intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ - Đại học Thái Nguyên

Chia sẻ: Lê Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:114

243
lượt xem
75
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ - Đại học Thái Nguyên nhằm mục đích nghiên cứu xây dựng các biện pháp hướng dẫn, tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ - ĐHTN, nhằm nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên trong quá trình đào tạo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ - Đại học Thái Nguyên

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ----------***------------ LÊ THÀNH THẾ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CHO SINH VIÊN KHOA NGOẠI NGỮ - ĐHTN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Thái Nguyên 2009
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ----------***------------ LÊ THÀNH THẾ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CHO SINH VIÊN KHOA NGOẠI NGỮ - ĐHTN Chuyên ngành: Giáo dục học Mã số: 60.14.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH: NGUYỄN VĂN HỘ Thái Nguyên 2009
  3. PHẦN MỘT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1. Tính cấp thiết của đề tài Để nâng cao chất lượng dạy học, thực hiện phương châm “dạy học lấy người học làm trung tâm” cần phải tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên và coi đó là một hình thức tổ chức dạy học ở Đại học. Tuy nhiên trong thực tế việc nâng cao năng lực tự học cho sinh viên chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế việc tìm ra các biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên đã trở thành một yêu cầu cấp bách trong các trường đại học nói chung và khoa Ngoại ngữ nói riêng. Trong những năm qua có nhiều công trình nghiên cứu đã xác định các phương hướng, những biện pháp đổi mới phương pháp dạy học khác nhau, các tư tưởng tập trung vào việc phát huy năng lực tự học, tự rèn luyện của người học, chuyển dần từ hệ phương pháp “tập trung vào người dạy” sang hệ phương pháp “tập trung vào người học”, chuyển dần từ phương pháp dạy học sang phương pháp nghiên cứu. Tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên trở thành một nội dung đổi mới trong nhà trường sư phạm, nếu được thực hiện tốt sẽ góp phần đổi mới phương pháp dạy học ở đại học hiện nay. Vì vậy, trong quá trình học tập đòi hỏi sinh viên phải tự giác, tích cực, chủ động, năng động sáng tạo để có thể lĩnh hội được hệ thống những tri thức khoa học qua đó rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo tương ứng. Để đạt được những yêu cầu đó đòi hỏi sinh viên phải có khả năng tự học, tự rèn luyện cao. Thực tế việc dạy học trong các trường sư phạm nói chung và khoa Ngoại ngữ nói riêng còn nhiều điểm tồn tại, việc dạy học chủ yếu nhằm cung cấp một khối lượng kiến thức xác định trong các giờ lên lớp, chưa có sự quan tâm đúng mức đến việc tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên, chưa thực sự quan tâm đến việc rèn luyện hệ thống kĩ năng sư phạm cho sinh viên. Trong lý luận dạy học, tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên được coi là một hình thức tổ chức dạy học ở đại học, việc tìm kiếm các biện pháp tổ chức Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  4. hoạt động tự học cho sinh viên đã trở thành một yêu cầu cấp bách trong các trường đại học nói chung và trường sư phạm nói riêng. Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ - ĐHTN” 2. Mục đích nghiên cứu Xây dựng các biện pháp hướng dẫn, tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ - ĐHTN, nhằm nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên trong quá trình đào tạo. 3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động dạy và học của giảng viên và sinh viên khoa Ngoại Ngữ - ĐHTN. 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp tổ chức hoạt động tự học, các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngoại Ngữ - ĐHTN. 4. Gỉa thuyết khoa học Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả dạy - học ở các trường sư phạm nói chung và khoa Ngoại Ngữ nói riêng, một trong những nguyên nhân đó là do hoạt động tự học của sinh viên chưa được tổ chức một cách hợp lý. Nếu đề ra được các biện pháp tổ chức hoạt động tự học ở trên lớp, kết hợp với hoạt động tự học ở nhà và hoạt động ngoại khoá cho sinh viên theo hướng tích cực hoá hoạt động người học, thì sẽ góp phần vào việc nâng cao hiệu quả tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ nói riêng và chất lượng đào tạo nói chung. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề tự học và tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại ngữ - ĐHTN. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  5. 5.2. Xây dựng hệ thống các biện pháp tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ và tiến hành thực nghiệm các biện pháp (áp dụng trên phần Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm). 6. Phƣơng pháp nghiên cứu 6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp quan sát hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngoại Ngữ trong mối quan hệ với hoạt động dạy học. - Phương pháp điều tra bằng ankét về thực trạng tự học của sinh viên khoa Ngoại Ngữ trong giai đoạn hiện nay. - Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến góp ý của các chuyên gia về cách xử lý kết quả điều tra, các biện pháp tổ chức, cách thực nghiệm… - Phương pháp thực nghiệm khoa học: Tiến hành thực nghiệm các biện pháp tổ chức hoạt động tự học môn Tâm lý học ở trên lớp cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ. 6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, hệ thống hoá các tài liệu lý luận về tự học. Phương pháp lịch sử: Nghiên cứu lịch sử của vấn đề nghiên cứu, phát hiện và khai thác những khía cạnh mà các công trình nghiên cứu trước đây đã đề cập tới vấn đề về tự học và tổ chức tự học, làm cơ sở cho việc tiến hành các hoạt động nghiên cứu tiếp theo. 6.3. Phương pháp toán học Sử dụng phương pháp thống kê toán học nhằm để xử lý số liệu về thực trạng tự học của sinh viên khoa Ngoại Ngữ. 7. Phạm vi giới hạn của đề tài Nghiên cứu hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngoại Ngữ và tiến hành thực nghiệm một số biện pháp tổ chức hoạt động tự học (áp dụng trên phần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  6. Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học dạy học) cho sinh viên khoa Ngoại Ngữ - ĐHTN. 8. Những luận điểm mang tính chất phƣơng pháp luận của đề tài Nghiên cứu vấn đề tự học trong sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên một cách toàn diện. Nghiên cứu vấn đề tự học trong mối quan hệ với các hoạt động khác: hoạt động chính khoá, hoạt động ngoại khoá, các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Nghiên cứu hoạt động tự học trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với hoạt động dạy học. Nghiên cứu hoạt động tự học theo quan điểm tiếp cận tâm lý học hoạt động. Nghiên cứu hoạt động tự học trên quan điểm tiếp cận công nghệ dạy học. Nghiên cứu hoạt động tự học trên quan điểm phát triển dựa vào yếu tố nội lực là cơ bản (yếu tố người học giữ vai trò quyết định). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  7. PHẦN HAI: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CHO SINH VIÊN KHOA NGOẠI NGỮ - ĐHTN 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1. Vấn đề tự học và tổ chức tự học trong các nghiên cứu ở nước ngoài. Tìm hiểu các tư tưởng trên thế giới nghiên cứu về tự học và tổ chức hoạt động tự học, chúng tôi có một số nhận xét sau: Tự học, tổ chức hoạt động tự học không phải là mảnh đất mới chưa được “cày xới” mà tự học là một vấn đề đã được nhiều nhà giáo dục học trên thế giới quan tâm đến dưới các góc độ khác nhau: phát huy tính tích cực, tính độc lập, tính tự giác, tính sáng tạo của người học như các nhà khoa học giáo dục Xôcơrat, Khổng Tử, Cômenxki, Đixtecvec, Usinxki. Ngay từ những năm công nguyên, XôCơRát (469 – 339 TCN) đã đưa ra quan niệm rất nổi tiếng: Giáo dục phải giúp con người tự khẳng định chính mình. Vận dụng quan điểm đó vào dạy học, ông cho rằng cần phải để cho người học tự suy nghĩ, tự tìm tòi, cần giúp người học tự phát hiện thấy sai lầm của mình và tự khắc phục những sai lầm đó. Đến thế kỉ 17 J.A.Cômenxki (1592-1670) đã tìm ra phương pháp cho phép giáo viên giảng viên giảng ít hơn, học sinh học nhiều hơn. Ông đề ra một số nguyên tắc dạy học mà cho đến nay vẫn còn nguyên tác dụng nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh: Nguyên tắc đảm bảo tính trực quan trong dạy học, nguyên tắc đi từ cái chung đến cái riêng, nguyên tắc tôn trọng đặc điểm đối tượng. Đến thế kỉ thứ XIX Conxtantin Đmitrêvic Usinxki (1824-1870) đã nghiên cứu về tính tích cực, tính độc lập của học sinh. Theo ông tính tích cực, tính độc lập là cơ sở duy nhất để cho sự học có hiệu quả. Ông cho rằng cần giáo dục cho học sinh biết định hướng trong môi trường xung quanh, biết hành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  8. động một cách sáng tạo, biết tự mình nâng cao vốn học vấn và tự phát triển bản thân. Trong dạy học không nên dồn tất cả tính tích cực vào công tác dạy của người giáo viên, còn học sinh thì lại thụ động mà cần phải làm sao cho học sinh tích cực ở mức độ cao nhất. Đầu thế kỉ XX những thành tựu về lý luận dạy học của nhà nước Xô Viết ra đời gắn liền với tên tuổi của một số nhà giáo dục học nổi tiếng như: V.V.Đavưdov, L.V.Zankov[41], I.Ia.lecne[47], Iu.K.Babanski[13], R.A.Nhizamov [51]. Khi nghiên cứu về lý luận dạy học ở đại học, các tác giả đã vạch rõ sự khác biệt giữa dạy học ở đại học với dạy học ở phổ thông: Các tác giả cho rằng dạy học ở đại học không phải chỉ trả lời câu hỏi dạy như thế nào? Mà còn phải trả lời câu hỏi: sinh viên độc lập học tập như thế nào? Độc lập nghiên cứu khoa học ra sao? Tìm tòi sáng tạo như thế nào?... Có thể nói ngay từ đầu thế kỉ XX, vấn đề tự học ở đại học đã được rất nhiều các tác giả quan tâm dưới góc độ phương pháp dạy và phương pháp học. Vấn đề này cho đến nay vẫn tiếp tục được nghiên cứu. Còn I.F. Kharlamop đã nghiên cứu tự học dưới góc độ tìm ra những biện pháp để phát huy tính tích cực học tập của học sinh bằng cách: Tăng cường việc nghiên cứu làm việc với sách giáo khoa, với tài liệu học tập, dạy học nêu vấn đề, cải tiến công tác tự lực học tập, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá… Cùng với xu thế phát triển của thời đại I.U.K.Babanxki nghiên cứu tự học gắn liền với việc tìm ra các biện pháp tối ưu hoá việc học theo hai hướng: Phát huy tính tích cực, tính tự giác của học sinh trong học tập dưới sự hướng dẫn, điều khiển trực tiếp của thầy, kết hợp với quản lý và tự quản lý hoạt động học tập của học sinh. Với ý tưởng trên trong dạy học người ta đã đề ra các phương pháp dạy học mới, đó là phương pháp dạy học chương trình hoá. Đáp ứng với xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng với những yêu cầu đổi mới của các quốc gia trên thế giới, các nhà giáo dục học ở các nước phát triển Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  9. đã đi sâu nghiên cứu để tối ưu hoá việc học, hình thành, phát triển năng lực tự học để người học có thể học thường xuyên, học suốt đời. Makiguchi [70], B.P.Exipov [24], khi nghiên cứu bản chất tự học của sinh viên. Các tác giả đã chỉ ra rằng: bản chất tự học của sinh viên là hoạt động nhận thức bằng hành động tìm tòi, nghiên cứu, khám phá. Đây chính là cơ sở lý luận của vấn đề tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên. Cuối thế kỉ XX ảnh hưởng của sự phát triển khoa học kĩ thuật, đặc biệt là ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghệ, phần lớn các nhà giáo dục học đã nghiên cứu tự học theo hai hướng chính: Hướng thứ nhất nghiên cứu áp dụng công nghệ dạy học, nhằm thay đổi vị trí của thầy và trò trong quá trình dạy học, từ chuyên gia về việc dạy, giáo viên phải chuyển sang chuyên gia về việc học của người học; Hướng thứ hai là dạy học phân hoá, dạy học tiến hành theo nhịp độ cá nhân người học để đạt tới năng suất và hiệu quả cao nhất trong việc học, dạy học cần phải được tổ chức hướng vào người học. Tiêu biểu cho các hướng nghiên cứu trên là Raja Roy Singh. Ông đã nghiên cứu vai trò của năng lực tự học trong việc học tập thường xuyên và học tập suốt đời, đề cao vai trò chuyên gia cố vấn của người thầy trong việc học tập thường xuyên, học tập suốt đời, trong việc hình thành phát triển năng lực tự học của người học. Năm 1986 Sharma và R. Ahmed [63] đã nghiên cứu hoạt động tự học như là một hình thức tổ chức dạy học bằng cách dạy phương pháp cho người học. Theo tác giả, người ta có thể dạy phương pháp cho sinh viên bằng nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh, tuỳ theo tính chất đặc thù môn học và nội dung yêu cầu của bài học. Nhưng theo ông dù tuân theo hình thức nào thì cũng phải thực hiện theo các giai đoạn sau: - Giai đoạn 1: Giáo viên thiết kế bài tập và cung cấp nguồn tài liệu cần thiết cho bài tập và chỉ dẫn cụ thể những gì sinh viên phải làm để hoàn thành bài tập. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  10. - Giai đoạn 2: Giáo viên tổ chức cho sinh viên tự nghiên cứu, tự làm bài tập với sự hỗ trợ của những thông tin có sẵn. - Giai đoạn 3: Giáo viên làm việc với sinh viên trên lớp theo hình thức cá nhân hay tập thể thông qua những hình thức khác nhau: Thảo luận, xêmina, củng cố ôn tập, xây dựng bài giảng, kiểm tra đánh giá, tự kiểm tra, tự đánh giá. Đây là lí thuyết mới về tổ chức tự học dưới góc độ nhìn nhận tự học như là một phương pháp dạy học. Tóm lại, qua nghiên cứu các tư tưởng, quan điểm, bàn về dạy học và tự học, tổ chức hoạt động tự học của các tác giả trên thế giới, chúng tôi có một số nhận xét sau: Tự học là cần thiết đối với tất cả mọi người, vấn đề tự học của học sinh nói chung và của sinh viên đại học nói riêng được các tác giả trên thế giới quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau như phát huy tính tích cực học tập của người học, tối ưu hoá việc học bằng dạy học chương trình hoá, áp dụng công nghệ dạy học, tổ chức dạy học phân hoá, dạy học theo nhịp độ cá nhân, dạy phương pháp học cho người học để đạt được hiệu quả cao nhất ở người học. 1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam về tự học và tổ chức tự học Thấm nhuần lời dạy của Hồ Chủ Tịch: Học phải suốt đời ngay cả khi đã đi làm việc [101]. Với phương châm “Về cách học phải lấy tự học làm gốc”; “Về cách dạy thì phải tránh lối dạy nhồi sọ… Về học tập tránh lối học vẹt” [33 – tr 444,319] Đáp ứng yêu cầu cấp bách của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, các nhà giáo dục học Việt Nam quan tâm đến vấn đề tự học, tổ chức hoạt động tự học và đã đi sâu nghiên cứu tự học dưới nhiều góc độ. Tự học là một hoạt động độc lập diễn ra không hoặc ít có sự điều khiển của thầy (Tác gả Nguyễn Cảnh Toàn [55] và một số nhóm tác giả khác nữa). Tự học là hoạt động tích cực, chủ động, tự giác của người học dưới vai trò chủ đạo (tổ chức, hướng dẫn, điều khiển) của thầy (Các tác giả: Nguyễn Ngọc Quang [53] [56] Đặng Vũ Hoạt [29], Nguyễn Ngọc Bảo [10]. Trịnh Quang Từ [71],…). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  11. Hướng thứ ba nghiên cứu tự học như là một hình thức tổ chức ngoài giờ lên lớp, phối hợp các hình thức tổ chức dạy học khác (Phạm Hồng Quang [57] và một số luận văn thạc sỹ khác…) Hầu hết các công trình nghiên cứu đều khẳng định tự học có một ý nghĩa và vai trò rất quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người, là nhân tố trọng yếu nâng cao chất lượng dạy và học, là yếu tố cơ bản để người học lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và hình thành thái độ mới. Trong một số công trình nghiên cứu về tự học và tổ chức hoạt động tự học thì tính tích cực, tính độc lập, động cơ học tập của người học giữ một vai trò rất quan trọng đối với chất lượng và hiệu quả của hoạt động tự học (Nguyễn Ngọc Bảo, Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức). Kiểm tra đánh giá là khâu then chốt nhằm giúp người thầy điều chỉnh, điều khiển hoạt động dạy của mình, điều khiển, điều chỉnh hoạt động học của trò, đồng thời giúp người học tự điều khiển, tự điều chỉnh hoạt động học tập nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động dạy học. Bên cạnh đó, kiểm tra đánh giá còn là một nhân tố phát huy tính tích cực của người học trong quá trình tự học và hình thành kĩ năng tự đánh giá ở sinh viên. Kĩ năng tự học được các tác giả xem xét như là nhân tố bên trong, rất quan trọng để người học hoàn thành nhiệm vụ học tập. Kĩ năng tự học của sinh viên được hình thành thông qua hoạt động học tập, rèn luyện, qua phương pháp dạy của thày và phương pháp học của trò. Những tư tưởng này được phản ánh qua các công trình nghiên cứu của các tác giả Trịnh Quang Từ, Trần Văn Hiếu: Tác giả Trần Văn Hiếu đã nghiên cứu về các kỹ năng đọc sách của sinh viên và đã xây dựng thành công quy trình đọc sách cho sinh viên. 1.2. Lý luận về tự học 1.2.1. Đặc điểm và bản chất của hoạt động tự học Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  12. Trong thực tế, người ta có thể có nhiều cách học khác nhau: Học một cách ngẫu nhiên. Qua kiểu học này, nó đưa lại cho người học những tri thức tiền khoa học, những năng lực thực tiễn trực tiếp, do kinh nghiệm hàng ngày mang lại. Cách học thứ hai là học có chủ định, là việc học diễn ra theo phương thức đặc thù ở nhà trường, qua đó hình thành ở người học những tri thức khoa học, những năng lực mới phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn nghĩa là nhằm lĩnh hội các tri thức mới, kĩ năng, kĩ xảo mới trong nhà trường. Như vậy, hoạt động học là hoạt động của người học nhằm tổ chức các điều kiện bên trong và bên ngoài đảm bảo cho việc lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo có hiệu quả. Nghiên cứu hoạt động tự học với tư cách là một hình thức tổ chức dạy học ở đại học dựa trên quan điểm tiếp cận công nghệ dạy học và tiếp cận hoạt động, theo Lê Khánh Bằng: Học - về bản chất là quá trình tiếp thu và xử lý thông tin bằng các hành động trí tuệ và chân tay, dựa vào vốn sinh học và vốn đạt được của cá nhân, từ đó mà có được tri thức, kĩ năng, thái độ mới [6 - tr8]. Từ quan niệm trên chúng tôi có thể đi đến khái niệm về học tập như sau: Học là quá trình người học tự giác, tích cực, độc lập tiếp thu tri thức, kinh nghiệm từ môi trường xung quanh bằng các thao tác trí tuệ và chân tay nhằm hình thành cấu trúc tâm lý mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng ngày càng hoàn thiện, và dù trong tình huống nào thì trong bản thân sự học cũng hàm chứa sự tự học. Tự học là học với sự tự giác và tích cực ở mức độ cao. Khi quan niệm về tự học, có rất nhiều quan niệm khác nhau. Đứng dưới góc độ nghiên cứu hoạt động tự học như là hoạt động nghiên cứu, với sự giúp đỡ gián tiếp của giáo viên, thực nghiệm trên mô hình đào tạo giáo viên, tác giả Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất của mình rồi cả động cơ, tình cảm, cả Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  13. nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, ý chí tiến thủ không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học…) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó”. [66-tr59,60]. Nghiên cứu hoạt động tự học như là một hình thức tổ chức hoạt động dạy học ở đại học, tác giả Lưu Xuân Mới cho rằng: “Tự học là hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kĩ năng do chính sinh viên tiến hành ở trên lớp, ở ngoài lớp theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã được quy định. Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại học có tính độc lập cao và mang đậm nét sắc thái cá nhân nhưng có quan hệ chặt chẽ với quá trình dạy học [48-tr276]. Nhìn chung, các tác giả đều quan niệm rằng tự học là học với sự độc lập và tích cực, tự giác ở mức độ cao, tự học là quá trình mà trong đó, chủ thể người học tự biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị của mình bằng các thao tác trí tuệ hoặc chân tay nhờ cả ý chí, nghị lực và sự say mê học tập của cá nhân. Tự học có thể diễn ra ở trên lớp hoặc ngoài giờ lên lớp, chẳng hạn như giải bài tập trên lớp, nảy sinh những thắc mắc khi nghe giáo viên giảng bài, tự sắp xếp những lời giảng của giáo viên để ghi vào vở, tự phân tích, nhận xét câu trả lời của bạn trong quá trình thảo luận… Theo chúng tôi, tự học là một quá trình, trong đó dưới vai trò chủ đạo của giáo viên, người học tự mình chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thông qua các hoạt động trí tuệ (quan sát, phân tích, tổng hợp, so sánh,phán đoán…) và cả các hoạt động thực hành (khi phải sử dụng các thiết bị đồ dùng học tập). Tự học gắn liền với động cơ, tình cảm và ý chí… của người học để vượt qua chướng ngại vật hay vật cản trong học tập nhằm tích luỹ kiến thức cho bản thân người học từ kho tàng tri thức của nhân loại, biến những kinh nghiệm này thành kinh nghiệm và vốn sống của cá nhân người học. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  14. - Giữa học và tự học có mối quan hệ với nhau, học chỉ có hiệu quả khi có sự tự học, tự học là kết quả cuối cùng của học. - Tự học có thể diễn ra dưới sự chỉ đạo trực tiếp của giáo viên và ngay cả khi không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên. Tự học được thực hiện qua nhiều bước khác nhau: tiếp nhận thông tin từ nhiều kênh thông tin khác nhau, xử lý thông tin dựa vào vốn kinh nghiệm hiểu biết của mình, tự kiểm tra, tự đánh giá những thông tin đã thu được, vận dụng thông tin để giải quyết vấn đề do nhiệm vụ nhận thức và thực tiễn đặt ra… Tự học có thể hiểu là quá trình người học tự tìm ra ý nghĩa của việc học, làm chủ các hành động học tập của mình, tạo ra các cầu nối nhận thức trong tình huống học. Bản chất của tự học là quá trình chủ thể người học cá nhân hoá việc học nhằm thoả mãn các nhu cầu học tập, tự giác tiến hành các hành động học tập (nhận thức, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá, các hoạt động giao tiếp, các hoạt động thực hành, các hoạt động kiểm tra, đánh giá...) để thực hiện có hiệu quả mục đích và nhiệm vụ học tập đề ra. Hay nói một cách khác là tự học là học với sự tự giác cao và tích cực ở mức độ cao. - Tự học chỉ thực sự có hiệu quả khi: + Người học phải thực sự có nhu cầu muốn học + Tự học chỉ diễn ra khi người học tiến hành giải quyết vấn đề, giải quyết tình huống, giải quyết các nhiệm vụ học tập + Tự học chỉ được thực hiện thông qua làm việc nghĩa là người học phải có được những cơ hội để thể nghiệm những gì mà họ đã tiếp thu được trước đó. + Tự học của sinh viên là một mặt hoạt động trong quá trình dạy học nó không thể tách rời với hoạt động dạy của GV, vì vậy tự học chỉ có thể đạt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  15. hiệu quả cao khi nó được diễn ra trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với hoạt động dạy của thầy. Nghĩa là, tự học có hiệu quả cao khi có sự hướng dẫn tổ chức của thầy. Vì vậy, muốn nâng cao hiệu quả của hoạt động tự học của SV đòi hỏi người thầy giáo ngoài chức năng tổ chức, hướng dẫn, truyền đạt... cần phải dạy cách thao tác với đối tượng, cách chiếm lĩnh đối tượng cho SV, hay nói cách khác là hướng dẫn phương pháp học, cách học cho SV. + Tự học có hiệu quả cao khi tạo được môi trường học tập cho người học, khi người học không ngừng rèn luyện cho mình một hệ thống kĩ năng tự học. Muốn tự học có kết quả cao đòi hỏi chủ thể tự học phải có động cơ và thái độ học tập đúng đắn, phải có nhu cầu và hứng thú học tập, phải có sự say mê khoa học, phải nhận thức rõ được mục đích của hoạt động học tập và ý thức một cách đầy đủ về việc học của mình. Để hoàn thành nội dung học tập đòi hỏi chủ thể tự học phải có ý chí vượt khó để vượt qua vật cản hay chướng ngại vật trong quá trình tự học nhằm đạt được các mục tiêu học tập đã đề ra. Bên cạnh đó, hoạt động tự học của SV được thực hiện bởi hệ thống kĩ năng, kĩ xảo nhất định vì vậy muốn hoạt động tự học đạt hiệu quả cao đòi hỏi người học phải có hệ thống kĩ năng tự học, cụ thể: Kĩ năng sắp xếp thời gian tự học, kĩ năng đọc sách, kỹ năng nghe và ghi chép bài trên lớp, kĩ năng nghiên cứu khoa học... và kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập. + Tự học chỉ thực sự có hiệu quả khi người học có đầy đủ các phương tiện hỗ trợ cho hoạt động tự học, phương tiện đầu tiên phải kể đến là tài liệu giáo trình, các tài liệu hướng dẫn tự học và các tài liệu tham khảo khác. Ngoài ra còn các phương tiện hỗ trợ như đèn chiếu, băng hình, máy vi tính, các phương tiện nghe nhìn khác... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  16. Phải có địa điểm để tự học với các điều kiện cần thiết về vệ sinh học đường để hoạt động tự học của SV có hiệu quả. Phải có đủ điều kiện về cơ sở vật chất cần thiết cho sinh hoạt hàng ngày của SV. 1.3. Tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên 1.3.1. Tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên Trong hoạt động dạy, tổ chức hoạt động là một công việc cần thiết ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả của hoạt động dạy - học. Khi quan niệm về tổ chức quá trình dạy học, có rất nhiều quan niệm khác nhau, số đông các tác giả đều cho rằng tổ chức dạy học là sự sắp xếp các thao tác, các hành động dạy học. Khi nghiên cứu các quan điểm đó để vận dụng vào việc tổ chức hoạt động tự học cho SV chúng tôi cho rằng: Tổ chức hoạt động tự học cho SV là quá trình thiết kế, sắp xếp các biện pháp tổ chức giảng dạy của thầy nhằm tiến hành hướng dẫn điều khiển, chỉ đạo cách tự thiết kế, tự sắp xếp các biện pháp hoạt động tự học, tự nghiên cứu của SV, giúp SV phát huy tới mức cao nhất năng lực tự học, tự nghiên cứu của mình, thực hiện tốt mục đích và nhiệm vụ học tập đề ra. Bản chất của việc tổ chức hoạt động tự học cho SV là sắp xếp và tiến hành các biện pháp dạy học sao cho phát huy được tính tích cực, tính tự giác của người học ở mức độ cao nhất. Vì vậy có thể nói rằng tổ chức hoạt động tự học cho SV là quá trình tiến hành các biện pháp nhằm tích cực hoá hoạt động học tập của SV trong quá trình lĩnh hội tri thức ở trên lớp, ở nhà và trong hoạt động thực hành, ngoại khoá. Biện pháp dạy học là cách thức sử dụng hay áp dụng riêng biệt hoặc phối hợp các yếu tố trong quá trình dạy học như phương pháp, phương tiện, tài liệu, tình huống, môi trường, thời gian, công nghệ, giáo viên, SV... để tiến hành hoạt động dạy học nhằm giải quyết có hiệu quả mục đích, nhiệm vụ dạy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  17. học đề ra. Như vậy, biện pháp tổ chức dạy học là quá trình thiết kế, sắp xếp các biện pháp giảng dạy của giáo viên nhằm tiến hành tổ chức điều khiển các biện pháp tự học của sinh viên để thực hiện một cách có hiệu quả mục đích, nhiệm vụ dạy học đề ra. 1.3.2. Hoạt động của giảng viên và sinh viên trong tổ chức hoạt động tự học Hoạt động của giảng viên là hoạt động dạy, dạy sao cho người học biết cách tự học vì vậy đòi hỏi người thầy giáo phải dạy tốt. Để dạy tốt ở bậc đại học đòi hỏi người cán bộ giảng dạy cùng một lúc phải thực hiện tốt ba nhiệm vụ của dạy học: - Dạy nghề cho SV: Thông qua nội dung tri thức bài giảng và phương pháp giảng dạy của thầy, giúp SV nắm vững hệ thống những tri thức khoa học cơ bản trên cơ sở đó hình thành ở họ hệ thống kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp tương ứng, để sau khi ra trường họ có khả năng lập nghiệp. - Dạy phương pháp tự học cho SV: Thông qua các biện pháp tổ chức hoạt động giảng dạy của thầy nhằm phát triển các năng lực và phẩm chất hoạt động trí tuệ của SV, giúp SV hình thành phương pháp tự học, tự nghiên cứu. - Dạy thái độ cho SV: Thông qua phương pháp dạy của thầy, thông qua các biện pháp tổ chức hoạt động dạy học của thầy, nhằm bồi dưỡng cho SV ý thức cá nhân đối với nghề nghiệp tương lai, đồng thời hình thành ở họ niềm tin cách mạng và niềm tin sư phạm, giáo dục cho SV những phẩm chất nhân cách của người giáo viên. Đó là lòng yêu nước, yêu nghề, mến trẻ, có tình cảm trong sáng và cao thượng, phấn đấu hết mình vì học sinh thân yếu, vì sự nghiệp giáo dục chung của đất nước... Tuy nhiên nếu chỉ thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ nêu trên trong quá trình dạy học thì chưa đủ, để dạy tốt giảng viên cần phải thực hiện sao cho với sự chi phí ít nhất về thời gian, kinh phí, sức lực của giáo viên, SV, của nhà trường và cha mẹ SV nhưng lại đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi do nghề Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  18. nghiệp và xã hội đặt ra ở mức độ cao. Muốn giải quyết được vấn đề trên, việc giảng dạy cần phải được tiến hành theo các phương hướng sau: - Giảng viên cần tiến hành các biện pháp dạy học nhằm phát huy cao độ tính tự giác, tính tích cực, tính độc lập sáng tạo của SV, phát huy tới mức cao nhất năng lực tự học, tự nghiên cứu của SV. - Tăng cường rèn luyện kỹ năng thực hành, kỹ năng nghề nghiệp cho SV bằng việc giải các bài tập tình huống, bài tập thực hành, đi thực tế phổ thông và tổ chức hoạt động ngoại khoá cho SV. - Chuyển từ phương pháp học tập sang phương pháp tự học, tự nghiên cứu. - Chuyển dần từ phương pháp diễn giảng ở đại học sang phương pháp dạy học nêu vấn đề, kết hợp với làm việc theo nhóm, hoặc tổ chức thảo luận xêmina. Tận dụng tới mức cao nhất vốn tri thức, vốn kinh nghiệm mà SV đã tích luỹ được để giải quyết các nhiệm vụ học tập - Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá theo hướng khách quan hoá, công khai hoá và hình thành năng lực tự đánh giá cho SV. - Đổi mới cơ sở vật chất và các phương tiện kĩ thuật dạy học theo hướng sử dụng công nghệ thông tin. Xây dựng các giáo án điện tử để giảng dạy cho SV hoặc sử dụng trình chiếu trong dạy học... Bên cạnh đó, để giảng dạy tốt ở bậc đại học người giảng viên cần phải thiết kế quá trình dạy học theo các công đoạn sau: * Xác định mục tiêu môn học (Xác định mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của từng chương học, từng bài học) gồm: Mục tiêu về tri thức, mục tiêu về kĩ năng, mục tiêu thái độ mà SV cần phải đạt được. * Giảng viên cần nắm vững trình độ hiện có của SV. Nghĩa là phải nắm được trình độ tối thiểu đã có ở SV để tiếp thu bài học mới, so sánh đối chiếu với mục tiêu môn học, chương học, bài học cần phải thực hiện. Trên cơ sở đó, GV có thể lựa chọn nội dung và phương pháp giảng dạy cho phù hợp với đối tượng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  19. * Giảng viên cần khai thác động lực bên ngoài và động lực bên trong của quá trình dạy học nhằm thúc đẩy quá trình học tập của SV: Khai thác động lực bên ngoài của quá trình dạy học là tạo ra những ảnh hưởng tốt của các phương tiện kĩ thuật dạy học, của môi trường lớp học và toàn bộ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động học tập của SV như những ảnh hưởng của GV, những ảnh hưởng của SV khác trong lớp, những ảnh hưởng của môi trường kinh tế, chính trị xã hội... Khai thác động lực bên trong của quá trình dạy học bằng cách tạo ra những mâu thuẫn nhận thức trong bản thân SV khi tiến hành chiếm lĩnh nội dung tri thức, thông qua việc xây dựng những tình huống có vấn đề, các bài tập nhận thức ở nhiều mức độ khác nhau. * Giảng viên cần thủ tiêu hoặc hạn chế các tác nhân gây nhiễu tác động đến SV và quá trình học tập của SV, GV cần nắm vững bản chất của quá trình dạy học để có thể hướng dẫn SV học tập bằng nhiều cách khác nhau theo con đường algôrit và ơritstic. * Giảng viên cần thường xuyên thông tin phản hồi nhanh kết quả học tập của SV để thu mối liên hệ ngược trên cơ sở đó điều chỉnh hoạt động dạy của mình và điều khiển hoạt động học của SV. * Giảng viên cần phải vận dụng quy trình công nghệ trong giảng dạy ở bậc đại học. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
  20. Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN KHOA NGOẠI NGỮ - ĐHTN 2.1. Thực trạng tự học của sinh viên khoa Ngoại ngữ - ĐHTN 2.1.1. Thực trạng tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên khoa Ngoại ngữ - ĐHTN Để đánh giá một cách khách quan thực trạng tổ chức hoạt động tự học cho SV khoa Ngoại ngữ - ĐHTN, chúng tôi đã tiến hành điều tra bằng ankét, quan sát các giờ học, tự học của sinh viên và trao đổi trực tiếp với SV, giáo viên giảng dạy bộ môn và cán bộ quản lý của khoa Ngoại ngữ - ĐHTN. Mục đích khảo sát nhằm đánh giá đúng về nhận thức của SV khoa Ngoại ngữ đối với vấn đề tự học, cách thức tổ chức hoạt động tự học của giảng viên và SV, những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động dạy và tự học của giảng viên và SV. Trên cơ sở đó, tìm ra những biện pháp tổ chức có hiệu quả hoạt động tự học cho SV. Trước khi tiến hành khảo sát chúng tôi đã nghiên cứu nắm đặc điểm tình hình của SV, cơ sở vật chất của khoa Ngoại ngữ - ĐHTN và hoạt động giảng dạy của giáo viên. Trên cơ sở đó chúng tôi tiến hành thiết kế hai mẫu phiếu A1 và A2. Mẫu phiếu A1 dành cho SV và mẫu phiếu A2 dành cho cán bộ giảng dạy. Chúng tôi tiến hành việc điều tra được thực hiện trên 118 SV năm thứ nhất và 3 giảng viên giảng dạy bộ môn Tâm lý học của khoa Ngoại ngữ - ĐHTN kết hợp với trò chuyện, phỏng vấn, đàm thoại với giảng viên, cán bộ quản lý, sinh viên và thu được các kết quả sau: 2.1.2. Thực trạng nhận thức của sinh viên khoa Ngoại ngữ - ĐHTN về vấn đề tự học. Để đánh giá thực trạng nhận thức của SV khoa Ngoại ngữ, chúng tôi sử dụng câu hỏi sau: Bạn đánh giá thế nào về vai trò của hoạt động tự học: a) Rất quan trọng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 http://www.Lrc-tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2