Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Đánh giá một số mô hình khuyến lâm trọng điểm tại tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2006 - 2010
lượt xem 4
download
Nội dung chính của đề tài là đánh giá thực trạng triển khai các mô hình KLTĐ ở Hoà Bình giai đoạn 2006-2010. Đánh giá các mô hình KLTĐ đã xây dựng tại tỉnh Hoà Bình giai đoạn 2006-2010. Đánh giá tác động của mô hình KLTĐ đến nhận thức của người dân và phát triển kinh tế - xã hội. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Đánh giá một số mô hình khuyến lâm trọng điểm tại tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2006 - 2010
- bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé n«ng nghiÖp vµ ptnt tr-êng ®¹i häc l©m nghiÖp ----------------------------------- ĐỖ PHAN TUẤN ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ MÔ HÌNH KHUYẾN LÂM TRỌNG ĐIỂM TẠI TỈNH HÒA BÌNH GIAI ĐOẠN 2006 - 2010 CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC MÃ SỐ: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VÕ ĐẠI HẢI HÀ NỘI - 2012
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Năm 2007 đã đánh dấu bước ngoặt của Việt Nam khi nền kinh tế nước ta đã gắn với thế giới thông qua sự kiện Việt Nam gia nhập WTO. Để thúc đẩy phát triển nông nghiệp đạt năng suất cao và bền vững, cần chú trọng đến các hình thức bảo hộ nông nghiệp mà WTO cho phép, trong đó có hình thức khuyến nông đang ngày càng được chú trọng. Tại Hội nghị Trung ương 7, khoá X đã ra Nghị quyết số 26- NQ/TW ngày 5-8-2008 về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, tạo động lực đột phá thúc đẩy sự phát triển trong các lĩnh vực này. Trong hoạt động khuyến nông nói chung, khuyến lâm là một ngành quan trọng đã được khẳng định trong các Nghị định về khuyến nông như Nghị định 13, 56 và mới đây nhất là Nghị định 02/2010/NĐ-CP ngày 08/01/2010. Hoạt động khuyến lâm là một trong những nhiệm vụ của Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 5/2/2007: Nâng cao trình độ chuyên môn về quản lý, bảo vệ rừng cho 80% hộ nông dân; Thu hút 50% thành phần kinh tế khu vực tư nhân và các tổ chức đoàn thể tham gia các hoạt động khuyến lâm; Bố trí ít nhất một cán bộ khuyến lâm chuyên trách hoặc kiểm lâm cho mỗi xã nhiều rừng và tăng cường năng lực cho hệ thống khuyến lâm tự nguyện; Cải tiến và cập nhật nội dung, phương pháp khuyến lâm để phù hợp với trình độ của nông dân, đặc biệt hộ nghèo và dân tộc ít người; Xây dựng mối liên kết giữa hệ thống khuyến lâm và đào tạo với các chủ rừng và doanh nghiệp chế biến lâm sản. Từ những nhiệm vụ trong Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006- 2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phê duyệt Đề án phát triển khuyến lâm giai đoạn 2008-2010 và định hướng đến năm 2020 với mục tiêu trung hạn là: Phát triển nguồn nhân lực cho đội ngũ làm công tác khuyến lâm từ Trung ương đến thôn bản, ưu tiên cho khuyến lâm cơ sở; thúc đẩy quá trình chuyển giao các kết quả nghiên cứu cho nông dân; Tăng cường đào tạo, huấn luyện và nâng cao nhận thức cho các chủ rừng; Phát triển tổ chức và tăng cường xã hội hoá công tác khuyến lâm.
- 2 Trong những năm qua Nhà nước có nhiều chính sách phát triển kinh tế xã hội, có liên quan đến phát triển lâm nghiệp như các chương trình 327, 661, 135, 134, 30a,… Với mục tiêu xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững cho khu vực miền núi, thông qua nhiều phương pháp tiếp cận chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật khác nhau trong đó nhiều mô hình trình diễn khuyến lâm đã được triển khai xây dựng ở các địa phương. Kinh phí dành cho hoạt động khuyến lâm ngày càng tăng, tính từ 1993-2010 đã có trên 145 tỷ đồng từ kinh phí khuyến lâm Trung ương được đầu tư triển khai cho các mô hình khuyến lâm tại địa phương. Trong các mô hình trình diễn khuyến lâm thì mô hình khuyến lâm trọng điểm là mô hình được thực hiện bởi các viện nghiên cứu, các trường đại học là rất quan trọng, nó được xem như là những mô hình "mẫu" để các địa phương tham quan, học tập và nhân rộng. Trong giai đoạn 2006-2010, nguồn kinh phí khuyến lâm Trung ương đã dành trên 18 tỷ đồng cho các mô hình khuyến lâm trọng điểm. Riêng tỉnh Hòa Bình đã có trên 5 tỷ đồng được đầu tư cho các mô hình khuyến lâm trọng điểm, do các đơn vị thuộc khối viện, trường thực hiện. Cụ thể, Viện khoa học Lâm nghiệp có 2 đơn vị là Trung tâm Ứng dụng khoa học kỹ thuật lâm nghiệp; Trung tâm Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường Rừng; Trường Đại học Lâm nghiệp có 2 đơn vị là Viện Sinh thái rừng và Môi trường; Công ty Tư vấn Đầu tư và Phát triển lâm nghiệp. Theo cam kết của Chính phủ Việt Nam và ADB, kinh phí khuyến nông Trung ương năm sau cao hơn năm trước 12%, trong đó bao gồm cả kinh phí cho hoạt động khuyến lâm. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu, đánh giá nào một cách có hệ thống và đầy đủ về các mô hình khuyến lâm trọng điểm này, những khó khăn, bất cập trong quá trình chuyển giao là gì? Qua đó, cung cấp cho các nhà quản lý những thông tin đầy đủ, khách quan để hoạch định những chính sách, kế hoạch khuyến lâm phù hợp cho giai đoạn 2012 - 2020. Xuất phát từ thực tiễn đó, đề tài “Đánh giá một số mô hình khuyến lâm trọng điểm tại tỉnh Hoà Bình giai đoạn 2006 - 2010” được thực hiện là cần thiết và có ý nghĩa.
- 3 Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Một số khái niệm dùng trong luận văn 1.1.1. Khái niệm khuyến lâm Khái niệm khuyến lâm là một thuật ngữ khó định nghĩa một cách chính xác, vì khuyến lâm được tổ chức bằng nhiều cách khác nhau, để phục vụ nhiều mục đích rộng rãi, do đó có nhiều quan niệm và định nghĩa về khuyến lâm. Khuyến lâm nhiều khi được hiểu ngầm trong Khuyến nông, hoặc hai khái niệm này đi đôi với nhau và người ta định nghĩa khái niệm Khuyến nông lâm. Hiện nay, có rất nhiều khái niệm về khuyến lâm nhưng có thể tóm tắt lại và hiểu khuyến lâm theo hai nghĩa: - Khuyến lâm, hiểu theo nghĩa rộng: là khái niệm chung để chỉ tất cả những hoạt động hỗ trợ sự nghiệp xây dựng và phát triển rừng. Khuyến lâm là ngoài việc hướng dẫn cho nông dân những tiến bộ kỹ thuật mới, còn phải giúp họ liên kết lại với nhau để chống lại thiên tai, tiêu thụ sản phẩm, hiểu biết các chính sách, luật lệ Nhà nước, giúp nông dân phát triển khả năng tự quản lý, điều hành, tổ chức các hoạt động xã hội như thế nào cho ngày càng tốt hơn. - Khuyến lâm hiểu theo nghĩa hẹp: là một tiến trình giáo dục không chính thức mà đối tượng là nông dân. Tiến trình này đem đến cho nông dân những thông tin và những lời khuyên nhằm giúp họ giải quyết những vấn đề hoặc những khó khăn trong cuộc sống. Khuyến nông lâm hỗ trợ phát triển các hoạt động sản xuất, nâng cao hiệu quả canh tác để không ngừng cải thiện chất lượng cuộc sống của nông dân và gia đình họ. Khuyến nông lâm là sử dụng các cơ quan nông - lâm, các trung tâm khoa học nông lâm nghiệp để phổ biến, mở rộng các kết quả nghiên cứu tới nông dân bằng các phương pháp thích hợp để họ có thể áp dụng nhằm thu được nhiều lâm sản hơn. Trên cơ sở đúc kết hoạt động khuyến lâm ở Việt Nam, chúng ta có thể định nghĩa về khuyến lâm như sau: - Khuyến lâm là cách đào tạo và rèn luyện tay nghề cho nông dân, đồng thời giúp cho họ hiểu được những chủ trương, chính sách về nông nghiệp, những kiến
- 4 thức về kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, những thông tin thị trường, để họ có đủ khả năng tự giải quyết được các vấn đề của gia đình và cộng đồng nhằm đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí, góp phần xây dựng và phát triển nông thôn. - Khuyến lâm là cách giáo dục ngoài học đường cho nông dân, là quá trình vận động, quảng bá, khuyến cáo,... cho nông dân theo nguyên tắc tự nguyện, không áp đặt; đồng thời đó là quá trình tiếp thu kiến thức và kỹ năng một cách dần dần và tự giác của nông dân. 1.1.2. Khái niệm mô hình khuyến lâm trọng điểm Trong hoạt động khuyến lâm có một hình thức tiếp cận đó là mô hình trình diễn khuyến lâm, hay gọi ngắn gọn là mô hình khuyến lâm. Đây là hình thức lôi cuốn người dân vào quá trình phát triển, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới ngay trên nương rẫy, vườn rừng của mình. Dưới sự dẫn dắt của cán bộ khuyến lâm, người dân được “cầm tay chỉ việc” họ được tham gia vào mô hình, bằng những việc làm cụ thể, từ kết quả mắt thấy, tai nghe mà nâng cao kỹ năng, hiểu biết góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân. Trong các mô hình khuyến lâm, mô hình khuyến lâm trọng điểm là loại mô hình khuyến lâm được triển khai chủ yếu bởi các đơn vị nghiên cứu và đào tạo như các trường, các viện thực hiện ở quy mô vùng, miền theo các chủ trương, định hướng lớn của ngành. Mô hình khuyến lâm trọng điểm được xem là những mô hình mẫu để các địa phương, đơn vị thăm quan học tập. 1.2. Lịch sử và hoạt động khuyến nông lâm trên thế giới 1.2.1. Tại Anh Ngày 01 Tháng Chín năm 1919, Luật Lâm nghiệp đã có hiệu lực và Ủy ban Lâm nghiệp (Khuyến lâm) được thành lập, chịu trách nhiệm về rừng ở Anh, Scotland, Wales và Ireland. Toàn bộ tổ chức thành mười phòng với 29 nhân viên cấp trung ương và cấp huyện và 110 kiêm lâm viên. Sau 10 năm đã có 152 khu rừng được quản lý với diện tích khoảng 600.000 mẫu Anh và hơn 138,000 mẫu Anh đã được trồng.
- 5 Năm 1939, Ủy ban Lâm nghiệp tách thành Cục Kiểm lâm, và Cục Khuyến lâm. Sau 90 năm hệ thống khuyến lâm được thành lập, hoạt động khuyến lâm đã góp phần nâng tỷ lệ che phủ rừng của toàn nước Anh lên 5%, hiện có khoảng 2.982.000 ha, chiếm 13% diện tích đất của nước Anh (dẫn theo Forestry Commission [16]). 1.2.2. Tại Nhật Bản Hoạt động khuyến nông lâm của Nhật Bản được hình thành và đi vào hoạt động từ những năm 1900. Lúc đầu khuyến nông lâm được thực hiện bởi các trường học và các trang trại của chính phủ thông qua việc tiến hành thử nghiệm và đưa các công nghệ mới vào sản xuất. Cùng với sự phát triển của nông nghiệp, lâm nghiệp hoạt động khuyến nông lâm ở Nhật đã được chính thức hóa bằng pháp luật và đội ngũ cán bộ khuyến nông, khuyến lâm được xây dựng và củng cố. Các giai đoạn tiếp theo, do sự cải cách hệ thống xã hội, nông dân đã buộc phải áp dụng các hướng dẫn kỹ thuật và kiến nghị của cán bộ khuyến nông lâm - được gọi là "Khuyến nông bắt buộc". Đến năm 1948, dịch vụ khuyến nông chính thức được khôi phục tại Nhật Bản với tên gọi là “Dịch vụ Khuyến nông Hợp tác xã” và phát triển đến nay. Dịch vụ khuyến nông tại Nhật Bản có ba vai trò chính: (1) cải thiện kỹ thuật sản xuất nông lâm nghiệp; (2) cải thiện các tiêu chuẩn sống của cộng đồng dân cư ở các vùng nông thôn và (3) giáo dục thế hệ trẻ ở nông thôn. Hệ thống tổ chức: theo Hà Thanh Tùng (2010) [13] thì Bộ Lâm nghiệp, Nông nghiệp và Thủy sản (MAFF) là cơ quan giúp Chính phủ Nhật bản thực hiện dịch vụ khuyến nông lâm trên phạm vi toàn quốc. Đội ngũ cán bộ khuyến nông lâm của Nhật Bản hiện nay có khoảng 10.000 người. Đội ngũ cán bộ này làm việc như các chuyến gia cố vấn và được phân bổ chủ yếu ở 47 cơ quan khuyến nông cấp tỉnh và 630 cơ quan khuyến nông lâm cấp huyện. Mỗi tỉnh có một trung tâm đào tạo nông dân. Chính sách hỗ trợ: + Chính phủ tạo hành lang pháp lý về khuyến nông lâm, phát triển nông thôn, với phương châm “thể chế mạnh và minh bạch”;
- 6 + Kinh phí: hỗ trợ 40% kinh phí cho các hoạt động dịch vụ khuyến nông của các tổ chức khuyến nông địa phương. Phần còn lại là sự đóng góp của người dân hoặc doanh nghiệp và thậm chí là sự huy động của tổ chức khuyến nông lâm. 1.2.3. Tại Mỹ Theo Alfred Charles True (1928) [15] viết trong cuốn Lịch sử khuyến nông nước Mỹ thì hoạt động khuyến nông, khuyến lâm nước Mỹ được hình thành từ năm 1843. Khởi đầu tại New York nhà nước cấp kinh phí cho Hội đồng bang thuê những nhà khoa học nông nghiệp có kỹ năng thực hành tốt làm giảng viên khuyến nông xuống các thôn xã đào tạo những kiến thức về khoa học và thực hành nông lâm nghiệp cho nông dân. Từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước Chính phủ Mỹ đã quan tâm đến công tác đào tạo khuyến nông lâm trong trường đại học. Năm 1891 bang New York đã hỗ trợ 10.000 USD cho công tác đào tạo khuyến nông lâm đại học. Đến năm 1907 ở Mỹ đã có 42 trường/39 bang có đào tạo khuyến nông lâm. Năm 1910 có 35 trường có bộ môn khuyến nông, khuyến lâm. Năm 1914, Mỹ ban hành luật khuyến nông lâm và thành lập Hệ thống khuyến nông khuyến lâm quốc gia. Giai đoạn này đã có 8.861 Hội nông dân, với khoảng 3.050.150 hội viên. 1.2.4. Tại Ấn Độ Hội khuyến nông Ấn Độ được thành lập năm 1820 (William Carey khởi sướng) và đề xuất cải tiến ngành Nông nghiệp. Cục Lâm nghiệp Hoàng gia được thành lập ở Ấn Độ vào năm 1864. Lâm luật được thông qua năm 1865, lúc đó Luật này chỉ đơn giản là thiết lập ranh giới chủ rừng, đến 1878 nó được bổ sung và hoàn thiện. Hệ thống khuyến nông lâm Ấn Độ được thành lập tương đối sớm vào năm 1960. Trong những năm 1970, Ấn Độ tuyên bố chiến lược dài hạn cho phát triển lâm nghiệp với mục tiêu: giảm xói mòn đất và lũ lụt, cung cấp cho nhu cầu ngày càng tăng của các sản phẩm ngành công nghiệp gỗ trong nước và cung cấp các nhu cầu chất đốt của dân cư nông thôn, gỗ nhỏ, rừng sản xuất. Ủy ban Quốc gia về Lâm nghiệp được thành lập năm 1976, các sở lâm nghiệp được tổ chức lại. Thành lập Ủy
- 7 ban lâm nghiệp xã hội, với mục tiêu thúc đẩy các hoạt động lâm nghiệp truyền thống và phát triển rừng cộng đồng thông qua các hoạt động của cơ quan lâm nghiệp cộng đồng chịu trách nhiệm các trang trại lâm nghiệp, quản lý gỗ, khuyến lâm, trồng rừng. Trong những năm 1980, lâm nghiệp xã hội được khuyến khích bởi các cơ quan lâm nghiệp cộng đồng. Chính sách lâm nghiệp quốc gia được phê duyệt năm 1988. một trong những chính sách đó là Chương trình quản lý rừng, trong đó gắn trách nhiệm cụ thể cho Bộ Lâm nghiệp, từ quản lý các lô rừng cụ thể. Đặc biệt, việc bảo vệ rừng là trách nhiệm của người dân. Đến năm 1992, mười bảy tiểu bang của Ấn Độ tham gia vào quản lý rừng. Năm 2006, Luật chủ rừng được ban hành (dẫn theo [18]). 1.2.5. Tại Trung Quốc Hệ thống khuyến nông khuyến lâm Trung Quốc được thành lập năm 1970 nhưng công tác đào tạo khuyến nông Trung Quốc rất được quan tâm. Trung Quốc tổ chức HTX và Công xã nhân dân từ 1951 - 1978 nên giai đoạn này công tác khuyến nông chỉ triển khai đến HTX. Nội dung khuyến nông giai đoạn này coi trọng phổ biến đường lối chủ trương nông nghiệp của Đảng và Chính phủ cũng như chuyển giao TBKT nông nghiệp, xây dựng các mô hình điểm trình diễn đến thăm quan học tập và áp dụng. Từ năm 1995 trở đi, Trung Quốc quyết định áp dụng những chính sách tập trung hỗ trợ nông nghiệp sản xuất sản phẩm chất lượng cao. Các chương trình khuyến nông lâm chuyển giao giống cây rừng, lúa lai chất lượng cao. Hai mươi năm gần đây, Nhà nước Trung Quốc đã đầu tư đồng bộ cả về hệ thống tổ chức, cơ sở thiết bị nghiên cứu cho khuyến nông khuyến lâm, nhờ vậy điều kiện làm việc và mức sống của khuyến nông lâm viên được nâng cao. Phạm Kim Oanh (2004) [10] cho biết tính đến hết năm 1997, trên toàn đất nước Trung Quốc, đã có tới hơn 48.500 tổ chức khuyến nông khuyến lâm, với hơn 317 nghìn khuyến nông - khuyến lâm viên (từ trung ương tới tỉnh, huyện xã và làng bản). Khuyến nông lâm viên phối hợp hoạt động cùng khoảng 400 nghìn tổ chức
- 8 nông dân (chiếm 20% số làng ở Trung Quốc) với hơn một triệu nông dân là kỹ thuật viên và với 6,6 triệu mô hình trình diễn của nông dân. 1.2.6. Tại Cămpuchia Công tác khuyến nông lâm của Campuchia do Cục Khuyến nông (DAE) thuộc Tổng cục Nông nghiệp của Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản (MAFF) đảm nhiệm. DAE có chức năng quản lý nhà nước về khuyến nông, phát triển hệ thống khuyến nông từ Trung ương đến cấp huyện, phù hợp với nhu cầu của Campuchia. Một mục tiêu chiến lược trong phát triển khuyến nông là xây dựng một hệ thống khuyến nông tới các xã và thôn bản. DAE triển khai, thúc đẩy và điều phối các hoạt động khuyến nông thông qua các bộ phận kỹ thuật và các tổ chức, cơ quan nghiên cứu, cơ quan cấp tỉnh, phi chính phủ và khu vực tư nhân với mục tiêu là lợi ích tốt nhất của các nhà sản xuất, người nông dân. Hoạt động khuyến nông lâm tại Campuchia sử dụng phương pháp tiếp cận phát triển hệ thống canh tác qui mô trang trại, đào tạo và khuyến nông có sự tham gia và cách tiếp cận mở rộng, trong đó tập trung vào (i) Lập kế hoạch và đánh giá có sự tham gia, (ii) Phát triển công nghệ có sự tham gia; (iii) Đào tạo và mở rộng; (iv) Phát triển mở rộng và phổ biến tài liệu; (v) Phát triển các tổ chức nông dân (dẫn theo [11]). 1.2.7. Tại Inđônêsia Là một nước có nền nông nghiệp tương đối phát triển trong khu vực. Trung tâm khuyến lâm (thuộc Bộ Lâm nghiệp) quản lý các vấn đề liên quan đến hoạt động khuyến lâm từ các dịch vụ đến phát triển lâm nghiệp bền vững. Theo tác giả Nur Hidayat (2009) [17], hiện nay Inđônêsia có trên 30.000 cán bộ khuyến nông, trong đó có trên 5.200 khuyến lâm viên. 1.2.8. Tại Malaysia Khi nghiên cứu về hoạt động khuyến nông lâm của Malaysia, tác giả Hà Thanh Tùng (2011) [14] cho biết hình thức triển khai hoạt động khuyến nông lâm của Malaysia được tổ chức dưới dạng dự án theo các chuyên ngành và khu vực riêng theo hình thức tư vấn cho trưởng làng/bản hoặc người đứng đầu doanh nghiệp. Mở các lớp tập huấn cũng được chú trọng trong hoạt động khuyến nông lâm của
- 9 Malaysia với các khóa tập huấn mang tính quốc gia, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và theo từng chuyên đề. Hình thức tập huấn chủ yếu là "đạo tạo tại hiện trường" và "cầm tay chỉ việc". Về nội dung hoạt động khuyến nông lâm của Malaysia tập trung vào tuyên truyền, giáo dục và đào tạo các kỹ thuật liên quan đến giấp chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm như GAP, GMP, truy xuất nguồn gốc, và trang trại hữu cơ. 1.2.9. Tại Myanmar Là đất nước nông nghiệp đóng góp 45,1% GDP, hoạt động khuyến nông lâm được xem là giải pháp hàng đầu để phát triển nông lâm nghiệp bền vững. Các hoạt động chủ yếu ở nước này là xây dựng mô hình trình diễn, tập huấn, và thông tin tuyên truyền. Tại Myanmar đặc biệt quan tâm hệ thống nhóm 10 hộ nông dân, trong đó có 1 nhóm trưởng thường xuyên liên hệ với cán bộ khuyến nông và chuyên gia. Hệ thống tổ chức khuyến nông lâm của Myanmar được tổ chức ở Trung ương và 5 trung tâm ở 5 vùng lãnh thổ, các cán bộ khuyến nông lâm chủ yếu trực thuộc 5 trung tâm vùng này. Các hoạt động xây dựng mô hình, tập huấn cũng được tổ chức tại các trung tâm vùng (dẫn theo [7]). 1.2.10. Tại Philippin Hệ thống khuyến nông khuyến lâm được thành lập năm 1976. Hoạt động khuyến nông lâm của Philippin do Viện đào tạo nông nghiệp trực thuộc Cục Nông nghiệp đảm nhiệm và triển khai các hoạt động về khuyến nông khuyến lâm. Tại các vùng có 17 trung tâm đào tạo, không tổ chức theo địa danh hành chính. Theo nhận xét của Hà Thanh Tùng (2011) [7], hoạt động khuyến nông của Philippin được gọi là “khuyến nông điện tử”. Với hình thức chuyển tải thông tin và chuyển giao công nghệ chủ yếu thông qua các phương tiện điện tử như Internet, đài, báo điện tử, truyền hình, băng video và cát-sét. Hầu hết các nội dung hoạt động khuyến nông lâm đều tập trung vào sản xuất nông lâm nghiệp hữu cơ, giảm thiểu biến đổi khí hậu và phát triển sinh kế bền vững. Chính phủ chi phí xây dựng, vận hành hệ thống thông tin, băng đĩa hình, internet phục vụ khuyến nông. Trong xây dựng mô hình, Chính phủ chỉ hỗ trợ 50% chi phí giống, Cán bộ khuyến lâm của Philippin chủ yếu
- 10 được đào tạo từ Trường Đại học Los Banõs. 1.2.11. Tại Lào Lào có mô hình khuyến lâm tương tự như mô hình khuyến lâm của Việt Nam. Mọi hoạt động khuyến lâm của Lào được điều hành bởi bộ Lâm nghiệp Lào. Cán bộ khuyến lâm của Lào được đào tạo chủ yếu tại khoa Lâm nghiệp trường Đại học quốc gia Viêng Chăn (dẫn theo [2]), các cán bộ cấp cao đều được sự hỗ trợ đào tạo tại Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, Viện khoa học Lâm nghiệp Việt nam. 1.2.12. Tại Thái Lan Thái Lan là quốc gia nông nghiệp với trên 60% dân số sống bằng nghề nông nghiệp. Điều kiện đất đai, khí hậu nóng ẩm gần tương đồng Việt nam. Thái Lan là quốc gia hoạt động khuyến nông lâm khá tiêu biểu. Hệ thống khuyến nông nhà nước được thành lập năm 1967. Hiện Thái lan có 3 tổ chức chính hoạt động có liên quan đế khuyến lâm, đó là Cục lâm nghiệp Hoàng gia, Hội nông dân, Hội phát triển cộng đồng. Hoạt động khuyến lâm được thực hiện và chỉ đạo bởi các Phòng lâm nghiệp Quốc gia, bao gồm 21 cơ quan cấp vùng và 72 cơ quan cấp tỉnh (dẫn theo [9]). Cán bộ khuyến lâm của Thái lan chủ yếu được đào tạo từ Trường Đại học Kasetsart và Trung tâm Đào tạo Lâm nghiệp cộng đồng RECOFTC. 1.3. Lịch sử và hoạt động khuyến nông lâm ở Việt Nam 1.3.1 Trước năm 1993 Cùng với sự phát triển khuyến nông trên thế giới, khuyến nông Việt Nam cũng được hình thành và phát triển trong những năm qua. Nguyễn Chí Hải (dẫn theo [8]) khi nghiên cứu về lịch sử tư tưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ phong kiến cho biết với tư tưởng trọng nông là tư tưởng chủ đạo và chính sách khuyến nông của nhà nước phong kiến các triều đại phong kiến Việt Nam đã có nhiều biện pháp để khuyến khích nông nghiệp phát triển, từ việc khuyến khích khai hoang mở rộng diện tích, thực hiện chính sách "Ngụ binh ư nông", miễn giảm thuế cho nông dân những năm mất mùa hay sau khi kết thúc các cuộc chiến tranh giữ nước để nuôi dưỡng sức dân, cho đến việc nhà vua cày ruộng "tịch điền",
- 11 làm lễ trừ sâu, lễ tế côn trùng, xem gặt lúa,... Tất cả đều nói lên sự quan tâm thường trực của nhà nước phong kiến đối với việc phát triển nông nghiệp. Có thể nói, chính sách khuyến nông chính là một trong những chuẩn mực cơ bản để đánh giá năng lực và sự thịnh suy của các triều đại phong kiến Việt Nam. - Theo Cổng thông tin điển tử tỉnh Hà Nam (dẫn theo [7]) và Đào Xuân Ánh (2008) [1] khẳng định năm 987, Lê Hoàn là ông vua đầu tiên dưới chế độ phong kiến Việt Nam tiến hành lễ cày tịch điền, nhằm mục đích khuyến khích sản xuất nông nghiệp. Ruộng tịch điền thuộc quyền quản lý trực tiếp của triều đình, giống lúa cấy trên ruộng được chọn để cho loại gạo ngon dùng vào việc tế lễ, đặc biệt là tế thần nông và thần xã tắc. Cày tịch điền dưới thời phong kiến là một trong những biện pháp khuyến nông. - Ở thời kỳ nhà Trần (năm 1226) lập ra các chức quan để trong coi việc phát triển nông nghiệp như: Hà đê sứ, đồn điền sứ, khuyến nông sứ,... Nhờ đó nông nghiệp Việt Nam lúc bấy giờ phát triển tương đối mạnh, có thể nói đây là thời kỳ hưng thịnh của nông nghiệp Việt Nam lúc đó (dẫn theo Vũ Thị Lan (2007) [9]). - Năm 1475, bên cạnh cải tổ cơ chế Nhà nước, Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý các biện pháp phát triển kinh tế, sửa đổi chế độ thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, mở đồn điền, khai khẩn đất hoang. Những nỗ lực nhằm xây dựng phát triển đất nước của Lê Thánh Tông đã được phản ánh khá rõ qua các bài chiếu, chỉ dụ do ông ban bố, như Chiếu khuyến nông, Chiếu lập đồn điền, Chiếu định quan chế,... Cùng năm, ông đặt ra chức quan Hà đê để trông coi đê điều và chức quan Khuyến nông để đôn đốc nhân dân việc cày cấy. - Năm 1789 vua Quang Trung ban bố "Chiếu khuyến nông" với những nội dung rất cụ thể như kêu gọi nhân dân tích cực sản xuất, không được bỏ ruộng hoang, người đi phiêu tán phải trở về quê cũ,… Điểm độc đáo trong chính sách kinh tế của Quang Trung là "trọng nông" nhưng không "ức thương". Sau 3 năm có "chiếu khuyến nông", ruộng bỏ hoang đã được phục hoá, mùa màng bội thu, nông nghiệp được phục hồi và nông dân an cư lạc nghiệp (dẫn theo [3]). - Vua Gia Long (1802 – 1820), sau khi thống nhất đất nước, đã sửa sang việc
- 12 triều chính, định binh chế, quan chế, tài chính, đinh điền nông nghiệp, công vụ, pháp luật, học hành, ngoại giao,… Gia Long là một vị vua coi trọng khá toàn diện đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Ông đã khoan thư sức dân (giảm thuế); giữ gìn và mở rộng diện tích, cải tạo đất canh tác nông nghiệp (cấm bán công điền, công thổ; đào sông, thuỷ lợi, trị thuỷ, khai hoang phục hoá); có chiến lược an ninh lương thực (lập kho dự trữ để cấp phát cho dân khi mất mùa, đói kém),… Từ 1820 - 1840, triều đại của Minh Mạng, năm 1821 dựng lại Quốc Tử Giám, mở thi hội và thi đình. Thực thi các chính sách khuyến nông, tìm hiểu kỹ thuật đóng tàu của châu Âu. - Lê Sỹ Trung (2010) (dẫn theo [12]) cho biết vào tháng 4 năm 1945, Hồ Chủ Tịch trong lễ bế giảng khóa chỉnh huấn cán bộ tại Việt Bắc, Người đã căn dặn: “Các chú ra về phải làm tốt công tác khuyến nông, ra sức phát triển nông nghiệp, chống giặc đói, diệt giặc dốt”. - Năm 1955-1956 chúng ta thực hiện cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”. Đây là cuộc cách mạng lớn chưa từng có trong lịch sử nông nghiệp nước ta. Chúng ta đã tịch thu hơn 81 vạn ha ruộng đất của địa chủ…, 106.448 trâu bò cùng với 1.846.000 nông cụ chia cho 2.104.158 hộ nông dân và nhân dân lao động (72,8% hộ nông thôn miền Bắc). Kết quả này đã tạo điều kiện và khích lệ nông dân ra sức tăng gia sản xuất. - Năm 1960 ở miền Bắc thành lập các Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp (HTX) bậc thấp, năm 1968 HTX bậc cao, năm 1974 HTX toàn xã. Tổ chức HTX sản xuất nông nghiệp vào giai đoạn này có một ý nghĩa lịch sử lớn lao. Tổ chức HTX sản xuất nông nghiệp nông dân “Cùng làm cùng hưởng” đã giúp cho Đảng và Nhà nước huy động được mức độ tối đa sức người, sức của phục vụ cho công cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Công tác khuyến nông giai đoạn này chủ yếu triển khai đến HTX. Phương pháp khuyến nông chủ yếu đưa TBKT vào sản xuất, xây dựng các mô hình HTX sản xuất tiến bộ như: HTX Tân Phong, HTX Vũ Thắng -Thái Bình. - Dưới chế độ Sài Gòn cũ (1960) có Nha khuyến nông chuyên lo phát triển
- 13 nông nghiệp, phát triển nông thôn. - Từ năm 1964-1980 nhìn chung nông nghiệp trì trệ kém phát triển, đời sống nông dân gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân có nhiều nhưng chủ yếu do chiến tranh. Chúng ta phải tập trung mọi nỗ lực cho công cuộc đấu tranh giải phóng miềm Nam, giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Mặt khác sau giải phóng miền Nam năm 1975 đến 1980 miền Bắc vẫn còn duy trì HTX sản xuất nông nghiệp là một thực tế bất cập mất cân đối giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản suất. - Trước thực trạng sản xuất nông nghiệp trì trệ và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, tháng 1 năm 1981, Chỉ thị 100 của Ban CHTW Đảng: “Khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động”, còn gọi là “Khoán 100” được ra đời. Sau 7 năm thực hiện “Khoán 100” Đảng ta xem xét rút kinh nghiệm: “Khoán 100” có nhiều ưu điểm thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhưng vẫn còn nhiều hạn chế: Nông dân chưa thực sự chủ động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Trên đồng ruộng, ao hồ, chuồng trại chăn nuôi người nông dân chưa có thể chủ động sản xuất kinh doanh vì những khâu then chốt như giống, phân bón nông dân vẫn phải phụ thuộc vào sự quản lý của HTX. Có nhiều hộ nông dân cuộc sống vẫn không khỏi đói nghèo do bởi nguồn lực sản xuất thiếu lao động, thiếu vốn; do gặp rủi ro trong cuộc sống; do trình độ dân trí thấp sản xuất không có hiệu quả đã dẫn đến nợ sản nhiều vụ, nhiều năm,… Chính vì vậy ngày 5/4/1988, Bộ chính trị, Ban CHTW Đảng khóa V ra Nghị quyết 10: “Cải tiến quản lý kinh tế trong nông nghiệp”, còn gọi là “Khoán 10”. Nghị quyết 10 được thực hiện và hoàn thiện vài năm sau đó đã chuyển đổi hẳn cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp. Ruộng đất giao cho nông dân quản lý lâu dài 20 năm đối với đất nông nghiệp, 50 năm đối với đất lâm nghiệp. Chuyển đổi từ cơ chế sản xuất tập thể tự cung tự cấp, sản xuất theo kế hoạch hóa Nhà nước sang sản xuất kinh tế hộ gia đình và trang trại. Người nông dân chủ động sản xuất kinh doanh trên mảnh đất, ao hồ, chuồng trại của mình theo hướng nông nghiệp hàng hóa có sự điều tiết của Nhà nước. Nông nghiệp của đất nước có cơ hội ngày càng phát triển mạnh. - Năm 1992, Để điều phối và lãnh đạo công tác khuyến nông trên toàn quốc,
- 14 Bộ Nông nghiệp thành lập “Ban điều phối Khuyến nông”. Do nhu cầu bức xúc từ thực tế sản xuất, ngày 2/3/1993, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/NĐ-CP về việc thành lập hệ thống Khuyến nông, Khuyến lâm, Khuyến ngư. 1.3.2. Sau năm 1993 Ngày 02 tháng 3 năm 1993, Chính phủ ban hành Nghị định 13/NĐ-CP về công tác khuyến nông (bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp). Hệ thống khuyến nông - khuyến ngư Việt Nam chính thức hình thành. Ở Bộ NN & PTNT, Cục Khuyến nông - Khuyến lâm vừa làm nhiệm vụ quản lý nhà nước vừa làm nhiệm vụ khuyến nông về lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi. Việc một đơn vị đồng thời làm nhiệm vụ quản lý nhà nước và dịch vụ công tỏ ra nhiều bất cập. Chính vì vậy, ngày 18 tháng 7 năm 2003 Chính phủ ban hành Nghị định 86/NĐ-CP, cho phép tách Cục Khuyến nông - Khuyến lâm thành hai đơn vị trực thuộc Bộ NN & PTNT là Cục Nông nghiệp và Trung tâm Khuyến nông Quốc gia. Đến năm 2007, trên cơ sở Chính phủ hợp nhất Bộ NN & PTNT với Bộ Thuỷ sản thành Bộ NN & PTNT và theo Nghị định số 01/2008/NĐ-CP, ngày 03/01/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ NN & PTNT đã cho phép thành lập Trung tâm KNKNQG trên cơ sở hợp nhất giữa Trung tâm KNQG và Trung tâm Khuyến ngư Quốc gia theo Quyết định số 236/QĐ- BNN-TCCB ngày 28/01/2008 của Bộ trưởng Bộ NN & PTNT. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Trung tâm KNKNQG thực hiện theo Quyết định số 43/2008/QĐ-BNN ngày 11/3/2008 của Bộ trưởng Bộ NN & PTNT. Nghị định số 02/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 01 năm 2010 của Chính phủ về Khuyến nông quy định tổ chức khuyến nông Trung ương đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ NN & PTNT với tên gọi là Trung tâm Khuyến nông Quốc gia. Ngày 28/6/2010, Bộ NN & PTNT đã có Quyết định số 1816/QĐ-BNN-TCCB quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Trung tâm KNQG. Trung tâm KNQG là đơn vị sự nghiệp, có các nhiệm vụ chủ yếu là tham gia đề xuất và ban hành các chính sách, cơ chế về khuyến nông, khuyến ngư; các định mức kinh tế - kỹ thuật; chỉ đạo, tổ chức và hướng dẫn thực hiện công tác chuyển
- 15 giao tiến bộ kỹ thuật thông qua xây dựng mô hình trình diễn, thông tin tuyên truyền, huấn luyện đào tạo, công tác dịch vụ và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khuyến nông, khuyến ngư. Tính đến tháng 11/2010, hệ thống khuyến nông Việt Nam có 33.260 cán bộ khuyến nông, trong đó có 5.638 cán bộ có trình độ đại học, chiếm 16,7%. Hệ thống khuyến nông ở địa phương được tổ chức thành 4 cấp: Tỉnh - Huyện - Xã và Thôn bản: Ở cấp tỉnh, Sở NN & PTNT các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cơ quan quản lý nhà nước về khuyến nông. Sau 15 năm hoạt động, 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều đã thành lập Trung tâm Khuyến nông, Khuyến ngư tỉnh với tổng số 2.754 người. Ở cấp huyện: hiện nay, hầu hết các huyện trên cả nước có Trạm Khuyến nông huyện trực thuộc Trung tâm Khuyến nông tỉnh hoặc UBND huyện với tổng số 4.600 người. Ở cấp xã: Đa số các xã nông nghiệp có cán bộ khuyến nông xã với tổng số 10.543 người. Ở cấp thôn, bản: Hiện cả nước có 15.749 khuyến nông viên thôn, bản. Một số tỉnh có lực lượng khuyến nông viên thôn, bản tương đối đầy đủ như Hà Giang, Phú Thọ, Sơn La, Lai Châu. 1.3.3. Hoạt động khuyến lâm Từ năm 1993 - 1995, ở Trung ương bộ phận khuyến lâm được thành lập thuộc Vụ Lâm sinh thuộc Bộ Lâm nghiệp, từ năm 1996 đến năm 2000 thành lập phòng Khuyến lâm trực thuộc Cục Khuyến nông Khuyến lâm. Từ năm 2001 đến năm 2004 thành lập phòng Khuyến lâm trực thuộc Cục Phát triển lâm nghiệp (dẫn theo [6]), từ năm 2005 đến năm 2010 thành lập Phòng Khuyến lâm thuộc Trung tâm KNQG. Ở địa phương: trong 63 tỉnh thành, chỉ có một số tỉnh thành lập phòng Khuyến lâm trực thuộc Trung tâm Khuyến nông tỉnh. Mỗi Trung tâm chỉ có từ 1-2 cán bộ được đào tạo lâm nghiệp trong tổng số 20-25 cán bộ khuyến nông.
- 16 Theo số liệu báo cáo (2011) ở trung ương chỉ có 4 người/73 người, cấp tỉnh có 96/1431 người, cấp huyện 295/2813 người, khuyến nông viên xã 1.942/15.362 người được đào tạo về lâm nghiệp. Xét về mặt số lượng cán bộ khuyến lâm chỉ chiếm khoảng 10% tổng số cán bộ khuyến nông chuyên trách. Do vậy hệ thống khuyến lâm vừa thiếu về số lượng và yếu về chất lượng do cán bộ khuyến lâm đa phần được đào tạo sâu về chuyên ngành, thiếu kiến thức liên ngành và các kiến thức khuyến lâm cơ bản. Kinh phí hoạt động cho hoạt động khuyến lâm nằm trong kinh phí cấp theo các chương trình khuyến nông được phê duyệt hằng năm. Giai đoạn 1993-2005: khi mới thành lập (1993) đã được Chính phủ đầu tư hỗ trợ 1,268 tỷ đồng, con số này tăng lên 97,8 tỷ (2005), bình quân năm sau tăng hơn năm trước 8,04 tỷ đồng tương đương trên 12%. Tính đến năm 2005, kinh phí hỗ trợ cho hoạt động khuến nông là 542,931 tỷ đồng trong đó kinh phí hỗ trợ cho hoạt động khuyến lâm là 66,6 tỉ đồng (chiếm khoảng 12,6%). Đã triển khai trên tổng diện tích xây dựng mô hình là 19.940 ha với 20.804 hộ tham gia. Nổi bật là một số chương trình như: Chương trình trồng tre lấy măng; Chương trình trồng cây nguyên liệu giấy; Chương trình trồng cây đặc sản (dẫn theo [4]). Theo Bộ NN & PTNT (2011)[5] cho biết trong 5 năm (2006-2010), chương trình khuyến lâm đã triển khai ở 55 tỉnh, với 51.575 hộ tham gia mô hình, tổng kinh phí: 76 tỷ đồng trên tổng số 843,880 tỷ đồng cấp cho toàn bộ hoạt động khuyến nông (chiếm 9%), với một số chương trình như: Trồng rừng thâm canh cây nguyên liệu; trồng rừng thâm canh cây gỗ lớn; trồng rừng thâm canh cây lâm sản ngoài gỗ; và trình tập huấn nghiệp vụ khuyến lâm cho cán bộ kiểm lâm. Từ nguồn ngân sách địa phương, đã huy động được 4.361 hộ tham gia xây dựng mô hình, trồng được 4.977 ha rừng trình diễn, tập huấn 5.395 hộ nông dân. Công tác khuyến lâm được nhiều tổ chức quốc tế và phi chính phủ quan tâm trong các dự án phát triển lâm nghiệp. Nhiều cách tiếp cận và phương pháp khuyến lâm mới đã được áp dụng và bước đầu được thể chế hoá ở một số địa phương.
- 17 1.4. Nhận xét và đánh giá chung Điểm qua tình hình phát triển khuyến nông, khuyến lâm ở trên thế giới và ở Việt Nam có thể rút ra nhận xét như sau: Vấn đề phát triển công tác khuyến nông lâm được các quốc gia trên thế giới rất quan tâm phát triển, từ việc hình thành các bộ phận chuyên trách, phát triển đội ngũ cán bộ khuyến nông, khuyến lâm từ trung ương tới địa phương, đầu tư nguồn kinh phí mạnh mẽ cho công tác khuyến nông và nghiên cứu chuyển giao TBKT vào trong sản xuất. Kết quả đạt được là vô cùng to lớn trong việc phát triển hệ thống nông, lâm nghiệp và đảm bảo đời sống cho người dân. Ở Việt Nam, công tác khuyến nông lâm cũng rất được chú trọng, ngay từ thời các vua chúa phong kiến công tác này đã đặc biệt được coi trọng trong việc phát triển nông nghiệp. Những giai đoạn sau đó, trải qua những giai đoạn thăng trầm của lịch sử nhưng công tác khuyến nông lâm vẫn luôn được ưu tiên phát triển để đảm bảo vấn đề an ninh lương thực, phát triển nông nghiệp. Nhiều bộ phận chuyên trách như: Trung tâm KNQG; các TTKN cấp tỉnh, huyện, xã được thành lập với đội ngũ cán bộ khuyến nông lâm đông đảo. Khuyến lâm là một nội dung quan trọng trong công tác khuyến nông đặc biệt đối với nước ta có tới 3/4 diện tích là đồi núi, đời sống người dân phụ thuộc rất lớn vào rừng. Xuất phát từ thực tế đó, nhiều MHKL đã được triển khai thực hiện trong phạm vi cả nước với mục tiêu cải thiện sinh kế cho cộng đồng, xóa đói giảm nghèo và phát triển rừng bền vững. Trong các loại hình MHKL thì mô hình KLTĐ là MH được triển khai bởi các trường đại học, các viện nghiên cứu rất được coi trọng, các đơn vị này với lợi thế nghiên cứu, đào tạo rất thuật lợi trong việc chuyển giao TBKT thông qua MH trình diễn. Hàng năm, chính phủ đầu tư nhiều tỷ đồng cho công tác khuyến lâm nói chung và mô hình KLTĐ nói riêng. Tuy vậy, liệu có phải tất cả các mô hình KLTĐ xây dựng đều mang lại hiệu quả tốt? Những bất cập trong quá trình chuyển giao những MHKL này là gì?,… Việc trả lời những câu hỏi này có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng phát triển khuyến lâm trong giai đoạn tiếp theo. Xuất phát từ thực tiễn đó, đề tài được thực hiện là rất cần thiết.
- 18 Chương 2: MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu của đề tài * Về khoa học: - Đánh giá được kết quả xây dựng các mô hình KLTĐ ở tỉnh Hoà Bình giai đoạn 2006-2010. - Phân tích được những ưu, nhược điểm, khó khăn, tồn tại và bài học kinh nghiệm trong việc triển khai xây dựng các mô hình KLTĐ ở tỉnh Hoà Bình. * Về thực tiễn: Đề xuất được một số các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả xây dựng mô hình KLTĐ và chuyển giao TBKT vào sản xuất, làm cơ sở để nhân rộng. 2.2. Đối tượng và giới hạn nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là mô hình KLTĐ triển khai tại tỉnh Hòa Bình. * Giới hạn nghiên cứu: - Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Phần đánh giá các mô hình KLTĐ tại tỉnh Hòa Bình giới hạn chủ yếu về đánh giá tình hình sinh trưởng của cây trồng trong các mô hình; hiệu quả kinh tế chưa đánh giá được do tuổi rừng vẫn còn nhỏ; hiệu quả môi trường giới hạn trong việc phân tích sự tăng lên của diện tích rừng trồng góp phần nâng cao độ che phủ rừng. - Các mô hình giới hạn trong giai đoạn 2006-2010 của 04 đơn vị: + Trung tâm NCST & MTR thuộc Viện KHLNVN; + Trung tâm ƯDKHKTLN thuộc Viện KHLNVN; + Viện STR & MT Thuộc Trường ĐHLN; + Công ty TVĐTPTLN thuộc Trường Đại ĐHLN; - Giới hạn về địa điểm đánh giá các mô hình: Nghiên cứu được thực hiện tại 10 xã thuộc các huyện Tân Lạc, Lương Sơn, Đà Bắc và Tp. Hòa Bình.
- 19 2.3. Nội dung nghiên cứu Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đề ra, đề tài đặt ra các nội dung sau: - Đánh giá thực trạng triển khai các mô hình KLTĐ ở Hoà Bình giai đoạn 2006-2010. - Đánh giá các mô hình KLTĐ đã xây dựng tại tỉnh Hoà Bình giai đoạn 2006-2010. - Đánh giá tác động của mô hình KLTĐ đến nhận thức của người dân và phát triển kinh tế - xã hội. - Phân tích những thuận lợi, khó khăn và bài học kinh nghiệm trong việc triển khai xây dựng các mô hình KLTĐ tại Hoà Bình. - Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác xây dựng mô hình KLTĐ và chuyển giao TBKT trong lâm nghiệp. 2.4. Phương pháp nghiên cứu 2.4.1. Quan điểm và cách tiếp cận Hoạt động khuyến lâm là rất cần thiết, đặc biệt đối với một quốc gia có 3/4 diện tích là đồi núi với một bộ phận không nhỏ dân cư sống phụ thuộc vào rừng như nước ta. Tuy nhiên, hiệu quả của một mô hình khuyến lâm được đưa ra phụ thuộc rất nhiều yếu tố, nhiều mô hình khuyến lâm đưa ra được hưởng ứng rất nhiệt tình của người dân nhưng cũng có những mô hình tỏ ra không phù hợp. Nguyên nhân không thành công có thể do chất lượng của mô hình mang lại hiệu quả kinh tế kém, do khâu tổ chức thực hiện hoặc do công tác tuyên truyền chưa được thực hiện tốt,… Như vậy, khi đánh giá hiệu quả của mô hình khuyến lâm cần phải đánh giá trên quan điểm toàn diện, tổng hợp các yếu tố và đối tượng có liên quan. Để làm được điều này thì cách tiếp cận điều tra từ trên xuống và đánh giá từ dưới lên được thực hiện trong đề tài. Do thời gian nghiên cứu và kinh phí có hạn nên quan điểm kế thừa các công trình nghiên cứu có liên quan và tiến hành điều tra bổ xung những nội dung còn thiếu được thực hiện xuyên suốt trong đề tài. Sơ đồ các bước nghiên cứu của đề tài được thể hiện thông qua hình 2.1.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 300 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 321 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn