intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Dạy học các tác phẩm TRUYỆN thời đổi mới trong chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn bậc Trung học theo đặc trưng thể loại

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

57
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là tìm ra những đặc trưng thể loại ở những tác phẩm TRUYỆN thời kì đổi mới. Đề xuất phương án dạy học vừa phù hợp với đặc trưng thể loại, vừa phù hợp với năng lực tiếp nhận của học sinh lớp 12 đối với các tác phẩm TRUYỆN thời kì đổi mới được lựa chọn vào sách giáo khoa Ngữ văn. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Dạy học các tác phẩm TRUYỆN thời đổi mới trong chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn bậc Trung học theo đặc trưng thể loại

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ––––––––––––––––––– NGUYỄN HUY THÔNG DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM TRUYỆN THỜI KÌ ĐỔI MỚI TRONG CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA BẬC TRUNG HỌC THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI Chuyên ngành: LL & PPDH Văn - Tiếng Việt Mã ngành: 60 14 01 11 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Hữu Bội THÁI NGUYÊN - 2016 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân, được thể hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS Hoàng Hữu Bội Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các thông tin, số liệu trích dẫn trong luận văn đều đã được trích rõ nguồn gốc. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Thái Nguyên, tháng 6 năm 2016 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Huy Thông i
  3. LỜI CẢM ƠN Với tất cả tấm lòng kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn khoa học, tận tình và độ lượng của thầy giáo TS. Hoàng Hữu Bội trong quá trình thực hiện luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên và các thầy giáo, cô giáo trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tận tình, tạo điều kiện thuận lợi, hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài này. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã luôn ở bên tôi, động viên, giúp đỡ, khích lệ tôi trong những ngày học tập tại trường. Thái Nguyên, tháng 6 năm 2016 Tác giả luận văn Nguyễn Huy Thông ii
  4. MỤC LỤC Lời cam đoan ........................................................................................................ i Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii Mục lục ............................................................................................................... iii MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài: ............................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề:................................................................................................. 2 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 6 4. Mục đích nghiên cứu: ...................................................................................... 6 5. Nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................... 6 6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6 7. Cấu trúc luận văn ............................................................................................. 7 PHẦN NỘI DUNG............................................................................................. 8 Chương 1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của phương pháp dạy học các tác phẩm truyện thời đổi mới .................................................................... 8 1.1. Cơ sở lí luận. ................................................................................................. 8 1.2. Cơ sở thực tiễn của việc dạy học truyện thời kì đổi mới ........................... 20 Chương 2. Định hướng dạy học các tác phẩm truyện thời đổi mới trong sách giáo khoa ngữ văn bậc trung học............................................................. 44 2.1. Giới thiệu khái quát nội dung và nghệ thuật của bốn tác phẩm ................. 44 2.2. Định hướng dạy học từng tác phẩm ........................................................... 52 2.2.1. Định hướng dạy học “Bến quê”............................................................... 52 2.2.2. Định hướng dạy truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu .. 59 2.2.3. Định hướng dạy học truyện ngắn “Một người Hà Nội” .................................. 67 2.2.4.Định hướng dạy học tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng ......................................................................................................... 74 iii
  5. Chương 3.Thực nghiệm sư phạm ................................................................... 80 3.1. Thiết kế bài học “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu ở lớp 12 .. 80 3.2. Quá trình và kết quả dạy thực nghiệm bài học: .......................................... 85 3.2.1. Mục đích thực nghiệm: ............................................................................ 85 3.2.2. Đối tượng, địa điểm, thời gian thực nghiệm: .......................................... 85 3.2.3. Kết quả thực nghiệm................................................................................ 86 3.2.4. Kết luận chung về thực nghiệm ............................................................... 89 PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 91 THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 93 iv
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Về mặt lí luận Đối với phương pháp dạy học trong thời điểm hiện nay, việc phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh là việc làm cần thiết và cấp bách. Trong quá trình nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học, các nhà lí luận về phương pháp dạy học đã khẳng định vai trò to lớn cũng như ý nghĩa quan trọng của việc dạy học theo đặc trưng thể loại trong môn Ngữ văn ở PTTH đối với quá trình nhận thức cũng như hoàn thiện nhân cách ở học sinh. Chính vì vậy, dạy học Ngữ văn theo đặc trưng thể loại đã trở thành xu thế tiếp cận và giải mã văn bản mà nhiều giáo viên quan tâm. Chúng tôi muốn vận dụng lí luận về phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo thể loại vào một loại hình cụ thể. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Dạy học các tác phẩm TRUYỆN thời đổi mới trong chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn bậc Trung học theo đặc trưng thể loại” mong đóng góp một tiếng nói nhỏ bé để làm sáng tỏ thêm lí luận về phương pháp dạy học tác phẩm theo thể loại. 1.2. Về mặt thực tiễn - Theo chương trình, sách giáo khoa mới môn Ngữ văn (từ năm 2002) thì số các tác phẩm truyện thời kì đổi mới đã được lựa chọn ở cả hai bậc THCS và THPT. Thực tiễn sư phạm cho chúng ta thấy rằng, việc dạy học văn hiện nay trong nhà trường phổ thông vẫn bộc lộ ít nhiều hạn chế, đặc biệt là với những tác phẩm truyện thời kì đổi mới. Khi dạy những tác phẩm này cái khó đặt ra là truyện ở thời kì đó đổi mới ở chỗ nào? Truyện thời kì này có những đặc sắc gì? Làm thế nào để học sinh cảm nhận được điều đó? Để giải quyết thấu đáo những vấn đề đó là việc không phải dễ dàng đối với giáo viên. Chính vì vậy, mà chúng tôi chọn đề tài này nhằm góp thêm một tiếng nói vào việc giải quyết những vấn đề ấy. 1
  7. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Những công trình nghiên cứu truyện thời kì đổi mới Truyện thời kì đổi mới là một trong những chặng đường phát triển vượt bậc của truyện Việt Nam hiện đại. Chặng đường này, truyện đã đi sâu vào việc phản ánh hiện thực đời sống con người. Bởi vậy đã có nhiều nhà nghiên cứu văn học quan tâm. * Cuốn “Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại tập II, từ sau cách mạng tháng Tám 1945” (Do Nguyễn Văn Long chủ biên, (Nhà xuất bản Đại học Sư phạm 2010). Ở chương IX, phần 3, nói về những đặc điểm cơ bản của Văn học Việt Nam từ sau 1975, tác giả Nguyễn Văn Long đã viết như sau: thu“… Từ sau 1975, nhất là từ giữa những năm 80 trở đi, dân chủ hóa là xu thế lớn của xã hội và trong đời sống tinh thần của con người… dân chủ hóa đã thấm sâu và được thể hiện ở nhiều cấp độ và bình diện của đời sống văn học. Văn học thời này cũng không hề từ bỏ vai trò vũ khí tinh thần – tư tưởng của nó, nhưng nó được nhấn mạnh trước hết ở sức mạnh khám phá thực tại và thức tỉnh ý thức về sự thật, ở vai trò dự báo, dự cấm. Thêm nữa, trong xu hướng dân chủ hóa của xã hội, văn học còn được xem là một phương tiện cần thiết để tự biểu hiện, bao gồm cả việc phát biểu tư tưởng, quan niệm, chính kiến của mỗi người nghệ sĩ về xã hội của con người… Cùng với những thay đổi trong quan niệm về nhà văn thì quan niệm về hiện thực như là đối tượng khám phá của văn học cũng được mở rộng và mang tính toàn diện…. Xu hướng dân chủ hóa cũng đưa đến sự nở rộ của các phong cách, bút pháp, bộc lộ hết mình các cá tính. Sáng tạo của nhà văn cùng với việc ra sức tìm kiếm, thử nghiệm nhiều hình thức và thư pháp thể hiện mới, kể cả tiếp thu và vận dụng những yếu tố của các trường phái nghệ thuật hiện đại phương Tây.” [ Tinh thần nhân bản và sự thức tỉnh ý thức cá nhân là nền tảng tư tưởng và cảm hứng chủ đạo, bao trùm trong nền văn học giai đoạn này] (28, tr233 – 234). “… Sự thức tỉnh trở lại ý thức cá nhân đã mở ra cho văn học nhiều đề tài và chủ đề mới, làm đổi thay quan niệm về con người. Văn học ngày càng đi tới 2
  8. một quan niệm toàn vẹn và sâu sắc hơn về con người… Con người là điểm xuất phát, là đối tượng khám phá chủ yếu, vừa là đích cuối cùng của văn học, đồng thời cũng là điểm quy chiếu, là thước đo giá trị mọi vấn đề xã hội, mọi sự kiện và biến cố lịch sử.” [28, tr234,235] “… Văn học đã ngày càng gia tăng tính hiện đại. Văn xuôi có nhiều đổi mới về nghệ thuật tự sự, từ sự thay đổi điểm nhìn trần thuật đến xây dựng nhân vật, độc thoại nội tâm và dòng ý thức, tính đa thanh, đa dọng điệu…” Như vậy, tác giả Nguyễn Văn Long đã khái quát những thay đổi của văn học thời đổi mới và khẳng định: Văn học Việt Nam từ sau 1975, nhất là giữa những năm 80 trở lại đây, đã đi những bước tiếp xa hơn trên con đường hiện đại hóa nền văn học dân tộc, đã hòa nhập đầy đủ vào tiến trình văn học thế giới * Cuốn “Văn học Việt Nam 1975-1985, tác phẩm và dư luận ”, (NXB Hội nhà văn, 1997) tác giả Phan Cư Đệ cho rằng: “Cách khai thác những vấn đề chiến tranh trong mối tương quan quá khứ - hiện tại như thế làm cho truyện ngắn của ta sau 1975 có một bước phát triển mới, ngày càng hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu của bạn đọc ngày càng tốt hơn. Bởi nó không dừng lại ở trực giác mà đi sâu vào tâm lí, tiềm thức” * Cuốn “Văn học Việt Nam hiện đại – nhận thức và thẩm định”, (NXB khoa học xã hội, 2001) tác giả Nguyễn Tuấn Anh khi ghi nhận công lao của truyện ngắn trong thời kì đầu của quá trình đổi mới văn học đã cho rằng: “Truyện ngắn mở ra những mũi thăm dò, khai thác và đặt ra nhiều vấn đề đạo đức thế sự nhanh chóng đạt đến độ chín cả trong hình thức và nội dung”. * Cuốn “Văn học Việt nam thế kỉ X đến thế kỉ XX ”, (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 1999) tác giả Phạm Mạnh Hùng cũng đã nhận định: “Truyện ngắn vẫn xuất hiện đều đặn trong các báo, tạp chí văn nghệ trong Nam ngoài Bắc với một số lượng không nhỏ. Trong khoảng 5 năm đầu của thời kỳ hòa bình, truyện ngắn vẫn tiếp tục những đề tài và chủ đề phong 3
  9. cách, bút pháp và giọng điệu như đã thấy trong văn học trước đó. Nhưng từ năm 80 bắt đầu xuất hiện nhiều truyện ngắn có dấu hiệu mới về tư tưởng, về nghệ thuật… Các tác phẩm đã đi vào những đề tài mới của cuộc sống sau chiến tranh, hay vẫn viết về chiến tranh, nhưng với cách nhìn mới với những mối quan tâm, suy tư, trăn trở mới. Số phận con người trong cuộc sống được chú ý khai thác ở góc độ không chỉ ở cái phi thường mà còn ở cái bình thường” * Trong bài “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975” (tạp chí văn học tháng 9-1996) tác giả Bích Thu cho rằng: “Trong một thời gian không dài truyện ngắn đã làm được nhiều vấn đề mà tiểu thuyết chưa kịp làm, đã tạo ra nhiều phong cách sáng tạo có giọng điệu riêng. Xét trong hệ thống chung các loại hình văn xuôi, nghệ thuật truyện ngắn đã đạt được nhiều những thành tựu đáng kể trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, trong cách nhìn nghệ thuật về con người và trong sáng tạo ngôn ngữ… Truyện ngắn có xu hướng tự nối mở, đa dạng hơn trong cách thức diễn đạt…” * Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12, tập I – Bộ cơ bản (NXB Giáo dục, 2008) đã có những nhận định về văn xuôi đổi mới như sau: “…..Một số cây bút văn xuôi đã có cách tiếp cận mới với hiện thực đời sống. Nguyễn Minh Châu có “Bến quê”, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, Nguyễn Mạnh Tuấn có “Đứng trước biển”, “Cù lao tràm”, Nguyễn Khải có “Gặp gỡ cuối năm”, Lê Lụa có “Thời xa vắng” và thực sự khởi sắc ở giai đoạn từ năm 1986 – 2000 với những tác phẩm có hướng viết mới mẻ mà trước đó chưa hề có: “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, “Tướng về hưu” của Nguyễn Huy Thiệp, “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh…” Văn xuôi nói chung và truyện nói riêng viết về thời kì đổi mới đã được nhiều các nhà nghiên cứu trăn trở, tìm hiểu để khẳng định giá trị. Các công trình nghiên cứu đó đã góp những kiến thức bổ ích, quý báu giúp người thực hiện luận văn có những hiểu biết về truyện thời kì đổi mới. Trong luận văn này, 4
  10. người làm luận văn sẽ đặt trọng tâm vào việc khảo sát: “Dạy học các tác phẩm thời kì đổi mới trong sách giáo khoa bậc phổ thông theo đặc trưng thể loại” 2.2.Những tài liệu nghiên cứu về phương pháp dạy học TRUYỆN thời kì đổi mới * Sách giáo viên: - Bộ sách giáo viên Ngữ văn bậc THCS. (Tác giả Nguyễn Khắc Phi tổng chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục, 2006). - Sách giáo viên Ngữ văn 12, tập II. Bộ nâng cao. (Tác giả Trần Đình Sử tổng chủ biên, Nhà xuất bản giáo dục, 2005). * Sách tham khảo: - Bộ sách “Thiết kế bài học Ngữ văn 9 theo hướng tích hợp”. (Tác giả Hoàng Hữu Bội, Nhà xuất bản Giáo dục, 2004). - Bộ sách “Thiết kế hệ thống câu hỏi Ngữ văn”. (Tác giả Trần Đình Chung, Nhà xuất bản Giáo dục, 2006). - Bộ sách “Thiết kế dạy học Ngữ văn theo hướng tích hợp”. (Tác giả Trương Dĩnh, Nhà xuất bản Giáo dục, 2005). - “Thiết kế dạy học Ngữ văn 12”. Nâng cao. (Tác giả Hoàng Hữu Bội, Nhà xuất bản Giáo dục, 2008) - “Thiết kế dạy học Ngữ văn”. (Tác giả Phan Trọng Luận, Nhà xuất bản Giáo dục, 2008). - “Thiết kế bài giảng Ngữ văn”. (Tác giả Nguyễn Văn Đường, Nhà xuất bản Hà Nội, 2008). - Bộ sách “Hướng dẫn chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn ” của Bộ giáo dục và đào tạo, 2010. Ở mỗi cuốn sách, các tác giả có cách nhìn khác nhau, lí giải khác nhau. Nhưng đều có chung một mục đích: Giúp người dạy văn biết được điều cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông hiện nay. 5
  11. Các công trình nghiên cứu trên đã là những gợi dẫn rất quý báu cho chúng tôi trong quá trình làm đề tài. Tuy nhiên, chúng tôi mong muốn có cái nhìn tổng quát hơn về truyện viết về thời đổi mới trong nhà trường để tìm ra được phương án dạy học phù hợp với đặc điểm truyện viết về thời kì đổi mới và việc tiếp nhận của thế hệ trẻ ngày nay. Bởi thế chúng tôi mạnh dạn lựa chọn vấn đề này để nghiên cứu. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu -Các tác phẩm TRUYỆN thời kì đổi mới, được lựa chọn vào sách giáo khoa Ngữ văn bậc Trung học và phương pháp dạy học các tác phẩm ấy theo đặc trưng thể loại. 4. Mục đích nghiên cứu - Tìm ra những đặc trưng thể loại ở những tác phẩm TRUYỆN thời kì đổi mới. - Đề xuất phương án dạy học vừa phù hợp với đặc trưng thể loại, vừa phù hợp với năng lực tiếp nhận của học sinh lớp 12 đối với các tác phẩm TRUYỆN thời kì đổi mới được lựa chọn vào sách giáo khoa Ngữ văn. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu trên bình diện lí thuyết. - Đặc trưng của truyện thời đổi mới - Phương pháp dạy học các tác phẩm truyện thời kì đổi mới theo đặc trưng thể loại. 5.2. Khảo sát thực tiễn dạy và học của giáo viên và học sinh. 5.3. Đề xuất phương pháp dạy học các tác phẩm truyện thời kì đổi mới theo đặc trưng thể loại. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết Sử dụng phương pháp nghiên cứu lí thuyết, chúng tôi nhằm làm rõ đặc trưng của truyện thời kì đổi mới, phương pháp dạy các tác phẩm truyện theo 6
  12. đặc trưng thể loại và dạy các tác phẩm truyện thời kì đổi mới theo hướng tích hợp và tích cực. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy học các tác phẩm truyện thời kì đổi mới. Chương II: Định hướng dạy học các tác phẩm truyện thời kì đổi mới theo đặc trưng thể loại. Chương III: Thực nghiệm sư phạm 7
  13. PHẦN NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM TRUYỆN THỜI ĐỔI MỚI 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1. Thời kì đổi mới trong văn xuôi Việt Nam hiện đại * Sách giáo khoa Ngữ văn 12 (Bộ cơ bản). NXB Giáo dục viết: “………ngày 30/4/1975, cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại chống đế quốc Mĩ đã kết thúc thắng lợi. Lịch sử dân tộc lại mở ra một thời kì mới, thời kì độc lập tự do và thống nhất đất nước. Tuy nhiên, từ năm 1975 – 1985, đất nước ta lại gặp những thử thách khó khăn mới, nhất là khó khăn về kinh tế…. Tình hình đó đòi hỏi đất nước phải đổi mới…..Công cuộc đổi mới đòi hỏi nền văn học cũng phải đổi mới…” Từ sau năm 1975, thơ không tạo được sự lôi cuốn hấp dẫn như ở giai đoạn trước… Nhìn chung các nhà thơ vẫn viết theo lối tư duy cũ. Nhưng sau 1975, văn xuôi có nhiều khởi sắc hơn thơ ca. Một số cây bút đã bộc lộ ý thức muốn đổi mới cách viết về chiến tranh, cách tiếp cận hiện thực đời sống… Từ sau đại hội Đảng lần thứ VI, văn học chính thức bước vào chặng đường đổi mới. Do vấn đề đổi mới tư duy, phương châm nhìn thẳng vào hiện thực được coi trọng nên phóng sự điều tra có điều kiện phát triển mạnh mẽ, tiêu biểu là phóng sự của Phùng Gia Lộc, Trần Huy Quang, Hoàng Hữu Các, Trần Khắc, Hoàng Minh Tường… văn xuôi thực sự khởi sắc với những truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu: “Bức tranh”, “Chiếc thuyền ngoài xa”, “Cỏ lau”…, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp: “Tướng về hưu”… và tiểu thuyết với các tác phẩm tiêu biểu: “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Tường, “Bến không chồng ” của Dương Hướng, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh…” (4, tr16). 8
  14. Có thể nói từ năm 1975 – 1985 là chặng đường văn học trăn trở tìm kiếm con đường đổi mới. Còn từ năm 1986 trở đi là chặng đường văn học đổi mới sâu sắc và khá toàn diện * “Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại” tập II – (Nhà xuất bản Đại học Sư phạm) viết. “… Từ năm 1975 đến năm 1985 là chặng đường khởi động chuẩn bị cho cao trào đổi mới. Khoảng 5 năm đầu, dư âm của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và tác động của hai cuộc chiến tranh biên giới khiến cho văn xuôi cơ bản “trượt theo quán tính cũ” (Nguyên Ngọc)… Đến nửa đầu thập kỉ 80, nhu cầu đổi mới rõ dần. Năm 1982, sự xuất hiện truyện ngắn “Bức tranh” đánh dấu bước ngoặt thật sự trên hành trình sáng tạo của Nguyễn Minh Châu. Ở một loạt truyện tiếp theo (được tập hợp thành 2 tập: “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” 1983, “Bến quê” năm 1985) Nhà văn sẽ tiếp tục dòng mạch tư tưởng đặt ra từ tác phẩm này. “Bức tranh” đã khiến dư luận đông đảo coi Nguyễn Minh Châu như một “hiện tượng của truyện ngắn lúc đó… Có thể nói. Nguyễn Minh Châu đã tự đổi mới mình một cách lặng lẽ và quyết liệt… Ông chọn hướng tiếp cận đời sống từ góc độ đạo đức – thế sự, dùng thước đo nhân bản để soi ngắm con người… Tiếp theo đó là Ma Văn Kháng với “Mưa mùa hạ”, “Mùa lá rụng trong vườn”. Nguyễn Khải với “Gặp gỡ cuối năm”, “Thời gian của người”, Nguyễn Mạnh Tuấn với “Đứng trước biển”, “Cù lao tràm” đã mở rộng biên độ cho bức tranh đời sống và quan niệm nghệ thuật về con người…” Từ năm 1986 đổi mới văn xuôi đạt đến cao trào, sau đó lắng lại Nhu cầu đổi mới bùng nổ trong văn xuôi thành cao trào sôi nổi, với hàng loạt cá tính nghệ sĩ độc đáo, nhiều tác phẩm làm xôn xao dư luận trong nước và ngoài nước… Dư luận nói nhiều đến các bút kí phóng sự: “Cái đêm hôm ấy đêm gì” của Phùng Gia Lộc, “Câu chuyện về một ông vua Lốp”, “Lời khai của bị can” của Trần Huy Quang, “Suy nghĩ trên đường làng” của Hồ Trung Tú, 9
  15. “Người đàn bà quỳ” của Trần Khắc, “Làng giáo có gì vui” của Hoàng Minh Tường….. Các phóng sự trên đã mổ xẻ phanh phui mặt trái, mặt bất cập, bất công do sự lỗi thời của cơ chế cũ, do những định kiến lạnh lùng hoặc lối nghĩ giáo điều phiến diện…. (văn xuôi trước kia không ai dám viết như vậy). Tinh thần trên cũng thấm đẫm trong nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết “Đám cưới không có giấy giá thú” của Ma Văn Khang, “Truyện như đùa” của Mai Ngữ, “Kẻ sát nhân lương thiện” của Lại Văn Long, “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường, “Bước qua lời nguyện” của Tạ Duy Anh.v.v. Cùng với cảm hứng chống tiêu cực là cảm hứng phản biện, nhận thức lại một số giá trị của thời đã qua và cảnh báo những ảo tượng ngộ nhận của con người thời hiện đại. Điều đó có trong các tác phẩm: “Mảnh vườn xưa hoang vắng” của Đỗ Chu, “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, “Thiên sứ” của Phạm Thị Hoài, “Bến không chồng” của Dương Hướng.v.v. Cảm hứng chiêm nghiệm triết lí là điểm mạnh của ngòi bút Nguyễn Khải (Một người Hà Nội). Cảm hứng triết luận trở thành một nét quan trọng của văn xuôi đương đại. * Báo văn nghệ số 23 ra ngày 7 tháng 6 năm 2014. Có bài viết “Văn học đổi mới trong hệ hình phản ánh ” của Trần Thiện Khanh. Tác giả viết: “… Lâu nay, khi nói đến văn học Việt Nam từ 1986 trở về sau người ta mặc định đây là thời kì văn học đã thực sự có những đổi mới sâu sắc và toàn diện… Nhưng, có thể nói rằng, văn học trong bối cảnh đổi mới của đất nước, ở dòng chính và giai đoạn đầu của nó, về cơ bản không có sự thay đổi quan trọng về mặt hệ hình, mà chỉ là sự điều chỉnh quy ước, quy chế phát ngôn về hiện thực, sự chuyển đổi từ cực này sang cực khác trong khuôn khổ của hệ hình phản ánh luận. Cần nhận diện đúng điều này để tránh những ngộ nhận đáng tiếc”. 10
  16. Chúng tôi nhận thấy rằng sự chuyển động mạnh mẽ của văn học trong bối cảnh 1986 được ghi nhận trước hết ở văn xuôi, mà điểm nhấn của nó là các thể loại văn học báo chí, tập trung phản ánh các vấn đề xã hội nóng bỏng, tiêu cực, bức xúc, (kí sự, phóng sự…) đề cao sự dũng cảm, trung thực, thẳng thắn trong ngòi bút. Bằng cách gắn bó với đời sống nhiều mặt, không tô hồng né tránh cái sai, cái đúng, văn học đã thực sự chứng minh được nó đang tham gia tích cực vào đời sống, vào công cuộc đổi mới. Ranh giới giữa các tác phẩm văn học và báo chí trong trạng thái ấy cũng ngày càng mờ dần, hiện tượng pha trộn thể loại này được nhiều người gọi là: “Văn học hóa báo chí”, “Báo chí hóa văn học”. Hiện tượng ấy cũng phần nào cho thấy tư duy phản ánh hiện thực, thể hiện hiện thực, gai góc, thô ráp khác nhiều so với hiện thực lí tưởng hóa trước kia, trở thành nét ưu trội của tư duy đổi mới văn học. Trong loại hình văn học phản ánh những vấn đề nóng bỏng của đời sống, “Cái đêm hôm ấy đêm gì” của Phùng Gia Lộc, “Câu truyện về một ông vua Lốp” của Nhật Linh, “Người đàn bà quỳ” của Trần Khắc, “Lỗi khai của bị can” của Trần Huy Quang, “Làng giáo có gì vui” của Hoàng Minh Tường, “Thủ tục để làm người còn sống” của Minh Chuyên…. thường được nhắc đến như những trường hợp tiêu biểu, một thành quả của đổi mới ở phóng sự, kí sự. Một số trường hợp khác, thành tựu khác trong văn xuôi ở thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn mà lâu nay chúng ta khẳng định như những hiện thân của thời kì đổi mới cũng đều là sự tìm tòi sáng tạo, đổi chiều trong khuôn khổ của hệ hình phản ánh luận (phản ánh hiện thực đương đại và phản ánh đầy đủ nhiều chiều hiện thực đã qua)… Trở lại bối cảnh đổi mới dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đại hội VI, nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 28/11/1987 của Bộ chính trị, đời sống văn học Việt Nam có nhiều chuyển biến quan trọng, tư tưởng nói thật, nhìn thẳng vào sự thật, đổi mới cách nhìn, cách nghĩ trở thành tư tưởng chủ đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho tư duy nhận thức lại hiện thực, nhu cầu phản ánh hiện thực nhiều chiều phát triển mạnh mẽ. Tinh thần và cũng là một thứ triết lí về sự đổi mới 11
  17. văn học là thể hiện cách nghĩ, cách nhìn mới đối với sự thật, với hiện thực nói chung. Cởi trói văn học, phá rào trong văn học, ở ý nghĩa ban đầu của nó là hướng tới sự tự do trong phản ánh hiện thực và nhận thức kiến thức. “Đối với văn học ở giai đoạn đầu của bối cảnh đổi mới đất nước , nếu nhìn từ góc độ hệ hình, là không có đổi mới nền tảng, không thực sự tạo ra bước ngoặt mới, nếu có bước ngoặt thì đó là một bước ngoặt trong hệ hình chính thống, làm giàu có hơn, phong phú hơn. Khung tri thức của hệ hình đó, gia tăng sức mạnh kiến tạo và diễn giải tác phẩm trong nó” * Từ những tài liệu trên, người làm luận văn có được những hiểu biết sau đây về thời kì đổi mới trong văn xuôi đương đại Việt Nam.  Thời gian xảy ra việc đổi mới trong văn học từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX và nở rộ từ năm 1986 đến năm 1990 sau đó thì lắng lại.  Biểu hiện cụ thể của sự đổi mới trong văn xuôi là: + Sự ra đời của hàng loạt phóng sự, kí sự làm xôn xao dư luận chẳng hạn: “Cái đêm hôm ấy đêm gì” của Phùng Gia Lộc, “Câu chuyện về một ông vua Lốp” của Trần Huy Quang, “Suy nghĩ trên đường làng” của Hồ Trung Tú, “Người đàn bà quỳ” của Trần Khắc, “Làng giáo có gì vui” của Hoàng Minh Tường.v.v.. + Sự ra đời của các truyện ngắn như : “Bức tranh” của Nguyễn Minh Châu, “Tướng về hưu” của Nguyễn Huy Thiệp..v.v. + Sự ra đời của các tiểu thuyết như: “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường, “Bến không chồng” của Dương Hướng.“Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh.v.v..  Tinh thần cốt lõi của việc đổi mới văn xuôi ở thập niên 80 là: + Đổi mới cách nhìn, cách nghĩ trong phản ánh hiện thực. Dám nhìn thẳng vào sự thật và nói thẳng sự thật trong miêu tả đời sống và con người. + Văn học thời kì đổi mới hướng tới tự do trong việc phản ánh hiện thực và nhận thức hiện thực, một sự tự do có định hướng rộng. 12
  18.  Người có công đầu trong việc đổi mới văn học ở thập kỉ 80 của thế kỉ trước là nhà văn Nguyễn Minh Châu. + Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn chiến tranh chống Mĩ, với những thành công về tiểu thuyết. “Cửa sông”, “Dấu chân người lính” và truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng”, sáng tác của Nguyễn Minh Châu trong thời kì này là thể hiện sự khát vọng của nhà văn “đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Sau cuộc kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Minh Châu lại là một trong những cây bút đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học, để đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống ở một thời kì mới. Tác phẩm của ông, đặc biết là truyện ngắn, đã thể hiện những tìm tòi đổi mới về tư tưởng và nghệ thuật, gây tiếng vang rộng rãi trong công chúng và giới văn học. + Nói đến nhà văn Nguyễn Minh Châu là nói đến truyện ngắn “Bức tranh” của ông, một tác phẩm gây xôn xao dư luận thời bấy giờ và được coi là tác phẩm mở đầu cho việc đổi mới sáng tác văn học sau 1975. Truyện ngắn “Bức tranh” có cốt truyện khá đơn giản. Một họa sĩ đang công tác ở chiến trường trong những năm chiến tranh, được lệnh ra hậu phương để chuẩn bị cho một cuộc triển lãm tranh ở nước ngoài. Trên đường ra một binh trạm, một chiến sĩ ngỏ ý nhờ họa sĩ vẽ bức chân dung, nhưng bị từ chối. Hôm sau lại chính anh lính ấy đã tận tình và độ lượng giúp họa sĩ vượt qua một chặng đường nguy hiểm. Cảm động trước người chiến sĩ, họa sĩ đã vẽ một bức chân dung ký họa về anh và hứa sau khi ra hậu phương sẽ đem đến cho người mẹ của anh lính đang mong mỏi tin con. Ra đến hậu phương, bận rộn vào các việc khác. Và kí họa về anh chiến sĩ “thồ” tranh được giới họa sĩ đánh giá cao, họa sĩ đã không nghĩ gì đến lời hứa của mình. Nhiều năm sau, tình cờ ông gặp lại người chiến sĩ năm xưa đã giúp mình nay là anh thợ cắt tóc. Một cuộc đấu tranh nội tâm căng thẳng diễn ra trong con người họa sĩ, ông tự vấn lương tâm, dũng cảm nhìn sâu vào bộ mặt bên trong của mình và dồn tâm sức thể hiện nó 13
  19. trong bức chân dung tự họa có vẻ lạ lùng, kì dị nhưng đúng là “Khuôn mặt bên trong” của họa sĩ . Chủ đề và tư tưởng của truyện ngắn “Bức tranh” là gì? Tác giả thông qua câu chuyện của người họa sĩ và anh thợ cắt tóc, muốn nêu lên: - Lời đề nghị rụt rè của anh thợ cắt tóc (mà người kể chuyện tự nhận ra): “Xin mọi người tạm ngừng một phút cái nhịp sống bận bịu chen lấn để tự suy nghĩ về chính mình”, phải chăng đây cũng chính là lời đề nghị tha thiết của tác giả? Qua bức chân dung tự họa kì quái của người họa sĩ, tác giả muốn đưa ra một khám phá về thế giới bên trong của con người, cái thế giới còn chứa đựng nhiều bí ẩn, có cả bóng tối và ánh sáng, cả rồng phượng và rắn rết, thiên thần và ác quỷ. Nhưng không chỉ đưa ra bức chân dung khuôn mặt bên trong của con người, Nguyễn Minh Châu là nhà văn của niềm tin chắc chắn vào con người, vào sự phấn đấu của con người vươn tới cái thiện cái đẹp. Cuộc đấu tranh với cái xấu, cái ác để hướng thiện là cuộc đấu tranh trong nội tâm của con người để khắc phục, để chiến thắng cái xấu ngay trong bản thân mình. Tiếp sau truyện ngắn “Bức tranh”, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã cho ra đời hàng loạt tác phẩm làm nên một “Nguyễn Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” ( Nguyên Ngọc). Đó là các tác phẩm. “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, “Bến quê”, “Phiên Chợ Giát”, “Cỏ lau”. 1.1.2. Nội dung của sự đổi mới trong văn học Cuốn “giáo trình văn học Việt Nam hiện đại ” tập II (Nhà xuất bản Đại học Sư phạm) đã viết về những đổi mới về tư tưởng nghệ thuật của văn xuôi thời đổi mới như sau: * Đổi mới về quan niệm hiện thực: “…Giai đoạn 1945-1975; do sự quy định của hoàn cảnh lịch sử, văn học dồn trong tâm cho nhiệm vụ tuyên truyền lí tưởng, cổ vũ chiến đấu. Hiện thực 14
  20. được lựa chọn thường là hiện thực lớn lao trong xu thế phát triển lạc quan. Một hiện thực tuyệt đối hợp lí… Sự khen chê của một tác phẩm thường xuất phát từ nguyên tắc đối chiếu nội dung đời sống được phản ánh vào tác phẩm với cái hiện thực được nhận thức, được quan niệm theo mô hình định trước. Nhà văn Nguyễn Minh Châu nhận xét “hiện thực của văn học có khi không phải là cái hiện thực đang tồn tại mà là cái hiện thực con người đang mơ ước”. Đó là hiện thực trong cái nhìn lí tưởng hóa, nó đẹp nhưng có phần đơn giản, dễ dãi. Vai trò “người mở đường” cho văn học thời đổi mới của Nguyễn Minh Châu gắn liền với việc ông thay đổi quan niệm và cách tiếp cận hiện thực. Từ hiện thực của các sự kiện, biến cố lịch sử đến hiện thực đã mở rộng, khả năng chiếm lĩnh đời sống của văn xuôi tăng lên. Những mặt trái, mặt khuất lấp, cái tiêu cực, cái xấu, cái bất hợp lí được phát triển. Biến cố lịch sử trở thành đường viền cho số phận cá nhân, thành cái cớ ban đầu để nhà văn khảo sát hành trình tự ý thức của nhân vật. Như vậy lịch sử đã trở thành phương tiện để khám phá con người lịch sử theo kinh nghiệm cộng đồng trở thành lịch sử theo kinh nghiệm cá nhân. Vai trò chủ thể nhà văn tăng lên, năng lực “sáng tạo” được coi trọng hơn năng lực “phản ánh”. “...Những truyện “giả cổ tích”, “giả lịch sử”, “giả liêu trai” của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Phạm Hải Vân, Hồ Anh Thái… là sự khẳng định mối quan hệ tự do giữa nhà văn với hiện thực. Hiện thực không nhất thiết phải là mục đích phản ánh của nhà văn, nó có thể chỉ là phương tiện để nhà văn trình bày tư tưởng, cách nhìn, sự chiêm nghiệm của riêng mình. Bên cạnh kiểu hiện thực “kiểm chứng được” xuất hiện hiện thực của ảo giác, của tâm linh, hiện thực được tạo ra bằng trí tưởng tượng của người viết. Cái kì ảo, cái nghịch dị xuất hiện khá đậm đặc trong các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp như: “Giọt máu”, “Sói trả thù”, “Con thú lớn nhất” hay “Thân phận tình yêu” của Bảo Ninh, “Thiên sứ” của Phạm Thị Hoài và nhiều tác phẩm của Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương… đòi hỏi người đọc phải thay đổi kinh nghiệm một chiều về hiện thực…” [25, tr.247]. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2