intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Đánh giá đặc tính thành thành phần tinh dầu một số loài Bạch đàn (Eucalyptus) trồng ở Việt Nam và mối liên hệ của nó với một số vấn đề sinh thái môi trường điển hình

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:92

178
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài nhằm đánh giá vai trò của các chất chính có mặt trong tinh dầu một số loài Bạch đàn trồng ở Việt Nam đối với môi trường sinh thái; đồng thời trên cơ sở một số hoạt tính sinh học của các chất sẽ đề xuất hướng sử dụng các loài Bạch đàn theo hướng thân thiện với môi trường.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Đánh giá đặc tính thành thành phần tinh dầu một số loài Bạch đàn (Eucalyptus) trồng ở Việt Nam và mối liên hệ của nó với một số vấn đề sinh thái môi trường điển hình

  1. MỞ ĐẦU Bạch đàn (Eucalyptus) là loài cây bản địa của Australia được trồng  phổ biến trên thế giới với hơn 700 loài khác nhau. Tại Việt Nam, Bạch đàn  cũng là loài cây được trồng khá phổ  biến để  lấy nguyên liệu, tuy nhiên   thực tế  cho thấy các loài cây khác phát triển dưới tán rừng Bạch đàn rất  chậm, đặc biệt là các loài cỏ dại. Đồng thời những nghiên cứu cho thấy có  sự nghèo nàn về tính đa dạng sinh học dưới tán rừng Bạch đàn, đặc biệt là   một số loài côn trùng. Do đó đã có rất nhiều các quan điểm khác nhau của  các nhà khoa học trong và ngoài nước giải thích về vấn đề này và cho đến   nay các quan điểm đó vẫn chưa thật thống nhất. Trong khi đó Bạch đàn  được biết là loài cây có hàm lượng tinh dầu trong lá khá lớn. Vậy phải  chăng tinh dầu của nó có liên quan đến các vấn đề trên, nó có tác động như  thế nào đối với sinh vật trong hệ sinh thái?. Các tính chất của tinh dầu phụ  thuộc hoàn toàn vào thành phần các chất có mặt trong tinh dầu. Thành  phần, cũng như  hàm lượng của các chất trong tinh dầu rất khác nhau giữa  các loài Bạch đàn, tuổi của cây và các điều kiện tự nhiên. Do đó việc thực  hiện đề  tài: “Đánh giá đặc tính thành thành phần tinh dầu một số  loài   Bạch đàn (Eucalyptus) trồng ở Việt Nam và mối liên hệ của nó với một   số vấn đề sinh thái môi trường điển hình’’ là rất cần thiết, góp phần giải  quyết các vấn đề nêu trên. Mục  tiêu của đề tài nhằm đánh giá vai trò của các chất chính có mặt  trong tinh dầu một số loài Bạch đàn trồng ở Việt Nam đối với môi  trường  sinh thái; đồng thời trên cơ sở một số hoạt tính sinh học của các chất sẽ đề  xuất hướng sử  dụng các loài Bạch  đàn theo hướng  thân thiện với môi  trường.  1
  2. Để  thực hiện được các mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết  các nội dung chính sau: ­ Khảo sát các phương pháp tách chiết tinh dầu từ lá Bạch đàn; ­ Xác định và đánh giá các hoạt tính sinh học của các chất chính có   trong tinh dầu các loài Bạch đàn nghiên cứu; ­ Bước đầu đánh giá một số  ảnh hưởng của tinh dầu Bạch đàn đến   môi trường sinh thái. 2
  3. Chương 1 TỔNG QUAN  1.1. Một vài nét về cây Bạch đàn  Bạch đàn còn gọi là cây Khuynh diệp, tên khoa học là  Eucalyptus  thuộc họ Sim (Myrtaceae). Tên Bạch đàn là tên có từ  lâu ở vùng Nghệ  An,  Hà Tĩnh, tên Khuynh diệp là do mùi tinh dầu có mùi tinh dầu Tràm. Hiện  nay tên Bạch đàn được dùng phổ biến hơn [2]. Bạch đàn là một chi có số  lượng loài khá lớn, theo Lã Đình Mỡi và  cộng sự, Bạch đàn  ước có khoảng trên 500 loài, theo Dairy R.Batish và  cộng sự  Bạch đàn có khoảng 700 loài khác nhau, còn theo Lê Văn Truyền  và cộng sự Bạch đàn có tới 800 loài khác nhau. Hầu hết số loài trong chi là   đặc hữu của Australia. Chỉ  có hai loài phân bố    tự  nhiên trong khu vực  Malesian   (New   Guinea,   Moluccas,   Sulawesi,   quần   đảo   Lesser   Sunda   và  Philippin). Một vài loài có biên độ  sinh thái rộng, phân bố   trong khu vực  kéo dài từ miền Bắc Australia đến miền Đông Malesian. Những nghiên cứu   gần đây đã phát hiện được khoảng trên 10 loài có phân bố   ở  miền Nam  New Guinea. Người ta cho rằng, việc điều tra, nghiên cứu, khai thác các  thảm thực vật rừng gió mùa và các savan tại khu vực rộng lớn phía Đông   Nam của vùng Đông Nam Á chắc chắn sẽ  còn phát hiện thêm nhiều loài  mới nữa thuộc chi Bạch đàn. Tính đã dạng của chi Bạch đàn tại vùng ven   biển của New Sounth Wales và miền Tây Nam Australia đã  và đang được   đánh giá cao [3]. 3
  4. Hiện nay rất nhiều loài đã được đưa trồng ngoài vùng phân bố  tự  nhiên của chúng. Nhiều dải rừng Bạch đàn đã được hình thành  ở nước ta;  các nước lục địa châu Á; các nước nhiệt đới, cận nhiệt đới châu Phi, khu   vực Địa Trung Hải và miền Nam châu Âu đến các khu vực Nam và Trung  châu Mỹ [2]. Ở  Việt Nam, lần đầu tiên Bạch đàn được Brochet tìm thấy  ở  Cốc   Lếu tỉnh Lào Cai vào năm 1904 (Hoàng Hòe, 1996). Ngày nay có khoảng  trên 20 loài Bạch đàn đã được trồng  ở  Việt Nam trong đó Bạch đàn trắng   (Eucalyptus camaldulensis  Dehn) được coi như  loài có giá trị  kinh tế  cao,  được trồng rộng rãi  ở  cả  các vùng đất thấp và cao, trừ  những đỉnh núi có   độ cao trên 1000 mét so với mực nước biển [10]. Theo Lã Đình Mỡi  một số  loài Bạch đàn đã được nhập và trồng  tương đối rộng rãi ở Việt Nam  như:  ­ Bạch đàn trắng (Eucalyptus camaldulensis Dehnl., 1832. Tên đồng  nghĩa: E. rostrata Sch., 1847). Một vài địa phương khác còn gọi là  Bạch đàn camal, Bạch đàn Úc, Khuynh diệp đỏ; ­ Bạch đàn chanh (Eucalyptus citriodora  Hook., 1848). Còn có các  tên đồng nghĩa khác: E. melissiodara Lindley, 1848; E. variegata E.  v. Mueller, 1859; E. maculata Hook. var. citriodora (Hook.) Bailey,  1990; Corymbia citriodora (Hook.). Có nơi  ở  nước ta còn gọi  là  Bạch đàn đỏ; ­ Bạch đàn uro (Eucalyptus urophylla S.T. Blake, 1977. Còn có tên  đồng   nghĩa:  E.   alba  auct.   non   Reinw.ex   Blume,  E.   decaisneana   auct. Non Blume); ­ Bạch đàn long duyên  (Eucalyptus exserta  F. v. Muell.,1859). Có  nơi ỏ nước ta còn gọi là Bạch đàn liễu; 4
  5. ­ Bạch đàn lá nhỏ  (Eucalyptus tereticornis  J . E. Smith, 1795. Tên  đồng nghĩa: E. subulata Cunn. ex Schauer, 1843); ­ Bạch đàn vỏ  dày (Eucalyptus robusta  Smith, 1849. Các tên đồng  nghĩa:  E.   multiflora  Rich.   ex   A.   Gray   non   Poir.   (1854);  E.  naudiniana F .v. Mueller, 1886; E. schlechteri Diels, 1992). Hiện nay với sự phát triển của công nghệ  sinh học nên có rất nhiều  các dòng Bạch đàn nuôi cấy mô đã và đang được đưa vào trồng tại các lâm   trường  của các tỉnh  ở  nước ta với mục  đích chính vẫn là dùng để  lấy  nguyên liệu cho sản xuất giấy, gỗ cho xây dựng. Các giá trị khác vẫn chưa   được nghiên cứu và quan tâm đúng mức. Gỗ  Bạch đàn thuộc loại có tỉ   trọng nhẹ  hoặc nặng vừa phải, trong   gỗ không có silica, không mùi vị, dễ gia công chế biến. Gỗ Bạch đàn được   sử dụng khá rộng rãi trong xây dựng với cấu trúc nhẹ hoặc nặng trung bình  (khung cửa, trang trí nội thất, làm sàn nhà). Những năm qua gỗ  Bạch đàn  được coi là nguồn nguyên liệu quan trọng trong công nghiệp giấy sợi [3]. Một đặc điểm quan trọng của loài Bạch đàn là nó thuộc loài cây  chứa tinh dầu. Tinh dầu được chứa trong lá của rất nhiều loài thuộc chi  Bạch đàn. 1,8­cineol thường là thành phần chính trong tinh dầu của nhiều  loài Bạch đàn. Đây là một nguyên liệu có giá trị  trong công nghiệp dược  phẩm, mỹ phẩm. Tinh dầu của một số loài đã được dùng làm cao xoa, làm   thuốc sát trùng. Nhiều loại tinh dầu lại được dùng làm nguyên liệu để sản   xuất thuốc trừ sâu bệnh thảo mộc [3]. Các loài cung cấp tinh dầu chủ yếu  trong chi Bạch đàn là: Eucalyptus globulus Labil., Eucalyptus polybractea R.  T. Backer, Eucalyptus citriodora Hook... Trung Quốc là nước sản xuất tinh  dầu Bạch đàn lớn nhất, tiếp đến là Bồ Đào Nha, Nam Phi và Tây Ban Nha. 5
  6. Về  sinh thái, sinh trưởng  và phát triển của Bạch đàn: Hầu hết các   loài thuộc chi Bạch đàn đều thích  nghi với điều kiện khí hậu gió mùa. Rất   nhiều loài lại có thể  sinh trưởng  ở  các khu vực có một mùa khô khắc  nghiệt trong năm. Bạch đàn vỏ dày  (E. deglupta) là loài duy nhất trong chi  thích nghi với những vùng đất thấp và sinh trưởng tự nhiên trong các kiểu  rừng mưa trên núi thấp. E. deglupta cũng sinh trưởng tốt  ở những khu vực  có tổng lượng mưa hàng năm lớn (2500 – 5000 mm). Do đó loài này đã   được đưa trồng rộng rãi ở khắp các khu vực có điều kiện nhiệt đới ẩm. Thời kỳ 1960 – 1975, một số loài Bạch đàn như Bạch đàn long duyên  (E. exserta), Bạch đàn lá nhỏ  (E. tereticornis), Bạchddàn đỏ  (E. robusta),  Bạch đàn chanh (E. citriodora) và Bạch đàn trắng (E. camaldulensis) đã  được nhập trồng tại nhiều khu vực miền núi và trung du phía Bắc nước ta.   Riêng rừng Bạch đàn long duyên (E. exserta) có thời kỳ đã lên tới hàng vạn  hecta nhưng năng suất còn thấp, thậm chí có nơi không tạo thành rừng.   Nhiều nhận định trái chiều về  Bạch đàn đã xuất hiện như năng suất rừng  trồng thấp nhưng vẫn cao hơn từ 1,5 đến 3 lần so với Thông nhựa ở  thời  kỳ  khai thác ngắn, 10 ­12 năm. Rừng Bạch đàn thường làm khô đất, cạn   nguồn   nước   và   diệt   lớp   cây   bụi,  cây   cỏ   dưới   tán,...).  Một   số   kết  quả  nghiên cứu của Hoàng Xuân Tý và cộng sự (1997) đã cho biết Bạch đàn lá  nhỏ  (E. tereticornis) và Bạch đàn long duyên (E. exserta) đều có thể  sinh  trưởng bình thường trên các đất feralit vùng đồi có nguồn gốc đá mẹ  rất  khác nhau (như: phiến thạch sét, sa thạch, gownai, phiến thạch mica, phù sa  cổ, acgilit, phylit, rhiolit) nếu tầng đất còn dày và cung cấp đủ nước. Bạch đàn là một chi lớn thuộc nhóm các chi có dạng quả nang trong  họ  Sim (Myrtaceae). Một số  tác giả  đã đưa ra nhận xét và những đề  nghị  chia tách chi Bạch đàn thành những phân chi hoặc nhiều nhóm loài khác  6
  7. nhau (có thể tới 7­10 nhóm loài tùy thuộc vào từng quan điểm của từng tác  giả). Người ta  cũng cho rằng chi Bạch đàn có quan hệ họ hàng rất gần gũi   với các chi  Angophora, Arillastrum  và  Eucalyptopsis  trong họ  Myrtaceae.  Kết quả nghiên cứu về hệ thống phát sinh ở chi Bạch đàn đã cho thấy, chi  Bạch đàn (Eucalyptus) cực kỳ  đa dạng và đây cũng là chi có nhiều nguồn  gốc (polyphyletic). Nói cách khác, các loài trong chi Bạch đàn (Eucalyptus)  có thể  có những lịch sử  tiến hóa khác nhau. Cũng chính vì vậy mà một số  tác giả đã đề nghị tách chi Bạch đàn thành một số  chi khác nhau. Hill K.D.   và Johnson L.A.S (1995) đã chuyển Bạch đàn chanh (E. citriodora  Hook.)  vào một chi mới là Corymbia citriodora (Hook) [3]. Bạch đàn có thể  nhân giống dễ  dàng từ  hạt và đôi khi bằng cành  giâm. Hạt nảy mầm trong vòng 4 ­ 20 ngày sau khi gieo. Hạt Bạch đàn   thường rất nhỏ  và nhiều loại đã trở  thành thương phẩm  ở  Australia. Tại   Thái Lan mỗi năm cũng sản xuất một lượng lớn cho việc gây trồng rừng.   Theo Lã Đình Mỡi Bạch đàn sinh trưởng rất nhanh và chế  độ  chăm sóc,  quản lý có quan hệ  tới mục đích sử  dụng. Nếu trồng để  lấy nguyên liệu  cho công nghiệp giấy sợi thì có thể thu hoạch ở giai đoạn 6 ­ 10 năm tuổi.  Trường hợp để làm gỗ xẻ thì cần trồng thưa và thu hoạch muộn hơn. Hiện   nay việc hái lá để  cất tinh dầu thường là tận dụng. Trường hợp hái lá là  chủ  yếu thì cần tạo tán sao cho cây thấp, sinh cành nhiều để  cho khối   lượng lá lớn [3]. Như  vậy nguồn gen của các loài trong chi Bạch đàn là rất   phong   phú, đa dạng trong đó nhiều loài có hàm lượng tinh dầu cao, rất có giá trị.  Hiện nay đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới đã bắt đầu   đi sâu vào các ứng dụng của tinh dầu Bạch đàn để sản xuất hóa mỹ phẩm   đặc biệt là chế  biến thuốc trừ  sâu có nguồn  gốc thực vật. Như  vậy tinh  7
  8. dầu Bạch đàn có rất nhiều các tính chất khác nhau, trong đó có các độc tính  chống lại các loài vi sinh vật, côn trùng. Xét  ở  một khía cạnh khác thì đây  lại là nguyên nhân có thể dẫn tới suy giảm đa dạng sinh học, tác động kìm   hãm sự  phát triển của các loài cây dưới tán và có tác động xấu đến môi  trường đất. Việc nghiên cứu một cách thấu đáo về  tinh dầu của loài cây  này là cơ  sở  khoa học rất quan trọng để  giải thích các vấn đề  đã đặt ra ở  trên. 1.2. Tình hình nghiên cứu về tinh dầu Bạch đàn trên thế giới Tinh dầu của Bạch đàn đã được biết đến và sử  dụng từ  hàng trăm  năm nay. Hiện nay trên thế  giới cũng đã có một số  nghiên cứu về  thành  phần và hoạt tính của tinh dầu Bạch đàn cũng như  tác động của nó đến  môi sinh. Trong các nghiên cứu đó phải kể  đến công trình nghiên cứu của  Daizy R. Batish và cộng sự  (2008). Trong nghiên cứu này tác giả  đã chỉ  ra  rằng tinh dầu Bạch đàn có tính chất như một loại thuốc trừ sâu tự nhiên do  nó có khả năng tiêu diệt được nhiều loài sâu bệnh hại cây trồng, nhiều loài  vi khuẩn và nấm, muỗi [6]. Tuy nhiên tác giả chưa chỉ ra được đâu là hoạt   chất có trong tinh dầu Bạch đàn có khả  năng đó. Tác giả  cũng đã liệt kê  một số  hợp chất chính trong tinh dầu của một số  loài Bạch đàn nhưng   chưa chỉ  rõ hàm lượng phần trăm có trong tinh dầu, đồng thời trong công  trình này tác giả  chưa mô tả  rõ phương pháp tách chiết, chưng cất để  đạt  được hiệu suất cao nhất. Một số tác giả khác như Duke (2004), Brooker và Kleinig (2006), Liu,  (2008),... đã tập trung nghiên cứu thành phần hóa học trong tinh dầu một số  loài Bạch đàn cùng với một số tính chất của nó. Các tác giả đã chỉ ra được  một số  hợp chất hóa học chính trong tinh dầu một số  loài Bạch đàn tuy  nhiên chưa thấy các tác giả mô tả phương pháp tách chiết và phân tích tinh   8
  9. dầu. Trong khi đó đây là một trong những yếu tố   ảnh hưởng đến kết quả  nghiên cứu. Đặc biệt các tác giả  đều thừa nhận rằng thành phần và hàm  lượng tinh dầu phụ  thuộc rất lớn vào tuổi của lá cây, khí hậu, loại đất  trồng,  chế độ trồng và chăm sóc, nguồn gốc giống, ...  1.2.1. Các hợp chất tự nhiên của tinh dầu Bạch đàn Theo nghiên cứu của Brooker và Kleinig (2006), tinh dầu Bạch đàn là  một   hỗn   hợp   phức   tạp   của   nhiều   monoterpenes   và   sesquiterpenes   khác  nhau, cùng với các phenol và oxit, este, rượu, ete, andehyt và keton. Thành  phần này phụ thuộc vào từng loài, khu vực trồng, khí hậu, loại đất và tuổi   của lá, chế  độ  phân bón, đồng thời còn phụ  thuộc vào phương pháp tách  chiết tinh dầu. Hoạt tính trừ  sâu hại của tinh dầu Bạch đàn do các thành   phần như  1,8­cineole, citronellal, citronellol, citronellyl acetate, p­cymene,   eucamalol,   limonene,   linalool,   ­pinene,   ­terpinene,   ­terpineol,  alloocimene và aromadendrene (Watanable, 1993; Li, 1995, 1996; Cimanga,  2002; Deke, 2004; Batish., 2006; Liu., 2008) [6]. Các hợp chất chính trong  tinh dầu Bạch đàn với hoạt tính trừ  sâu tách chiết từ  rất nhiều các loại   Bạch đàn khác nhau cho ở Bảng 1 [6]. Bảng 1. Thành phần chính của tinh dầu tách chiết từ một số  loài Bạch đàn STT Loài bạch đàn Thành phần chính Tác giả 1 E. camaldulensis Eucamalol Watanabe và cộng sự, 1993 2 E. citriodora Citronella Ramezani và cộng sự, 2002 3 E. globulus 1,8­Cineole Yang etal, 2004 4 E. grandis α­Pinene, 1,8­cineole Lucia etal, 2007 5 E. robusta α­Pinene Sartorelli và cộng sự, 2007 6 E. urophylla γ­Terpin,  Su và cộng sự, 2006 7 E. urophylla Alloocimene,α­pinene Liu etal, 2008 9
  10. Các nghiên cứu  tại Trung Quốc đã chỉ  ra rằng hàm lượng tinh dầu  trong lá tươi của Bạch đàn chanh thay đổi từ 0,5 ­ 2,0 %. Tinh dầu thường   có màu vàng nhạt, tỉ  trọng  ở  150C từ  0,915 ­ 0,925; chỉ  số  chiết quang  ở  200C từ ­10 đến ­50C. Tinh dầu có thành phần chủ yếu là citronellal (65 – 80   %), citronellol (15 – 20 %) và một lượng nhỏ geraniol [3]. Nghiên cứu thành phần hóa học trong tinh dầu Bạch đàn chanh trồng  ở   Australia,   Boland   và   cộng   sự   (1991)   đã   cung   cấp   các   dẫn   liệu   sau:  citronellal (80,1 %), isoisopulegol (3,4 %), linalool (0,7 %), ß­caryophyllen  (0,4 %), ß­pinene  (0,4 %),  α­pinene  (0,1 %) và  α­para­dimethylstyren (0,1  %). Các hợp chất còn lại như  α­terpineol, geraniol, 1,8­cineole, globulol và  viridiflorol chỉ ở dạng vết [11]. Các thành phần khác nhau của tinh dầu Bạch đàn có tác dụng bổ trợ  cho các hoạt tính sinh học trừ sâu bệnh (Cimanga et al., 2002). Trong tổng   số các thành phần khác nhau của tinh dầu Bạch đàn thì 1,8­cienole là thành  phần quan trọng nhất  và là một hợp chất  đặc trưng cho chi Bạch  đàn   (Duke, 2004). 1.2.2. Hoạt tính kháng nấm và vi khuẩn của tinh dầu Bạch đàn Theo Fiori và cộng sự, (2000), Oluma và Garba (2004), tinh dầu Bạch   đàn với các thành phần chính của nó có độc tính kháng rất nhiều các loài vi  khuẩn, nấm và cả  mầm bệnh  ủ  trong đất. Chúng làm giảm sự  phát triển   của nấm sợi [6]. Một vài nghiên cứu hiệu quả  chống nấm của tinh dầu   Bạch đàn được mô tả ở trong Bảng 2. Năm 2002, Ramezani và cộng sự đã chỉ ra dầu bay hơi của Bạch đàn  chanh với thành phần chính monoterpene citronelle có một phổ  hoạt tính  rộng  chống nấm,  ức chế  sự  phát triển và có tác dụng làm khô mạch rây  của 6 loại nấm. Gần đây Lee và cộng sự (2007) đã kết luận rằng dầu thơm  10
  11. của Bạch đàn chanh có khả năng kiểm soát được bệnh mốc xám ở táo đến   70%. Các  nghiên cứu đã kết luận rằng tinh dầu Bạch đàn có thể  được sử  dụng để hạn chế khả năng hô hấp của vi khuẩn [6]. Su và cộng sự  (2006) đã chứng minh hoạt tính chống nấm của tinh  dầu một số loài Bạch đàn như  E. grandis, E. camaldulensis và E. citriodora  kháng lại nấm  Mildew  và nấm gây thối  ở  gỗ  như   Aspergillus clavatus,   A.niger, Chaetomium alobosum, Penicillium citrinum, Trichoderma viride,...   Theo nghiên cứu này các tác giả cho rằng tinh dầu Bạch đàn chanh có thể là  sự lựa chọn tuyệt vời như một chất bảo quản gỗ, đồ da và vật dụng bằng  gỗ  [6].  Tzortzakis (2007) đã chứng minh rằng tinh dầu Bạch đàn xanh là   một sự  lựa chọn tốt cho bảo quản dâu tây và cà chua trong suốt quá trình  vận chuyển, không làm thay đổi độ  ngọt, các axit hữu cơ  và hàm lượng   tổng số các phenolic [6]. Khả năng kháng nấm và vi khuẩn của một số loài  Bạch đàn được mô tả trong Bảng 2 [6]. Bảng 2. Hoạt tính kháng kháng nấm và vi khuẩn của tinh dầu một số loài Bạch đàn  Tinh dầu loài Vi khuẩn, nấm Tác giả Penicilium digitatum gây thối cam quýt Dhaliwal  (2004) Nấm   ngoài   da­Microsporum   canis,   Microsporum   Dhaliwal  gypseum,  Trichophyton   rubrum,   Trichophyton   (2004) E. camaldulensis schoenleinii,Trichophyton   mentagrophytes  và  Epidermophyton floccosum Ngăn   ngừa   nấm   giống  Borne:   Colletotrichum   Somda et al  11
  12. graminicola,   Phoma   sorghina,   Fusarium   (2007) moniliforme Microsporum nanum, Trichophyton mentagrophytes   Shahi   et   al  và T.rubrum (1999) Sự  phát triển và nảy mần của bào tử  Didymella  Fiori   et   al,  bryoniae (2000) Làm   khô   mầm   bệnh   hại   lúa  Helminthosporium  Ramezani,  E. citriodora oryae và Rhizoctonia solani DC (2002) Aspergillus  sp,  Penicilium  sp.,  Fusarium  sp   và  Alfazairy  Mucor sp. (2004) Phytophthora   cactorum,   Cryphonectria   parasitica   Lee   et   al,  và Fusarium cicrinatum (2008) E. globulus Escherichia coli O157:H1 Moreira,  (2002) E. urophylla Bệnh   nấm  Fusarium   oxysporum,   Pyricularia   Liu   al,  grisea,   Gloeoporium   musarum  và  Phytophthora   2008 capsici Eucalyptus sp. Vi khuẩn gram âm, gram dương và nấm Pattnaik  (1996)               1.2.3. Hoạt tính xua đuổi, diệt trừ côn trùng của tinh dầu bạch đàn Tinh dầu Bạch đàn có hoạt tính như  một loại thuốc trừ côn trùng tự  nhiên để  chống lại muỗi và các loài chân đốt gây hại hoặc một vài loài   động vật ăn cỏ. Yang và cộng sự (2004) đã công bố rằng tinh dầu của loài  Bạch đàn xanh (E. globulus) với hợp chất chính là 1,8­cineole có biểu hiện  tính độc chống lại chấy hại da đầu  Pediculus humanus capitis. Hoạt tính  trừ   chấy     rận   của   tinh   dầu   Bạch   đàn   tốt   hơn   cả   deltaphenothrin   hoặc   pyrethrum. Giá trị LT50 của tinh dầu Bạch đàn là 0,125 mg/cm2, trong khi đó  của delta­phenothrin là 0,25 mg/cm2 [6]. Năm 2006, Ceferino cũng đã chứng   minh trong tinh dầu  ở một số loài Bạch đàn có hoạt tính chống lại một số  12
  13. loài  chấy rận hại da đầu. Theo nghiên cứu đó Ceferino đã kết luận rằng  tinh dầu bạch đàn có thể  được sử  dụng để  phát triển các sản phẩm mới   cho chữa trị  các loài chấy rận hại da đầu [6]. Hoạt tính trừ  côn trùng của  tinh dầu một số loài Bạch đàn được mô tả trong Bảng 3 [6]. Bảng 3. Hoạt tính trừ côn trùng của tinh dầu một số loài Bạch đàn Loài Bạch đàn Sinh vật thử nghiệm Nguồn  Xua đuổi muỗi vằn trưởng thành Erler et al (2006) Giết   chết   loài  Callosobruchus,   Negahban   và  E. camaldulensis Sitophilus   oryzae  và  Tribolium  Moharramipour  castaneum trưởng thành từ 1­7 ngày. (2007) E. citriodora Độc   tính   chống   lại  Sitophilus  Tinkeu et al. (2004) zeamais Giết chết nhộng  Musca domestica. Abdel   Halim   và  Morsy (2005) E. globulus Chống lại chấy rận hại da đầu. Yang et al (2004) Độc với ấu trùng Aedes aegypti. Lucia et al  (2007) Eucalypstus sp. Trừ   ấu   trùng  Aedes   albopictus,   A.  Zhu et al  (2006) aegypi và Culex pipiens pallens. Vào cuối những năm 1990, một số công trình nghiên cứu công bố cho  thấy các sản phẩm tinh dầu Bạch đàn chủ  yếu sử  dụng để  xua đuôi các ̉   loài côn trùng. Sau đó vào năm 2002 Fraduin và Day cho rằng 30 % tinh dầu   Bạch đàn có thể  dùng trong xua đuổi muỗi trong 2 giờ, tuy nhiên tinh dầu  phải có ít nhất 70 % hàm lượng cineole. Lucia và cộng sự, (2007) đã chứng   minh rằng tinh dầu Bạch đàn xanh (E. globulus) thì độc với ấu trùng Aedes  aegypi và có giá trị  LC50 là 32,4 ppm. Năm 2005, Trung tâm Kiểm soát và  ngăn chặn bệnh  ở  Mỹ  đã đề  nghị  sử  dụng tinh dầu Bạch đàn chanh trong  đó có p­methane­3,8 diol có hoạt tính chống lại virus West Nile gây bệnh   Neuological do muỗi. 13
  14.  1.2.4. Hoạt tính trừ cỏ của tinh dầu Bạch đàn Theo Kohli và cộng sự  (1998), Singh và cộng sự  (2005), Batish và  cộng sự (2007), Setia và cộng sự (2007) cho rằng tinh dầu của một số loài  Bạch đàn có biểu hiện kháng lại các loài cỏ  dại và có một tiềm năng tốt   cho   kiểm   soát   cỏ   dại.   Cũng   theo   Kohli   (1998),   tinh   dầu   của   loài  E.  tereticornis và E. citriodora khi  ở  dạng hơi có khả  năng làm giảm sự  nảy  mầm của cỏ hại Parthenium hysterophorus. Hơi tinh dầu Bạch đàn có khả  năng làm giảm sự phát triển chlorophyll và hàm lượng nước, sự hô hấp của   tế bào trong các loài thực vật trưởng thành. Hoạt tính ức chế đó phụ thuộc   vào thời gian tiếp xúc và hiện tượng suy giảm sự  phát triển của cỏ  dại  quan sát được trong thời kỳ tiếp xúc với tinh dầu. Sau 14 ngày tiếp xúc với   hơi tinh dầu, thực vật đã có những biểu hiện của sự tổn thương được quan  sát như sự úa vàng và chết hoặc sự gây tổn hại đến mô. Tinh dầu của loài   E. citriodora  có tính độc hơn loài  E. tereticornis  và thuộc tính này do sự  khác nhau về cấu tạo hóa học của các hợp chất trong tinh dầu. Nghiên cứu  của Kohli và cộng sự đã kết luận rằng tinh dầu Bạch đàn đang hứa hẹn tốt  cho công tác quản lý cỏ  dại. Tuy nhiên các tác giả  lại chưa định lượng   được những độc tính của nó đối với các loài thực vật liên đới và các vi sinh  vật. Theo Batish và cộng sự  (2004) cho rằng việc xác định tác động của  tinh dầu Bạch đàn  tách chiết từ  Bạch đàn chanh đối với một số  loài cây  trồng như  Triticum aestivum, Zea mays, Raphanus sativus và các loài cỏ dại  như Cassia occidentalis, Amaranthus viridis và Echinochloa crus­galli. Cũng  theo nhóm tác giả đã chứng minh tinh dầu đã bộc lộ  những độc tính rất rõ  ràng đối với một số  loài và  ảnh hưởng của tính độc đó rõ hơn đối với sự  nảy mầm của các loài cây nhỏ như A. viridis [6]. 1.3. Tình hình nghiên cứu về tinh dầu Bạch đàn ở Việt Nam 14
  15. Hiện nay ở nước ta cây Bạch đàn vẫn là loài cây được trồng chủ yếu   để phủ xanh đất trống đồi núi trọc và để cung cấp nguồn nguyên liệu cho  công nghiệp giấy và xây dựng, cho nên việc nghiên cứu về  loài cây này  phần lớn tập trung vào quá trình trồng và chăm sóc. Tuy nhiên bên cạnh giá  trị về  cung cấp gỗ thì tinh dầu trong lá của chúng còn có một số  tính chất  rất quý, đặc biệt là loài Bạch đàn chanh là loài có tinh dầu đáng quan tâm   nhất trong chi Bạch đàn ở nước ta. Tinh dầu của nó cũng đã được một số  tác giả quan tâm và nghiên cứu. Theo Lã Đình Mỡi, Bạch đàn không chỉ  là   loài cây cung cấp gỗ cho công nghiệp giấy sợi mà còn là nguồn nguyên liệu  lấy tinh dầu cho công nghiệp dược phẩm, hoá mỹ  phẩm và công nghiệp   chế  biến thuốc trừ  sâu có nguồn gốc từ  thực vật. Do đó Bạch đàn đã và  đang là những  đối  tượng   được  quan tâm nghiên cứu để  trồng rừng tại  nhiều khu vực khác nhau trên thế  giới [4]. Đỗ  Tất Lợi đã mô tả  lá Bạch   đàn được dùng để  chữa ho, giúp tiêu hóa, ngoài ra còn dùng để  chữa cảm   sốt [2]. Trong các công trình nghiên cứu về tinh dầu của loài cây này phải kể  đến công trình nghiên cứu của Nguyễy Xuân Dũng và cộng sự (1995). Tác  giả  đã xác định được khoảng 30 hợp chất trong tổng số  khoảng 40 hợp   chất có trong tinh dầu Bạch đàn chanh (Eucalyptus citriodora), hàm lượng  tinh dầu trong lá tươi từ 1,8 ­ 2,0 %, tỉ trọng 0,87235, tỉ số chiết quang n D20  là 1,45852. Hàm lượng các chất trong tinh dầu như  sau: citronellal (72,53   %),   isopulegol   (12,5   %),   citronellol   (5,61   %),   neo­   isopulegon   (1,63   %),  caryophyllen (1,16 %), 1,8­cineole (0,63 %) [3]. Tuy nhiên tác giả cũng chưa  mô tả rõ phương pháp tách chiết và đặc biệt là độ tuổi của cây được chọn  lấy mẫu lá nghiên cứu cũng như  loại lá nghiên cứu (lá non, lá già hay lá  bánh tẻ). Trong khi đó các nghiên cứu về thành phần hoá học trong tinh dầu  15
  16. của loài Bạch đàn này  ở  Australia có tỉ  lệ  các hợp chất so với nghiên cứu  của Nguyễn Xuân Dũng có sự khác nhau đáng kể. Đặc biệt trong tất cả các  nghiên cứu này các tác giả  cũng chưa đánh giá đặc tính của các chất vừa   xác định được. Theo   Nguyễn   Thị   Thái   Hằng  (1995)   thì   tinh  dầu   Bạch   đàn  trắng  (Eucalyptus camaldulensis) chứa tới 64,79 % hoạt chất 1.8­cineole trong khi   đó hợp chất này theo nghiên cứu của Nguyễn Xuân Dũng chỉ   ở  dạng vết   trong   tinh   dầu   lá   Bạch   đàn   chanh.   Đối   với   Bạch   đàn   liễu   (Eucalyptus   exserta), tác giả  Nguyễn Thị  Thái Hằng cho rằng hợp chất này chiếm tới   40 % – 82 % tinh dầu trong khi đó theo E. Guenther IV, 1950 thì chỉ  có 29   %. Nguyễn Thị Thái Hằng cũng dẫn ra các hợp chất hóa học trong tinh dầu  Bạch đàn trắng và Bạch đàn liễu, tuy nhiên cũng như các tác giả khác trên   thế  giới,  ở  đây tác giả  cũng chưa đề  cập đến đặc điểm của mẫu lá được  nghiên cứu như về loại lá, tuổi của cây, vị trí địa lý trồng cây và đặc biệt là  phương pháp chưng cất, tách chiết tinh dầu cũng như  phương pháp phân  tích. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị  Thái Hằng thì Bạch đàn liễu lá có  0,4 % ­ 2,0 % tinh dầu, trong đó hợp chất chính là 1,8­ cineole chiếm từ 40   % ­ 82 %. Theo Lã Đình Mỡi, chất Citronella được coi là thành phần chủ  yếu  trong tinh dầu Bạch đàn chanh. Song Bạch đàn chanh không chỉ đa dạng về  hình thái mà còn đa dạng về  hoạt động sinh tổng hợp và tích lũy tinh dầu.   Hàm lượng citronellal biến động rất rộng (từ  1 % đến 91 %). Căn cứ  vào  thành phần hóa học chính trong tinh dầu người ta cho rằng  ở Australia loài  Bạch đàn chanh có thể gồm bốn dạng hóa học: ­ Dạng Bạch đàn chanh trong tinh dầu chứa chủ  yếu là citronellal  (65 ­ 91 %): loại citronellal; 16
  17. ­ Dạng Bạch đàn chanh có các thành phần chính trong tinh dầu gồm  citronellol (khoảng 50 %) và citronellal (1 – 14 %): loại citronellol   và citronellal; ­ Dạng Bạch đàn chanh mà thành phần chính trong tinh dầu chỉ  gồm  citronellal (20 – 50 %) và guaiol: loại citronellal và guaiol; ­ Dạng Bạch đàn chanh với các hydrocacbon là thành phần chủ yếu  của tinh dầu: loại hydrocacbon.  Đối với loài Bạch đàn trắng, theo Lã Đình Mỡi hàm lượng tinh dầu  trong lá tương đối thấp, chỉ từ 0,14 – 0,28 % và các thành phần chính trong  tinh dầu là ß­cymen, phellandren, cuminal, phellandral, geraniol và cineol.  Như vậy các nghiên cứu về tinh dầu Bạch đàn ở nước ta cho thấy nó   có một số  tính chất quý, có thể  dùng làm thuốc. Thành phầnh hóa học rất   đa dạng và phức tạp, đặc biệt có sự  khác nhau giữa các loài, tuổi của cây  và vị trí địa lý trồng cây. Tuy nhiên trong các nghiên cứu trên chưa thấy các  tác giả mô tả phương pháp chưng cất và tách chiết trong khi đó yếu tố này  ảnh hưởng rất lớn đến thành phần và hàm lượng các chất hóa học trong   tinh dầu của lá. Trong các loài Bạch đàn mà các tác giả  lựa chọn nghiên  cứu cũng chưa chỉ rõ được lấy từ các địa phương nào của nước ta.  Một trong những vấn đề  mà trong hầu tất cả những nghiên cứu của   các tác giả đã dẫn ra ở trên chưa đề cập đến đó là việc nghiên cứu và đánh   giá hoạt tính sinh học của các chất chính trong tinh dầu. Khi đã dự  đoán  được hoạt tính sinh học của các chất chính có mặt trong tinh dầu thì nó sẽ  tạo ra một cơ  sở  khoa học hết sức quan trọng để  lựa chọn ra những tính   chất cần thiết tạo thành các sản phẩm thương mại sau khi đã nghiên cứu  thử nghiệm trên các loài động thực vật. Đồng thời nó sẽ  đóng góp vào  cơ  17
  18. sở  khoa học để  giải thích các tác động đến môi trường sinh thái của rừng   trồng Bạch đàn ở nước ta và trên thế giới. 1.4.  Các phương pháp nghiên cứu chưng cất và phân tích tinh dầu  1.4.1. Các phương pháp chưng cất tinh dầu  1.4.1.1.  Phương pháp tẩm trích  Phương pháp tẩm trích bằng dung môi dễ bay hơi có nhiều ưu điểm   vì tiến hành  ở  nhiệt độ  phòng, nên thành phần hóa học của tinh dầu ít bị  thay đổi. Phương pháp này không những được áp dụng để trích ly cô kết từ  hoa mà còn dùng để  tận trích khi các phương pháp khác không trích ly hết  hoặc dùng để trích ly các loại nhựa dầu (oleoresin), gia vị. ­ Nguyên tắc của phương pháp Dựa trên hiện tượng thẩm thấu, khuếch tán và hòa tan của tinh dầu  có trong các mô cây bằng các dung môi hữu cơ. ­ Yêu cầu của dung môi Yếu tố  quan trọng nhất cho sự  thành công của phương pháp này là  đặc tính của dung môi sử  dụng, do đó dung môi dùng trong tẩm trích cần  phải đạt được những yêu cầu sau đây: + Hòa tan hoàn toàn và nhanh chóng các cấu phần có mùi thơm trong   nguyên liệu; + Hòa tan kém các hợp chất khác như sáp, nhựa dầu có trong nguyên  liệu; + Không có tác dụng hóa học với tinh dầu; + Không biến chất khi sử dụng lại nhiều lần; + Hoàn toàn tinh khiết, không có mùi lạ, không độc, không ăn mòn  thiết bị, không tạo thành hỗn hợp nổ với không khí và có độ nhớt kém; 18
  19. + Nhiệt độ  sôi thấp vì khi chưng cất dung dịch trích ly để  thu hồi  dung môi, nhiệt độ  sôi cao sẽ   ảnh hưởng đến chất lượng tinh dầu. Điểm   sôi của dung môi nên thấp hơn điểm sôi của cấu phần dễ  bay hơi nhất   trong tinh dầu. + Ngoài ra, cần có thêm những yếu tố phụ khác như: giá thành thấp,  nguồn cung cấp dễ tìm, … Thường thì không có dung môi nào thỏa mãn tất cả những điều kiện   kể trên. Người ta sử dụng cả dung môi không tan trong nước như dietyl ete,  ete dầu hỏa, hexan, cloroform,… lẫn dung môi tan trong nước như  etanol,  aceton. Trong một số trường hợp người ta còn dùng một hỗn hợp dung môi. ­ Quy trình tẩm trích Phương pháp trích ly thích hợp cho các nguyên liệu có chứa lượng  tinh dầu không lớn lắm hoặc có chứa những cấu phần tan được trong nước  và không chịu được nhiệt độ quá cao. Quy trình kỹ thuật gồm các giai đoạn   sau: + Tẩm trích: nguyên liệu được ngâm vào dung môi trong bình chứa.  Trong một số  trường hợp, để  gia tăng khả  năng trích ly, nguyên liệu cần  được xay nhỏ trước. Hỗn hợp nguyên liệu và dung môi cần được xáo trộn  đều trong suốt thời gian trích ly. Nên khảo sát trước xem việc gia nhiệt có   cần thiết hay không, nếu cần, cũng không nên gia nhiệt quá 50oC để không  ảnh hưởng đến mùi thơm của sản phẩm sau này.  + Xử lý dung dịch ly trích: sau khi quá trình tẩm trích kết thúc, dung   dịch ly trích được lấy ra và có thể  thay thế  bằng dung môi mới sau một  khoảng thời gian nhất định, tùy theo nguyên liệu. Tách nước (nếu có) ra   khỏi dung dịch, rồi làm khan bằng Na2SO4 và lọc. Dung môi phải được thu  hồi ở nhiệt độ càng thấp càng tốt để tránh tình trạng sản phẩm bị mất mát  19
  20. và phân hủy. Do đó, nên loại dung môi ra khỏi sản phẩm bằng phương  pháp cô quay chân không. Dung môi thu hồi có thể  dùng để  trích ly lần  nguyên liệu kế tiếp. + Xử  lý sản phẩm trích ly: sau khi thu hồi hoàn toàn dung môi, sản   phẩm là một chất đặc sệt gồm có tinh dầu và một số  hợp chất khác như  nhựa, sáp, chất béo, cho nên cần phải tách riêng tinh dầu ra. Chất đặc sệt  này đem đi chưng cất bằng hơi nước để tách riêng tinh dầu ra. Tinh dầu có  mùi thơm tự nhiên, nhưng khối lượng thu được kém, ngoài ra tinh dầu này  có chứa một số  cấu phần thơm có nhiệt độ  sôi cao nên có tính chất định  hương rất tốt.  + Tách dung dịch từ bã: sau khi tháo hết dung dịch trích ly ra khỏi hệ  thống, trong bã còn chứa một lượng dung dịch rất lớn (khoảng 20 – 30%   lượng dung môi trích ly). Phần dung dịch còn lại nằm trong nguyên liệu  thường được lấy ra bằng phương pháp chưng cất hơi nước (trường hợp   dung môi không tan trong nước), hoặc ly tâm, lọc ép (trường hợp dung môi  tan trong nước). Sau đó dung dịch này cũng được tách nước, làm khan và   nhập chung với dung dịch trích ly.  Chất lượng thành phẩm và hiệu quả  của phương pháp trích ly này  phụ  thuộc chủ  yếu vào dung môi dùng để  trích ly. Để  đạt kết quả  tốt thì  dung môi sử  dụng phải thoả  mãn được các yêu cầu đã được trình bày  ở  trên. Vì dung môi dễ  bay hơi nên chúng ta cần phải lưu ý đến tỉ  lệ  thất  thoát dung môi trong quy trình trích ly vì việc này có thể ảnh hưởng rất lớn  đến giá thành sản phẩm. Trong điều kiện phòng thí nghiệm, khi muốn tiến hành phương pháp  tẩm trích với dung môi dễ  bay hơi thì tiến hành sử  dụng phương pháp  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0