intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Bước đầu nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật trồng Sa nhân tím (Amomum longiligulare T.L.Wu) tại khu vực vùng đệm Vườn Quốc gia Ba Vì

Chia sẻ: Tri Tâm | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:71

23
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn bước đầu xác định được một số biện pháp kỹ thuật gây trồng Sa nhân tím tại khu vực vùng đệm Vườn Quốc gia Ba Vì, làm cơ sở xây dựng hướng dẫn kỹ thuật trồng Sa nhân tím cho năng suất cao. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Bước đầu nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật trồng Sa nhân tím (Amomum longiligulare T.L.Wu) tại khu vực vùng đệm Vườn Quốc gia Ba Vì

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ------------------------------ BÙI KIỀU HƯNG BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT TRỒNG SA NHÂN TÍM (Amomum longiligulare T.L.Wu) TẠI KHU VỰC VÙNG ĐỆM VƯỜN QUỐC GIA BA VÌ CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC MÃ NGÀNH: 62.60.02.01 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. VÕ ĐẠI HẢI HÀ NỘI - 2012
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Sa nhân tím (Amomum longiligulare T.L.Wu), thuộc chi Amomum Roxb, họ Gừng Zingiberaceae, là một trong những cây thuốc quí, có giá trị kinh tế cao được người dân biết đến và sử dụng từ lâu đời. Đồng thời là nguồn dược liệu phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Đây là vị thuốc được dùng nhiều trong các bài thuốc y học cổ truyền Phương Đông, bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam và một số quốc gia khác. Hạt Sa nhân còn được dùng làm gia vị, tinh dầu được chiết xuất sử dụng trong kỹ nghệ mỹ phẩm, chế tạo nước hoa, dầu gội đầu và xà phòng thơm. Nhu cầu sử dụng Sa nhân tím ngày càng tăng, tuy nhiên Sa nhân tím chủ yếu được khai thác từ rừng tự nhiên với sản lượng ngày càng giảm dần và có nguy cơ cạn kiện. Sa nhân tím là loài cây dễ trồng, có biên độ sinh thái rộng, thích nghi với nhiều dạng lập địa, thu hoạch đơn giản, phù hợp với cả lao động là phụ nữ, người già và trẻ em. Bên cạnh đó, giá trị thương mại của nó khá lớn từ 120.000 - 150.000 đồng/kg quả khô. Chính vì vậy, rất phù hợp để đưa vào trồng tại các địa phương nông thôn, miền núi, nhằm góp phần xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế. Một số nghiên cứu thử nghiệm trồng Sa nhân ở các vùng sinh thái và địa phương khác nhau như Bình Định, Phú Yên, Lào Cai, Thái Nguyên,… Kết quả bước đầu cho thấy các mô hình trồng Sa nhân đã ra hoa quả và có triển vọng. Song các kết quả nghiên cứu này còn nhỏ lẻ, phân tán, chưa đề cập toàn diện đến vấn đề trồng thâm canh Sa nhân tím cũng như gây trồng Sa nhân tím cho từng dạng lập địa và vùng sinh thái cụ thể. Vùng đệm Vườn quốc gia Ba Vì nằm trên địa bàn 7 xã Minh Quang, Khánh Thượng, Tản Lĩnh, Ba Trại, Ba Vì, Yên Bài và Vân Hoà của Thành phố Hà Nội với tổng diện tích tự nhiên là 35.000 ha, dân số 77.600 người, trong đó 35% là người dân tộc (Mường, Dao). Thực hiện chủ trương giao đất giao rừng theo Nghị định số 01/CP và 02/CP của Chính phủ, các hộ gia đình ở đây đã được giao 18.000 ha đất, trong đó có 4.000 ha đất rừng khoanh nuôi phục hồi. Đây là vùng có tiềm năng rất lớn về tài nguyên đất đai và sức lao động, tuy nhiên việc sử dụng các nguồn lực này
  3. 2 chưa hiệu quả, đất đai chủ yếu là vườn tạp, nương rẫy trồng chè, sắn, keo,… với năng suất thấp nên hiệu quả kinh tế chưa cao. Từ thực tiễn đó việc đưa Sa nhân tím vào trồng ở đây là giải pháp mang tính đột phá nhằm góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng trồng cây LSNG có giá trị kinh tế cao, góp phần xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên, lỗ hổng ở đây chính là kỹ thuật trồng thâm canh Sa nhân tím như: Độ tàn che thích hợp; chế độ bón phân; mật độ số nhánh Sa nhân/m2; chế độ chăm sóc hàng năm (làm cỏ, cắt bỏ nhánh già, tỉa thưa điều chỉnh mật độ, điều tiết độ tàn che,...); phòng trừ sâu bệnh hại, phòng chống động vật ăn quả Sa nhân như: Chồn; Sóc, Chuột... là những vấn đề hiện nay chưa được giải đáp cụ thể sao cho phù hợp nhất với sinh thái vùng đệm Vườn quốc gia Ba Vì. Chính vì vậy, cần phải nghiên cứu để xây dựng và hoàn chỉnh hướng dẫn kỹ thuật trồng Sa nhân tím cho năng suất cao. Xuất phát từ thực tế đó, đề tài “Bước đầu nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật trồng Sa nhân tím (Amomum longiligulare T.L.Wu) tại khu vực vùng đệm Vườn Quốc gia Ba Vì ” được đ t ra là rất cần thiết, có ngh a lớn cả về l luận và thực tiễn. Luận văn đã kế thừa và có bổ sung một số nội dung từ đề tài cấp Thành phố “Nghiên cứu kỹ thuật trồng thâm canh cây Sa nhân tím (Amomum longiligulare T.L.Wu) tại một số xã vùng đệm Vườn Quốc gia Ba Vì, Hà Nội”; do chính tác giả làm chủ nhiệm đề tài.
  4. 3 Chƣơng 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Trên thế giới 1.1.1. Giá trị và công dụng Sa nhân là vị thuốc quí được sử dụng phổ biến trong Y học cổ truyền tại Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Malaixia, Thái Lan, Lào và Việt Nam. Bên cạnh giá trị sử dụng làm thuốc, Sa nhân còn được dùng làm gia vị ho c chiết suất lấy tinh dầu dùng trong kỹ nghệ mỹ phẩm [2], [6],[13]. Dược liệu Sa nhân của Việt Nam [2], [6], được khai thác chủ yếu từ cây mọc tự nhiên ở rừng. Trên thị trường hiện nay giá Sa nhân quả loại 1 dao động từ 120.000 -150.000 đồng/kg khô. Sa nhân hạt (quả khô bóc bỏ vỏ còn nguyên khối hạt) xuất khẩu có thể đạt 8.083 đô la Mỹ/tấn, tương đương 170 triệu đồng Việt Nam/tấn. Như vậy, có thể khẳng định rằng, Sa nhân cũng là loại Lâm sản ngoài gỗ (LSNG) có giá trị kinh tế cao. Xuất phát từ giá trị kinh tế mang lại cùng nhiều l do khác, Sa nhân đã được nghiên cứu đưa vào trồng thêm ở một vài nước trong khu vực cũng như ở Việt Nam. 1.1.2. Những loài Sa nhân đã được đưa vào gây trồng Trung Quốc là nước sớm tiến hành nghiên cứu trồng cây Sa nhân. Theo tài liệu của Viện nghiên cứu Lâm nghiệp nhiệt đới Trung Quốc, Zheng Haishui và He Kejun (1991) cho rằng loài Sa nhân đang được trồng ở phía Nam Trung Quốc hiện nay cho kết quả tốt nhất là Sa nhân tím (Amomum longiligulare) [30]. Trong một ấn phẩm về LSNG ở 15 quốc gia thuộc vùng nhiệt đới châu Á của EC - FAO Partnership Programme, tháng 9 năm 2002 ở Lào có 3 loài Sa nhân mọc tự nhiên đã được người dân đưa vào trồng là: A. longiligulare trồng ở cao nguyên Pôlôven; A. ovoideum và A. villosum trồng ở Chămpasắc và Sa La Van [26]. Theo Catherine Aubertin (2004) [25], trong một Dự án về LSNG ở Phông Xa
  5. 4 Lỳ (Lào), người ta đã trồng giống Sa nhân A. villosum var. xanthioides nhập từ Trung Quốc. Sau 2 năm thử nghiệm thấy cây mọc tốt, nhưng chưa có những con số về kết quả cuối cùng. Như vậy, hiện đã có 3 loài Sa nhân được đưa vào trồng thêm ở các nước Lào và Trung Quốc thì có loài Sa nhân tím (Amomum longiligulare) được quan tâm nghiên cứu nhiều nhất. 1.1.3. Nơi trồng và điều kiện sinh thái Tất cả các loài Sa nhân được trồng ở Lào và Trung Quốc trên đây đều có nguồn gốc từ cây mọc tự nhiên và đều trồng được ở vùng nhiệt đới. Nơi trồng là vùng núi có độ cao từ 350 m đến 1000m [1]. Nhiệt độ thích hợp cho cây sinh trưởng tốt, đối với loài A. villosum trồng ở Trung Quốc từ 22 - 28oC. * Mật độ trồng: Theo Catherine Aubertin (2004) [25], giống Sa nhân (A.villosum var. xanthioides) trồng ở Phông Sa Lỳ (Lào) ước tính có mật độ vào khoảng trên dưới 10.000 cây/ha. * Chăm sóc và sản lượng: Trong những tài liệu về trồng Sa nhân ở nước ngoài hiện có thấy chỉ có một tài liệu đề cập tương đối toàn diện về các khâu chăm sóc, bón phân, phòng trừ sâu bệnh đối với loài Sa nhân A. villosum trồng ở Trung Quốc. Về chăm sóc, đáng chú trọng nhất là làm cỏ 2 - 3 lần/năm, nhưng trước mùa đông, cỏ dại được giữ lại phủ đất đề phòng có sương, tuyết. Bên cạnh đó, bón phân được coi là biện pháp thâm canh quyết định đến năng suất Sa nhân trồng, có thể tăng thêm từ 20 đến 50%. Phân bón gồm: phân chuồng mục, supe phốt phát và phân đạm bón trước vụ hoa. Ngoài ra, các tác giả của công trình này còn khuyến cáo việc điều tiết độ tàn che luôn đảm bảo khoảng 50%. Loài Sa nhân A. villosum trồng ở Trung Quốc chưa phát hiện sâu bệnh hại trên diện rộng. Rải rác có sâu xám cắn cây non, động vật g m nhấm ăn quả già, cách phòng trừ bằng thuốc sâu. Do đây là công trình từ
  6. 5 những năm 1960 của thế kỷ trước nên các loại thuốc trừ sâu được đề cập, nay không còn được phép sử dụng nữa [1]. Trong khi đó, theo Zheng Haishui & He Kejun (1991) [30], loài Sa nhân tím A. longiligulare trồng xen với Cao su sau 3 - 4 năm bắt đầu ra hoa quả. Năng suất trung bình 80 - 120 kg quả khô/ha/năm. Theo một tài liệu khác về trồng Sa nhân A. xanthioides ở tỉnh U Đom Xay (Lào) cho thu hoạch 300 - 600 kg quả/ha/năm, ở đây không nói rõ quả tươi hay quả khô. 1.2. Ở trong nƣớc 1.2.1. Về phân loại thực vật * Tên gọi và vị trí phân loại Các tác giả Võ Văn Chi (1997) [6], Đỗ Tất Lợi (1999) [12], Lê Mộng Chân (2000) [4], Nguyễn Tập (2007) [22], đều thống nhất chung tên gọi Sa nhân tím (hay còn gọi là Sa nhân) có tên khoa (Amomum longiligulare T.L.Wu), thuộc chi Sa nhân (Amomum Roxb), họ Gừng Zingiberaceae. Ấn phẩm Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam (2007) [8], đã mô tả chi tiết về đ c điểm hình thái, thông tin khác về thực vật, phân bố, đ c điểm sinh học của Sa nhân tím cụ thể. * Hình thái Cây thảo, sống lâu năm, cao 1,5 – 2,5 m ho c hơn. Thân rễ có các lá bẹ, mọc bò lan chằng chịt trên m t đất. Lá mọc so le thành hai dãy, hình mác, dài 20 – 30 cm, rộng 5 – 6 cm, gốc hình nêm, đầu thuôn nhọn, mép nguyên, hai m t nhẵn, m t trên sẫm bóng, m t dưới nhạt; cuống lá dài 5 – 10 mm; bẹ lá to, dài, có khía, lưỡi bẹ mỏng, dài 1,5 – 3,0 cm, phần gốc ôm lấy thân. Cụm hoa mọc từ thân rễ thành bông ngắn. Hoa 5 – 7, bao gồm lá bắc ngoài hình bầu dục, màu nâu, lá bắc trong dạng ống; đài nhỏ dài 1.5 cm, có 3 răng nhọn; tràng hình ống dài 1,3 – 1,5 cm, màu trắng, chia 3 thuỳ, m t ngoài có lông thưa, thuỳ giữa hình trứng ngược, hai thuỳ bên hẹp; cánh môi gần tròn, đường kính 2,0 – 2,6 cm, mép màu vàng, có sọc đỏ ở giữa, đầu cánh môi xẻ hai thuỳ nhỏ gập ra phía sau, chỉ nhị dài hơn bao phấn; bầu hình trụ tròn, hơi phình ở giữa, có lông trắng.
  7. 6 Quả hình cầu ho c hơi hình trứng, đường kính 1,3 – 2 cm, dài 1,5 – 2,5 cm, m t ngoài có gai ngắn, mềm, màu tím, chia 3 ô, hạt đa dạng, có áo hạt nếm có vị ngọt, đường kính 3 – 4 mm. Toàn cây và quả vò nát có mùi thơm. * Các thông tin khác về thực vật Chi Amomum Roxb. ở Việt Nam có khoảng 30 loài, trong đó có một số loài mà quả của nó được thu hái, sử dụng với tên gọi chung là “sa nhân”. Đó là: (i)- Amomum villosum Lour, (ii)- A. ovoideum Pierre ex Gagnep, (iii)- A. thyrsoideum Gagnep, (iv)- Sa nhân tím (A. longiligulare T. L. Wu) kể trên. Cả 4 loài này, đều có các đ c điểm hình thái bên ngoài của cây, cụm hoa và quả tương đối giống nhau. Đ c điểm dễ nhận biết duy nhất là lá bẹ của sa nhân tím (A. longiligulare T.L.Wu) dài hơn nhiều (1,5 – 3,0 cm) so với lá bẹ của 3 loài kia (thường chỉ dài dưới 1,0 cm). * Phân bố Ở Việt Nam: Quảng Nam (các huyện Đông Giang, Tây Giang, Trà My); Quảng Ngãi (Ba Tơ, Sơn Hà, Trà Bồng, Sơn Tây, Đức Phổ); Bình Định (V nh Sơn, Vân Canh); Phú Yên (Sông Hinh, Sơn Hoà); Khánh Hoà (Khánh Sơn, Khánh V nh); Kon Tum (Sa Thầy); Gia Lai (K’ Bang, An Khê); Đắk Lắk (M’ Đrắk, Krông Bông, Krông Năng); Thuộc Miền Bắc mới chỉ thấy ở Thanh Hoá (Quan Hoá); Phú Thọ (Yên Lập). Ngoài ra, cây được trồng ở một vài địa phương khác [29]. Trên thế giới: Trung Quốc (Hải Nam) và Lào. * Đặc điểm sinh học Sa nhân tím là cây ưa ẩm, hơi chịu bóng ho c có thể trở nên ưa sáng khi đã phát triển thành các quần thể nhỏ, dày đ c trên các nương rẫy cũ. Cây thường mọc thành đám ở ven rừng kín thường xanh nguyên sinh hay đã thứ sinh, nhất là dọc theo hành lang các khe suối; độ cao 450 – 700 m. Nhìn vào Phân bố sa nhân tím ở Việt Nam cho thấy, cây mọc tự nhiên chủ yếu ở các tỉnh phía Nam, từ Quảng Nam trở vào đến Bình Thuận. Những tỉnh Tập trung nhiều sa nhân tím phải kể đến: Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Gia Lai và Đắk Lắk.
  8. 7 Sa nhân tím thuộc loại cây có biên độ sinh thái rộng, cây thích nghi cao với điều kiện khí hậu nhiệt đới điển hình ở các tỉnh phía Nam, với hai mùa mưa và khô o rõ rệt, nhiệt độ không khí trung bình năm khoảng 22 – 24 C. Khi đem sa nhân tím ra trồng ở các tỉnh vùng núi phía Bắc, nhiệt độ trung bình hàng năm thấp hơn phía Nam, lại có mùa đông lạnh kéo dài, nhưng cây vẫn sinh trưởng phát triển tốt. Mùa sinh trưởng mạnh của cây trùng với mùa mưa ẩm. Cây có khả năng đẻ nhánh khoẻ từ thân rễ. Vụ chồi đầu ra nhiều vào mùa xuân – hè; vụ sau là hè – thu. Nhánh cây chồi khi được 1 năm tuổi trở lên có thể ra hoa quả. Mùa hoa chủ yếu Tập trung vào tháng 4 - 5, quả già vào khoảng tháng 7. Ngoài ra, ngay khi chưa kết thúc vụ hoa quả này, từ tháng 6 đến tháng 7 cây lại ra thêm lứa hoa nữa, quả già vào tháng 10 - 11. Tuy nhiên, lứa hoa quả thứ hai thường ít hơn nhiều so với lứa đầu. Hiện tượng này có thể phù hợp với Tập tính đẻ nhánh 2 lần trong năm đã nói trên. Khả năng ra hoa kết quả nhiều và đều đ n hàng năm của sa nhân tím là một ưu thế hơn hẳn so với các loài sa nhân khác ở Việt Nam (Nguyễn Tập, Nguyễn Chiều và cộng sự, 1995)[20]. Song cần lưu rằng, quả chín của các loài sa nhân thường bị các loài bò sát (Rùa) hay động vật g m nhấm (Sóc, Chuột) ăn. Bên cạnh khả năng tái sinh chồi nhánh, sa nhân tím còn có khả năng tái sinh tự nhiên từ hạt. 1.2.2. Các loài Sa nhân đã được nghiên cứu trồng ở Việt Nam Nghiên cứu trồng Sa nhân ở Việt Nam trên thực tế đã được nói đến từ những năm thuộc thập kỷ 70 của thế kỷ trước. Tuy nhiên, những kết quả được ghi lại thành tài liệu chỉ thấy vào năm 1986, 1995 và vài năm trở lại đây. Tổng số đã có 4 loài Sa nhân được đưa vào trồng thử nghiệm ở các qui mô khác nhau: - Sa nhân tím (Amomum longiligulare). - Sa nhân đỏ (Amomum villosum). - Sa nhân hoa thưa (A. thyrsoideum). - Sa nhân thân cao (A. ovoideum).
  9. 8 Theo tác giả Trương Văn Châu, 2007 [5], đã lựa chọn loài Sa nhân tím để nghiên cứu trồng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa và đã cho kết quả khả quan. Cẩm nang ngành lâm nghiệp, chương Lâm sản ngoài gỗ [3], đã thống kê có 15 loài Sa nhân được thấy ở Việt Nam, nhưng có 3 loài được chọn để trồng trên diện rộng đó là: - Sa nhân xanh - Amomum xanthoides - Sa nhân đỏ Amomum villosum - Sa nhân tím - Amomum longiligulare Nguyễn Tập, Phạm Thanh Huyền, Lê Thanh Sơn [21], [28], đã nghiên cứu trồng Sa nhân tím ở Quân Chu, Đại Từ - Thái Nguyên, nhóm nghiên cứu của Viện Dược liệu đã phát hiện trong quần thể trồng 2,09 ha ở đây, cùng một loài A. longiligulare có 2 dạng quả: quả tròn và hơi dài. Loại quả tròn (to) được người thu mua ưa chuộng hơn loại quả dài ho c tròn nhỏ (theo Trần Phi Hùng - Công ty Cổ phần Dược liệu TW I Hà Nội). Đây là một vấn đề mới phát hiện nhưng chưa có điều kiện để nghiên cứu rõ hơn. Điều kiện tự nhiên của vùng trồng: Theo Nguyễn Tập (2007) [22], thì Sa nhân tím trồng được ở vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm. Nhiệt độ trung bình tháng trong năm từ 23 - 27oC; lượng mưa trung bình 1500 - 2800 mm/năm và độ ẩm không khí trung bình trên 80%. Sa nhân tím có thể trồng được ở nhiều nơi từ vùng núi thấp (độ cao dưới 700m) đến vùng Trung du và ở cả đồng bằng. Đất để trồng Sa nhân tím bao gồm các loại đất feralit đỏ - vàng, đỏ - nâu phát triển trên một số loại đá mẹ; đất đỏ bazan; đất mùn trên núi và cả trên đất phù sa cổ, tương đối ẩm, có hàm lượng mùn từ trung bình trở lên ; pH: 4 - 6. Riêng về đất trồng Sa nhân tím ở Phú Yên, theo Nguyễn Thanh Phương (2006) có hàm lượng mùn, NPK đều từ mức trung bình trở lên và pH: 4,2 - 4,5. Cây Sa nhân trồng ở đây cho kết quả tốt [14]. 1.2.3. Mô hình trồng Trong các công trình đã công bố, có lẽ người đầu tiên làm công việc này là nhóm nghiên cứu ở Viện Dược liệu, gồm Nguyễn Tập, Nguyễn Chiều và cộng sự
  10. 9 (1995) [20],. Ngay từ năm 1993, Sa nhân tím đã được trồng dưới tán rừng trồng Keo lá tràm (0,8ha) ở Lâm trường Tân Lạc, Hoà Bình và dưới tán rừng tự nhiên nghèo kiệt (0,05 ha) ở xã V nh Sơn huyện V nh Thạnh, tỉnh Bình Định. Cây trồng sau 18 - 20 tháng tuổi bắt đầu ra hoa quả lứa đầu. Đến năm 2004, Nguyễn Ngọc Đạo (2006) [7], ở Trung tâm giống cây trồng Bình Định nghiên cứu nhắc lại Sa nhân tím trồng dưới tán rừng trồng Keo lai (0,4 ha) ở xã V nh Sơn và dưới tán rừng tự nhiên (0,6 ha) ở xã V nh Hảo, huyện V nh Thạnh, tỉnh Bình Định. Kết quả, sau 3 năm trồng cây Sa nhân tím mới ra hoa quả lứa đầu. Từ tháng 11 năm 2003 đến tháng 11 năm 2006, Trương Văn Châu (2007) ở Hội Nông dân thị xã Cam Ranh tỉnh Khánh Hòa đã nghiên cứu trồng Sa nhân tím ở Vườn trồng Điều (Đào lộn hột) 3 năm tuổi (ở xã Cam An Bắc - Cam Ranh); Điều 8 năm tuổi (ở xã Khánh Trung - Khánh V nh) và dưới tán rừng tự nhiên nghèo (ở xã Sơn Bình - Khánh Sơn). Kết quả sau 24 tháng trồng mà Sa nhân tím chưa ra hoa, quả [5]. Phải chăng cả 3 mô hình trồng Sa nhân ở đây - về môi trường có thể không đủ ẩm. Trong khi đó, theo Nguyễn Thanh Phương (2006) [14], ở Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Duyên hải Nam Trung Bộ (Qui Nhơn - Bình Định) thì Sa nhân tím trồng ở 2 mô hình: Rừng trồng Keo 3 năm tuổi và Rừng tự nhiên nghèo kiệt tại huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên chỉ sau 18 tháng đã ra hoa quả lứa đầu. Trong khi đó ở các lô nghiên cứu bên cạnh xen với cà phê thì sau 30 tháng tuổi cây mới ra hoa quả lứa đầu. Còn mô hình trồng Sa nhân tím ở vườn gia đình sau 30 tháng tuổi vẫn chưa thấy ra hoa. Trong đó Bùi Kiều Hưng (2011) [9], kết quả trồng thâm canh Sa nhân tím tại Ba Vì, sau 6 tháng tuổi, tỷ lệ sống đạt trên 90%, trung bình mỗi bụi có từ 7 - 10 cây. Áp dụng kỹ thuật bón phân, chăm sóc, điều tiết độ tàn che... sau 12 tháng tuổi trung bình chiều cao đạt trên 100 cm, số nhánh trung bình hơn 20 nhánh/bụi, cây đã bắt đầu có hiện tượng ra hoa [9]. 1.2.4. Kỹ thuật trồng, chăm sóc và những yếu tố cấu thành năng suất * Về giống:
  11. 10 Theo Nguyễn Tập, Nguyễn Chiều và cộng sự (1995) [20], có đề cập tới cây con gieo từ hạt đem trồng sau 12 tháng tuổi có tốc độ đẻ nhánh nhiều hơn 50% so với cây trồng bằng nhánh con sau cùng một thời gian trồng. Nguyễn Thanh Phương (2010) [16], xử l hạt bằng cách ngâm vào nước ấm khoảng 50 - 550C (2 sôi + 3 lạnh); ngâm từ 7-8 giờ sau đó vớt ra, hong cho ráo hạt và đem gieo vào đất sau 15 ngày hạt nhú mầm, sau 25 ngày hạt mọc đều. Thời gian từ lúc nẩy mầm đến khi kết thúc quá trình nẩy mầm khoảng 20 ngày, sau từ 4 - 9 tháng tuổi cây có thể trồng được. Cũng theo Nguyễn Thanh Phương (2009) [15], Kết quả tuyển chọn xuất sứ giống Sa nhân tím cho năng suất cao, chất lượng tốt tại huyện KBang, tỉnh Gia Lai đã khẳng định sau 18 tháng tuổi cả 4 suất sứ Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Định và Gia Lai đều cho quả bói và năng suất khô của năm đầu tiên từ 2,1 – 26,8 kg/ha, trong đó giống sa nhân tím có xuất xứ Bình Định cao nhất với năng suất 26,8 kg/ha. Một lần nữa Nguyễn Thanh Phương (2011) [17], khẳng định sau 18 tháng Sa nhân tím của xuất xứ Bình Định là 14,7 chồi/bụi, cao hơn xuất sứ Khánh Hòa chỉ đạt 12,8 chồi/bụi. Nhóm tác giả Đ ng Ngọc Phúc, Nguyễn Thanh Tùng, Dương Thị Thùy Châu, Trương Thị Bích Phượng (2011) [18], đã tiến hành nhân giống In vitro, vật liệu là đỉnh sinh trưởng và đoạn thân mang chồi nách lấy từ thân rễ của cây Sa nhân tím kết quả sau 4 tuần cho thấy, thời gian khử trùng HgCl2 ảnh hưởng lớn đến khả năng vô rùng mẫu. Ở thời gian khử trùng thấp (5 phút) tỷ lệ nhiễm cao (42,22% đối với đỉnh sinh trưởng; 46,67% đối với đoạn thân), khi tăng thời gian khử trùng đến 18 phút, tỷ lệ chết cao (31,11% đối với đỉnh sinh trưởng; 44,44% đối với đoạn thân). Tỷ lệ mẫu sống không nhiễm cao nhất đạt được ở thời gian khử trùng 12 phút (91,11% đối với đỉnh sinh trưởng; 86,67% đối với đoạn thân). * Thời vụ, kỹ thuật trồng và chăm sóc: Theo Nguyễn Tập (2007) [22], các khâu chăm sóc tiếp theo chủ yếu tập trung vào khâu làm cỏ 2 - 3 tháng/lần [11],[12], [19]. Riêng trong nghiên cứu của Viện Dược liệu ở Quân Chu, Đại Từ, Thái Nguyên gần đây có đề cập mỗi năm bón thúc
  12. 11 1 lần phân NPK - S.10:5.3.3, với khối lượng 1 tấn/lần/năm. Cây trồng được 1,5 - 2 năm tuổi, số nhánh đẻ ra rất nhiều, bò lan trên m t đất, không thể phân biệt giữa các khóm. Bởi vậy từ đó trở đi không cần phải làm cỏ nữa [21], [28]. Có lẽ chính vì kết quả này nên Nguyễn Tập và cộng sự (2007) [21], và Nguyễn Thanh Phương (2006) [14], đều có nhận xét trồng Sa nhân tím có tác dụng phủ đất, chống xói mòn. Riêng Nguyễn Thanh Phương (2006) [14], còn đưa ra kết quả phân tích đất trước và sau 2 năm trồng Sa nhân tím cho thấy, từ độ pH cho đến các chỉ số về mùn và NPK tổng số vẫn giữ nguyên ho c được cải thiện theo hướng tốt lên. Lưu rằng, mô hình nghiên cứu trồng Sa nhân của Nguyễn Thanh Phương trên đây không bón phân. * Các yếu tố cấu thành năng suất: Trong các nghiên cứu trồng Sa nhân tím ở Việt Nam, vấn đề này còn ít được đề cập. Về nhân tố ánh sáng, hầu hết các tác giả có công trình công bố đều cho rằng Sa nhân tím là cây hơi ưa bóng. Vì vậy, khi trồng cần có độ tàn che nhất định. Nếu trồng xen ở rừng tự nhiên nghèo kiệt, độ tàn che cần thiết là 0,5 - 0,6 (Nguyễn Thanh Phương (2006) [14], và Nguyễn Ngọc Đạo (2006) [7]). Trong những nghiên cứu của Nguyễn Tập, Nguyễn Chiều và cộng sự (1995) [20], và Nguyễn Tập và cộng sự (2007) [21], [28], thì lại cho rằng độ tàn che thích hợp để Sa nhân tím sinh trưởng phát triển tốt là 0,1 - 0,3, cho cả loại hình rừng trồng, rừng tự nhiên và đất sau nương rẫy có chừa lại cây che bóng. Ngoài ra, cũng trong báo cáo về trồng Sa nhân tím trên đất sau nương rẫy ở xã Quân Chu, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Tập và cộng sự (2007) [21], [28], còn đưa ra nhận xét: Khi Sa nhân tím đã phát triển thành đám dày đ c, trên diện tích tới gần 1000m2 m c dù không có cây che bóng. Tương tự như vậy, hầu hết các tác giả nghiên cứu trồng Sa nhân tím ở nước ta đều chưa đề cập tới chế độ bón phân, chế độ chăm sóc, tỉa thưa,... Khi cây trồng đã đạt tới độ ổn định - ngh a là từ năm tuổi thứ 3 trở đi. Trong khi đó, mới chỉ qua 2 năm nghiên cứu, Nguyễn Thanh Phương (2006) [14], đã đưa ra những con số về năng suất ở năm thứ 2 là 45,1 kg quả khô/ha/năm ở mô hình trồng Keo (1) và 16,4
  13. 12 kg quả khô/ha/năm ở mô hình rừng tự nhiên nghèo (2). Ngoài ra, tác giả còn cho biết từ năm thứ 3 trở đi sẽ tăng lên 2,25 - 3,96 lần so với năm thứ 2 ở mô hình (1) và tương tự như vậy là 4,73 - 8,46 lần ở mô hình (2). Còn theo Nguyễn Ngọc Đạo (2006) [7], Sa nhân tím trồng dưới tán rừng tự nhiên ở Bình Định sau 3 năm đã cho năng suất 200 kg quả khô/ha/năm. Ngoài ra, một chuyên đề về Sa nhân tím, Nguyễn Tập (2007) [22], cũng đưa ra dự đoán năng suất Sa nhân tím trồng thuần loại sau khi thành thục tái sinh (từ 4 năm tuổi trở đi) có thể đạt từ 700 - 850 kg quả tươi/ha/năm, tương đương với 455 - 552,5 kg quả khô/ha/năm. Tóm lại về vấn đề năng suất cũng như làm thế nào để nâng cao năng suất trồng Sa nhân tím ở nước ta cần phải nghiên cứu cụ thể hơn, đ c biệt cần phải gắn với từng vùng cụ thể. 1.2.5. Về giá trị kinh tế Nguyễn tập (2007) [22], [23],Sa nhân tím là loại dược liệu có giá trị sử dụng trong nước và xuất khẩu cao. Hàng năm, từ nguồn Sa nhân mọc tự nhiên ở Việt Nam đã khai thác thu mua được tới vài trăm tấn quả khô, trong đó tới trên 50% khối lượng thường xuyên được xuất khẩu. Giá thu mua Sa nhân tại chỗ trung bình khoảng 80.000 đồng/kg quả khô cả vỏ giá trị xuất khẩu tính khoảng 120.000 - 150.000 đồng/kg quả khô cả vỏ (tùy theo từng năm). Ấn phẩm Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam (2007) [8], Sa nhân của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan… Giá sa nhân trên thị trường thế giới từ 7 đến 10 đô la Mỹ / kg. Nếu mỗi năm nước ta xuất khẩu được khoảng 400 tấn sa nhân, sẽ thu được từ 2,8 đến 4 triệu USD. Đ ng Ngọc Phúc, Nguyễn Thanh Tùng, Dương Thị Thùy Châu, Trương Thị Bích Phượng (2011) [18], Sa nhân tím (Amomum longiligulare T.L.Wu) thuộc chi sa nhân (Amomum), họ gừng (Zingiberaceae). Đây là một cây thuốc quý, có trong danh mục thực vật rừng quý hiếm ban hành kèm theo nghị định số 18-HĐBT ngày 17/01/1992 (Hội đồng Bộ trưởng, 1992). Theo dự đoán của tác giả Nguyễn Tập (2007) [22], nếu tính trung bình 01ha trồng Sa nhân trồng thuần loại, vào thời kỳ thành thục tái sinh (sau 4 năm) có thể
  14. 13 cho năng suất đạt từ 455 - 552,5 kg quả khô/ha/năm, với giá bán tại chỗ là 80.000 đồng/kg quả khô cả vỏ thì mỗi ha trồng sa nhân cho thu nhập từ 36 - 42 triệu đồng/ha/năm và với giá xuất khẩu tính ra tiền Việt Nam bình quân khoảng 120.000 đồng/kg quả khô cả vỏ tương đương từ 54 - 63 triệu đồng/ha/năm. Đây là con số không nhỏ đối với người dân sống ở vùng nông thôn miền núi, đ c biệt là những hộ gia đình nghèo, những hộ gia đình có nhiều diện tích đất chưa được canh tác một cách hiệu quả. 1.3. Nhận xét và đánh giá chung Điểm qua kết quả các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy: - Sa nhân tím là loài LSNG đem lại giá trị kinh tế cao, có tác dụng dược lý, công dụng làm thuốc và đã được gây trồng ở nhiều nơi trên thế giới và một số tỉnh ở nước ta. - M c dù Sa nhân tím đã được trồng thử nghiệm tại một số tỉnh nói trên ở Việt Nam và bước đầu đã cho kết quả, nhưng chưa có tác giả nào nghiên cứu trồng tại khu vực Ba Vì. Trong khi đó tại vùng đệm VQG Ba Vì thuộc khu vực Hà Nội có diện tích đất vườn đồi và đất sau nương rẫy, đất rừng được giao khá lớn 18.000 ha/35.000 ha diện tich đất tự nhiên, nhưng vẫn chưa có tài liệu nào hướng dẫn về trồng Sa nhân tím tại khu vực này. - Đúc kết từ những kết quả nghiên cứu của các tác giả kể trên, để khắc phục những tồn tại của các công trình đã nghiên cứu và đạt được mục tiêu đ t ra, đề tài đã tập trung bước đầu nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật trồng Sa nhân tím tại Ba Vì, Hà Nội thuộc vùng Đồng bằng Sông Hồng, tiến hành nghiên cứu trên hai dạng lập địa khác nhau là đất vườn đồi và đất sau nương rẫy bằng biện pháp kỹ thuật trồng thâm canh với mục tiêu để bước đầu xác định được kỹ thuật trồng Sa nhân tím phù hợp với điều kiện khu vực Ba Vì làm cơ sở xây dựng hướng dẫn kỹ thuật trồng Sa nhân tím có năng suất cao. Xuất phát từ thực tiễn đó, đề tài “Bước đầu nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật trồng Sa nhân tím (Amomum longiligulare T.L.Wu) tại khu vực vùng đệm Vườn Quốc gia Ba Vì” được đ t ra là rất cần thiết và có ngh a.
  15. 14 Chƣơng 2 MỤC TIÊU – NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu nghiên cứu 2.1.1. Mục tiêu chung Nhằm nâng cao thu nhập cho người dân và góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng tại khu vực VQG Ba Vì. 2.1.2. Mục tiêu cụ thể Bước đầu xác định được một số biện pháp kỹ thuật gây trồng Sa nhân tím tại khu vực vùng đệm Vườn Quốc gia Ba Vì, làm cơ sở xây dựng hướng dẫn kỹ thuật trồng Sa nhân tím cho năng suất cao. 2.2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 2.2.1. Đối tượng nghiên cứu: - Về loài cây: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cây Sa nhân tím (Amomum longiligulare T.L.Wu). - Về lập địa trồng: Nghiên cứu trên hai dạng sinh thái đất khác nhau là đất vườn đồi và đất sau nương rẫy 2.2.2. Phạm vi nghiên cứu: - Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Đề tài tiến hành đánh giá, so sánh một cách chi tiết về ảnh hưởng của các yếu tố như: Mật độ trồng, kỹ thuật bón phân, độ tàn che thích hợp đến tình hình sinh trưởng giữa các mô hình thí nghiệm trồng Sa nhân tím của đề tài cấp thành phố xây dựng, làm cơ sở bước đầu đề xuất kỹ thuật trồng Sa nhân tím tại khu vực vùng đệm Vườn Quốc gia Ba Vì. - Phạm vi về địa điểm nghiên cứu: Giới hạn nghiên cứu của đề tài tại xã Yên Bài, xã Ba Vì, huyện Ba Vì thuộc vùng đệm VQG Ba Vì 2.3. Nội dung nghiên cứu Để đạt được các mục tiêu đề ra, đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung sau: 2.3.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ đến sinh trưởng của Sa nhân tím + Nghiên cứu xác định mật độ trồng Sa nhân tím trên đất vườn đồi. + Nghiên cứu xác định mật độ trồng Sa nhân tím trên đất sau nương rẫy.
  16. 15 2.3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng của Sa nhân tím + Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật bón phân trồng Sa nhân tím trên đất vườn đồi. + Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật bón phân trồng Sa nhân tím trên đất sau nương rẫy. 2.3.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của độ tàn che đến sinh trưởng của Sa nhân tím + Nghiên cứu xác định độ tàn che thích hợp trồng Sa nhân tím trên đất vườn đồi. + Nghiên cứu xác định độ tàn che thích hợp trồng Sa nhân tím trên đất sau nương rẫy. 2.3.4. Bước đầu đề xuất một số biện pháp kỹ thuật trồng thâm canh Sa nhân tím 2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu 2.4.1. Quan điểm và cách tiếp cận của đề tài - Nghiên cứu xuất phát từ thực tiễn, đ c điểm sinh thái của loài và điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội, đ c biệt là quỹ đất đã được giao cho người dân để thấy rõ được tiềm năng, thế mạnh trong sản xuất nông lâm nghiệp của địa phương và nhu cầu ngày càng cao của người dân về việc đưa những loài cây đ c sản có giá trị kinh tế cao vào gây trồng và lựa chọn cây Sa nhân tím để phát triển kinh tế hộ gia đình. - Thông qua làm việc, thảo luận trao đổi kinh nghiệm để khắc phục những hạn chế và giúp người dân tiếp thu được kỹ thuật mới về trồng Sa nhân tím - Theo dõi đánh giá các thí nghiệm nghiên cứu kỹ thuật trồng thâm canh cây Sa nhân tím với các nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất đến năng suất quả Sa nhân là mật độ trồng, phân bón và độ tàn che. Kết quả nghiên cứu sẽ được thử nghiệm và chuyển giao cho người dân thông qua thảo luận và xây dựng mô hình. Các bước tiến hành như sau:
  17. 16 Thu thập các thông tin, Khảo sát sơ bộ khu vực tài liệu đã có nghiên cứu Biện pháp kỹ thuật xây dựng mô hình và thu thập số liệu Nghiên cứu Nghiên cứu Nghiên cứu ảnh hưởng ảnh hưởng ảnh hưởng của mật độ của phân của độ tàn đến sinh bón đến che đến sinh trưởng của Sa sinh trưởng trưởng của nhân tím của Sa nhân Sa nhân tím tím Phân tích, đánh giá mô hình Đề suất biện pháp kỹ thuật trồng Sa nhân tím Hình 2.1: Sơ đồ các bƣớc giải quyết vấn đề của đề tài 2.4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể 2.4.2.1. Phương pháp kế thừa số liệu, tài liệu Để rút ngắn thời gian nghiên cứu, luận văn đã kế thừa một phần kết quả nghiên cứu của đề tài cấp thành phố, số liệu đã có về đ c điểm sinh l , sinh thái loài Sa nhân tím; số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, thổ nhưỡng, khí hậu thủy
  18. 17 văn của một số xã vùng đệm VQG Ba Vì tại UBND các xã Yên Bài và Ba Vì; phòng thống kê huyện Ba Vì, trạm khí tượng thủy văn khu vực Ba Vì và kết quả điều tra phỏng vấn người dân địa phương về tạo giống, trồng, thu hoạch.... Số liệu theo dõi sinh trưởng của các mô hình trồng năm 2011, và điều tra bổ sung một số đ c điểm về thực vật của Sa nhân tím, đo đếm sinh trưởng trong năm 2012. 2.4.2.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm ngoài thực địa Để nghiên cứu kỹ thuật trồng thâm canh Sa nhân tím chính là đánh giá sự ảnh hưởng của các nhân tố chủ đạo như mật độ trồng, phân bón, độ tàn che đến khả năng sinh trưởng và ra hoa, quả của Sa nhân, đề tài đã tiến hành bố trí thí nghiệm ngoài thực địa theo khối ngẫu nhiên đầy đủ 3 lần l p cho mỗi công thức thí nghiệm, cụ thể như sau: * Nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ đến sinh trưởng của Sa nhân tím. - Nghiên cứu xác định mật độ trồng Sa nhân tím trên đất vườn đồi. (i)- Bố trí 3 công thức thí nghiệm về mật độ. + CT1: Mật độ 15.625 cây/ha (0,8 x 0,8 m) + CT2: Mật độ 10.000 cây/ha (1 x 1 m) + CT3: Mật độ 6.944 cây/ha (1,2 x 1,2 m) (ii)- Diện tích thí nghiệm là: 100 m2/CT x 3CT x 3 l p = 900 m2 (iii)- Tiến hành thu thập số liệu định kỳ 4 lần/năm. Các chỉ tiêu theo dõi cụ thể: tỷ lệ sống (%), số nhánh/khóm, chiều cao nhánh, số hoa/khóm, tỷ lệ quả (%) và số quả/khóm. Số liệu thu thập được ghi vào mẫu phiếu điều tra đã xây dựng trước (mẫu phiếu điều tra). - Nghiên cứu xác định mật độ trồng Sa nhân tím trên đất sau nương rẫy. (i)- Bố trí 3 công thức thí nghiệm về mật độ. + CT1: Mật độ 15.625 cây/ha (0,8 x 0,8 m) + CT2: Mật độ 10.000 cây/ha (1 x 1 m) + CT3: Mật độ 6.944 cây/ha (1,2 x 1,2 m) (ii)- Diện tích thí nghiệm là: 100 m2/CT x 3CT x 3 l p = 900 m2
  19. 18 (iii)- Tiến hành thu thập số liệu định kỳ 4 lần/năm. Các chỉ tiêu theo dõi cụ thể: tỷ lệ sống (%), số nhánh/khóm, chiều cao nhánh, số hoa/khóm, tỷ lệ quả (%) và số quả/khóm. Số liệu thu thập được ghi vào mẫu phiếu điều tra đã xây dựng trước (mẫu phiếu điều tra). * Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng của Sa nhân tím. - Nghiên cứu kỹ thuật bón phân trồng Sa nhân tím trên đất vườn đồi. (i)- Bố trí 4 công thức thí nghiệm về bón phân. (ii)- Phân bón sử dụng: Phân chuồng hoai, NPK (5:10:3) lâm thao và Vi sinh Sông Gianh + CT1: Không bón phân (đối chứng) + CT2: 2 kg phân chuồng + 100g NPK (5:10:3) + 100g vi sinh Sông Gianh + CT3: 2 kg phân chuồng + 200g NPK (5:10:3) + 100g vi sinh Sông Gianh + CT4: 2 kg phân chuồng + 100g NPK (5:10:3) + 200g vi sinh Sông Gianh (iii)- Diện tích thí nghiệm: 100 m2/CT x 4CT x 3 l p = 1.200 m2 (iv)- Tiến hành thu thập số liệu định kỳ 4 lần/năm. Các chỉ tiêu theo dõi cụ thể: tỷ lệ sống (%), số nhánh/khóm, chiều cao nhánh, số hoa/khóm, tỷ lệ quả (%) và số quả/khóm. Số liệu thu thập được ghi vào mẫu phiếu điều tra đã xây dựng trước (mẫu phiếu điều tra). - Nghiên cứu kỹ thuật bón phân trồng Sa nhân tím trên đất sau nương rẫy. (i)- Bố trí 4 công thức thí nghiệm về bón phân. (ii)- Phân bón sử dụng: Phân chuồng hoai, NPK (5:10:3) lâm thao và Vi sinh Sông Gianh + CT1: Không bón phân (đối chứng) + CT2: 2 kg phân chuồng + 100g NPK (5:10:3) + 100g vi sinh Sông Gianh + CT3: 2 kg phân chuồng + 200g NPK (5:10:3) + 100g vi sinh Sông Gianh + CT4: 2 kg phân chuồng + 100g NPK (5:10:3) + 200g vi sinh Sông Gianh (iii)- Diện tích thí nghiệm: 100 m2/CT x 4CT x 3 l p = 1.200 m2 (iv)- Tiến hành thu thập số liệu định kỳ 4 lần/năm. Các chỉ tiêu theo dõi cụ thể: tỷ lệ sống (%), số nhánh/khóm, chiều cao nhánh, số hoa/khóm, tỷ lệ quả (%) và
  20. 19 số quả/khóm. Số liệu thu thập được ghi vào mẫu phiếu điều tra đã xây dựng trước (mẫu phiếu điều tra). * Nghiên cứu ảnh hưởng của độ tàn che đến sinh trưởng của Sa nhân tím. - Nghiên cứu xác định độ tàn che thích hợp trồng Sa nhân tím trên đất vườn đồi. (i)- Bố trí 3 công thức trồng thí nghiệm độ tàn che. + CT1: 0 - 0,3 (độ tàn che rất thấp) + CT2: 0,3 – 0,5 (độ tàn che thấp) + CT3: 0,5 – 0,6 (độ tàn che trung bình) (ii)- Việc xác định độ tàn che chỉ ở mức tương đối (tổng diện tích tán những cây che bóng tính theo hình chiếu đứng trên đơn vị diện tích nghiên cứu 100 m 2). (iii)- Diện tích thí nghiệm: 100 m2/CT x 4CT x 3 l p = 1.200 m2 (iv)- Tiến hành thu thập số liệu định kỳ 4 lần/năm. Các chỉ tiêu theo dõi cụ thể: tỷ lệ sống (%), số nhánh/khóm, chiều cao nhánh, số hoa/khóm, tỷ lệ quả (%) và số quả/khóm. Số liệu thu thập được ghi vào mẫu phiếu điều tra đã xây dựng trước (mẫu phiếu điều tra). - Nghiên cứu xác định độ tàn che thích hợp trồng Sa nhân tím trên đất sau nương rẫy. (i)- Bố trí 3 công thức trồng thí nghiệm độ tàn che. + CT1: 0 - 0,3 (độ tàn che rất thấp) + CT2: 0,3 – 0,5 (độ tàn che thấp) + CT3: 0,5 – 0,6 (độ tàn che trung bình) (ii)- Việc xác định độ tàn che chỉ ở mức tương đối (tổng diện tích tán những cây che bóng tính theo hình chiếu đứng trên đơn vị diện tích nghiên cứu 100 m 2). (iii)- Diện tích thí nghiệm: 100 m2/CT x 4CT x 3 l p = 1.200 m2 (iv)- Tiến hành thu thập số liệu định kỳ 4 lần/năm. Các chỉ tiêu theo dõi cụ thể: tỷ lệ sống (%), số nhánh/khóm, chiều cao nhánh, số hoa/khóm, tỷ lệ quả (%) và số quả/khóm. Số liệu thu thập được ghi vào mẫu phiếu điều tra đã xây dựng trước (mẫu phiếu điều tra).
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1