Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Đánh giá hiệu quả xây dựng mô hình quản lý rừng cộng đồng tại thôn Bắc Hưng, xã Quyết Chiến, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình
lượt xem 5
download
Bài nghiên cứu này nhằm đánh giá được thực trạng công tác quản lý rừng cộng đồng và hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường của mô hình quản lý rừng cộng đồng tại thôn Bắc Hưng. Đề xuất một số giải pháp tổ chức, quản lý, kỹ thuật và chính sách nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý rừng cộng đồng. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Đánh giá hiệu quả xây dựng mô hình quản lý rừng cộng đồng tại thôn Bắc Hưng, xã Quyết Chiến, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ----------------------------------------------- NGUYỄN THẠCH LAM ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ XÂY DỰNG MÔ HÌNH QUẢN LÝ RỪNG CỘNG ĐỒNG TẠI THÔN BẮC HƯNG, XÃ QUYẾT CHIẾN, HUYỆN TÂN LẠC, TỈNH HÒA BÌNH Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.02.01 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN VIỆT HÀ HÀ NỘI, 2012
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP -------------------------------------------------- NGUYỄN THẠCH LAM ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ XÂY DỰNG MÔ HÌNH QUẢN LÝ RỪNG CỘNG ĐỒNG TẠI THÔN BẮC HƯNG, XÃ QUYẾT CHIẾN, HUYỆN TÂN LẠC, TỈNH HÒA BÌNH LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI, 2012
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Các hình thức quản lý rừng trực tiếp bởi cộng đồng đã xuất hiện từ lâu đời trong các cộng đồng dân tộc khác nhau ở Việt Nam[24]. Sở dĩ quản lý rừng cộng đồng vẫn tồn tại được cho đến ngày nay là do nó dung hòa được các lợi ích khác nhau của những nhóm người sống trong cùng một cộng đồng. Do đó việc phát huy vai trò của cộng đồng người dân sống gần rừng trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng là rất cần thiết, vừa mang ý nghĩa phát huy truyền thống dân tộc vừa có thể tạo ra một cách quản lý rừng có hiệu quả và bền vững. Quản lý rừng cộng đồng được hiểu là việc quản lý tài nguyên rừng do cộng đồng thực hiện. Cộng đồng có thể là chủ thể quản lý rừng hoặc cộng đồng không phải là chủ thể quản lý mà chỉ tham gia quản lý rừng và được chia sẻ lợi ích từ rừng. Nói một cách khác đi, quản lý rừng cộng đồng là việc bảo vệ, xây dựng, phát triển và sử dụng rừng có sự tham gia điều hành bởi cộng đồng, bất kể rừng đó có thuộc quyền sở hữu của cộng đồng hay không. Tại tỉnh Hòa Bình từ năm 2005 đến năm 2007, chương trình quản lý rừng cộng đồng của dự án ETSP-Helvetas đã tài trợ xây dựng thí điểm 05 mô hình quản lý rừng cộng đồng (QLRCĐ) tại 05 thôn thuộc 03 huyện Tân Lạc, Lạc Sơn và Kim Bôi. Khi đó, hiện trạng sở hữu rừng có 02 dạng: 1) Rừng thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng, do các thành viên của cộng đồng cùng tham gia quản lý và kinh doanh; 2) Rừng không thuộc quyền sở hữu của cộng đồng (Nhà nước đã giao cho hộ và nhóm hộ gia đình), nhưng các thành viên của cộng đồng vẫn cùng tham gia quản lý các khu rừng đó. Nhìn chung, ở mỗi địa phương, do những đặc thù về tài nguyên rừng khác nhau, thành phần dân tộc khác nhau, cùng với đó là sự khác nhau về truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, kinh nghiệm bản địa,… đã dẫn đến sự đa dạng trong các hoạt động quản lý rừng cộng đồng và vì thế không thể áp dụng một cách cứng nhắc các quy định nhà nước vào quản lý rừng cộng đồng
- 2 cho tất cả các địa phương cũng như khó có thể áp dụng nguyên bản các kinh nghiệm quản lý rừng cộng đồng của địa phương này vào địa phương khác. Như vậy, sau một thời gian triển khai thì việc đánh giá hiệu quả của các mô hình QLRCĐ là việc làm cần thiết, nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm cả về lý luận và thực tiễn để nâng cao hiệu quả QLRCĐ tại địa phương. Có hàng loạt câu hỏi đang đặt ra, như: vị trí, vai trò của cộng đồng trong hệ thống tổ chức quản lý rừng như thế nào? Những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển rừng cộng đồng là gì? Những giải pháp kỹ thuật xây dựng rừng cộng đồng đã hợp lý chưa?, vv... Xuất phát từ yêu cầu trên, đề tài: “Đánh giá hiệu quả xây dựng mô hình quản lý rừng cộng đồng tại thôn Bắc Hưng, xã Quyết Chiến, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình” được tiến hành nhằm góp phần làm rõ hiện trạng, tiềm năng, xu thế và những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển rừng cộng đồng ở Hòa Bình.
- 3 Chương I TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Khái niệm về cộng đồng, lâm nghiệp cộng đồng, quản lý rừng dựa vào cộng đồng, quản lý rừng cộng đồng 1.1.1 Khái niệm về cộng đồng Khái niệm này được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu, tuy nhiên chưa có sự thống nhất chung về định nghĩa. Cụ thể: + Theo Darcy Davis Case (1990), “Cộng đồng là nhóm người sống trên cùng một khu vực và thường cùng nhau chia sẻ các mục tiêu chung, các luật lệ xã hội chung và hoặc có quan hệ gia đình với nhau”. + Thuật ngữ “cộng đồng” theo FAO (1996) [47] “Cộng đồng là những người sống tại một chỗ trong một tổng thể hoặc là một nhóm người sinh sống tại cùng một nơi theo những luật lệ chung”. Ở Việt Nam, theo các nhà Xã hội học, Nhân chủng học ở Việt Nam, xét về mặt ngôn ngữ thì “cộng đồng” là sự kết hợp của hai từ “cộng” và “đồng”. Từ “cộng” được hiểu là cộng vào, gộp vào, thêm vào, kết hợp vào, còn từ “đồng” có nghĩa là cùng, cùng nhau, giống nhau, chung nhau về một số đặc điểm: nhân chủng học, lãnh thổ, phong tục tập quán, sở thích… Từ ý nghĩa trên “cộng đồng” được hiểu là “Toàn thể những người sống thành tập thể hay một xã hội mà có những đặc điểm giống nhau, gắn bó với nhau thành một khối và giữa họ có sự liên hệ, hợp tác với nhau để cùng nhau hoạt động ngày, cùng nhau thực hiện những lợi ích của mình và lợi ích chung của toàn xã hội” [29]. Với sự đa nghĩa của khái niệm cộng đồng đã làm cho chúng ta không hiểu được một cách thật sự rõ ràng thuật ngữ này. Mặt khác, cộng đồng còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành như: Xã hội học, Nhân chủng học… Mỗi ngành nghiên cứu một khía cạnh khác nhau sẽ có các cách hiểu khác nhau. Vì vậy thuật ngữ “cộng đồng” đã tạo nên các ngữ nghĩa khác nhau.
- 4 Trong ngành lâm nghiệp, ở lĩnh vực hoạt động quản lý tài nguyên rừng cộng đồng khái niệm “cộng đồng” được hiểu như sau: Nguyễn Hồng Quân (2000) [26] đã phân biệt cộng đồng ra làm hai loại: Cộng đồng dân tộc và cộng đồng làng bản: (i) Cộng đồng dân tộc: Hiện nước ta có 54 dân tộc, mỗi dân tộc đều có những đặc điểm riêng về văn hoá, tổ chức xã hội, tiếng nói, tập quán truyền thống và hệ thống sản xuất; (ii) Cộng đồng làng bản: Hiện nay, nước ta có khoảng 50.000 làng, bản tập hợp lại trong khoảng 9.000 xã. Từ xưa mỗi làng bản được coi là một tổ chức cộng đồng chặt chẽ với những đặc điểm rất riêng như làng xóm ở miền xuôi là hình thức cộng đồng lâu đời được hình thành trên cơ sở của phương thức canh tác lúa nước; trong khi thôn bản ở miền núi là hình thức cộng đồng được hình thành trên cơ sở quan hệ sắc tộc, nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, ít đầu tư và sử dụng các sản phẩm tự nhiên sẵn có; điều này có ảnh hưởng sâu sắc đến công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng. Theo thống kê và nêu đặc điểm của tác giả cho thấy: khái niệm “cộng đồng” sử dụng trong quản lý rừng cộng đồng ở nước ta là “cộng đồng thôn bản”. Theo Phạm Xuân Phương (2001), [15] “Cộng đồng bao gồm toàn thể những người sống thành một xã hội có những điểm tương đồng về mặt văn hoá, truyền thống, có mối quan hệ sản xuất và đời sống gắn bó với nhau, thường có ranh giới không gian trong một làng, bản”. Điều 9, Luật đất đai (2003) [27] xác định rõ “Cộng đồng dân cư gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng một địa bàn thôn, làng, bản, ấp, buôn, phum, sóc và các điểm dân cư tương tự có cùng phong tục tập quán hoặc có chung dòng họ được nhà nước giao đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất”. Có rất nhiều khái niệm về cộng đồng nhưng phần lớn các tác giả đều cho rằng thuật ngữ “cộng đồng” được dùng trong quản lý rừng chính là nói đến cộng đồng dân cư thôn, làng, bản, buôn, phum, ấp, sóc… (gọi tắt là cộng đồng thôn bản). Cho nên khái niệm “cộng đồng” trong đề tài này được hiểu
- 5 là: “Cộng đồng là cộng đồng dân cư thôn, bản. Cộng đồng dân cư thôn, bản là toàn bộ các hộ gia đình, cá nhân sống trong cùng một thôn, làng, bản, ấp… hoặc một đơn vị tương đương”. 1.1.2 Lâm nghiệp cộng đồng + Thuật ngữ “Lâm nghiệp cộng đồng” (Community Forestry) theo FAO (1999) “Lâm nghiệp cộng đồng là bao gồm bất kỳ tình huống nào mà người dân địa phương tham gia vào hoạt động lâm nghiệp”. + Theo J.E-Michael Arnold (1999) [50] thuật ngữ Lâm nghiệp cộng đồng được sử dụng với nghĩa hẹp hơn “là các hoạt động lâm nghiệp được tiến hành bởi cộng đồng hoặc nhóm người địa phương”. + Ở Nepal, thuật ngữ lâm nghiệp cộng đồng chỉ được hiểu như là "một nhóm sử dụng rừng (Forest use Group) để chỉ hoạt động lâm nghiệp cộng đồng được tổ chức bởi các nhóm đồng sử dụng tài nguyên rừng trong một làng” [48]. Như vậy, thuật ngữ “lâm nghiệp cộng đồng” đã được đề cập ở nhiều quốc gia trên thế giới. Nó hình thành với mục đích tạo dựng một phương thức quản lý rừng dựa vào cộng đồng, phân cấp trong quản lý rừng, rừng được quản lý bền vững. Mặt khác người dân đang sống phụ thuộc vào rừng, những giải pháp quản lý bảo vệ rừng đóng góp vào việc cải thiện sinh kế và đời sống người dân từ hoạt động lâm nghiệp. Từ quan điểm đó đã hình thành các phương thức, các chương trình hoạt động quản lý rừng dựa vào cộng đồng. Ở Việt Nam, Lâm nghiệp cộng đồng phân loại theo nguồn gốc có 3 loại: (i) Rừng cộng đồng hình thành lâu đời qua nhiều thế hệ (Rừng truyền thống); (ii) Rừng cộng đồng hình thành từ khi chính quyền địa phương thực hiện giao đất giao rừng cho cộng đồng quản lý sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp (Rừng giao theo Nghị định 01/NĐ-CP); (iii) Rừng và đất rừng do cộng đồng nhận khoán, bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng của các tổ chức nhà nước (rừng do các Ban quản lý rừng phòng hộ huyện giao khoán bảo vệ và rừng do Ủy ban nhân dân xã tạm giao); (iv) Lâm nghiệp cộng đồng theo chủ thể quản lý có các loại sau: Rừng cộng đồng thôn bản; Rừng nhóm hộ;
- 6 Rừng cộng đồng của các tổ chức trong cộng đồng như: Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội nông dân, Hội người cao tuổi… 1.1.3 Khái niệm quản lý rừng dựa vào cộng đồng (Community Based Forest Management - CBFM) CBFM là một phương thức nhằm duy trì và phát triển rừng cũng như giải quyết vấn đề đói nghèo ở vùng cao, một nguyên nhân gốc rễ làm suy giảm tài nguyên rừng ở một số quốc gia. Theo Denr (2001) [38], Quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBFM), dựa trên quan điểm “Con người trước và lâm nghiệp bền vững sẽ theo sau đó”, nó trao cho các cộng đồng quyền và trách nhiệm trực tiếp quản lý và hưởng lợi từ tài nguyên rừng. Quan điểm này cho thấy CBFM nhắc đến việc phân cấp quản lý rừng một cách mạnh mẽ trong đó nhấn mạnh đến giao quyền quản lý các khu rừng và tạo cơ hội cho người dân trong cộng đồng có quyền được hưởng lợi từ rừng. Khi mà các vấn đề đói nghèo và mất công bằng trong tiếp cận nguồn tài nguyên được giải quyết thì các cộng đồng địa phương sẽ nhận thấy trách nhiệm của chính họ trong việc quản lý, bảo vệ rừng. Điều này đã được nhiều chính phủ, tổ chức phi chính phủ nhận thức rõ ràng và từ đó đã thúc đẩy cho tiến trình này phát triển ở nhiều cộng đồng vùng cao sống phụ thuộc vào rừng. Trong một số năm gần đây để khẳng định hơn tính sở hữu và làm chủ trong quản lý tài nguyên rừng, khái niệm quản lý rừng dựa vào cộng đồng đã được phân định rõ hơn “Quản lý rừng dựa vào cộng đồng bao gồm tất cả các hoạt động, tổ chức thu hút cộng đồng tham gia và được chia sẻ lợi ích từ rừng”. Ở Việt Nam, Quản lý rừng dựa vào cộng đồng là quản lý rừng được thực hiện bởi cộng đồng. Cộng đồng có thể là chủ thể quản lý rừng hoặc cộng đồng tham gia quản lý rừng và được chia sẻ lợi ích từ rừng. Hay nói một cách khác “ Quản lý dựa vào cộng đồng là việc bảo vệ, xây dựng phát triển và sử
- 7 dụng rừng có sự tham gia điều hành bởi cộng đồng bất kể rừng đó có thuộc quyền sở hữu của cộng đồng hay không?" 1.1.4 Khái niệm quản lý rừng cộng đồng (Community Forest Management - CFM) Một khái niệm cụ thể hơn là “Quản lý rừng cộng đồng” đã được đề xướng và thực thi ở nhiều nước, nó là một phạm trù của quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBFM). Tuy nhiên, nó nhấn mạnh và làm rõ quyền sở hữu rừng của cộng đồng, trên cơ sở đó cộng đồng tự tổ chức quản lý sử dụng theo nhu cầu và đảm bảo tính bền vững [49]. Ở Việt Nam, khái niệm Quản lý rừng cộng đồng được hiểu là cộng đồng quản lý rừng thuộc sở hữu của cộng đồng hoặc thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng. Rừng của cộng đồng là rừng của làng bản được quản lý theo truyền thống trước đây, rừng trồng của các hợp tác xã trước đây mà sau khi chuyển đổi hoặc giải thể hợp tác xã đã giao lại cho các xã hoặc các thôn quản lý. Quản lý rừng cộng đồng là một hình thức quản lý rừng trong đó cộng đồng với tư cách là chủ rừng tham gia vào các hoạt động giao rừng, lập kế hoạch quản lý rừng và thực hiện kế hoạch đó, thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi, giám sát, đánh giá rừng do nhà nước giao cho cộng đồng. Quản lý rừng cộng đồng và lâm nghiệp cộng đồng là hai khái niệm khác nhau. Thuật ngữ quản lý rừng cộng đồng được sử dụng với ý nghĩa hẹp hơn thuật ngữ lâm nghiệp cộng đồng. Thuật ngữ này được sử dụng khi đề cập đến việc quản lý rừng của một cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, cũng có xu hướng đồng nhất lâm nghiệp cộng đồng và quản lý rừng cộng đồng. Điều này có ý nghĩa là nói đến lâm nghiệp cộng đồng hay quản lý rừng cộng đồng chính là diễn tả hàng loạt các hoạt động gắn người dân trong cộng đồng với rừng, cây, các sản phẩm của rừng và việc phân chia lợi ích các sản phẩm từ rừng. Theo Quyết định số: 106/2006 – BNN của Bộ Nông nghiệp và PTNT thì “Quản lý rừng cộng đồng là một hình thức quản lý rừng trong đó cộng
- 8 đồng dân cư thôn với tư cách là chủ rừng tham gia vào các hoạt động giao rừng, lập kế hoạch quản lý rừng và tổ chức thực hiện kế hoạch đó, thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi, giám sát và đánh gía rừng Nhà nước giao cho cộng đồng”. Những khái niệm cơ bản về cộng đồng, lâm nghiệp cộng đồng, quản lý rừng dựa vào cộng đồng, quản lý rừng cộng đồng trên đây là những luận cứ khoa học quan trọng, giúp cho tác giả một phần trong nghiên cứu cơ sở khoa học cho quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam nói chung và các cộng đồng của tỉnh Hòa Bìnhnói riêng. Đề tài kế thừa những luận cứ khoa học này để tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn không chỉ về cơ sở phương pháp luận mà còn cả cơ sở thực tiễn khi nghiên cứu về lâm nghiệp cộng đồng tại tỉnh Hòa Bình - một trong những địa phương có sự đa dạng trong các hình thức quản lý rừng cộng đồng ở nước ta hiện nay. Công tác QLRCĐ được trên các nguyên tắc cơ bản sau: Có sự tham gia của người dân - Các hoạt động độc lập tiếp nối quy trình lập kế hoạch chỉ có thể được thực hiện thành công nếu người dân liên quan được tham gia đầy đủ vào các quy trình ra quyết định và hiểu rõ kết quả cuối cùng của quá trình lập kế hoạch. Nếu người dân không quan tâm đến công tác quản lý rừng và không thể hiện được vai trò chủ động của mình trong quá trình ra quyết định, việc thực hiện trên thực tế sẽ cho ra kết quả nửa vời, hoặc có khả năng bị hiểu nhầm và thậm chí thất bại trong khi thực hiện. Đơn giản – để mọi người đều hiểu rõ vấn đề đang xảy ra và có thể thực hiện nó Hiệu quả về chi phí – đảm bảo thực hiện được các quy trình QLRCĐ chỉ với nguồn lực sẵn có của địa phương Tính tương ứng – đảm bảo quy trình lập kế hoạch QLRCĐ chỉ cung cấp các thông tin cần thiết cho công tác quản lý rừng. Tăng cường quản lý bền vững các nguồn tài nguyên rừng đồng thời giảm thiểu các tác động tiêu cực có thể xảy ra trong tương lai. Phản ánh nhu cầu của người dân địa phương
- 9 trong đánh giá và sử dụng các nguồn tài nguyên rừng (và không chỉ đơn thuần sử dụng biện pháp cấm khai thác các loại lâm sản) QLRCĐ chỉ có thể trở nên bền vững nếu các quy trình phù hợp với khuôn khổ chính sách pháp lý hiện hành. 1.2. Tổng luận về các công trình đã công bố về vấn đề nghiên cứu 1.2.1. Trên thế giới Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu liên quan đến lâm nghiệp cộng đồng về các khía cạnh: (i) cải tiến chính sách; (ii) thể chế tiếp cận; (iii) phát triển công nghệ trên cơ sở kinh nghiệm bản địa để phát triển quản lý rừng dựa vào cộng đồng. Đây là những kinh nghiệm tốt có thể kế thừa và vận dụng một cách phù hợp vào điều kiện Việt Nam. a) Đổi mới chính sách lâm nghiệp phục vụ tiến trình quản lý rừng cộng đồng: Nghiên cứu của Arnol, JEM và Steward, W.C (1989) [36] đã kết luận rằng “Mặc dù có sự suy thoái về rừng cộng đồng và quản lý tài nguyên sở hữu công cộng (CPRM), chúng vẫn còn đóng một vai trò rất quan trọng trong hệ thống lâm nghiệp và trong đời sống dân nghèo”. Các tác giả cho rằng để tiến tới việc quản lý tài nguyên sở hữu công cộng bền vững cần dành ưu tiên cao cho việc sửa đổi chính sách, sự yếu kém và sai sót của luật lệ hiện đang phá huỷ các tổ chức quản lý tài nguyên sở hữu công cộng hoặc đang khuyến khích việc tiếp tục tư nhân hoá. Năm 1987, nghiên cứu của Basu, N.G [37] chỉ ra các vấn đề lâm nghiệp được phân tích dựa trên quan điểm của những cộng đồng sống tại rừng. Tác giả đề nghị một chính sách lâm nghiệp mới để ngăn chặn quá trình phát triển đồi trọc và để lôi cuốn nhân dân tham gia vào quá trình quản lý rừng. Theo Denr (2001), [40] mặc dù chính sách lâm nghiệp cộng đồng đã có ở nhiều quốc gia, tuy vậy việc thực hiện chính sách cũng thường gặp các trở ngại như: (i): Thiếu sự cam kết và mất công bằng trong phân bổ ngân sách.
- 10 (ii): Tiếp cận từ trên xuống và thiếu linh hoạt. (iii): Quyền sử dụng đất và tài nguyên không ổn định. (iv): Hệ thống quản lý, kỹ thuật lâm nghiệp chưa tương thích với kiến thức và năng lực của cộng đồng trong quản lý rừng. (v): Nhân viên kỹ thuật lâm nghiệp thiếu kỹ năng thúc đẩy để quản lý rừng dựa vào cộng đồng có sự tham gia vào tiến trình ra các quyết định ở địa phương. (vi): Thiếu các khung pháp lý để hỗ trợ lâm nghiệp cộng đồng. Nhận thức chưa đầy đủ của một đại bộ phận và nhân viên lâm nghiệp về chính sách lâm nghiệp cộng động hiện hành và tổ chức thực hiện nó. (vii): Thiếu công bằng và rõ ràng trong phân bổ lợi ích từ rừng. Để thực hiện Quản lý rừng cộng đồng điều đầu tiên cần có là sự đổi mới về chính sách, thể chế và quan điểm tiếp cận, phát huy dân chủ trong quản lý tài nguyên thiên nhiên. Quản lý rừng cộng đồng cũng đòi hỏi có sự thay đổi trong tiến trình ra quyết định, đổi mới chính sách cho phù hợp trong quản lý kinh doanh, trong đó giải pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân được chú trọng và tạo ra cơ sở cho phát huy dân chủ. Nhân tố cốt lõi của cải cách thể chế, chính sách để hỗ trợ lâm nghiệp cộng đồng là nâng cao tính dân chủ, sự tham gia lập kế hoạch, các quyết định giám sát và phát triển nguồn nhân lực. b) Các yếu tố kinh tế - xã hội và lợi ích từ rừng cộng đồng: Năm 1988, Verman, D.P [44] có một nghiên cứu điểm ở một khu rừng trồng 4 ha được tạo lập năm 1974 trên đất chăn thả của cộng đồng thôn Dhanori bang Gujarat, Ấn Độ, theo kế hoạch “rừng làng” của Nhà nước. Trong 4 năm liền việc cắt cỏ để bán ra ngoài bị cấm. Cây cối được chặt vào năm 1983 – 1984 và lợi nhuận được phân bổ theo gia đình của cộng đồng, chỉ số lợi nhuận nội bộ của gỗ, củi và cỏ được tính tới 35%. Dân làng được hưởng củi, gỗ nhỏ để làm nhà và sửa lại nhà cửa, có thêm công ăn việc làm. Thành công đó đã giúp thôn tự tổ chức được một hội trồng cây và tiếp tục
- 11 trồng thêm vào năm 1984 – 1986. Kết quả trình diễn của khu rừng đã đem lại thêm 200 ha rừng trồng ở khu này. Lam Tom Linson (1994) và Banerjee (1996) [45] cho rằng, nếu chúng ta nhận thức sự mất rừng có liên quan đến các yếu tố kinh tế, xã hội thì việc cần thiết để có thể đảm bảo được sự thành công trong công tác quản lý rừng chính là mối quan tâm và sự tham gia của cộng đồng địa phương vào các hoạt động đó, phải chú trọng đến mối quan tâm của người dân trong cộng đồng đó là vấn đề sinh kế. Hiện nay, rất nhiều chương trình dự án tham gia quản lý rừng, phục hồi rừng nhưng Chokkalingaman Ravindranath (2001), [39] cho rằng đã thiếu sự chú trọng dài hạn tới cả hai yếu tố sinh thái và kinh tế xã hội. Chúng thường khởi đầu với sự nhiệt tình trong việc đầu tư kinh phí cũng như phổ biến kỹ thuật cho cộng đồng địa phương nhưng ở giai đoạn cuối của dự án, sự chú trọng này bị giảm sút hoặc thậm chí mất đi với một nguyên nhân không rõ ràng. Chính thực tế này đã làm giảm sự quan tâm của cộng đồng và kết quả của việc quản lý, bảo vệ, phát triển rừng không được như mong đợi. Như vậy, trong quản lý rừng cộng đồng do thiếu nghiên cứu về các vấn đề kinh tế và xã hội một cách đầy đủ, cụ thể, thích hợp mà những biện pháp kỹ thuật thường không được áp dụng hoặc áp dụng một cách hình thức nên không đạt kết quả như mong đợi. Vì vậy, cần xem vấn đề kinh tế và xã hội là những yếu tố có tính quyết định đến việc lựa chọn và áp dụng các giải pháp kỹ thuật vào các mô hình quản lý rừng cộng đồng ở địa phương. c) Phương pháp điều tra rừng có sự tham gia của người dân: Tại Nepal, với sự hỗ trợ của dự án lâm nghiệp cộng đồng do chính phủ Thụy Sỹ tài trợ, phương pháp điều tra rừng đơn giản có sự tham gia đã được phát triển và được xem là nhân tố cốt lõi cho quản lý rừng bền vững. Điều này giúp cho người sử dụng rừng nhận biết được tiềm năng sản xuất của các khu rừng của họ từ đó lập kế hoạch quản lý rừng.
- 12 Theo Chandra Bahadur Rai (2000), [48] và báo cáo: “NSCFP-Nepal Swiss Community Forestry Project - Dự án LNCĐ của Thụy Sĩ tại Nepal năm 2001” [43] đã đề cập đến các tài liệu hướng dẫn về điều tra và phân tích dữ liệu tài nguyên rừng đơn giản có sự tham gia (bao gồm gỗ và lâm sản ngoài gỗ) ở các nước Nepal, Thái Lan, Philippines được thiết lập gồm các nội dung hướng dẫn chính như sau: + Phương pháp thu thập dữ liệu: Bao gồm xác định kích thước và số ô mẫu điều tra, phương pháp đo đếm. + Phân tích dữ liệu: Chất lượng tái sinh, dự đoán trữ lượng, sản lượng gỗ củi, cỏ, thu hoạch lâm sản ngoài gỗ. + Lập kế hoạch quản lý rừng, phân loại rừng chức năng theo kiến thức bản địa, kế hoạch quản lý tái sinh, khai thác gỗ củi, cỏ, lâm sản ngoài gỗ, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ đất, nước và phương pháp giám sát có sự tham gia. Năm 2000, Trung tâm nghiên cứu lâm nghiệp thế giới (CIFFOR), [47] đã đưa ra tài liệu hướng dẫn bao gồm các phương pháp như xác định vấn đề, chủ đề điều tra rừng, sử dụng ảnh viễn thám, phân tích dữ liệu và đánh giá các kết quả điều tra. Trong đó đã phối hợp các phương pháp điều tra thông thường với PRA và sử dụng công nghệ thông tin để mô hình hóa nhằm dự đoán thể tích cây rừng theo 01 và 02 nhân tố đường kính (D) và chiều cao (H), loài cây: V = f (D,H, loài cây) từ đây lập biểu đơn giản để hỗ trợ cho việc dự báo thể tích, trữ lượng rừng. Phương pháp điều tra rừng có sự tham gia được xây dựng trên nguyên lý phương pháp điều tra và quy hoạch rừng phổ biến trên thế giới do đó đảm bảo tính kỹ thuật đồng thời các công cụ điều tra và công thức tính toán đơn giản để cộng đồng có thể tiếp cận đặc biệt là tiếp cận với kiến thức sinh thái địa phương trong phân loại để quản lý rừng theo chức năng cộng đồng. Tuy nhiên, một vài công cụ, phương pháp điều tra còn phức tạp và hàn lâm:
- 13 + Dự báo trữ lượng rừng dựa vào 2 nhân tố tổng tiết diện ngang và chiều cao lâm phần. + Phân chia các lô và tuyến điều tra tương đối phức tạp. Trong khi đó việc xác định sản lượng khai thác, bảo đảm ổn định rừng chưa được thiết kế rõ ràng, do đó việc tính toán khối lượng gỗ, củi, lâm sản ngoài gỗ thu hoạch hàng năm theo kế hoạch chỉ là ước đoán, chưa thực sự có cơ sở để đảm bảo sự cân bằng và ổn định sản lượng rừng. Nhìn chung, các hướng dẫn điều tra chỉ phù hợp để cán bộ kỹ thuật lâm nghiệp tổ chức, đánh giá tài nguyên rừng cho từng làng, xã. Cộng đồng địa phương được tham gia như người cung cấp thông tin và hưởng thụ kết quả phân tích tài nguyên rừng. d) Lập kế hoạch trong quản lý rừng cộng đồng: Một loạt các nghiên cứu ở các quốc gia về chủ đề này đã cho thấy sự cần thiết phải lập kế hoạch quản lý rừng đơn giản có sự tham gia dựa vào cộng đồng. Năm 1987, các tác giả Gallertti. HA và Arguelless. A [41] đã trình bày khái niệm lập kế hoạch và mô tả sự thực hiện theo kinh nghiệm của chương trình thí điểm quản lý rừng đơn giản và có sự tham gia này. Việc đưa người dân vào quá trình lập kế hoạch là một nhiệm vụ phức tạp và đòi hỏi phải có sự đơn giản hóa và công khai trong lập kế hoạch và thực hiện. Để cho các kế hoạch lập ra thành công cần phải dựa vào sự hỗ trợ của thống đốc bang và các cán bộ cao cấp ở liên bang, các tiêu chuẩn khác cũng quan trọng để thực hiện là thái độ của nhân dân địa phương, quản lý lâm sinh đúng đắn, công nghiệp hoá, marketing sản phẩm và các vấn đề tổ chức. Các kết quả trong lập kế hoạch được đánh giá sau 3 vụ thu hoạch. - Năm 1986, các tác giả Moench, M và Bandy Opadhyah, J [46], đã chỉ rõ là các nhu cầu về sinh tồn của dân làng đã bị bỏ qua trong việc lập kế hoạch quản lý rừng. Công trình nghiên cứu này đã chỉ ra rằng cần phải hướng vào nhiên liệu, thức ăn gia súc, đồng thời nghiên cứu cũng trình bày các mối
- 14 tương quan giữa mức tiêu thụ sinh khối của thôn bản và sức sản xuất của rừng. - Năm 1988, các tác giả Leuscher, WA và Shakya.K.M [42] đã tuyên bố rằng việc hợp tác giữa cư dân địa phương với cán bộ cấp huyện là rất quan trọng để mang lại sự thành công trong các dự án Tài nguyên rừng cộng đồng (CFR) và có thể trở nên dễ dàng bằng cách thu hút các nhóm người dân đó vào lập kế hoạch quản lý rừng. Đánh giá các tài nguyên nguồn lực, khả năng của dự án, sự tham gia của người dân là cơ sở cho việc lập kế hoạch quản lý. Mặc dù, sự thu hút có hiệu quả dân làng tham gia vào việc xây dựng kế hoạch, tạo nên sự phấn chấn đối với họ và đạt được mục tiêu của dự án, nhưng tác giả cho rằng chi phí còn cao và đồng thời có thể tạo nên “cái bẫy” mong đợi và có thể không phải khi nào cũng dẫn tới việc thực hiện kế hoạch tốt. Năm 1988, Brink. W [38] tập trung nghiên cứu vào việc quản lý và tiềm năng sử dụng rừng thôn bản được xây dựng theo một dự án toàn quốc về năng lượng không thường lệ của Chính phủ Vương quốc Thái Lan. Việc xây dựng và kết quả của các khu rừng thôn bản đã được xem xét một cách có phê phán. Dân làng đã không tham gia vào việc xây dựng kế hoạch và không có các kế hoạch để quản lý hoặc để phân bố lợi ích được thoả thuận với dân. Trong khi đó các tầng lớp dân nghèo đặc biệt cần phải phụ thuộc và việc đến các khu rừng để chăn thả gia súc, thu hái tài nguyên lâm sản như củi đun, hoa quả tại rừng… Trường hợp này là một điển hình minh hoạ sự cần thiết việc cộng đồng địa phương phải tham gia tích cực vào việc lập kế hoạch và thiết kế các dự án phát triển, các tổ chức xã hội và các nhóm quyền lợi chung rất cần chúng ta phải quan tâm tới. Tóm lại: Vấn đề quản lý tài nguyên rừng và đất rừng cộng đồng có rất nhiều tác giả, nhiều chương trình, dự án tham gia nghiên cứu đã chỉ ra được: + Việc đổi mới, sửa đổi lại chính sách lâm nghiệp đã chú trọng đến các khía cạnh, vị trí pháp lý của cộng đồng, kinh tế, xã hội, môi trường cùng với
- 15 việc hỗ trợ cộng đồng để duy trì vai trò sản xuất của rừng, khuyến khích tham gia và đóng góp ý kiến của người dân địa phương trong lập kế hoạch quản lý rừng là thành công rất to lớn ở các nước này. + Nhiều nước đã tiến hành giao đất, giao rừng, xu hướng chung là quay trở lại với hình thức quản lý truyền thống dựa trên cơ sở gắn đất đai và tài nguyên rừng với người dân sở tại. + Cách tiếp cận có sự tham gia của người dân, chú ý đến tiến trình phát huy kiến thức bản địa, nâng cao năng lực của các cộng đồng để xây dựng các mô hình quản lý rừng cộng đồng cũng như lập kế hoạch quản lý rừng là cách tiếp cận phù hợp nhất trong bối cảnh chung về quản lý rừng cộng đồng hiện nay. + Các nghiên cứu đã phản ánh được nhu cầu phát triển phương thức quản lý dựa vào cộng đồng ở các quốc gia và đưa ra được các vấn đề cần quan tâm để phát triển lâm nghiệp cộng đồng trong khu vực: * Phân cấp và chuyển giao quyền sở hữu trong sử dụng tài nguyên rừng cho cộng đồng. * Xây dựng các mô hình hợp tác giữa các cộng đồng và các bên liên quan để phát triển lâm nghiệp cộng đồng. * Phát triển một hệ thống chính sách đồng bộ hỗ trợ cho phát triển lâm nghiệp cộng đồng ở tất cả các lĩnh vực. * Phát triển các cách tiếp cận đơn giản về kỹ thuật lâm sinh, về điều tra rừng có sự tham gia và đưa ra các tài liệu hướng dẫn về điều tra và phân tích dữ liệu tài nguyên rừng đơn giản có sự tham gia trong quản lý tài nguyên để xây dựng các kế hoạch quản lý bền vững dựa vào cộng đồng. Đây là những kinh nghiệm tốt có thể kế thừa và vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện của Việt Nam. 1.2.2. Ở Việt nam Do nhiều nguyên nhân mà mức độ phong phú tài nguyên rừng của Việt nam khác nhau trên các vùng miền. Và từ đó hệ lụy là các quy định trong
- 16 quản lý rừng và các hoạt động quản lý rừng cộng đồng cũng bị thay đổi. - Tuy diện tích đất lâm nghiệp ở miền Bắc còn khá lớn nhưng diện tích còn rừng it và chất lượng rừng rất thấp. Cũng vì thế mà diện tích rừng giao cho cộng đồng không nhiều và phần lớn là rừng nghèo và rừng non. - Các hoạt động quản lý rừng cộng đồng ở miền Bắc chủ yếu là bảo vệ rừng, khai thác lâm sản ngoài gỗ. Một số cộng đồng được các dự án hỗ trợ quản lý rừng đã tiến hành lập được các Kế hoạch quản lý rừng, xây dựng Quy ước bảo vệ và phát triển rừng, Quy chế quản lý Quỹ bảo vệ và phát triển rừng và tiến hành các hoạt động bảo vệ rừng và nuôi dưỡng rừng. Rất ít cộng đồng được khai thác lâm sản. - Có thể xem xét một ví dụ cụ thể tại Hòa Bình: Khi có các dự án hỗ trợ, quản lý rừng cộng đồng còn được mở rộng thông qua 2 hình thức: Các hộ gia đình (thuộc 05 thôn/03 huyện Tân Lạc, Kim Bôi và Lạc Sơn tỉnh Hòa Bình) được giao khoán rừng theo NĐ 02-CP tự nguyện giao lại rừng cho cộng đồng thôn cùng tham gia quản lý, bảo vệ và hưởng lợi theo Chương trình hỗ trợ quản lý rừng cộng đồng của dự án ETSP - Helvetas tài trợ .Các hộ gia đình góp đất vào tham gia các hoạt động của dự án (Dự án hỗ trợ trồng rừng cộng đồng tại thôn Suối Ngành, xã Mông Hóa, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình do Trung tâm xúc tiến lâm nghiệp quốc tế Nhật bản (JIPRO) hỗ trợ từ 2003- 2005. Hoăc mô hình của Dự án Kfw pha 3 QUICK WIN : Các hộ gia đình trong thôn tham gia các hoạt động chung quản lý rừng cộng đồng , trong hợp phần “Nâng cao năng lực hỗ trợ kỹ thuật quản lý rừng cộng đồng cho cán bộ quản lý Dự án cấp cơ sở và cán bộ cộng đồng dân cư thôn” hỗ trợ từ 2008- 2011. Các cộng đồng quản lý rừng được các dự án hỗ trợ trồng rừng nguyên liệu, như trồng rừng nguyên liệu gỗ dăm, gỗ ván thanh từ Keo Lai; trồng rừng khai thác nhựa Thông; trồng cây lâm sản ngoài gỗ, như Hồi, Quế, Ba kích, Mây nếp tỏ ra bền vững vì được hưởng lợi từ các nguồn thu lâm sản, lâm sản ngoài gỗ đang có giá. - Chất lượng rừng miền Trung phong phú hơn miền Bắc. Vì vậy rừng
- 17 được giao cho cộng đồng có cả rừng trung bình và đủ tiêu chuẩn khai thác gỗ. Tuy vậy do đặc điểm chiều rộng của miền Trung hẹp, rừng ven biển phần lớn là rừng trồng thuộc rừng sản xuất, rừng vùng núi hầu hết là rừng phòng hộ và đặc dụng nên rừng giao cho cộng đồng quản lý không nhiều. - Diện tích rừng Tây nguyên còn nhiều so với miền Bắc và miền Trung; đồng thời phần lớn là rừng trung bình và rừng giàu. Vì vậy rừng giao cho cộng đồng có cả rừng trung bình và rừng giàu. Một số cộng đồng có lượng khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ rất lớn. a) Những chính sách định hướng phát triển quản lý rừng cộng đồng: + Luật Đất đai được công bố ngày 10 tháng 12 năm 2003 đã chính thức công nhận “Cộng đồng dân cư thôn gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc và các điểm dân cư tương tự có cùng phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ được Nhà nước giao đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất”. + Luật Bảo vệ và Phát triển rừng được công bố ngày 14 tháng 12 năm 2004 ngoài quyền được công nhận quyền sử dụng rừng ổn định lâu dài, cộng đồng dân cư thôn còn được khai thác sử dụng lâm sản và các lợi ích khác của rừng vào mục đích công cộng và gia dụng cho các thành viên trong cộng đồng được sản xuất lâm nghiệp – nông nghiệp – ngư nghiệp kết hợp theo qui định cuả Luật Bảo vệ và Phát triển rừng và Quy chế quản lý rừng; được hướng dẫn về kỹ thuật, hỗ trợ về vốn theo chính sách của Nhà nước để bảo vệ và phát triển rừng và được hưởng lợi ích từ các công trình công cộng bảo vệ, cải tạo rừng mang lại; được bồi thường thành quả lao động, kết quả đầu tư để bảo vệ và phát triển rừng theo qui định của Luật Bảo vệ và Phát triển rừng và các quy định khác có liên quan khi Nhà nước có quyết định thu hồi rừng. Luật Đất đai và Luật Bảo vệ và Phát triển rừng đã chính thức công nhận cộng đồng dân cư quyền được sử dụng đất, quyền được sử dụng rừng như các đối tượng khác là sự thay đổi lớn tạo cơ hội cho cộng đồng dân cư thôn phát huy hết được những lợi thế tham gia vào công cuộc bảo vệ và phát triển rừng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 300 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 321 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn