intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Đánh giá một số mô hình khoanh nuôi phục hồi rừng tự nhiên vùng đồi núi ven biển tỉnh Phú Yên

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:87

18
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung chính của luận văn là khái quát chung về tình hình thực hiện khoanh nuôi phục hồi rừng tự nhiên vùng đồi núi ven biển tỉnh Phú Yên. Đánh giá các mô hình khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng tự nhiên vùng đồi núi ven biển tỉnh Phú Yên. Đánh giá các mô hình khoanh nuôi xúc tiến tái sinh có trồng bổ xung rừng tự nhiên vùng đồi núi ven biển tỉnh Phú Yên. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Đánh giá một số mô hình khoanh nuôi phục hồi rừng tự nhiên vùng đồi núi ven biển tỉnh Phú Yên

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP &PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP VIỆT NAM -------- TRẦN CAO NGUYÊN ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ MÔ HÌNH KHOANH NUÔI PHỤC HỒI RỪNG TỰ NHIÊN VÙNG ĐỒI NÚI VEN BIỂN TỈNH PHÚ YÊN Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.02.01 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VÕ ĐẠI HẢI Hà Nội, 2013
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Theo đánh giá của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) thì Việt Nam nằm trong tốp 5 nước đứng đầu thế giới dễ bị tổn thương nhất đối với biế n đổi khí hậu và khi mực nước biển tăng 1m ở Việt Nam sẽ mất 5% diện tích đất đai, 11% người mất nhà cửa, giảm 7% sản lượng nông nghiệp và 10% thu nhập quốc nội GDP. Để ứng phó với biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng kế hoạch hành động thích ứng với biến đổi khí hậu của ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2008 - 2020, trong đó việc bảo vệ và phát triển hệ thống rừng tự nhiên, đặc biệt là rừng tự nhiên vùng đồi núi ven biển là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu nhằm thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Phú Yên là tỉnh thuộc vùng Duyên hải Nam Trung bộ, nằm ở phía Đông dãy Trường Sơn, toàn bộ ranh giới phía Đông giáp biển Đông. Diện tích đồi núi chiếm 70% diện tích toàn tỉnh, địa hình dốc từ Tây sang Đông và bị chia cắt mạnh. Vùng đồi núi chạy dọc ven biển tỉnh Phú Yên có vai trò rất quan trong trong việc phòng hộ môi trường, đặc biệt là chắn gió, bão, giảm thiểu hạn hán, bảo vệ đất và điều tiết nguồn nước ngọt cho cư dân sống ven biển. Mặc dù đây là vùng phân bố dân cư không lớn nhưng lại được xem như một vành đai phòng hộ trọng yếu cho khu vực phía trong đất liền vì địa hình khu vực này cao hơn nhiều so với vùng cát nên gió, bão rất mạnh. Hiện nay, phần lớn những diện tích vùng đồi núi ven biển tỉnh Phú Yên đều là trạng thái đất trống, đồi núi trọc đã mất rừng lâu ngày, đất đã bị thoái hóa và xuống cấp nghiêm trọng, mô ̣t số it́ diê ̣n tić h đã đươ ̣c trồ ng rừng Keo và Ba ̣ch đàn để che phủ đấ t. Chính vì lý do đó, tỉnh Phú Yên là một trong những địa phương được Chính Phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quan tâm, chỉ đạo sát sao trong công cuộc bảo vệ và phát triển rừng. Trong các giải pháp phục hồi rừng thì khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung được xem là giải pháp lâm sinh rất quan trọng, rẻ tiền và mang lại hiệu quả cao trong phục hồi rừng đặc biệt là đối tượng rừng thứ sinh nghèo kiệt. Phú Yên cũng là một trong bốn tỉnh triển khai Dự án KFW6 - Dự án “Khôi phục
  3. 2 rừng và quản lý rừng bền vững ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên”. Dự án KFW6 đã được triển khai từ năm 2006 trên diện tích rừng tự nhiên vùng đồi núi ven biển tỉnh Phú Yên tại 1 thị xã và 2 huyện là Thị xã Sông Cầu, Huyện Tuy An và Huyện Đồng Xuân. Dự án KFW6 đã đạt được một số kết quả nhất định, theo số liệu thống kê của Dự án cho thấy từ khi triển khai năm 2006 đến năm 2012 tổng diện tích khoanh nuôi xúc tiến tái sinh đã đạt 1180,35 ha, tổng diện tích khoanh nuôi xúc tiến tái sinh có trồng bổ sung đạt 505,34 ha. Hệ thống các biện pháp kỹ thuật lâm sinh đã được áp dụng trong các mô hình và cơ cấu loài cây trồng bổ sung trong các mô hình là các loài Sao đen, Dầu rái, Mây nếp, Lim xanh với các mật độ trồng bổ sung là 500 cây/ha và 1000 cây/ha. Tuy nhiên, hiệu quả phục hồi rừng bằng giải pháp khoanh nuôi phục hồi rừng lại phụ thuộc vào rất nhiều những yếu tố khác nhau như: lập địa, hiện trạng rừng đưa vào khoanh nuôi, biện pháp kỹ thuật lâm sinh đã áp dụng, thời gian khoanh nuôi phục hồi rừng,… Việc đánh giá được hiện trạng và hiệu quả phục hổi rừng của các mô hình là việc hết sức cấp thiết để góp phần làm cơ sở khoa học lựa chọn các mô hình khoanh nuôi phục hồi rừng có hiệu quả hơn. Xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn đó, Đề tài: “Đánh giá một số mô hình khoanh nuôi phục hồi rừng tự nhiên vùng đồi núi ven biển tỉnh Phú Yên” đặt ra là hết sức cần thiết. Đây là một vấn đề cần thiết khách quan, có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn trong công cuộc bảo vệ, phát triển rừng tự nhiên vùng đồi núi ven biển tỉnh Phú Yên nói riêng và vùng Nam Trung bộ nói chung.
  4. 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới. Theo ITTO (2002), phục hồi rừng bằng khoanh nuôi là quá trình thúc đẩy diễn thế đi lên của hệ sinh thái rừng, nâng cao mức độ đa dạng sinh học, điều chỉnh cấu trúc, sản lượng của chúng thông qua việc bảo vệ không tác động hoặc sử dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh như: xúc tiến tái sinh; xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung, làm giàu rừng. David Lam (2003) đã phân tích quan điểm về phục hồi rừng qua sơ đồ: Cấu trúc Và sản lượng của hệ sinh thái Đa dạng sinh học Hình 1.1: Sơ đồ quá trình phục hồi rừng (David Lamb, 2003) A: Giai đoạn nguyên sinh B,C: Giai đoạn suy thoái Theo David Lamb quá trình phục hồi rừng có thể đưa cấu trúc và sản lượng của hệ sinh thái tương đương với hệ sinh thái nguyên thủy. Tuy nhiên, mức độ đa dạng sinh học của chúng không thể đạt được mức độ đó (điểm E). Cùng với thời gian, một hệ sinh thái mới (tại điểm D và E) có thể đưa số lượng các loài cây hướng tới điểm A dưới ảnh hưởng của sự xâm nhập của một số loài từ lâm phần lân cận. Như vậy, để xúc tiến quá trình phục hồi rừng con người có thể sử dụng các biện pháp kỹ thuật tác động thông qua xúc tiến tái sinh cũng như xúc tiến tái sinh có trồng bổ sung hoặc nuôi dưỡng rừng (dẫn theo Phan Thị Hồng Nhung, 2010) [26]. Về phương pháp điều tra tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả đã sử dụng cách lấy mẫu ô vuông theo hệ thống của Lowdermilk (1927) với diện tích ô đo đếm thông thường từ 1 đến 4 m2. Diện tích ô đo đếm nhỏ nên thuận lợi trong điều tra nhưng số lượng ô phải
  5. 4 đủ lớn mới phản ánh trung thực tình hình tái sinh rừng. Để giảm sai số trong khi thống kê tái sinh tự nhiên, Barnard (1950) [51] đã đề nghị một phương pháp "điều tra chẩn đoán" mà theo đó kích thước ô đo đếm có thể thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của cây tái sinh ở các trạng thái rừng khác nhau. Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng được xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc điểm phân bố. Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây tái sinh và tầng cây gỗ lớn đã được nhiều nhà khoa học quan tâm (Mibbread, 1930; Richards, 1933; 1939; Aubreville, 1938; Beard, 1946; Lebrun và Gilbert, 1954; Joné, 1955-1956; Schultz, 1960; Baur, 1964; Rollet, 1969 [48]). Do tính chất phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có một số loài có giá trị nên trong thực tiễn, người ta chỉ khảo sát những loài cây có ý nghĩa nhất định. Quá trình tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới vô cùng phức tạp và còn ít được nghiên cứu. Phần lớn tài liệu nghiên cứu về tái sinh tự nhiên của rừng mưa thường chỉ tập trung vào một số loài cây có giá trị kinh tế dưới điều kiện rừng đã ít nhiều bị biến đổi. Van steenis (1956) [50] đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ biến của rừng mưa nhiệt đới là tái sinh phân tán liên tục của các loài cây chịu bóng và tái sinh vệt của các loài cây ưa sáng. Vấn đề tái sinh rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là hiệu quả các cách thức xử lý lâm sinh liên quan đến tái sinh của các loài cây mục đích ở các kiểu rừng. Từ đó các nhà lâm sinh học đã xây dựng thành công nhiều phương thức chặt tái sinh. Công trình của Bernard (1954, 1959); Wyatt Smith (1961, 1963) [51] với phương thức rừng đều tuổi ở Mã Lai; Nicholson (1958) ở Bắc Borneo; Donis và Maudoux (1951, 1954) với công thức đồng nhất hoá tầng trên ở Zaia; Taylor (1954), Jones (1960) với phương thức chặt dần tái sinh dưới tán ở Nijêria và Gana; Barnarji (1959) với phương thức chặt dần nâng cao vòm lá ở Andamann. Nội dung chi tiết các bước và hiệu quả của từng phương thức đối với tái sinh đã được Baur (1964) [2] tổng kết trong tác phẩm: Cơ sở sinh thái học của kinh doanh rừng mưa.
  6. 5 Các công trình nghiên cứu về phân bố tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới đáng chú ý là công trình nghiên cứu của Richards, P.W (1952), Bernard Rollet (1974), tổng kết các kết quả nghiên cứu về phân bố số cây tái sinh tự nhiên đã nhận xét: trong các ô có kích thước nhỏ (1 x 1m, 1 x 1.5m) cây tái sinh tự nhiên có dạng phân bố cụm, một số ít có phân bố Poisson. ở Châu Phi trên cơ sở các số liệu thu thập Tayloer (1954), Barnard (1955) xác định số lượng cây tái sinh trong rừng nhiệt đới thiếu hụt cần thiết phải bổ sung bằng trồng rừng nhân tạo. Ngược lại, các tác giả nghiên cứu về tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới Châu Á như Budowski (1956), Bava (1954), Atinot (1965) lại nhận định dưới tán rừng nhiệt đới nhìn chung có đủ số lượng cây tái sinh có giá trị kinh tế, do vậy các biện pháp lâm sinh đề ra cần thiết để bảo vệ và phát triển cây tái sinh có sẵn dưới tán rừng (dẫn theo Nguyễn Duy Chuyên, 1995) [8]. Đối với rừng nhiệt đới thì các nhân tố sinh thái như nhân tố ánh sáng (thông qua độ tàn che của rừng), độ ẩm của đất, kết cấu quần thụ, cây bụi, thảm tươi là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái sinh rừng, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề cập đến vấn đề này. Baur G.N. (1962) [2] cho rằng, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến phát triển của cây con còn đối với sự nảy mầm và phát triển của cây mầm, ảnh hưởng này thường không rõ ràng và thảm cỏ, cây bụi có ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây tái sinh. ở những quần thụ kín tán, thảm cỏ và cây bụi kém phát triển nhưng chúng vẫn có ảnh hưởng đến cây tái sinh. Nhìn chung ở rừng nhiệt đới, tổ thành và mật độ cây tái sinh thường khá lớn. Nhưng số lượng loài cây có giá trị kinh tế thường không nhiều và được chú ý hơn, còn các loài cây có giá trị kinh tế thấp thường ít được nghiên cứu, đặc biệt là đối với tái sinh ở các trạng thái rừng phục hồi sau nương rẫy. H. Lamprecht (1989) [45] căn cứ vào nhu cầu ánh sáng của các loài cây trong suốt quá trình sống để phân chia cây rừng nhiệt đới thành nhóm cây ưa sáng, nhóm cây bán chịu bóng và nhóm cây chịu bóng. Kết cấu của quần thụ lâm phần có ảnh hưởng đến tái sinh rừng. I.D.yurkevich (1960) đã chứng minh độ tàn che tối ưu cho sự phát triển bình thường của đa số các loài cây gỗ là 0,6 - 0,7.
  7. 6 Katherin Wamer, (1991), [43] có những nghiên cứu các kỹ thuật bản địa về canh tác nương rẫy ở các nước nhiệt đới. Trên cơ sở đó ông đã đề ra một số giải pháp phục hồi và quản lý rừng ở một số nước nhiệt đới (dẫn theo Nguyễn Quốc Dựng, 2005) [12]. Độ khép tán của quần thụ ảnh hưởng trực tiếp đến mật độ và sức sống của cây con. Trong công trình nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa cây con và quần thụ, V.G.Karpov (1969) đã chỉ ra đặc điểm phức tạp trong quan hệ cạnh tranh về dinh dưỡng khoáng của đất, ánh sáng, độ ẩm và tính chất không thuần nhất của quan hệ qua lại giữa các thực vật tuỳ thuộc đặc tính sinh vật học, tuổi và điều kiện sinh thái của quần thể thực vật (dẫn theo Nguyễn Văn Thêm, 1992) [34]. Trong nghiên cứu tái sinh rừng người ta nhận thấy rằng tầng cỏ và cây bụi qua thu nhận ánh sáng, độ ẩm và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng của tầng đất mặt đã ảnh hưởng xấu đến cây con tái sinh của các loài cây gỗ. Những quần thụ kín tán, đất khô và nghèo dinh dưỡng khoáng do đó thảm cỏ và cây bụi sinh trưởng kém nên ảnh hưởng của nó đến các cây gỗ tái sinh không đáng kể. Ngược lại, những lâm phần thưa, rừng đã qua khai thác thì thảm cỏ có điều kiện phát sinh mạnh mẽ. Trong điều kiện này chúng là nhân tố gây trở ngại rất lớn cho tái sinh rừng (Xannikov, 1967; Vipper, 1973) (dẫn theo Nguyễn Văn Thêm, 1992) [34] . Như vậy, các công trình nghiên cứu được đề cập ở trên đã phần nào làm sáng tỏ việc đặc điểm tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới. Đó là cơ sở để xây dựng các phương thức lâm sinh hợp lý. Tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy được một số tác giả nghiên cứu. Saldarriaga (1991) nghiên cứu tại rừng nhiệt đới ở Colombia và Venezuela nhận xét: Sau khi bỏ hoá số lượng loài thực vật tăng dần từ ban đầu đến rừng thành thục. Thành phần của các loài cây trưởng thành phụ thuộc vào tỷ lệ các loài nguyên thuỷ mà nó được sống sót từ thời gian đầu của quá trình tái sinh, thời gian phục hồi khác nhau phụ thuộc vào mức độ, tần số canh tác của khu vực đó (dẫn theo Phạm Hồng Ban, 2000) [1]. Kết quả nghiên cứu của các tác giả Lambert et al (1989), Warner (1991), Rouw (1991) [45] đều cho thấy quá trình diễn thế sau nương rẫy như sau: đầu tiên đám
  8. 7 nương rẫy được các loài cỏ xâm chiếm, nhưng sau một năm loài cây gỗ tiên phong được gieo giống từ vùng lân cận hỗ trợ cho việc hình thành quần thụ các loài cây gỗ, tạo ra tiểu hoàn cảnh thích hợp cho việc sinh trưởng của cây con. Những loài cây gỗ tiên phong chết đi sau 5-10 năm và được thay thế dần bằng các loài cây rừng mọc chậm, ước tính cần phải mất hàng trăm năm thì nương rẫy cũ mới chuyển thành loại hình rừng gần với dạng nguyên sinh ban đầu. Nghiên cứu khả năng tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy từ 1-20 năm ở vùng Tây Bắc ấn Độ, Ramakrishnan (1981, 1992) đã cho biết chỉ số đa dạng loài rất thấp. Chỉ số loài ưu thế đạt đỉnh cao nhất ở pha đầu của quá trình diễn thế và giảm dần theo thời gian bỏ hoá. Long Chun và cộng sự (1993) đã nghiên cứu đa dạng thực vật ở hệ sinh thái nương rẫy tại Xishuangbanna tỉnh Vân Nam, Trung Quốc nhận xét: tại Baka khi nương rẫy bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài thực vật, bỏ hoá 19 năm thì có 60 họ, 134 chi, 167 loài (dẫn theo Phạm Hồng Ban, 2000) [1]. 1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng là giải pháp lâm sinh quan trọng nhằm phục hồi và phát triển vốn rừng tự nhiên đã và đang bị suy thoái nghiêm trọng ở nước ta. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các giải pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng tự nhiên (có thể cả một số loại rừng trồng) được các nhà nghiên cứu ở trong nước quan tâm thực hiện, có thể kể tới một số công trình nghiên cứu cơ bản sau: Khi nghiên cứu về tình hình tái sinh tự nhiên ở rừng miền Bắc đã được Vũ Đình Huề (1975) [22] tổng kết trong báo cáo khoa học: “Khái quát về tình hình tái sinh tự nhiên ở rừng miền Bắc Việt Nam” . Theo báo cáo này, tái sinh rừng tự nhiên miền Bắc Việt Nam cũng mang những đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt đới, ở rừng thứ sinh tồn tại nhiều cây gỗ mềm kém giá trị. Trong rừng nguyên sinh tổ thành cây tái sinh tương tự như tầng cây gỗ. Hiện tượng tái sinh theo đám tạo nên sự phân bố số cây không đều trên mặt đất rừng. Từ đó tác giả xây dựng tiêu chuẩn đánh giá tái sinh tự nhiên áp dụng cho đối tượng rừng lá rộng ở miền Bắc nước ta. Như vậy, việc phục hồi rừng bằng giải pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên là hoàn toàn có triển vọng.
  9. 8 Với tác giả Vũ Tiến Hinh (1991), (2006) [19], [20] khi nghiên cứu về đặc điểm của rừng tự nhiên đã đề cập đến đặc điểm tái sinh theo thời gian của cây rừng và ý nghĩa của nó trong điều tra cũng như trong kinh doanh rừng. Từ kết quả đó tác giả cũng đề xuất các loại biện pháp xúc tiến tái sinh tự nhiên và tác giả có đưa ra đề nghị: do khó nhận biết tên cây của tầng tái sinh nên có thể sử dụng quan hệ giữa hệ số tổ thành tầng tái sinh và tầng cây cao để xác định hệ số tổ thành tầng tái sinh. Trần Đình Lý (1995) [25] đã nghiên cứu xác định diện tích và hệ thống biện pháp kỹ thuật lâm sinh cho việc khoanh nuôi phục hồi rừng. Qua đó tác giả đã làm sáng tỏ khái niệm khoanh nuôi phục hồi rừng, xác định đối tượng cụ thể, thời gian và tiêu chuẩn rừng sau khoanh nuôi, nội dung công việc cần tiến hành trong quá trình khoanh nuôi và tác giả đã xây dựng được bản quy phạm cho khoanh nuôi phục hồi rừng. Lâm Phúc Cố (1995) [10] khi nghiên cứu về mô hình phục hồi rừng sau nương rẫy ở Lâm trường Púng Luông, Mù Căng Chải, Yên Bái, có kết luận là, phục hồi rừng bằng khoanh nuôi có hiệu quả nhất trong việc tạo rừng phòng hộ đầu nguồn sông Đà ở Púng Luông. Việc bổ sung một phần những cây mới có chất lượng để tạo ra một lâm phần gồm những cây gỗ lớn chiếm ưu thế rút ngắn được thời gian diễn thế, nâng cao giá trị rừng khoanh nuôi về phòng hộ đầu nguồn và kinh tế. Phó Đức Đỉnh (1995) [14], khi nghiên cứu xúc tiến tái sinh tự nhiên rừng Thông ba lá ở Lâm trường Đà Lạt – Lâm Đồng, đã tiến hành phân chia rừng Thông ba lá tại khu vực nghiên cứu thành 5 loại hình xúc tiến tái sinh tự nhiên và xây dựng các biện pháp kỹ thuật cho 5 loại hình này. Trương Hồ Tố (1996) [38] khi nghiên cứu về cấu trúc của quần thể rừng Thông ba lá ở Lâm Đồng, đã đề xuất là thường xuyên mở tán rừng chính để giải phóng cây tái sinh tự nhiên, đặc biệt quan tâm lớp cây con có đường kính dưới 8 cm nhằm tăng diện tán lá và hạ độ cao lớp phủ thực vật. Võ Đại Hải (1997), [15] khi nghiên cứu các dạng cấu trúc hợp lý cho rừng phòng hộ đầu nguồn tại Việt Nam, đã đề xuất một số giải pháp kỹ thuật lâm sinh trong trồng rừng, khai thác và nuôi dưỡng rừng là; xây dựng rừng hỗn giao nhiều
  10. 9 tầng tán, độ che phủ cao và những nơi xung yếu, trong đó cần chú ý bảo vệ lớp thảm mục và thảm tươi; khi làm đất và xử lý thực bì càn chừa lại những cây tái sinh và cây phù trợ có chất lượng tốt; trong quá trình nuôi dưỡng cần chú ý đến việc phát dây leo, không được phát cây bụi thảm tươi. Nơi có mật độ thưa và phân bố không đều thì cần phải xúc tiến tái sinh tự nhiên theo rạch hoặc theo đám nhưng không đốt và xử lý thực bì. Trần Cẩm Tú (1998) [39] tiến hành nghiên cứu tái sinh tự nhiên sau khai thác chọn ở Hương Sơn, Hà Tĩnh và đã rút ra kết luận: áp dụng phương thức xúc tiến tái sinh tự nhiên có thể đảm bảo khôi phục vốn rừng, đáp ứng mục tiêu sử dụng tài nguyên rừng bền vững. Tuy nhiên, những biện pháp tác động phải có tác dụng thúc đẩy cây tái sinh mục đích sinh trưởng và phát triển tốt, khai thác rừng phải đồng nghĩa với tái sinh rừng, phải chú trọng điều tiết tầng tán của rừng, đảm bảo cây tái sinh phân bố đều trên toàn bộ diện tích rừng. Để cải thiện tổ thành rừng loại bỏ các cây phi mục đích cần phải thực hiện các giải pháp Lâm sinh (chặt mở tán, chặt gieo giống, phát dây leo, cây bụi,...) trước khi khai thác và dọn vệ sinh rừng ngay sau khi khai thác. Trần Ngũ Phương (2000) [27] khi nghiên cứu các quy luật phát triển rừng tự nhiên miền Bắc Việt Nam đã nhấn mạnh quá trình diễn thế thứ sinh của rừng tự nhiên như sau: “ Trường hợp rừng tự nhiên có nhiều tầng, khi tầng trên già cỗi, tàn lụi rồi tiêu vong thì tầng kế tiếp sẽ thay thế; trường hợp nếu chỉ có một tầng thì trog khi nó già cỗi một lớp cây con tái sinh xuất hiện và sẽ thay thế nó khi nó tiêu vong, hoặc cũng có thể một thảm thực vật trung gian xuất hiện một lớp cây con tái sinh lại rừng cũ trong tương lai và sẽ thay thế thảm thực vật trung gian này, lúc bấy giờ rừng cũ sẽ được phục hồi. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam 2002 [41] khi nghiên cứu về chọn loài cây phục vụ trồng rừng và khoanh nuôi phục hồi rừng, đã đưa ra 31 loài cây bản địa để phục vụ cho trồng mới rừng hoặc khoanh nuôi phục hồi rừng tự nhiên. Phạm Ngọc Thường – 2003, [32], đề xuất một số giải pháp kĩ thuật lâm sinh phục hồi rừng sau nương rẫy ở hai tỉnh Thái nguyên – Bắc cạn trên một số mô hình.
  11. 10 Mô hình khoanh nuôi tái sinh tự nhiên, mô hình này có thời gian phục hồi 7 – 8 năm cho biết được mật độ cây tái sinh và số lượng cây tái sinh có triển vọng/ha. Nhưng công trình này không đưa ra số liệu về kích thước cây tái sinh và không có mô hình đối chứng nên chưa đánh giá được hiệu quả của khoanh nuôi tái sinh tự nhiên đến mức nào?. Mô hình khoanh nuôi xúc tiến tái sinh trồng bổ sung cho biết cây trồng bổ sung có tỷ lệ sống cao, sinh trưởng tốt nhưng lại không đề cập tới tình hình tái sinh như thế nào thông qua biện pháp kỹ thuật lâm sinh do vậy nó vẫn chưa minh chứng được hiệu quả của mô hình. Những nghiên cứu về phục hồi rừng ở trong nước cũng đã được tiến hành khá bài bản từ những nghiên cứu cơ bản cho đến những nghiên cứu ứng dụng theo trào lưu phát triển KTLS trên thế giới nhưng có sự điều chỉnh áp dụng vào kết quả của nó là những quy trình kỹ thuật đã được ban hành. Phạm Ngọc Thường (2003) [35] khi nghiên cứu đặc điểm tái sinh của thảm thực vật Vầu, Nứa sau nương rẫy tại Thái Nguyên và Bắc Kạn, kết quả đã cho thấy sau 4 - 6 năm tiến hành các biện pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên thì mật độ Vầu tái sinh khoảng 5.120 cây/ha và Nứa tái sinh khoảng 7.300 cây/ha, rừng có chất lượng cây tốt chiếm tỷ lệ cao từ 68 - 78%. Với kết quả nghiên cứu đã đạt được, tác giả cho rằng với thảm thực vật tái sinh sau nương rẫy có nguồn gốc là rừng Vầu/Nứa thì chỉ cần áp dụng giải pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên là có thể đảm bảo phục hồi rừng thành công. Khi nghiên cứu quá trình tái sinh tự nhiên của rừng phục hồi sau canh tác nương rẫy tại Thái Nguyên và Bắc Kạn, tác giã đã đề xuất biện pháp khoanh nuôi tái sinh tự nhiên, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên, làm giàu rừng và trồng rừng để phục hồi rừng sau canh tác nương rẫy. Theo Nguyễn Văn Tuấn (2003) [40] thì các biện pháp khoanh nuôi phục hồi rừng tự nhiên được áp dụng ở nước ta hiện nay bao gồm: Khoanh đóng, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên, nuôi dưỡng rừng và làm giàu rừng. Đây được coi là những giải pháp phục hồi rừng rất có hiệu quả ở nước ta hiện nay. Chỉ tính trong vòng 3 năm từ 1999 - 2002 thì bằng các giải pháp khoanh nuôi phục hồi rừng tự nhiên đã góp phần tăng 366.192 ha rừng tự nhiên, góp phần tăng độ che phủ của
  12. 11 rừng trên phạm vi cả nước. Theo Phạm Xuân Hoàn, Hoàng Kim Ngũ (2003) [21] thuật ngữ rừng thứ sinh nghèo được dùng khi diễn tả một quần xã thực vật hình thành bởi quá trình phục hồi lại sau khi bị gián đoạn trong chuỗi diễn thế nguyên sinh. Đặc trưng của rừng thứ sinh nghèo là tính quy luật trong kết cấu của lâm phần không rõ ràng, cây bụi và dây leo phát triển cực kì mạnh. Rừng thứ sinh nói chung và rừng thứ sinh nghèo nói riêng đều có sản lượng và giá trị kinh tế kém. Mật độ thiếu đặc biệt mật độ những loài cây mục đích cũng là một đặc điểm dễ nhận thấy ở rừng thứ sinh. Vì vậy cần có các biện pháp để phục hồi và phát triển rừng thứ sinh nghèo nhằm năng cao hiệu quả của rừng mang lại cả về mặt số lượng và chất lượng trong. Đinh Hữu Khánh (2006) [23], đã nghiên cứu cơ sở khoa học xác định và phân loại đối tượng khoanh nuôi phục hồi rừng ở một số tỉnh Nam trung Bộ, đã xác định được 9 nhân tố ảnh hưởng tái sinh rừng và dựa vào các yếu tố chủ yếu; mật độ cây tái sinh, chiều cao trung bình của các loài cây gỗ tái sinh, số tháng hạn trong năm, lượng mưa trung bình năm, cấp đất để phân chia khả năng phục hồi rừng từ trạng thái Ic với các khoảng thời gian > 8 năm; 5 – 8 năm và < 5 năm, v.v… Theo Võ Đại Hải (2008) [16], (2009) [17] thì Vối thuốc và Vối thuốc răng cưa có khả năng tái sinh tự nhiên rất mạnh ở các trạng thái rừng phục hồi sau nương rẫy với hệ số tổ thành dao động từ 2,4 - 9,7, tỷ lệ cây tái sinh triển vọng từ 73 - 100% (đối với Vối thuốc) và hệ số tổ thành từ 0,05 - 1,8, mật độ cây tái sinh từ 250 - 1.562 cây/ha (đối với Vối thuốc răng cưa). Vì vậy, tác giả khuyến nghị cần thực hiện giải pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên đối với các trạng thái rừng này bằng các biện pháp lâm sinh như phát luỗng dây leo bụi rậm, chặt cây tái sinh phi mục đích,… sẽ cho triển vọng phục hồi rừng cao. Nguyễn Quang Dương, 2009 [13] đã tiến hành nghiên cứu xúc tiến tái sinh Keo tai tượng tại các tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam đã có kết luận. Hiện nay tại khu vực nghiên cứu đã sử dụng 7 biện pháp kỹ thuật lâm sinh khác nhau trong việc tạo rừng bằng xúc tiến tái sinh tự nhiên sau khai khác là: - Chặt nhỏ cành, nhánh, rải đều trên toàn bộ diện tích sau khai thác rừng Keo
  13. 12 tai tượng rồi đốt toàn diện. - Chặt nhỏ cành, nhánh sau khai thác rừng Keo tai tượng rồi xếp thành hàng vào các vị trí hàng cây sẽ định trồng sau này rồi đốt. - Chặt nhỏ cành, nhánh sau khai thác rồi xếp thành băng rộng tương đương 5 hàng cây, đốt theo băng. - Xử lý thực bì toàn diện rồi đốt, sau đó trồng rừng phòng hộ theo dự án 661 (Cây bản địa và cây phù trợ Keo tai tượng), cây tái sinh Keo tai tượng được chọn lọc giữ lại để nuôi dưỡng. - Gieo hạt trên đất không có rừng Keo tai tượng khai thác, sau đó xử lý thực bì toàn diện bằng phát đốt, tiến hành trồng cây nông nghiệp. - Đào hố sắn dưới tán rừng, sau đó chặt nhỏ cành nhánh cho vào hố rồi đốt - Xử lý thực bì và vật liệu sau khai thác rừng Keo tai tượng rồi đốt toàn diện, trồng rừng cây bản địa, Keo tai tượng tái sinh giữ lại tạo thành rừng hỗn giao với cây bản địa. Võ Đại Hải (2010) [18] đã thực hiện công trình nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên của loài Vối thuốc (Schima wallichii Choisy) dưới các trạng thái rừng tự nhiên phục hồi bằng biện pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên tại huyện Lục Ngạn và Lục Nam tỉnh Bắc Giang. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Vối thuốc là loài có khả năng tái sinh rất mạnh với hệ số tổ thành có nơi lên tới 5,3 đối với trạng thái rừng IIa và dao động từ 2,1 - 3,0 dưới trạng thái rừng IIb; tỷ lệ cây tái sinh có triển vọng đạt 56%; tỷ lệ cây tái sinh có chất lượng tốt và trung bình lên tới 86 - 100%,… Như vậy, Vối thuốc là loài cây rất có triển vọng trong phục hồi rừng tự nhiên ở huyện Lục Ngạn và Lục Nam, tỉnh Bắc Giang và nhiều địa phương khác bằng giải pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên. Nguyễn Anh Dũng (2011) [11] đã tiến hành đánh giá mô hình phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tại vùng phòng hộ xung yếu ven hồ thủy điển Hòa Bình cho thấy, giải pháp phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên là có triển vọng. Sau 5 năm mật độ cây tái sinh dao động trong khoảng từ 6.720 – 12.480 cây/ha. Biện pháp tại rạch và đám trống đã mang hiệu quả tái sinh rõ
  14. 13 rệt, nếu được tiếp tục đầu tư thì khả năng phục hồi rừng thành công là rất cao. Rừng thứ sinh nghèo ở nước ta hiện nay đang chiếm một tỷ trọng rất lớn (trên 50%) tổng diện tích rừng tự nhiên. Việc phân loại các trạng thái rừng, xác định hiện trạng rừng để đề xuất các giải pháp và biện pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp là vô cùng cần thiết đối với quá trình khôi phục và phát triển rừng tự nhiên ở nước ta hiện nay. Trải qua quá trình nghiên cứu và đánh giá thực tiễn lâu dài, việc quy định đối tượng tác động, thời gian tác động, biện pháp tác động cũng như tiêu chuẩn công nhận khoanh nuôi rừng phục hồi thành công đã được quy định cụ thể thông qua các quy phạm: Quy phạm các giải pháp kỹ thuật lâm sinh áp dụng cho rừng sản xuất gỗ và tre nứa (QPN 14 - 92) [4] được Bộ Lâm nghiệp nay là Bộ NN&PTNT ban hành ngày 31 tháng 3 năm 1993, và Quy phạm phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung (QPN 21 - 98) [5] ban hành ngày 04 tháng 11 năm 1998. Cụ thể như sau: * Về đối tượng tác động: + Đất rừng sau chặt trắng, nương rẫy bỏ hóa, trảng cỏ cây bụi, bãi bồi có thuận lợi về nguồn giống (nguồn hạt phát tán tự nhiên hoặc chồi gốc, chồi rễ), có thể xúc tiến tái sinh tự nhiên thành công bằng những tác động đơn giản như khoanh nuôi bảo vệ, phát luỗng dây leo bụi rậm,… + Rừng hỗn loài tự nhiên không đều tuổi sau khai thác chọn trong khoảng thời gian từ 1/3-2/3 luân kỳ chặt chọn hoặc rừng hỗn loài tự nhiên không đều tuổi sau khai thác chọn không đúng kỹ thuật nhưng số cây có giá trị nuôi dưỡng ở tầng cây cao không đạt mật độ (N) quy định (rừng kinh doanh gỗ lớn N >= 150-200 cây/ha, kinh doanh gỗ nhỏ N > = 500 - 600 cây/ha) nhưng có triển vọng xúc tiến tái sinh thành công thông qua các biện pháp kỹ thuật đơn giản. + Đất bị mất rừng do bị khai thác kiệt; nương rẫy bỏ hóa còn tính chất đất rừng; trảng cỏ xen cây gỗ, tầng đất mặt > 30 cm thỏa mãn 1 trong 3 điều kiện sau: Cây con tái sinh mục đích >=300 (cây/ha), cao trên 50cm. Gốc mẹ có khả năng tái sinh chồi >150 (cây/ha). Cây mẹ gieo giống tại chỗ >25 cây/ha, phân bố tương đối đều.
  15. 14 + Rừng Tre nứa phục hồi sau khai thác, nương rẫy, có độ che phủ trên 20% diện tích và phân bố đều. + Rừng phòng hộ ở khu vực xung yếu và rất xung yếu có độ che phủ trên 40% và có khả năng tự phục hồi. * Về kết quả: - Sau quá trình khoanh nuôi xúc tiến tái sinh để đánh giá quá trình đó thành công hay không cần có những tiêu chí cụ thể cho từng loại rừng, từng đối tượng đưa vào khoanh nuôi. Trước yêu cầu đó Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ra Quyết định số 46/2007/QĐ – BNN ngày 28 tháng 5 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, đã quy định rõ: - Đối với rừng phòng hộ, đặc dụng + Rừng cây gỗ: sau thời gian khoanh nuôi có ít nhất 400 cây gỗ mục đích/ha, độ che phủ của cây bụi, thảm tươi và cây gỗ lớn hơn hoặc bằng 50%, tổng diện tích của các đám trống nhỏ hơn hoặc bằng 1000m2/ha. + Rừng tre nứa, Le, Giang, Vầu, Diễn, Lồ ô,... (gọi chung là rừng tre nứa): sau thời gian khoanh nuôi độ che phủ của tre nứa lớn hơn hoặc bằng 60%, tổng diện tích các đám trống nhỏ hơn hoặc bằng 1000m2/ha. - Đối với rừng sản xuất + Rừng cây gỗ: sau thời gian khoanh nuôi có ít nhất 500 cây gỗ mục đích/ha, phân bố tương đối đều trên toàn bộ diện tích, chiều cao trung bình lớn hơn hoặc bằng 4m, tổng diện tích các đám trống nhỏ hơn hoặc bằng 1000m2/ha. + Rừng tre nứa: sau thời gian khoanh nuôi độ che phủ của tre nứa đạt lớn hơn hoặc bằng 70%, số cây đạt tiêu chuẩn khai thác lớn hơn hoặc bằng 20%, tổng diện tích các đám trống nhỏ hơn hoặc bằng 1000m2/ha. - Đối với những loại rừng không khác không thuộc các đối tượng rừng nêu trên thì tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng địa phương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng tiêu chí để thực hiện.Bên cạnh hệ thống văn bản chính sách quyi định về đất đai. Nhà nước cũng chú trọng đến chính sách quản lý bảo vệ rừng nói riêng. Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 [38] xác định “Rừng là
  16. 15 một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm rừng trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng”, đồng thời quy định rõ các loại rừng, trách nhiệm trong công quản lý bảo vệ rừng. Quyết định 08 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn [29], ban hành quy chế quản lý các loại rừng. Quy chế này vừa mới được đổi mới bằng quyết định 186/2006 của Chính phủ [30], về quy chế quản lý rừng. Trần Văn Con và Cộng sự (2005) [9] đã tổng kết ở việt nam hiện nay có một số biện pháp kỹ thuật áp dụng chính cho phục hồi rừng là:  Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên kết hợp trồng bổ sung Đây là một giải pháp sử dụng triệt để khả năng diễn thế tái sinh tự nhiên để phục hồi rừng thông qua các biện pháp khoán bảo vệ, biện pháp kỹ thuật lâm sinh và trồng bổ sung khi cần thiết. Phạm vi áp dụng được cho cả ba loại rừng phòng hộ, đặc dụng và sản xuất. Đặc biệt, đã xác định rõ địa bàn áp dụng là nơi đã có quy hoạch sử dụng đất chính thức và đã có chủ thực sự.  Kỹ thuật làm giàu rừng Làm giàu rừng được hiểu là một giải pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm cải thiện tỷ lệ cây mục đích ở rừng nghèo mà không loại bỏ thảm rừng cũ và các cây non mục đích có sẵn (Phạm xuân hoàn 2003). Mục đích của làm giàu rừng là tạo ra một lâm phần mới với cây trồng làm giàu chiếm ưu thế được trồng hỗn giao với các loài cây có giá trị kinh tế có sẵn trong thảm rừng cũ. Đối tượng của làm giàu rừng là rừng nghèo kiệt thuộc trạng thái IIIA1, có cấu trúc bị phá vỡ hoàn toàn; số lượng cây tái sinh mục đích không bảo đảm về số và chất lượng. Biện pháp kỹ thuật bao gồm: làm giàu rừng theo rạch và làm giàu rừng theo đám.  Cải tạo rừng Cải tạo rừng là việc thay thế thảm thực vật gốc bằng một thảm thực vật hoàn toàn mới có năng suất và chất lượng cao hơn thảm thực vật gốc. Cũng tương tự như làm giàu rừng, cải tạo rừng có thể dựa vào thảm thực vật cũ để điều chỉnh ánh sáng
  17. 16 cho cây trồng và cũng có thể để lại các cây có giá trị kinh tế của thảm rừng cũ. Tuy nhiên điểm khác nhau ở đây là cường độ và sự khác biệt giữa thảm thực vật rừng mới với thảm thực vật cũ. Trong làm giàu rừng thảm thực vật chỉ được bổ sung thêm các loài có giá trị kinh tế, trong khi đó thì cải tạo rừng hầu như thay thế hoàn toàn thảm thực vật rừng cũ. Trong nhiều trường hợp cải tạo rừng còn đồng nghĩa với việc trồng rừng mới sau khi khai thác thảm rừng cũ. Đối tượng của cải tạo rừng bao gồm các diện tích rừng nghèo kiệt thuộc trạng thái II, hay IIIA1, tiềm năng tái sinh thấp, cây gỗ có chất lượng kém. Có những khoảng trống lớn trong rừng.  Khai thác đảm bảo tái sinh Bản chất của việc khai thác rừng là lấy ra khỏi rừng những thế hệ cây già cỗi bắt chước quá trình chết đi tự nhiên để tác động sớm hơn để tận dụng gỗ và tạo điều kiện cho thế hệ cây tái sinh phát triển. Vận dụng triệt để quy luật này quy chế khai thác gỗ và lâm sản được ra đời theo quyết định số 02/1999 và bổ sung lại sửa đổi lại theo quyết định 40/2005. Quy chế quy định từng đối tượng rừng khai thác ứng với từng luân kỳ khai thác và cường độ khai thác kèm theo đó là cấp kính khai thác tối thiểu tùy theo từng đối tượng kinh doanh rừng. 1.3. Nhận xét và đánh giá chung Từ các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về các vấn đề liên quan có thể rút ra một số nhận xét như sau: - Trên thế giới các công trin ̀ h nghiên cứu có liên quan tới vấ n đề khoanh nuôi phục hồi rừng tự nhiên đặc biệt là xúc tiến tái sinh tự nhiên tương đối đầ y đủ và toàn diê ̣n. Vấ n đề sử du ̣ng cây bản điạ trong phát triển rừng cũng rấ t đươ ̣c chú trọng và được phát triển mạnh trong những năm gần đây. Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng tự nhiên cũng đã được nhiều nước áp dụng, đặc biệt là ở các nước có tiềm năng tái sinh rừng tự nhiên lớn như vùng Đông Nam Á. Những nghiên cứu này là cơ sở khoa ho ̣c cũng như kinh nghiệm cho thực tiễn phục hồi và phát triển rừng tự nhiên ở nước ta.
  18. 17 - Ở Viê ̣t Nam, vấn đề khoanh nuôi phục hồi rừng đang là một yêu cầu bức thiết được đặt ra đối với đối tượng rừng tự nhiên là rừng thứ sinh nghèo kiệt và đây cũng là chủ đề được rất nhiều các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Nhiều loài cây đặc biệt là cây bản địa, nhiều mô hình và nhiều hệ thống các biện pháp kỹ thuật đã được nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng ở nhiều vùng trong cả nước, từ đó đã đúc rút được nhiều quy trình, hướng dẫn kỹ thuật trồng rừng cho nhiều loài cũng như ở các địa phương khác nhau. Bên cạnh đó, nhiều văn bản pháp lý liên quan đến khoanh nuôi phục hồi rừng cũng đã ra đời, tạo hành lang pháp lý quan trọng trong việc xây dựng, triển khai các chương trình, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng. - Tuy nhiên, vùng đất đồi núi ven biển tỉnh Phú Yên là một vùng rất đặc thù, đất đã bị thoái hóa lâu ngày, nghèo dinh dưỡng, thường xuyên chịu nhiều tác động của gió bão,... Vì vậy, cần phải có những đánh giá cụ thể về kết quả của các mô hình khoanh nuôi phục hồi rừng đã triển khai tại địa phương thuộc dự án KFW6 nhằm rút ra những cơ sở khoa học, những bài học kinh nghiệm thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng của các mô hình nhằm áp dụng rộng rãi trong công cuộc bảo vệ và phát triển rừng. Xuất phát từ những yêu cầu này, đề tài đặt ra là cần thiết.
  19. 18 Chương 2 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu nghiên cứu. 2.1.1. Về lý luận Đánh giá được hiện trạng và hiệu quả phục hồi rừng một số mô hình khoanh nuôi phục hổi rừng tại vùng đồi núi ven biển tỉnh Phú Yên. 2.1.2. Về mặt thực tiễn. Đề xuất được định hướng lựa chọn mô hình khoanh nuôi phục hồi rừng nhằm áp dụng rộng rãi cho vùng rừng tự nhiên đồi núi ven biển tỉnh Phú Yên. 2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.2.1. Đối tượng nghiên cứu Khoanh nuôi phục hồi rừng là các hệ thống giải pháp lâm sinh như: Khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên kết hợp trồng bổ sung, Làm giàu rừng, Cải tạo rừng, Khai thác đảm bảo tái sinh. Tuy nhiên, do dự án KFW6 tại địa bàn nghiên cứu mới chỉ áp dụng giải pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên và khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên có trồng bổ sung. Do vậy, Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu với đối tượng nghiên cứu là Các mô hình khoanh nuôi phục hồi rừng tự nhiên thuộc Dự án KFW6 thực hiện tại vùng đồi núi ven biển tỉnh Phú Yên từ năm 2006 - 2012 cụ thể là: - Các mô hình rừng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên tại huyện Tuy An, huyện Đồng Xuân và thị xã Sông Cầu. - Các mô hình rừng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên có trồng bổ sung sung tại Huyện Đồng Xuân. 2.2.2. Phạm vi nghiên cứu * Về địa bàn nghiên cứu: Giới hạn nghiên cứu là rừng tự nhiên vùng đồi núi ven biển tỉnh Phú Yên, tập trung ở 1 thị xã và 2 huyện có triển khai dự án KFW6 là: Thị xã Sông Cầu và huyện
  20. 19 Đồng Xuân, huyện Tuy An. Mỗi thị xã hoặc huyện triển khai nghiên cứu tại địa điểm cụ thể là: - Các mô hình rừng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên: Được bố trí tại huyện Tuy An, huyện Đồng Xuân và thị xã Sông Cầu.. - Các mô hình rừng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh có trồng bổ sung: Được bố trí ta ̣i huyện Đồng Xuân. * Về nội dung nghiên cứu: - Với các mô hình khoanh nuôi xúc tiến tái sinh không trồng bổ sung chỉ tập trung vào nghiên cứu sự thay đổi cấu trúc tầng cây cao và cây tái sinh. - Với các mô hình khoanh nuôi xúc tiến tái sinh có trồng bổ sung: Tập trung vào nghiên cứu, đánh giá về sinh trưởng, tỷ lệ sống và chất lượng cây trồng bổ sung. - Về đề xuất một số biện pháp kỹ thuật và loài cây áp dụng: Đề tài chỉ đề xuất định hướng một số giải pháp kỹ thuật lâm sinh và loài cây áp dụng trong khoanh nuôi xúc tiến tái sinh, xúc tiến tái sinh có trồng bổ sung. 2.3. Nội dung nghiên cứu - Khái quát chung về tình hình thực hiện khoanh nuôi phục hồi rừng tự nhiên vùng đồi núi ven biển tỉnh Phú Yên. - Đánh giá các mô hình khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng tự nhiên vùng đồi núi ven biển tỉnh Phú Yên. - Đánh giá các mô hình khoanh nuôi xúc tiến tái sinh có trồng bổ xung rừng tự nhiên vùng đồi núi ven biển tỉnh Phú Yên. - Đề xuất một số giải pháp kỹ thuật lâm sinh và loài cây áp dụng trong khoanh nuôi xúc tiến tái sinh, xúc tiến tái sinh có trồng bổ sung rừng tự nhiên vùng đồi núi ven biển tỉnh Phú Yên. 2.4. Phương pháp nghiên cứu 2.4.1. Quan điểm nghiên cứu và phương pháp luận - Mỗi biện pháp kỹ thuật áp dụng trong các mô hình khoanh nuôi xúc tiến tái sinh là khác nhau sẽ dẫn đến kết quả phục hồi rừng khác nhau, do vậy cách tiếp cận của Đề tài là đánh giá theo từng biện pháp kỹ thuật đã áp dụng.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1