Luận văn Thạc sĩ Khoa học báo chí: Vấn đề người khuyết tật qua sự phản ánh của báo chí hiện nay
lượt xem 4
download
Luận văn nhằm mục đích sau: Trên cơ sở nhận thức những vấn đề cơ bản về người khuyết tật, luận văn đi sâu khảo sát, phân tích thực tiễn phản ánh của báo chí về lĩnh vực này đồng thời nghiên cứu những tác động báo chí trong việc phản ánh về lĩnh vực người khuyết tật đối với công chúng. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học báo chí: Vấn đề người khuyết tật qua sự phản ánh của báo chí hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA BÁO CHÍ - TRUYỀN THÔNG VŨ THỊ THU NGÀ ĐỀ TÀI VẤN ĐỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT QUA SỰ PHÁN ÁNH CỦA BÁO CHÍ HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC BÁO CHÍ HÀ NỘI-2008
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA BÁO CHÍ – TRUYỀN THÔNG --------o0o-------- VŨ THỊ THU NGÀ VẤN ĐỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT QUA SỰ PHẢN ÁNH CỦA BÁO CHÍ HIỆN NAY (Khảo sát các Báo Thanh Niên, Hà Nội Mới, Lao động và Xã hội và Tạp chí Người bảo trợ từ tháng 1/2007 đến 7/2008) CHUYÊN NGÀNH BÁO CHÍ HỌC MÃ SỐ: 60 32 01 LUẬN VĂN THẠCH SĨ KHOA HỌC BÁO CHÍ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM TẤT THẮNG HÀ NỘI-2008
- BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT ADA Bộ Luật về người khuyết tật Hoa Kỳ ASVHO Hội bảo trợ Người tàn tật và trẻ mồ côi Việt Nam BLDTBXH Bộ Lao động – Thương Binh và Xã hội BTC Bộ Tài Chính BYT Bộ Y Tế EU Hội đồng Châu Âu ICF phân loại quốc tế về sức khoẻ, chức năng và khuyết tật ILO Tổ chức Lao động thế giới LHTN Liên hiệp thanh niên NCCD Văn phòng Điều phối các hoạt động hỗ trợ Người tàn tật Việt Nam SGK Sách giáo khoa PTCS Phổ thông cơ sở TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh VABED Hiệp Hội sản xuất kinh doanh của Người tàn tật Việt Nam WHO Tổ chức Y tế thế giới
- MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 9 1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài 9 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 11 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 13 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 13 5. Phương pháp nghiên cứu 13 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 14 7. Kết cấu 15 PHẦN NỘI DUNG 16 Chương 1: Lý luận chung về vấn đề người khuyết tật và báo chí 16 1.1 Tổng quan về vấn đề người khuyết tật 16 1.1.1 Người tàn tật hay khuyết tật 16 1.1.2 Các khái niệm liên quan tới người khuyết tật 19 1.1.3 Người khuyết tật trên thế giới 22 1.1.4 Người khuyết tật ở Việt Nam 24 1.1.5 Các chính sách xã hội liên quan tới vấn đề người khuyết tật 27 1.2 Báo chí và vấn đề người khuyết tật 30 1.2.1 Các căn cứ pháp luật về việc phản ánh vấn đề người khuyết tật 30 1.2.2 Nhiệm vụ của báo chí trong việc phản ánh về vấn đề người 33 khuyết tật Chương 2: Vấn đề người khuyết tật qua sự phản ánh của báo chí 40 2.1 Vấn đề người khuyết tật qua sự phản ánh chung của báo chí 40
- 2.1.1 Hệ thống báo chí Việt Nam hiện nay 40 2.1.2 Bức tranh chung về vấn đề người khuyết tật trên báo chí 41 2.1.2.1 Vấn đề người khuyết tật trên hệ thống báo viết 41 2.1.2.2 Vấn đề người khuyết tật trên hệ thống phát thanh 43 2.1.2.3 Vấn đề người khuyết tật trên hệ thống truyền hình 43 2.1.2.4 Vấn đề người khuyết tật trên hệ thống báo điện tử 44 2.1.2.5 Vấn đề người khuyết tật trên mạng lưới thông tấn xã Việt Nam 44 2.1.3 Các khía cạnh của vấn đề người khuyết tật được báo chí tập 45 trung phản ánh 2.2 Khảo sát việc phản ánh của báo chí về vấn đề người khuyết tật 46 trên 04 tờ báo Thanh Niên, Hà Nội Mới, Lao động và Xã hội và Tạp chí Người bảo trợ từ tháng 1/2007 đến tháng 7/2008 2.2.1 Giới thiệu kháI quát về 04 tờ báo, tạp chí 46 2.2.2 Vấn đề người khuyết tật được 04 tờ báo, tạp chí tập trung 47 2.2.2.1 Báo chí phát hiện, phản ánh đời sống khó khăn của người 47 khuyết tật và những hoàn cảnh cần giúp đỡ 2.2.2.2 Đăng tải chủ trương, chính sách của Nhà nước và giám sát việc 54 thực hiện trong đời sống, xã hội 2.2.2.3 Tích cực cổ vũ, khích lệ những tấm gương vượt lên số phận, 70 những cá nhân và tập thể hết lòng vì người khuyết tật 2.2.3 Kết quả khảo sát trên 04 tờ báo và tạp chí 90 2.2.3.1 Số lượng tác phẩn viết về người khuyết tật 91 2.2.3.2 Các mảng đề tài phản ánh 91 2.2.3.3 Các thể loại báo chí thường dùng 92 2.2.3.4 Vị trí tác phẩm liên quan tới vấn đề người khuyết tật trên mặt 93 báo
- 2.2.4 Dư luận xã hội với việc phản ánh về vấn đề người khuyết tật trên 94 báo chí 2.2.5 Bài học kinh nghiệm 98 Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng phản ánh về người 101 khuyết tật trên báo chí 3.1 Nâng cao chất lượng phản ánh của báo chí về vấn đề người 101 khuyết tật là điều tất yếu 3.2 Một số thuận lợi và khó khăn khi báo chí tiếp cận và phản ánh 105 về vấn đề người khuyết tật 3.2.1 Về thuận lợi 105 3.2.2 Về khó khăn 108 3.3 Một số giải pháp nâng cao chất lượng phản ánh vấn đề người 116 khuyết tật trên báo chí 3.3.1 Các giải pháp với báo chí nói chung 116 3.3.2 Nhóm giải pháp dành cho các tạp chí chuyên phản ánh về vấn đề 121 người khuyết tật PHẦN KẾT LUẬN 124 TÀI LIỆU THAM KHẢO 128 PHỤ LỤC 131
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài Trong suốt một thời gian dài, ở nước ta, nhắc đến những người bị khiếm khuyết về mặt thể chất hay tinh thần người ta thường nghĩ ngay tới những đối tượng của công tác từ thiện hoặc là những người bị ốm đau cần sự giúp đỡ, can thiệp về mặt y tế. Thậm chí từ sự khuyết tật nào đó, họ đã bị coi là người tàn phế. Bản thân người khuyết tật, do những hạn chế của mình cũng trở nên tự ti, sống khép kín và chưa thực sự vươn lên khẳng định mình để hoà nhập với cộng đồng xã hội. Tháng 10 năm 2006, Công ước quốc tế bảo vệ quyền của người khuyết tật đã được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua. Văn bản này đã trở thành Công ước nhân quyền mới, đầu tiên của thế kỷ XXI, đánh dấu sự chuyển biến quan trọng về nhận thức và thái độ đối xử của xã hội với 650 triệu người khuyết tật trên toàn thế giới. Công ước này cũng đã xoá hẳn cách nhìn cũ về người khuyết tật. Người khuyết tật không còn là gánh nặng cho gia đình và xã hội, họ cũng không còn là đối tượng cần được cưu mang và giúp đỡ suốt cả đời mà là những công dân. Họ có quyền được hỗ trợ để bù đắp những thiếu hụt, mất mát để tiến tới sự bình đẳng thực sự. Họ có quyền được đóng góp công sức của mình cho xã hội và giá trị của sự đóng góp ấy hết sức quý giá. Trong bối cảnh ấy, việc thay đổi nhận thức của toàn xã hội về người khuyết tật cũng như thay đổi nhận thức của chính bản thân người khuyết tật về vấn đề này là một việc làm cần thiết, thể hiện sự quan tâm, ủng hộ của Nhà nước ta với công ước đồng thời cũng thể hiện được chính sách nhân
- đạo, “tương thân tương ái” vốn là truyền thống và là một nội dung chỉ đạo không thể thiếu của của Đảng, Nhà nước ta. Với ý nghĩa ấy, trong những năm qua, nước ta đã xây dựng được một hệ thống các chính sách bảo vệ và chăm sóc người khuyết tật nhằm tiến tới “một xã hội hoà nhập, không vật cản và vì quyền của người khuyết tật” (Khuôn khổ hành động Thiên niên kỷ Biwako). Việc ra đời của Pháp lệnh về người khuyết tật đã chỉ rõ trách nhiệm của xã hội trong việc tạo điều kiện cho người khuyết tật thực hiện quyền bình đẳng của mình trong xã hội: được tạo điều kiện về giáo dục, được đào tạo nghề và tạo việc làm... Trên tinh thần ấy, Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã nhanh chóng tiếp thu ý kiến chỉ đạo từ Chỉ thị Số 01/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ: “Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức về vấn đề khuyết tật, tàn tật và người tàn tật nhằm phổ biến rộng rãi các biện pháp phòng ngừa tàn tật và tạo điều kiện để người tàn tật tham gia các hoạt động văn hoá phù hợp và hoà nhập với cộng đồng; Chỉ đạo các cơ quan báo chí xây dung các chuyên mục, chuyên đề tuyên truyền về trợ giúp người tàn tật trên các phương tiện truyền thông đại chúng ”. Báo chí có vai trò quan trọng không chỉ góp phần vào việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức của công chúng đối với vấn đề người khuyết tật mà còn nâng cao tri thức, trình độ của toàn xã hội đối với vấn đề này. Mặt khác, báo chí còn là cấu nối thông tin hữu hiệu giúp người khuyết tật hoà nhập với cộng đồng xã hội. Trong việc nâng cao nhận thức của toàn xã hội về người khuyết tật, các phương tiện truyền thông đại đặc biệt là báo chí có vai trò rất quan trọng. Vai trò đó được biểu hiện ở chỗ báo chí là phương tiện nhằm bảo đảm
- phổ biến thông tin trên quy mô đại chúng về hệ thống các chính sách, đường lối của Nhà nước về chăm sóc, bảo vệ người khuyết tật. Nó đồng thời là diễn đàn cho toàn dân đặc biệt là người khuyết tật thể hiện, tập hợp các ý kiến, kinh nghiệm giải quyết các vấn đề chăm sóc, bảo vệ người khuyết tật cũng như là phương tiện kêu gọi sự giúp đỡ của toàn xã hội đối với mỗi cá nhân đang gặp khó khăn. Với tư cách là tiếng nói của Đảng và Nhà nước, diễn đàn của nhân dân, trong thời gian qua, báo chí đã vào cuộc với những bài viết, tin, ảnh phong phú, hấp dẫn và cập nhật về mọi mặt đời sống của người khuyết tật. Bên cạnh đó, báo chí cũng đã tổ chức nhiều chương trình hoạt động góp phần giúp đỡ, cải thiện và nâng cao đáng kể đời sống vật chất và tinh thần cho người khuyết tật. Thực tế cho thấy, báo chí có vai trò hết sức to lớn trong việc nâng cao nhận thức của toàn xã hội về người khuyết tật. Tuy nhiên, đề tài về người khuyết tật trên báo chí nước ta vẫn còn là khá mới mẻ, bởi vậy vẫn còn nhiều điểm hạn chế. Một mặt, thông tin còn rời rạc, sơ sài, cách thể hiện lại khiên cưỡng như là việc tôn sùng quá mức, mặt khác, lại chưa có cái nhìn thẳng thắn chấp nhận hình ảnh người khuyết tật bình đẳng trong cộng đồng xã hội như mọi công dân. Chính vì vậy, để xã hội thực sự có nhận thức và hành động đúng đối với người khuyết tật, báo chí cần có những hướng đi tích cực hơn nữa. Qua khảo sát các tờ báo Thanh Niên, Hà Nội Mới, báo Lao động và Xã hội, Tạp chí Người bảo trợ từ tháng 1/2007 đến tháng 7/2008, luận văn góp phần làm rõ vai trò của báo chí nói chung trong việc phản ánh các vấn đề về người khuyết tật, đồng thời rút ra những gợi ý cho việc thông tin lĩnh vực này tốt hơn trên báo chí.
- Với tầm quan trọng và ý nghĩa cấp thiết như vậy, tôi lựa chọn “Vấn đề người khuyết tật qua sự phản ánh của báo chí hiện nay ” làm đề tài luận văn thạc sĩ báo chí của mình. 2. ịch sử nghiên cứu vấn đề Qua khảo sát, có thể thấy rằng việc nghiên cứu về báo chí đối với việc phản ánh người khuyết tật là khá mới mẻ ở nước ta. Trong những năm gần đây, mặc dù đã có nhiều cuộc nghiên cứu, khảo sát nhằm nâng cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế cho người khuyết tật, song những nghiên cứu nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về người khuyết tật còn chưa nhiều, trong đó có vấn đề phản ánh của báo chí – một kênh thông tin, tuyên truyền quan trọng, chưa được tập trung đi sâu để tìm ra hướng và cách thức phù hợp. Hiện nay, liên quan tới vấn đề nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về vấn đề này mới chỉ được nhắc đến là một trong số bảy lĩnh vực ưu tiên trong Khuôn khổ hành động thiên niên kỷ Biwako, do Văn phòng điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam (NCCD) tổ chức hội thảo, dưới sự tài trợ của Hội đồng Châu Âu (EU) và trong một số ít chương trình hội thảo khác. Về phương diện báo chí học, đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa báo chí và các vấn liên quan tới người khuyết tật cũng chưa được đề cập một cách cơ bản và hệ thống. Vấn đề này mới chỉ được đề cập tới trong đề tài nghiên cứu “Báo chí với vấn đề an sinh xã hội” của học viên Phạm Thị Thu Hường, lớp Cao học K7 (2003 - 2006) dưới góc độ là một bộ phận cấu thành của hệ thống an sinh xã hội. Trong quá trình chọn lựa và nghiên cứu đề tài, ngoài các tài liệu của Văn phòng điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam (NCCD),
- từ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, chủ yếu tư liệu chúng tôi thu nhập được qua các tài liệu về người khuyết tật nước ngoài, qua việc tự khảo sát trên các tờ báo nói chung và 04 tờ báo, tạp chí: Thanh Niên, Hà Nội Mới, Lao động và Xã hội và Tạp chí Người bảo trợ từ tháng 1/2007 đến tháng 7/2008. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Luận văn nhằm mục đích sau: Trên cơ sở nhận thức những vấn đề cơ bản về người khuyết tật, luận văn đi sâu khảo sát, phân tích thực tiễn phản ánh của báo chí về lĩnh vực này đồng thời nghiên cứu những tác động báo chí trong việc phản ánh về lĩnh vực người khuyết tật đối với công chúng. Từ đó đưa ra một số định hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phản ánh của báo chí về lĩnh vực này. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nhiệm vụ của luận văn là: - Hệ thống hoá những căn cứ khoa học và luật pháp về người khuyết tật; chỉ ra vai trò quan trọng của báo chí trong việc góp phần nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của xã hội đối với người khuyết tật; - Phản ánh thực trạng tuyên truyền về người khuyết tật trên báo chí hiện nay trên cơ sở khảo sát các báo: Thanh Niên, Hà Nội Mới, báo Nhân đạo và Đời sống và tạp chí Người bảo trợ từ tháng 1/2007 đến 7/2008. - Đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tuyên truyền về người khuyết tật trên báo chí. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài gồm: + Các tác phẩm báo chí viết về người khuyết tật.
- + Khảo sát 04 tờ báo, tạp chí: Báo Thanh Niên, Hà Nội Mới, Lao động và Xã hội, Tạp chí Người bảo trợ từ tháng 1/2007 đến tháng 7/2008. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên phương pháp lý luận của chủ nghĩa Mác- Lê-Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về người khuyết tật. Cơ sở nghiên cứu thực tiễn của luận văn là thực tiễn phản ánh các vấn đề liên quan tới người khuyết tật trên báo chí những năm gần đây. Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, thống kê, phân loại, so sánh, lấy ý kiến chuyên gia để lý giải vấn đề. Đề tài kế thừa một cách có chọn lọc những nghiên cứu khoa học trong nước và quốc tế có liên quan đến đề tài. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Đề tài cũng mở ra một hướng nghiên cứu, tiếp cận đối với lý luận và thực hành báo chí - truyền thông hiện đại nói chung, góp phần nâng cao hiệu quả tuyên truyền của báo chí. Đây là đề tài tương đối mới trong lý luận báo chí học, mở ra một hướng nghiên cứu về lĩnh vực đang rất được xã hội quan tâm và cũng là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, đó là nhận thức đúng về vị trí cũng như vai trò của người khuyết tật trong xã hội. Qua việc nghiên cứu lý luận về người khuyết tật, khảo sát việc phản ánh các vấn đề liên quan tới người khuyết tật trên một số tờ báo, tạp chí, luận văn đưa ra những quan niệm, nguyên tắc, phương pháp... tiến hành nắm bắt đầy đủ ý nghĩa của việc nhận thức đúng đắn về người khuyết tật qua kênh thông tin đại chúng, phục vụ cho việc nghiên cứu, quản lý và ban hành các chính sách có liên quan.
- Đề tài luận văn là một tài liệu tham khảo, góp phần vào hệ thống tư liệu khoa học chung về báo chí - truyền thông, nhằm phục công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập về báo chí hiện nay. Đây cũng là tài liệu tham khảo rộng rãi cho các cơ quan chỉ đạo và quản lý báo chí, các cơ quan báo chí và mọi người quan tâm đến lĩnh vực chăm sóc, bảo vệ người khuyết tật trên báo chí và một số giải pháp bước đầu nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phản ánh lĩnh vực này trên báo chí hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn bao gồm các phần: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận; tài liệu tham khảo; phụ lục. Trong đó phần Nội dung của luận văn gồm có 3 chương sau đây: Chương 1: Lý luận chung về người khuyết tật và báo chí Chương 2: Vấn đề người khuyết tật qua sự phản ánh của báo chí Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng phản ánh về người khuyết tật trên báo chí. Nội dung chính của luận văn sẽ được trình bày theo các chương, mục nói trên.
- PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Lý luận chung về người khuyết tật và báo chí 1. Tổng quan về người khuyết tật 1.1 Người tàn tật hay người khuyết tật Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh với quan điểm khoa học và tinh thần lạc quan đã động viên anh em thương binh hãy luôn là những người “tàn nhưng không phế”. Kể từ đó từ “tàn tật” đã trở thành một trong những từ dùng để tình trạng thương tật, mất mát một phần cơ thể của những người thương binh. Cùng với thời gian, từ “tàn tật” cũng đã được dùng để chỉ những người không may mắn do nhiều nguyên nhân như bị tai nạn, bẩm sinh dẫn đến các dị tật, khiếm khuyết về trí óc, cơ thể. Khi nền kinh tế đất nước phát triển, vấn đề cải thiện, nâng cao đời sống cho nhiều đối tượng yếu thế trong xã hội được đặt ra để từng bước giải quyết. Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự chia sẻ, giúp đỡ của toàn xã hội, trong những năm vừa qua, những người khiếm khuyết về thể chất hay tinh thần cũng ngày được chăm lo, trợ giúp nhiều hơn. Đời sống của họ được cải thiện, nâng cao rõ rệt. Người tàn tật có nhiều cơ hội để khẳng định mình và hoà nhập với cộng đồng xã hội. Bên cạnh đó, các chủ trương, Nghị quyết của Đảng cùng sự ra đời của hệ thống các văn bản Pháp luật như: Pháp lệnh về người tàn tật, các Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của các bộ cùng hoạt động của các tổ chức như Hội bảo trợ Người tàn tật và
- trẻ mồ côi Việt Nam(ASVHO), Văn phòng Điều phối các hoạt động hỗ trợ Người tàn tật Việt Nam (NCCD), Hiệp Hội sản xuất kinh doanh của Người tàn tật Việt Nam (VABED) đã cho thấy cụm từ “người tàn tật” đã được sử dụng mang tính phổ quát khi đề cập tới những người bị khiếm khuyết, dị tật trong xã hội. Như vậy có thể thấy việc sử dụng khái niệm và từ ngữ “người tàn tật” đã có tính lịch sử. Bên cạnh tính lịch sử, việc sử dụng khái niệm và từ ngữ "người tàn tật" ở nước ta còn mang tính thực tế và tồn tại trong suốt hơn 50 năm qua. Trong hơn 5,3 triệu người tàn tật Việt Nam thì có rất nhiều dạng tật như: bại não, thiểu năng trí tuệ, khuyết tật vận động, khiếm thị, khiếm thính với mức độ nặng, nhẹ rất khác nhau, gây tổn thương, làm giảm khả năng như ăn, nói, di chuyển, hoặc tư duy không hoàn chỉnh... cản trở họ trong việc tự chăm sóc bản thân và tham gia vào các hoạt động xã hội. Có thể chia thành hai cấp độ: Thứ nhất là các dạng khuyết tật dẫn đến suy giảm khả năng lao động 21% trở lên, không có điều kiện kinh tế. Những người thuộc cấp độ này rất cần sự giúp đỡ về vật chất, hỗ trợ về tinh thần để vươn lên hoà nhập với cộng đồng. Thứ hai là khuyết tật nhẹ và khuyết tật nặng có khả năng kinh tế. Đối với người thuộc dạng này, họ không yêu cầu sự trợ giúp về vật chất mà rất cần được động viên tinh thần, có cơ chế chính sách ưu đãi để tiếp tục phát huy khả năng vốn có của mình. Trong điều kiện kinh tế của đất nước, mọi cơ chế, chính sách trợ cấp, trợ giúp mới tập trung chủ yếu hướng tới đối tượng là người thuộc các dạng tật nặng, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Chính vì vậy, khái niệm “người tàn tật” được dùng để chỉ đối tượng này đã trở nên quen thuộc, phổ biến. Tuy nhiên, cho dù mắc dạng tật nào, ở cấp độ nặng hay nhẹ, người bị khiếm khuyết về thể chất hay tinh thần tật cũng đều cần tiếp cận các hệ
- thống dịch vụ công cộng, đặc biệt là nhận thức về sự hoà nhập của họ với cộng đồng và ngược lại. Mặt khác trong bối cảnh hiện nay, khi thế giới quan tâm tới vấn đề tật bệnh với chương trình phát triển hơn là chương trình trợ giúp thì khái niệm và từ ngữ “người khuyết tật” cũng được đặt ra rõ ràng hơn. Ngày nay, khi việc tiếp cận của người tàn tật (chữ dùng trong các văn bản pháp luật hiện hành) đối với các công trình công cộng còn hạn chế, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, việc thực thi pháp luật đã có đối với người tàn tật cũng không đầy đủ, có những quy định chưa đi vào cuộc sống và đặc biệt nhận thức của xã hội đối với vấn đề tàn tật và người tàn tật còn khá thấp, thì các nhà xã hội học khuyên dùng khái niệm “người khuyết tật” để chỉ chung cho khái niệm “tàn tật” và “khuyết tật”. Từ ngữ “khuyết tật” hay “người khuyết tật” có nghĩa khiếm khuyết khả năng (thể chất hoặc tinh thần) của con người. Cũng có nghĩa, người khuyết tật hoàn toàn vẫn còn một khả năng tham gia hoạt động xã hội. Từ “khuyết tật” cũng có nghĩa tích cực hơn từ “tàn tật”; bản thân người được gọi là khuyết tật cũng thấy vơi bớt sự mặc cảm, vươn lên một cách tích cực hơn; gọi là người khuyết tật thì xã hội nhìn nhận họ cũng thêm gần gũi, gắn bó hơn. Chính vì vậy, việc dùng khái niệm “khuyết tật” còn tạo niềm tin cho những người không may mắn, phá bỏ những rào cản trong xây dựng, giao thông, đồng thời phá bỏ những rào cản trong nhận thức của xã hội về người khuyết tật. Ngoài ra, theo Tổ chức Y tế thế giới, về bản chất, cụm từ “tàn tật” lại mang hàm ý chỉ hậu quả của xã hội, môi trường gây ra cho người khuyết tật. Mặt khác, khái niệm tàn tật tồn tại trong khái niệm khuyết tật. Chính vì vậy
- tháng 7 năm 2006, Hội thảo Khái niệm và từ ngữ về người tàn tật do Văn phòng điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam (NCCD) tổ chức, đã thống nhất cách gọi những người khiếm khiết về thể chất hay tinh thần là người khuyết tật. Điều này cho thấy, dùng từ khuyết tật hay người khuyết tật cũng là phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới trong việc đi tìm một khái niệm, từ ngữ để nói về những người bị khiếm khuyết, dị tật trong xã hội. Vì những lý do nói trên, xin được chọn từ “khuyết tật” hay “người khuyết tật” làm tên gọi thống nhất cho đối tượng được nói đến trong luận văn. 1.2 Các khái niệm liên quan tới người khuyết tật Xã hội loài người phát triển, nền văn minh nhân loại được nâng lên cùng với sự tiến bộ về khoa học - kỹ thuật đã làm thay đổi về chất lượng cuộc sống của toàn nhân loại. Cũng từ đó, bức màn về người khuyết tật được vén lên và làm thay đổi một số quan niệm trước đây về người khuyết tật. Các nhà tâm lý học, xã hội học, giáo dục học... đã nhìn thấy những khiếm khuyết của nền giáo lý cũ và họ đã chỉ ra rằng cần phải làm một cái gì đó để cách tân cái nhìn về đối tượng này. Họ cũng thống nhất cho rằng, việc cách tân này phải được bắt đầu từ việc thay đổi một cách triệt để nhận thức về “người khuyết tật” của toàn xã hội. Chính vì vậy, cộng đồng xã hội đã đưa ra những đánh giá, khái niệm cụ thể và sâu sắc hơn về người khuyết tật. Trước tiên, các nhà xã hội, tâm lý, bác sĩ trên thế giới cùng chỉ ra rằng khuyết tật không phải là một trạng thái bất biến mà là biểu hiện sự tương tác giữa tình trạng sức khoẻ của một người với hoàn cảnh, môi trường mà
- người đó đang sống. Kết quả của sự tương tác này cho thấy mức độ chức năng hay khuyết tật của người đó. Thứ hai, khuyết tật không chỉ là một trạng thái sức khoẻ đơn thuần về mặt y học mà nghiêng về việc phản ánh mối quan hệ phức tạp giữa các yếu tố quyết định khả năng của một người, sự thực hiện vai trò, chức năng đó với môi trường cơ học và xã hội mà người đó sinh hoạt. Tiếp đó, khuyết tật có thể được định nghĩa và đo lường theo nhiều cách cho nhiều mục đích khác nhau; ví dụ khi cung cấp phúc lợi xã hội hay xây dựng kế hoạch cung cấp các dịch vụ giáo dục hoà nhập sẽ liên quan tới các đối tượng khác nhau. Tính đa dạng trong chức năng và tác động từ các rào cản môi trường (hay những điều kiện thuận lợi) là các yếu tố quyết định mức độ chức năng và khuyết tật của mỗi cá thể. Tuy nhiên, khuyết tật được đo lường và hiểu, lý giải trong quan niệm đầy đủ về chức năng và khuyết tật theo phân loại quốc tế về sức khoẻ, chức năng và khuyết tật (ICF), trong đó xem xét các yếu tố cá nhân và môi trường cũng như chức năng ở các mức độ khác nhau: cơ thể, cá nhân và xã hội. Phân loại quốc tế về khuyết tật Theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã được Quốc tế công nhận năm 1980, thì người khuyết tật được phân theo 3 thể dạng sau: Tổn thương: Các cơ quan hoặc các chức năng của con người ở đây có thể xuất hiện trong sinh học - cơ thể, có dạng chi, chúng ta dễ dàng nhận biết và chuẩn đoán được về nguyên nhân gây ra và hậu quả của tàn tật để lại. Nhưng có dạng tổn thương trong cảm xúc - tư duy làm ta khó khăn hơn trong nhận biết, phân loại.
- Hạn chế: Các khả năng của con người bị hạn chế, xét theo nguyên tắc là do tổn thương gây nên được so sánh giữa người cùng tuổi bị tổn thương và người không bị tổn thương. Sự bất lợi: Sự khuyết tật của con người là quá trình tổng thể về “nguyên nhân và hậu quả”, nó tác động trực tiếp lên từng cá nhân và những hậu quả xã hội. Theo tài liệu của tổ chức CaRitas - Cộng hoà Liên bang Đức, dưới góc độ khoa học và xã hội học: “Những người khuyết tật là những người trong một chừng mực nhất định bị ảnh hưởng do hậu quả của một tổn thương chức năng về cơ thể, trí tuệ hoặc tâm lý gây ra, làm cho các chức năng sinh hoạt của bản thân họ hoặc một phần đời sống xã hội của họ gặp phải khó khăn, rắc rối ”. Trong Pháp lệnh về người tàn tật (chữ dùng trong văn bản pháp luận hiện hành) của Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đưa ra những quy định về người khuyết tật, đó là: “Người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, học tập gặp nhiều khó khăn”. Theo Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, NXB VHTT, năm 1998, thì Khuyết có nghĩa là thiếu và không đầy đủ; Tật là trạng thái không bình thường ở bộ phận cơ thể do bẩm sinh hoặc hậu quả của tai nạn, bệnh trạng gây nên. Như vậy, người khuyết tật được quan niệm là những người bị khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần. Sự khiếm khuyết đó có thể ít hay nhiều và ở các mức độ nặng nhẹ khác nhau. Những rào cản đối với người khuyết tật
- Người khuyết tật do những tổn thương và hạn chế về thể chất hay tinh thần nên trong đời sống thường gặp nhiều khó khăn và trở ngại. Người khuyết tật vận động không thể tự đi lại; người bị cụt tay cầm nắm đồ vật; người bị bại não đi lại mất thăng bằng hay vấp ngã; người tâm thần cơ bản không thể tự điều chỉnh hành vi... Hầu hết người khuyết tật bị ảnh hưởng về tâm lý, họ thường tự ti, chán nản và mặc cảm và chưa hoà nhập được với cộng đồng xã hội. Bên cạnh đó, đối với những người khuyết tật nặng, các vấn đề về sức khoẻ luôn bị đe doạ khiến họ không có cảm giác hào hứng với cuộc sống. Họ không quan tâm tới các hoạt động xã hội dẫn đến sự tổn thương về mặt tinh thần. Vì vậy, mọi cố gắng của người khuyết tật để hoà nhập với cộng đồng đều gặp phải “rào cản”. Những rào cản đó bao gồm cả rào cản về mặt vật chất và tinh thần. Rào cản được hiểu một cách đầy đủ không chỉ là những trở ngại trong việc giao thông đi lại, sử dụng công cụ mà còn là những trở ngại trong tư tưởng, trong sự nhìn nhận, đánh giá và sự cảm thông chưa đầy đủ của cộng đồng đối với người khuyết tật. 1.3 Người khuyết tật trên thế giới Tổ chức Lao động thế giới (ILO) ước tính trên thế giới có khoảng 650 triệu người khuyết tật. Trong đó, ở Châu Âu có khoảng 39 triệu người khuyết tật thuộc các dạng tật khác nhau; ở Hoa Kỳ là 54 triệu người khuyết tật và khoảng 100 triệu người có mối quan hệ chặt chẽ với người khuyết tật; ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương là khoảng 370 triệu người. Bên cạnh đó, vấn đề khuyết tật có tác động lên khoảng 10 - 20% dân số của từng quốc gia và tỷ lệ này sẽ tăng do điều kiện chăm sóc sức khoẻ và nguồn dinh dưỡng kém, tỷ lệ dân số già đi ngày càng tăng và ở một số các nước khác là nội chiến.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 300 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 321 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm tín hiệu thẩm mĩ thiên nhiên trong ca từ Trịnh Công Sơn
26 p | 203 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn