quyền cơ bản của con người những hệ thống giá trị, những hệ

thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…

Có những di sản văn hóa hữu thể như đình, đền, chùa, miếu, lăng, mộ,

nhà sàn…

Có những di sản văn hóa vô hình bao gồm những biểu hiện tượng trưng

và “không sờ thấy được” của văn hóa được lưu truyền biến đổi qua thời gian

[34, tr.17].

. 16

Edouard Herriot có một định nghĩa rất ngắn gọn, cô đọng về văn hóa

khi cho rằng “văn hóa là cái gì còn lại khi người ta đã quên đi tất cả,là cái vẫn

thiếu khi người ta đã học tất cả” [14, tr.1].

Các nhà nghiên cứu văn hóa trong nước đã có rất nhiều định nghĩa về

văn hóa từ rất sớm và người đưa ra định nghĩa về văn hóa sớm nhất ở Việt

Nam chính là Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa phản ánh khá chính xác về văn hóa

và phù hợp với định nghĩa văn hóa của UNESCO sau này.

“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng

tạo và phát minh ra ngôn ngữ,chữ viết,đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,

văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn mặc, ở và

các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn

hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu

hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra, nhằm thích ứng những nhu cầu đời

sống và đòi hỏi của sự sinh tồn ” [23, 431 ]

Phạm Văn Đồng cho rằng “văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ

lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc

Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió và thác ghềnh tưởng chừng như không

vượt qua được, để không ngừng phát triển và lớn mạnh” [28, tr.1].

Nhà nghiên cứu Phan Ngọc trong tác phẩm “Bản sắc văn hóa Việt

Nam” cho rằng khi định nghĩa văn hóa cần nắm được cái mặt gọi là “văn hóa

trong những sự đa dạng” [17, tr.23]. Hơn nữa văn hóa liên quan đến toàn bộ

đời sống xã hội loài người nên khi định nghĩa văn hóa thì cần tìm trong những

lĩnh vực nghiên cứu loài người một cách tổng thể.

Hơn nữa văn hóa không phải phát triển trong sự bó hẹp mà văn hóa cần

có sự giao tiếp để phát triển. Trong quá trình giao thoa đó nảy sinh sự lựa

chọn và trong hoàn cảnh đó con người phải biết làm chủ những ham muốn

của mình.

. 17

Và ông đưa ra định nghĩa:

“Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân

hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc

người này mô hình hoá theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu

hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy

nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác

các kiểu lựa chọn của các các nhân hay các tộc người khác” [24,tr.57].

Trần Ngọc Thêm khi định nghĩa về văn hóa lại căn cứ vào những đặc

trưng cơ bản để xác định văn hóa là gì.

“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con

người sáng tạo ra và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương

tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [28, tr.16].

Trần Ngọc Thêm đã căn cứ vào tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân

sinh và tính lịch sử của văn hóa để định nghĩa văn hóa.

Nhìn chung các định nghĩa văn hóa được đưa ra có những cách định

nghĩa khác nhau nhưng đều phản ánh được cả giá trị vật chất và giá trị tinh

thần trong văn hóa.

Văn hóa là một lĩnh vực có thể xem xét từ nhiều hướng, nhiều góc độ

khác nhau. Với ý nghĩa đó khi xem xét tư tưởng Hồ Chí Minh về kế thừa và

phát triển trong việc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam chúng tôi muốn

làm phong phú hơn những nội dung nghiên cứu trong tư tưởng Hồ Chí Minh

về văn hóa.

1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính cần thiết kế thừa và phát triển

văn hoá trong xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam

Văn hóa không có biên giới và trong quá trình giao lưu văn hóa làm

cho văn hóa phát triển. Việt Nam có một vị trí địa lý thuận lợi trong việc giao

lưu với thế giới, điều đó tạo nên sự giao lưu văn hóa rất sớm. Có thể nói quá

trình xây dựng và phát triển đất nước gắn liền với quá trình tiếp xúc văn hóa

. 18

thế giới. Điều đó tạo nên truyền thống văn hóa Việt Nam đó là truyền thống

kế thừa và phát triển tinh hoa văn hóa nhân loại.

Có thể thấy trong lịch sử Việt Nam đã có những cuộc giao lưu văn hóa

với các nền văn hóa khác như văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ, phương

Tây…Ngay từ thời tiền sử văn hóa Việt Nam đã hình thành một cách cơ bản.

Trong “Đại cương về tiến trình văn hóa Việt Nam” của GS Đinh Gia Khánh

đã cho rằng thời kỳ tiền sử đã dần hình thành “một cơ tầng văn hóa chung cho

tất cả cư dân vùng Đông Nam Á, dù họ thuộc ngữ hệ nào trong 5 ngữ hệ chủ

yếu là Tày Thái, Việt Mường, Nam Á, Nam Đảo và Hán Tạng” [12, tr.76].

Trải qua hàng ngàn năm xây dựng và phát triển cho đến thời kỳ nhà

nước Âu Lạc, nền văn hóa của đất nước ta đã vươn tới một trình độ tương đối

cao ở vùng Đông Nam Á cổ đại.

Thành tựu văn hóa lớn của thời kỳ này chủ yếu là nông nghiệp lúa nước

và luyện kim. Có thể tìm thấy “đồ đồng Đông Sơn và ảnh hưởng của nó đã

tìm thấy khắp nơi từ Nam Trung Hoa đến Thái Lan, đến toàn bộ vùng Đông

Nam Á hải đảo” [9, tr.123]

Theo Trần Ngọc Thêm thì chính những “những thành tựu của thế giới

Đông Nam Á cổ đại mà trong đó có phần đóng góp của tổ tiên dân tộc Việt

Nam ấy, đã làm nên cái nền vững chắc cho sự phát triển của văn hóa Việt

Nam sau này” [29, tr.53].

Báo Thanh niên số 70 (1484) ra ngày Chủ nhật 2.5.1999 có nhận định

của Giám đốc Bảo tàng lịch sử Việt Nam khi cho rằng “văn hóa Đông Sơn, đó

là sự hội tụ, kết sinh của nhiều nền văn hóa trước đó, ở các lưu vực các dòng

sông, để tiến lên Đông Sơn trong sự hoà hợp, êm đềm, để từ đay có sức mạnh

lan toả, hội nhập với ảnh hưởng qua lại giữa lục địa và hải đảo, mà ngày nay

đó là vùng đất thuộc các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có cả phần lớn vùng

Nam Trung Hoa… Chính nhờ tính thống nhất đó, văn hóa Đông Sơn được

. 19

xem như là mạch ngầm nuôi dưỡng văn hóa truyền thống Lạc Việt suốt cả

nghìn năm Bắc thuộc”

Như vậy ngay từ thời cổ đại, nền văn hóa Việt Nam đã sớm hình thành

trong sự hình thành quốc gia thống nhất và trong sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa

các nền văn hóa.

Trải qua thời gian, Việt Nam phải chịu ách đô hộ của phong kiến

phương Bắc suốt hàng ngàn năm. Sau năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân

Nam Hán mở ra chương mới trong lịch sử dân tộc kéo dài đến khi thực dân

Pháp chính thức cai trị nước ta năm 1883. Trong suốt thời gian dài đó, văn

hóa luôn bị âm mưu đồng hoá của văn hóa phương Bắc. Tuy vậy chính sách

“đồng hoá” của bọn cai trị đã thất bại, nguyên nhân chính để chính sách này

thất bại vì “căn cước của người Việt đã sâu gốc bền rễ trên đất Việt, bản sắc

văn hóa, văn minh của người Việt đã rõ nét và không dễ dàng bị thủ tiêu” [1,

tr.145]

Tất nhiên bên cạnh đó sự tiếp thu văn hóa diễn ra song song với quá

trình chống lại sự đồng hoá văn hóa. Thời kỳ này không chỉ văn hóa Trung

Quốc ảnh hưởng đến Việt Nam mà còn có văn hóa ấn Độ điển hình là Phật

giáo, được truyền bá và ăn sâu vào xã hội Việt Nam. Tuy vậy tư tưởng Phật

giáo đã bị biến đổi cho phù hợp với tín ngưỡng dân gian và làm phong phú

thêm đời sống tinh thần dân tộc Việt Nam.

Nho giáo cũng bị biến đổi khi du nhập vào Việt Nam bị “khúc xạ”, bị

“Việt hoá” cho phù hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam - một nền văn

hoá với tính tự trị làng xã rất bền chặt và đặc trưng.

Ngoài hai luồng tư tưởng lớn đã du nhập vào nước ta là Phật giáo và

Nho giáo còn có rất nhiều tư tưởng, trường phái khác như Đạo giáo, Lão

Trang… cũng du nhập và bị biến đổi cho phù hợp với truyền thống văn hóa

dân tộc.

. 20

Tuy vậy phải đến khi Việt Nam tiếp xúc với nền văn minh công nghiệp

phương Tây thông qua con đường thực dân hoá của thực dân Pháp thì mới

thực sự tạo nên sự thay đổi khá toàn diện.

Cuộc hội nhập với văn hóa phương Tây có thể tính từ thế kỷ XVI khi

các thuyền buôn cùng với các giáo sỹ Phương Tây đến Việt Nam tại các vùng

có hoạt động thương mại nhộn nhịp như Hội An, Phố Hiến… Kể từ đó “lịch

sử Việt Nam đã bị lôi cuốn vào dòng lịch sử rộng lớn toàn cầu” [25, tr.143]

Các linh mục phương Tây là những người đầu tiên đặt nền móng cho

quan hệ Việt Nam với phương Tây. Họ đã đặt chân lên Việt Nam từ khi Việt

Nam chưa hề biết đến thế nào là Tin lành và trong khi Nho - Phật - Lão vẫn

đang là những luồng tư tưởng chính trong đời sống xã hội người Việt.

Có thể thấy rõ sự nhiệt tình của các giáo sỹ và sự hậu thuẫn của các thế

lực chính trị nước ngoài đã đặt nền móng cho sự tồn tại lâu dài của đạo Tin

lành ở Việt Nam. Chính Napoleong I từ năm 1804 khi nói trước Hội đồng

Hoàng gia Pháp đã khẳng định những giáo sỹ này rất có ích cho mục đích

thực dân của mình ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ.

Và lịch sử trong đời sống tinh thần của người Việt kể từ đây đã tồn tại

luồng tư tưởng mới đó là đạo Tin lành. Tuy vậy sức mạnh truyền thống văn

hóa Việt Nam đã biến đổi nó cho phù hợp với dân tộc. Người theo đạo vẫn

“kính chúa” nhưng vẫn “yêu nước” và sống “phúc ấm trong lòng dân tộc”. Và

đạo Tin lành đã mang những nét riêng khi du nhập vào Việt Nam.

Bên cạnh việc truyền đạo những giáo sỹ cũng có đóng góp lớn cho văn

hóa Việt Nam bằng việc tạo ra chữ quốc ngữ. Người có công lớn trong việc

này chính là A.de Rhodes (1591-1661) và một số linh mục khác. Ông đã

phiên âm Tiếng Việt bằng mẫu tự Latinh và từ đó tách tiếng Việt khỏi mối

liên hệ với chữ tượng hình và tạo ra thứ chữ riêng của Việt Nam .

Tôn giáo và ngôn ngữ chính là những thứ vũ khí được vận dụng một

cách khá triệt để trên con đường đồng hoá Việt Nam như lời của giám mục

. 21

Puginier “để thay đổi cả dân tộc; đó là tôn giáo và ngôn ngữ. Nếu chính phủ

Pháp hiểu biết lợi ích thực sự của mình thì hãy ủng hộ việc rao giảng tin lành

và dạy bảo ngôn ngữ của chúng ta. Tôi xin khẳng định là trước thời hạn 20

năm chẳng cần phải cưỡng bức ai, xứ sở này sẽ được Kitô hoá và Pháp hoá”

[26, tr.231].

Có thể thấy văn hóa phương Tây đã tác động mạnh mẽ đến nền văn hóa

xã hội Việt Nam trên hầu hết các phương diện như kiến trúc, văn học, giáo

dục, khoa học... Tuy vậy với sức mạnh truyền thống văn hóa dân tộc đã trải

qua hàng ngàn năm, văn hóa Việt Nam đã tiếp nhận những điều có ích và

phục vụ cho dân tộc. Người Pháp đã nghĩ rằng họ đã đồng hoá người Việt

bằng những mưu đồ đen tối nhưng sự thật họ cũng tự nhiên mang đến cho

chúng ta những tri thức tiến bộ mà văn minh nông nghiệp chưa hề có.

Nền văn hóa Việt Nam đã thay đổi “từ ăn mặc đến các phương tiện

giao thông…từ văn xuôi đến tiểu thuyết, từ chữ Hán, chữ Nôm đến chữ quốc

ngữ…” [27, tr.123]

Sự không chối từ các yếu tố ngoại sinh đó cũng đã làm giàu thêm cho

văn hóa Việt Nam mà vẫn giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống ở nông

thôn và mở rộng giao tiếp ở thành phố.

Rõ ràng trong lịch sử, dân tộc ta bằng nhiều con đường khác nhau, qua

nhiều giai đoạn khác nhau đã trải qua những cuộc tiếp xúc, tiếp biến văn hóa

với những nền văn hóa lớn trên thế giới. Trải qua thời kỳ đầu dựng nước và

giữ nước cho đến khi tiếp biến với nền văn minh công nghiệp, Việt Nam đã

kế thừa và phát triển những yếu tố tích cực và biến đổi cho phù hợp, đồng

thời vẫn gìn giữ bản sắc của dân tộc.

Qua những giai đoạn hội nhập văn hóa đó, văn hóa dân tộc Việt Nam

ngày càng trở nên đa dạng, phong phú, phát triển và đầy bản sắc. Có thể thấy

“độc lập mà không hề biệt lập, học hỏi bên ngoài mà không sao chép, hội

. 22

nhập với thế giới mà không bị hoà tan” [28, tr.165] . Đó là phương châm để

văn hóa Việt Nam tồn tại và phát triển cùng lịch sử.

Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh là hai nhà văn hóa lớn đã thực hiện rất

thành công truyền thống tiếp biến văn hóa này. Trong khi Nguyễn Trãi kế

thừa trên cơ sở Nho giáo và truyền thống văn hóa dân tộc thì Hồ Chí Minh đã

kế thừa truyền thống văn hóa dân tộc, chủ nghĩa Mác - Lênin và tinh hoa văn

hóa nhân loại.

Thông qua quá trình tiếp thu có chọn lọc đó văn hóa trở thành sức

mạnh biến đổi thực tiễn tạo nên sự biến đổi trong đời sống của cả dân tộc

hoặc cả thế giới. Hồ Chí Minh chính là một người tiêu biểu khi kế thừa, phát

triển tinh hoa văn hóa nhân loại tạo nên sự ảnh hưởng đối với cả dân tộc và

thế giới.

Văn hóa không có biên giới và Hồ Chí Minh là người hiểu rõ điều đó.

Hồ Chí Minh đã biết kế thừa các nền văn hóa tiên tiến để xây dựng nền văn

hóa mới và chính UNESCO cũng đã thừa nhận:

“Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết tinh các truyền thống văn hóa trải qua

mấy ngàn năm của dân tộc Việt Nam …những lý tưởng của Người là hiện

thân những khát vọng của nhân dân các nước trong việc khẳng định diện mạo

văn hóa của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau” [29,

tr.34].

Có thể thấy rõ trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh luôn thể hiện rõ sự

kế thừa và phát triển tinh hoa văn hóa nhân loại. Dường như đó cũng chính là

một đường lối, một phương pháp trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan điểm

toàn diện cho thấy Hồ Chí Minh luôn coi trọng tất cả các yếu tố như chính trị,

kinh tế, văn hóa, xã hội. Hồ Chí Minh đã viết

“Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải coi là quan

trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa”

. 23

Khi đề cập riêng đến vai trò của văn hóa trong sự phát triển xã hội,

Người cũng chỉ ra những điều kiện cơ bản của sự phát triển văn hóa đó là cơ

sở hạ tầng. Người viết : “Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng, những cơ sở

hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều

kiện phát triển được”.

Nhận rõ vị trí và vai trò của văn hóa trong đời sống kinh tế, xã hội, Hồ

Chí Minh luôn đề cao quá trình kế thừa và phát triển trong lĩnh vực văn hóa.

Và Hồ Chí Minh là người tiêu biểu cho sự kế thừa và phát triển những tinh

hoa văn hóa của cả dân tộc và nhân loại. Sinh ra trong hoàn cảnh nước nhà

trong vòng nô lệ, Hồ Chí Minh đã sớm có quyết tâm tìm ra con đường cứu

nước, cứu dân. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng cho dù đi khắp năm

châu bốn biển, Người vẫn giữ được những giá trị văn hóa truyền thống của

dân tộc đó là tính cộng đồng và lối sống hài hoà, trọng tình...

Xuất thân từ một gia đình Nho học và bản thân Người cũng thừa nhận

là một nhà Nho yêu nước. Trong các bài viết và nói của Người thường trích

dẫn những câu nói từ vốn tri thức Nho giáo. Bên cạnh đó lại có một lối sống

coi nhẹ danh lợi giống như đạo Lão - Trang và mang trong mình tấm lòng từ

bi hỉ xả của Phật giáo.

Tháng 1 năm 1946 trong bài trả lời phỏng vấn các nhà bào Người nói

rằng:

“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc… riêng phần tôi thì làm

một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc, để câu cá, trồng rau, sớm

chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì tới

danh lợi” [30, 517]

Thực tế khu vực nghỉ ngơi của Bác tại Hà Nội với nhà sàn, ao cá, vườn

cây cũng thể hiện nét điển hình đó.

. 24

Người cũng luôn phấn đấu cho việc xây dựng một đất nước Độc lập,

Tự do, Hạnh phúc… Những điều đó cũng giống như chủ nghĩa Tam dân của

Tôn Dật Tiên.

Lối sống coi trọng cá nhân của phương Tây được Người kết hợp hài

hoà với lối sống coi trọng tập thể của truyền thống Việt Nam. Người kết hợp

tài tình lối suy nghĩ cảm tính, tổng hợp của Việt Nam với tư duy phân tích, lý

tính của văn hóa phương Tây tạo nên một tư duy sâu sắc, chặt chẽ và đầy sức

thuyết phục - điều chúng ta thường thấy trong các bài nói, bài viết và các bài

báo của Người.

Kế thừa và phát triển dường như là phương pháp tối ưu trong con người

Hồ Chí Minh. Chính Người đã khẳng định điều này bằng câu nói:

“Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức các

nhân.

Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả

Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng

Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách của nó thích

hợp với điều kiện nước ta

Khổng Tử ,Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những điểm chung đó

sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội.

Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ

nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết.

Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy. Tôi chính là tôi ngày

trước: một người yêu nước” [31, tr.23].

Như vậy có thể thấy rõ Người biết tích hợp những tư tưởng văn hóa

tiến bộ trên thế giới và cùng với truyền thống yêu nước Việt Nam phục vụ

cho dân tộc Việt Nam.

Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, những người Việt Nam

yêu nước đã quyết tâm chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp. Hệ quả kéo

. 25

theo là sự tẩy chay tất cả những gì liên quan đến thực dân Pháp. Trong việc

tìm ra đường lối cho cách mạng Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của quan

điểm đó. Phan Bội Châu là một nhà chí sỹ yêu nước nhưng có cách nghĩ khác

với Hồ Chí Minh khi chọn con đường Đông Du chứ không phải là sang

phương Tây; sào huyệt của kẻ thù.

Từ khi rất trẻ Người đã biết tìm đến với văn minh phương Tây để học

hỏi để tìm hiểu hòng tìm ra đường lối cho cách mạng Việt Nam. Sự kế thừa

và phát triển tinh hoa văn hóa nhân loại đã tích hợp nên trong con người Hồ

Chí Minh một nền “văn hóa của tương lai” như chính O. Madenstam đã nhận

xét:

“Nguyễn Ái Quốc thấm đượm chất văn hóa - không phải thứ văn hóa

châu Âu, có lẽ đấy là nền văn hóa của tương lai” [32, tr.487]

Có lẽ những nhận định của những người làm báo nước Mỹ sẽ minh

chứng rõ cho điều này khi tuần báo Time bình chọn Hồ Chí Minh là một

trong 20 nhà lãnh đạo có tầm ảnh hưởng nhất thế kỷ XX và đánh giá Người là

“kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa cộng sản và hoàn thiện nghệ thuật

chiến tranh du kích” [21]

Thời báo Ấn Độ đã nhận xét rằng “Cụ Hồ đã kết hợp nhuần nhuyễn sự

toa nhã cao quý với tác phong gần gũi rất dân chủ, giữa tự do không nghi thức

với sự nghiêm chỉnh thận trọng;vì vậy cụ Hồ có một sức hấp dẫn đặc biệt

không gì so sánh được” [34]

Tờ Asahi (Nhật) lại cho rằng điều “làm cho cụ Hồ trở thành lãnh tụ

quần chúng tuyệt vời là sự kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết

hợp phong trào giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa” [2]

Báo Chiến đấu (Pháp) có bài của J Ru cho rằng Bác Hồ là “người hoàn

toàn đáng được mọi người ca ngợi, bởi vì cụ Hồ đã kết hợp nhuần nhuyễn phi

thường chủ nghĩa anh hùng với đầu óc sáng suốt, lòng yêu nước tuyệt vời,

tinh thần cách mạng trong sáng, thái độ cứng rắn trước cuộc sống với

. 26

lòngnhân đạo với con người. Sự hài hoà giữa những người tính tình đôi khi

trái ngược nhau đó giải thích tại sao cụ Hồ cùng một lúc là nhà thơ, là đảng

viên, là nhà lãnh đạo quốc gia, lại vừa là một chiến sỹ ” [26]

Những nhận xét khá xác đáng đó đã nói lên Hồ Chí Minh thực sự là

người biết vận dụng sáng tạo những giá trị tiêu biểu của các nền văn hóa tiên

tiến và bổ sung những gì còn thiếu cho nền văn hóa Việt Nam.

Việt Nam đã có nền văn hóa lâu đời chi phối suốt chiều dài lịch sử dân

tộc. Nhận rõ sức mạnh của văn hóa Người cho rằng phải làm sao cho văn hóa

vào sâu đời sống nhân dân. Văn hóa phải sửa đổi phù hoa xa xỉ.

Hồ Chí Minh cũng chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam dân tộc,

khoa học, đại chúng và xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa các nền văn hóa

tiên tiến. Bản Đề cương văn hóa năm 1943 của Đảng cộng sản Việt Nam thể

hiện rõ những sự kế thừa văn hóa Macxít. Mô hình văn hóa trong xã hội mới

đó sẽ vận động theo nguyên tắc dân tộc, khoa học và đại chúng.

Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại là một nguyên lý rất có ích

trong việc xây dựng nền văn hóa dân tộc. Văn hóa truyền thống dân tộc phải

biết hoàn thiện, bổ sung bằng các yếu tố tích cực của văn hóa mới - văn hóa

ngoại sinh. Có thể nói lòng khao khát đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước

cũng thể hiện một cách tư duy rất riêng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nền văn hóa chỉ phát triển khi biết phát huy cái cũ tiến bộ và tiếp thu

cái mới làm giàu thêm cho chính nền văn hóa đó. Ngay cả truyền thống yêu

nước của dân tộc Việt Nam trong Hồ Chí Minh cũng đã trở nên hoàn thiện

hơn cao cả hơn và mang trong đó tinh thần quốc tế trong sáng.

Tóm lại nhận rõ vai trò và sức mạnh của văn hóa từ rất sớm, Hồ Chí

Minh đã chỉ ra rằng muốn xây dựng một nền văn hóa mang đậm dấu ấn, bản

sắc dân tộc và có những giá trị tinh hoa của văn hóa tiên tiến nhân loại thì

phải biết kế thừa và phát triển tinh hoa văn hóa nhân loại và phát triển những

. 27

giá trị cơ bản của truyền thống văn hóa dân tộc. Đó cũng là phương pháp biện

chứng duy vật được phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

. 28

Chương 2

NỘI DUNG CỦA SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN

TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG

NỀN VĂN HOÁ MỚI VIỆT NAM

2.1. Một số giá trị cơ bản của truyền thống văn hóa dân tộc

Truyền thống văn hóa là hệ thống những đặc tính bên trong, những sắc

thái riêng, có tính cội nguồn, trở thành bản thể, nền tảng của một nền văn hóa.

Nói đến truyền thống là nói đến “phức hợp những tư tưởng, tình cảm , tập

quán, thói quen, những phong tục, lối sống, các ứng xử trở nên ổn định được

truyền từ đời này sang đời khác”.

Truyền thống văn hóa dân tộc là những hiện tượng văn hóa xã hội gồm

những chuẩn mực giao tiếp, khuôn mẫu văn hóa, các tư tưởng xã hội, các

phong tục, tập quán… tồn tại từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Truyền thống văn hóa dân tộc mang những đặc trưng riêng mà chỉ tìm

thấy ở dân tộc đó mà không thấy ở dân tộc khác. Nó mang đặc tính dân tộc

sâu sắc và in đậm trong thiên nhiên, con người và xã hội dân tộc đó.

Truyền thống văn hóa dân tộc mang tính lịch sử rõ nét. Điều đó có

nghĩa rằng những điều kiện lịch sử, xã hội nhất định sẽ có truyền thống văn

hóa riêng phù hợp với điều kiện lịch sử, xã hội đó.

Truyền thống văn hóa dân tộc chính là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và

tương lai của dân tộc đó. Có thể thấy rõ đó chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch

sử văn hóa của mọi dân tộc. Không có dân tộc nào lại không có lịch sử văn

hóa của riêng mình. Qua quá trình phát triển lịch sử dân tộc, truyền thống văn

hóa tự sáng tạo ra những hệ giá trị riêng và mang những đặc trưng của dân tộc

đó. Nó chứa đựng và thể hiện đầy đủ bản sắc của chính dân tộc đã sản sinh ra

nó. Những nét riêng đó có thể là cách ứng xử, phương thức sinh hoạt, nghệ

thuật, kiến trúc, lối sống, khả năng tư duy, đạo đức, thế giới quan, nhân sinh

. 29

quan… Chính những điều đó làm nền tảng, làm cơ sở để tiếp thu các giá trị

của các luồng tư tưởng văn hóa khác trên thế giới.

Giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam là những phần tinh tuý, cốt lõi

tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Những thành tựu văn hóa vật chất và văn

hóa tinh thần đều là những thành tố không thể thiếu trong một nền văn hóa.

Tuy nhiên mỗi giai đoạn lịch sử lại có những giá trị văn hóa mới bên cạnh

những giá trị đã tồn tại lâu dài trong lịch sử. Trong quá trình đó có khi xảy ra

xung đột giữa những hệ giá trị mới tiến bộ và giá trị cũ lạc hậu.

Tương lai bắt đầu từ quá khứ. Có quan điểm cho rằng muốn đi đến

tương lai một cách tốt nhất thì phải có một quá khứ tốt đẹp nhất. Điều đó cho

thấy rằng nếu muốn xây dựng một nền văn hóa mới Việt Nam thật hoàn thiện

thì cần phải biết kế thừa những mặt tích cực của truyền thống văn hóa dân tộc.

Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng cho dù có trải qua những biến

động thế nào chăng nữa thì Việt Nam vẫn giữ được những bản sắc riêng. Có

thể thấy rõ sự tác động của ba “lớp văn hóa” đến văn hóa Việt Nam . Đó là

lớp văn hóa bản địa Đông Nam á; lớp văn hóa khu vực mà điển hình là văn

hóa Trung Hoa và cuối cùng là lớp văn hóa phương Tây.

Những yếu tố tác động đó đã làm hình thành nên bản sắc văn hóa Việt

Nam. Với đặc trưng là một nền nông nghiệp trồng lúa nước, để tồn tại và phát

triển cần hình thành một sự liên kết chặt chẽ thành những cộng đồng dân cư

bền chặt. Điều đó tạo nên tinh thần đoàn kết, thương yêu lẫn nhau và trên

bình diện quốc gia nó tạo nên tinh thần đoàn kết toàn dân tộc và tinh thần yêu

nước nồng nàn.

Nền văn minh lúa nước phụ thuộc vào yếu tố khác nhau nên trong tư

duy người Việt luôn chú trọng tới rất nhiều yếu tố và nhiều quan hệ giữa

chúng để làm sao tìm ra sự hài hoà, sự ổn định, mềm dẻo, trọng tình cảm và

thích cuộc sống yên bình mà ghét chiến tranh.

. 30

Văn hóa Việt Nam luôn có xu hướng xây dựng một sự ổn định trong

đời sống tinh thần người Việt. Nhưng cũng rất linh hoạt trong ứng xử với

thiên nhiên, xã hội.

Trong cuộc đấu tranh giữ vững độc lập dân tộc có cả cuộc đấu tranh

diễn ra không kém phần quyết liệt là cuộc đấu tranh giữ vững bản sắc văn hóa

dân tộc chống lại sự áp đặt và nô dịch, đồng hoá văn hóa của văn hóa ngoại

lai. Trong cuộc đấu tranh đó truyền thống văn hóa dân tộc đã được bảo vệ và

phát triển, bổ xung những yếu tố tiến bộ trong đó.

Lịch sử đã cho thấy những giá trị của truyền thống văn hóa có sức sống

mãnh liệt trong cuộc đấu tranh nhằm bảo tồn những giá trị văn hóa dân tộc.

Qua lao động, chiến đấu để xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc những giá

trị văn hóa truyền thống ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn và giàu sức sống

hơn.

Mặt khác trong quá trình tồn tại và phát triển, văn hóa dân tộc không

thể không giao lưu và chịu ảnh hưởng của các nền văn hóa khác. Quá trình

tiếp biến văn hóa nhân loại là một quá trình tất yếu nhưng trong quá trình đó

bản sắc văn hóa dân tộc được giữ vững. Không những thế còn được bổ xung

và làm giàu thêm bằng các giá trị văn hóa mới. Những giá trị văn hóa mới đã

được đưa vào Việt Nam bằng cách này hay cách khác nhưng dưới hình thức

nào thì nó vẫn bị biến đổi cho phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc. Đó

là xu hướng xuyên suốt trong lịch sử dân tộc nói chung.

Truyền thống văn hóa là những giá trị được tích luỹ lâu dài qua một

quá trình tiếp thu và biến đổi mạnh mẽ liên quan chặt ché đến quá trình đấu

tranh chính trị, xã hội và kinh tế của dân tộc. Những giá trị truyền thống luôn

phát triển, đấu tranh với các thói quen, tư tưởng bảo thủ, tiêu cực… Đó là cái

xuyên suốt và chi phối những hành vi, tập quán, lối sống, cách ứng xử của

con người trong mọi thời điểm.

. 31

Văn hóa nông nghiệp cộng với ở trong vị trí địa lý thuận lợi trong việc

giao lưu với các nền văn hóa trên thế giới nên muốn tồn tại và phát triển thì

cần phải biết tiếp thu những nền văn hóa khác nhau. Lối tư duy tổng hợp của

nền văn minh nông nghiệp đã tạo nên tính dung hợp trong việc thích ứng với

những nền văn hóa mới. Dễ hiểu tại sao những tôn giáo lớn trên thế giới đều

đi vào Việt Nam một cách thuận lợi và cùng phát triển một cách hoà bình

trong sự ổn định chung của dân tộc mà không có mâu thuẫn tôn giáo.

Sự khoan dung cũng là một phương châm sống chi phối hành động của

con người Việt Nam. Để có được sự khoan dung như vậy đòi hỏi phải có một

tấm lòng nhân ái cao cả vượt lên trên hết những chuẩn mực thông thường. Dễ

thấy trong lịch sử chúng ta đã có một truyền thống “tương thân tương ái”

giữa người và người trong cộng đồng và lòng nhân ái đó còn được thực hiện

với cả kẻ thù của chính dân tộc mình.

Đối với kẻ thù sự khoan dung đó thật sự làm cho kẻ thù phải có một sự

kính trọng đối với dân tộc Việt Nam - một dân tộc chỉ mong muốn sống

trong cảnh hoà bình mà không muốn chiến tranh. Một dân tộc chỉ biết “lấy đại

nghĩa để thắng hung tàn”và “Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Sự khoan

dung là phương châm sống cũng là động lực góp phần giữ gìn nền độc lập dân

tộc.

Có thể thấy rõ những đặc trưng trên thể hiện sinh động bản sắc văn hóa

của dân tộc, đó là tinh thần yêu nước nồng nàn, sống hài hoà, giản dị, chất

phác và tính dung hợp. Những yếu tố này là những yếu tố cấu thành bền vững

trong truyền thống văn hóa dân tộc.

Không phải bất kỳ dân tộc nào cũng có tình yêu quê hương đất nước

như dân tộc Việt Nam. Đó là truyền thống quý báu mà dân tộc Việt Nam đã

hun đúc từ khi mới dựng nước. Tinh thần yêu nước nồng nàn và lòng dũng

cảm bất khuất chống giặc ngoại xâm là những nhân tố vững chắc để đảm

bảo cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Có thể thấy rõ truyền thống lịch

. 32

sử dựng nước và giữ nước dân tộc đã không biết bao nhiêu người và bao

nhiêu lần đã anh dũng ngã xuống để bảo vệ sự toàn vẹn của cả dân tộc. Động

lực duy nhất đã khiến họ làm như vậy chính là chủ nghĩa yêu nước.

“Thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc” [26,tr.235]là

câu nói của danh tướng Trần Bình Trọng khi bị giặc Nguyên Mông bắt được.

đã thể hiện rõ nhất truyền thống yêu nước nồng nàn của nhân dân ta.

Qua đấu tranh giữ vững độc lập tự chủ dân tộc mà làm giàu thêm lòng

yêu nước và ngược lại lòng yêu nước qua cuộc đấu tranh đó lại được thử

thách và hun đúc lên một tầm cao mới. Thời gian trôi qua và lòng yêu nước

được nuôi dưỡng và phát triển thành chủ nghĩa yêu nước. Trải qua hai cuộc

chiến tranh chống những thế lực mạnh mẽ nhất của chủ nghĩa tư bản, chủ

nghĩa yêu nước được phát huy cao độ và là nhân tố đảm bảo cho sự thắng lợi

của cách mạng Việt Nam.

Bên cạnh tinh thần yêu nước là truyền thống cần cù lao động, sản xuất,

vượt qua khó khăn gian khổ để tồn tại và phát triển. Có thể nói con người Việt

Nam chịu nhiều khó khăn do thiên nhiên, môi trường tạo ra và cũng từ khó

khăn đó mà bằng sự cần cù, chịu khó vươn lên vượt qua mọi thử thách.

Những yếu tố kể trên là những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cả dân

tộc đã được duy trì và phát triển trong suốt lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ

nước của dân tộc. Có thể trong một giai đoạn nhất định có một yếu tố chiếm

giữ vai trò chủ đạo

2.2. Những đặc trưng của văn hóa hiện đại

Xu thế chung của các nền văn hóa là luôn trong quá trình giao lưu ảnh

hưởng lẫn nhau. UNESCO đã cho rằng “từ lâu nền văn hóa bao giờ cũng là

phương tiện ưu tiên trong cuộc giao lưu giữa các dân tộc, khi nó có thể cống

hiến mạnh mẽ cho việc tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau trên phạm vi quốc tế,

đi đôi với sự nhìn nhận những đặc trưng của mỗi xã hội trong các hình thức

diễn đạt những giá trị văn hóa của mình” [37, tr.25]

. 33

Trong xu thế biến đổi chung đó các nền văn hóa xâm nhập vào nhau và

làm biến đổi lẫn nhau. Qua mỗi giai đoạn thăng trầm khác nhau của lịch sử,

yếu tố văn hóa mới nảy sinh và tồn tại trong đời sống tinh thần dân tộc. Chính

điều đó thể hiện tính hiện đại, tiên tiến của nền văn hóa trong từng giai đoạn

lịch sử. Tuy nhiên cần phải chú ý rằng không phải mọi cái m ới xuất hiện đều

là những cái tiên tiến. Chỉ những cái mới nào phù hợp với quy luật phát triển

văn hóa và phù hợp với nguyện vọng, lợi ích của nhân dân thì mới là những

cái tiên tiến.

Nền văn hóa biết kế thừa những yếu tố tiên tiến nhưng phải dựa trên

bản sắc văn hóa dân tộc. Những chuẩn mực mới phải cùng những chuẩn mực

cũ tạo nên một nền đạo đức mới hoàn thiện.

Kế thừa yếu tố tiên tiến của văn hóa nhân loại là kế thừa tính nhân văn

sâu sắc của văn hóa thế giới. Mục tiêu cuối cùng của nền văn hóa tiên tiến

chính là để giải phóng con người khỏi áp bức và đưa con người đi đến tự do.

Đó cũng là mục tiêu của chủ nghĩa Mác - Lênin mà Hồ Chí Minh đã truyền bá

vào Việt Nam và trở thành bộ phận quan trọng trong đời sống tinh thần của

nhân dân.

Một nền văn hóa tiên tiến là một nền văn hóa dân chủ. Đó chính là việc

phát huy tối đa sức mạnh toàn xã hội để xây dựng nên nền văn hóa mới mang

những đặc điểm tốt đẹp. Một nền văn hóa do toàn thể nhân dân tạo nên sẽ vô

sùng phong phú đa dạng và muôn màu muôn vẻ, phù hợp và đáp ứng nhu cầu

của tất cả mọi người.

Một nền văn hóa tiên tiến là một nền văn hóa dựa trên nền tảng vững

chắc là khoa học công nghệ hiện đại. Khoa học công nghệ hiện đại là nhân tố

then chốt góp phần tạo nên một nền văn hóa giàu tính hiện đại, tiên tiến. Khoa

học công nghệ làm cho nền kinh tế chính trị trở nên vững vàng. Khi có sự ổn

định và vững vàng về mặt kinh tế, chính trị thì văn hóa sẽ phát triển hoàn

thiện và hiện đại.

. 34

Trong quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa, cần thiết phải đảm bảo

tính năng động và sáng tạo trong việc tiếp thu và biến đổi văn hóa. Sự áp đặt

văn hóa và sự kế thừa nguyên xi nội dung văn hóa cũng đều làm cho văn hóa

mang trong nó những yếu tố tiêu cực. Cần phải đánh giá một cách toàn diện,

tích cực và có chọn lọc những yếu tố tiến bộ, tích cực của các nền văn hóa để

bổ xung những yếu tố tiến bộ cho dân tộc mình. Đó mới là phương châm

đúng đắn nhất trong việc tiếp thu những yếu tố tiên tiến của văn hóa nhân

loại.

Văn hóa hiện đại phải mang tính cách mạng và phải mang những nội

dung để có thể cải biến toàn xã hội. Văn hóa tiên tiến không chỉ phản ánh xã

hội mà văn hóa tiên tiến phải cải biến xã hội. Văn hóa phải đi vào đời sống

nhân dân và làm biến đổi sâu rộng đời sống nhân dân theo hướng tích cực. Đó

là bản chất cách mạng của văn hóa.

Có thể nói văn hóa tiên tiến, hiện đại mang những yếu tố tích cực, tiến

bộ và phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc. Dựa trên những yếu tố tích

cực của văn hóa truyền thống dân tộc mà những yếu tố tiên tiến tồn tại, bổ

xung cho văn hóa dân tộc tạo nên một nền văn hóa mới - văn hóa tương lai.

2.3. Kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc tiếp

thu những yếu tố tiên tiến của văn hoá thế giới trong tư tưởng văn hóa

Hồ Chí Minh

Khi nói đến văn hóa có thể chúng ta sẽ nghĩ đến những biểu hiện của

văn hóa trong nhiều lĩnh vực. Tuy vậy xét cho cùng văn hóa lại nằm ở ngay

trong “tâm thức con người của một nền văn hóa cụ thể”. Con người được thừa

hưởng văn hóa của quê hương mình một cách tự nhiên. Màu da, ngôn ngữ, lối

sống, nhân cách, tâm lý… là những đặc trưng nói lên chính con người đó

thuộc về dân tộc nào. Đó là những hằng số văn hóa tồn tại một cách tự nhiên

trong mỗi con người. Những hằng số đó là cơ sở để tiếp thu phát triển những

tinh hoa văn hóa bên ngoài.

. 35

Với phẩm chất lỗi lạc của nhà lãnh tụ, khi định hướng xây dựng một

nền văn hóa mới Việt Nam, Người luôn nêu bật vai trò quan trọng những giá

trị của những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Truyền thống được Hồ Chí Minh nhìn nhận và vận dụng như một yếu

tố cấu thành, một động lực của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh nhìn thấy

tính tất yếu của truyền thống và biểu hiện tính liên tục của lịch sử. Ví như khi

coi tinh thần tự lực, tự cường của dân tộc như là một truyền thống, Hồ Chí

Minh cho rằng “tinh thần tự lực tự cường mấy ngàn năm của dân tộc, tinh

thần bất khuất truyền từ Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Hoàng Hoa

Thám…(và thế hệ ngày nay) sẽ duy trì tinh thần bất diệt ấy, truyền lại mãi

mãi cho giống nòi Việt Nam”. (Hồ Chí Minh, (1983), Toàn tập, t.4, Nxb Sự

thật, Hà Nội.)

Nhưng để chính truyền thống trở thành yếu tố cấu thành lịch sử dân tộc

thì mọi thế hệ đều phải duy trì và truyền lại mãi về sau. Điều đó cho thấy sự

chủ động kế thừa truyền thống là điều kiện đảm bảo sự liên tục và phát huy

hiệu quả truyền thống.

Với sự kế thừa truyền thống, chúng ta có một mục đích rõ ràng. Truyền

thống được kế thừa tiếp nối là vì hiện tại và tương lai. Do vậy, vấn đề không

chỉ đơn giản là sự kế thừa truyền thống mà cần thiết phải xử lí hợp lí mối

quan hệ giữa truyền thống – hiện tại – tương lai.

Không phải mọi truyền thống đều có ý nghĩa với hiện tại. Chỉ có những

truyền thống tốt đẹp thì mới gia nhập vào động lực của sự phát triển xã hội.

Ngược lại những truyền thống không tốt sẽ là vật cản trên con đường phát

triển. Hồ Chí Minh đã rất nhiều lần khẳng định rõ những giá trị truyền thống

tốt đẹp của dân tộc. Người đã luôn yêu cầu phải kế thừa những giá trị tốt đẹp

của dân tộc như: lòng yêu nước, ý chí tư lập, tự cường, tinh thần bao dung…

Truyền thống trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ đơn giản chỉ là

những ánh hào quang trong quá khứ mà truyền thống chính là một nhân tố

. 36

không thể thiếu trong hiện tại và tương lai. Vì thế mà truyền thống hiện ra

như một động lực của sự phát triển. Để có thể làm được điều đó (để truyền

thống như một động lực) thì cần phải làm sống động lại nó trên cơ sở những

yêu cầu của hiện tại và tương lai. Bản thân Hồ Chí Minh đã rất nhiều lần tìm

cách thức tỉnh niềm tự hào dân tộc trong tâm trí của mỗi con người Việt Nam.

Người luôn nhấn mạnh đến những kỳ tích mà trong lịch sử dựng nước và giữ

nước chúng ta đã đạt được. Người đã nhấn mạnh và nhắc nhở mọi người:

“Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”

Với động lực là niềm tự hào dân tộc, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tạo

nên một khối thống nhất toàn dân tộc, tạo nên một lực lượng mới, sức mạnh

mới, đáp ứng những yêu cầu của hiện tại.

Không phải đến Hồ Chí Minh mới nêu cao tinh thần kế thừa truyền

thống văn hóa dân tộc mà trước đó Nguyễn Trãi - danh nhân văn hóa Việt

Nam cũng là một người luôn nêu cao vai trò, sức mạnh của tinh thần dân tộc

và “nền văn hiến” lâu đời của dân tộc.

Người Việt Nam luôn có một lòng yêu nước nồng nàn. Nó giống như

sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Có thể nói truyền thống đó vừa là động lực vừa là nhân tố góp phần đoàn kết

cả dân tộc và tạo nên sức mạnh trường tồn cho cả dân tộc.

Hồ Chí Minh luôn khẳng định “các vua Hùng đã có công dựng nước.

Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước’’ [38, tr.187].

Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh là sự tổng hợp các giá trị văn hóa Đông

- Tây, trên nền tảng chủ nghĩa nhân văn Việt Nam được hình thành trong các

phong trào lớn của thế kỷ XX: phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và chủ

nghĩa xã hội.

Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh chính là khát vọng của dân tộc Việt

Nam về các chuẩn mực có tính hướng thiện và tiêu biểu cho các giá trị của

văn hóa Việt Nam. Hồ Chí Minh vừa là anh hùng giải phóng dân tộc và vừa là

. 37

danh nhân văn hóa thế giới. Tư tưởng văn hóa của Người là sự kết tinh truyền

thống văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam cộng với sự đúc kết

những kinh nghiệm hoạt động phong phú của Người tạo nên giá trị mới cho

dân tộc trong việc xây dựng nền văn hóa mới.

Truyền thống văn hóa dân tộc có một sức mạnh lớn lao được lưu giữ và

phát triển qua nhiều thế hệ. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến diện mạo văn

hóa và bản sắc văn hóa mang tính dân tộc sâu sắc. Trong lĩnh vực văn hóa Hồ

Chí Minh thường nhắc đến “cốt cáchh dân tộc”, “đặc tính dân tộc”.

“Mỗi dân tộc phải chăm lo đặc tính của dân tộc mình trong nghệ thuật”

[23, tr.391].

Năm 1962 khi đến thăm triển lãm mỹ thuật toàn quốc, Hồ Chí Minh

cũng căn dặn các nhà văn hóa nên phát huy cốt cách dân tộc.

Mỗi một dân tộc đều có một đặc trưng riêng về tâm lý, tình cảm, ngôn

ngữ, lối sống, phong tục tập quán… Những yếu tố đó chi phối sự tồn tại và

phát triển hàng ngàn năm của dân tộc đó. Dân tộc Việt Nam bao gồm rất

nhiều dân tộc anh em và hơn ai hết Hồ Chí Minh nhận thấy rõ ràng rằng cần

phải có sự bình đẳng giữa các dân tộc và giữa các sắc tộc.

Trước đó ngay khi về tiếp quản Thủ đô, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến

việc xây dựng nền văn hóa dân tộc. Văn hóa dân tộc tạo nên sức mạnh hàng

ngàn năm của dân tộc Việt Nam và dân tộc Việt Nam muốn tồn tại và phát

triển thì cần phải bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 1946 tại Hà Nội, Hồ Chí Minh

cho rằng:

“Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta học lấy để tao ra một

nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn

hóa nay để trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật hợp với tinh thần dân chủ”

[18, tr.343].

. 38

Quan điểm như vậy cho thấy Hồ Chí Minh thực sự muốn văn hóa là

gốc để tạo nền tảng để các lĩnh vực khác tồn tại và phát triển. Nhận rõ sức

mạnh văn hóa, Người muốn “văn hóa phải đi sâu vào đời sống nhân dân…”

Muốn có một nền văn hóa mới cần biết kế thừa và phát triển cả văn hóa

Đông phương và Tây phương, “văn hóa xưa” và “văn hóa nay”. Sự kết hợp

nhuần nhuyễn đó tạo nên văn hóa Việt Nam. Hay nói cách khác văn hóa Việt

Nam là “ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương và Tây phương chung

đúc lại”

Phương châm kết hợp hai nền văn hóa khác nhau đó là phương châm

để phát triển văn hóa Việt Nam. Trong truyền thống văn hóa dân tộc cần phải

biết “phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc” kết hợp với “học tập văn hóa tiên

tiến của các nước”. Đó chính là phương châm và là nguyên tắc chỉ đạo trong

việc xây dựng văn hóa mới. Tuy nhiên cần phải thấy một điều rõ ràng rằng

khi phát huy vốn cũ của văn hóa dân tộc thì những vốn cũ đó phải là những

vốn cũ “quý báu” chứ không phải mọi giá trị của văn hóa cũ.

Kế thừa truyền thống văn hóa dân tộc là kế thừa truyền thống yêu nước

nồng nàn của nhân dân ta. “Dân ta có một lòng nồn nàn yêu nước. Đó là

truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng,

thì tinh thần đó lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to

lớn. Nó lướt qua mọi nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả luc bán nước

và lũ cướp nước” [20, tr.171].

Yêu nước là một nét rất riêng của truyền thống văn hóa dân tộc. Tất

nhiên ai cũng yêu nước mình nhưng lòng yêu nước của người Việt Nam gắn

chặt với lịch sử của dân tộc và ngày càng giàu thêm theo thời gian.

Hồ Chí Minh là một người tiêu biểu cho lòng yêu nước. Ngay từ khi

còn rất nhỏ Người đã biết suy nghĩ, trăn trở trước vận mệnh của dân tộc. Khi

còn rất nhỏ Hồ Chí Minh đã ứng khẩu bài thơ bốn câu ở nhà Hoàng Cao Khải

và câu kết của bài thơ đó đã thể hiện lòng yêu nước vô vàn của người. “Hỏi

. 39

xem non nước mất hay còn”. Câu hỏi đó vừa là một câu hỏi và vừa là một câu

khẳng định tấm lòng yêu nước của Người từ rất sớm.

Hồ Chí Minh là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt

Nam trong hành động, trong lời nói và trong mọi lĩnh vực giao tiếp văn hóa.

Dù trong thời gian nào, không gian nào Hồ Chí Minh cũng phát huy đầy đủ,

cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Người thường nói rằng “Đồng bào

ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước… ai cũng một lòng

nồn nàn yêu nước… Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý… Bổn

phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được ra trưng

bày”

Cùng với ý tưởng lớn về hoà đồng dân tộc, chủ nghĩa thích ứng, chủ

nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh là hiện thân tuyệt vời cho những giá trị đạo đức

truyền thống như đức tính tiết kiệm, tinh thần hiếu học, khiêm tốn và giản dị

Hồ Chí Minh đã vuợt qua chủ nghĩa yêu nước cũ, xác lập trong ý thức

xã hội hiện đại một chủ nghĩa yêu nước mới. Tinh thần yêu nước hiện đại

khác với tinh thần vị quốc của các chí sỹ yêu nước trước kia đã từng nêu lên.

Nhờ có chủ nghĩa yêu nước mới mà cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam

cũng nằm trong khuôn khổ chung của thời đại. Đó là điểm sáng tạo của Hồ

Chí Minh trong việc hoàn thiện chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và là con

đường đúng đắn để giải phóng dân tộc. Đó cũng là điều mà các lớp người đi

trước khác không làm được.

Với hành trang là một vốn kiến thức vững chắc về văn hóa dân tộc,

cộng với lòng yêu nước nhiệt thành, Hồ Chí Minh đã quyết tâm ra đi tìm

đường cứu nước. Cho dù ở đâu và bất cứ lúc nào Người vẫn luôn thể hiện

mình là một người yêu nước. Ngay khi ở Paris, Hồ Chí Minh đã thành lập

nhóm “Những người Việt Nam yêu nước” và gửi đến Hội nghị Véc xây bản

yêu sách đòi những quyền cơ bản cho nhân dân và dân tộc.

. 40

Yêu nước và luôn canh cánh trong lòng ước mơ giải phóng dân tộc và

khi có thể Người tìm mọi cách để thực hiện điều đó. Với Quốc tế III do Lênin

sáng lập ra, Người đã hoàn toàn tin theo chỉ bởi vì “Quốc tế III rất chú ý đến

vấn đề giải phóng thuộc địa…Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc

tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu” [19,

tr.512].

Yêu nước là một sản phẩm vô cùng quý giá của truyền thống dân tộc

được hình thành từ buổi đầu dựng nước, kết tinh từ nền văn minh độc đáo của

người Việt, được nuôi dưỡng và phát triển qua các thế hệ các tầng lớp đồng

bào và trở thành truyền thống dân tộc thấm sâu vào máu thịt của mọi con

người Việt Nam. Hồ Chí Minh cho rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng

có ít nhiều lòng ái quốc.

Sức mạnh từ lòng yêu nước là vô cùng to lớn và tạo nên sức mạnh vô

địch giúp dân tộc vượt qua mọi khó khăn gian khổ tạo nên những chiến thắng

kỳ diệu trước mọi kẻ thù. Hồ Chí Minh luôn khích lệ lòng yêu nước trong mọi

tầng lớp nhân dân. Người kêu gọi mọi người thi đua và đó là thể hiện lòng

yêu nước bằng những hành động cụ thể. Người nhắc nhở phải nêu gương

“người tốt, việc tốt” để mọi người thi đua học tập.

Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần tự tôn, tự lập và tự cường của dân

tộc Việt Nam. Tinh thần đó được hun đúc nên từ lịch sử đấu tranh lâu dài

hàng ngàn năm trước những thử thách khắc nghiệt và to lớn của hoạ ngoại

xâm. Sức sống và ý chí kiên cường đó được truyền từ đời này sang đời khác,

tạo nên nếp suy nghĩ và hành động cho cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Trong lời động viên các chiến sỹ thuộc Trung đoàn quyết tử quân Thủ

đô năm 1949 là lời khẳng định giá trị cao cả của tinh thần đó:

“Các em là đội cảm tử. Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh.

Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc ta mấy ngàn năm, để

lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt,

. 41

Trần Hưng Đạo. Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám,

truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó,

để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau” [19, tr.35].

Trong truyền thống văn hóa của dân tộc, đại đoàn kết toàn dân tộc là

một truyền thống quý báu nảy sinh từ những đặc điểm riêng của dân tộc.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết được phát huy cao độ và có ý

nghĩa sống còn đối với sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. Đại đoàn kết

trong tư tưởng của Người không chỉ là đoàn kết dân tộc mà còn là đoàn kết

quốc tế với “nhân dân yêu chuộng hoà bình” trên toàn thế giới.

Đoàn kết là một truyền thống bắt nguồn từ nhu cầu thực sự của mọi

tầng lớp nhân dân, là yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tư tưởng đại

đoàn kết Hồ Chí Minh cũng bắt nguồn từ chính nhu cầu thực sự đó. Kế thừa

truyền thống đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh đã phát triển đoàn kết từ việc

đoàn kết dân tộc thành đoàn kết với các lực lượng cách mạng và nhân dân yêu

hoà bình trên thế giới. Đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một chiến

lược xây dựng, củng cố, mở rộng, tăng cường lực lượng cách mạng trong sự

nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xã hội, con người.

Độc lập, tự do là mục tiêu theo đuổi của loài người. Quyền sống, quyền

tự do và mưu cầu hạnh phúc cá nhân không ai có thể xâm phạm được. Tất cả

những quyền đó phải được đặt trong lòng quốc gia dân tộc, trên cơ sở của

quyền dân tộc. Tiếp thu các quan điểm tiến bộ trên thế giới và truyền thống

văn hóa dân tộc, Hồ Chí Minh phát triển quyền con người thành quyền của cả

dân tộc.

Trong Tuyên ngôn độc lập đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng

9 năm 1945, người đã cho rằng tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có

quyền bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và

quyền tự do.

. 42

Độc lập tự do thể hiện khát vọng của cả dân tộc cả trong quá khứ, hiện

tại và tương lai. Đó cũng là mục tiêu theo đuổi của cả dân tộc và là điểm hội

tụ thắng lợi của chiến lược - Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,

thành công, đại thành công.

Đại đoàn kết Hồ Chí Minh là một “tư duy triết học” khác với một số

nhà tư tưởng khác khi có quan điểm cực đoan về mối quan hệ giai cấp và dân

tộc, tách biệt hoặc đối lập một cách siêu hình các tầng lớp xã hội cơ bản với

các tầng lớp khác khiến cho quá trình cách mạng vừa chậm lại vừa khó khăn,

không đáng có.

Không những giải quyết tốt quan hệ giai cấp dân tộc trong chiến lược

doàn kết mà Hồ Chí Minh còn giải quyết tốt mối quan hệ giữa đoàn kết dân

tộc và quốc tế. Đoàn kết quốc tế trước hết và trên hết là nhằm phục vụ cho

mục tiêu độc lập và tự do của dân tộc. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cách

mạng Việt Nam nằm trong dòng chảy chung của phong trào cách mạng thế

giới. Với nhãn quan chính trị sâu sắc và kinh nghiệm thực tế, Hồ Chí Minh

nhận thấy rằng rất cần thiết phải đoàn kết các lực lượng cách mạng trên thế

giới, những dân tộc bị áp bức, bị đày đoạ, nhân dân thuộc địa, phong trào

công nhân và những người yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Vì thế mà

chúng ta dễ thấy ngay trong lòng những nước xâm lược Việt Nam cũng xuất

hiện rất nhiều những cuộc phản chiến của nhân dân các nước đó để ủng hộ

cách mạng Việt Nam.

Hồ Chí Minh cho rằng nhân dân ở đâu cũng vậy “đều ưa sự lành và

ghét sự dữ”. Còn nhân dân các nước thuộc địa thì cùng chịu chung “một nỗi

đau khổ: sự bạo ngược của chế độ thực dân”

Ngay cả với kẻ thù chính của dân tộc là đế quốc Pháp, Người cũng vẫn

thấy những lực lượng ủng hộ cho cách mạng Việt Nam, đó là những “người

Pháp dân chủ, những người Pháp chân chính”.

. 43

Độc lập, tự do, hoà bình chính là mục tiêu mà nhân dân ta theo đuổi và

mục tiêu đó được nhân dân trên thế giới hết sức ủng hộ. Phong trào cộng sản

và công nhân quốc tế cùng với phong trào giải phóng dân tộc và phong trào

hoà bình là ba lực lượng chính ủng hộ cho sự nghiệp cách mạng.Đó chính là

động lực lớn cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt

Nam.

Nguyên nhân để nhận được sự ủng hộ của thế giới phần lớn là do mục

tiêu mà chúng ta theo đuổi là chính nghĩa, là phù hợp với xu thế chung của

thời đại đó là bảo vệ hoà bình, bảo vệ chính nghĩa. Để có được sự ủng hộ to

lớn của nhân dân khắp nơi trên thế giới cần phải biết nêu cao ngọn cờ chính

nghĩa, hoà bình và tự do. Hồ Chí Minh cũng khẳng định rõ ràng rằng: vì biết

kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp

công nhân quốc tế và của các dân tộc bị áp bức, mà Đảng ta đã vượt qua được

mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta đến những thắng lợi vẻ

vang.

Nói chung chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh là một chiến lược kế

thừa sâu sắc truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam . Tuy nhiên trong

thời đại mới, Hồ Chí Minh đã biết cải biến và phát triển truyền thống đoàn

kết dân tộc lên tầm cao mới tầm cao thời đại. Đó là biết đặt đoàn kết của dân

tộc với đoàn kết tất cả những con người, những dân tộc yêu chuộng hoà bình

trên thế giới với Việt Nam và ngược lại. Đó là một chiến lược hoàn toàn đúng

đắn và đã góp phần tạo nên những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt

Nam.

Chủ nghĩa nhân văn được bắt nguồn từ truyền thống dân tộc và tinh hoa

văn hóa nhân loại trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh được hình thành và

phát triển trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội để cuối

cùng giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột, khổ đau.

. 44

Truyền thống nhân nghĩa của người Việt nằm ở tình thương con người,

đồng loại. “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một

giàn”. Hoặc “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải

thương nhau cùng”. Cho đến Hồ Chí Minh, lòng thương của con người phát

triển thành sự thực hiện những quyền cơ bản của sự phát triển con người.

Hồ Chí Minh đã từng đến rất nhiều nơi trên thế giới, những nơi có

những con người đang bị đày đoạ và đau khổ và Người cảm thông với những

nỗi khổ đau đó khi phải chịu những hành động “tàn ác không thể chịu đựng

được”. Người đồng cảm với nỗi khổ cùng cực mà nhân dân Việt Nam và nhân

dân các dân tộc bị áp bức đang phải gánh chịu.

Chủ nghĩa nhân văn nhân ái trong con người Hồ Chí Minh thể hiện

bằng việc gợi lên tinh thần bất khuất trong mỗi con người đấu tranh vì độc lập

tự do. C Mác đã từng nói rằng “cần phải làm cho ách áp bức hiện thực càng

nặng nề hơn nữa bằng cách gắn vào nó cái ý thức về ách áp bức, cần phải làm

cho sự ô nhục ngày càng ô nhục hơn nũa bằng cách công bố nó lên” [15,

tr.18].

Thực hiện phương châm đó, bằng ngòi bút sắc sảo Hồ Chí Minh đã gợi

lên trong con người các dân tộc bị áp bức những thảm cảnh mà họ đang phải

gánh chịu và khơi gợi tinh thần phản kháng trong chính con người của họ.

Làm cho những người bị áp bức không cam chịu số phận mà vùng lên giành

lấy quyền sống và quyền tự do cho mình.

Thương người bị áp bức và chỉ bảo đường lối để con người tự giải

phóng bản thân mình khỏi áp bức đó là đặc trưng của chủ nghĩa nhân đạo Hồ

Chí Minh

Kế thừa chủ nghĩa nhân văn nhân ái của dân tộc và được soi rọi bởi ánh

sáng của tinh hoa văn hóa nhân loại, Hồ Chí Minh đã đưa chủ nghĩa nhân văn,

nhân ái của dân tộc ta trở thành tài sản chung của nhân loại vì trong Hồ Chí

. 45

Minh thì chủ nghĩa nhân văn, nhân ái Hồ Chí Minh đã mang tầm quốc tế, hoà

mình trong dòng chảy chung của nhân loại.

Không chỉ biết kế thừa những giá trị văn hóa trong nước,kế thừa những

yếu tố tiên tiến, tinh hoa của văn hóa nhân loại là một nhiệm vụ không thể

thiếu đối với việc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam trong tư tưởng văn

hóa Hồ Chí Minh.

Sinh ra trong thời kỳ nước nhà chịu cảnh nô lệ, lầm than, Hồ Chí Minh

đã sớm có ý chí quyết tâm ra đi tìm con đường để đưa đất nước thoát khỏi ách

nô lệ lầm than. Người đã bôn ba khắp năm châu bốn biển, tiếp xúc với nhiều

học thuyết, nhiều tư tưởng tiến bộ và cả những học thuyết tư tưởng phản

động, chứng kiến nhiều cảnh đời khổ ải lầm than đang chịu áp bức, nô lệ…

Có thể nói hiện thực cuộc sống, những tư tưởng mà Người được tiếp xúc đã

góp phần hình thành ở Hồ Chí Minh những hệ thống tư tưởng về cách mạng

Việt Nam và về xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam.

Kế thừa văn hóa nhân loại là một sự kế thừa năng động, hiệu quả, kế

thừa những giá trị tiên tiến, những tinh hoa của văn hóa nhân loại chứ không

phải bê nguyên xi những tư tưởng từ bên ngoài. Hồ Chí Minh đã kế thừa tinh

hoa văn hóa phương Đông phương Tây, chủ nghĩa Mác - Lênin để bổ sung

làm giàu cho văn hóa Việt Nam.

Cuối thế kỷ XIX, Việt Nam là một nước có lịch sử văn hóa lâu đời

nhưng tình trạng trì trệ, kém phát triển và không thể đứng vững trước sức

mạnh xâm lược của chủ nghĩa tư bản Pháp. Mặc dù nhân dân ta rất anh dũng

không sợ hy sinh gian khổ, quyết tâm đứng dậy kháng chiến chống lại sự

thống trị của thực dân Pháp. Tuy nhiên do thiếu một đường lối đúng đắn chỉ

đạo nên hầu như sớm hay muộn những phong trào cách mạng này đều bị thất

bại.

Sớm có lòng nhiệt thành yêu nước, Hồ Chí Minh đã quyết tâm ra đi tìm

đường đúng đắn để cứu nước nhà khỏi vòng nô lệ. Hồ Chí Minh đã đi nhiều

. 46

nơi, gặp nhiều học thuyết, chủ nghĩa và tư tưởng khác nhau. Tuy vậy chỉ có

“chủ nghĩa Lênin” là cách mạng nhất và đúng đắn nhất và Người đã quyết

tâm đi theo “chủ nghĩa Lênin”.

Hồ Chí Minh đã từng nói “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều

nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ

nghĩa Lênin”.

Khi mới bước chân ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh không thể

hình dung được rằng sẽ gặp học thuyết nào, tư tưởng nào để mang về giải

phóng cho dân tộc. Cho đến khi gặp “chủ nghĩa Lênin” thì Người vui mừng vì

đã tìm ra cái “cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng

ta”. Luận cương của Lênin đã làm cho Người “rất cảm động, phấn khởi, sáng

tỏ, tin tưởng” vì “chủ nghĩa Lênin” đã chỉ cho Hồ Chí Minh thấy con đường

mà dân tộc cần làm để giải phóng cho mình khỏi áp bức nô lệ.

Tại Đại hội Đảng xã hội Pháp lần thứ 18 họp ở Tua, Hồ Chí Minh đã

kiên quyết tán thành và ủng hộ Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng cộng

sản Pháp. Như vậy là Hồ Chí Minh đã hoàn toàn nhất trí và tin theo “chủ

nghĩa Lênin” và từ một người yêu nước Hồ Chí Minh đã trở thành người Việt

Nam đầu tiên đi theo chủ nghĩa cộng sản. Và con đường cách mạng của Việt

Nam cũng từ đây gắn liền với con đường cách mạng vô sản.

Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là bước chuyển về chất trong tư tưởng Hồ

Chí Minh. Với hành trang là chủ nghĩa yêu nước làm nền tảng và một nền học

vấn Nho học, nhưng phải đến chủ nghĩa Mác - Lênin mới tạo nên sự biến đổi

toàn diện về chất trong tư tưởng của Người. Nó tạo nên bước ngoặt cho cách

mạng Việt Nam và tư tưởng của Người. Chủ nghĩa yêu nước trong Hồ Chí

Minh đã kết hợp với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn liền với giải

phóng giai cấp, cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vô sản.

Chủ nghĩa Mác - Lênin được Người cho rằng là cái cẩm nang thần kỳ,

là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đến mọi thắng lợi. Hồ Chí Minh nhấn

. 47

mạnh rằng sở dĩ chúng ta giành được thắng lợi là do nhiều nhân tố, nhưng

phải nhấn mạnh rằng chúng ta giành được những thắng lợi là nhờ “vũ khí

không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lênin”.

Kế thừa chủ nghĩa Mác - Lênin cũng là kế thừa một bộ phận tiên tiến

của văn hóa nhân loại. Sự kế thừa đó không phải là một sự kế thừa máy móc,

nguyên xi mà là một sự kế thừa năng động, kế thừa những mặt, những nội

dung thích hợp với hoàn cảnh lịch sử Việt Nam . Người đã rất sáng tạo khi

đánh giá về chủ nghĩa Mác - Lênin rằng cần phải bổ xung vào chủ nghĩa Mác

- Lênin những cơ sở lịch sử phương Đông vì chủ nghĩa Mác - Lênin cũng xuất

phát từ cơ sở văn hóa châu Âu, không phải là toàn nhân loại.

Kế thừa một cách sáng tạo, Hồ Chí Minh ít khi trích dẫn nguyên văn tư

tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin mà thường diễn đạt

nó một cách sáng tạo, giản dị và dễ hiểu, gắn liền với thực tiễn cách mạng

Việt Nam. Việc học tập, kế thừa chủ nghĩa Mác - Lênin là phải nắm vững cái

“linh hồn sống”, cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin đó chính là phương pháp

biện chứng. Người nhấn mạnh phải học tập chủ nghĩa Mác - Lênin ở “lập

trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng

lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề

thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta.

Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là trang bị cho bản thân chúng ta hệ tư

tưởng tiên tiến cách mạng và khoa học. Tuy vậy nắm vững chủ nghĩa Mác -

Lênin mà sống “không có tình có nghĩa” thì cũng không phải là nắm vững

chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là luận điểm cực kỳ sáng tạo của Người về cách

mạng Việt Nam, về truyền thống dân tộc kết hợp với chủ nghĩa Mác - Lênin -

hệ tư tưởng tiên tiến của thời đại.

Bên cạnh chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng tiên tiến của giai cấp

công nhân, Hồ Chí Minh còn biết kế thừa những tinh hoa văn hóa phương

Đông và phương Tây và những tư tưởng tiến bộ của cách mạng Trung Quốc.

. 48

Hồ Chí Minh biết kế thừa các học thuyết đó một cách có phê phán,

chọn lọc, không sao chép máy móc, không phủ định giản đơn mà Hồ Chí

Minh biết phân tích tìm ra những yếu tố tích cực, phù hợp với bản thân và với

hoàn cảnh Việt Nam.

Với cách nhìn rất “biện chứng”, Hồ Chí Minh nhìn nhận những nhà tư

tưởng lớn trên thế giới như Khổng Tử, Giê su, Mác, Tôn Dật Tiên… đều có

những ưu điểm chung đó là “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi

cho xã hội”.

Điều đó cho thấy Hồ Chí Minh đã biết kế thừa một cách có chọn lọc

những tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho tư tưởng của Người.

Với Nho giáo, Hồ Chí Minh là người được giáo dục từ khi còn rất nhỏ

những nội dung tư tưởng của Nho giáo với những người thầy chân chính có

những tư tưởng tiến bộ. Những kiến thức về Nho học ngay từ những ngày đầu

tiên của cuộc đời đã im đậm trong tư tưởng của Người và tạo nên một nền văn

hóa Nho học vững vàng trong tư tưởng của Người. Tư tưởng tiến bộ của Nho

giáo được Người tiếp thu và biến đổi cho phù hợp những chuẩn mực của thời

đại mới, rất dễ hiểu và dễ gần với người Việt Nam. Chẳng hạn khái niệm

“trung quân, ái quốc” của Nho giáo được Người phát triển thành “trung với

nước, hiếu với dân” cho phù hợp. Hoặc tư tưởng “tứ hải giai huynh đệ” cũng

được Hồ Chí Minh phát triển thành tình hữu nghị với tất cả nước tiến bộ trên

thế giới.

Tiếp thu những yếu tố tích cực của Nho giáo, Hồ Chí Minh loại bỏ

những yếu tố tiêu cực, thủ cựu của Nho giáo giống như “đạo đức cũ như

người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời”. Còn chúng ta cần phải xây

dựng đạo đức mới “như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng

lên trời”.

Ngoài những tư tưởng tiến bộ của Nho giáo, Hồ Chí Minh còn tiếp thu

những tư tưởng tiến bộ của Phật giáo, Lão giáo…

. 49

Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh được tiếp xúc với

chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đánh giá rất đúng đắn

về chủ nghĩa Tôn Trung Sơn và tư tưởng của ông. Hồ Chí Minh cho rằng Tôn

Trung Sơn “luôn trung thành với những nguyên lý của mình, ngay cả trong

lúc khó khăn nhất”. Và đảng đó đã “đoàn kết với các dân tộc bị áp bức ở các

nước thuộc địa với giai cấp vô sản quốc tế”.

Tuy vậy chủ nghĩa Tam dân không tránh khỏi những hạn chế và có

những điểm không phù hợp với thực tế Việt Nam nên Người đã biết khai thác

những tư tưởng phù hợp với nước ta như khẩu hiệu “Độc lập - Tự do - Hạnh

phúc”... mang tính giai cấp, tính dân tộc và tính cách mạng triệt để.

Thứ tư là những tinh hoa văn hóa phương Tây ảnh hưởng khá lớn đến

tư tưởng của Hồ Chí Minh. Ngay từ khi còn rất nhỏ Hồ Chí Minh đã được

nghe nói về những giá trị tiến bộ của cách mạng tư sản. Những phạm trù như

“tự do, bình đẳng, bác ái ” đã thôi thúc Hồ Chí Minh đi sang phương Tây để

tìm hiều về cuộc sống của xã hội phương Tây.

Hồ Chí Minh đã đặt chân đến nhiều nơi trên thế giới kể cả các nước tư

bản và Người nhận thấy bên cạnh những giá trị mà mọi người thường được

nghe nói đến là những bất công xã hội và những bất bình đẳng trong xã hội.

Thực tế Hồ Chí Minh cũng đã tiếp xúc với những tư tưởng nhân đạo

của thời kỳ Phục hưng, những tư tưởng tiến bộ của thời kỳ triết học Khai

sáng, những tư tưởng tiến bộ của các nhà văn Pháp… Những tư tưởng tiến bộ

đó được Người tiếp thu và đồng thời cũng phê phán những mặt hạn chế.

Đối với những cuộc cách mạng tư sản mặc dù tạo nên sự thay đổi lớn

trong xã hội nhưng vẫn chưa thực sự triệt để giải phóng con người. Với cách

mạng Mỹ đã thành công 150 năm rồi nhưng “công nông vẫn cực khổ” vì cách

mạng chưa triệt để. Ngay cả với cách mạng Pháp với tiếng là cộng hoà và dân

chủ nhưng “trong thì bóc lột công nông ngoài thì áp bức thuộc địa”.

. 50

Tiếp thu các tư tưởng tiến bộ trên thế giới và loại bỏ những mặt hạn chế

để phục vụ tốt nhất cho cách mạng Việt Nam. Đó chính là phương pháp luận

của Hồ Chí Minh - kế thừa những tinh hoa văn hóa nhân loại.

. 51

Chương 3

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ

TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Xây dựng một nền văn hoá giàu bản sắc, mang đậm truyền

thống dân tộc là nền tảng cơ bản

3.1.1. Một nền văn hoá Việt Nam luôn nêu cao chủ nghĩa yêu nước,

lòng tự hào dân tộc

Bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị văn hóa được bảo tồn qua

nhiều thế hệ. Hội nghị lần thứ V BCH TƯ Đảng cộng sản Việt Nam khẳng

định cần phải “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà

bản sắc dân tộc”. Bản sắc dân tộc tồn tại trong bất cứ dân tộc nào và thời gian

nào vì mỗi dân tộc lại có những nét văn hóa riêng. Bản sắc văn hóa cũng

chính là hệ thống các “giá trị, truyền thống, thị hiếu, thẩm mỹ, lối sống” mà

dựa trên nó các dân tộc khẳng định bản sắc riêng mình.

Trong những giá trị văn hóa dân tộc thì chủ nghĩa yêu nước, lòng tự

hào dân tộc là nét giá trị nổi trội nhất. Nhân dân ta, dân tộc ta đã tạo nên một

chủ nghĩa yêu nước mà chỉ mang bản sắc của riêng Việt Nam. Chính vì lẽ đó

Mac na ma ra đã phải thừa nhận sự thất bại của Mỹ ở Việt Nam là do chưa

hiểu hết lịch sử, văn hóa và sức mạnh tinh thần của nhân dân Việt Nam.

Nghị quyết 9 của Bộ Chính trị ngày 18.2.1995 khẳng định “những giá

trị văn hóa truyền thống bền vững của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước

nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý thương người như thể thương

thân, đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động…”

Hồ Chí Minh đánh giá rất cao truyền thống yêu nước của dân tộc ta và

coi việc kế thừa truyền thống ấy là một động lực của cách mạng. Nhưng đồng

thời, Người cũng thấy hạn chế của tinh thần yêu nước ở tính dân tộc hẹp hòi

của nó. Để khắc phục điều đó thì kế thừa tinh thần yêu nước phải dựa trên sự

. 52

kết hợp với tinh thần quốc tế. “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển

thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành thắng lợi hoàn toàn”

[21,tr.305] và vì thế cán bộ và nhân dân phải trở thành một sức mạnh hiện

thực trong công cuộc đấu tranh giải phóng và xây dựng đất nước.

Chủ nghĩa yêu nước đã tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Qua

bao đời nó lại càng được vun đắp và làm giàu thêm. Tuy nhiên chủ nghĩa yêu

nước cũng đã trải qua những thăng trầm nhất là khi chủ nghĩa tư bản đặt chân

lên Việt Nam. Đầu thế kỷ XX giá trị cơ bản của dân tộc là chủ nghĩa yêu

nước lâm vào khủng hoảng khi không đáp ứng được yêu cầu của lịch sử. Khi

đó chủ nghĩa yêu nước mới đã xuất hiện trong môi trường văn hóa truyền

thống. Yêu nước không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà còn mở rộng

phạm vi quốc tế. Đó là sự kết hợp giữa tình cảm yêu nước của những con

người lao động dân tộc với nhân dân lao động trên toàn thế giới mà trong đó

đặc biệt là tình cảm với giai cấp vô sản trên toàn thế giới.

Thế kỷ XX là thế kỷ mà chúng ta vun đắp, xây dựng nên chủ nghĩa yêu

nước mới với công sức của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. Chúng ta đã

tạo ra giá trị văn hóa mới và tồn tại một cách vững chắc trong cộng đồng dân

tộc. Chủ nghĩa yêu nước mới đã là sợi dây liên kết vững chắc cả cộng đồng

dân tộc và với cả cộng đồng quốc tế. Cộng đồng dân tộc là một khối thống

nhất trong sự đa dạng và đã biết liên kết tất cả dân tộc vào một nhiệm vụ

chung nhất là giải phóng dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước kiểu mới đã đoàn kết

các dân tộc trong cộng đồng, giữ gìn và phát triển những giá trị nhân đạo và

khoan dung từ nền văn hóa truyền thống đến các giá trị nhân đạo trong tư

tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa yêu nước kiểu mới đã động viên và

huy động toàn bộ các giá trị của nền văn hóa dân tộc để bảo vệ vững chắc nền

độc lập và thống nhất Tổ quốc.

Có thể thấy rằng trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc có

một sự thống nhất chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước và tinh thần bảo vệ nền

. 53

độc lập dân tộc. Chính chủ nghĩa yêu nước đã tạo nên những Bà Trưng, Bà

Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Quang Trung… và sau này là vô số

những anh hùng khác. Đó là sự minh chứng cho chủ nghĩa yêu nước được tiếp

nối qua nhiều thế hệ.

Xã hội mới Việt Nam với nền văn hóa mới phải lấy chủ nghĩa yêu nước

mới làm căn bản. Bởi lẽ chủ nghĩa yêu nước mới đã chứng tỏ giá trị của nó

trong suốt thời gian dài đồng hành cùng dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước mới đã

góp phần lớn lao trong công cuộc giành độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc

và cũng vì lẽ đó mà được loài người kính phục.

Có thể hiểu rằng chủ nghĩa yêu nước chân chính bao giờ cũng gắn liền

với nhiệm vụ giữ vững nền độc lập dân tộc. Chúng ta phấn đấu xây dựng và

phát huy chủ nghĩa yêu nước cũng là phát huy tinh thần bảo vệ vững chắc độc

lập dân tộc.

Ngày nay thế giới đang tồn tại xu hướng hoà bình ổn định và chứng

kiến xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá. Do vậy yêu nước cũng là bảo vệ độc

lập dân tộc lại mang những nhiệm vụ mới trên nhiều phương diện như kinh tế,

chính trị, văn hóa…

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là phương châm bất biến trong

mọi hoàn cảnh. Trong quá trình phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường

thế giới đã gây ra những tác động không nhỏ đến từng người dân, dưới nhiều

hình thức. Quan niệm về lãnh thổ, quốc gia và cả chủ quyền dân tộc cũng thay

đổi rất nhiều. Và để tránh tụt hậu so với nền kinh tế thế giới thì quá trình phát

triển nền kinh tế thị trường tại Việt Nam là không thể tránh khỏi. Để có thể

hạn chế thấp nhất những mặt tiêu cực do kinh tế thị trường gây ra cần phải giữ

vững độc lập dân tộc và vẫn có thể phát triển nền kinh tế.

3.1.2. Nền văn hoá biết tôn trọng đạo đức, đề cao vai trò giáo dục

bằng đạo đức

. 54

Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng một nền giáo dục biết đề

cao và tôn trọng vị trí và vai trò của đạo đức, nhưng tránh không tuyệt đối hoá

vai trò của đạo đức vì ngoài ra còn có pháp luật để điều chỉnh hành vi con

người.

Trong cuộc đời mình Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc hoàn thiện giá

trị đạo đức con người. Để xây dựng nền văn hóa mới không thể không xây

dựng nền đạo đức mới. Với Hồ Chí Minh đạo đức là gốc của mọi sự tốt đẹp

trong các quan hệ xã hội của con người. Nếu thiếu đạo đức thì không có hoạt

động xã hội nào được phát triển tốt đẹp.

Hồ Chí Minh đã có cơ sở, phương pháp luận rõ rệt trong quan niệm về

đạo đức và Hồ Chí Minh luôn cho rằng đức là gốc của xã hội. Điều đó chúng

ta lại càng thấy rõ khi tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chi phối những tư tưởng

khác.

Trong con người Hồ Chí Minh thì đạo đức không chỉ là sự phấn đấu

của sự rèn luyện mà đó là cái gốc của xã hội là nền tảng trong các quan hệ xã

hội. Hồ Chí Minh không phải là người duy nhất và đầu tiên coi vai trò đạo

đức là nhân tố có ý nghĩa quyết định cho sự phát triển xã hội.

Hồ Chí Minh đã có cách nhìn biện chứng về đạo đức và phương pháp

rèn luyện để có nền tảng đạo đức. Đạo đức trong quan niệm của Người là đạo

đức cách mạng và cũng chỉ có đạo đức cách mạng mới có tác dụng cải tạo xã

hội và cá nhân con người.

Trong cách tu dưỡng đạo đức, Hồ Chí Minh cho rằng việc tu dưỡng

đạo đức không phải là việc riêng của mỗi con người, chỉ cần đóng cửa tu thân

hoặc giữ mình đến mức không thể tiếp xúc với ai, không va chạm với thực tế.

Đạo đức không phải là chỉ lo cho bản thân mình mà không cần biết đến quyền

lợi người khác giống như quan điểm nhân quyền tư sản. Đạo đức là cuộc đấu

tranh vì mình và vì mọi người, quyền lợi của mình gắn liền với quyền lợi mọi

người, quyền lợi của mỗi người đều gắn liền trong quyền lợi chung của cả dân

. 55

tộc và nhân loại. Vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng người có đạo đức phải là

người dám đấu tranh với những bất công trong xã hội, dám hi sinh vì người

khác, thấy hạnh phúc của mình chỉ có được khi gắn liền với hạnh phúc của

người khác, của mọi người, của nhân dân. Do đó, đạo đức theo Hồ Chí Minh

là đạo đức cách mạng và cũng chỉ có đạo đức cách mạng mới là động lực cho

sự phát triển. Đạo đức cách mạng không phải là cái gì trên trời rơi xuống mà

đạo đức cách mạng bắt nguồn từ nhân dân và do nhân dân mà có. Nó gắn liền

với sự nghiệp cách mạng của quần chúng nhân dân, coi sự nghiệp cách mạng

là công việc của nhân dân. Điều đó cho thấy rằng người đề cao đạo đức mà

không xa vào chủ nghĩa không tưởng, hư vô.

Đạo đức chỉ có thể có khi chúng ta tham gia vào trong các quá trình cải

tạo xã hội, đấu tranh giành quyền lợi cho mọi người trong đó có bản thân và

đấu tranh chống lại những cái ác, cái xấu…để hướng tới xây dựng những giá

trị tốt đẹp.

“Muốn có chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ

nghĩa ”

Chúng ta thường thấy trong các quan điểm về kinh tế, chính trị, quân

sự… thường thấy rõ những tư tưởng đạo đức của Người chi phối. Đối với lĩnh

vực kinh tế Hồ Chí Minh luôn cho rằng khi phát triển kinh tế cần phải biết

phát triển và nâng cao đời sống của mọi người dân. Nếu nhân dân giầu có thì

nhà nước cũng trở nên giàu có và mạnh mẽ. Khi phát triển kinh tế thì cần

phát triển công bằng bởi vì “không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng”. Trong

quan điểm về chiến tranh, Hồ Chí Minh cho rằng chiến tranh cách mạng,

chính nghĩa gắn liền với tinh thần giữ gìn hoà bình, nhân văn và nhân đạo.

Chiến tranh của chúng ta là cuộc chiến bất đắc dĩ để bảo vệ độc lập dân tộc.

Chính biểu tượng bàn tay của Người khi sang Pháp dự Hội nghị Phông ten nơ

blô năm 1946 đã cho thấy dân tộc Việt Nam luôn không muốn chiến tranh.

. 56

Có thể thấy tư tưởng đạo đức của Người ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực

và chi phối nó. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh gắn liền với sự công bằng và

tiến bộ xã hội. Hồ Chí Minh đã sống trong môi trường đạo đức truyền thống

dân tộc nơi đã nuôi dưỡng biết bao những vị anh hùng dân tộc. Những giá trị

đạo đức đó đã ăn sâu vào con người Hồ Chí Minh và cùng với những giá trị

đạo đức tiên tiến của nhân loại đã tạo nên đạo đức Hồ Chí Minh.

Trong vấn đề quyền dân tộc, Hồ Chí Minh đã đưa các giá trị đạo đức

làm cơ sở cho sự phát triển trên một chiều rộng và bám sâu trong mọi quan hệ

xã hội. Với việc đưa những giá trị đạo đức dân tộc vào trong đời sống hiện tại

một cách hợp lý thì Hồ Chí Minh đã tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa đạo đức

truyền thống với thời đại.

Đạo đức truyền thống dân tộc chỉ bó hẹp trong phạm vi hạn hẹp là quốc

gia dân tộc. Hồ Chí Minh đã tiếp thu các giá trị đạo đức của nhân loại để bổ

xung cho đạo đức dân tộc, biến đạo đức dân tộc thành bộ phận của tinh thần

quốc tế. Điều này cho thấy Hồ Chí Minh đưa chủ nghĩa yêu nước chân chính

kết hợp với các giá trị đạo đức tiến bộ và gạt bỏ những mặt lạc hậu trong các

quan hệ xã hội mới và củng cố ý thức đạo đức mới.

Đạo đức truyền thống dân tộc có nhiều giá trị còn mãi cho đến bây giờ

như lòng nhân ái, giản dị, tiết kiệm …Tuy vậy những điều đó là chưa đủ để

đạo đức có thể tồn tại trong thời đại mới. Những phẩm chất đạo đức cũ cần

phải hiểu với một ý nghĩa khác phù hợp với thời đại. Chẳng hạn như:

“Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào. Vì

thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến đảng, đến

nhân dân…”

“Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có

việc gì giấu đảng…” [19, tr.66].

Có thể thấy đó chỉ là một trong số rất nhiều phạm trù đạo đức được Hồ

Chí Minh phát triển cho phù hợp với thời đại. Ngày nay chúng ta càng thấy rõ

. 57

văn hóa đạo đức có vai trò đặc biệt trong sự tiến bộ của xã hội. Văn hóa đạo

đức làm nền tảng cho các quan hệ xã hội làm cho các quan hệ giữa người và

người trở nên thân thiện hơn và góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp hơn.

Trong thời kỳ xã hội mới các quan hệ đạo đức đang biến chuyển mạnh

mẽ, những chuẩn mực đạo đức bị nền kinh tế xã hội tác động mạnh mẽ.

Những phạm trù đạo đức cũ và mới đan xen bổ xung và hoàn thiện lẫn nhau

dựa trên cơ sở khoa học và pháp luật. Những giá trị đạo đức mà Hồ Chí Minh

và đảng ta đã tạo nên những giá trị đạo đức mới. Sự điều chỉnh của các giá trị

đạo đức mới trên cơ sở của tình người dưới tác động của các giá trị khoa học

và quan hệ pháp luật tạo nên sự biến đổi sâu sắc trong các quan hệ xã hội.

Cần phải giáo dục những phẩm chất đạo đức mới cho con người như

Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã nêu là

“ con người có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân, có tri thức, sức

khỏe và lao động giỏi.Sống có văn hóa và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và

tinh thần quốc tế chân chính”.

Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể đạt thành công nếu

không có sự phát triển tương ứng về mặt đạo đức. Trong môi trường cạnh

tranh và phát triển mạnh mẽ cần thiết phải có chuẩn mực đạo đức mới làm

nền tảng tạo nên quan hệ tốt đẹp giữa con người và con người. Giáo dục đạo

đức mới cho con người có thái độ đúng đắn trong lao động, xác định lý tưởng

đúng đắn trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Xác định rõ điều gì

đã thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Giáo dục đạo đức là bồi dưỡng những tư tưởng nhân đạo cao quý cho

con người, làm cho con người có đời sống tâm hồn trong sáng và có nghĩa vụ

với gia đình với Tổ quốc với cuộc sống. Giáo dục đạo đức hướng con người

tới những giá trị thiện của cuộc sống, góp phần hoàn thiện nhân cách hài hoà

giữa cá nhân và xã hội.

. 58

3.1.3. Bảo tồn những giá trị nhân nghĩa nhân đạo trong truyền thống

dân tộc

Trong truyền thống văn hóa dân tộc ngoài truyền thống yêu nước là

phẩm chất nổi trội thì nhân nghĩa cũng là nét giá trị đặc trưng của nhân dân ta.

Đã từ lâu chúng ta thường được giáo dục bằng những câu ca nói về lòng nhân

ái của con người với con người. Nhân dân ta thường ví tình cảm của mọi

người trong một nước như là tình anh em một nhà. Truyền thuyết đã kể rằng

dân tộc ta vốn cùng chung tổ tiên, là con Lạc cháu Hồng. Và đã là anh em

trong một nhà thì phải biết thương nhau. Có câu “Bầu ơi thương lấy bí

cùng.Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Hay là “Nhiễu điều phủ

lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng”.

Có thể thấy rõ lòng nhân ái đã là một giá trị đặc trưng trong truyền

thống đạo đức người Việt. Nhân dân ta luôn nhắc nhở chúng ta phải thương

yêu đùm bọc lẫn nhau “lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể thương

thân”. Đó là một giá trị nhưng có lẽ đó cũng là động lực để dân tộc Việt Nam

có thể tồn tại anh hùng cho đến tận ngày nay. Vì lẽ chính tình thương đã tạo

nên cho dân tộc một khối thống nhất vững chắc mà không thể có thế lực nào

lay chuyển. Đã bao nhiêu cuộc chiến tranh và cũng chừng ấy những chiến

thắng vô cùng vẻ vang của dân tộc. Nhưng sau chiến tranh dân tộc ta lại bắt

tay hoà bình với kẻ xâm lược và cũng là kẻ chiến bại để xây dựng một nền

hoà bình muôn đời. Cũng như tuyên ngôn của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô

đại cáo đã thể hiện rõ truyền thống nhân nghĩa:

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cuờng bạo” [33, tr.29].

Hồ Chí Minh kế thừa truyền thống đạo đức nhân ái tốt đẹp của dân tộc,

đồng thời Người đã phát triển nó lên tầm thời đại với việc mở rộng tình

thương, lòng nhân ái không chỉ trong phạm vi dân tộc mà trên phạm vi toàn

thế giới. Đối với Hồ Chí Minh thì không chỉ tồn tại “tình nghĩa đồng bào,

. 59

đồng chí” mà còn tồn tại “tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà”. Trong

cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh đã đi qua rất nhiều nơi và những

nơi đó đều để lại trong cuộc đời hoạt động của Người những ân tình không

thể nào quên.

Người ta thường nói khi cho các gì đi thì sẽ nhận được cái đó. Có lẽ

cũng từ điều đó mà chúng ta thấy mọi người trên thế giới đều rất quý mến Hồ

Chí Minh như một lẽ tự nhiên, ngay cả với những người có thể chưa gặp mặt

Người lần nào. Hồ Chí Minh đã nhiều lần được giúp đỡ đặc biệt mà không

phụ thuộc vào một thế lực nào cả mà đó chỉ là do những xúc cảm do nhân tình

mang lại. Nếu không có nhân tình thì chắc rằng ông luật sư người Anh

Lôgiơby sẽ không tốn bao sức lực để cứu thoát một nhà hoạt động cách mạng

cộng sản như vậy. Và Hồ Chí Minh cũng đã luôn nhớ đến ân tình của người

đã hết lòng giúp đỡ mình và cả dân tộc Việt Nam cũng phải biết ơn điều đó.

Hồ Chí Minh đã nhắc nhở rằng thuộc bao nhiêu chủ nghĩa Mác - Lênin

mà sống không có tình, có nghĩa thì cũng không phải là hiểu chủ nghĩa Mác -

Lênin.

Phải là một người sống có tình nghĩa như thế nào mới có thể có một

luận điểm có tính chân lý như vậy.

Thời đại ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ như vũ bão của nền

kinh tế và của xu thế toàn cầu hoá, những giá trị văn hóa cũng bị ảnh hưởng.

Với cơ chế thị trường đặt lợi nhuận lên hàng đầu, những giá trị đạo đức tốt

đẹp của dân tộc trong đó có giá trị nhân nghĩa bị ảnh hưởng. Có thể những giá

trị của nền kinh tế thị trường chiếm được ưu thế tạm thời đối với các giá trị

đạo đức truyền thống. Do vậy cần phải xây dựng những con người có đầy đủ

trí thông minh và lòng nhân ái để chống lại những hiện tượng phản văn hóa

đó.

3.1.4. Nêu cao truyền thống đoàn kết nhất trí trong sự nghiệp đấu

tranh, bảo vệ nền độc lập dân tộc

. 60

Dân tộc Việt Nam sớm phải tiến hành các cuộc đấu tranh để bảo vệ nền

độc lập dân tộc. Dường như điều đó đã gắn kết dân tộc thành một khối đoàn

kết vững chắc.Tất nhiên không chỉ dân tộc ta biết đoàn kết mà các dân tộc

khác cũng đoàn kết tuy mang những sắc thái khác nhau.

Thế kỷ XIX chứng kiến bản tuyên ngôn bất hủ cho sự ra đời của chủ

nghĩa cộng sản “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” của Mác - Ănghen và lời

kêu gọi mọi giai cấp vô sản trên toàn thế giới liên hiệp lại “Vô sản toàn thế

giới đoàn kết lại”. Khẩu hiệu đó đã nói lên rằng đoàn kết là chiến lược của

cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao

động và cũng là cái bảo đảm cho xây dựng chế độ xã hội mới: xã hội xã hội

chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản.

Tiếp nối những tư tưởng của Mác - Ănghen, Lênin trong hoàn cảnh đầu

thế kỷ XX đã phát triển tư tưởng đoàn kết của Mác - Ănghen lên tầm cao mới.

Lênin đưa ra khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn

kết lại”. Thời đại Lênin sống là thời kỳ xâm chiếm thuộc địa của chủ nghĩa tư

bản nên cần phải đoàn kết với cả các nước đang bị xâm chiếm, bị áp bức.

Dựa trên truyền thống đoàn kết của dân tộc, được bổ xung bằng tinh

thần đoàn kết quốc tế vô sản, Hồ Chí Minh đã đưa tinh thần đoàn kết lên tầm

cao mới đó là đoàn kết dân tộc kết hợp chặt chẽ với đoàn kết quốc tế.

Hồ Chí Minh đã đúc kết rằng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành

công, thành công, đại thành công”. Điều đó đã là phương châm chỉ đạo cho

cách mạng Việt Nam và hướng cách mạng Việt Nam đi đến những thành công

mới.

Ngày nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta càng cần phải ra sức

xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc mà trước hết là phải đoàn kết trong đảng.

Hồ Chí Minh căn dặn tất cả cán bộ, đảng viên, dù ở cương vị khác

nhau, làm công tác khác nhau cũng đều phải đoàn kết nhất trí để làm tròn

nhiệm vụ của đảng giao cho…Muốn thật sự đoàn kết thì phải dân chủ thực sự

trong đảng.

. 61

Đảng ta là đảng cầm quyền, do vậy đoàn kết trong đảng sẽ góp phần

làm cho nhiệm vụ chèo lái dân tộc của đảng trở nên hiệu quả hơn. Đoàn kết

trong đảng là nhiệm vụ sống còn đối với sự nghiệp cách mạng, đảng viên phải

giữ gìn sự đoàn kết như “giữ gìn con ngươi của mắt mình” [21, 570].

Đảng cộng sản Việt Nam ra đời lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng

đánh đổ phong kiến, thực dân giành lại độc lập tự do cho dân tộc, đưa đất

nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện mục tiêu: dân giàu nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cho nên ngoài nhiệm vụ đề ra là

tạo ra con đường đi đúng đắn cho đất nước dân tộc, đảng ta còn là trung tâm

của khối đại đoàn kết toàn dân, để tạo ra sức mạnh lớn lao nhằm chiến thắng

trước mọi kẻ thù và thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng đất nước phồn

vinh.

Đoàn kết tạo ra sức mạnh và sức mạnh bắt nguồn từ đoàn kết. Do vậy

sức mạnh đoàn kết của nhân dân là sức mạnh vô cùng to lớn không có gì so

sánh được. Cách để đoàn kết nhân dân lại là tập hợp nhân dân, thu hút nhân

dân vào trong mặt trận thống nhất để thoả mãn yêu cầu và nguyện vọng chính

đáng của nhân dân. Trong khi chưa giành được độc lập dân tộc, tất cả đều có

một mục đích chung là độc lập dân tộc cho nên có thể tập hợp dễ dàng mọi

sức mạnh quần chúng trong khối thống nhất. Tuy nhiên trong thời kỳ hoà bình

nhiều lợi ích đan xen lẫn nhau, phải làm sao để điều hoà các lợi ích giữa các

giai cấp, dân tộc là nhiệm vụ khó khăn nhất với đảng và nhà nước ta.

Đảng và nhà nước ta đã chỉ rõ vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc

có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc

trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau

cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói giảm nghèo,

nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ

. 62

viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc” là đường lối chiến lược, là nguồn

gốc sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [5, tr.122].

Mỗi quá trình lịch sử của dân tộc đều gắn bó mật thiết với chiến lược

đại đoàn kết dân tộc. Đó là sức mạnh đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng,

là ngọn cờ tập hợp lực lượng đưa đất nước bước vào thời kỳ mới.

3.2. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến hoà nhập với dòng chảy văn

hoá nhân loại

3.2.1. Xây dựng nền văn hoá lấy giá trị truyền thống làm nền tảng

Trong cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh cho dù ở trong hoàn

cảnh của bất kỳ nền văn hóa nào đều giữ cho mình bản sắc văn hóa dân tộc

đặc trưng. Đối với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam, nêu cao tính dân tộc

là nguyên tắc không thể thiếu trong việc xây dựng nền văn hóa mới. Có thể

nói Hồ Chí Minh là “người khởi xướng và xây dựng các mô thức văn hóa

nghệ thuật mới Việt Nam: dân tộc, khoa học, đại chúng và xã hội chủ nghĩa”

[10, tr.134].

Hồ Chí Minh và Đảng ta đã quán triệt 3 nguyên tắc cơ bản khi tiến

hành xây dựng bản Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1946 trong đó nguyên

tắc dân tộc là nguyên tắc không thể thiếu.

Một nền văn hóa hiện đại sẽ không thể hoàn chỉnh nếu không dựa trên

sự kết hợp với những giá trị văn hóa truyền thống. Những giá trị văn hóa tinh

tuý truyền thống sẽ mãi còn giá trị trong nền văn hóa mới. Nền văn hóa mới

sẽ xây dựng trên cơ sở của nền văn hóa truyền thống đó. Tất nhiên văn hóa

nền văn hóa mới đã có sự khác biệt về chất so với nền văn hóa truyền thống vì

nó đã được hấp thụ những cái mới - yếu tố ngoại sinh - của tinh hoa văn hóa

thế giới.

Cùng với việc mở cửa nền kinh tế để giao lưu rộng rãi với nền kinh tế

thế giới là việc đẩy mạnh việc giao lưu văn hóa với các dân tộc trên thế giới.

Với phương châm muốn là bạn với tất cả các nước, Việt Nam đã mở cửa nền

. 63

văn hóa mạnh mẽ dựa trên những giá trị văn hóa truyền thống và hấp thụ

những tinh hoa tiên tiến của nhân loại.

Nguyên lý xây dựng nền văn hóa mới là phát triển các giá trị truyền

thống, hấp thụ các giá trị hiện đại trên nền tảng làm đậm nét bản sắc dân tộc

văn hóa Việt Nam. Giá trị văn hóa truyền thống thực chất nằm ở tinh hoa văn

hóa các dân tộc Việt Nam vì vậy một nền văn hóa dựa trên các giá trị truyền

thống là một nền văn hóa biết coi trọng những giá trị văn hóa của các dân tộc

trong nước, coi trọng sự bình đẳng giữa văn hóa các dân tộc.

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cũng có nghĩa phải bảo

đảm sự đa dạng văn hóa trong thời kỳ đổi mới. Trong việc phát huy nội lực

của giá trị văn hóa truyền thống thì cần phát huy tối đa giá trị văn hóa các dân

tộc và tạo điều kiện phát triển khả năng sáng tạo của cá nhân, đồng thời văn

hóa vùng miền được khuyến khích, bảo tồn.

Sự đơn điệu của nền văn hóa là một việc rất có hại cho sự phát triển.

Chỉ có sự đa dạng mới mang đến sự phát triển văn hóa mạnh mẽ. Do vậy cần

phải chống độc quyền văn hóa để tạo điều kiện cho văn hóa phát triển.

Trong nền kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá phát triển mạnh mẽ

mọi nền văn hóa đều phải có những sự biến đổi mạnh mẽ để có thể thích nghi

với điều kiện mới. Văn hóa có sức mạnh và có khả năng điều chỉnh nền kinh

tế thị trường để hạn chế những mặt tiêu cực của nền kinh tế đó. Văn hóa

truyền thống với những giá trị đạo đức cơ bản và mang nhiều ý nghĩa sẽ bổ

xung cho cơ chế thị trường những mặt tiến bộ và làm cho hoạt động kinh

doanh mang tính thương mại đơn thuần trở nên thống nhất với đạo đức kinh

doanh.

Văn hóa truyền thống trong lịch sử đã chứng minh rằng nó có sức mạnh

lớn lao khi tác động đến quá trình lịch sử phát triển của dân tộc. Chính truyền

thống văn hóa dân tộc đã tạo nên những anh hùng dân tộc và trong số đó có

. 64

Chủ tịch Hồ Chí Minh - người tạo dấu ấn lên nền văn hóa thế giới mà điểm

khởi nguồn của Người chính là nền văn hóa dân tộc.

Quan điểm phương pháp luận toàn diện trong việc xây dựng nền văn

hóa Việt Nam là lấy chính sách văn hóa làm nền tảng, phát huy mạnh mẽ các

giá trị văn hóa truyền thống và phải dựa trên quan điểm phát triển là phải vượt

trên những giá trị truyền thống, bổ xung cho những giá trị văn hóa truyền

thống trở nên phù hợp hơn với thời kỳ mới.

Nhiệm vụ đó cũng là nhiệm vụ bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa

dân tộc, duy trì và biến nó thành chỗ dựa và động lực cho dân tộc khi đứng

trước những nhiệm vụ khó khăn và thử thách.

Qua nhiều năm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, xã hội Việt

Nam đã có nhiều những sự thay đổi cả tích cực và có cả tiêu cực. Những mặt

tích cực có thể thấy rõ ở trong sự thay đổi mọi mặt của nền kinh tế xã hội.

Nhưng bên cạnh đó văn hóa Việt Nam bị ảnh hưởng từ mặt trái của nền kinh

tế đó. Những tệ nạn xã hội làm ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục của nền

văn hóa. Thậm chí những chuẩn mực văn hóa lâu đời của dân tộc cũng bị biến

đổi. Điều đó cho thấy cần thiết phải phát triển hơn nữa những tinh hoa văn

hóa dân tộc để cho văn hóa Việt Nam ngày càng trở nên hoàn thiện.

3.2.2. Biết học tập những giá trị tốt đẹp trong văn hoá nhân loại làm

giàu cho nền văn hoá dân tộc

Để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng một xã hội ấm no hạnh phúc,

công bằng, dân chủ và văn minh thì chúng ta phải đẩy mạnh quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm

vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ với nhau. Quá trình đó diễn ra trong thời kỳ dài

lâu và đòi hỏi sự cố gắng và gắn kết chặt chẽ giữa các các nhân trong xã hội.

Văn hóa đóng vai trò quan trọng trong quá trình đó.

Theo nhà văn hóa Phan Ngọc thì văn hóa Việt Nam có truyền thống

“vượt gộp”. Có thể hiểu điều đó chính là sự tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân

. 65

loại một cách tích cực nhất để làm giàu cho nền văn hóa dân tộc. Hồ Chí

Minh là biểu tượng, là người tích cực học tập giá trị của các nền văn hóa nhân

loại. Đảng ta tiếp nối những truyền thống đó đã xử lý hài hoà giữa sức ép của

quá trình toàn cầu hoá thế giới với nhiệm vụ bảo vệ các giá trị văn hóa của

dân tộc. Nhiệm vụ đó làm sao phải đảm bảo cho văn hóa truyền thống có chỗ

đứng vững chắc trong xã hội hiện đại và những tinh hoa văn hóa nhân loại

góp phần làm giàu thêm văn hóa Việt Nam.

Trong quá trình phát triển, văn hóa nhân loại đã được kế thừa, được

cách tân, được tiếp biến và trên cơ sở những giá trị văn hóa truyền thống,

những giá trị của văn hóa nhân loại đã có những sự ảnh hưởng tích cực đến

nền văn hóa Việt Nam trong những thời kỳ khác nhau.

Hồ Chí Minh là biểu tượng và là người chuyên chở những giá trị văn

hóa Đông - Tây. Người là hiện thân của việc kết hợp nhuần nhuyễn và hài hoà

văn hóa Tây phương và văn hóa Đông phương. Với vốn văn hóa vững chắc

ngay từ khi còn nhỏ, Hồ Chí Minh sau quá trình dài đi tìm đường cứu nước đã

học tập tiếp thu rất nhiều tinh hoa văn hóa nhân loại.

Bản thân nền văn hóa truyền thống của dân tộc đã đứng trước thử thách

rất lớn của lịch sử khi gặp phải sức mạnh của văn hóa phương Tây khi Pháp

bắt đầu đặt chân đến Việt Nam. Sự thực chúng ta đã chống lại sự xâm lăng

của nền văn hóa và của cả nền kinh tế, chính trị và xã hội phương Tây. Nhưng

chỉ dựa vào truyền thống văn hóa dân tộc thì văn hóa Việt Nam không thể

chiến thắng sức mạnh khổng lồ của chủ nghĩa tư bản. Cần phải bổ xung vào

văn hóa Việt Nam những yếu tố, giá trị tiên tiến của văn hóa nhân loại.

Một nền văn hóa đóng kín là một nền văn hóa chết cứng không phát

triển. Sự thật đã chứng minh rằng trong lịch sử, nền văn hóa Việt Nam đã

đứng trước những thử thách lớn lao nhưng cuối cùng vẫn giữ được bản sắc

vốn có nhờ sự tiếp thu các giá trị văn hóa nhân loại và biến đổi nó trở thành

sản phẩm có ích, phục vụ cho văn hóa dân tộc.

. 66

Chúng ta thấy khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam nó đã mang trong

nó những chuẩn mực, những phạm trù của văn hóa dân tộc khác.Tuy vậy khi

du nhập vào Việt Nam đã bị biến đổi cho phù hợp với văn hóa dân tộc. Trong

tư tưởng Nho giáo, chữ “trung” có nghĩa là trung với vua, và sẵn sàng tận tuỵ,

hy sinh vì vua. Tuy vậy khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam, chữ “trung” đã

mang một nội hàm khác. Lúc này chữ “trung” dưới sự “khúc xạ” của văn hóa

Việt Nam trở thành trung với đất nước, với Tổ quốc. Lợi ích Tổ quốc là thứ

mà con người phải trung thành và chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc.

Kế thừa và phát triển những giá trị tiên tiến của tinh hoa văn hóa nhân

loại là một xu hướng tất yếu. Thực tế cho thấy rằng trong nhiều hoàn cảnh

khó khăn chúng ta biết vượt qua và vững vàng đi lên là nhờ việc tiếp thu

những tinh hoa của văn hóa nhân loại.

Một nền văn hóa mới hoàn thiện phải bao hàm trong nó những yếu tố

tích cực của yếu tố văn hóa truyền thống, mặt khác phải luôn làm cho văn hóa

phát triển bằng cách học tập tinh hoa văn hóa nhân loại. Việc học tập và phát

triển những tinh hoa văn hóa nhân loại vào làm giàu cho nền văn hóa dân tộc

là một quy luật tất yếu. Trong điều kiện thế kỷ XX, Hồ Chí Minh nhận thức

rõ tính tất yếu và sự tác động qua lại của yếu tố dân tộc và quốc tế. Ngay cả

trong công cuộc giải phóng dân tộc thì các nước trên thế giới “chỉ có nền hoà

bình cuối cùng khi tất cả các dân tộc tự mình thoả thuận với nhau cùng tiêu

diệt con quái vật đế quốc chủ nghĩa ở khắp mọi nơi mà họ gặp nó” [18,tr.11]

Yếu tố dân tộc như là một yếu tố nội sinh có vai trò quyết định đến sự

phát triển của sự nghiệp cách mạng. Luôn nhấn mạnh yếu tố nội sinh nhưng

Hồ Chí Minh cũng không xem nhẹ những yếu tố bên ngoài bởi chúng có thể

mang những yếu tố tích cực tiến bộ cho dân tộc và cách mạng Việt Nam.

Cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới

Để có thể phát triển đi lên, chúng ta không thể đóng cửa đất nước, trong

quá trình đó không thể không tránh khỏi những tác động tiêu cực từ bên

. 67

ngoài. Do đó trong quá trình kế thừa cần phải loại bỏ những yếu tố ảnh hưởng

tiêu cực đến sự phát triển nền văn hóa dân tộc.

3.2.3. Trong việc tiếp thu những giá trị tích cực cần phải loại trừ

những yếu tố tiêu cực hoặc có ảnh hưởng không tốt với nền văn hoá Việt

Nam

Giao lưu văn hóa là một quá trình tất yếu nếu một nền văn hóa muốn

tồn tại và phát triển. Văn hóa Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó.

Văn hóa là giá trị củ mỗi người là thước đo trình độ phát triển xã hội. Văn hóa

có sự chi phối mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, ẩn sâu trong

mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Mác đã phân biệt hai loại ăn uống có văn hóa và không có văn hóa là

ăn uống bằng bát đĩa và ăn uống bằng dao khác với ăn uống bằng việc bốc

bằng tay. Lê nin cũng khuyên thanh niên làm cho tình yêu trở nên có văn hóa.

Và ở đâu thiếu văn hóa thì những tệ nạn sẽ kéo theo và có cơ hội phát triển.

Loài người có một quá trình phát triển lâu dài và đã nhận thức rõ sức

mạnh của văn hóa với sự phát triển của xã hội loài người. Trong quá trình vận

động đó người ta thấy rằng văn hóa là động lực cơ bản để phát triển nguồn lực

lớn nhất là nguồn lực con người.

Tất nhiên không phải mọi văn hóa đều là nguồn lực cơ bản để phát triển

con người mà chỉ là những giá trị văn hóa tiến bộ, phát triển mới đóng vai trò

là động lực phát triển mà thôi. Xã hội ngày nay không tránh khỏi có những

hiện tượng phản văn hóa ở cả trong những nước phát triển. Những hiện tượng

phản văn hóa như ô nhiễm môi trường, nạn bạo lực, … đã và đang tàn phá

cuộc sống của chính con người. Muốn xây dựng một xã hội tương lai tốt đẹp

không thể không

Nước ta trong quá trình phát triển nền văn hóa mới không tránh khỏi bị

ảnh hưởng bởi những yếu tố văn hóa tiêu cực. Nhiều hiện tượng phản văn hóa

đã diễn ra và làm nhức nhối bầu không khí xã hội. Những hiện tượng văn hóa

. 68

tiêu cực đó đang dần xâm nhập và phá vỡ những chuẩn mực đã tồn tại hàng

ngàn năm qua của dân tộc.

Trách nhiệm của chúng ra là phải nhận thức được những gì là hiện

tượng phản văn hóa để đấu tranh loại bỏ chúng. Đó là một công việc không hề

đơn giản bởi có những hiện tượng nhân danh văn hóa nhưng lại đi ngược lại

văn hóa, nhân danh nhân đạo nhưng lại chà đạp lên những giá trị con người.

Một trong những công việc rất cần thiết với nền văn hóa là nhận xét về

các việc đúng - sai. Thế nào là đúng, thế nào là sai? Điều đó không phải dễ.

Bởi vì trong xã hội có rất nhiều hiện tượng lúc này là đúng nhưng lúc khác lại

là sai, lúc này là những hiện tượng văn hóa nhưng khi khác lại được coi là

những hiện tượng phản văn hóa.

Như vậy để có thể nhận biết cái đúng cái sai trong văn hóa thì cần phải

dựa trên cơ sở khoa học.Khoa học chân chính là nói về những cái đúng và

đứng về phía văn hóa. Những cái sai luôn phản khoa học và phản văn hóa.

Chẳng hạn như Việt Nam là một nước có truyền thống văn hóa rất sâu và lâu

đời vì chúng ta luôn đứng về phía chính nghĩa và chống lại phi nghĩa. Do vậy

để bảo tồn nền văn hóa truyền thống cần phải loại bỏ những yếu tố phản văn

hóa.

Trong việc đấu tranh loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong văn hóa cần

phải biết phát huy tốt vai trò của pháp luật vì pháp luật điều chỉnh các quan hệ

xã hội và khắc phục những hiện tượng phản văn hóa.

Những hiện tượng phản văn hóa thường đứng về phía cái ác mà chống

lại cái thiện. Do vậy cần phải loại bỏ cả những điều ác đã và đang tồn tại

trong nền văn hóa. Quá trình hội nhập mạnh mẽ gần đây đã thay đổi lớn bộ

mặt nền kinh tế - xã hội nhưng kéo theo nó là những hậu quả khó lường trong

văn hóa. Những tệ nạn xã hội như bạo lực, lừa đảo… ngày càng nhiều, tệ nạn

xã hội kéo theo bệnh tật là những gánh nặng cho toàn xã hội. Điều đó đang

làm cho xã hội trở nên trì trệ và phát triển không bền vững.

. 69

Để có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc thì không thể

chấp nhận việc hiện diện của những hành động, những việc làm phản văn hóa

và đi ngược lại lợi ích của loài người. Chúng ta tiếp thu những yếu tố tích cực

của văn hóa thế giới chứ không phải tất cả. Những gì là hay là tốt đẹp của các

nền văn hóa và phù hợp với văn hóa Việt Nam thì nên học tập và phát huy.

3.2.4. Văn hoá Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ

nam cho hành động

Có thể thấy văn hóa Việt Nam có một nền tảng và bản sắc riêng. Trong

quá trình dựng nước và giữ nước cha ông chúng ta đồng thời tạo dựng nên

nền văn hóa với những giá trị riêng biệt. Nền văn hóa giàu bản sắc đó đã

chứng tỏ sức mạnh và giá trị trong suốt chiều dài lịch sử. Trong lịch sử, dân

tộc Việt Nam chịu nhiều biến động lớn lao, song dân tộc vẫn đoàn kết và

đứng vững nhờ sức mạnh của truyền thống dân tộc.

Trong thời kỳ phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản và quá trình

xâm chiếm thuộc địa mạnh mẽ của nó, dân tộc Việt Nam không tránh khỏi

phải chịu ảnh hưởng. Nằm ở vị trí thuận lợi về giao thông và có nguồn tài

nguyên vô cùng dồi dào phong phú, đây là những yếu tố hấp dẫn với những

tên thực dân xâm lược. Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp chính thức nổ những

phát súng đầu tiên hòng xâm lược nước ta, biến Việt Nam thành thuộc địa và

phục vụ cho nhu cầu khai thác thuộc địa của chúng.

Sự xâm lược của thực dân Pháp tuy bị chống trả quyết liệt nhưng chúng

vẫn giành thắng lợi nhờ sự tiến bộ của chủ nghĩa tư bản lúc đó. Có thể nói sự

thất bại của các phong trào cách mạnh ở Việt Nam lúc bấy giờ cũng là sự thất

bại của những tư tưởng truyền thống dân tộc. Vì hầu hết các phong trào cách

mạng đều đi theo lối mòn cũ đó là những cuộc cách mạng theo chủ trương

khôi phục lại chế độ phong kiến lỗi thời. Sự thắng thế của thực dân Pháp là tất

yếu vì nó đã chứng tỏ sự ưu việt trước chế độ phong kiến.

. 70

Lúc này dân tộc Việt Nam nói chung và phong trào cách mạng Việt

Nam thiếu một đường lối đúng đắn để dẫn dắt phong trào cách mạng. Sự

khủng hoảng đường lối hay đó cũng chính là sự lỗi thời của chế độ phong

kiến mà Việt Nam cần có một luồng tư tưởng mới tiến bộ hơn để có thể đưa

đất nước đi vượt ra khỏi vòng nô lệ. Lịch sử cần một con người đi tìm chân lý

đó cho dân tộc và Hồ Chí Minh chính là con người mà dân tộc cần đến.

Người với hành trang là một nền học vấn khá chắc chắn và một lòng

nồng nàn yêu nước đã ra đi tìm đường cứu nước và tìm chân lý cho cả dân

tộc. Người đã bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin và thấy rằng đây chính là cái mà

dân tộc Việt Nam đang cần tìm.

Ngay từ những năm 1920, Người đã quyết định ra nhập Đảng cộng sản

Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.

Trước khi thành lập Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930, Người đã

khẳng định rằng bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng học thuyết

chắc chắn nhất, chân chính nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin.

Chính chủ nghĩa Mác - Lênin là cẩm nang thần kỳ, là ngọn đuốc soi

sáng con đường đi của dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi

vòng nô lệ. Điều đó đã được chứng minh bằng những cao trào cách mạng liên

tiếp nổ ra và đỉnh cao là tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 mang lại độc

lập, tự do cho dân tộc - điều mà chưa có một học thuyết chủ nghĩa nào có thể

mang lại cho dân tộc được.

Trong việc xây dựng các quan hệ văn hoá mới ở nước ta, Hồ Chí Minh

luôn khẳng định: chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng sức mạnh chính trị của

nhân dân ta. Dựa trên những giá trị tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa Mác -

Lênin gắn với truyền thống dân tộc và các giá trị phổ biến của nhân loại. Mục

tiêu phấn đấu của dân tộc là xây dựng chế độ xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh, tự do. Xã hội đó chỉ có thể là xã hội xã hội chủ nghĩa mà thôi. Chủ

. 71

nghĩa xã hội với hệ tư tưởng Mác - Lênin là xã hội có văn hoá cao, tạo điều

kiện phát huy tối đa năng lực cá nhân và tính tích cực sáng tạo của quần

chúng. Và do tính tích cực đó mà văn hoá với tư cách là trình độ người của

các quan hệ xã hội lại phát triển cao hơn. Quá trình nay khắc phục những mặt

hạn chế của văn hoá trong xã hội cũ và phát huy đầy đủ khả năng con người.

Có thể nói chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp vô sản và

đồng thời cũng là phản ánh xu thế tất yếu của thời đại. Chính vì vậy, chủ

nghĩa Mác - Lênin mang ý nghĩa quốc tế và nó soi đường cho những cuộc

đấu tranh của các dân tộc bị áp bức đi đến thắng lợi.

Hồ Chí Minh là người thấy rõ ràng tính quốc tế của chủ nghĩa Mác -

Lênin và những đặc điểm riêng của từng dân tộc khi áp dụng chủ nghĩa Mác -

Lênin vào thực tiễn. Vận dụng và kế thừa một cách sáng tạo, Hồ Chí Minh đã

mang chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam

Văn hoá mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một nền văn hoá lấy chủ

nghĩa Mác - Lê nin làm kim chỉ nam cho hành động kết hợp với chủ nghĩa

yêu nước và tinh hoa văn hoá thế giới. Một nền văn hoá mới toàn diện và tiến

bộ là một nền văn hoá biết kết hợp nhuẫn nhuyễn giữa mục tiêu, lý tưởng của

chủ nghĩa Mác - Lênin và tinh thần khát vọng xây dựng nền văn hoá tiến bộ

theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bài học lớn mà chúng ta rút ra được trong quá trình xây dựng và phát

triển đất nước là “trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân

tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng

Hồ Chí Minh” [5, tr.122]. Chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn mãi là lựa chọn trên

con đường chúng ta đi đến xây dựng một đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Kế thừa những tinh hoa văn hóa nhân loại và trong đó có bộ phận quan

trọng nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin, chọn lọc những yếu tố hợp lý, chắt lọc

những mô hình phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới, Hồ Chí Minh luôn

. 72

suy nghĩ để xây dựng một mô hình phát triển đất nước toàn diện từ chính sự

kế thừa và phát triển đó. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một môn khoa học chân

chính, ở đó chúng ta có thể tìm thấy cho chính chúng ta những điều “thần kỳ”

để chúng ta áp dụng vào thực tiễn, rút ra những nguyên lý mới để phát triển

đất nước một cách bền vững.

. 73

KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản vô cùng quý báu của dân tộc, là nền

tảng tư tưởng là kim chỉ nam cho hành động. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí

Minh cho chúng ta những bài học sâu sắc trong việc xây dựng và phát triển

đất nước. Việc xây dựng và phát triển văn hóa là một nội dung cốt lõi trong tư

tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển đất nước. Là một nhà hoạt động

chính trị nhưng Hồ Chí Minh lại là một nhà văn hóa lớn như chính tổ chức

văn hóa giáo dục Unesco đã công nhận Người là danh nhân văn hóa thế giới

năm

1990. Văn hóa là một khái niệm rộng lớn bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống

kinh tế xã hội. Văn hóa cũng là mục tiêu phát triển của nhân loại. Hồ Chí

Minh đã nhận thấy sức mạnh vô cùng lớn lao của văn hóa và văn hóa với tư

cách là động lực của sự phát triển. Hồ Chí Minh muốn văn hóa thấm sâu vào

tâm lý quốc dân đồng bào và tạo nên một xã hội tốt đẹp theo những chuẩn

mực lý tưởng nhất. Với tinh thần đó Hồ Chí Minh đã biết kết hợp khéo léo

những tinh hoa văn hóa nhân loại và những truyền thống văn hóa tốt đẹp của

những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc để tạo nên mô hình của một nền

văn hóa mới Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh văn hóa chính là nguồn

gốc và động lực cho sự phát triển. Với cách nhìn biện chứng về văn hóa,

Người biết kế thừa những giá trị văn hóa tốt đẹp nhất của Phương Đông và

phương Tây, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền thống văn hóa Việt

Nam để tạo nên một nền “văn hóa của tương lai”. Nền văn hóa tương lai đó là

nền văn hóa mới tiến bộ coi trọng những giá trị nhân văn tốt đẹp vì con người

và cho con người. Kế thừa và phát triển những tinh hoa văn hóa nhân loại để

xây dựng nên nền văn hóa mới Việt Nam đó cũng là phương châm mà Hồ Chí

Minh đề ra và xây dựng, phát triển.

. 74

Kế thừa và phát triển là nguyên lý, là phương châm và là một nét đặc

biệt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Để đất nước phát triển thì điều kiện tất yếu

phải là độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Độc lập, tự do là tiền đề để

xây dựng nên một nhà nước mới, một thể chế mới, một diện mạo mới và một

sức sống mới. Để có thể làm được điều đó phải luôn biết học hỏi, biết tìm

hiểu trong kho tàng vô tận của tri thức nhân loại những tinh hoa và những

điểm phù hợp với quy luật phát triển của thực tiễn Việt Nam từ đó làm định

hướng cho quá trình phát triển mạnh mẽ của dân tộc. Con đường đó chỉ có thể

là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh

đã chọn.

Xây dựng và phát triển một xã hội mới yêu cầu phải có một nền kinh tế

vững chắc. Nền kinh tế đó chỉ có thể phát triển một cách vững bền khi nó

được thúc đẩy bởi nền văn hóa mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xây dựng. Văn

hóa là một sức mạnh nội sinh và là bộ phận quan trọng nhất trong đời sống

tinh thần của con người và không thể thiếu cho sự phát triển và sức sống

mạnh mẽ của dân tộc.

Có thể sự nghiệp của Người không để lại những tác phẩm đồ sộ như

những tác phẩm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng trong

những bài nói và viết của mình, Hồ Chí Minh luôn toát lên những tư tưởng

triết học sâu sắc. Trong số đó nguyên lý kế thừa và phát triển được Hồ Chí

Minh vận dụng một cách triệt để trong việc lựa chọn phương pháp luận để

xây dựng và phát triển đất nước. Mục tiêu cao cả của cách mạng chính là giải

phóng triệt để con người, để làm được điều đó cần phải biết xây dựng một nền

văn hóa giàu sức sống bên cạnh một nền kinh tế vững chắc. Đó chính là tư

tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh trong xây dựng nền văn hóa mới Việt

Nam.

. 75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt:

1 Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Tổng hợp Đồng

Tháp.

2 Asahi (Nhật) (14/5/1995)

3 Báo Thanh niên (02/5/1999), (70).

4 Nguyễn Trọng Chuẩn (2000), Một số vấn đề về triết học - con người và

xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội

6 Phạm Văn Đồng (1973), Tổ quốc ta, nhân dân ta và sự nghiệp ta và

người nghệ sỹ, Nxb. Văn học, Hà Nội.

7 Võ Nguyên Giáp (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách

mạng Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8 Phạm Minh Hạc (1995), Phát triển văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc

văn hoá dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại thuộc

“Tài liệu bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị”.

9 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1996), Văn hóa dân tộc trong

quá trình mở cửa ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10 Đỗ Huy (1996), Mỹ học với tư cách là một khoa học, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

. 76

11 Đỗ Huy (2002), Nhận diện văn hóa Việt Nam và sự biến đổi của nó trong

thế kỷ XX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12 Đinh Gia Khánh (1995), Đại cương về tiến trình văn hóa Việt Nam, Nxb.

Giáo dục, Hà Nội.

13 V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 1, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.

14 V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.

15 C. Mác - Ph. Ănghghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội

16 C.Mác - Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

17 C.Mác - Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, Phép biện chứng duy vật (Tập trích),

Nxb Sự thật, Hà Nội, 1962.

18 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23 Hồ Chí Minh (2006), Văn hóa văn nghệ cũng là một mặt trận, Nxb. Văn

hoá, Hà Nội.

24 Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội.

25 J Ru (12/4/1997), Báo Chiến đấu (Pháp).

26 Trương Hữu Quýnh, (2002), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb.

Giáo dục, Hà Nội.

27 Lê Sỹ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2, Nxb. Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

28 Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

29 Trần Ngọc Thêm (1999), Tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb.

Thành phố Hồ Chí Minh

. 77

30 Thời báo Ấn Độ (13/3/1991).

31 Trần Dân Tiên (1949), Hồ Chí Minh truyện, Tam Liên, Thượng Hải.

32 Time (Mỹ) (12/5/1995).

33 Văn học lớp 10 (2006), tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

34 Trần Quốc Vượng (1991), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

35 Trần Quốc Vượng (2002), Văn hoá Việt Nam - tìm tòi và suy ngẫm, Nxb.

Văn học, Hà Nội.

36 Từ điển Tiếng Việt (2006), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

Tiếng Anh:

1 Vietnamese hero of National liberation and greatman of culture (2003),

SVR, Publish by Vietnam courierr HANOI - 1990, 2003.

. 78

PHỤ LỤC

. 79