ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
HOÀNG NGỌC THẮNG
Kế thừa và phát triển trong việc xây dựng
nền văn hóa mới ở Việt Nam hiện nay theo
tư tưởng Hồ Chí Minh
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Luân
HÀ NỘI - 2007
MỤC LỤC
Mở đầu 3
Chương 1. Quan điểm Hồ Chí Minh về sự cần thiết kế thừa và phát
triển trong xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam 9
1.1. Kế thừa và phát triển trong phép biện chứng duy vật. 9
1.1.1. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về kế thừa và phát triển. 9
1.1.2. Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm triết học Mác - Lênin 12
về kế thừa và phát triển.
1.2. Khái niệm văn hoá và tính cần thiết kế thừa và phát triển trong 14
xây dựng nền văn hoá mới.
1.2.1.Khái niệm văn hoá. 14
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính cần thiết kế thừa và phát triển
văn hoá trong xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam. 17
Chương 2. Nội dung của sự kế thừa và phát triển trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam 27
2.1. Một số giá trị cơ bản của truyền thống văn hóa dân tộc. 27
2.2. Những đặc trưng của văn hóa hiện đại 31
2.3. Kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc tiếp thu
những yếu tố tiên tiến của văn hoá thế giới trong tư tưởng văn hóa Hồ
Chí Minh 34
Chương 3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá trong điều
49 kiện Việt Nam hiện nay
3.1. Xây dựng một nền văn hoá giàu bản sắc, mang đậm truyền thống
49 dân tộc là nền tảng cơ bản.
3.1.1. Một nền văn hoá Việt Nam luôn nêu cao chủ nghĩa yêu nước,
49 lòng tự hào dân tộc.
3.1.2. Nền văn hoá biết tôn trọng đạo đức, đề cao vai trò giáo dục
. 1
bằng đạo đức. 51
3.1.3. Bảo tồn những giá trị nhân nghĩa nhân đạo trong truyền thống
dân tộc. 55
3.1.4. Nêu cao truyền thống đoàn kết nhất trí trong sự nghiệp đấu
tranh, bảo vệ nền độc lập dân tộc. 57
3.2. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến hoà nhập với dòng chảy văn hoá
nhân loại. 59
3.2.1. Xây dựng nền văn hoá lấy giá trị truyền thống làm nền tảng. 59
3.2.2. Biết học tập những giá trị tốt đẹp trong văn hoá nhân loại làm
giàu cho nền văn hoá dân tộc. 62
3.2.3. Trong việc tiếp thu những giá trị tích cực cần phải loại trừ
những yếu tố tiêu cực hoặc có ảnh hưởng không tốt với nền văn hoá
Việt Nam. 64
3.2.4. Văn hoá Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ
nam cho hành động. 66
Kết luận 70
Danh mục tài liệu tham khảo 72
. 2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển bền vững từ lâu đã trở thành mục tiêu xuyên suốt trong chiến
lược phát triển của các quốc gia, dân tộc. Bên cạnh sự phát triển bền vững về
môi trường sinh thái, phát triển bền vững về môi trường xã hội là một trong
những nội dung và điều kiện cơ bản của phát triển xã hội bền vững. Trong đó,
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc là một trong
những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển của quốc gia, dân tộc.
Tăng trưởng kinh tế nhưng không giữ được văn hóa truyền thống là sự tăng
trưởng mất gốc (rootless growth). Vì vậy, bề dày của văn hóa truyền thống
được xem như là “sức bật”, động lực bên trong của sự phát triển.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nhiệm vụ
hàng đầu, không thể thiếu trong chiến lược phát triển. Nhiệm vụ đó đã và
đang được đặt ra trong bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra một cách mạnh mẽ
và sâu rộng, trong bối cảnh đó tất yếu các nền văn hóa khác nhau có sự tiếp
xúc biến đổi và được gọi là tiếp biến văn hóa (acculturation). Trong quá trình
tiếp biến văn hóa ấy, tiếp thu một cách có chọn lọc những giá trị của các nền
văn hóa khác nhưng phải giữ được những giá trị tích cực của văn hóa truyền
thống là một bài toán khó, luôn thường trực trong tư duy, hoạch định đường
lối chính sách phát triển của mỗi quốc gia dân tộc.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chứng minh
rằng đằng sau những cuộc xâm lược là sự “xâm lăng” văn hóa. Trong những
chiến thắng oai hùng của dân tộc trước quân xâm lược thì có một chiến thắng
âm thầm, ít được nhắc tới đó là chiến thắng về mặt văn hóa và kết quả là văn
hóa Việt Nam không những không bị đồng hoá mà trái lại vẫn đứng vững và
ngày càng khẳng định một cách rõ nét bản sắc riêng của mình.
. 3
Thắng lợi đó là công lao của nhiều tầng lớp trong xã hội, trong đó phải
nhắc đến vai trò chủ yếu, to lớn của các chí sỹ yêu nước; của các vị lãnh tụ
trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể.
Bề dày lịch sử của cuộc đấu tranh xây dựng và gìn giữ, phát triển văn
hóa truyền thống dân tộc ấy đã để lại cho chúng ta kho tàng các bài học kinh
nghiệm quý báu. Vì vậy, nghiên cứu và khảo sát các bài học kinh nghiệm lịch
sử nói chung và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc là một việc làm cần thiết, hữu ích
cho việc xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong bối cảnh giao lưu và
hội nhập quốc tế hiện nay đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ.
Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc. Tuy vậy con đường giải phóng dân tộc của Người lại mang những
đặc trưng riêng so với con đường giải phóng dân tộc của các nhà cách mạng
khác. Một trong những nét đặc trưng đó là việc xây dựng và vận dụng sức
mạnh của văn hoá dân tộc vào sự nghiệp cách mạng, góp phần giải phóng xã
hội, giải phóng con người.
Hồ Chí Minh với cách nhìn biện chứng sâu sắc đã nhìn thấy sức mạnh
thực sự của văn hoá trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Văn hoá
cũng giống như mạch nguồn đã chảy qua hàng ngàn năm lịch sử và từ đó tạo
ra sức mạnh nội sinh của mỗi dân tộc. Kế thừa có chọn lọc những giá trị tinh
hoa văn hóa nhân loại để xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc chính là để
tăng cường sức mạnh nội sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chắc chắn
đó là bài học vẫn còn nguyên giá trị cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá Việt Nam hiện nay.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng nền văn hoá
Việt Nam, rút ra những bài học mang tính phương pháp luận là một việc làm
cần thiết để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
. 4
trong bối cảnh toàn cầu hoá, quốc tế hoá với mục tiêu xây dựng đất nước ta
ngày càng ấm no, tự do, hạnh phúc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay trên lĩnh vực lý luận nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng và phát triển văn hóa nói riêng đã được khảo cứu trong nhiều công
trình khác nhau. Trong khuôn khổ luận văn này chúng tôi xin điểm qua một
số công trình tiêu biểu.
Võ Nguyên Giáp trong tác phẩm “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con
đường cách mạng Việt Nam” tập hợp, hệ thống hoá những luận điểm khoa
học trong di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh. Công trình đã đề cập đến tư
tưởng Hồ Chí Minh trên nhiều khía cạnh khác nhau trong đó có tư tưởng về
nhân văn, đạo đức và văn hoá của Hồ Chí Minh. Cuốn sách cho thấy rằng “tư
tưởng Hồ Chí Minh là niềm tin, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, là di dản vô cùng quý báu Người để lại cho Đảng ta, dân tộc ta.” [1,
tr.11].
“Văn hoá Việt Nam - tìm tòi và suy ngẫm” của Trần Quốc Vượng là
tập hợp những bài viết về văn hoá Việt Nam và về các danh nhân văn hoá
trong đó có chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo Trần Quốc Vượng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh là “biểu tượng và người mang chở những giá trị văn hoá Đông - Tây
kim cổ” [21, tr.344].
“Bản sắc văn hoá Việt Nam” là tác phẩm tập hợp những bài viết của
nhà nghiên cứu Phan Ngọc về văn hoá Việt Nam trong quá trình giao lưu văn
hoá và bảo vệ, phát huy các giá trị văn hoá trong đời sống xã hội. Tác giả
trong tác phẩm này đã có cách nhìn khá chính xác khi đánh giá tư tưởng Hồ
Chí Minh đựoc nhìn nhận như là “đỉnh cao của văn hoá Việt Nam” [3, tr.79].
Nguyễn Trọng Chuẩn, trong tác phẩm “Một số vấn đề về triết học -
con người và xã hội” có quan điểm khá tương đồng với UNESCO khi đánh
giá về tư tưởng của Hồ Chí Minh nói chung, và tư tưởng về văn hoá nói riêng
. 5
của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh “đã có những đóng góp lớn lao cho văn hóa
Việt Nam và văn hóa nhân loại” [4, tr.814]
Phạm Minh Hạc trong bài “Phát triển văn hoá, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại” thuộc
“Tài liệu bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị” năm 1995 đã nhìn nhận tư
tưởng Hồ Chí Minh như là “đỉnh cao mới của văn hoá và là hiện thân kết tinh
truyền thống văn hoá Việt Nam” [8,tr.158].
Đỗ Huy trong “Nhận diện văn hóa Việt Nam và sự biến đổi của nó
trong thế kỷ XX” đã có hệ thống các luận điểm khá chi tiết về văn hóa Việt
Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, những đóng góp của Hồ Chí Minh
trong việc xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam. Tư tưởng văn hóa Hồ Chí
Minh không chỉ mang “tính giai cấp, dân tộc, nhân loại… văn hóa còn là kết
tinh bản chất loài của con người vượt qua những giới hạn của các quan hệ lịch
sử cụ thể” [11, tr.235].
Như vậy, các công trình khoa học trên đề cập đến tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa khá toàn diện và hệ thống. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có
một chuyên khảo, chuyên luận nào khai thác khía cạnh phương pháp biện
chứng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng nền văn hóa
Việt Nam. Tiếp cận, khai thác tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng
nền dân tộc ở khía cạnh phương pháp luận biện chứng là một công việc khó,
đòi hỏi có sự tham gia đóng góp của nhiều công trình nghiên cứu. Trong
khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chỉ tập trung khai thác tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa dưới góc độ phương pháp luận phủ định biện chứng. Với lý
do đó chúng tôi xác định đề tài nghiên cứu của mình là “Kế thừa và phát triển
trong việc xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ
Chí Minh”.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
. 6
Mục tiêu: Trên cơ sở phân tích làm rõ kế thừa và phát triển trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hoá Việt Nam. Luận văn đề xuất
những quan điểm, giải pháp vận dụng tư tưởng đó vào thực tiễn xây dựng nền
văn hóa Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Nhiệm vụ:
Để có thể đạt mục tiêu trên, luận văn giải quyết một số nhiệm vụ sau:
- Trình bày khái quát nguyên lý của triết học Mác - Lênin về phủ định
biện chứng, ý nghĩa phương pháp luận của nó trong việc nhìn nhận, khảo cứu
các quá trình phát triển nói chung và phát triển văn hóa nói riêng.
- Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về kế thừa và phát huy giá trị
tích cực của văn hoá truyền thống.
- Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về tiếp thu có chọn lọc các giá trị
văn hoá tiên tiến trên thế giới.
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng văn hoá Việt
Nam trong điều kiện hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng nền văn hoá Việt Nam.
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn được khảo sát trong toàn bộ lịch
sử của sự hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và nhà nước.
- Luận văn cũng được thực hiện trên cơ sở kế thừa một số công trình
nghiên cứu khoa học có liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu
. 7
- Luận văn được nghiên cứu và trình bày trên cơ sở phương pháp luận
phép biện chứng duy vật, và một số phương pháp khác như phân tích - tổng
hợp, lôgic - lịch sử.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học làm phong phú và
làm rõ thêm những vấn đề phương pháp luận trong việc nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hoá Việt Nam.
- Với việc làm rõ phương pháp luận phủ định biện chứng trong tư
tưởng Hồ Chí Minh và xây dựng nền văn hóa Việt Nam, chắc chắn luận văn
có nhưng gợi mở quan trọng cho việc hoạch định chiến lược phát triển văn
hóa Việt Nam hiện nay.
- Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho những người nghiên
cứu, giảng dạy và học tập trong lĩnh vực tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1: Quan điểm Hồ Chí Minh về sự cần thiết kế thừa và phát
triển trong xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam.
- Chương 2: Nội dung kế thừa và phát triển trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng nền văn hoá mới
- Chương 3: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá trong điều
kiện Việt Nam hiện nay
. 8
. 9
Chương 1
QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ CẦN THIẾT
KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN TRONG XÂY DỰNG
NỀN VĂN HOÁ MỚI VIỆT NAM
1.1. Kế thừa và phát triển trong phép biện chứng duy vật
1.1.1. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về kế thừa và phát triển
Phép biện chứng là tài sản vô cùng giá trị của triết học Mác nói riêng và
chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung. Có thể nói phép biện chứng là linh hồn của
triết học Mác - Lênin.
Kế thừa phương pháp luận duy vật biện chứng của triết học Mác -
Lênin là một yêu cầu tất yếu nếu muốn trang bị cho mình một phương pháp
luận khoa học. Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh:
“Toàn bộ quan điểm của Mác không phải là một học thuyết mà là một
phương pháp, nó không đưa ra những giáo điều định sẵn mà là những điểm
xuất phát cho việc nghiên cứu thêm và phương pháp cho việc nghiên cứu
này” [17, tr.808].
Còn V.I. Lênin, người phát triển học thuyết C.Mác thì nhận định:
“Những người Macxit chắc chắn là chỉ mượn của học thuyết Mác
những phương pháp quí báu mà nếu không có thì không thể hiểu được những
quan hệ xã hội”[34, tr.239]
Thế giới không chỉ thống nhất ở tính vật chất mà còn thống nhất ở tính
biện chứng vốn có của nó. Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ
biến và sự phát triển. Trong phép biện chứng có nhiều nội dung và khía cạnh
khác nhau nhưng trong phạm vi luận văn chúng tôi chỉ đề cập đến khía cạnh
kế thừa và phát triển cho phù hợp với phạm vi luận văn nghiên cứu.
Sự vật hiện tượng trong thế giới có mối liên hệ, tác động lẫn nhau. Sự
liên hệ, tác động đó là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
. 10
Ph. Ăngghen khẳng định:
“Tất cả thế giới tự nhiên mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một hệ
thống, một tập hợp các vật thể khăng khít với nhau… Việc các vật thể ấy đều
có liên hệ với nhau đã có nghĩa là các vật thể này tác động lẫn nhau và sự tác
động qua lại ấy chính là sự vận động” [16, tr.230]
“Vận động” không đồng nhất với “phát triển”. Sự vận động của sự vật
hiện tượng đa dạng, phong phú, vô tận và có nhiều khuynh hướng,kết quả
khác nhau. Vận động đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn
thiện đến hoàn thiện. Đó là sự vận động theo hướng tiến lên và sự vận động
theo hướng thụt lùi, đi xuống.
Vận động có nhiều hình thức cơ bản và “đều do bản chất của những
vật thể đang vận động mà ra” [14, tr.743].
Khái niệm “vận động” chỉ phản ánh sự biến đổi nói chung, còn
khái niệm “phát triển” phản ánh tính chất, khuynh hướng tiến lên của sự biến
đổi nói chung ấy.
V.I. Lênin viết hai quan niệm cơ bản về sự phát triển (sự tiến hoá): “sự
phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như là lặp lại và sự phát triển coi như
là sự thống nhất của các mặt đối lập…
Với quan niệm thứ nhất về sự vận động, sự tự vận động, động lực của
nó, nguồn gốc của nó, động cơ của nó nằm trong bóng tối…Với quan niệm
thứ hai sự lưu ý chủ yếu lại hướng chính vào sự nhận thức nguồn gốc của tự
vận động. Quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô khan, quan niệm
thứ hai là sinh động. Chỉ có quan niệm thứ hai mới cho ta chìa khoá của sự tự
vận động của tất cả mọi cái đang tồn tại, chỉ có nó mới cho ta chìa khoá của
những bước nhảy vọt, của sự gián đoạn của tính phiến diện, sự chuyển hoá
thành mặt đối lập, sự tiêu diệt cái cũ và nảy sinh cái mới. Theo quan điểm của
V.I.Lênin nếu tất cả đều phát triển thì tức là tất cả đều chuyển hoá từ cái nọ
sang cái kia, bởi vì như người ta đã biết, sự phát triển không phải là một sự
. 11
lớn lên, một sự tăng thêm… đã như vậy thì… phải hiểu một cách chính xác
hơn sự tiến hoá là sự sinh ra và sự huỷ diệt của mọi vật, là những sự chuyển
hoá lẫn nhau” [14, tr.270].
“Bản thân sự vận động đã là một mâu thuẫn; ngay như sự di động một
cách máy móc và đơn giản sở dĩ có thể thực hiện được cũng chỉ là vì một vật
trong cùng một lúc vừa ở nơi này lại vừa ở nơi khác…Và sự nảy sinh thường
xuyên và việc giải quyết đồng thời mâu thuẫn này - đó cũng chính là sự vận
động…”. [14, tr.173].
Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định sự phát triển là một phạm
trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
Theo quan điểm đó phát triển chỉ bao quát xu hướng vận động đi lên
của sự vật, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ. Sự phát triển chỉ là một
trường hợp đặc biệt của sự vận động.
Sự phát triển diễn ra không ngừng trong thế giới tự nhiên, trong xã hội
và trong bản thân con người, trong tư duy. Đó là khuynh hướng chung của
mọi sự vật, hiện tượng.
Sự phát triển có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong
phú.
Mỗi sự vật lại có sự phát triển không giống nhau.Điều đó phụ thuộc
vào không gian - thời gian khác nhau và những yếu tố tác động khác nhau.
Quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng luôn chịu sự tác động và
diễn ra tuân theo quy luật khách quan. Phép biện chứng duy vật khách quan
khái quát được ba quy luật của sự phát triển khách quan ấy. Phát triển có
nguồn gốc, động lực từ sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Sự
phát triển không phải do ý chí con người áp đặt mà có nguồn gốc từ những
mâu thuẫn (kể cả mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài) của chính sự
vật và hiện tượng.
. 12
Phát triển theo Từ điển Tiếng Việt là sự “Biến đổi hoặc làm cho biến
đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp”.[26,
tr.769]
Bên cạnh đó:
“Kế thừa là thừa hưởng, giữ gìn và tiếp tục phát huy (cái có giá trị tinh
thần)”[36, tr.486]
Phát triển không chỉ đơn thuần là sự tăng lên về lượng hay sự tiến hóa
mà phát triển là sự thống nhất giữa thay đổi về lượng và những bước nhảy
vọt về chất. Do sự tác động của quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến
những thay đổi về chất này, sự phát triển của sự vật, hiện tượng biểu hiện ra
như một quá trình biện chứng thống nhất mang tính liên tục và đứt đoạn, giữa
tiệm tiến và nhảy vọt.
Đặc trưng quan trọng nữa của sự phát triển là sự ra đời của cái mới thay
thế cái cũ. Cái mới ra đời không phải là sự đoạn tuyệt hoàn toàn với cái cũ mà
nó luôn kế thừa một cách có chọn lọc những yếu tố tích cực của cái cũ, cải tạo
nó cho phù hợp với cái mới. Nói cách khác, phát triển luôn chịu sự chi phối
của quy luật phủ định biện chứng.
Quá trình kế thừa cho thấy sự khẳng định những mặt tốt và những mặt
tích cực, đồng thời phủ định những mặt tiêu cực, lạc hậu.
Kế thừa chính là sợi dây liên hệ giữa cái cũ và cái mới, sự vật cũ và sự
vật mới, khẳng định và phủ định, quá khứ với hiện thực…
1.1.2. Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm triết học Mác -
Lênin về kế thừa và phát triển
Chúng ta biết, suy cho cùng, triết học và sức mạnh của triết học là ở
phương pháp luận của nó.
. 13
Mọi sự vật hiện tượng mới ra đời đều dựa trên sự kế thừa những nhân
tố tích cực của các sự vật cũ. Do vậy cần phải luôn biết phát hiện cái và giúp
đỡ cái mới ra đời, chọn lọc cái cũ có giá trị phục vụ cho hiện tại và biết trân
trọng những giá trị của quá khứ. Ngoài ra phải khắc phục những tư tưởng trì
trệ, lỗi thời, bảo thủ cản trở quá trình phát triển.
Quan điểm về sự phát triển cho chúng ta bài học về tránh tuyệt đối hoá
nhận thức. Nếu rơi vào tuyệt đối hoá nhận thức sẽ làm cho thực tiễn không
thể phát triển và thực tiễn dậm chân tại chỗ.
Quan điểm phát triển yêu cầu phải thấy rõ khuynh hướng phát triển
trong tương lai của sự vật hiện tượng từ sự khái quát những khuynh hướng
cho sự biến đổi đó.
Phép biện chứng mácxít chỉ ra rằng, bản chất của phát triển là sự vận
động theo hướng đi lên của bản thân sự vật, của giới tự nhiên,của con người
và của xã hội. Nguyên lý của sự phát triển là sự biến đổi về lượng dẫn đến sự
biến đổi về chất, tạo nên mâu thuẫn trong bản thân sự vật và sự phủ định của
phủ định tạo nên bước nhảy vọt, đưa sự vật này chuyển sang sự vật khác mới
cao hơn về chất. Trong quá trình đó bao hàm cả sự kế thừa những mặt tích
cực tiến bộ, mà quá trình chuyển hoá đã làm thay đổi từ sự vật cũ sang sự vật
mới. Đó là một tiến trình mang tính khách quan, vô tận và làm cho thế giới
ngày càng hoàn thiện.
Nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân tích một cách khoa học
và chỉ ra quá trình phát triển biện chứng từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ cho
đến các xã hội ở trình độ cao hơn. Hơn thế, nguyên lý còn chỉ ra rằng xã hội
được cấu thành bởi những quan hệ chặt chẽ và phức hợp giữa con người và
con người, con người và xã hội, con người và tự nhiên.Sự phát triển xã hội
diễn ra bởi những mâu thuẫn cơ bản giữa sản xuất và tiêu dùng, nhu cầu và
khả năng… Do đó, động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội sẽ có rất nhiều yếu
tố trong đó nền sản xuất vật chất là nền tảng, là yếu tố cơ bản. Bên cạnh đó,
. 14
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ ra rằng sự giải phóng và phát
triển con người, của lực lượng sản xuất và tương xứng với sự phát triển của
quan hệ sản xuất. Khẳng định vai trò quyết định của lực lượng sản xuất nhưng
chủ nghĩa Mác - Lênin không hề coi nhẹ các yếu tố khác trong đó đặc biệt là
lĩnh vực văn hóa. Văn hóa và một sô yếu tố khác cũng được coi như là nguồn
động lực mạnh mẽ cho sự phát triển con người và toàn bộ xã hội.
Chủ nghĩa Mác - Lênin với quan điểm phát triển là sự phát triển những
yếu tố nội sinh kết hợp ngoại sinh, con người, xã hội và tự nhiên … Tất cả
những yếu tố đó đều mang tính tổng hợp và toàn diện.
Với cách nhìn sự vật mang tính biện chứng như vật Hồ Chí Minh đã kế
thừa và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc xây dựng
một xã hội mới, một đất nước mới, một diện mạo mới và một sức sống mới.
1.2. Khái niệm văn hoá và tính cần thiết kế thừa và phát triển
trong xây dựng nền văn hoá mới
1.2.1. Khái niệm văn hoá
Trong tiếng Việt, “theo nghĩa thông dụng thì văn hóa chính là học
thức(trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa) hoặc theo nghĩa chuyên
biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (như văn hóa Đông Sơn…)
Theo nghĩa rộng thì văn hóa gồm tất cả những sản phẩm tinh vi hiện
đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động” [34, tr.56].
Có thể nói cách hiểu thứ nhất chưa phản ánh đầy đủ bản chất của văn
hóa. Nếu hiểu văn hóa theo nghĩa rộng thì văn hóa mới là đối tượng đích thực
của văn hóa học.
Có thể nói văn hóa bao hàm phạm vi rộng như vậy ta có thể thấy đã
tồn tại rất nhiều định nghĩa văn hóa của các nhà nghiên cứu văn hóa trên thế
giới từ nhiều góc độ khác nhau khi nghiên cứu về văn hóa.
Nhà nghiên cứu E.B. Tylor năm 1871 lần đầu tiên đưa ra định nghĩa về
văn hóa trong tác phẩm “Văn hóa nguyên thuỷ” xuất bản ở Luân Đôn: “văn
. 15
hóa hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết,
tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và những khả năng và
tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã
hội” [34, tr.62].
Tuy vậy để văn hóa trở thành đối tượng của một khoa học độc lập thì
đến năm 1885 mới có tác phẩm “Khoa học chung về văn hóa” của Klemm
(Đức) đã trình bày sự phát sinh phát triển toàn diện của loài người như một
lịch sử văn hóa.
Thuật ngữ “văn hóa học” xuất hiện năm 1898 tại Đại hội giáo viên sinh
ngữ họp ở Viên (Áo)
Năm 1949 trong tác phẩm “Khoa học về văn hóa” của L.White xuất
bản ở Mỹ thì thuật ngữ “văn hóa học” trở nên phổ biến.
Có thể nói khi đưa ra định nghĩa văn hóa thì cần phải hiểu văn hóa
không bó hẹp vào một số biểu hiện của đời sống tinh thần mà bao gồm tất cả
những lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tổ chức UNESCO đưa ra khái niệm về văn hóa như sau: “Đó là một
phức thể - tổng thể các đặc trưng - diện mạo về tinh thần và vật chất,trí thức
và tình cảm… khắc hoạ nên bản sắc một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng
miền quốc gia, xã hội…
Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà cả những lối
sống, những quyền cơ bản của con người những hệ thống giá trị, những hệ
thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…
Có những di sản văn hóa hữu thể như đình, đền, chùa, miếu, lăng, mộ,
nhà sàn…
Có những di sản văn hóa vô hình bao gồm những biểu hiện tượng trưng
và “không sờ thấy được” của văn hóa được lưu truyền biến đổi qua thời gian
[34, tr.17].
. 16
Edouard Herriot có một định nghĩa rất ngắn gọn, cô đọng về văn hóa
khi cho rằng “văn hóa là cái gì còn lại khi người ta đã quên đi tất cả,là cái vẫn
thiếu khi người ta đã học tất cả” [14, tr.1].
Các nhà nghiên cứu văn hóa trong nước đã có rất nhiều định nghĩa về
văn hóa từ rất sớm và người đưa ra định nghĩa về văn hóa sớm nhất ở Việt
Nam chính là Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa phản ánh khá chính xác về văn hóa
và phù hợp với định nghĩa văn hóa của UNESCO sau này.
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ,chữ viết,đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn mặc, ở và
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra, nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn ” [23, 431 ]
Phạm Văn Đồng cho rằng “văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ
lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc
Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió và thác ghềnh tưởng chừng như không
vượt qua được, để không ngừng phát triển và lớn mạnh” [28, tr.1].
Nhà nghiên cứu Phan Ngọc trong tác phẩm “Bản sắc văn hóa Việt
Nam” cho rằng khi định nghĩa văn hóa cần nắm được cái mặt gọi là “văn hóa
trong những sự đa dạng” [17, tr.23]. Hơn nữa văn hóa liên quan đến toàn bộ
đời sống xã hội loài người nên khi định nghĩa văn hóa thì cần tìm trong những
lĩnh vực nghiên cứu loài người một cách tổng thể.
Hơn nữa văn hóa không phải phát triển trong sự bó hẹp mà văn hóa cần
có sự giao tiếp để phát triển. Trong quá trình giao thoa đó nảy sinh sự lựa
chọn và trong hoàn cảnh đó con người phải biết làm chủ những ham muốn
của mình.
. 17
Và ông đưa ra định nghĩa:
“Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân
hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc
người này mô hình hoá theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu
hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy
nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác
các kiểu lựa chọn của các các nhân hay các tộc người khác” [24,tr.57].
Trần Ngọc Thêm khi định nghĩa về văn hóa lại căn cứ vào những đặc
trưng cơ bản để xác định văn hóa là gì.
“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [28, tr.16].
Trần Ngọc Thêm đã căn cứ vào tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân
sinh và tính lịch sử của văn hóa để định nghĩa văn hóa.
Nhìn chung các định nghĩa văn hóa được đưa ra có những cách định
nghĩa khác nhau nhưng đều phản ánh được cả giá trị vật chất và giá trị tinh
thần trong văn hóa.
Văn hóa là một lĩnh vực có thể xem xét từ nhiều hướng, nhiều góc độ
khác nhau. Với ý nghĩa đó khi xem xét tư tưởng Hồ Chí Minh về kế thừa và
phát triển trong việc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam chúng tôi muốn
làm phong phú hơn những nội dung nghiên cứu trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hóa.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính cần thiết kế thừa và phát triển
văn hoá trong xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam
Văn hóa không có biên giới và trong quá trình giao lưu văn hóa làm
cho văn hóa phát triển. Việt Nam có một vị trí địa lý thuận lợi trong việc giao
lưu với thế giới, điều đó tạo nên sự giao lưu văn hóa rất sớm. Có thể nói quá
trình xây dựng và phát triển đất nước gắn liền với quá trình tiếp xúc văn hóa
. 18
thế giới. Điều đó tạo nên truyền thống văn hóa Việt Nam đó là truyền thống
kế thừa và phát triển tinh hoa văn hóa nhân loại.
Có thể thấy trong lịch sử Việt Nam đã có những cuộc giao lưu văn hóa
với các nền văn hóa khác như văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ, phương
Tây…Ngay từ thời tiền sử văn hóa Việt Nam đã hình thành một cách cơ bản.
Trong “Đại cương về tiến trình văn hóa Việt Nam” của GS Đinh Gia Khánh
đã cho rằng thời kỳ tiền sử đã dần hình thành “một cơ tầng văn hóa chung cho
tất cả cư dân vùng Đông Nam Á, dù họ thuộc ngữ hệ nào trong 5 ngữ hệ chủ
yếu là Tày Thái, Việt Mường, Nam Á, Nam Đảo và Hán Tạng” [12, tr.76].
Trải qua hàng ngàn năm xây dựng và phát triển cho đến thời kỳ nhà
nước Âu Lạc, nền văn hóa của đất nước ta đã vươn tới một trình độ tương đối
cao ở vùng Đông Nam Á cổ đại.
Thành tựu văn hóa lớn của thời kỳ này chủ yếu là nông nghiệp lúa nước
và luyện kim. Có thể tìm thấy “đồ đồng Đông Sơn và ảnh hưởng của nó đã
tìm thấy khắp nơi từ Nam Trung Hoa đến Thái Lan, đến toàn bộ vùng Đông
Nam Á hải đảo” [9, tr.123]
Theo Trần Ngọc Thêm thì chính những “những thành tựu của thế giới
Đông Nam Á cổ đại mà trong đó có phần đóng góp của tổ tiên dân tộc Việt
Nam ấy, đã làm nên cái nền vững chắc cho sự phát triển của văn hóa Việt
Nam sau này” [29, tr.53].
Báo Thanh niên số 70 (1484) ra ngày Chủ nhật 2.5.1999 có nhận định
của Giám đốc Bảo tàng lịch sử Việt Nam khi cho rằng “văn hóa Đông Sơn, đó
là sự hội tụ, kết sinh của nhiều nền văn hóa trước đó, ở các lưu vực các dòng
sông, để tiến lên Đông Sơn trong sự hoà hợp, êm đềm, để từ đay có sức mạnh
lan toả, hội nhập với ảnh hưởng qua lại giữa lục địa và hải đảo, mà ngày nay
đó là vùng đất thuộc các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có cả phần lớn vùng
Nam Trung Hoa… Chính nhờ tính thống nhất đó, văn hóa Đông Sơn được
. 19
xem như là mạch ngầm nuôi dưỡng văn hóa truyền thống Lạc Việt suốt cả
nghìn năm Bắc thuộc”
Như vậy ngay từ thời cổ đại, nền văn hóa Việt Nam đã sớm hình thành
trong sự hình thành quốc gia thống nhất và trong sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa
các nền văn hóa.
Trải qua thời gian, Việt Nam phải chịu ách đô hộ của phong kiến
phương Bắc suốt hàng ngàn năm. Sau năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân
Nam Hán mở ra chương mới trong lịch sử dân tộc kéo dài đến khi thực dân
Pháp chính thức cai trị nước ta năm 1883. Trong suốt thời gian dài đó, văn
hóa luôn bị âm mưu đồng hoá của văn hóa phương Bắc. Tuy vậy chính sách
“đồng hoá” của bọn cai trị đã thất bại, nguyên nhân chính để chính sách này
thất bại vì “căn cước của người Việt đã sâu gốc bền rễ trên đất Việt, bản sắc
văn hóa, văn minh của người Việt đã rõ nét và không dễ dàng bị thủ tiêu” [1,
tr.145]
Tất nhiên bên cạnh đó sự tiếp thu văn hóa diễn ra song song với quá
trình chống lại sự đồng hoá văn hóa. Thời kỳ này không chỉ văn hóa Trung
Quốc ảnh hưởng đến Việt Nam mà còn có văn hóa ấn Độ điển hình là Phật
giáo, được truyền bá và ăn sâu vào xã hội Việt Nam. Tuy vậy tư tưởng Phật
giáo đã bị biến đổi cho phù hợp với tín ngưỡng dân gian và làm phong phú
thêm đời sống tinh thần dân tộc Việt Nam.
Nho giáo cũng bị biến đổi khi du nhập vào Việt Nam bị “khúc xạ”, bị
“Việt hoá” cho phù hợp với truyền thống văn hóa Việt Nam - một nền văn
hoá với tính tự trị làng xã rất bền chặt và đặc trưng.
Ngoài hai luồng tư tưởng lớn đã du nhập vào nước ta là Phật giáo và
Nho giáo còn có rất nhiều tư tưởng, trường phái khác như Đạo giáo, Lão
Trang… cũng du nhập và bị biến đổi cho phù hợp với truyền thống văn hóa
dân tộc.
. 20
Tuy vậy phải đến khi Việt Nam tiếp xúc với nền văn minh công nghiệp
phương Tây thông qua con đường thực dân hoá của thực dân Pháp thì mới
thực sự tạo nên sự thay đổi khá toàn diện.
Cuộc hội nhập với văn hóa phương Tây có thể tính từ thế kỷ XVI khi
các thuyền buôn cùng với các giáo sỹ Phương Tây đến Việt Nam tại các vùng
có hoạt động thương mại nhộn nhịp như Hội An, Phố Hiến… Kể từ đó “lịch
sử Việt Nam đã bị lôi cuốn vào dòng lịch sử rộng lớn toàn cầu” [25, tr.143]
Các linh mục phương Tây là những người đầu tiên đặt nền móng cho
quan hệ Việt Nam với phương Tây. Họ đã đặt chân lên Việt Nam từ khi Việt
Nam chưa hề biết đến thế nào là Tin lành và trong khi Nho - Phật - Lão vẫn
đang là những luồng tư tưởng chính trong đời sống xã hội người Việt.
Có thể thấy rõ sự nhiệt tình của các giáo sỹ và sự hậu thuẫn của các thế
lực chính trị nước ngoài đã đặt nền móng cho sự tồn tại lâu dài của đạo Tin
lành ở Việt Nam. Chính Napoleong I từ năm 1804 khi nói trước Hội đồng
Hoàng gia Pháp đã khẳng định những giáo sỹ này rất có ích cho mục đích
thực dân của mình ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ.
Và lịch sử trong đời sống tinh thần của người Việt kể từ đây đã tồn tại
luồng tư tưởng mới đó là đạo Tin lành. Tuy vậy sức mạnh truyền thống văn
hóa Việt Nam đã biến đổi nó cho phù hợp với dân tộc. Người theo đạo vẫn
“kính chúa” nhưng vẫn “yêu nước” và sống “phúc ấm trong lòng dân tộc”. Và
đạo Tin lành đã mang những nét riêng khi du nhập vào Việt Nam.
Bên cạnh việc truyền đạo những giáo sỹ cũng có đóng góp lớn cho văn
hóa Việt Nam bằng việc tạo ra chữ quốc ngữ. Người có công lớn trong việc
này chính là A.de Rhodes (1591-1661) và một số linh mục khác. Ông đã
phiên âm Tiếng Việt bằng mẫu tự Latinh và từ đó tách tiếng Việt khỏi mối
liên hệ với chữ tượng hình và tạo ra thứ chữ riêng của Việt Nam .
Tôn giáo và ngôn ngữ chính là những thứ vũ khí được vận dụng một
cách khá triệt để trên con đường đồng hoá Việt Nam như lời của giám mục
. 21
Puginier “để thay đổi cả dân tộc; đó là tôn giáo và ngôn ngữ. Nếu chính phủ
Pháp hiểu biết lợi ích thực sự của mình thì hãy ủng hộ việc rao giảng tin lành
và dạy bảo ngôn ngữ của chúng ta. Tôi xin khẳng định là trước thời hạn 20
năm chẳng cần phải cưỡng bức ai, xứ sở này sẽ được Kitô hoá và Pháp hoá”
[26, tr.231].
Có thể thấy văn hóa phương Tây đã tác động mạnh mẽ đến nền văn hóa
xã hội Việt Nam trên hầu hết các phương diện như kiến trúc, văn học, giáo
dục, khoa học... Tuy vậy với sức mạnh truyền thống văn hóa dân tộc đã trải
qua hàng ngàn năm, văn hóa Việt Nam đã tiếp nhận những điều có ích và
phục vụ cho dân tộc. Người Pháp đã nghĩ rằng họ đã đồng hoá người Việt
bằng những mưu đồ đen tối nhưng sự thật họ cũng tự nhiên mang đến cho
chúng ta những tri thức tiến bộ mà văn minh nông nghiệp chưa hề có.
Nền văn hóa Việt Nam đã thay đổi “từ ăn mặc đến các phương tiện
giao thông…từ văn xuôi đến tiểu thuyết, từ chữ Hán, chữ Nôm đến chữ quốc
ngữ…” [27, tr.123]
Sự không chối từ các yếu tố ngoại sinh đó cũng đã làm giàu thêm cho
văn hóa Việt Nam mà vẫn giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống ở nông
thôn và mở rộng giao tiếp ở thành phố.
Rõ ràng trong lịch sử, dân tộc ta bằng nhiều con đường khác nhau, qua
nhiều giai đoạn khác nhau đã trải qua những cuộc tiếp xúc, tiếp biến văn hóa
với những nền văn hóa lớn trên thế giới. Trải qua thời kỳ đầu dựng nước và
giữ nước cho đến khi tiếp biến với nền văn minh công nghiệp, Việt Nam đã
kế thừa và phát triển những yếu tố tích cực và biến đổi cho phù hợp, đồng
thời vẫn gìn giữ bản sắc của dân tộc.
Qua những giai đoạn hội nhập văn hóa đó, văn hóa dân tộc Việt Nam
ngày càng trở nên đa dạng, phong phú, phát triển và đầy bản sắc. Có thể thấy
“độc lập mà không hề biệt lập, học hỏi bên ngoài mà không sao chép, hội
. 22
nhập với thế giới mà không bị hoà tan” [28, tr.165] . Đó là phương châm để
văn hóa Việt Nam tồn tại và phát triển cùng lịch sử.
Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh là hai nhà văn hóa lớn đã thực hiện rất
thành công truyền thống tiếp biến văn hóa này. Trong khi Nguyễn Trãi kế
thừa trên cơ sở Nho giáo và truyền thống văn hóa dân tộc thì Hồ Chí Minh đã
kế thừa truyền thống văn hóa dân tộc, chủ nghĩa Mác - Lênin và tinh hoa văn
hóa nhân loại.
Thông qua quá trình tiếp thu có chọn lọc đó văn hóa trở thành sức
mạnh biến đổi thực tiễn tạo nên sự biến đổi trong đời sống của cả dân tộc
hoặc cả thế giới. Hồ Chí Minh chính là một người tiêu biểu khi kế thừa, phát
triển tinh hoa văn hóa nhân loại tạo nên sự ảnh hưởng đối với cả dân tộc và
thế giới.
Văn hóa không có biên giới và Hồ Chí Minh là người hiểu rõ điều đó.
Hồ Chí Minh đã biết kế thừa các nền văn hóa tiên tiến để xây dựng nền văn
hóa mới và chính UNESCO cũng đã thừa nhận:
“Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết tinh các truyền thống văn hóa trải qua
mấy ngàn năm của dân tộc Việt Nam …những lý tưởng của Người là hiện
thân những khát vọng của nhân dân các nước trong việc khẳng định diện mạo
văn hóa của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau” [29,
tr.34].
Có thể thấy rõ trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh luôn thể hiện rõ sự
kế thừa và phát triển tinh hoa văn hóa nhân loại. Dường như đó cũng chính là
một đường lối, một phương pháp trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan điểm
toàn diện cho thấy Hồ Chí Minh luôn coi trọng tất cả các yếu tố như chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội. Hồ Chí Minh đã viết
“Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải coi là quan
trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa”
. 23
Khi đề cập riêng đến vai trò của văn hóa trong sự phát triển xã hội,
Người cũng chỉ ra những điều kiện cơ bản của sự phát triển văn hóa đó là cơ
sở hạ tầng. Người viết : “Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng, những cơ sở
hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều
kiện phát triển được”.
Nhận rõ vị trí và vai trò của văn hóa trong đời sống kinh tế, xã hội, Hồ
Chí Minh luôn đề cao quá trình kế thừa và phát triển trong lĩnh vực văn hóa.
Và Hồ Chí Minh là người tiêu biểu cho sự kế thừa và phát triển những tinh
hoa văn hóa của cả dân tộc và nhân loại. Sinh ra trong hoàn cảnh nước nhà
trong vòng nô lệ, Hồ Chí Minh đã sớm có quyết tâm tìm ra con đường cứu
nước, cứu dân. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng cho dù đi khắp năm
châu bốn biển, Người vẫn giữ được những giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc đó là tính cộng đồng và lối sống hài hoà, trọng tình...
Xuất thân từ một gia đình Nho học và bản thân Người cũng thừa nhận
là một nhà Nho yêu nước. Trong các bài viết và nói của Người thường trích
dẫn những câu nói từ vốn tri thức Nho giáo. Bên cạnh đó lại có một lối sống
coi nhẹ danh lợi giống như đạo Lão - Trang và mang trong mình tấm lòng từ
bi hỉ xả của Phật giáo.
Tháng 1 năm 1946 trong bài trả lời phỏng vấn các nhà bào Người nói
rằng:
“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc… riêng phần tôi thì làm
một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc, để câu cá, trồng rau, sớm
chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì tới
danh lợi” [30, 517]
Thực tế khu vực nghỉ ngơi của Bác tại Hà Nội với nhà sàn, ao cá, vườn
cây cũng thể hiện nét điển hình đó.
. 24
Người cũng luôn phấn đấu cho việc xây dựng một đất nước Độc lập,
Tự do, Hạnh phúc… Những điều đó cũng giống như chủ nghĩa Tam dân của
Tôn Dật Tiên.
Lối sống coi trọng cá nhân của phương Tây được Người kết hợp hài
hoà với lối sống coi trọng tập thể của truyền thống Việt Nam. Người kết hợp
tài tình lối suy nghĩ cảm tính, tổng hợp của Việt Nam với tư duy phân tích, lý
tính của văn hóa phương Tây tạo nên một tư duy sâu sắc, chặt chẽ và đầy sức
thuyết phục - điều chúng ta thường thấy trong các bài nói, bài viết và các bài
báo của Người.
Kế thừa và phát triển dường như là phương pháp tối ưu trong con người
Hồ Chí Minh. Chính Người đã khẳng định điều này bằng câu nói:
“Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức các
nhân.
Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách của nó thích
hợp với điều kiện nước ta
Khổng Tử ,Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những điểm chung đó
sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội.
Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ
nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết.
Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy. Tôi chính là tôi ngày
trước: một người yêu nước” [31, tr.23].
Như vậy có thể thấy rõ Người biết tích hợp những tư tưởng văn hóa
tiến bộ trên thế giới và cùng với truyền thống yêu nước Việt Nam phục vụ
cho dân tộc Việt Nam.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, những người Việt Nam
yêu nước đã quyết tâm chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp. Hệ quả kéo
. 25
theo là sự tẩy chay tất cả những gì liên quan đến thực dân Pháp. Trong việc
tìm ra đường lối cho cách mạng Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của quan
điểm đó. Phan Bội Châu là một nhà chí sỹ yêu nước nhưng có cách nghĩ khác
với Hồ Chí Minh khi chọn con đường Đông Du chứ không phải là sang
phương Tây; sào huyệt của kẻ thù.
Từ khi rất trẻ Người đã biết tìm đến với văn minh phương Tây để học
hỏi để tìm hiểu hòng tìm ra đường lối cho cách mạng Việt Nam. Sự kế thừa
và phát triển tinh hoa văn hóa nhân loại đã tích hợp nên trong con người Hồ
Chí Minh một nền “văn hóa của tương lai” như chính O. Madenstam đã nhận
xét:
“Nguyễn Ái Quốc thấm đượm chất văn hóa - không phải thứ văn hóa
châu Âu, có lẽ đấy là nền văn hóa của tương lai” [32, tr.487]
Có lẽ những nhận định của những người làm báo nước Mỹ sẽ minh
chứng rõ cho điều này khi tuần báo Time bình chọn Hồ Chí Minh là một
trong 20 nhà lãnh đạo có tầm ảnh hưởng nhất thế kỷ XX và đánh giá Người là
“kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa cộng sản và hoàn thiện nghệ thuật
chiến tranh du kích” [21]
Thời báo Ấn Độ đã nhận xét rằng “Cụ Hồ đã kết hợp nhuần nhuyễn sự
toa nhã cao quý với tác phong gần gũi rất dân chủ, giữa tự do không nghi thức
với sự nghiêm chỉnh thận trọng;vì vậy cụ Hồ có một sức hấp dẫn đặc biệt
không gì so sánh được” [34]
Tờ Asahi (Nhật) lại cho rằng điều “làm cho cụ Hồ trở thành lãnh tụ
quần chúng tuyệt vời là sự kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết
hợp phong trào giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa” [2]
Báo Chiến đấu (Pháp) có bài của J Ru cho rằng Bác Hồ là “người hoàn
toàn đáng được mọi người ca ngợi, bởi vì cụ Hồ đã kết hợp nhuần nhuyễn phi
thường chủ nghĩa anh hùng với đầu óc sáng suốt, lòng yêu nước tuyệt vời,
tinh thần cách mạng trong sáng, thái độ cứng rắn trước cuộc sống với
. 26
lòngnhân đạo với con người. Sự hài hoà giữa những người tính tình đôi khi
trái ngược nhau đó giải thích tại sao cụ Hồ cùng một lúc là nhà thơ, là đảng
viên, là nhà lãnh đạo quốc gia, lại vừa là một chiến sỹ ” [26]
Những nhận xét khá xác đáng đó đã nói lên Hồ Chí Minh thực sự là
người biết vận dụng sáng tạo những giá trị tiêu biểu của các nền văn hóa tiên
tiến và bổ sung những gì còn thiếu cho nền văn hóa Việt Nam.
Việt Nam đã có nền văn hóa lâu đời chi phối suốt chiều dài lịch sử dân
tộc. Nhận rõ sức mạnh của văn hóa Người cho rằng phải làm sao cho văn hóa
vào sâu đời sống nhân dân. Văn hóa phải sửa đổi phù hoa xa xỉ.
Hồ Chí Minh cũng chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam dân tộc,
khoa học, đại chúng và xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa các nền văn hóa
tiên tiến. Bản Đề cương văn hóa năm 1943 của Đảng cộng sản Việt Nam thể
hiện rõ những sự kế thừa văn hóa Macxít. Mô hình văn hóa trong xã hội mới
đó sẽ vận động theo nguyên tắc dân tộc, khoa học và đại chúng.
Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại là một nguyên lý rất có ích
trong việc xây dựng nền văn hóa dân tộc. Văn hóa truyền thống dân tộc phải
biết hoàn thiện, bổ sung bằng các yếu tố tích cực của văn hóa mới - văn hóa
ngoại sinh. Có thể nói lòng khao khát đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước
cũng thể hiện một cách tư duy rất riêng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nền văn hóa chỉ phát triển khi biết phát huy cái cũ tiến bộ và tiếp thu
cái mới làm giàu thêm cho chính nền văn hóa đó. Ngay cả truyền thống yêu
nước của dân tộc Việt Nam trong Hồ Chí Minh cũng đã trở nên hoàn thiện
hơn cao cả hơn và mang trong đó tinh thần quốc tế trong sáng.
Tóm lại nhận rõ vai trò và sức mạnh của văn hóa từ rất sớm, Hồ Chí
Minh đã chỉ ra rằng muốn xây dựng một nền văn hóa mang đậm dấu ấn, bản
sắc dân tộc và có những giá trị tinh hoa của văn hóa tiên tiến nhân loại thì
phải biết kế thừa và phát triển tinh hoa văn hóa nhân loại và phát triển những
. 27
giá trị cơ bản của truyền thống văn hóa dân tộc. Đó cũng là phương pháp biện
chứng duy vật được phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
. 28
Chương 2
NỘI DUNG CỦA SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG
NỀN VĂN HOÁ MỚI VIỆT NAM
2.1. Một số giá trị cơ bản của truyền thống văn hóa dân tộc
Truyền thống văn hóa là hệ thống những đặc tính bên trong, những sắc
thái riêng, có tính cội nguồn, trở thành bản thể, nền tảng của một nền văn hóa.
Nói đến truyền thống là nói đến “phức hợp những tư tưởng, tình cảm , tập
quán, thói quen, những phong tục, lối sống, các ứng xử trở nên ổn định được
truyền từ đời này sang đời khác”.
Truyền thống văn hóa dân tộc là những hiện tượng văn hóa xã hội gồm
những chuẩn mực giao tiếp, khuôn mẫu văn hóa, các tư tưởng xã hội, các
phong tục, tập quán… tồn tại từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Truyền thống văn hóa dân tộc mang những đặc trưng riêng mà chỉ tìm
thấy ở dân tộc đó mà không thấy ở dân tộc khác. Nó mang đặc tính dân tộc
sâu sắc và in đậm trong thiên nhiên, con người và xã hội dân tộc đó.
Truyền thống văn hóa dân tộc mang tính lịch sử rõ nét. Điều đó có
nghĩa rằng những điều kiện lịch sử, xã hội nhất định sẽ có truyền thống văn
hóa riêng phù hợp với điều kiện lịch sử, xã hội đó.
Truyền thống văn hóa dân tộc chính là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và
tương lai của dân tộc đó. Có thể thấy rõ đó chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch
sử văn hóa của mọi dân tộc. Không có dân tộc nào lại không có lịch sử văn
hóa của riêng mình. Qua quá trình phát triển lịch sử dân tộc, truyền thống văn
hóa tự sáng tạo ra những hệ giá trị riêng và mang những đặc trưng của dân tộc
đó. Nó chứa đựng và thể hiện đầy đủ bản sắc của chính dân tộc đã sản sinh ra
nó. Những nét riêng đó có thể là cách ứng xử, phương thức sinh hoạt, nghệ
thuật, kiến trúc, lối sống, khả năng tư duy, đạo đức, thế giới quan, nhân sinh
. 29
quan… Chính những điều đó làm nền tảng, làm cơ sở để tiếp thu các giá trị
của các luồng tư tưởng văn hóa khác trên thế giới.
Giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam là những phần tinh tuý, cốt lõi
tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Những thành tựu văn hóa vật chất và văn
hóa tinh thần đều là những thành tố không thể thiếu trong một nền văn hóa.
Tuy nhiên mỗi giai đoạn lịch sử lại có những giá trị văn hóa mới bên cạnh
những giá trị đã tồn tại lâu dài trong lịch sử. Trong quá trình đó có khi xảy ra
xung đột giữa những hệ giá trị mới tiến bộ và giá trị cũ lạc hậu.
Tương lai bắt đầu từ quá khứ. Có quan điểm cho rằng muốn đi đến
tương lai một cách tốt nhất thì phải có một quá khứ tốt đẹp nhất. Điều đó cho
thấy rằng nếu muốn xây dựng một nền văn hóa mới Việt Nam thật hoàn thiện
thì cần phải biết kế thừa những mặt tích cực của truyền thống văn hóa dân tộc.
Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng cho dù có trải qua những biến
động thế nào chăng nữa thì Việt Nam vẫn giữ được những bản sắc riêng. Có
thể thấy rõ sự tác động của ba “lớp văn hóa” đến văn hóa Việt Nam . Đó là
lớp văn hóa bản địa Đông Nam á; lớp văn hóa khu vực mà điển hình là văn
hóa Trung Hoa và cuối cùng là lớp văn hóa phương Tây.
Những yếu tố tác động đó đã làm hình thành nên bản sắc văn hóa Việt
Nam. Với đặc trưng là một nền nông nghiệp trồng lúa nước, để tồn tại và phát
triển cần hình thành một sự liên kết chặt chẽ thành những cộng đồng dân cư
bền chặt. Điều đó tạo nên tinh thần đoàn kết, thương yêu lẫn nhau và trên
bình diện quốc gia nó tạo nên tinh thần đoàn kết toàn dân tộc và tinh thần yêu
nước nồng nàn.
Nền văn minh lúa nước phụ thuộc vào yếu tố khác nhau nên trong tư
duy người Việt luôn chú trọng tới rất nhiều yếu tố và nhiều quan hệ giữa
chúng để làm sao tìm ra sự hài hoà, sự ổn định, mềm dẻo, trọng tình cảm và
thích cuộc sống yên bình mà ghét chiến tranh.
. 30
Văn hóa Việt Nam luôn có xu hướng xây dựng một sự ổn định trong
đời sống tinh thần người Việt. Nhưng cũng rất linh hoạt trong ứng xử với
thiên nhiên, xã hội.
Trong cuộc đấu tranh giữ vững độc lập dân tộc có cả cuộc đấu tranh
diễn ra không kém phần quyết liệt là cuộc đấu tranh giữ vững bản sắc văn hóa
dân tộc chống lại sự áp đặt và nô dịch, đồng hoá văn hóa của văn hóa ngoại
lai. Trong cuộc đấu tranh đó truyền thống văn hóa dân tộc đã được bảo vệ và
phát triển, bổ xung những yếu tố tiến bộ trong đó.
Lịch sử đã cho thấy những giá trị của truyền thống văn hóa có sức sống
mãnh liệt trong cuộc đấu tranh nhằm bảo tồn những giá trị văn hóa dân tộc.
Qua lao động, chiến đấu để xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc những giá
trị văn hóa truyền thống ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn và giàu sức sống
hơn.
Mặt khác trong quá trình tồn tại và phát triển, văn hóa dân tộc không
thể không giao lưu và chịu ảnh hưởng của các nền văn hóa khác. Quá trình
tiếp biến văn hóa nhân loại là một quá trình tất yếu nhưng trong quá trình đó
bản sắc văn hóa dân tộc được giữ vững. Không những thế còn được bổ xung
và làm giàu thêm bằng các giá trị văn hóa mới. Những giá trị văn hóa mới đã
được đưa vào Việt Nam bằng cách này hay cách khác nhưng dưới hình thức
nào thì nó vẫn bị biến đổi cho phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc. Đó
là xu hướng xuyên suốt trong lịch sử dân tộc nói chung.
Truyền thống văn hóa là những giá trị được tích luỹ lâu dài qua một
quá trình tiếp thu và biến đổi mạnh mẽ liên quan chặt ché đến quá trình đấu
tranh chính trị, xã hội và kinh tế của dân tộc. Những giá trị truyền thống luôn
phát triển, đấu tranh với các thói quen, tư tưởng bảo thủ, tiêu cực… Đó là cái
xuyên suốt và chi phối những hành vi, tập quán, lối sống, cách ứng xử của
con người trong mọi thời điểm.
. 31
Văn hóa nông nghiệp cộng với ở trong vị trí địa lý thuận lợi trong việc
giao lưu với các nền văn hóa trên thế giới nên muốn tồn tại và phát triển thì
cần phải biết tiếp thu những nền văn hóa khác nhau. Lối tư duy tổng hợp của
nền văn minh nông nghiệp đã tạo nên tính dung hợp trong việc thích ứng với
những nền văn hóa mới. Dễ hiểu tại sao những tôn giáo lớn trên thế giới đều
đi vào Việt Nam một cách thuận lợi và cùng phát triển một cách hoà bình
trong sự ổn định chung của dân tộc mà không có mâu thuẫn tôn giáo.
Sự khoan dung cũng là một phương châm sống chi phối hành động của
con người Việt Nam. Để có được sự khoan dung như vậy đòi hỏi phải có một
tấm lòng nhân ái cao cả vượt lên trên hết những chuẩn mực thông thường. Dễ
thấy trong lịch sử chúng ta đã có một truyền thống “tương thân tương ái”
giữa người và người trong cộng đồng và lòng nhân ái đó còn được thực hiện
với cả kẻ thù của chính dân tộc mình.
Đối với kẻ thù sự khoan dung đó thật sự làm cho kẻ thù phải có một sự
kính trọng đối với dân tộc Việt Nam - một dân tộc chỉ mong muốn sống
trong cảnh hoà bình mà không muốn chiến tranh. Một dân tộc chỉ biết “lấy đại
nghĩa để thắng hung tàn”và “Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Sự khoan
dung là phương châm sống cũng là động lực góp phần giữ gìn nền độc lập dân
tộc.
Có thể thấy rõ những đặc trưng trên thể hiện sinh động bản sắc văn hóa
của dân tộc, đó là tinh thần yêu nước nồng nàn, sống hài hoà, giản dị, chất
phác và tính dung hợp. Những yếu tố này là những yếu tố cấu thành bền vững
trong truyền thống văn hóa dân tộc.
Không phải bất kỳ dân tộc nào cũng có tình yêu quê hương đất nước
như dân tộc Việt Nam. Đó là truyền thống quý báu mà dân tộc Việt Nam đã
hun đúc từ khi mới dựng nước. Tinh thần yêu nước nồng nàn và lòng dũng
cảm bất khuất chống giặc ngoại xâm là những nhân tố vững chắc để đảm
bảo cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Có thể thấy rõ truyền thống lịch
. 32
sử dựng nước và giữ nước dân tộc đã không biết bao nhiêu người và bao
nhiêu lần đã anh dũng ngã xuống để bảo vệ sự toàn vẹn của cả dân tộc. Động
lực duy nhất đã khiến họ làm như vậy chính là chủ nghĩa yêu nước.
“Thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc” [26,tr.235]là
câu nói của danh tướng Trần Bình Trọng khi bị giặc Nguyên Mông bắt được.
đã thể hiện rõ nhất truyền thống yêu nước nồng nàn của nhân dân ta.
Qua đấu tranh giữ vững độc lập tự chủ dân tộc mà làm giàu thêm lòng
yêu nước và ngược lại lòng yêu nước qua cuộc đấu tranh đó lại được thử
thách và hun đúc lên một tầm cao mới. Thời gian trôi qua và lòng yêu nước
được nuôi dưỡng và phát triển thành chủ nghĩa yêu nước. Trải qua hai cuộc
chiến tranh chống những thế lực mạnh mẽ nhất của chủ nghĩa tư bản, chủ
nghĩa yêu nước được phát huy cao độ và là nhân tố đảm bảo cho sự thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
Bên cạnh tinh thần yêu nước là truyền thống cần cù lao động, sản xuất,
vượt qua khó khăn gian khổ để tồn tại và phát triển. Có thể nói con người Việt
Nam chịu nhiều khó khăn do thiên nhiên, môi trường tạo ra và cũng từ khó
khăn đó mà bằng sự cần cù, chịu khó vươn lên vượt qua mọi thử thách.
Những yếu tố kể trên là những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cả dân
tộc đã được duy trì và phát triển trong suốt lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước của dân tộc. Có thể trong một giai đoạn nhất định có một yếu tố chiếm
giữ vai trò chủ đạo
2.2. Những đặc trưng của văn hóa hiện đại
Xu thế chung của các nền văn hóa là luôn trong quá trình giao lưu ảnh
hưởng lẫn nhau. UNESCO đã cho rằng “từ lâu nền văn hóa bao giờ cũng là
phương tiện ưu tiên trong cuộc giao lưu giữa các dân tộc, khi nó có thể cống
hiến mạnh mẽ cho việc tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau trên phạm vi quốc tế,
đi đôi với sự nhìn nhận những đặc trưng của mỗi xã hội trong các hình thức
diễn đạt những giá trị văn hóa của mình” [37, tr.25]
. 33
Trong xu thế biến đổi chung đó các nền văn hóa xâm nhập vào nhau và
làm biến đổi lẫn nhau. Qua mỗi giai đoạn thăng trầm khác nhau của lịch sử,
yếu tố văn hóa mới nảy sinh và tồn tại trong đời sống tinh thần dân tộc. Chính
điều đó thể hiện tính hiện đại, tiên tiến của nền văn hóa trong từng giai đoạn
lịch sử. Tuy nhiên cần phải chú ý rằng không phải mọi cái m ới xuất hiện đều
là những cái tiên tiến. Chỉ những cái mới nào phù hợp với quy luật phát triển
văn hóa và phù hợp với nguyện vọng, lợi ích của nhân dân thì mới là những
cái tiên tiến.
Nền văn hóa biết kế thừa những yếu tố tiên tiến nhưng phải dựa trên
bản sắc văn hóa dân tộc. Những chuẩn mực mới phải cùng những chuẩn mực
cũ tạo nên một nền đạo đức mới hoàn thiện.
Kế thừa yếu tố tiên tiến của văn hóa nhân loại là kế thừa tính nhân văn
sâu sắc của văn hóa thế giới. Mục tiêu cuối cùng của nền văn hóa tiên tiến
chính là để giải phóng con người khỏi áp bức và đưa con người đi đến tự do.
Đó cũng là mục tiêu của chủ nghĩa Mác - Lênin mà Hồ Chí Minh đã truyền bá
vào Việt Nam và trở thành bộ phận quan trọng trong đời sống tinh thần của
nhân dân.
Một nền văn hóa tiên tiến là một nền văn hóa dân chủ. Đó chính là việc
phát huy tối đa sức mạnh toàn xã hội để xây dựng nên nền văn hóa mới mang
những đặc điểm tốt đẹp. Một nền văn hóa do toàn thể nhân dân tạo nên sẽ vô
sùng phong phú đa dạng và muôn màu muôn vẻ, phù hợp và đáp ứng nhu cầu
của tất cả mọi người.
Một nền văn hóa tiên tiến là một nền văn hóa dựa trên nền tảng vững
chắc là khoa học công nghệ hiện đại. Khoa học công nghệ hiện đại là nhân tố
then chốt góp phần tạo nên một nền văn hóa giàu tính hiện đại, tiên tiến. Khoa
học công nghệ làm cho nền kinh tế chính trị trở nên vững vàng. Khi có sự ổn
định và vững vàng về mặt kinh tế, chính trị thì văn hóa sẽ phát triển hoàn
thiện và hiện đại.
. 34
Trong quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa, cần thiết phải đảm bảo
tính năng động và sáng tạo trong việc tiếp thu và biến đổi văn hóa. Sự áp đặt
văn hóa và sự kế thừa nguyên xi nội dung văn hóa cũng đều làm cho văn hóa
mang trong nó những yếu tố tiêu cực. Cần phải đánh giá một cách toàn diện,
tích cực và có chọn lọc những yếu tố tiến bộ, tích cực của các nền văn hóa để
bổ xung những yếu tố tiến bộ cho dân tộc mình. Đó mới là phương châm
đúng đắn nhất trong việc tiếp thu những yếu tố tiên tiến của văn hóa nhân
loại.
Văn hóa hiện đại phải mang tính cách mạng và phải mang những nội
dung để có thể cải biến toàn xã hội. Văn hóa tiên tiến không chỉ phản ánh xã
hội mà văn hóa tiên tiến phải cải biến xã hội. Văn hóa phải đi vào đời sống
nhân dân và làm biến đổi sâu rộng đời sống nhân dân theo hướng tích cực. Đó
là bản chất cách mạng của văn hóa.
Có thể nói văn hóa tiên tiến, hiện đại mang những yếu tố tích cực, tiến
bộ và phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc. Dựa trên những yếu tố tích
cực của văn hóa truyền thống dân tộc mà những yếu tố tiên tiến tồn tại, bổ
xung cho văn hóa dân tộc tạo nên một nền văn hóa mới - văn hóa tương lai.
2.3. Kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc tiếp
thu những yếu tố tiên tiến của văn hoá thế giới trong tư tưởng văn hóa
Hồ Chí Minh
Khi nói đến văn hóa có thể chúng ta sẽ nghĩ đến những biểu hiện của
văn hóa trong nhiều lĩnh vực. Tuy vậy xét cho cùng văn hóa lại nằm ở ngay
trong “tâm thức con người của một nền văn hóa cụ thể”. Con người được thừa
hưởng văn hóa của quê hương mình một cách tự nhiên. Màu da, ngôn ngữ, lối
sống, nhân cách, tâm lý… là những đặc trưng nói lên chính con người đó
thuộc về dân tộc nào. Đó là những hằng số văn hóa tồn tại một cách tự nhiên
trong mỗi con người. Những hằng số đó là cơ sở để tiếp thu phát triển những
tinh hoa văn hóa bên ngoài.
. 35
Với phẩm chất lỗi lạc của nhà lãnh tụ, khi định hướng xây dựng một
nền văn hóa mới Việt Nam, Người luôn nêu bật vai trò quan trọng những giá
trị của những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Truyền thống được Hồ Chí Minh nhìn nhận và vận dụng như một yếu
tố cấu thành, một động lực của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh nhìn thấy
tính tất yếu của truyền thống và biểu hiện tính liên tục của lịch sử. Ví như khi
coi tinh thần tự lực, tự cường của dân tộc như là một truyền thống, Hồ Chí
Minh cho rằng “tinh thần tự lực tự cường mấy ngàn năm của dân tộc, tinh
thần bất khuất truyền từ Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Hoàng Hoa
Thám…(và thế hệ ngày nay) sẽ duy trì tinh thần bất diệt ấy, truyền lại mãi
mãi cho giống nòi Việt Nam”. (Hồ Chí Minh, (1983), Toàn tập, t.4, Nxb Sự
thật, Hà Nội.)
Nhưng để chính truyền thống trở thành yếu tố cấu thành lịch sử dân tộc
thì mọi thế hệ đều phải duy trì và truyền lại mãi về sau. Điều đó cho thấy sự
chủ động kế thừa truyền thống là điều kiện đảm bảo sự liên tục và phát huy
hiệu quả truyền thống.
Với sự kế thừa truyền thống, chúng ta có một mục đích rõ ràng. Truyền
thống được kế thừa tiếp nối là vì hiện tại và tương lai. Do vậy, vấn đề không
chỉ đơn giản là sự kế thừa truyền thống mà cần thiết phải xử lí hợp lí mối
quan hệ giữa truyền thống – hiện tại – tương lai.
Không phải mọi truyền thống đều có ý nghĩa với hiện tại. Chỉ có những
truyền thống tốt đẹp thì mới gia nhập vào động lực của sự phát triển xã hội.
Ngược lại những truyền thống không tốt sẽ là vật cản trên con đường phát
triển. Hồ Chí Minh đã rất nhiều lần khẳng định rõ những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc. Người đã luôn yêu cầu phải kế thừa những giá trị tốt đẹp
của dân tộc như: lòng yêu nước, ý chí tư lập, tự cường, tinh thần bao dung…
Truyền thống trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ đơn giản chỉ là
những ánh hào quang trong quá khứ mà truyền thống chính là một nhân tố
. 36
không thể thiếu trong hiện tại và tương lai. Vì thế mà truyền thống hiện ra
như một động lực của sự phát triển. Để có thể làm được điều đó (để truyền
thống như một động lực) thì cần phải làm sống động lại nó trên cơ sở những
yêu cầu của hiện tại và tương lai. Bản thân Hồ Chí Minh đã rất nhiều lần tìm
cách thức tỉnh niềm tự hào dân tộc trong tâm trí của mỗi con người Việt Nam.
Người luôn nhấn mạnh đến những kỳ tích mà trong lịch sử dựng nước và giữ
nước chúng ta đã đạt được. Người đã nhấn mạnh và nhắc nhở mọi người:
“Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Với động lực là niềm tự hào dân tộc, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tạo
nên một khối thống nhất toàn dân tộc, tạo nên một lực lượng mới, sức mạnh
mới, đáp ứng những yêu cầu của hiện tại.
Không phải đến Hồ Chí Minh mới nêu cao tinh thần kế thừa truyền
thống văn hóa dân tộc mà trước đó Nguyễn Trãi - danh nhân văn hóa Việt
Nam cũng là một người luôn nêu cao vai trò, sức mạnh của tinh thần dân tộc
và “nền văn hiến” lâu đời của dân tộc.
Người Việt Nam luôn có một lòng yêu nước nồng nàn. Nó giống như
sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Có thể nói truyền thống đó vừa là động lực vừa là nhân tố góp phần đoàn kết
cả dân tộc và tạo nên sức mạnh trường tồn cho cả dân tộc.
Hồ Chí Minh luôn khẳng định “các vua Hùng đã có công dựng nước.
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước’’ [38, tr.187].
Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh là sự tổng hợp các giá trị văn hóa Đông
- Tây, trên nền tảng chủ nghĩa nhân văn Việt Nam được hình thành trong các
phong trào lớn của thế kỷ XX: phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội.
Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh chính là khát vọng của dân tộc Việt
Nam về các chuẩn mực có tính hướng thiện và tiêu biểu cho các giá trị của
văn hóa Việt Nam. Hồ Chí Minh vừa là anh hùng giải phóng dân tộc và vừa là
. 37
danh nhân văn hóa thế giới. Tư tưởng văn hóa của Người là sự kết tinh truyền
thống văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam cộng với sự đúc kết
những kinh nghiệm hoạt động phong phú của Người tạo nên giá trị mới cho
dân tộc trong việc xây dựng nền văn hóa mới.
Truyền thống văn hóa dân tộc có một sức mạnh lớn lao được lưu giữ và
phát triển qua nhiều thế hệ. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến diện mạo văn
hóa và bản sắc văn hóa mang tính dân tộc sâu sắc. Trong lĩnh vực văn hóa Hồ
Chí Minh thường nhắc đến “cốt cáchh dân tộc”, “đặc tính dân tộc”.
“Mỗi dân tộc phải chăm lo đặc tính của dân tộc mình trong nghệ thuật”
[23, tr.391].
Năm 1962 khi đến thăm triển lãm mỹ thuật toàn quốc, Hồ Chí Minh
cũng căn dặn các nhà văn hóa nên phát huy cốt cách dân tộc.
Mỗi một dân tộc đều có một đặc trưng riêng về tâm lý, tình cảm, ngôn
ngữ, lối sống, phong tục tập quán… Những yếu tố đó chi phối sự tồn tại và
phát triển hàng ngàn năm của dân tộc đó. Dân tộc Việt Nam bao gồm rất
nhiều dân tộc anh em và hơn ai hết Hồ Chí Minh nhận thấy rõ ràng rằng cần
phải có sự bình đẳng giữa các dân tộc và giữa các sắc tộc.
Trước đó ngay khi về tiếp quản Thủ đô, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến
việc xây dựng nền văn hóa dân tộc. Văn hóa dân tộc tạo nên sức mạnh hàng
ngàn năm của dân tộc Việt Nam và dân tộc Việt Nam muốn tồn tại và phát
triển thì cần phải bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 1946 tại Hà Nội, Hồ Chí Minh
cho rằng:
“Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta học lấy để tao ra một
nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn
hóa nay để trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật hợp với tinh thần dân chủ”
[18, tr.343].
. 38
Quan điểm như vậy cho thấy Hồ Chí Minh thực sự muốn văn hóa là
gốc để tạo nền tảng để các lĩnh vực khác tồn tại và phát triển. Nhận rõ sức
mạnh văn hóa, Người muốn “văn hóa phải đi sâu vào đời sống nhân dân…”
Muốn có một nền văn hóa mới cần biết kế thừa và phát triển cả văn hóa
Đông phương và Tây phương, “văn hóa xưa” và “văn hóa nay”. Sự kết hợp
nhuần nhuyễn đó tạo nên văn hóa Việt Nam. Hay nói cách khác văn hóa Việt
Nam là “ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương và Tây phương chung
đúc lại”
Phương châm kết hợp hai nền văn hóa khác nhau đó là phương châm
để phát triển văn hóa Việt Nam. Trong truyền thống văn hóa dân tộc cần phải
biết “phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc” kết hợp với “học tập văn hóa tiên
tiến của các nước”. Đó chính là phương châm và là nguyên tắc chỉ đạo trong
việc xây dựng văn hóa mới. Tuy nhiên cần phải thấy một điều rõ ràng rằng
khi phát huy vốn cũ của văn hóa dân tộc thì những vốn cũ đó phải là những
vốn cũ “quý báu” chứ không phải mọi giá trị của văn hóa cũ.
Kế thừa truyền thống văn hóa dân tộc là kế thừa truyền thống yêu nước
nồng nàn của nhân dân ta. “Dân ta có một lòng nồn nàn yêu nước. Đó là
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng,
thì tinh thần đó lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn. Nó lướt qua mọi nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả luc bán nước
và lũ cướp nước” [20, tr.171].
Yêu nước là một nét rất riêng của truyền thống văn hóa dân tộc. Tất
nhiên ai cũng yêu nước mình nhưng lòng yêu nước của người Việt Nam gắn
chặt với lịch sử của dân tộc và ngày càng giàu thêm theo thời gian.
Hồ Chí Minh là một người tiêu biểu cho lòng yêu nước. Ngay từ khi
còn rất nhỏ Người đã biết suy nghĩ, trăn trở trước vận mệnh của dân tộc. Khi
còn rất nhỏ Hồ Chí Minh đã ứng khẩu bài thơ bốn câu ở nhà Hoàng Cao Khải
và câu kết của bài thơ đó đã thể hiện lòng yêu nước vô vàn của người. “Hỏi
. 39
xem non nước mất hay còn”. Câu hỏi đó vừa là một câu hỏi và vừa là một câu
khẳng định tấm lòng yêu nước của Người từ rất sớm.
Hồ Chí Minh là hiện thân của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt
Nam trong hành động, trong lời nói và trong mọi lĩnh vực giao tiếp văn hóa.
Dù trong thời gian nào, không gian nào Hồ Chí Minh cũng phát huy đầy đủ,
cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Người thường nói rằng “Đồng bào
ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước… ai cũng một lòng
nồn nàn yêu nước… Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý… Bổn
phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được ra trưng
bày”
Cùng với ý tưởng lớn về hoà đồng dân tộc, chủ nghĩa thích ứng, chủ
nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh là hiện thân tuyệt vời cho những giá trị đạo đức
truyền thống như đức tính tiết kiệm, tinh thần hiếu học, khiêm tốn và giản dị
Hồ Chí Minh đã vuợt qua chủ nghĩa yêu nước cũ, xác lập trong ý thức
xã hội hiện đại một chủ nghĩa yêu nước mới. Tinh thần yêu nước hiện đại
khác với tinh thần vị quốc của các chí sỹ yêu nước trước kia đã từng nêu lên.
Nhờ có chủ nghĩa yêu nước mới mà cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
cũng nằm trong khuôn khổ chung của thời đại. Đó là điểm sáng tạo của Hồ
Chí Minh trong việc hoàn thiện chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và là con
đường đúng đắn để giải phóng dân tộc. Đó cũng là điều mà các lớp người đi
trước khác không làm được.
Với hành trang là một vốn kiến thức vững chắc về văn hóa dân tộc,
cộng với lòng yêu nước nhiệt thành, Hồ Chí Minh đã quyết tâm ra đi tìm
đường cứu nước. Cho dù ở đâu và bất cứ lúc nào Người vẫn luôn thể hiện
mình là một người yêu nước. Ngay khi ở Paris, Hồ Chí Minh đã thành lập
nhóm “Những người Việt Nam yêu nước” và gửi đến Hội nghị Véc xây bản
yêu sách đòi những quyền cơ bản cho nhân dân và dân tộc.
. 40
Yêu nước và luôn canh cánh trong lòng ước mơ giải phóng dân tộc và
khi có thể Người tìm mọi cách để thực hiện điều đó. Với Quốc tế III do Lênin
sáng lập ra, Người đã hoàn toàn tin theo chỉ bởi vì “Quốc tế III rất chú ý đến
vấn đề giải phóng thuộc địa…Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc
tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu” [19,
tr.512].
Yêu nước là một sản phẩm vô cùng quý giá của truyền thống dân tộc
được hình thành từ buổi đầu dựng nước, kết tinh từ nền văn minh độc đáo của
người Việt, được nuôi dưỡng và phát triển qua các thế hệ các tầng lớp đồng
bào và trở thành truyền thống dân tộc thấm sâu vào máu thịt của mọi con
người Việt Nam. Hồ Chí Minh cho rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng
có ít nhiều lòng ái quốc.
Sức mạnh từ lòng yêu nước là vô cùng to lớn và tạo nên sức mạnh vô
địch giúp dân tộc vượt qua mọi khó khăn gian khổ tạo nên những chiến thắng
kỳ diệu trước mọi kẻ thù. Hồ Chí Minh luôn khích lệ lòng yêu nước trong mọi
tầng lớp nhân dân. Người kêu gọi mọi người thi đua và đó là thể hiện lòng
yêu nước bằng những hành động cụ thể. Người nhắc nhở phải nêu gương
“người tốt, việc tốt” để mọi người thi đua học tập.
Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần tự tôn, tự lập và tự cường của dân
tộc Việt Nam. Tinh thần đó được hun đúc nên từ lịch sử đấu tranh lâu dài
hàng ngàn năm trước những thử thách khắc nghiệt và to lớn của hoạ ngoại
xâm. Sức sống và ý chí kiên cường đó được truyền từ đời này sang đời khác,
tạo nên nếp suy nghĩ và hành động cho cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Trong lời động viên các chiến sỹ thuộc Trung đoàn quyết tử quân Thủ
đô năm 1949 là lời khẳng định giá trị cao cả của tinh thần đó:
“Các em là đội cảm tử. Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh.
Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc ta mấy ngàn năm, để
lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt,
. 41
Trần Hưng Đạo. Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám,
truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó,
để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau” [19, tr.35].
Trong truyền thống văn hóa của dân tộc, đại đoàn kết toàn dân tộc là
một truyền thống quý báu nảy sinh từ những đặc điểm riêng của dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết được phát huy cao độ và có ý
nghĩa sống còn đối với sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. Đại đoàn kết
trong tư tưởng của Người không chỉ là đoàn kết dân tộc mà còn là đoàn kết
quốc tế với “nhân dân yêu chuộng hoà bình” trên toàn thế giới.
Đoàn kết là một truyền thống bắt nguồn từ nhu cầu thực sự của mọi
tầng lớp nhân dân, là yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tư tưởng đại
đoàn kết Hồ Chí Minh cũng bắt nguồn từ chính nhu cầu thực sự đó. Kế thừa
truyền thống đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh đã phát triển đoàn kết từ việc
đoàn kết dân tộc thành đoàn kết với các lực lượng cách mạng và nhân dân yêu
hoà bình trên thế giới. Đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một chiến
lược xây dựng, củng cố, mở rộng, tăng cường lực lượng cách mạng trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xã hội, con người.
Độc lập, tự do là mục tiêu theo đuổi của loài người. Quyền sống, quyền
tự do và mưu cầu hạnh phúc cá nhân không ai có thể xâm phạm được. Tất cả
những quyền đó phải được đặt trong lòng quốc gia dân tộc, trên cơ sở của
quyền dân tộc. Tiếp thu các quan điểm tiến bộ trên thế giới và truyền thống
văn hóa dân tộc, Hồ Chí Minh phát triển quyền con người thành quyền của cả
dân tộc.
Trong Tuyên ngôn độc lập đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng
9 năm 1945, người đã cho rằng tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có
quyền bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do.
. 42
Độc lập tự do thể hiện khát vọng của cả dân tộc cả trong quá khứ, hiện
tại và tương lai. Đó cũng là mục tiêu theo đuổi của cả dân tộc và là điểm hội
tụ thắng lợi của chiến lược - Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công.
Đại đoàn kết Hồ Chí Minh là một “tư duy triết học” khác với một số
nhà tư tưởng khác khi có quan điểm cực đoan về mối quan hệ giai cấp và dân
tộc, tách biệt hoặc đối lập một cách siêu hình các tầng lớp xã hội cơ bản với
các tầng lớp khác khiến cho quá trình cách mạng vừa chậm lại vừa khó khăn,
không đáng có.
Không những giải quyết tốt quan hệ giai cấp dân tộc trong chiến lược
doàn kết mà Hồ Chí Minh còn giải quyết tốt mối quan hệ giữa đoàn kết dân
tộc và quốc tế. Đoàn kết quốc tế trước hết và trên hết là nhằm phục vụ cho
mục tiêu độc lập và tự do của dân tộc. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cách
mạng Việt Nam nằm trong dòng chảy chung của phong trào cách mạng thế
giới. Với nhãn quan chính trị sâu sắc và kinh nghiệm thực tế, Hồ Chí Minh
nhận thấy rằng rất cần thiết phải đoàn kết các lực lượng cách mạng trên thế
giới, những dân tộc bị áp bức, bị đày đoạ, nhân dân thuộc địa, phong trào
công nhân và những người yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Vì thế mà
chúng ta dễ thấy ngay trong lòng những nước xâm lược Việt Nam cũng xuất
hiện rất nhiều những cuộc phản chiến của nhân dân các nước đó để ủng hộ
cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh cho rằng nhân dân ở đâu cũng vậy “đều ưa sự lành và
ghét sự dữ”. Còn nhân dân các nước thuộc địa thì cùng chịu chung “một nỗi
đau khổ: sự bạo ngược của chế độ thực dân”
Ngay cả với kẻ thù chính của dân tộc là đế quốc Pháp, Người cũng vẫn
thấy những lực lượng ủng hộ cho cách mạng Việt Nam, đó là những “người
Pháp dân chủ, những người Pháp chân chính”.
. 43
Độc lập, tự do, hoà bình chính là mục tiêu mà nhân dân ta theo đuổi và
mục tiêu đó được nhân dân trên thế giới hết sức ủng hộ. Phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế cùng với phong trào giải phóng dân tộc và phong trào
hoà bình là ba lực lượng chính ủng hộ cho sự nghiệp cách mạng.Đó chính là
động lực lớn cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam.
Nguyên nhân để nhận được sự ủng hộ của thế giới phần lớn là do mục
tiêu mà chúng ta theo đuổi là chính nghĩa, là phù hợp với xu thế chung của
thời đại đó là bảo vệ hoà bình, bảo vệ chính nghĩa. Để có được sự ủng hộ to
lớn của nhân dân khắp nơi trên thế giới cần phải biết nêu cao ngọn cờ chính
nghĩa, hoà bình và tự do. Hồ Chí Minh cũng khẳng định rõ ràng rằng: vì biết
kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân quốc tế và của các dân tộc bị áp bức, mà Đảng ta đã vượt qua được
mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta đến những thắng lợi vẻ
vang.
Nói chung chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh là một chiến lược kế
thừa sâu sắc truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam . Tuy nhiên trong
thời đại mới, Hồ Chí Minh đã biết cải biến và phát triển truyền thống đoàn
kết dân tộc lên tầm cao mới tầm cao thời đại. Đó là biết đặt đoàn kết của dân
tộc với đoàn kết tất cả những con người, những dân tộc yêu chuộng hoà bình
trên thế giới với Việt Nam và ngược lại. Đó là một chiến lược hoàn toàn đúng
đắn và đã góp phần tạo nên những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt
Nam.
Chủ nghĩa nhân văn được bắt nguồn từ truyền thống dân tộc và tinh hoa
văn hóa nhân loại trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh được hình thành và
phát triển trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội để cuối
cùng giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột, khổ đau.
. 44
Truyền thống nhân nghĩa của người Việt nằm ở tình thương con người,
đồng loại. “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một
giàn”. Hoặc “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước phải
thương nhau cùng”. Cho đến Hồ Chí Minh, lòng thương của con người phát
triển thành sự thực hiện những quyền cơ bản của sự phát triển con người.
Hồ Chí Minh đã từng đến rất nhiều nơi trên thế giới, những nơi có
những con người đang bị đày đoạ và đau khổ và Người cảm thông với những
nỗi khổ đau đó khi phải chịu những hành động “tàn ác không thể chịu đựng
được”. Người đồng cảm với nỗi khổ cùng cực mà nhân dân Việt Nam và nhân
dân các dân tộc bị áp bức đang phải gánh chịu.
Chủ nghĩa nhân văn nhân ái trong con người Hồ Chí Minh thể hiện
bằng việc gợi lên tinh thần bất khuất trong mỗi con người đấu tranh vì độc lập
tự do. C Mác đã từng nói rằng “cần phải làm cho ách áp bức hiện thực càng
nặng nề hơn nữa bằng cách gắn vào nó cái ý thức về ách áp bức, cần phải làm
cho sự ô nhục ngày càng ô nhục hơn nũa bằng cách công bố nó lên” [15,
tr.18].
Thực hiện phương châm đó, bằng ngòi bút sắc sảo Hồ Chí Minh đã gợi
lên trong con người các dân tộc bị áp bức những thảm cảnh mà họ đang phải
gánh chịu và khơi gợi tinh thần phản kháng trong chính con người của họ.
Làm cho những người bị áp bức không cam chịu số phận mà vùng lên giành
lấy quyền sống và quyền tự do cho mình.
Thương người bị áp bức và chỉ bảo đường lối để con người tự giải
phóng bản thân mình khỏi áp bức đó là đặc trưng của chủ nghĩa nhân đạo Hồ
Chí Minh
Kế thừa chủ nghĩa nhân văn nhân ái của dân tộc và được soi rọi bởi ánh
sáng của tinh hoa văn hóa nhân loại, Hồ Chí Minh đã đưa chủ nghĩa nhân văn,
nhân ái của dân tộc ta trở thành tài sản chung của nhân loại vì trong Hồ Chí
. 45
Minh thì chủ nghĩa nhân văn, nhân ái Hồ Chí Minh đã mang tầm quốc tế, hoà
mình trong dòng chảy chung của nhân loại.
Không chỉ biết kế thừa những giá trị văn hóa trong nước,kế thừa những
yếu tố tiên tiến, tinh hoa của văn hóa nhân loại là một nhiệm vụ không thể
thiếu đối với việc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam trong tư tưởng văn
hóa Hồ Chí Minh.
Sinh ra trong thời kỳ nước nhà chịu cảnh nô lệ, lầm than, Hồ Chí Minh
đã sớm có ý chí quyết tâm ra đi tìm con đường để đưa đất nước thoát khỏi ách
nô lệ lầm than. Người đã bôn ba khắp năm châu bốn biển, tiếp xúc với nhiều
học thuyết, nhiều tư tưởng tiến bộ và cả những học thuyết tư tưởng phản
động, chứng kiến nhiều cảnh đời khổ ải lầm than đang chịu áp bức, nô lệ…
Có thể nói hiện thực cuộc sống, những tư tưởng mà Người được tiếp xúc đã
góp phần hình thành ở Hồ Chí Minh những hệ thống tư tưởng về cách mạng
Việt Nam và về xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam.
Kế thừa văn hóa nhân loại là một sự kế thừa năng động, hiệu quả, kế
thừa những giá trị tiên tiến, những tinh hoa của văn hóa nhân loại chứ không
phải bê nguyên xi những tư tưởng từ bên ngoài. Hồ Chí Minh đã kế thừa tinh
hoa văn hóa phương Đông phương Tây, chủ nghĩa Mác - Lênin để bổ sung
làm giàu cho văn hóa Việt Nam.
Cuối thế kỷ XIX, Việt Nam là một nước có lịch sử văn hóa lâu đời
nhưng tình trạng trì trệ, kém phát triển và không thể đứng vững trước sức
mạnh xâm lược của chủ nghĩa tư bản Pháp. Mặc dù nhân dân ta rất anh dũng
không sợ hy sinh gian khổ, quyết tâm đứng dậy kháng chiến chống lại sự
thống trị của thực dân Pháp. Tuy nhiên do thiếu một đường lối đúng đắn chỉ
đạo nên hầu như sớm hay muộn những phong trào cách mạng này đều bị thất
bại.
Sớm có lòng nhiệt thành yêu nước, Hồ Chí Minh đã quyết tâm ra đi tìm
đường đúng đắn để cứu nước nhà khỏi vòng nô lệ. Hồ Chí Minh đã đi nhiều
. 46
nơi, gặp nhiều học thuyết, chủ nghĩa và tư tưởng khác nhau. Tuy vậy chỉ có
“chủ nghĩa Lênin” là cách mạng nhất và đúng đắn nhất và Người đã quyết
tâm đi theo “chủ nghĩa Lênin”.
Hồ Chí Minh đã từng nói “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ
nghĩa Lênin”.
Khi mới bước chân ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh không thể
hình dung được rằng sẽ gặp học thuyết nào, tư tưởng nào để mang về giải
phóng cho dân tộc. Cho đến khi gặp “chủ nghĩa Lênin” thì Người vui mừng vì
đã tìm ra cái “cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng
ta”. Luận cương của Lênin đã làm cho Người “rất cảm động, phấn khởi, sáng
tỏ, tin tưởng” vì “chủ nghĩa Lênin” đã chỉ cho Hồ Chí Minh thấy con đường
mà dân tộc cần làm để giải phóng cho mình khỏi áp bức nô lệ.
Tại Đại hội Đảng xã hội Pháp lần thứ 18 họp ở Tua, Hồ Chí Minh đã
kiên quyết tán thành và ủng hộ Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng cộng
sản Pháp. Như vậy là Hồ Chí Minh đã hoàn toàn nhất trí và tin theo “chủ
nghĩa Lênin” và từ một người yêu nước Hồ Chí Minh đã trở thành người Việt
Nam đầu tiên đi theo chủ nghĩa cộng sản. Và con đường cách mạng của Việt
Nam cũng từ đây gắn liền với con đường cách mạng vô sản.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là bước chuyển về chất trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Với hành trang là chủ nghĩa yêu nước làm nền tảng và một nền học
vấn Nho học, nhưng phải đến chủ nghĩa Mác - Lênin mới tạo nên sự biến đổi
toàn diện về chất trong tư tưởng của Người. Nó tạo nên bước ngoặt cho cách
mạng Việt Nam và tư tưởng của Người. Chủ nghĩa yêu nước trong Hồ Chí
Minh đã kết hợp với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng giai cấp, cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vô sản.
Chủ nghĩa Mác - Lênin được Người cho rằng là cái cẩm nang thần kỳ,
là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đến mọi thắng lợi. Hồ Chí Minh nhấn
. 47
mạnh rằng sở dĩ chúng ta giành được thắng lợi là do nhiều nhân tố, nhưng
phải nhấn mạnh rằng chúng ta giành được những thắng lợi là nhờ “vũ khí
không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Kế thừa chủ nghĩa Mác - Lênin cũng là kế thừa một bộ phận tiên tiến
của văn hóa nhân loại. Sự kế thừa đó không phải là một sự kế thừa máy móc,
nguyên xi mà là một sự kế thừa năng động, kế thừa những mặt, những nội
dung thích hợp với hoàn cảnh lịch sử Việt Nam . Người đã rất sáng tạo khi
đánh giá về chủ nghĩa Mác - Lênin rằng cần phải bổ xung vào chủ nghĩa Mác
- Lênin những cơ sở lịch sử phương Đông vì chủ nghĩa Mác - Lênin cũng xuất
phát từ cơ sở văn hóa châu Âu, không phải là toàn nhân loại.
Kế thừa một cách sáng tạo, Hồ Chí Minh ít khi trích dẫn nguyên văn tư
tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin mà thường diễn đạt
nó một cách sáng tạo, giản dị và dễ hiểu, gắn liền với thực tiễn cách mạng
Việt Nam. Việc học tập, kế thừa chủ nghĩa Mác - Lênin là phải nắm vững cái
“linh hồn sống”, cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin đó chính là phương pháp
biện chứng. Người nhấn mạnh phải học tập chủ nghĩa Mác - Lênin ở “lập
trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng
lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề
thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta.
Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là trang bị cho bản thân chúng ta hệ tư
tưởng tiên tiến cách mạng và khoa học. Tuy vậy nắm vững chủ nghĩa Mác -
Lênin mà sống “không có tình có nghĩa” thì cũng không phải là nắm vững
chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là luận điểm cực kỳ sáng tạo của Người về cách
mạng Việt Nam, về truyền thống dân tộc kết hợp với chủ nghĩa Mác - Lênin -
hệ tư tưởng tiên tiến của thời đại.
Bên cạnh chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng tiên tiến của giai cấp
công nhân, Hồ Chí Minh còn biết kế thừa những tinh hoa văn hóa phương
Đông và phương Tây và những tư tưởng tiến bộ của cách mạng Trung Quốc.
. 48
Hồ Chí Minh biết kế thừa các học thuyết đó một cách có phê phán,
chọn lọc, không sao chép máy móc, không phủ định giản đơn mà Hồ Chí
Minh biết phân tích tìm ra những yếu tố tích cực, phù hợp với bản thân và với
hoàn cảnh Việt Nam.
Với cách nhìn rất “biện chứng”, Hồ Chí Minh nhìn nhận những nhà tư
tưởng lớn trên thế giới như Khổng Tử, Giê su, Mác, Tôn Dật Tiên… đều có
những ưu điểm chung đó là “mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi
cho xã hội”.
Điều đó cho thấy Hồ Chí Minh đã biết kế thừa một cách có chọn lọc
những tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho tư tưởng của Người.
Với Nho giáo, Hồ Chí Minh là người được giáo dục từ khi còn rất nhỏ
những nội dung tư tưởng của Nho giáo với những người thầy chân chính có
những tư tưởng tiến bộ. Những kiến thức về Nho học ngay từ những ngày đầu
tiên của cuộc đời đã im đậm trong tư tưởng của Người và tạo nên một nền văn
hóa Nho học vững vàng trong tư tưởng của Người. Tư tưởng tiến bộ của Nho
giáo được Người tiếp thu và biến đổi cho phù hợp những chuẩn mực của thời
đại mới, rất dễ hiểu và dễ gần với người Việt Nam. Chẳng hạn khái niệm
“trung quân, ái quốc” của Nho giáo được Người phát triển thành “trung với
nước, hiếu với dân” cho phù hợp. Hoặc tư tưởng “tứ hải giai huynh đệ” cũng
được Hồ Chí Minh phát triển thành tình hữu nghị với tất cả nước tiến bộ trên
thế giới.
Tiếp thu những yếu tố tích cực của Nho giáo, Hồ Chí Minh loại bỏ
những yếu tố tiêu cực, thủ cựu của Nho giáo giống như “đạo đức cũ như
người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời”. Còn chúng ta cần phải xây
dựng đạo đức mới “như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng
lên trời”.
Ngoài những tư tưởng tiến bộ của Nho giáo, Hồ Chí Minh còn tiếp thu
những tư tưởng tiến bộ của Phật giáo, Lão giáo…
. 49
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh được tiếp xúc với
chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh đánh giá rất đúng đắn
về chủ nghĩa Tôn Trung Sơn và tư tưởng của ông. Hồ Chí Minh cho rằng Tôn
Trung Sơn “luôn trung thành với những nguyên lý của mình, ngay cả trong
lúc khó khăn nhất”. Và đảng đó đã “đoàn kết với các dân tộc bị áp bức ở các
nước thuộc địa với giai cấp vô sản quốc tế”.
Tuy vậy chủ nghĩa Tam dân không tránh khỏi những hạn chế và có
những điểm không phù hợp với thực tế Việt Nam nên Người đã biết khai thác
những tư tưởng phù hợp với nước ta như khẩu hiệu “Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc”... mang tính giai cấp, tính dân tộc và tính cách mạng triệt để.
Thứ tư là những tinh hoa văn hóa phương Tây ảnh hưởng khá lớn đến
tư tưởng của Hồ Chí Minh. Ngay từ khi còn rất nhỏ Hồ Chí Minh đã được
nghe nói về những giá trị tiến bộ của cách mạng tư sản. Những phạm trù như
“tự do, bình đẳng, bác ái ” đã thôi thúc Hồ Chí Minh đi sang phương Tây để
tìm hiều về cuộc sống của xã hội phương Tây.
Hồ Chí Minh đã đặt chân đến nhiều nơi trên thế giới kể cả các nước tư
bản và Người nhận thấy bên cạnh những giá trị mà mọi người thường được
nghe nói đến là những bất công xã hội và những bất bình đẳng trong xã hội.
Thực tế Hồ Chí Minh cũng đã tiếp xúc với những tư tưởng nhân đạo
của thời kỳ Phục hưng, những tư tưởng tiến bộ của thời kỳ triết học Khai
sáng, những tư tưởng tiến bộ của các nhà văn Pháp… Những tư tưởng tiến bộ
đó được Người tiếp thu và đồng thời cũng phê phán những mặt hạn chế.
Đối với những cuộc cách mạng tư sản mặc dù tạo nên sự thay đổi lớn
trong xã hội nhưng vẫn chưa thực sự triệt để giải phóng con người. Với cách
mạng Mỹ đã thành công 150 năm rồi nhưng “công nông vẫn cực khổ” vì cách
mạng chưa triệt để. Ngay cả với cách mạng Pháp với tiếng là cộng hoà và dân
chủ nhưng “trong thì bóc lột công nông ngoài thì áp bức thuộc địa”.
. 50
Tiếp thu các tư tưởng tiến bộ trên thế giới và loại bỏ những mặt hạn chế
để phục vụ tốt nhất cho cách mạng Việt Nam. Đó chính là phương pháp luận
của Hồ Chí Minh - kế thừa những tinh hoa văn hóa nhân loại.
. 51
Chương 3
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ
TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Xây dựng một nền văn hoá giàu bản sắc, mang đậm truyền
thống dân tộc là nền tảng cơ bản
3.1.1. Một nền văn hoá Việt Nam luôn nêu cao chủ nghĩa yêu nước,
lòng tự hào dân tộc
Bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị văn hóa được bảo tồn qua
nhiều thế hệ. Hội nghị lần thứ V BCH TƯ Đảng cộng sản Việt Nam khẳng
định cần phải “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc”. Bản sắc dân tộc tồn tại trong bất cứ dân tộc nào và thời gian
nào vì mỗi dân tộc lại có những nét văn hóa riêng. Bản sắc văn hóa cũng
chính là hệ thống các “giá trị, truyền thống, thị hiếu, thẩm mỹ, lối sống” mà
dựa trên nó các dân tộc khẳng định bản sắc riêng mình.
Trong những giá trị văn hóa dân tộc thì chủ nghĩa yêu nước, lòng tự
hào dân tộc là nét giá trị nổi trội nhất. Nhân dân ta, dân tộc ta đã tạo nên một
chủ nghĩa yêu nước mà chỉ mang bản sắc của riêng Việt Nam. Chính vì lẽ đó
Mac na ma ra đã phải thừa nhận sự thất bại của Mỹ ở Việt Nam là do chưa
hiểu hết lịch sử, văn hóa và sức mạnh tinh thần của nhân dân Việt Nam.
Nghị quyết 9 của Bộ Chính trị ngày 18.2.1995 khẳng định “những giá
trị văn hóa truyền thống bền vững của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước
nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý thương người như thể thương
thân, đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động…”
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao truyền thống yêu nước của dân tộc ta và
coi việc kế thừa truyền thống ấy là một động lực của cách mạng. Nhưng đồng
thời, Người cũng thấy hạn chế của tinh thần yêu nước ở tính dân tộc hẹp hòi
của nó. Để khắc phục điều đó thì kế thừa tinh thần yêu nước phải dựa trên sự
. 52
kết hợp với tinh thần quốc tế. “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển
thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành thắng lợi hoàn toàn”
[21,tr.305] và vì thế cán bộ và nhân dân phải trở thành một sức mạnh hiện
thực trong công cuộc đấu tranh giải phóng và xây dựng đất nước.
Chủ nghĩa yêu nước đã tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Qua
bao đời nó lại càng được vun đắp và làm giàu thêm. Tuy nhiên chủ nghĩa yêu
nước cũng đã trải qua những thăng trầm nhất là khi chủ nghĩa tư bản đặt chân
lên Việt Nam. Đầu thế kỷ XX giá trị cơ bản của dân tộc là chủ nghĩa yêu
nước lâm vào khủng hoảng khi không đáp ứng được yêu cầu của lịch sử. Khi
đó chủ nghĩa yêu nước mới đã xuất hiện trong môi trường văn hóa truyền
thống. Yêu nước không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà còn mở rộng
phạm vi quốc tế. Đó là sự kết hợp giữa tình cảm yêu nước của những con
người lao động dân tộc với nhân dân lao động trên toàn thế giới mà trong đó
đặc biệt là tình cảm với giai cấp vô sản trên toàn thế giới.
Thế kỷ XX là thế kỷ mà chúng ta vun đắp, xây dựng nên chủ nghĩa yêu
nước mới với công sức của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. Chúng ta đã
tạo ra giá trị văn hóa mới và tồn tại một cách vững chắc trong cộng đồng dân
tộc. Chủ nghĩa yêu nước mới đã là sợi dây liên kết vững chắc cả cộng đồng
dân tộc và với cả cộng đồng quốc tế. Cộng đồng dân tộc là một khối thống
nhất trong sự đa dạng và đã biết liên kết tất cả dân tộc vào một nhiệm vụ
chung nhất là giải phóng dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước kiểu mới đã đoàn kết
các dân tộc trong cộng đồng, giữ gìn và phát triển những giá trị nhân đạo và
khoan dung từ nền văn hóa truyền thống đến các giá trị nhân đạo trong tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa yêu nước kiểu mới đã động viên và
huy động toàn bộ các giá trị của nền văn hóa dân tộc để bảo vệ vững chắc nền
độc lập và thống nhất Tổ quốc.
Có thể thấy rằng trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc có
một sự thống nhất chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước và tinh thần bảo vệ nền
. 53
độc lập dân tộc. Chính chủ nghĩa yêu nước đã tạo nên những Bà Trưng, Bà
Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Quang Trung… và sau này là vô số
những anh hùng khác. Đó là sự minh chứng cho chủ nghĩa yêu nước được tiếp
nối qua nhiều thế hệ.
Xã hội mới Việt Nam với nền văn hóa mới phải lấy chủ nghĩa yêu nước
mới làm căn bản. Bởi lẽ chủ nghĩa yêu nước mới đã chứng tỏ giá trị của nó
trong suốt thời gian dài đồng hành cùng dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước mới đã
góp phần lớn lao trong công cuộc giành độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc
và cũng vì lẽ đó mà được loài người kính phục.
Có thể hiểu rằng chủ nghĩa yêu nước chân chính bao giờ cũng gắn liền
với nhiệm vụ giữ vững nền độc lập dân tộc. Chúng ta phấn đấu xây dựng và
phát huy chủ nghĩa yêu nước cũng là phát huy tinh thần bảo vệ vững chắc độc
lập dân tộc.
Ngày nay thế giới đang tồn tại xu hướng hoà bình ổn định và chứng
kiến xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá. Do vậy yêu nước cũng là bảo vệ độc
lập dân tộc lại mang những nhiệm vụ mới trên nhiều phương diện như kinh tế,
chính trị, văn hóa…
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là phương châm bất biến trong
mọi hoàn cảnh. Trong quá trình phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường
thế giới đã gây ra những tác động không nhỏ đến từng người dân, dưới nhiều
hình thức. Quan niệm về lãnh thổ, quốc gia và cả chủ quyền dân tộc cũng thay
đổi rất nhiều. Và để tránh tụt hậu so với nền kinh tế thế giới thì quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường tại Việt Nam là không thể tránh khỏi. Để có thể
hạn chế thấp nhất những mặt tiêu cực do kinh tế thị trường gây ra cần phải giữ
vững độc lập dân tộc và vẫn có thể phát triển nền kinh tế.
3.1.2. Nền văn hoá biết tôn trọng đạo đức, đề cao vai trò giáo dục
bằng đạo đức
. 54
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng một nền giáo dục biết đề
cao và tôn trọng vị trí và vai trò của đạo đức, nhưng tránh không tuyệt đối hoá
vai trò của đạo đức vì ngoài ra còn có pháp luật để điều chỉnh hành vi con
người.
Trong cuộc đời mình Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc hoàn thiện giá
trị đạo đức con người. Để xây dựng nền văn hóa mới không thể không xây
dựng nền đạo đức mới. Với Hồ Chí Minh đạo đức là gốc của mọi sự tốt đẹp
trong các quan hệ xã hội của con người. Nếu thiếu đạo đức thì không có hoạt
động xã hội nào được phát triển tốt đẹp.
Hồ Chí Minh đã có cơ sở, phương pháp luận rõ rệt trong quan niệm về
đạo đức và Hồ Chí Minh luôn cho rằng đức là gốc của xã hội. Điều đó chúng
ta lại càng thấy rõ khi tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chi phối những tư tưởng
khác.
Trong con người Hồ Chí Minh thì đạo đức không chỉ là sự phấn đấu
của sự rèn luyện mà đó là cái gốc của xã hội là nền tảng trong các quan hệ xã
hội. Hồ Chí Minh không phải là người duy nhất và đầu tiên coi vai trò đạo
đức là nhân tố có ý nghĩa quyết định cho sự phát triển xã hội.
Hồ Chí Minh đã có cách nhìn biện chứng về đạo đức và phương pháp
rèn luyện để có nền tảng đạo đức. Đạo đức trong quan niệm của Người là đạo
đức cách mạng và cũng chỉ có đạo đức cách mạng mới có tác dụng cải tạo xã
hội và cá nhân con người.
Trong cách tu dưỡng đạo đức, Hồ Chí Minh cho rằng việc tu dưỡng
đạo đức không phải là việc riêng của mỗi con người, chỉ cần đóng cửa tu thân
hoặc giữ mình đến mức không thể tiếp xúc với ai, không va chạm với thực tế.
Đạo đức không phải là chỉ lo cho bản thân mình mà không cần biết đến quyền
lợi người khác giống như quan điểm nhân quyền tư sản. Đạo đức là cuộc đấu
tranh vì mình và vì mọi người, quyền lợi của mình gắn liền với quyền lợi mọi
người, quyền lợi của mỗi người đều gắn liền trong quyền lợi chung của cả dân
. 55
tộc và nhân loại. Vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng người có đạo đức phải là
người dám đấu tranh với những bất công trong xã hội, dám hi sinh vì người
khác, thấy hạnh phúc của mình chỉ có được khi gắn liền với hạnh phúc của
người khác, của mọi người, của nhân dân. Do đó, đạo đức theo Hồ Chí Minh
là đạo đức cách mạng và cũng chỉ có đạo đức cách mạng mới là động lực cho
sự phát triển. Đạo đức cách mạng không phải là cái gì trên trời rơi xuống mà
đạo đức cách mạng bắt nguồn từ nhân dân và do nhân dân mà có. Nó gắn liền
với sự nghiệp cách mạng của quần chúng nhân dân, coi sự nghiệp cách mạng
là công việc của nhân dân. Điều đó cho thấy rằng người đề cao đạo đức mà
không xa vào chủ nghĩa không tưởng, hư vô.
Đạo đức chỉ có thể có khi chúng ta tham gia vào trong các quá trình cải
tạo xã hội, đấu tranh giành quyền lợi cho mọi người trong đó có bản thân và
đấu tranh chống lại những cái ác, cái xấu…để hướng tới xây dựng những giá
trị tốt đẹp.
“Muốn có chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ
nghĩa ”
Chúng ta thường thấy trong các quan điểm về kinh tế, chính trị, quân
sự… thường thấy rõ những tư tưởng đạo đức của Người chi phối. Đối với lĩnh
vực kinh tế Hồ Chí Minh luôn cho rằng khi phát triển kinh tế cần phải biết
phát triển và nâng cao đời sống của mọi người dân. Nếu nhân dân giầu có thì
nhà nước cũng trở nên giàu có và mạnh mẽ. Khi phát triển kinh tế thì cần
phát triển công bằng bởi vì “không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng”. Trong
quan điểm về chiến tranh, Hồ Chí Minh cho rằng chiến tranh cách mạng,
chính nghĩa gắn liền với tinh thần giữ gìn hoà bình, nhân văn và nhân đạo.
Chiến tranh của chúng ta là cuộc chiến bất đắc dĩ để bảo vệ độc lập dân tộc.
Chính biểu tượng bàn tay của Người khi sang Pháp dự Hội nghị Phông ten nơ
blô năm 1946 đã cho thấy dân tộc Việt Nam luôn không muốn chiến tranh.
. 56
Có thể thấy tư tưởng đạo đức của Người ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực
và chi phối nó. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh gắn liền với sự công bằng và
tiến bộ xã hội. Hồ Chí Minh đã sống trong môi trường đạo đức truyền thống
dân tộc nơi đã nuôi dưỡng biết bao những vị anh hùng dân tộc. Những giá trị
đạo đức đó đã ăn sâu vào con người Hồ Chí Minh và cùng với những giá trị
đạo đức tiên tiến của nhân loại đã tạo nên đạo đức Hồ Chí Minh.
Trong vấn đề quyền dân tộc, Hồ Chí Minh đã đưa các giá trị đạo đức
làm cơ sở cho sự phát triển trên một chiều rộng và bám sâu trong mọi quan hệ
xã hội. Với việc đưa những giá trị đạo đức dân tộc vào trong đời sống hiện tại
một cách hợp lý thì Hồ Chí Minh đã tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa đạo đức
truyền thống với thời đại.
Đạo đức truyền thống dân tộc chỉ bó hẹp trong phạm vi hạn hẹp là quốc
gia dân tộc. Hồ Chí Minh đã tiếp thu các giá trị đạo đức của nhân loại để bổ
xung cho đạo đức dân tộc, biến đạo đức dân tộc thành bộ phận của tinh thần
quốc tế. Điều này cho thấy Hồ Chí Minh đưa chủ nghĩa yêu nước chân chính
kết hợp với các giá trị đạo đức tiến bộ và gạt bỏ những mặt lạc hậu trong các
quan hệ xã hội mới và củng cố ý thức đạo đức mới.
Đạo đức truyền thống dân tộc có nhiều giá trị còn mãi cho đến bây giờ
như lòng nhân ái, giản dị, tiết kiệm …Tuy vậy những điều đó là chưa đủ để
đạo đức có thể tồn tại trong thời đại mới. Những phẩm chất đạo đức cũ cần
phải hiểu với một ý nghĩa khác phù hợp với thời đại. Chẳng hạn như:
“Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào. Vì
thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến đảng, đến
nhân dân…”
“Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có
việc gì giấu đảng…” [19, tr.66].
Có thể thấy đó chỉ là một trong số rất nhiều phạm trù đạo đức được Hồ
Chí Minh phát triển cho phù hợp với thời đại. Ngày nay chúng ta càng thấy rõ
. 57
văn hóa đạo đức có vai trò đặc biệt trong sự tiến bộ của xã hội. Văn hóa đạo
đức làm nền tảng cho các quan hệ xã hội làm cho các quan hệ giữa người và
người trở nên thân thiện hơn và góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp hơn.
Trong thời kỳ xã hội mới các quan hệ đạo đức đang biến chuyển mạnh
mẽ, những chuẩn mực đạo đức bị nền kinh tế xã hội tác động mạnh mẽ.
Những phạm trù đạo đức cũ và mới đan xen bổ xung và hoàn thiện lẫn nhau
dựa trên cơ sở khoa học và pháp luật. Những giá trị đạo đức mà Hồ Chí Minh
và đảng ta đã tạo nên những giá trị đạo đức mới. Sự điều chỉnh của các giá trị
đạo đức mới trên cơ sở của tình người dưới tác động của các giá trị khoa học
và quan hệ pháp luật tạo nên sự biến đổi sâu sắc trong các quan hệ xã hội.
Cần phải giáo dục những phẩm chất đạo đức mới cho con người như
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã nêu là
“ con người có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân, có tri thức, sức
khỏe và lao động giỏi.Sống có văn hóa và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và
tinh thần quốc tế chân chính”.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể đạt thành công nếu
không có sự phát triển tương ứng về mặt đạo đức. Trong môi trường cạnh
tranh và phát triển mạnh mẽ cần thiết phải có chuẩn mực đạo đức mới làm
nền tảng tạo nên quan hệ tốt đẹp giữa con người và con người. Giáo dục đạo
đức mới cho con người có thái độ đúng đắn trong lao động, xác định lý tưởng
đúng đắn trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Xác định rõ điều gì
đã thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Giáo dục đạo đức là bồi dưỡng những tư tưởng nhân đạo cao quý cho
con người, làm cho con người có đời sống tâm hồn trong sáng và có nghĩa vụ
với gia đình với Tổ quốc với cuộc sống. Giáo dục đạo đức hướng con người
tới những giá trị thiện của cuộc sống, góp phần hoàn thiện nhân cách hài hoà
giữa cá nhân và xã hội.
. 58
3.1.3. Bảo tồn những giá trị nhân nghĩa nhân đạo trong truyền thống
dân tộc
Trong truyền thống văn hóa dân tộc ngoài truyền thống yêu nước là
phẩm chất nổi trội thì nhân nghĩa cũng là nét giá trị đặc trưng của nhân dân ta.
Đã từ lâu chúng ta thường được giáo dục bằng những câu ca nói về lòng nhân
ái của con người với con người. Nhân dân ta thường ví tình cảm của mọi
người trong một nước như là tình anh em một nhà. Truyền thuyết đã kể rằng
dân tộc ta vốn cùng chung tổ tiên, là con Lạc cháu Hồng. Và đã là anh em
trong một nhà thì phải biết thương nhau. Có câu “Bầu ơi thương lấy bí
cùng.Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Hay là “Nhiễu điều phủ
lấy giá gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng”.
Có thể thấy rõ lòng nhân ái đã là một giá trị đặc trưng trong truyền
thống đạo đức người Việt. Nhân dân ta luôn nhắc nhở chúng ta phải thương
yêu đùm bọc lẫn nhau “lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể thương
thân”. Đó là một giá trị nhưng có lẽ đó cũng là động lực để dân tộc Việt Nam
có thể tồn tại anh hùng cho đến tận ngày nay. Vì lẽ chính tình thương đã tạo
nên cho dân tộc một khối thống nhất vững chắc mà không thể có thế lực nào
lay chuyển. Đã bao nhiêu cuộc chiến tranh và cũng chừng ấy những chiến
thắng vô cùng vẻ vang của dân tộc. Nhưng sau chiến tranh dân tộc ta lại bắt
tay hoà bình với kẻ xâm lược và cũng là kẻ chiến bại để xây dựng một nền
hoà bình muôn đời. Cũng như tuyên ngôn của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô
đại cáo đã thể hiện rõ truyền thống nhân nghĩa:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cuờng bạo” [33, tr.29].
Hồ Chí Minh kế thừa truyền thống đạo đức nhân ái tốt đẹp của dân tộc,
đồng thời Người đã phát triển nó lên tầm thời đại với việc mở rộng tình
thương, lòng nhân ái không chỉ trong phạm vi dân tộc mà trên phạm vi toàn
thế giới. Đối với Hồ Chí Minh thì không chỉ tồn tại “tình nghĩa đồng bào,
. 59
đồng chí” mà còn tồn tại “tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà”. Trong
cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh đã đi qua rất nhiều nơi và những
nơi đó đều để lại trong cuộc đời hoạt động của Người những ân tình không
thể nào quên.
Người ta thường nói khi cho các gì đi thì sẽ nhận được cái đó. Có lẽ
cũng từ điều đó mà chúng ta thấy mọi người trên thế giới đều rất quý mến Hồ
Chí Minh như một lẽ tự nhiên, ngay cả với những người có thể chưa gặp mặt
Người lần nào. Hồ Chí Minh đã nhiều lần được giúp đỡ đặc biệt mà không
phụ thuộc vào một thế lực nào cả mà đó chỉ là do những xúc cảm do nhân tình
mang lại. Nếu không có nhân tình thì chắc rằng ông luật sư người Anh
Lôgiơby sẽ không tốn bao sức lực để cứu thoát một nhà hoạt động cách mạng
cộng sản như vậy. Và Hồ Chí Minh cũng đã luôn nhớ đến ân tình của người
đã hết lòng giúp đỡ mình và cả dân tộc Việt Nam cũng phải biết ơn điều đó.
Hồ Chí Minh đã nhắc nhở rằng thuộc bao nhiêu chủ nghĩa Mác - Lênin
mà sống không có tình, có nghĩa thì cũng không phải là hiểu chủ nghĩa Mác -
Lênin.
Phải là một người sống có tình nghĩa như thế nào mới có thể có một
luận điểm có tính chân lý như vậy.
Thời đại ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ như vũ bão của nền
kinh tế và của xu thế toàn cầu hoá, những giá trị văn hóa cũng bị ảnh hưởng.
Với cơ chế thị trường đặt lợi nhuận lên hàng đầu, những giá trị đạo đức tốt
đẹp của dân tộc trong đó có giá trị nhân nghĩa bị ảnh hưởng. Có thể những giá
trị của nền kinh tế thị trường chiếm được ưu thế tạm thời đối với các giá trị
đạo đức truyền thống. Do vậy cần phải xây dựng những con người có đầy đủ
trí thông minh và lòng nhân ái để chống lại những hiện tượng phản văn hóa
đó.
3.1.4. Nêu cao truyền thống đoàn kết nhất trí trong sự nghiệp đấu
tranh, bảo vệ nền độc lập dân tộc
. 60
Dân tộc Việt Nam sớm phải tiến hành các cuộc đấu tranh để bảo vệ nền
độc lập dân tộc. Dường như điều đó đã gắn kết dân tộc thành một khối đoàn
kết vững chắc.Tất nhiên không chỉ dân tộc ta biết đoàn kết mà các dân tộc
khác cũng đoàn kết tuy mang những sắc thái khác nhau.
Thế kỷ XIX chứng kiến bản tuyên ngôn bất hủ cho sự ra đời của chủ
nghĩa cộng sản “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” của Mác - Ănghen và lời
kêu gọi mọi giai cấp vô sản trên toàn thế giới liên hiệp lại “Vô sản toàn thế
giới đoàn kết lại”. Khẩu hiệu đó đã nói lên rằng đoàn kết là chiến lược của
cuộc đấu tranh cách mạng giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao
động và cũng là cái bảo đảm cho xây dựng chế độ xã hội mới: xã hội xã hội
chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản.
Tiếp nối những tư tưởng của Mác - Ănghen, Lênin trong hoàn cảnh đầu
thế kỷ XX đã phát triển tư tưởng đoàn kết của Mác - Ănghen lên tầm cao mới.
Lênin đưa ra khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn
kết lại”. Thời đại Lênin sống là thời kỳ xâm chiếm thuộc địa của chủ nghĩa tư
bản nên cần phải đoàn kết với cả các nước đang bị xâm chiếm, bị áp bức.
Dựa trên truyền thống đoàn kết của dân tộc, được bổ xung bằng tinh
thần đoàn kết quốc tế vô sản, Hồ Chí Minh đã đưa tinh thần đoàn kết lên tầm
cao mới đó là đoàn kết dân tộc kết hợp chặt chẽ với đoàn kết quốc tế.
Hồ Chí Minh đã đúc kết rằng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành
công, thành công, đại thành công”. Điều đó đã là phương châm chỉ đạo cho
cách mạng Việt Nam và hướng cách mạng Việt Nam đi đến những thành công
mới.
Ngày nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta càng cần phải ra sức
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc mà trước hết là phải đoàn kết trong đảng.
Hồ Chí Minh căn dặn tất cả cán bộ, đảng viên, dù ở cương vị khác
nhau, làm công tác khác nhau cũng đều phải đoàn kết nhất trí để làm tròn
nhiệm vụ của đảng giao cho…Muốn thật sự đoàn kết thì phải dân chủ thực sự
trong đảng.
. 61
Đảng ta là đảng cầm quyền, do vậy đoàn kết trong đảng sẽ góp phần
làm cho nhiệm vụ chèo lái dân tộc của đảng trở nên hiệu quả hơn. Đoàn kết
trong đảng là nhiệm vụ sống còn đối với sự nghiệp cách mạng, đảng viên phải
giữ gìn sự đoàn kết như “giữ gìn con ngươi của mắt mình” [21, 570].
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng
đánh đổ phong kiến, thực dân giành lại độc lập tự do cho dân tộc, đưa đất
nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện mục tiêu: dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cho nên ngoài nhiệm vụ đề ra là
tạo ra con đường đi đúng đắn cho đất nước dân tộc, đảng ta còn là trung tâm
của khối đại đoàn kết toàn dân, để tạo ra sức mạnh lớn lao nhằm chiến thắng
trước mọi kẻ thù và thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng đất nước phồn
vinh.
Đoàn kết tạo ra sức mạnh và sức mạnh bắt nguồn từ đoàn kết. Do vậy
sức mạnh đoàn kết của nhân dân là sức mạnh vô cùng to lớn không có gì so
sánh được. Cách để đoàn kết nhân dân lại là tập hợp nhân dân, thu hút nhân
dân vào trong mặt trận thống nhất để thoả mãn yêu cầu và nguyện vọng chính
đáng của nhân dân. Trong khi chưa giành được độc lập dân tộc, tất cả đều có
một mục đích chung là độc lập dân tộc cho nên có thể tập hợp dễ dàng mọi
sức mạnh quần chúng trong khối thống nhất. Tuy nhiên trong thời kỳ hoà bình
nhiều lợi ích đan xen lẫn nhau, phải làm sao để điều hoà các lợi ích giữa các
giai cấp, dân tộc là nhiệm vụ khó khăn nhất với đảng và nhà nước ta.
Đảng và nhà nước ta đã chỉ rõ vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc
có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc
trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói giảm nghèo,
nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ
. 62
viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc” là đường lối chiến lược, là nguồn
gốc sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [5, tr.122].
Mỗi quá trình lịch sử của dân tộc đều gắn bó mật thiết với chiến lược
đại đoàn kết dân tộc. Đó là sức mạnh đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng,
là ngọn cờ tập hợp lực lượng đưa đất nước bước vào thời kỳ mới.
3.2. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến hoà nhập với dòng chảy văn
hoá nhân loại
3.2.1. Xây dựng nền văn hoá lấy giá trị truyền thống làm nền tảng
Trong cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh cho dù ở trong hoàn
cảnh của bất kỳ nền văn hóa nào đều giữ cho mình bản sắc văn hóa dân tộc
đặc trưng. Đối với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam, nêu cao tính dân tộc
là nguyên tắc không thể thiếu trong việc xây dựng nền văn hóa mới. Có thể
nói Hồ Chí Minh là “người khởi xướng và xây dựng các mô thức văn hóa
nghệ thuật mới Việt Nam: dân tộc, khoa học, đại chúng và xã hội chủ nghĩa”
[10, tr.134].
Hồ Chí Minh và Đảng ta đã quán triệt 3 nguyên tắc cơ bản khi tiến
hành xây dựng bản Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1946 trong đó nguyên
tắc dân tộc là nguyên tắc không thể thiếu.
Một nền văn hóa hiện đại sẽ không thể hoàn chỉnh nếu không dựa trên
sự kết hợp với những giá trị văn hóa truyền thống. Những giá trị văn hóa tinh
tuý truyền thống sẽ mãi còn giá trị trong nền văn hóa mới. Nền văn hóa mới
sẽ xây dựng trên cơ sở của nền văn hóa truyền thống đó. Tất nhiên văn hóa
nền văn hóa mới đã có sự khác biệt về chất so với nền văn hóa truyền thống vì
nó đã được hấp thụ những cái mới - yếu tố ngoại sinh - của tinh hoa văn hóa
thế giới.
Cùng với việc mở cửa nền kinh tế để giao lưu rộng rãi với nền kinh tế
thế giới là việc đẩy mạnh việc giao lưu văn hóa với các dân tộc trên thế giới.
Với phương châm muốn là bạn với tất cả các nước, Việt Nam đã mở cửa nền
. 63
văn hóa mạnh mẽ dựa trên những giá trị văn hóa truyền thống và hấp thụ
những tinh hoa tiên tiến của nhân loại.
Nguyên lý xây dựng nền văn hóa mới là phát triển các giá trị truyền
thống, hấp thụ các giá trị hiện đại trên nền tảng làm đậm nét bản sắc dân tộc
văn hóa Việt Nam. Giá trị văn hóa truyền thống thực chất nằm ở tinh hoa văn
hóa các dân tộc Việt Nam vì vậy một nền văn hóa dựa trên các giá trị truyền
thống là một nền văn hóa biết coi trọng những giá trị văn hóa của các dân tộc
trong nước, coi trọng sự bình đẳng giữa văn hóa các dân tộc.
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cũng có nghĩa phải bảo
đảm sự đa dạng văn hóa trong thời kỳ đổi mới. Trong việc phát huy nội lực
của giá trị văn hóa truyền thống thì cần phát huy tối đa giá trị văn hóa các dân
tộc và tạo điều kiện phát triển khả năng sáng tạo của cá nhân, đồng thời văn
hóa vùng miền được khuyến khích, bảo tồn.
Sự đơn điệu của nền văn hóa là một việc rất có hại cho sự phát triển.
Chỉ có sự đa dạng mới mang đến sự phát triển văn hóa mạnh mẽ. Do vậy cần
phải chống độc quyền văn hóa để tạo điều kiện cho văn hóa phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá phát triển mạnh mẽ
mọi nền văn hóa đều phải có những sự biến đổi mạnh mẽ để có thể thích nghi
với điều kiện mới. Văn hóa có sức mạnh và có khả năng điều chỉnh nền kinh
tế thị trường để hạn chế những mặt tiêu cực của nền kinh tế đó. Văn hóa
truyền thống với những giá trị đạo đức cơ bản và mang nhiều ý nghĩa sẽ bổ
xung cho cơ chế thị trường những mặt tiến bộ và làm cho hoạt động kinh
doanh mang tính thương mại đơn thuần trở nên thống nhất với đạo đức kinh
doanh.
Văn hóa truyền thống trong lịch sử đã chứng minh rằng nó có sức mạnh
lớn lao khi tác động đến quá trình lịch sử phát triển của dân tộc. Chính truyền
thống văn hóa dân tộc đã tạo nên những anh hùng dân tộc và trong số đó có
. 64
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người tạo dấu ấn lên nền văn hóa thế giới mà điểm
khởi nguồn của Người chính là nền văn hóa dân tộc.
Quan điểm phương pháp luận toàn diện trong việc xây dựng nền văn
hóa Việt Nam là lấy chính sách văn hóa làm nền tảng, phát huy mạnh mẽ các
giá trị văn hóa truyền thống và phải dựa trên quan điểm phát triển là phải vượt
trên những giá trị truyền thống, bổ xung cho những giá trị văn hóa truyền
thống trở nên phù hợp hơn với thời kỳ mới.
Nhiệm vụ đó cũng là nhiệm vụ bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa
dân tộc, duy trì và biến nó thành chỗ dựa và động lực cho dân tộc khi đứng
trước những nhiệm vụ khó khăn và thử thách.
Qua nhiều năm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, xã hội Việt
Nam đã có nhiều những sự thay đổi cả tích cực và có cả tiêu cực. Những mặt
tích cực có thể thấy rõ ở trong sự thay đổi mọi mặt của nền kinh tế xã hội.
Nhưng bên cạnh đó văn hóa Việt Nam bị ảnh hưởng từ mặt trái của nền kinh
tế đó. Những tệ nạn xã hội làm ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục của nền
văn hóa. Thậm chí những chuẩn mực văn hóa lâu đời của dân tộc cũng bị biến
đổi. Điều đó cho thấy cần thiết phải phát triển hơn nữa những tinh hoa văn
hóa dân tộc để cho văn hóa Việt Nam ngày càng trở nên hoàn thiện.
3.2.2. Biết học tập những giá trị tốt đẹp trong văn hoá nhân loại làm
giàu cho nền văn hoá dân tộc
Để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng một xã hội ấm no hạnh phúc,
công bằng, dân chủ và văn minh thì chúng ta phải đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm
vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ với nhau. Quá trình đó diễn ra trong thời kỳ dài
lâu và đòi hỏi sự cố gắng và gắn kết chặt chẽ giữa các các nhân trong xã hội.
Văn hóa đóng vai trò quan trọng trong quá trình đó.
Theo nhà văn hóa Phan Ngọc thì văn hóa Việt Nam có truyền thống
“vượt gộp”. Có thể hiểu điều đó chính là sự tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
. 65
loại một cách tích cực nhất để làm giàu cho nền văn hóa dân tộc. Hồ Chí
Minh là biểu tượng, là người tích cực học tập giá trị của các nền văn hóa nhân
loại. Đảng ta tiếp nối những truyền thống đó đã xử lý hài hoà giữa sức ép của
quá trình toàn cầu hoá thế giới với nhiệm vụ bảo vệ các giá trị văn hóa của
dân tộc. Nhiệm vụ đó làm sao phải đảm bảo cho văn hóa truyền thống có chỗ
đứng vững chắc trong xã hội hiện đại và những tinh hoa văn hóa nhân loại
góp phần làm giàu thêm văn hóa Việt Nam.
Trong quá trình phát triển, văn hóa nhân loại đã được kế thừa, được
cách tân, được tiếp biến và trên cơ sở những giá trị văn hóa truyền thống,
những giá trị của văn hóa nhân loại đã có những sự ảnh hưởng tích cực đến
nền văn hóa Việt Nam trong những thời kỳ khác nhau.
Hồ Chí Minh là biểu tượng và là người chuyên chở những giá trị văn
hóa Đông - Tây. Người là hiện thân của việc kết hợp nhuần nhuyễn và hài hoà
văn hóa Tây phương và văn hóa Đông phương. Với vốn văn hóa vững chắc
ngay từ khi còn nhỏ, Hồ Chí Minh sau quá trình dài đi tìm đường cứu nước đã
học tập tiếp thu rất nhiều tinh hoa văn hóa nhân loại.
Bản thân nền văn hóa truyền thống của dân tộc đã đứng trước thử thách
rất lớn của lịch sử khi gặp phải sức mạnh của văn hóa phương Tây khi Pháp
bắt đầu đặt chân đến Việt Nam. Sự thực chúng ta đã chống lại sự xâm lăng
của nền văn hóa và của cả nền kinh tế, chính trị và xã hội phương Tây. Nhưng
chỉ dựa vào truyền thống văn hóa dân tộc thì văn hóa Việt Nam không thể
chiến thắng sức mạnh khổng lồ của chủ nghĩa tư bản. Cần phải bổ xung vào
văn hóa Việt Nam những yếu tố, giá trị tiên tiến của văn hóa nhân loại.
Một nền văn hóa đóng kín là một nền văn hóa chết cứng không phát
triển. Sự thật đã chứng minh rằng trong lịch sử, nền văn hóa Việt Nam đã
đứng trước những thử thách lớn lao nhưng cuối cùng vẫn giữ được bản sắc
vốn có nhờ sự tiếp thu các giá trị văn hóa nhân loại và biến đổi nó trở thành
sản phẩm có ích, phục vụ cho văn hóa dân tộc.
. 66
Chúng ta thấy khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam nó đã mang trong
nó những chuẩn mực, những phạm trù của văn hóa dân tộc khác.Tuy vậy khi
du nhập vào Việt Nam đã bị biến đổi cho phù hợp với văn hóa dân tộc. Trong
tư tưởng Nho giáo, chữ “trung” có nghĩa là trung với vua, và sẵn sàng tận tuỵ,
hy sinh vì vua. Tuy vậy khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam, chữ “trung” đã
mang một nội hàm khác. Lúc này chữ “trung” dưới sự “khúc xạ” của văn hóa
Việt Nam trở thành trung với đất nước, với Tổ quốc. Lợi ích Tổ quốc là thứ
mà con người phải trung thành và chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc.
Kế thừa và phát triển những giá trị tiên tiến của tinh hoa văn hóa nhân
loại là một xu hướng tất yếu. Thực tế cho thấy rằng trong nhiều hoàn cảnh
khó khăn chúng ta biết vượt qua và vững vàng đi lên là nhờ việc tiếp thu
những tinh hoa của văn hóa nhân loại.
Một nền văn hóa mới hoàn thiện phải bao hàm trong nó những yếu tố
tích cực của yếu tố văn hóa truyền thống, mặt khác phải luôn làm cho văn hóa
phát triển bằng cách học tập tinh hoa văn hóa nhân loại. Việc học tập và phát
triển những tinh hoa văn hóa nhân loại vào làm giàu cho nền văn hóa dân tộc
là một quy luật tất yếu. Trong điều kiện thế kỷ XX, Hồ Chí Minh nhận thức
rõ tính tất yếu và sự tác động qua lại của yếu tố dân tộc và quốc tế. Ngay cả
trong công cuộc giải phóng dân tộc thì các nước trên thế giới “chỉ có nền hoà
bình cuối cùng khi tất cả các dân tộc tự mình thoả thuận với nhau cùng tiêu
diệt con quái vật đế quốc chủ nghĩa ở khắp mọi nơi mà họ gặp nó” [18,tr.11]
Yếu tố dân tộc như là một yếu tố nội sinh có vai trò quyết định đến sự
phát triển của sự nghiệp cách mạng. Luôn nhấn mạnh yếu tố nội sinh nhưng
Hồ Chí Minh cũng không xem nhẹ những yếu tố bên ngoài bởi chúng có thể
mang những yếu tố tích cực tiến bộ cho dân tộc và cách mạng Việt Nam.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới
Để có thể phát triển đi lên, chúng ta không thể đóng cửa đất nước, trong
quá trình đó không thể không tránh khỏi những tác động tiêu cực từ bên
. 67
ngoài. Do đó trong quá trình kế thừa cần phải loại bỏ những yếu tố ảnh hưởng
tiêu cực đến sự phát triển nền văn hóa dân tộc.
3.2.3. Trong việc tiếp thu những giá trị tích cực cần phải loại trừ
những yếu tố tiêu cực hoặc có ảnh hưởng không tốt với nền văn hoá Việt
Nam
Giao lưu văn hóa là một quá trình tất yếu nếu một nền văn hóa muốn
tồn tại và phát triển. Văn hóa Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Văn hóa là giá trị củ mỗi người là thước đo trình độ phát triển xã hội. Văn hóa
có sự chi phối mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, ẩn sâu trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Mác đã phân biệt hai loại ăn uống có văn hóa và không có văn hóa là
ăn uống bằng bát đĩa và ăn uống bằng dao khác với ăn uống bằng việc bốc
bằng tay. Lê nin cũng khuyên thanh niên làm cho tình yêu trở nên có văn hóa.
Và ở đâu thiếu văn hóa thì những tệ nạn sẽ kéo theo và có cơ hội phát triển.
Loài người có một quá trình phát triển lâu dài và đã nhận thức rõ sức
mạnh của văn hóa với sự phát triển của xã hội loài người. Trong quá trình vận
động đó người ta thấy rằng văn hóa là động lực cơ bản để phát triển nguồn lực
lớn nhất là nguồn lực con người.
Tất nhiên không phải mọi văn hóa đều là nguồn lực cơ bản để phát triển
con người mà chỉ là những giá trị văn hóa tiến bộ, phát triển mới đóng vai trò
là động lực phát triển mà thôi. Xã hội ngày nay không tránh khỏi có những
hiện tượng phản văn hóa ở cả trong những nước phát triển. Những hiện tượng
phản văn hóa như ô nhiễm môi trường, nạn bạo lực, … đã và đang tàn phá
cuộc sống của chính con người. Muốn xây dựng một xã hội tương lai tốt đẹp
không thể không
Nước ta trong quá trình phát triển nền văn hóa mới không tránh khỏi bị
ảnh hưởng bởi những yếu tố văn hóa tiêu cực. Nhiều hiện tượng phản văn hóa
đã diễn ra và làm nhức nhối bầu không khí xã hội. Những hiện tượng văn hóa
. 68
tiêu cực đó đang dần xâm nhập và phá vỡ những chuẩn mực đã tồn tại hàng
ngàn năm qua của dân tộc.
Trách nhiệm của chúng ra là phải nhận thức được những gì là hiện
tượng phản văn hóa để đấu tranh loại bỏ chúng. Đó là một công việc không hề
đơn giản bởi có những hiện tượng nhân danh văn hóa nhưng lại đi ngược lại
văn hóa, nhân danh nhân đạo nhưng lại chà đạp lên những giá trị con người.
Một trong những công việc rất cần thiết với nền văn hóa là nhận xét về
các việc đúng - sai. Thế nào là đúng, thế nào là sai? Điều đó không phải dễ.
Bởi vì trong xã hội có rất nhiều hiện tượng lúc này là đúng nhưng lúc khác lại
là sai, lúc này là những hiện tượng văn hóa nhưng khi khác lại được coi là
những hiện tượng phản văn hóa.
Như vậy để có thể nhận biết cái đúng cái sai trong văn hóa thì cần phải
dựa trên cơ sở khoa học.Khoa học chân chính là nói về những cái đúng và
đứng về phía văn hóa. Những cái sai luôn phản khoa học và phản văn hóa.
Chẳng hạn như Việt Nam là một nước có truyền thống văn hóa rất sâu và lâu
đời vì chúng ta luôn đứng về phía chính nghĩa và chống lại phi nghĩa. Do vậy
để bảo tồn nền văn hóa truyền thống cần phải loại bỏ những yếu tố phản văn
hóa.
Trong việc đấu tranh loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong văn hóa cần
phải biết phát huy tốt vai trò của pháp luật vì pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội và khắc phục những hiện tượng phản văn hóa.
Những hiện tượng phản văn hóa thường đứng về phía cái ác mà chống
lại cái thiện. Do vậy cần phải loại bỏ cả những điều ác đã và đang tồn tại
trong nền văn hóa. Quá trình hội nhập mạnh mẽ gần đây đã thay đổi lớn bộ
mặt nền kinh tế - xã hội nhưng kéo theo nó là những hậu quả khó lường trong
văn hóa. Những tệ nạn xã hội như bạo lực, lừa đảo… ngày càng nhiều, tệ nạn
xã hội kéo theo bệnh tật là những gánh nặng cho toàn xã hội. Điều đó đang
làm cho xã hội trở nên trì trệ và phát triển không bền vững.
. 69
Để có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc thì không thể
chấp nhận việc hiện diện của những hành động, những việc làm phản văn hóa
và đi ngược lại lợi ích của loài người. Chúng ta tiếp thu những yếu tố tích cực
của văn hóa thế giới chứ không phải tất cả. Những gì là hay là tốt đẹp của các
nền văn hóa và phù hợp với văn hóa Việt Nam thì nên học tập và phát huy.
3.2.4. Văn hoá Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ
nam cho hành động
Có thể thấy văn hóa Việt Nam có một nền tảng và bản sắc riêng. Trong
quá trình dựng nước và giữ nước cha ông chúng ta đồng thời tạo dựng nên
nền văn hóa với những giá trị riêng biệt. Nền văn hóa giàu bản sắc đó đã
chứng tỏ sức mạnh và giá trị trong suốt chiều dài lịch sử. Trong lịch sử, dân
tộc Việt Nam chịu nhiều biến động lớn lao, song dân tộc vẫn đoàn kết và
đứng vững nhờ sức mạnh của truyền thống dân tộc.
Trong thời kỳ phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản và quá trình
xâm chiếm thuộc địa mạnh mẽ của nó, dân tộc Việt Nam không tránh khỏi
phải chịu ảnh hưởng. Nằm ở vị trí thuận lợi về giao thông và có nguồn tài
nguyên vô cùng dồi dào phong phú, đây là những yếu tố hấp dẫn với những
tên thực dân xâm lược. Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp chính thức nổ những
phát súng đầu tiên hòng xâm lược nước ta, biến Việt Nam thành thuộc địa và
phục vụ cho nhu cầu khai thác thuộc địa của chúng.
Sự xâm lược của thực dân Pháp tuy bị chống trả quyết liệt nhưng chúng
vẫn giành thắng lợi nhờ sự tiến bộ của chủ nghĩa tư bản lúc đó. Có thể nói sự
thất bại của các phong trào cách mạnh ở Việt Nam lúc bấy giờ cũng là sự thất
bại của những tư tưởng truyền thống dân tộc. Vì hầu hết các phong trào cách
mạng đều đi theo lối mòn cũ đó là những cuộc cách mạng theo chủ trương
khôi phục lại chế độ phong kiến lỗi thời. Sự thắng thế của thực dân Pháp là tất
yếu vì nó đã chứng tỏ sự ưu việt trước chế độ phong kiến.
. 70
Lúc này dân tộc Việt Nam nói chung và phong trào cách mạng Việt
Nam thiếu một đường lối đúng đắn để dẫn dắt phong trào cách mạng. Sự
khủng hoảng đường lối hay đó cũng chính là sự lỗi thời của chế độ phong
kiến mà Việt Nam cần có một luồng tư tưởng mới tiến bộ hơn để có thể đưa
đất nước đi vượt ra khỏi vòng nô lệ. Lịch sử cần một con người đi tìm chân lý
đó cho dân tộc và Hồ Chí Minh chính là con người mà dân tộc cần đến.
Người với hành trang là một nền học vấn khá chắc chắn và một lòng
nồng nàn yêu nước đã ra đi tìm đường cứu nước và tìm chân lý cho cả dân
tộc. Người đã bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin và thấy rằng đây chính là cái mà
dân tộc Việt Nam đang cần tìm.
Ngay từ những năm 1920, Người đã quyết định ra nhập Đảng cộng sản
Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Trước khi thành lập Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930, Người đã
khẳng định rằng bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng học thuyết
chắc chắn nhất, chân chính nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chính chủ nghĩa Mác - Lênin là cẩm nang thần kỳ, là ngọn đuốc soi
sáng con đường đi của dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi
vòng nô lệ. Điều đó đã được chứng minh bằng những cao trào cách mạng liên
tiếp nổ ra và đỉnh cao là tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 mang lại độc
lập, tự do cho dân tộc - điều mà chưa có một học thuyết chủ nghĩa nào có thể
mang lại cho dân tộc được.
Trong việc xây dựng các quan hệ văn hoá mới ở nước ta, Hồ Chí Minh
luôn khẳng định: chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng sức mạnh chính trị của
nhân dân ta. Dựa trên những giá trị tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa Mác -
Lênin gắn với truyền thống dân tộc và các giá trị phổ biến của nhân loại. Mục
tiêu phấn đấu của dân tộc là xây dựng chế độ xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, tự do. Xã hội đó chỉ có thể là xã hội xã hội chủ nghĩa mà thôi. Chủ
. 71
nghĩa xã hội với hệ tư tưởng Mác - Lênin là xã hội có văn hoá cao, tạo điều
kiện phát huy tối đa năng lực cá nhân và tính tích cực sáng tạo của quần
chúng. Và do tính tích cực đó mà văn hoá với tư cách là trình độ người của
các quan hệ xã hội lại phát triển cao hơn. Quá trình nay khắc phục những mặt
hạn chế của văn hoá trong xã hội cũ và phát huy đầy đủ khả năng con người.
Có thể nói chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp vô sản và
đồng thời cũng là phản ánh xu thế tất yếu của thời đại. Chính vì vậy, chủ
nghĩa Mác - Lênin mang ý nghĩa quốc tế và nó soi đường cho những cuộc
đấu tranh của các dân tộc bị áp bức đi đến thắng lợi.
Hồ Chí Minh là người thấy rõ ràng tính quốc tế của chủ nghĩa Mác -
Lênin và những đặc điểm riêng của từng dân tộc khi áp dụng chủ nghĩa Mác -
Lênin vào thực tiễn. Vận dụng và kế thừa một cách sáng tạo, Hồ Chí Minh đã
mang chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
Văn hoá mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một nền văn hoá lấy chủ
nghĩa Mác - Lê nin làm kim chỉ nam cho hành động kết hợp với chủ nghĩa
yêu nước và tinh hoa văn hoá thế giới. Một nền văn hoá mới toàn diện và tiến
bộ là một nền văn hoá biết kết hợp nhuẫn nhuyễn giữa mục tiêu, lý tưởng của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tinh thần khát vọng xây dựng nền văn hoá tiến bộ
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bài học lớn mà chúng ta rút ra được trong quá trình xây dựng và phát
triển đất nước là “trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh” [5, tr.122]. Chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn mãi là lựa chọn trên
con đường chúng ta đi đến xây dựng một đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Kế thừa những tinh hoa văn hóa nhân loại và trong đó có bộ phận quan
trọng nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin, chọn lọc những yếu tố hợp lý, chắt lọc
những mô hình phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới, Hồ Chí Minh luôn
. 72
suy nghĩ để xây dựng một mô hình phát triển đất nước toàn diện từ chính sự
kế thừa và phát triển đó. Chủ nghĩa Mác - Lênin là một môn khoa học chân
chính, ở đó chúng ta có thể tìm thấy cho chính chúng ta những điều “thần kỳ”
để chúng ta áp dụng vào thực tiễn, rút ra những nguyên lý mới để phát triển
đất nước một cách bền vững.
. 73
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản vô cùng quý báu của dân tộc, là nền
tảng tư tưởng là kim chỉ nam cho hành động. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh cho chúng ta những bài học sâu sắc trong việc xây dựng và phát triển
đất nước. Việc xây dựng và phát triển văn hóa là một nội dung cốt lõi trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển đất nước. Là một nhà hoạt động
chính trị nhưng Hồ Chí Minh lại là một nhà văn hóa lớn như chính tổ chức
văn hóa giáo dục Unesco đã công nhận Người là danh nhân văn hóa thế giới
năm
1990. Văn hóa là một khái niệm rộng lớn bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế xã hội. Văn hóa cũng là mục tiêu phát triển của nhân loại. Hồ Chí
Minh đã nhận thấy sức mạnh vô cùng lớn lao của văn hóa và văn hóa với tư
cách là động lực của sự phát triển. Hồ Chí Minh muốn văn hóa thấm sâu vào
tâm lý quốc dân đồng bào và tạo nên một xã hội tốt đẹp theo những chuẩn
mực lý tưởng nhất. Với tinh thần đó Hồ Chí Minh đã biết kết hợp khéo léo
những tinh hoa văn hóa nhân loại và những truyền thống văn hóa tốt đẹp của
những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc để tạo nên mô hình của một nền
văn hóa mới Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh văn hóa chính là nguồn
gốc và động lực cho sự phát triển. Với cách nhìn biện chứng về văn hóa,
Người biết kế thừa những giá trị văn hóa tốt đẹp nhất của Phương Đông và
phương Tây, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền thống văn hóa Việt
Nam để tạo nên một nền “văn hóa của tương lai”. Nền văn hóa tương lai đó là
nền văn hóa mới tiến bộ coi trọng những giá trị nhân văn tốt đẹp vì con người
và cho con người. Kế thừa và phát triển những tinh hoa văn hóa nhân loại để
xây dựng nên nền văn hóa mới Việt Nam đó cũng là phương châm mà Hồ Chí
Minh đề ra và xây dựng, phát triển.
. 74
Kế thừa và phát triển là nguyên lý, là phương châm và là một nét đặc
biệt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Để đất nước phát triển thì điều kiện tất yếu
phải là độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Độc lập, tự do là tiền đề để
xây dựng nên một nhà nước mới, một thể chế mới, một diện mạo mới và một
sức sống mới. Để có thể làm được điều đó phải luôn biết học hỏi, biết tìm
hiểu trong kho tàng vô tận của tri thức nhân loại những tinh hoa và những
điểm phù hợp với quy luật phát triển của thực tiễn Việt Nam từ đó làm định
hướng cho quá trình phát triển mạnh mẽ của dân tộc. Con đường đó chỉ có thể
là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh
đã chọn.
Xây dựng và phát triển một xã hội mới yêu cầu phải có một nền kinh tế
vững chắc. Nền kinh tế đó chỉ có thể phát triển một cách vững bền khi nó
được thúc đẩy bởi nền văn hóa mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xây dựng. Văn
hóa là một sức mạnh nội sinh và là bộ phận quan trọng nhất trong đời sống
tinh thần của con người và không thể thiếu cho sự phát triển và sức sống
mạnh mẽ của dân tộc.
Có thể sự nghiệp của Người không để lại những tác phẩm đồ sộ như
những tác phẩm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng trong
những bài nói và viết của mình, Hồ Chí Minh luôn toát lên những tư tưởng
triết học sâu sắc. Trong số đó nguyên lý kế thừa và phát triển được Hồ Chí
Minh vận dụng một cách triệt để trong việc lựa chọn phương pháp luận để
xây dựng và phát triển đất nước. Mục tiêu cao cả của cách mạng chính là giải
phóng triệt để con người, để làm được điều đó cần phải biết xây dựng một nền
văn hóa giàu sức sống bên cạnh một nền kinh tế vững chắc. Đó chính là tư
tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh trong xây dựng nền văn hóa mới Việt
Nam.
. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1 Đào Duy Anh (1998), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb. Tổng hợp Đồng
Tháp.
2 Asahi (Nhật) (14/5/1995)
3 Báo Thanh niên (02/5/1999), (70).
4 Nguyễn Trọng Chuẩn (2000), Một số vấn đề về triết học - con người và
xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
6 Phạm Văn Đồng (1973), Tổ quốc ta, nhân dân ta và sự nghiệp ta và
người nghệ sỹ, Nxb. Văn học, Hà Nội.
7 Võ Nguyên Giáp (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8 Phạm Minh Hạc (1995), Phát triển văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại thuộc
“Tài liệu bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị”.
9 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1996), Văn hóa dân tộc trong
quá trình mở cửa ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10 Đỗ Huy (1996), Mỹ học với tư cách là một khoa học, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
. 76
11 Đỗ Huy (2002), Nhận diện văn hóa Việt Nam và sự biến đổi của nó trong
thế kỷ XX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12 Đinh Gia Khánh (1995), Đại cương về tiến trình văn hóa Việt Nam, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
13 V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 1, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
14 V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
15 C. Mác - Ph. Ănghghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội
16 C.Mác - Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
17 C.Mác - Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, Phép biện chứng duy vật (Tập trích),
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1962.
18 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23 Hồ Chí Minh (2006), Văn hóa văn nghệ cũng là một mặt trận, Nxb. Văn
hoá, Hà Nội.
24 Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội.
25 J Ru (12/4/1997), Báo Chiến đấu (Pháp).
26 Trương Hữu Quýnh, (2002), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
27 Lê Sỹ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 2, Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
28 Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
29 Trần Ngọc Thêm (1999), Tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh
. 77
30 Thời báo Ấn Độ (13/3/1991).
31 Trần Dân Tiên (1949), Hồ Chí Minh truyện, Tam Liên, Thượng Hải.
32 Time (Mỹ) (12/5/1995).
33 Văn học lớp 10 (2006), tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
34 Trần Quốc Vượng (1991), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
35 Trần Quốc Vượng (2002), Văn hoá Việt Nam - tìm tòi và suy ngẫm, Nxb.
Văn học, Hà Nội.
36 Từ điển Tiếng Việt (2006), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
Tiếng Anh:
1 Vietnamese hero of National liberation and greatman of culture (2003),
SVR, Publish by Vietnam courierr HANOI - 1990, 2003.
. 78
PHỤ LỤC
. 79