Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Đánh giá hiệu quả phục hồi rừng làm cở sở đề xuất kỹ thuật xử lý rừng sau khoanh nuôi tại huyện Sơn Động - tỉnh Bắc Giang
lượt xem 4
download
Đề tài này nghiên cứu đánh giá được đặc điểm và hiệu quả phục hồi rừng bằng kỹ thuật khoanh nuôi tại khu vực nghiên cứu. Đề xuất được các biện pháp kỹ thuật xử lý rừng sau khoanh nuôi tại Bắc Giang theo mục đích tác động. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của luận văn này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Đánh giá hiệu quả phục hồi rừng làm cở sở đề xuất kỹ thuật xử lý rừng sau khoanh nuôi tại huyện Sơn Động - tỉnh Bắc Giang
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ----------------------- PHAN THỊ HỒNG NHUNG ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ PHỤC HỒI RỪNG LÀM CƠ SỞ ĐỀ XUẤT KỸ THUẬT XỬ LÝ RỪNG SAU KHOANH NUÔI TẠI HUYỆN SƠN ĐỘNG - TỈNH BẮC GIANG LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội - 2010
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ----------------------- SỐ LIỆU GỐC ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ PHỤC HỒI RỪNG LÀM CƠ SỞ ĐỀ XUẤT KỸ THUẬT XỬ LÝ RỪNG SAU KHOANH NUÔI TẠI TỈNH BẮC GIANG LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
- Hà Nội - 2010
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Việt Nam với những đặc điểm thuận lợi về địa hình, khí hậu như nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều... đã làm cho tính đa dạng sinh học ở Việt Nam tương đối cao. Trong đó phải kể tới sự đa dạng của các hệ sinh thái rừng. Theo số liệu thống kê của ngành Lâm nghiệp cho thấy, năm 1943 diện tích rừng nước ta vào khoảng 14 triệu ha (độ che phủ 43%), tính đến năm 1993 diện tích rừng chỉ còn 9,3 triệu ha (trong đó có khoảng 8,25 triệu ha rừng tự nhiên và 1,05 triệu ha rừng trồng tương ứng với độ che phủ là 28%). Như vậy, trong vòng 50 năm diện tích rừng đã bị giảm khoảng 5 triệu ha. Trong khi đó, theo báo cáo của Cục Kiểm lâm năm 2008, có tới trên 60% diện tích rừng tự nhiên nước ta là rừng thứ sinh nghèo. Trong thời gian qua đã có rất nhiều chương trình và dự án như: 661, dự án 327, PAM.... nhằm phục hồi và phát triển rừng. Tính trung bình, giai đoạn 2000 – 2007 hàng năm có trên 2 triệu ha rừng (cả 3 loại rừng) được đưa vào khoanh nuôi phục hồi và khoán bảo vệ, đạt bình quân 140% so với kế hoạch (Cục Lâm nghiệp, 2009). Mặc dù đã có những thành tựu nhất định về khoanh nuôi phục hồi rừng nhưng số lượng và chất lượng rừng vẫn còn kém do chưa có sự hiểu biết đúng đắn về đối tượng tác động và các quy luật tự nhiên của chúng. Bởi lẽ, không phải bất cứ đối tượng nào đưa vào khoanh nuôi đều mang lại kết quả cao. Bắc Giang là một tỉnh miền núi với diện tích rừng tương đối lớn do không có kế hoạch khai thác hợp lý cho nên có rất nhiều khu rừng bị suy thoái, trở thành rừng thứ sinh nghèo. Đề tài: “Đánh giá hiệu quả phục hồi rừng làm cở sở đề xuất kỹ thuật xử lý rừng sau khoanh nuôi tại huyện Sơn Động - tỉnh Bắc Giang” được thực hiện nhằm góp phần làm sáng tỏ hiệu quả của công tác khoanh nuôi phục hồi rừng tại địa phương.
- 2 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Ở nước ngoài 1.1.1. Phục hồi rừng thứ sinh nghèo bằng khoanh nuôi 1.1.1.1. Quan điểm về rừng thứ sinh nghèo và phục hồi rừng thứ sinh nghèo Tuy có khác nhau về ngôn từ hay cách diễn đạt, nhưng cho đến nay thuật ngữ rừng thứ sinh nghèo đã được nhận thức thống nhất trên phạm vi toàn thế giới. Rừng thứ sinh nghèo là rừng nằm trong loạt diễn thế thứ sinh, tiềm năng và các chức năng có lợi của rừng đã bị suy giảm dưới tác động của các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội, đặc biệt là tác động của con người (A.G. Iatxenko,1976; P.D.Iasenko,1969; V.N. Sukasov, 1957, 1960, 1964; ITTO, 2002) [12]. Theo ITTO (2002), phục hồi rừng bằng khoanh nuôi là quá trình thúc đẩy diễn thế đi lên của hệ sinh thái rừng, nâng cao mức độ đa dạng sinh học, điều chỉnh cấu trúc, sản lượng của chúng thông qua việc bảo vệ không tác động hoặc sử dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh như: xúc tiến tái sinh; xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung, làm giàu rừng… David Lam (2003)[11] đã phân tích quan điểm về phục hồi rừng thông qua sơ đồ dưới đây: Cấu trúc và sản lượng của hệ sinh thái Đa dạng sinh học Hình 1.1: Sơ đồ quá trình phục hồi rừng (David Lamb, 2003) A: Giai đoạn nguyên sinh B,C: Giai đoạn suy thoái
- 3 Theo David Lamb quá trình phục hồi rừng có thể đưa cấu trúc và sản lượng của hệ sinh thái tương đương với hệ sinh thái nguyên thủy. Tuy nhiên, mức độ đa dạng sinh học của chúng không thể đạt được mức độ đó (điểm E). Cùng với thời gian, một hệ sinh thái mới (tại điểm D và E) có thể đưa số lượng các loài cây hướng tới điểm A dưới ảnh hưởng của sự xâm nhập của một số loài từ lâm phần lân cận. Như vậy, để xúc tiến quá trình phục hồi rừng con người có thể sử dụng các biện pháp kỹ thuật tác động thông qua xúc tiến tái sinh cũng như xúc tiến tái sinh có trồng bổ sung hoặc nuôi dưỡng rừng. Quan điểm hiện nay về phục hồi rừng thứ sinh nghèo được chia thành 3 nhóm chính như sau [11]: Một là, phục hồi rừng là đưa rừng đến trạng thái hoàn chỉnh, tiếp cận trạng thái trước khi bị tác động. Cairns (1995), Jordan (1995) và Egan (1996)[19] là những người đại diện điển hình của quan điểm này. Hai là, nhấn mạnh hệ sinh thái rừng được phục hồi tới mức độ bền vững nào đó bằng con đường tự nhiên hoặc nhân tạo mà không nhất thiết giống như hệ sinh thái ban đầu. Đây cũng là quan điểm nhận được nhiều sự tán đồng nhất. Điển hình của quan điểm này là: Harrington (1999); Kumar (1999); Bradshaw (2002); IUCN (2003); David Lamb (2003) Ba là, tập trung vào việc xác định các nguyên tố và yếu tố rào cản của quá trình phục hồi rừng. Điển hình là nghiên cứu của ITTO (2002) khi nhấn mạnh, những khu vực đất rừng bị thoái hóa, hàm lượng chất dinh dưỡng trong đất thấp, kết cấu không tốt, nhiều mầm bệnh, xói mòn mạnh và lửa rừng. Để phục hồi rừng cần phải xác định ảnh hưởng của các nhân tố tới sự mất rừng, từ đó cố gắng hạn chế hoặc loại bỏ chúng. Đây được coi như là một quan điểm, một sự nhìn nhận mới về phục hồi rừng, vì nó đã bước đầu gắn kết phục hồi rừng với các yếu tố xã hội, khi nguyên nhân chính gây nên mất rừng tại các nước nhiệt đới chính là con người.
- 4 1.1.1.2. Thành tựu nghiên cứu phục hồi rừng thứ sinh nghèo - Về tái sinh và phục hồi rừng Nhiều công trình nghiên cứu đã phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng tới tái sinh, phục hồi rừng tự nhiên và chia chúng thành 2 nhóm: + Nhóm nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến tái sinh và phục hồi rừng không có sự can thiệp của con người (Baur G.N, (1962) [14]; Anden.S (1981) + Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới tái sinh và phục hồi rừng có sự can thiệp của con người. Các nhà lâm học như: Gorxenhin (1972, 1976); Bêlốp (1982) đã xây dựng thành công nhiều phương thức tái sinh và phục hồi rừng nghèo kiệt. Đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu của Maslacop E.L (1981) “về phục hồi rừng trên các khu khai thác”; Mêlêkhốp I.C (1966) về “ảnh hưởng của cháy rừng tới quá trình phục hồi rừng”; Pabedinxkion (1966) về “phương pháp nghiên cứu quá trình phục hồi rừng”. Myiawaki (1993), Yu cùng các cộng sự (1994). Goosem và Tucker (1995); Sun và cộng sự (1995); Kooyman (1996) [11] cũng đã đưa ra nhiều hướng tiếp cận nhằm phục hồi hệ sinh thái rừng đã bị tác động ở vùng nhiệt đới. Kết quả ban đầu của những nghiên cứu này đã tạo nên những khu rừng có cấu trúc và làm tăng mức độ đa dạng về loài. Tuy nhiên hạn chế của chúng là không thể áp dụng trên quy mô rộng, bởi các yếu tố về nhân công và các nguồn lực khác trong quá trình thực hiện. - Về phân loại rừng nghèo Hiện nay có 2 quan điểm về phân loại rừng nghèo được nhất trí cao trong giới khoa học quốc tế [11]. + Dựa vào đặc điểm hiện trạng thảm thực vật che phủ. Điển hình cho quan điểm này là E.F. Bruenig (1998). Tác giả phân chia hệ sinh thái rừng bị suy thoái thành 5 loại chính và các biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm phục hồi chúng. Đó là các lâm phần rừng hỗn loài tự nhiên bị khai thác quá mức, các
- 5 lâm phần rừng thứ sinh ở các giai đoạn phát triển khác nhau, các đám cây gỗ thứ sinh, trảng cỏ và các dạng thảm thực vật khác trên các loại hình thổ nhưỡng khác nhau. + Dựa vào đặc điểm của sự tác động: Quan điểm này được thể hiện rõ trong hướng dẫn phục hồi rừng của tổ chức cây gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO, 2002), theo đó rừng thứ sinh nghèo được phân chia làm 3 loại phụ đó là: Rừng nguyên sinh bị suy thoái (Degraded primary forest); rừng thứ sinh (Secondary forest); đất rừng bị thoái hoá (Degraded forest land) - Về phân loại đối tượng rừng để tác động Phân loại đối tượng rừng thứ sinh làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp phục hồi và phát triển rừng là việc làm có ý nghĩa thiết thực. Theo IUCN (2001), Dư Thân Hiểu (2001), để phân chia loại hình kinh doanh rừng thứ sinh, trước tiên cần xem xét đến loài cây ưu thế hoặc một số loài cây mục đích chủ yếu và tình hình điều kiện lập địa, sau đó quy nạp chúng vào những biện pháp kinh doanh tương ứng. - Về phương thức lâm sinh áp dụng cho rừng thứ sinh nghèo Cho đến nay, các phương thức lâm sinh (PTLS) cho phục hồi và phát triển rừng tự nhiên có hai dạng chính: + Duy trì cấu trúc rừng tự nhiên không đều tuổi bằng cách lợi dụng lớp thảm thực vật tự nhiên hiện có và sự thuận lợi về điều kiện tự nhiên để thực hiện tái sinh tự nhiên, xúc tiến tái sinh tự nhiên, hoặc trồng bổ sung. Ngoài ra còn có thể sử dụng phương thức chặt chọn từng cây hay từng đám, phương thức cải thiện quần thể và chặt nuôi dưỡng rừng tự nhiên để dẫn dắt rừng có cấu trúc gần với cấu trúc của rừng tự nhiên nguyên sinh. + Dẫn dắt rừng theo hướng đều tuổi, có một hoặc một số loài cây bằng phương thức chủ yếu là cải biến tổ thành rừng tự nhiên, tạo lập rừng đều tuổi bằng tái sinh tự nhiên đều tuổi, như các phương thức chặt dần tái sinh dưới
- 6 tán rừng nhiệt đới (TSS); phương thức cải tạo rừng bằng chặt trắng trồng lại; phương thức trồng rừng kết hợp với nông nghiệp (Taungya) Về trình tự xử lý, các phương thức lâm sinh còn có thể được chia ra: + Các PTLS lấy cải thiện làm mục tiêu trước mắt, như phương thức đồng nhất hoá tầng trên. + Các PTLS nhằm tạo lập tái sinh làm mục tiêu chủ yếu, còn cải thiện chỉ là một phần của biện pháp tái sinh, như phương thức rừng đồng tuổi của Malaixia (MUS), phương thức chặt dần nhiệt đới ở Nijêria và Trinidat. + Các phương thức lâm sinh nhằm đạt cả hai mục tiêu song song, tức là vừa cải thiện, vừa thức đẩy tái sinh ở nơi cần thiết, mà dạng tổng quát của nó có liên hệ với hình thức của phương pháp khai thác chọn. - Về khía cạnh kinh tế - xã hội của phục hồi rừng thứ sinh nghèo Các nghiên cứu đều khẳng định hiện tượng mất rừng tập trung chủ yếu tại các nước đang phát triển vùng nhiệt đới. Bên cạnh các lý do khách quan như chiến tranh, núi lửa...mất rừng có liên quan mật thiết với tỷ lệ tăng trưởng dân số. Dân số đông, đói nghèo và sự lạc hậu đã làm cho người dân chỉ nghĩ đến cái lợi trước mắt của việc tàn phá tài nguyên rừng mà không hề có sự suy tính để gìn giữ cho các thế hệ tương lai, trong khi đó các thể chế chính sách của các nước này lại không đủ sức để hạn chế, vận động hay hướng mọi người đến các hoạt động giữ gìn tài nguyên rừng. Hàng loạt các khu rừng nguyên sinh, thứ sinh vẫn đang tiếp tục bị tàn phá, thay thế vào đó là những diện tích đất trống hay những khu rừng thứ sinh nghèo kiệt đến mức tưởng chừng khó có thể phục hồi. Điển hình cho hướng nghiên cứu về khía cạnh kinh tế - xã hội của phục hồi rừng thứ sinh nghèo là Lamb, Tomlinson (1994); Banerjee (1996); Ramakrishnan và cộng sự (1994); Chokkalingamand Ravindranath (2001); David Lam và Dongilmour (2003)[21]; IUCN, WWF (2003).
- 7 1.1.1.3. Tồn tại của nghiên cứu phục hồi rừng thứ sinh nghèo Nghiên cứu ở các nước đang phát triển cho thấy, vì thiếu biện pháp kinh tế - xã hội thích hợp mà những biện pháp kỹ thuật lâm sinh thường không được áp dụng hoặc được áp dụng một cách hình thức và không đạt được hiệu quả như mong muốn. Những vấn đề kinh tế - xã hội nhạy cảm nhất với tiến trình phục hồi rừng thường liên quan đến chính sách về quyền sở hữu và sử dụng rừng, chia sẻ lợi ích từ rừng, thuế tài nguyên, sự tham gia của cộng đồng trong quản lý rừng. Đôi khi các vấn đề kinh tế - xã hội liên quan cả với những vấn đề nhận thức và kiến thức, về tôn giáo và tín ngưỡng, phong tục và tập quán…trong một số trường hợp, người ta đã coi những giải pháp kinh tế xã hội là “quan trọng hơn”. Vì vậy, phần lớn những nghiên cứu đã khẳng định, để phục hồi rừng thì cùng với việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh đúng đắn, cần xây dựng và thực hiện những biện pháp kinh tế xã hội. Thậm chí phải đưa chúng vào các chương trình, hành động của mỗi quốc gia. 1.1.2. Xử lý lâm sinh cho rừng tự nhiên sau khoanh nuôi Diện tích đất toàn cầu là 130x108 ha, đất bị băng tuyết phủ là 10%, đất nông nghịêp không thể canh tác được do lạnh là 15%, do khô hạn là 17%, đất quá dốc là 18%, đất mỏng 9%, đất ẩm ướt 4% và đất nghèo 5%, chỉ còn lại 22% được chia ra đất sản xuất ở mức độ nhẹ 13%, vừa 6% và cao 3%. Do dân số tăng lên, nhu cầu tài nguyên thiên nhiên cũng tăng lên, ô nhiễm môi trường, thoái hoá đất, thiếu tài nguyên nước, biến đổi khí hậu, mất tính đa dạng sinh vật… uy hiếp nghiêm trọng đến sinh thái tự nhiên, sự thoái hoá hệ sinh thái ngày càng nặng nề hơn. Theo thống kê, tổng diện tích đất bị thoái hoá trên trái đất là 0,2x108 km2 chiếm 15% tổng diện tích đất toàn cầu, trong đó xói mòn do nước chiếm 55%, xói mòn do gió chiếm 28%, đất nghèo hoá chiếm 7%, mặn hoá chiếm 4%, đầm lầy chiếm 2%, đất bị ô nhiễm chiếm 1%.
- 8 Hằng năm đất bị xói mòn làm mất đi 700x104 ha. Theo thống kê của FAO năm 2000[20] đất sản xuất nông nghiệp bị mất đi 20%, do sự can thiệp của con người trên 50x108 ha đất có thực bì bị thoái hoá, làm cho chức năng phục vụ hệ sinh thái thực bì lục địa bị ảnh hưởng tới 43%, trong đất có độ che phủ thực bì có 20x108 ha bị thoái hoá (chiếm 17% diện tích có thực bì trên địa cầu, kể cả thực bì nhân tạo), trong đó bị thoái hoá nhẹ (sản lượng nông nghiệp hơi bị giảm xuống) là 7,5x108 ha, bị thoái hoá vừa (sản lượng giảm nhiều phải đầu tư mới khôi phục) là 9,1x108 ha và bị thoái hoá nặng (không thể tiến hành sản xuất nông nghiệp, phải thông qua viện trợ quốc tế mới cải tạo được) là 3x108 ha và thoái hoá cực nặng (không thể sản xuất và cải tạo được) là 0,09x108 ha. Đất hoang mạc hoá toàn cầu là 36x108 ha. Diện tích rừng mưa nhiệt đới bị thoái hoá là 4,27x108 ha. Hàng năm chi phí đầu tư cho khôi phục sinh thái là 10 – 20 tỷ USD, hàng năm tốc độ sa mạc hoá đạt đến một con số kinh khủng 5x104 – 7x104 km2. Do sự can thiệp quá mức của con người đất có rừng che phủ đang bị thoái hoá trên diện tích lớn. Khôi phục và xây dựng lại hệ sinh thái bị thoái hoá phải tôn trọng quy luật tự nhiên, thông qua tác động của con người. Kỹ thuật thích hợp, kinh tế phù hợp, xã hội tiếp thu làm cho hệ sinh thái khoẻ mạnh hơn, có ích cho sự sống của con người. Điều kiện kỹ thuật, kinh tế, xã hội là hậu thuẫn và chỗ dựa cho sự khôi phục. Nguyên tắc khôi phục hệ sinh thái bao gồm nguyên tắc tự nhiên, nguyên tắc hệ thống, nguyên tắc kỹ thuật kinh tế xã hội và nguyên tắc thẩm mỹ. 1.1.2.1. Phân chia đối tượng rừng sau khoanh nuôi để xử lý kỹ thuật lâm sinh Ở các nước như châu Á, như ở Trung Quốc, Malayxia, Indonexia rừng sau khoanh nuôi được phân chia thành các đối tượng kèm theo các giải pháp tác động dưới đây[8]: - Khoanh nuôi thành công
- 9 + Rừng cây lá rộng gỗ mềm dưới 10 tuổi, rừng cây lá rộng gỗ cứng dưới 20 tuổi, rừng sào, rừng trung niên có tương đối nhiều cây ưu việt mà độ tàn che dưới 0,7 đều phân chia vào loại hình nuôi dưỡng. + Đối với những lâm phần sau khi hoanh nuôi, nếu số lượng cây lưu giữ lại đạt đến hoặc vượt quá tiêu chuẩn số lượng cây cần lưu giữ trong chặt trung gian (chặt nuôi dưỡng) rừng thứ sinh, thì phân chia vào loại hình chăm sóc nuôi dưỡng. + Những lâm phần mà cây lưu giữ lại được từ 300 cây/ha trở lên có đường kính ngang ngực 6 ÷ 8 cm, hoặc từ 225 cây/ha trở lên có đường kính ngang ngực 10 ÷ 14 cm, hoặc từ 150 cây/ha trở lên có đường kính ngang ngực lớn hơn 16 cm, thì phân chia vào loại hình cải tạo chặt chọn. Phương thức cải tạo chặt chọn có nghĩa là, sau khi chặt chọn sẽ trồng thêm cây lá kim chịu bóng dưới tán các cây rừng còn lưu giữ lại, để tác động thành một rừng hỗn giao cây lá kim cây lá rộng. - Khoanh nuôi không thành công + Nếu sau khoanh nuôi, lâm phần có số lượng cây tốt, có triển vọng tương đối ít, sau khi chặt trung gian (chặt nuôi dưỡng) không thể duy trì được ngoại hình hoàn chỉnh, hoặc đối với rừng thưa (độ tàn che nhỏ hơn 0,3) thì phân chia vào loại hình cải tạo. + Đối với những lâm phần hoặc các trảng cây bụi trên đất rừng có độ dốc dưới 300 được phân chia vào loại hình cải tạo. Căn cứ vào số lượng cây mạ, cây con của cây mục đích nhiều ít, có thể áp dụng các phương pháp tái sinh nhân tạo, tái sinh tự nhiên hoặc xúc tiến tái sinh tự nhiên để cải tạo chúng thành rừng lá kim thuần loại, hoặc rừng lá rộng thuần loại, hoặc rừng hỗn giao cây lá kim cây cây lá rộng. + Đối với những lâm phần hoặc trảng cây bụi trên đất rừng có độ dốc lớn hơn 300 được phân chia vào loại hình tái sinh trước khi chặt hoặc loại
- 10 hình cải tạo theo dải (theo băng). Phương thức tác nghiệp tái sinh trước khi chặt nghĩa là, đầu tiên tiến hành trồng rừng dưới tán rừng cũ, rồi đợi cho cây con có triển vọng thành rừng mới tiến hành chặt rừng cũ. Cải tạo theo dải (theo băng) nghĩa là, chia rừng thành các dải (băng) ngang qua núi có chiều rộng xác định, cứ cách một dải chặt một dải, chặt xong tiến hành trồng rừng (nhân tạo), khi chắc chắn thành rừng sẽ chặt các dải còn chừa lại và tiếp tục trồng rừng (hoặc tái sinh nhân tạo). + Trên một lô rừng mà có 2 loại hình cải tạo lâm phần, được phân chia vào loại hình cải tạo tổng hợp. 1.1.2.2. Nguyên tắc và kỹ thuật tác động a) Rừng thứ sinh nghèo là một phần hợp nhất của hệ thống sử dụng đất Rừng thứ sinh nghèo cần được xem như là một phần hợp nhất trong toàn bộ cảnh quan nông thôn nhiệt đới. Nó chịu ảnh hưởng của điều kiện bên ngoài lập địa ở đây. Rừng thứ sinh được quản lý, đất rừng nghèo được phục hồi có thể đem lại nhiều lợi nhuận và dịch vụ cho xã hội, chúng thực hiện chức năng bảo vệ và sản xuất, do đó cần phải nhìn nhận những đối tượng này như là một yếu tố sử dụng đất quan trọng. Trong bất kỳ cảnh quan nhất định nào, một vài khu rừng thứ sinh nghèo cần được chuyển thành kiểu sử dụng đất khác, nhưng sự chuyển đổi này phải nằm trong toàn bộ kế hoạch sử dụng đất tổng thể. b) Kiến thức địa phương và kiến thức truyền thống là một nguồn có giá trị, nó phải được đánh giá ngang tầm với các hệ thống kiến thức khác. Có những kiến thức địa phương rất đáng được quan tâm và có giá trị kinh tế về quản lý và sử dụng rừng thứ sinh nhiệt đới. Những kiến thức này cần phải được đánh giá một cách đầy đủ trong chiến lược phục hồi, quản lý và tái tạo rừng thứ sinh nghèo.
- 11 c) Rừng thứ sinh nghèo cần phải được quản lý dưới một biện pháp quản lý thích hợp và sử dụng đa dạng về lợi ích. Rừng thứ sinh nghèo nên được quản lý dưới một nguyên tắc chung về quản lý cho nhiều mục đích, cụ thể là tối ưu hoá lợi nhuận từ nguồn tài nguyên này. Việc lập kế hoạch cần phải được quan tâm hai mục đích. Thứ nhất: quản lý cần phải nâng cao năng suất các sản phẩm đã được xác định trước. Thứ hai: phải phục hồi lại chức năng bảo vệ của rừng. Những kế hoạch quản lý cần phải đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu cho những người tham gia vào công việc, nó phải được hiểu một cách thống nhất và có hiệu quả cao cho quá trình thực thi. Những kế hoạch quản lý cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với từng điều kiện của mỗi khu rừng và cần phải có sự đánh giá cẩn thận về các đặc điểm chính về tự nhiên và kinh tế - xã hội của khu vực tiến hành các hoạt động. d) Mục đích của quản lý rừng thứ sinh nghèo phụ thuộc vào những mục tiêu kinh tế - xã hội và các giá trị văn hoá. Mục tiêu ban đầu của quản lý và tái tạo rừng thứ sinh nghèo là phục hồi lại trạng thái và năng suất của rừng trước khi bị suy thoái và đảm bảo rằng hệ sinh thái rừng có thể tiến hoá một cách tự nhiên thông qua thời gian dài và tự biến đổi về điều kiện môi trường của nó. Tuy nhiên trong các chiến lược phục hồi rừng thứ sinh nghèo, cần phải nắm được các quan điểm kinh tế - xã hội về chiến lược này bởi vì chính yếu tố kinh tế - xã hội sẽ là động lực cho các hoạt động này. Nếu rừng thứ sinh nghèo được quản lý cho hoạt động sản xuất thì các bên liên quan phải có được những lợi ích cao hơn lợi ích hà họ thu được từ hoạt động sử dụng đất hiện tại. Khi đề xuất các chiến lược cho rừng thứ sinh nghèo cần có một sự hiểu
- 12 biết về chức năng của rừng thứ sinh nghèo trong hệ thống sản xuất trang trại và những yếu tố tác động đến việc đưa ra quyết định của người nông dân để họ quan tâm đến rừng thứ sinh nghèo. Bất luận mục tiêu chính của chiến lược tái tạo rừng là thế nào thì mục tiêu của nó không chỉ là các chức năng đơn giản và là sức khoẻ của hệ sinh thái rừng mà còn phải là việc thực hiện các chức năng khác nữa. e) Quản lý rừng thứ sinh nghèo phải dựa vào sự phân tích và kiến thức về mặt lâm sinh học và sinh thái học. Những lâm phần còn sót lại của rừng nguyên sinh nghèo hoặc rừng thứ sinh cần phải được phân tích một cách cẩn thận và cụ thể trước khi đưa ra các biện pháp lâm sinh hợp lý cho nó và góp phần hạ giá thành của hoạt động. Những loài cây không có giá trị thương mại hoặc cây bụi có thể có chức năng quan trọng về mặt sinh thái, chúng có thể đóng vai trò quan trọng trong các mối quan hệ cộng sinh, cải thiện điều kiện bề mặt đất, góp phần tạo ra nơi cư trú cho các loài động vật. Trong chiến lược tái tạo rừng cần phải chú ý tạo ra sự cân bằng sinh thái trong các khu rừng còn sót lại. f) Rừng thứ sinh nghèo phải được tái tạo và phục hồi ở bất cứ nơi nào có thể thông qua con đường diễn thế tự nhiên. Hỗ trợ và thúc đẩy diễn thế tự nhiên là chiến luợc khả thi và phổ biến nhất cho hoạt động tái tạo rừng thứ sinh và phục hồi đất rừng nghèo. Nếu quá trình diễn thế tự nhiên không đạt được mục đích trong một thời gian nhất định thì mới cần thiết phải trồng. g) Quản lý, phục hồi và tái tạo rừng thứ sinh nghèo có thể bị cản trở bởi các rào cản từ môi trường tự nhiên và kinh tế. Không nên cố gắng thực hiện các chiến lược này ở những nơi không có sự ủng hộ lâu dài, bởi vì có thể các chiến lược này không được ủng hộ, do các tác động của việc sử dụng đất. Để chống lại những mối đe dọa có thể trong
- 13 tương lai, đảm bảo cho sự toàn vẹn của những khu rừng được phục hồi, cần phải giảm thiểu các sự tác động này bằng các cơ chế cần thiết như quy hoạch cảnh quan, hoặc thoả hiệp với chủ sở hữu đất ở gần. h) Bảo tồn và tái tạo đa dạng sinh vật bao gồm nguồn gen là một phần liên quan đặc biệt trong toàn bộ chiến lược phục hồi, quản lý và tái tạo rừng thứ sinh nghèo. Cho dù mục tiêu đầu tiên của các chiến lược phục hồi, quản lý hay tái tạo rừng thứ sinh nghèo là gì đi chăng nữa thì tính đa dạng sinh vật và nguồn gen cần phải được bảo tồn. Mục tiêu cuối cùng của những chiến lược phục hồi, quản lý và tái tạo rừng thứ sinh nghèo là tạo ra những khu rừng có mức độ đa dạng loài cao và cấu trúc quần xã đa dạng. Những loài được liệt kê vào sách đỏ thế giới (CITES), đó là bản danh sách của những loài gặp nguy hiểm, cần phải được bảo vệ. Trong đó có liệt kê một số loài cây có rất ít ở các cảnh quan. i) Các tính chất của đất cần được duy trì và cải thiện để đem lại hiệu quả của phục hồi và tái tạo lâm phần. Các đặc điểm hoá học, sinh học và vật lý cần phải được đánh giá, tái tạo và duy trì để đảm bảo khả năng tái sinh tốt của các loài cây mong muốn và làm tăng các dịch vụ từ môi trường. j) Hiệu quả về kinh tế và tài chính cần thiết cho các chiến lược quản lý, phục hồi và tái tạo rừng thứ sinh nghèo. Những nỗ lực tái tạo rừng nguyên sinh nghèo, quản lý rừng thứ sinh và phục hồi đất rừng nghèo chỉ có thể thành công nếu chúng đem lại hiệu quả tài chính và kinh tế lâu dài. Nếu nguồn tài chính đầu tư cao, kết quả đem lại không chắc chắn và thời gian thu lại quá lâu dẫn tới quá trình đầu tư này không thể chứng tỏ được hiệu quả.
- 14 k) Bất cứ nơi nào có thể, cần phải sử dụng các biện pháp lâm sinh đơn giản. Những biện pháp lâm sinh đơn giản và rõ ràng có thể đem lại kết quả nhanh, giảm giá thành, công sức và thúc đẩy quá trình tham gia. l) Các yếu tố cản trở trong điều kiện lập địa cần phải được nhận ra trước khi tiến hành thực hiện các chiến lược phục hồi, quản lý và tái tạo rừng thứ sinh nghèo, đặc biệt là đất rừng nghèo. m) Trong chiến lược phục hồi đất rừng nghèo phải xác định một cách cẩn thận các loài cây thiết yếu. Đất rừng nghèo thường tồn tại ở cảnh quan rừng bị tàn phá, ở đây nguồn hạt của các loài cây rừng và khả năng phát tán hạt thường không tồn tại. Nhiều loài cây thiết yếu có thể là cây gỗ, cây bụi, cây thuốc và động vật cần phải đưa trở lại hoặc tăng số lượng quần thể của chúng lên. n) Quá trình lựa chọn loài cho các biện pháp kỹ thuật lâm sinh cần phải tốt nhất ở mức có thể. Việc lựa chọn loài cây cần phải thực hiện thông qua quá trình đánh giá nhu cầu và mong muốn của những đối tượng sử dụng rừng chính thức, đặc biệt là những người mà sinh kế của họ phụ thuộc hầu hết vào rừng. o) Động thái tự nhiên của lâm phần là nền tảng cơ bản của phục hồi, tái tạo rừng. Không được coi nhẹ các yếu tố như khả năng phát triển lệch của tán trong các tầng bị phá huỷ và quá trình phát triển thẳng lên của tái sinh tự nhiên từ mặt đất. Những loài và những kiểu gen còn sót lại của rừng nguyên thuỷ và những loài xâm lấn lập địa phải được lựa chọn để cho thích hợp với điều kiện của địa phương và khả năng sống sót tốt. Hơn nữa chúng thường là những loài chất lượng cao.
- 15 p) Các biện pháp lâm sinh cần phải tạo ra được điều kiện thuận lợi thông qua việc mô phỏng quá trình diễn thế tự nhiên. Khả năng phục hồi của rừng nhiệt đới thường được đánh giá thấp. Một nguyên tắc để làm giảm mức độ tác động của các biện pháp lâm sinh là bắt chước quá trình tự nhiên để tối ưu hoá hiệu quả thông qua quá trình tự phục hồi của rừng. Tất cả các khu rừng bị suy thoái thường có đặc điểm cấu trúc hỗn tạp, vì sự phát triển quá nhiều tre nứa và dây leo như Merremia spp và bên dưới cây bụi như Chromolaene spp và Eugeissonia spp. Có nhiều trường hợp khi phát dọn cây dây leo thường làm cho chúng phát triển mạnh hơn. Một điều quan trọng là lựa chọn các giải pháp lâm sinh như thế nào cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế? Để giải quyết vấn đề này có thể thực hiện theo bốn câu hỏi lâm sinh dưới đây: 1. Hoàn cảnh của lâm phần và điều - Lâm phần kiện lập địa đang tồn tại? - Điều kiện lập địa - Điều kiện kinh tế - xã hội 2. Lịch sử lâm phần là gì? - Nguyên nhân hình thành rừng thứ sinh nghèo 3. Lập địa sẽ phát triển thế nào khi - Quá trình sinh thái thiếu sự tác động quản lý đã được - Thay đổi kiểu sử dụng đất lập? 4. Chiến lược quản lý gì cần thiết để - Kế hoạch quản lý cho từng lâm đạt được một kết quả đặc biệt? phần bị suy thoái: - Các lựa chọn về mặt lâm sinh, quản lý sử dụng đa mục đích - Xác định mục tiêu, phương pháp sử dụng - Giám sát Tác động chặt nuôi dưỡng (chặt trung gian) có thể được thực hiện quanh năm, nhưng thích hợp nhất là vào vụ thu đông hoặc những lúc nông nhàn. Việc lựa chọn cây đối với các loài cây rụng lá tốt nhất nên thực hiện
- 16 vào mùa sinh trưởng của cây, nếu không sẽ rất khó phán đoán tình hình sinh trưởng của cây. Trước khi tiến hành chặt trung gian, cần tổ chức cho các nhân viên thực thi công việc học tập quy trình kỹ thuật, xác định rõ nhiệm vụ, đồng thời phân chia khu vực đất rừng chặt trung gian. Cần lập thêm một khu tiêu chuẩn, tiến hành điều tra từng cây, tính toán cường độ chặt tỉa thưa và sản lượng gỗ sẽ chặt ra, biên soạn kế hoạch thi công chặt trung gian và báo cáo lên cấp trên phê chuẩn. Sau khi được phê chuẩn cần tổ chức cho những nhân viên có kinh nghiệm tiến hành xác định, chọn cây chặt bỏ để đánh dấu, những cây sẽ chặt bỏ này được gọi là “cây đánh dấu”. Đồng thời phải bố trí sắp xếp tốt các nhân viên thi công và các việc chuẩn bị về vật chất. Nói chung, trình tự chặt trung gian có những bước sau đây: - Chặt đổ cây: Nhất định phải chặt theo sự đánh dấu trước, để kiên trì nguyên tắc “3 chặt bỏ 3 giữ lại” trong khi chặt, cần phải thực hiện tốt “3 nhìn”: một nhìn tán cây, đảm bảo cho độ tàn che vừa phải; hai nhìn thân cây, đảm bảo chặt đi cây xấu giữ lại cây tốt; ba nhìn loài cây, để đảm bảo chọn cây chặt chính xác. Cũng cần chú ý đến hướng đổ của cây chặt, tránh tổn thương cho cây lưu giữ lại; khi chặt cần chặt thật sát gốc. - Chặt cành, tạo gỗ: Sau khi chặt cây đổ xuống đất, tiến hành chặt cành từ gốc lên ngọn, khi chặt cành cần chặt phẳng, trơn tru, không làm tổn thương đến thân cây. Tạo gỗ cần phải tiến hành theo nguyên tắc lợi dụng hợp lý, tiết kiệm gỗ, bất cứ đoạn thân nào có giá trị sử dụng đều cần phải tạo gỗ theo quy cách. - Tập trung gỗ, xử lý đất rừng (dọn rừng): Tập trung gỗ là đem các cây gỗ chặt hạ được vận chuyển ra ngoài xếp thành khối, xếp ngay ngắn theo từng quy cách khác nhau, để tiện đo kích thước và bốc lên xe. Chặt tỉa thưa xong phải kịp thời xử lý đất rừng (dọn rừng); đem cành nhánh bỏ lại mang ra bên
- 17 ngoài rừng, có thể đưa vào sử dụng được, hơn nữa có tác dụng phòng tránh phát sinh lửa rừng và sâu bệnh hại lan tràn phá hoại. - Kiểm tra chất lượng trong khi thi công và nghiệm thu kết thúc. Sau khi thi công xong cần ghi chép vào các tờ phiếu lô, khoảnh, kiện toàn hồ sơ kỹ thuật sản xuất, đồng thời định kỳ quan sát ghi chép tài liệu theo quy định. 1.2. Ở trong nước 1.2.1. Phục hồi rừng thứ sinh nghèo bằng khoanh nuôi 1.2.1.1. Quan điểm về rừng thứ sinh nghèo và phục hồi rừng thứ sinh nghèo Rừng thứ sinh nghèo được dùng khi diễn tả một quần xã thực vật hình thành bởi quá trình phục hồi lại sau khi bị gián đoạn trong chuỗi diễn thế nguyên sinh (Phạm Xuân Hoàn, 2003)[12]. Những khu rừng thứ sinh nghèo được hình thành có sự tác động ở mức độ trực tiếp và cả gián tiếp của con người (Thái Văn Trừng, 1970,1978) [17], Trần Ngũ Phương (1970)[15]. Đặc trưng của rừng thứ sinh nghèo là tính quy luật trong kết cấu của lâm phần không rõ ràng, đặc biệt là cấu trúc tổ thành, cấu trúc tầng thứ, độ tàn che, cấu trúc mật độ và tuổi cây trong quần xã; làm cho cây bụi và dây leo phát triển cực kì mạnh. Rừng thứ sinh nói chung và rừng thứ sinh nghèo nói riêng đều có sản lượng và giá trị kinh tế kém. Mật độ thiếu đặc biệt mật độ những loài cây mục đích cũng là một đặc điểm dễ nhận thấy ở rừng thứ sinh (Phạm Xuân Hoàn, 2003)[12]. Phục hồi rừng trước hết là phục hồi lại thành phần chủ yếu của rừng là thảm thực vật cây gỗ. Phục hồi rừng là một quá trình sinh học gồm nhiều giai đoạn và kết thúc bằng sự xuất hiện một thế hệ mới thảm cây gỗ bắt đầu khép tán. Quá trình phục hồi rừng sẽ tạo điều kiện cho sự cân bằng sinh học xuất hiện, đảm bảo cho sự cân bằng này tồn tại liên tục và cũng vì thế mà chúng ta có thể sử dụng chúng liên tục được (Võ Đại Hải và cộng sự, 2003)[9].
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 301 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 322 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn