intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học kinh tế: Phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Nội

Chia sẻ: SuSan Weddy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

20
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp trong sự nghiệp đổi mới kinh tế của Đảng; đánh giá tổng quát thực trạng kinh tế hợp tác xã nông nghiệp tại Hà Nội giai đoạn 1997 - 2005; đưa ra một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp ở Hà Nội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học kinh tế: Phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Nội

  1. MỤC LỤC MỞ ĐẦU CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ HỢP TÁC Xà 1.1. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về kinh tế hợp tác xã 1.1.1. Quan niệm của Chủ nghĩa Mác -Lê nin về kinh tế hợp tác xã 1.1.1.1. Khái niệm hợp tác xã ( HTX ) 1.1.1.2. Các nguyên tắc cơ bản của hợp tác xã 1.1.1.3. Các hình thức hợp tác xã 1.2. Vai trò của kinh tế hợp tác xã trong nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam 1.2.1 Những đặc trƣng cơ bản của HTX kiểu mới. 1.2.2.1. Vai trò kinh tế 1.2.2.2. Vai trò chính trị xã hội 1.3. Kinh nghiệm về phát triển HTX nông nghiệp của một số địa phƣơng trong nƣớc. 1.3.1. Khái quát hoạt động của một số HTX điển hình trong lĩnh vực nông nghiệp. CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HỢP TÁC Xà NÔNG NGHIỆP Ở HÀ NỘI THỜI KỲ 1997- 2005. 2.1. Khái quát sự phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Nội 1997-2005 2.l.1. Thực hiện đổi mới HTX nông nghiệp theo Luật 2.1.1.1. Sự thay đổi về lƣợng 2.1.1.2. Sự đổi mới về chất. 2.1.2. Nh÷ng kÕt qu¶ chñ yÕu vÒ ho¹t ®éng kinh doanh cña c¸c hîp t¸c x· n«ng nghiÖp ë Hµ Néi 2.1.2.1. Ho¹t ®éng qu¶n lý vµ sö dông vèn quü, tµi s¶n cña hîp t¸c x· 2.1.2.2. Ho¹t ®éng kinh doanh dÞch vô
  2. 2.2.1. Những thành tựu cơ bản 2.2.2. Những tồn tại chủ yếu và nguyên nhân 2.2.2.1. Tồn tại. 2.2.2.2. Nguyên nhân : CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở HÀ NỘI 3.1.Định hƣớng phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Nội đến 2010 3.2. Một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Nội 3.2.1. Nâng cao hiểu biết, nhận thức cho cán bộ đảng viên, ngƣời lao động về hình thức tổ chức kinh tế hợp tác xã. 3.2.2. Sửa đổi chính sách theo hƣớng tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế HTX. 3.2.3. Tăng cƣờng vai trò quản lý của Nhà nƣớc trong chỉ đạo và thực thi các quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tập thể 3.2.4. Nâng cao vai trò của Liên minh Hợp tác xã Thành phố Hà Nội trong phát triển kinh tế hợp tác xã. 3.2.5. Củng cố các hợp tác xã đang hoạt động và tổng kết các điển hình tiên tiến và xây dựng các mô hình hợp tác xã mới 3.2.6. Giải quyết dứt điểm việc chuyển đổi và giải thể hợp tác xã. 3.2.7. Tăng cƣờng công tác hỗ trợ cho HT KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO
  3. MỞ ĐẦU 1) Sự cần thiết của đề tài: Hợp tác xã theo nghĩa là tổ chức kinh tế tự nguyện của những người lao động đã xuất hiện trong đời sống kinh tế - xã hội của nhân loại cách đây hàng trăm năm. Tuy trải qua nhiều giai đoạn với những thăng trầm khác nhau, nhưng nhìn chung kinh tế hợp tác xã đã chứng tỏ là một loại hình tổ chức kinh tế có vai trò quan trọng không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với nhiều nước trên thế giới. Ở nước ta, sau ngày đất nước được giải phóng ( miền Bắc 1954, cả nước năm 1975 ), sự ra đời của hợp tác xã đã trở thành phong trào rộng lớn, trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Trải qua hơn 30 năm ( kể từ 1975 ), phong trào hợp tác xã đã có những thăng trầm, biến đổi do điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Cho đến nay, kinh tế hợp tác xã đã có nhiều chuyển biến, mô hình hợp tác xã kiểu cũ đã bị thay thế, chuyển đổi sang hình thức hợp tác xã kiểu mới hoạt động theo Luật hợp tác xã. Nghị quyết Đại hội IX Đảng cộng sản Việt Nam ( năm 2001 ) đã khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của kinh tế tập thể, và chỉ rõ: "Kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân" 46. Trên thực tế, kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã kiểu mới dưới nhiều hình thức, trình độ khác nhau, trong các ngành, lĩnh vực những năm qua đã đáp ứng một phần nhu cầu của người lao động, của hộ sản xuất kinh doanh, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, kinh tế hợp tác xã hiện nay của cả nước cũng như ở Hà Nội, đặc biệt là các hợp tác xã nông nghiệp còn nhiều mặt yếu kém, năng lực nội tại còn hạn chế; số hợp tác xã làm ăn hiệu quả còn ít; lợi ích đem lại cho thành viên chưa nhiều; giá trị do kinh tế kinh tế hợp tác- hợp tác xã tạo ra mới chiếm tỷ trọng thấp trong tổng sản phẩm xã hội, chưa đủ sức đảm nhiệm vai trò cùng với kinh tế Nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 2
  4. Vì vậy, việc làm rõ thực trạng phát triển của kinh tế hợp tác xã của Thủ đô Hà Nội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tìm ra giải pháp thúc đẩy kinh tế hợp tác xã nông nghiệp phát triển là yêu cầu bức thiết đặt ra cho các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu cũng như các nhà hoạch định chính sách hiện nay. Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã chọn đề tài luận văn thực sĩ của mình là “ Phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp ở Hà nội ” cho luận văn thạc sĩ của mình. 2) Tình hình nghiên cứu: Kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX là thành phần kinh tế có vai trò vô cùng quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam, nhất là đối với nhiệm vụ cải tạo tiểu nông đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu vấn đề kinh tế HTX dưới nhiều góc độ khác nhau. Liên quan đến đề tài luận văn có các công trình chủ yếu, như: "Chính sách Nhà nước đối với việc xây dựng các hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp" của Mai Thị Thanh Xuân, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 8(219) năm 1996; “ Quan hệ giữa hợp tác xã mới với các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp ” của GS.TS Tô Xuân Dân; “ Tình hình kinh tế hợp tác, hợp tác xã sau một năm thực hiện Nghị quyết số 13 Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX ” của Tiến sỹ Đinh Xuân Niêm; “ hợp tác xã chuyên ngành và phát triển nông nghiệp nông thôn trong hội nhập kinh tế quốc tế ” của TS .Vũ Trọng Bình và TS. Đào Thế Anh; “ Các hình thức hợp tác của nông dân nước ta hiện nay ” của các tác giả Đào Thế Tuấn, Lê Quốc Doanh, Đào Thế Anh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,1995; “Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Liên minh hợp tác xã Việt nam khoá II ” tại Đại hội đại biểu toàn quốc Liên minh hợp tác xã Việt Nam lần thứ III năm 2005; các " Báo cáo về tình hình kinh tế hợp tác – hợp tác xã của Việt Nam” của Liên minh hợp tác xã Việt Nam các năm từ 2000-2005. Các công trình trên nhìn chung đã tập trung nghiên cứu về kinh tế hợp tác xã trong phạm cả nước, và đề cập đến những giải pháp ở tầm vĩ mô. 3
  5. Nghiên cứu về HTX ở Hà Nội, có các báo cáo của Liên minh HTX Việt Nam và Thành phố Hà Nội trong các năm 2002-2004, như: “ Hoạt động của các hợp tác xã và công tác hỗ trợ hợp tác xã ở Hà nội- Thực trạng và giải pháp” (2002); “ Nghiên cứu các điều kiện và giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể ” ( 2003 ); “ Nghiên cứu giải pháp nhằm phát huy vai trò của khu vực kinh tế tập thể trong quá trình xây dựng và phát triển Kinh tế- xã hội của Thủ đô Hà nội đến 2010” ( 2004 ); và đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (ngày 18/3/2002) về “ Tiếp tục đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả của kinh tế tập thể ”…. Mặc dù các công trình này đã lấy đối tượng nghiên cứu là các hợp tác xã trên địa bàn Hà Nội, nhưng lại nghiên cứu kinh tế HTX trên tất cả các lĩnh vực, còn sự nghiên cứu về kinh tế HTX trong lĩnh vực nông nghiệp chưa được chú ý đúng mức. Vì vậy, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cưú về kinh tế HTX trong nông nghiệp ở Hà Nội một cách hệ thống với tư cách là một công trình chuyên khảo. 3 ) Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích - Nghiên cứu những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp trong sự nghiệp đổi mới kinh tế của Đảng - Đánh giá tổng quát thực trạng kinh tế hợp tác xã nông nghiệp tại Hà Nội giai đoạn 1997 - 2005. - Đưa ra một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp ở Hà Nội. 3.2. Nhiệm vụ - Làm rõ khái niệm và vai trò của hợp tác xã nông nghiệp cũng như bài học kinh nghiệm thành công trong phát triển HTX nông nghiệp tại một số địa phương trong nước. 4
  6. - Phân tích thực trạng hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội, từ đó đưa ra những đánh giá về thành tựu và hạn chế, cùng những nguyên nhân của hạn chế đó. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản, có tính khả thi để tiếp tục phát triển kinh tế hợp tác xã trên địa bàn Hà nội trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Sự phát triển hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp - Phạm vi nghiên cứu + Về không gian: Luận văn phân tích hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội + Về thời gian: từ khi thực hiện Luật hợp tác xã ( 1/7/1997 ) đến nay. 5 ) Phương pháp nghiên cứu Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong nghiên cứu là: Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phương pháp: phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh, và khảo sát thực tế. Các nghiên cứu đánh giá được dựa trên cơ sở bám sát những quan điểm, tư tưởng của Lê nin và Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng, và pháp luật của Nhà nước. 6 ) Dự kiến những đóng góp mới của luận văn: - Cung cấp cho người đọc một sự hiểu biết tổng quát về thực trạng phát triển HTX nông nghiệp tại Hà Nội hiện nay trên cả hai mặt thành tựu và hạn chế. - Đánh giá một cách toàn diện sự phát triển HTX nông nghiệp ở Hà Nội những năm 1997 - 2005, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cụ thể thúc đẩy phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Nội . - Có thể làm tài liệu tham khảo cho việc đào tạo và giảng dậy tại Khoa Kinh tế Đại học Quốc gia Hà Nội. 5
  7. 7 ) Bố cục của Luận văn: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung về kinh tế hợp tác xã. Chƣơng 2 : Thực trạng phát triển HTX nông nghiệp ở Hà Nội thời kỳ 1997 -2005 Chƣơng 3: Định hướng và giải pháp phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghiệp ở Hà Nội CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ HỢP TÁC XÃ 6
  8. 1.1. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về kinh tế hợp tác xã 1.1.1. Quan niệm của Chủ nghĩa Mác -Lê nin về kinh tế hợp tác xã 1.1.1.1. Khái niệm hợp tác xã ( HTX ) Xuất phát từ những tiền đề kinh tế nảy sinh ngay trong lòng xã hội tư bản, C.Mác và Ang-ghen đưa ra một quan niệm khái quát nhất về hợp tác xã, coi HTX là “tổ chức của những người sản xuất nhỏ, yếu thế lực về kinh tế cần phải hợp sức, hợp vốn với nhau để tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh ”. Như vậy, sự xuất hiện của hình thức tổ chức kinh tế hợp tác là dựa trên lao động tự do của người lao động. Các ông cho rằng, mục tiêu của các hợp tác xã không phải vì lợi nhuận, mà là vì sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau để có thể tồn tại bên cạnh các nhà tư bản lớn. Trên thực tế các hợp tác xã đã chứng tỏ sức sống của nó trong nền kinh tế tự do cạnh tranh. Thể hiện là, cuộc khủng hoảng kinh tế vào cuối thế kỷ 19 gây nên sự hạ giá nông sản ở khắp nơi, nhưng các hợp tác xã đã không vì thế mà tan rã, mà ngược lại còn phát triển mạnh hơn. C.Mác, Ph.ăng-ghen và sau này là Lê nin đã nghiên cứu tường tận các hợp tác xã ở nước Anh và một số nước khác ở châu Âu, Bắc Mỹ và Nga... Các Ông cho rằng, các hợp tác xã được xây dựng dưới chủ nghĩa tư bản là để đấu tranh kinh tế với giai cấp tư sản, phát huy sáng kiến của quần chúng; nhờ sáng kiến của quần chúng các hợp tác xã được xây dựng thành những tổ chức kinh tế rộng lớn, nó đã chứa đựng tiềm năng của chủ nghĩa xã hội, là những di sản văn hoá cần được coi trọng và sử dụng. Nhận thức rõ những hạn chế của hợp tác xã dưới chủ nghĩa tư bản, vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, Lê nin cho rằng phong trào hợp tác xã sẽ được phát huy dưới chính quyền nhân dân, do giai cấp công nhân lãnh đạo, dưới sự tác động của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ( chế độ công hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất cơ bản khác ). Trong điều kiện ấy hợp tác sẽ là con đường giản đơn nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân nói riêng và đối với những người sản xuất nhỏ nói chung. 7
  9. Hợp tác xã đã xuất hiện trong lòng xã hội tư bản, những người sáng lập hợp tác xã, dẫn đầu phong trào hợp tác xã là những người giàu lòng nhân đạo, kinh tế hợp tác xã là dòng kinh tế mang tính chất nhân đạo nhân dân, đối lập với mặt phi nhân, phi văn hoá của thị trường tư bản. Chính vì lẽ đó, Lê Nin đã chỉ ra mục tiêu của hợp tác xã: " không phải vì lợi nhuận tối đa, mà vì sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên tham gia hợp tác, những người quản lý điều hành hợp tác xã không phải vì có nhiều vốn đóng góp, mà vì sự tín nhiệm của các thành viên, mọi người tham gia hợp tác đều có quyền hạn ngang nhau không phụ thuộc vào đóng góp nhiều hay ít . Như vậy, tính chất và mục tiêu của hợp tác xã phù hợp với tính chất và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Sau khi chính quyền thuộc về nhân dân lao động, khi nhân dân đã vào hợp tác xã tới một mức độ nhất định, thì chủ nghĩa xã hội tự nó sẽ được thực hiện " |33| 1.1.1.2. Các nguyên tắc cơ bản của hợp tác xã - Nguyên tắc tự nguyện. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, có tính chất tạo tiền đề để thực hiện các nguyên tắc khác. Thực hiện nguyên tắc này, những người lao động có quyền tự quyết định gia nhập hợp tác xã hoặc xin ra khỏi hợp tác xã. V.I. Lê nin nhấn mạnh: tuyệt đối không được cưỡng ép nông dân ( bất kỳ dưới hình thức nào ) mà phải để cho người nông dân tự suy nghĩ, thấy rõ lợi ích thiết thân của mình và tự nguyện hợp tác với nhau. Nguyên tắc này không phải là một thủ thuật đối với tâm lý nông dân, để lôi cuốn nông dân, mà trước hết phụ thuộc vào đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Sự phát triển khách quan của kinh tế - xã hội nông thôn đòi hỏi cần tổ chức hợp tác xã vì hợp tác xã đưa lại lợi ích thiết thân cho người lao động, người sản xuất, và do vậy mà họ tự nguyện tham gia. Nguyên tắc tự nguyện ở đây phản ánh sức hấp dẫn đối với nông dân và họ tự gia nhập, nếu không có sức hấp dẫn thì không thể gò ép nông dân vào hợp tác xã. Tính chủ động tự giác của nhân tố chính trị, của người lãnh đạo chỉ là đẩy nhanh, rút ngắn quá trình người nông dân phát triển tự nhiên và làm cho họ thấy rõ lợi ích thiết thân của mình để tự nguyện tham gia hợp tác xã. Mọi sự can thiệp trái tự nhiên 8
  10. thường vi phạm nguyên tắc tự nguyện. Mà vi phạm nguyên tắc tự nguyện thì người lao động không nhiệt tình, hoặc HTX chỉ là hình thức, không hiệu quả .... Để làm cho nông dân tự nguyên tham gia hợp tác xã cần phải dân chủ trong quản lý và hợp tác xã phải tạo ra lợi ích hấp dẫn họ. - Nguyên tắc cùng có lợi Theo nguyên tắc này, lợi ích của các thành viên tham gia kinh tế hợp tác đều được đảm bảo. Đây là nguyên tắc cơ bản, đảm bảo sự tồn tại lâu dài của HTX. Các xã viên tham gia hợp tác xã đóng góp một cách bình đẳng và kiểm soát một cách dân chủ đối với vốn của hợp tác xã. Vốn của hợp tác xã thường là tài sản chung của hợp tác xã. Các thành viên phải đóng góp vốn vào hợp tác xã và nhận được một khoản bồi hoàn nhất định tuỳ theo vốn góp. Các thành viên phân phối khoản thặng dư của hợp tác xã cho một số hoặc tất cả các mục đích sau: phát triển hợp tác xã, xác lập dự trữ mà một phần của nó là tài sản không chia; cho thành viên hợp tác xã tuỳ theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã; hỗ trợ các hoạt động của hợp tác xã và của các xã viên tham gia hợp tác xã theo quy định của xã viên hợp tác xã. - Nguyên tắc quản lý dân chủ Hợp tác xã là tổ chức mang tính dân chủ được kiểm soát bởi các thành viên là những người tham gia vào việc xác định các chính sách và ra quyết định của hợp tác xã. Các xã viên được tham gia biểu quyết các vấn đề của hợp tác xã và mỗi xã viên đều một lá phiếu biểu quyết như nhau. Tính dân chủ trong thực hiện nguyên tắc dân chủ của hợp tác xã được thể hiện bằng việc xã viên được tham gia thảo luận, thông qua Điều lệ hợp tác xã, thông qua phương án sản xuất kinh doanh, xây dựng bộ máy quản lý hợp tác xã, tham gia trong các quyết định phân phối lợi nhuận Thực hiện tốt nguyên tắc này người lao động sẽ hăng hái làm việc, vì họ thấy được quyền lợi cũng như trách nhiệm của mình đối với HTX. 9
  11. - Từ thấp lên cao. Tư tưởng này đã được Các Mác và Ph.Ăng-ghen nêu ra, khi các ông tính đến sự chờ đợi, do dự và phải lôi cuốn nông dân, người bạn đồng minh chiến lược của giai cấp công nhân và cùng với giai cấp công nhân đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới ( NEP ), V.i.Lênin nêu ra bước đi của quá trình hợp tác từ thương mại rồi dần dần đi vào sản xuất. Thương nghiệp bán buôn có thể liên kết về mặt kinh tế hàng triệu nông dân lại với nhau... làm cho họ có quan hệ gắn bó với nhau, từ đấy dẫn dắt họ đi lên giai đoạn cao hơn là các hình thức hợp tác và liên hiệp trong sản xuất. Tuy nhiên, trong điều kiện tự do thương mại sẽ nảy sinh hợp tác mang tính chất tư nhân tư bản, nhưng Người cho rằng dưới sự kiểm soát của chính quyền chuyên chính vô sản sẽ chuyển các hợp tác xã này sang hình thức tư bản nhà nước hợp tác xã - nấc thang quá độ lên hợp tác xã xã hội chủ nghĩa Về bước đi của quá trình hợp tác, là phải dần dần, từ thấp lên cao liên tục " tách rời" khỏi kinh tế nông dân những chức năng và công việc mà hợp tác xã thực hiện sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với từng người, từng hộ nông dân làm... Trước hết đó là việc " tách rời" khỏi hộ nông dân những dịch vụ liên quan đến lĩnh vực lưu thông, và tiến hành trên cơ sở những dịch vụ đó những hợp tác xã cung ứng tiêu thụ; " tách rời" những việc sơ chế nông sản, và xây dựng những xưởng chế biến ngay tại cơ sở sản xuất của hợp tác xã, thông qua hệ thống hợp tác xã theo vùng lãnh thổ, thiết lập các mối quan hệ kinh tế giữa các hộ nông dân với các xí nghiệp công nghiệp, thương mại và đưa họ đến thị trường trong nước và quốc tế" Như vậy, bước đi của quá trình hợp tác phải dần dần liên tục phù hợp với quá trình phát triển tự nhiên của kinh tế - xã hội, trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội, xã hội hoá sản xuất và mở rộng sản xuất hàng hoá. Những hành vi vội vàng, thiếu thận trọng khi thực hiện hợp tác nhất định sẽ đưa lại thất bại trong thực tiễn. - Có sự giúp đỡ của Nhà nứơc chuyên chính vô sản: 10
  12. Để cho người nông dân tự nguyện chuyển từ chế độ tư hữu ruộng đất sang chế độ sở hữu HTX (sở hữu tập thể), Mác và Ăng Ghen đã nhấn mạnh đến sự giúp đỡ của nhà nước vô sản đối với các HTX. Ông đẫ nhấn mạnh một trong các nguyên tắc phát triển các HTX là "nhà nước giúp đỡ". Trong tác phẩm “Vấn đề nông dân Pháp Đức”, Mác và Ăng Ghen sau khi phân tích việc cần thiết chuyển những nông dân sản xuất trên mảnh đất tư hữu lên HTX trước khi đợi cho chủ nghĩa tư bản làm phá sản họ trong quá trình phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, đã đề nghị “cần có những hy sinh vật chất” để giúp đỡ nông dân vào các HTX sản xuất, “về mặt ấy, vì lợi ích của nông dân theo theo quan điểm kinh tế tư bản chủ nghĩa, chỉ có tiền vứt qua cửa sổ, nhưng đó lại là một cách sử dụng tiền tốt nhất, và những hy sinh vật chất đó có thể tiết kiệm được gấp mười lần số tiền phí tổn cho việc cải tổ lại toàn xã hội” | 40 |. Theo hướng đó, giai cấp vô sản có thể đối xử rộng rãi với nông dân - người bạn trên con đường cách mạng vô sản. Tư tưởng này của Mác và Ăng - Ghen đã được Liên minh các hợp tác xã Quốc tế nhấn mạnh đến trong kỳ đại hội của mình bàn về vai trò của Nhà nước đối với các hợp tác xã trong quá trình phát triển nền kinh tế. Cho đến nay, ý tưởng này vẫn còn nguyên giá trị của nó tại các nước có lịch sử phát triển HTX lâu đời. Các ông còn nêu rõ cần có sự giúp đỡ của nhà nước về tài chính, về kỹ thuật sản xuất đối với các hợp tác xã, đặc biệt là giúp đỡ nâng cao trình độ tri thức văn hóa, tri thức sản xuất cho người lao động và đào tạo những cán bộ, xã viên hợp tác xã văn minh. Để hình thành chế độ hợp tác xã không thể thiếu sự giúp đỡ của Nhà nước. Nhưng suy đến cùng đây là sự nghiệp do chính người lao động, người sản xuất thực hiện, họ phải trở thành chủ thể tự giác, tự giải phóng mình. Do vậy, cuộc cách mạng văn hóa (theo nghĩa rộng) và công tác giáo dục nâng cao dân trí văn hóa trở thành nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình hợp tác hóa. Cuộc cách mạng đó sẽ giúp cho người lao động tăng thêm sự hiểu biết và tính tự nguyện gia nhập hợp tác xã. Thụ động chờ đợi nhà nước hoặc "mặc kệ nông dân" đều là những khuynh hướng sai lầm trong thực hiện. 11
  13. 1.1.1.3. Các hình thức hợp tác xã Mác - Ăng Ghen đã phân tích tính đa dạng của HTX, từ HTX sản xuất nông nghiệp, HTX tiểu thủ công nghiệp, HTX tiêu dùng, HTX vận tải… và nêu ra trong những điều kiện thực tiễn cụ thể Hợp tác có thể được tổ chức dưới hình thức hiệp hội, khoán thuê dưới sự quản lý của Nhà nước và cần phải lôi cuốn cả trung nông, nông dân giầu vào hợp tác xã. V.I.Lênin là người trực tiếp lãnh đạo việc tổ chức các hợp tác xã trong cả hai thời kỳ Cộng sản thời chiến và Chính sách kinh tế mới. Trong thời kỳ cộng sản thời chiến Người đã lãnh đạo việc thành lập các hợp tác xã dưới hình thức công xã cộng sản. Còn trong thời kỳ chính sách kinh tế mới Người nêu ra tư tưởng tư bản nhà nước hợp tác xã. Trong tác phẩm " Bàn về chế độ hợp tác", V.I.Lênin đã đề cập đến hợp tác xã văn minh. Như vậy, hình thức tổ chức hợp tác xã lại có thể khác nhau, phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể. Những hình thức ấy nẩy sinh từ thực tiễn, và tìm nó chính trong thực tiễn. Từ phương pháp luận của C.Mác và V.I.Lênin, gợi mở cho chúng ta giải quyết một cách sáng tạo con đường phát triển kinh tế hợp tác lên chủ nghĩa xã hội. 1.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế hợp tác – hợp tác xã trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN Nhận thức rõ xu hướng phát triển tất yếu của HTX và xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đường lối, chủ trương về đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác, HTX phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đảng xác định kinh tế tập thể, mà nòng cốt là kinh tế hợp tác, HTX là bộ phận quan trọng, cùng với kinh tế Nhà nước ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân để đạt tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phát triển HTX nước ta trong thế kỷ 21 với nhiệm vụ lớn là thực hiện chiến lược phát triển bứt phá tiến lên trở thành nước công nghiệp hiện đại trong 12
  14. bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng cần quán triệt các quan điểm chỉ đạo sau đây: Một là, Phát huy cao độ vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trong phát triển HTX. Do có ý nghĩa toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá, liên quan tới đời sống của hàng chục triệu người, lao động và hộ gia đình, nhất là tại khu vực nông thôn, phát triển HTX được coi là sự nghiệp lớn của đất nước ta hiện nay. Để thực hiện sự nghiệp này, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm của Nhà nước, trước hết là của những người đứng đầu các cấp uỷ Đảng và Chính quyền. HTX tuy là tổ chức tự quản, tự giúp đỡ của người dân, nhưng sự nhận thức đúng đắn về HTX và sự hợp tác giúp đỡ nhau trong tổ chức HTX cần phải có phong trào mạnh, có sự tuyên truyền và trợ giúp tích cực của nhiều lực lượng mà trước hết là của các nhà lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp. Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước một mặt cần tránh sự can thiệp không đúng của các tổ chức Đảng, cơ quan chính quyền vào tổ chức và hoạt động của HTX; mặt khác cần tránh sự bao biện, bao cấp đối với HTX. Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước thể hiện trước hết ở việc đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn về phát triển HTX. Sự nhận thức đúng đắn, thống nhất và sâu rộng trong xã hội về HTX cần gắn liền với việc xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp luật, chính sách thể hiện đúng tiềm năng và lợi thế của hình thức tổ chức HTX, làm cho tổ chức kinh tế này thực sự là của dân do dân và vì dân, cũng như dựa trên việc xây dựng và phát triển hệ thống nghiên cứu, đào tạo chính quy cho cán bộ HTX. Hai là, HTX phải đảm bảo đem lại lợi ích cho xã viên, phải là tổ chức kinh tế của nhân dân theo tinh thần hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế và cải thiện đời sống của cộng đồng xã viên. Phải có sự nhận thức đúng và đầy đủ về bản chất của HTX, về tiềm năng và lợi thế riêng của nó so với các hình thức tổ chức kinh tế khác, làm nó trở nên thực sự hấp dẫn xã viên và nhân dân tham gia. HTX là thể chế vừa phát huy tối đa tiềm năng của từng cá nhân, hộ gia đình, tổ chức kinh tế, vừa phát huy tốt tinh thần 13
  15. hợp tác thông qua liên kết về kinh tế giữa các cá nhân, hộ và tổ chức kinh tế thành viên, từ đó nhân sức mạnh của cả từng thành viên và cộng đồng xã viên HTX. Nhận thức đúng về HTX rộng rãi trong xã hội cần được phổ biến một cách sâu rộng trong xã hội, trở thành một tư tưởng ăn sâu bén rễ trong đông đảo các tầng lớp nhân dân, từ đó trở thành sức mạnh vật chất phát huy đích thực tiềm năng và lợi thế của HTX, làm cho đông đảo nhân dân tự giác tự tổ chức các HTX để tự giúp đỡ, hợp tác với nhau làm lợi cho mình. Sự nhận thức đúng đắn, thống nhất và sâu rộng trong xã hội về HTX đòi hỏi phải có sự kiên trì phấn đấu bền bỉ liên tục, dày công vun đắp của các thế hệ này sang thế hệ khác trong phát triển HTX. Phát triển HTX là một quá trình lâu dài, cùng đi lên với sự nghiệp phát triển chung của loài người, đi từng bước: từ thấp đến cao, từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng, không thể nóng vội chủ quan, nhưng cũng không thể sao nhãng, bỏ qua. Ba là, phát triển HTX phải dựa trên nền tảng phát triển kinh tế hộ, cùng các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Đó là những thành viên của HTX trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Môi trường đầu tư và kinh doanh cho dân và doanh nghiệp cần được khẩn trương hoàn thiện theo hướng " dân được quyền tự do kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm", đơn giản hoá thủ tục hành chính, hiện đại hoá kết cấu hạ tầng kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực. Bốn là, cần đặc biệt coi trọng việc học tập kinh nghiệm quốc tế về phát triển HTX với bề dầy gần 200 năm có tính tới điều kiện cụ thể của Việt Nam và trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, giúp chúng ta đi nhanh đi tắt trong tiếp thu tinh hoa nhân loại, tiết kiệm các nguồn lực, phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng và lợi thế của HTX phục vụ cho sự nghiệp dân giầu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh của đất nước ta. Cần nhanh chóng bứt ra khỏi tư duy cũ và mô hình cũ về HTX. 14
  16. Khuyến khích mạnh mẽ sự hợp tác và giúp đỡ quốc tế trong phát triển hợp tác xã trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế và trên tất cả mọi vùng, miền của đất nước. Như vậy, Đảng ta đã có sự đổi mới trong nhận thức về kinh tế HTX, coi HTX là một tổ chức tập hợp những người nông dân tự chủ, tự nguyện liên kết lại với nhau, không phân biệt quy mô, trình độ kỹ thuật, mức độ tập thể hoá tư liệu sản xuất để cùng hợp sức làm những công việc mà từng hộ riêng lẻ không làm được, hoặc làm được nhưng hiệu quả không cao. Mục đích hoạt động của HTX là để tự bảo vệ lợi ích của xã viên và tương trợ giúp đỡ lẫn nhau tạo điều kiện thuận lợi nhất cho xã viên thu được nhiều lợi nhuận. 1.2. Vai trò của kinh tế hợp tác xã trong nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam 1.2.1 Những đặc trƣng cơ bản của HTX kiểu mới. Theo Luật HTX năm 2003, “ Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật ” |22|. Từ tổng kết thực tiễn quá trình chuyển đổi các HTX kiểu cũ, thành lập các HTX kiểu mới theo các nội dung qui định của Luật HTX và các quan điểm có tính nguyên tắc trong xây dựng kinh tế tập thể đã nêu trong Nghị quyết số 13-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương khoá IX về “tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”, mô hình HTX kiểu mới ở Việt Nam có những đặc trưng cơ bản sau: - Về thành viên tham gia HTX. 15
  17. Khác với HTX kiểu cũ là thành viên HTX chỉ gồm các thể nhân, thì HTX kiểu mới là một tổ chức kinh tế do các thành viên bao gồm cả thể nhân và pháp nhân . Như vậy, trong HTX kiểu mới, các thành viên tham gia rất đa dạng, không phân biệt vị thế của họ khác nhau như thế nào. Các thành viên có thể là người lao động, cán bộ, công chức, các hộ sản xuất, kinh doanh, trang trại, doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế..., cả người có ít vốn và người có nhiều vốn có nhu cầu tự nguyện cùng nhau góp vốn hoặc có thể góp sức lập ra và tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình theo qui định của pháp luật về HTX. HTX không thủ tiêu tính tự chủ sản xuất, kinh doanh của các thành viên, mà chỉ làm những gì mỗi thành viên riêng lẻ không làm được hoặc làm không có hiệu quả để hỗ trợ cho các thành viên phát triển. Ví dụ: do nhu cầu của Thành phố cần có những sản phẩm rau sạch đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng về sinh an toàn thực phẩm, đòi hỏi phải có vùng trồng rau đảm bảo chất lượng. Vì vậy, các hộ trồng rau ở xã Vân Nội-huyện Đông Anh đã liên kết với nhau thành lập HTX sản xuất và tiêu thụ rau an toàn, để HTX đứng ra tổ chức sản xuất rau an toàn theo đúng quy trình về giống, nước, về cách chăm bón ... Thông qua HTX để tiếp nhận sự hỗ trợ của Thành phố về nhà lưới, về khoa học kỹ thuật và tổ chức tiêu thụ sản phẩm cho xã viên. Nếu các hộ xã viên mà tổ chức riêng lẻ thì khó có thể thực hiện được theo đúng quy trình trồng rau an toàn mà Thành phố quy định và khó có khả năng cung cấp đầy đủ, thường xuyên cho khách hàng. - Về quan hệ sở hữu. Trong mô hình HTX kiểu cũ, tuy thực tế là sở hữu cá nhân không được thừa nhận, sở hữu của các hộ gia đình bị xoá bỏ, và chỉ thừa nhận chế độ sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Vì vậy, trong mô hình đó người lao động vào HTX phải bỏ hết ruộng đất, trâu bò, công cụ sản xuất chủ yếu vào HTX. Điều này làm mất động lực kinh tế của những người tham gia, dẫn đến hiệu quả hoạt động của HTX trong thời kỳ này rất thấp. Trong HTX kiểu mới, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân của thành viên được phân định rõ. Sở hữu tập thể (sở hữu của HTX) bao gồm các nguồn vốn 16
  18. tích luỹ tái đầu tư, các tài sản do tập thể mua sắm để dùng cho hoạt động của HTX, tài sản trước đây được giao lại cho tập thể sử dụng làm tài sản không chia và các quỹ không chia. Sở hữu cá nhân là phần vốn góp vào HTX. Thành viên khi tham gia HTX không phải góp tư liệu sản xuất mà điều kiện tiên quyết là phải góp vốn theo quy định của Điều lệ HTX, có thể góp sức khi HTX có nhu cầu; suất vốn góp phụ thuộc vào khả năng mỗi người và được khống chế bởi một tỷ lệ không quá 30%. Vốn góp của thành viên được chia lãi hàng năm và được rút ra khi thành viên ra khỏi HTX. Thành viên có thể góp vốn bằng hiện vật, được qui định theo giá thị trường tại thời điểm góp và giá trị hiện vật được ghi thành vốn góp của thành viên, còn bản thân hiện vật thuộc sở hữu tập thể HTX. Sở hữu thuộc cá nhân thành viên được tôn trọng; thành viên có toàn quyền sử dụng vốn, các phương tiện sản xuất thuộc sở hữu riêng để sản xuất, kinh doanh. Những thành viên của HTX vẫn là những chủ thể độc lập, có kinh tế riêng. Vị trí và vai trò, cũng như quyền tự chủ của các thành viên không bị mất đi, mà ngược lại được hỗ trợ thêm từ phía HTX để phát triển. Mô hình HTX kiểu mới thật sự đã đem lại lợi ích thoả đáng cho các thành viên, vì vậy nó tạo động lực cho sự phát triển bền vững của HTX. - Về quan hệ quản lý trong HTX. Trong các HTX kiểu cũ, quan hệ giữa xã viên với HTX là quan hệ phụ thuộc. Xã viên bị tách khỏi tư liệu sản xuất trở thành người lao động làm công theo sự điều hành tập trung của HTX, tính chất hợp tác đích thực trong HTX không còn đã làm thui chột tính sáng tạo của xã viên. Trong các HTX kiểu mới, quan hệ giữa HTX và thành viên là quan hệ bình đẳng, thỏa thuận, tự nguyện, cùng có lợi và cùng chịu rủi ro trong sản xuất, kinh doanh. Đặc trưng chung của HTX kiểu mới là hoạt động sản xuất, kinh doanh của HTX không nhất thiết phải bao trùm toàn bộ hoạt động, mà có thể chỉ diễn ra ở từng khâu công việc, từng công đoạn, nhằm hỗ trợ phát huy thế mạnh của từng thành viên và do đó cũng tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của thành viên. Thành viên tham gia quyết định những công việc quan trọng của HTX như phương án sản xuất, kinh doanh, phương án phân phối thu nhập trong HTX... Nguyên tắc bầu cử và biểu quyết được thực hiện bình đẳng, 17
  19. mỗi thành viên một phiếu bầu, không phân biệt vốn góp ít hay nhiều. Bộ máy quản lý HTX tổ chức gọn, nhẹ, hiệu quả. Chức năng, nhiệm vụ của Ban quản trị, Ban kiểm soát được xác định rõ ràng, cụ thể. Chủ nhiệm HTX được giao quyền chủ động điều hành công việc và tự chịu trách nhiệm về những quyết định cuả mình. Có thể thấy, mô hình HTX kiểu mới đã thật sự " cởi trói" cho xã viên trong việc thực hiện quyền dân chủ đối với hoạt động của HTX. - Về quan hệ phân phối. Trong các HTX kiểu cũ, chế độ phân phối mang nặng tính bình quân, bao cấp, không khuyến khích người lao động hăng hái, tích cực làm việc, xã viên thiếu gắn bó với HTX, giành công sức làm kinh tế gia đình. Trong các HTX kiểu mới, hình thức phân phối được thực hiện trên nguyên tắc công bằng, cùng có lợi, vừa theo lao động, vừa theo vốn góp và theo mức độ tham gia dịch vụ. Người lao động là xã viên, ngoài tiền công được nhận theo số lượng và chất lượng lao động, còn được nhận lãi chia theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; lợi nhuận và vốn góp càng lớn, mức độ tham gia dịch vụ càng nhiều, thì thu nhập càng cao. Đây là động lực khuyến khích người lao động hăng say làm việc, gắn bó với HTX. Trong quá trình phân phối, các HTX còn tạo ra được các quỹ không chia, một mặt để mở rộng sản xuất, mặt khác tạo nên phúc lợi công cộng cho mọi thành viên trong HTX, kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. - Về cơ chế quản lý đối với HTX. Các HTX kiểu mới đã được giải phóng khỏi sự ràng buộc cứng nhắc của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Nếu như trước đây, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, cũng như hạch toán lỗ lãi, phân phối, giá cả... của HTX đều theo sự chỉ huy cuả cơ quan quản lý cấp trên và theo kế hoạch của Nhà nước. Như vậy, trên thực tế HTX đã bị tước mất quyền tự chủ kinh doanh. Nay HTX đã thực sự là một đơn vị kinh doanh độc lập trong cơ chế thị trường, bình đẳng trước pháp luật với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, liên doanh, liên kết với các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế khác, cũng như phân chia lỗ lãi, bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ đối 18
  20. với Nhà nước và trách nhiệm đối với thành viên. Nhà nước tôn trọng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của HTX, không còn can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của HTX. Vai trò của Nhà nước trong việc quản lý đối với HTX được chuyển qua việc ban hành pháp luật và các chính sách khuyến khích phát triển HTX. Vai trò xã hội của HTX đã được giảm dần. Các nghĩa vụ đóng góp vật chất quá nặng trước kia của HTX đối với chính quyền và cộng đồng, nhất là ở các HTX nông thôn đã từng bước được xoá bỏ, HTX tập trung vào phục vụ và thực hiện các nghĩa vụ đối với các thành viên của chính mình là chủ yếu. - Về qui mô và phạm vi hoạt động. Qui mô và phạm vi hoạt động của HTX không còn bị giới hạn như trước. Mỗi HTX có thể hoạt động ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, không giới hạn địa giới hành chính. Mỗi thành viên có thể tham gia nhiều HTX (HTX không cùng ngành nghề) nếu Điều lệ HTX không hạn chế. Không giới hạn số lượng thành viên tham gia HTX. Thành viên HTX bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, liên kết rộng rãi những người lao động, hộ sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế, cả người có ít vốn và người có nhiều vốn, cùng góp vốn và góp sức trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ; cán bộ, công chức được tham gia HTX với tư cách là xã viên. HTX không thủ tiêu tính tự chủ sản xuất, kinh doanh của các thành viên, chỉ làm những gì mà mỗi thành viên riêng lẻ không làm được hoặc làm không có hiệu quả để hỗ trợ cho các thành viên phát triển; HTX hoàn toàn tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong cơ chế thị trường, chủ động tiến hành liên doanh, liên kết với các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế. - Về mô hình HTX. Khác với các HTX kiểu cũ được áp dụng nhất loạt trên cả nước theo mô hình sản xuất tập trung và chủ yếu được phát triển trong lĩnh vực sản xuất, hầu như không có loại hình HTX làm dịch vụ cho thành viên. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2