Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Đánh giá quản lý rừng, chuỗi hành trình sản phẩm và lập kế hoạch quản lý tiến tới chứng chỉ rừng tại Công ty lâm nghiệp Yên Sơn tỉnh Tuyên Quang
lượt xem 3
download
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là xác định được các khiếm khuyết trong quản lý rừng của và đề ra các giải pháp khắc phục. Xác định được các khiếm khuyết trong quản lý chuỗi hành trình sản phẩm và đề ra các giải pháp khắc phục. Lập được KHQLR trong giai đoạn 1 chu kỳ kinh doanh. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Đánh giá quản lý rừng, chuỗi hành trình sản phẩm và lập kế hoạch quản lý tiến tới chứng chỉ rừng tại Công ty lâm nghiệp Yên Sơn tỉnh Tuyên Quang
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP --------------------------------------------- HOÀNG THỊ THU TRANG ĐÁNH GIÁ QUẢN LÝ RỪNG, CHUỖI HÀNH TRÌNH SẢN PHẨM VÀ LẬP KẾ HOẠCH QUẢN LÝ TIẾN TỚI CHỨNG CHỈ RỪNG TẠI CÔNG TY LÂM NGHIỆP YÊN SƠN TỈNH TUYÊN QUANG Chuyên ngành: LÂM HỌC Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VŨ NHÂM Hà Nội – 2010
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Rừng vừa là một hiện tượng tự nhiên, vừa là một hiện tượng lịch sử, tài nguyên có thể tái tạo, đóng vai trò mang tính toàn cầu xét cả về khía cạnh kinh tế xã hội và sinh thái học. Các tác động của con người đã đang làm rừng bị suy giảm số lượng và chất lượng rừng rõ rệt, các biện pháp truyền thống không thể bảo vệ được diện tích rừng còn lại, nhất là rừng nhiệt đới ở các nước phát triển. Tìm kiếm và áp dụng các giải pháp quản lý rừng bền vững (QLRBV), bao gồm chứng chỉ rừng (CCR) là một trong những biện pháp được cộng đồng quốc tế quan tâm nhất hiện nay trong bảo vệ, duy trì và phát triển rừng. QLRBV phải đạt được sự bền vững trên cả ba phương diện kinh tế, môi trường và xã hội. Đối với mỗi quốc gia, đó là nhận thức về các giải pháp bảo vệ mà vẫn sử dụng tối đa các lợi ích từ rừng. Đối với chủ rừng đó còn là nhận thức về quyền xuất khẩu lâm sản của mình vào mọi thị trường quốc tế với giá bán cao. CCR chính là sự xác nhận bằng văn bản cho chủ rừng đáp ứng được các tiêu chuẩn và tiêu chí QLRBV. Chứng chỉ do Hội đồng quản trị rừng thế giới (FSC) cấp là một trong những CCR rất được quan tâm hiện nay. Sử dụng các sản phẩm từ gỗ có CCR và tẩy chay các mặt hàng không có nguồn gốc xuất xứ là cách để người tiêu dùng thể hiện thái độ tích cực với rừng. Ở một số quốc gia, các hệ thống bán lẻ đang gia tăng yêu cầu cung cấp gỗ đã được chứng chỉ, bắt buộc nhiều tổ chức và Công ty trong mạng lưới lâm sản toàn cầu cam kết sản xuất và buôn bán gỗ. Kiểm chứng từng bước trong chuỗi hành trình sản phẩm (CoC) sẽ giúp cho đơn vị chứng minh được với người tiêu dùng về nguồn gốc thực sự của sản phẩm của mình có chứng chỉ hay không. Đánh giá hệ thống CoC bao gồm từ khâu khai thác, chế biến, phân phối và tiêu thụ sản phẩm, là yêu cầu bắt buộc với việc dãn nhãn và bán sản phẩm từ gỗ có chứng chỉ FSC, đặc biệt khi đơn vị xuất khẩu gỗ sang các thị trường Châu Âu, Anh và các quốc gia khác. Tài liệu cơ bản để FSC chứng nhận quản lý rừng cho chủ rừng là Bộ tiêu chuẩn QLRBV gồm 10 tiêu chuẩn và 56 tiêu chí. QLRBV đòi hỏi chủ rừng phải lập kế hoạch quản lý rừng (KHQLR) chi tiết, rõ ràng và giám sát chặt chẽ các hoạt
- 2 động lâm nghiệp. Tất cả các hoạt động từ xây dựng, phát triển rừng đều tuân theo kế hoạch được lập, trong đó kế hoạch khai thác giữ vai trò quan trọng nhất. Nhìn nhận trên thế giới, nhiều nước đã khá thành công trong việc cấp CCR. Ở Việt Nam khái niệm QLRBV còn khá mới mẻ với nhiều đơn vị lâm nghiệp. Tính tới tháng 5/2010, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu gỗ mới chỉ được cấp gần 205 chứng chỉ CoC, nhưng mới chỉ có 1 chứng chỉ FSC về QLRBV cho Công ty TNHH rừng trồng Quy Nhơn [26]. Còn lại phần lớn các hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh doanh lâm nghiệp vẫn chưa đạt được các tiêu chuẩn tối thiểu theo quy định để được FSC cấp chứng chỉ. Bên cạnh đó các đơn vị chưa nhận được một hướng dẫn cụ thể về việc tiến hành đánh giá các tiêu chuẩn QLR và tiêu chuẩn CoC. Công ty lâm nghiệp Yên Sơn là đơn vị hoạt động sản xuất trong lĩnh vực lâm nghiệp thuộc tỉnh Tuyên Quang. Nhận thức được cần quản lý rừng theo hướng tiên tiến, Công ty mong muốn được đánh giá quản lý rừng và chuỗi hành trình sản phẩm tiến tới CCR. Công ty cũng cần được tư vấn, hỗ trợ phương pháp đánh giá để xác định được những tiêu chuẩn chưa đạt, điều chỉnh hoạt động lâm nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn và tiêu chí QLRBV. Để góp phần giải quyết những tồn tại trên cả về mặt lý luận và thực tiễn tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá quản lý rừng, chuỗi hành trình sản phẩm và lập kế hoạch quản lý tiến tới chứng chỉ rừng tại Công ty lâm nghiệp Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang”.
- 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Trên thế giới Thuật ngữ “Phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học". Phát triển bền vững không chỉ là sự phát triển trên các mặt kinh tế xã hội (KTXH) mà còn phải đặc biệt chú trọng đến các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Trong đó tài nguyên rừng - nguồn tài nguyên có tác động to lớn với đời sống con người - cần được áp dụng các giải pháp để quản lý tốt nhằm cung cấp ổn định và lâu dài các lợi ích cho con người. Các cuộc tranh luận lớn giữa các bên đấu tranh cho lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường nổ ra đầu những năm 1980 thể hiện mối quan tâm về tình trạng rừng trên thế giới. Các sáng kiến để giảm diện tích phá rừng khi đó không có hiệu quả. Vào cuối những năm 1980, việc tẩy chay gỗ nhiệt đới gặp thất bại, trong một số trường hợp lại gây ra hiệu ứng ngược. Hội nghị Thượng đỉnh thế giới tại Rio de Janerio năm 1992 đã nhấn mạnh sự cần thiết phải có một cơ chế hiệu quả quản lý rừng. Thay vì việc tẩy chay trước đó, họ đã muốn sử dụng thị trường để thúc đẩy lợi ích xã hội, môi trường và hiệu quả kinh tế trong quản lý [25]. Lần đầu tiên, những nhà môi trường, xã hội và kinh tế đã cùng nhau tham gia một chương trình quốc tế bình đẳng và thành lập Hội đồng quản trị rừng thế giới (FSC). Cho đến nay, FSC vẫn là một môi trường bình đẳng, thống nhất ý kiến chung cho các nhóm lợi ích khác nhau. Cùng với sự ra đời của FSC, một loạt các tổ chức khác cũng được thành lập: PAN-EUROPEAN cho rừng tự nhiên toàn châu Âu (Helsinki); CIFOR (Trung tâm nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế) cho rừng tự nhiên nói chung; ITTO (tổ chức quốc tế về gỗ nhiệt đới) cho rừng tự nhiên nhiệt đới... Cộng đồng quốc tế đã tổ chức nhiều
- 4 hội nghị, đề xuất và cam kết nhiều công ước bảo vệ và phát triển rừng: Chiến lược bảo tồn quốc tế (1980); Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển (UNCED, Riodejaneiro, 1992); Công ước buôn bán động thực vật quý hiếm (CITES); Công ước đa dạng sinh học (CBD)... Nhiều định nghĩa QLRBV được đưa ra, tuy nhiên hai định nghĩa phổ biến và được công nhận rộng rãi nhất là của ITTO và trong tiến trình Hensinki. Theo ITTO: “Quản lý rừng bền vững là quá trình quản lý những lâm phận ổn định nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu quản lý đề ra một cách rõ ràng như đảm bảo sản xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ rừng mong muốn mà không làm giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng suất tương lai của rừng và không gây ra những tác động không mong muốn đối với môi trường tự nhiên và xã hội” Theo tiến trình Hensinki: “Quản lý rừng bền vững là sự quản lý rừng và đất rừng theo cách thức và mức độ phù hợp để duy trì tính đa dạng sinh học, năng suất, khả năng tái sinh, sức sống của rừng trong quá trình thực hiện và trong tương lai, các chức năng sinh thái, kinh tế và xã hội của rừng ở cấp địa phương, cấp quốc gia và toàn cầu và không gây ra những tác hại đối với hệ sinh thái khác”. Các định nghĩa trên đều tập trung vào các vấn đề chính là: quản lý rừng ổn định bằng các biện pháp phù hợp nhằm đạt các mục tiêu đề ra, bảo đảm bền vững về kinh tế, môi trường và xã hội. Các yếu tố của QLRBV là: - Có khuôn khổ chính sách và pháp lý - Sản xuất lâm sản bền vững - Bảo vệ được môi trường. - Đảm bảo lợi ích con người. - Đối với rừng trồng, có các cân nhắc áp dụng cụ thể phù hợp. Trên thế giới đã có các bộ tiêu chuẩn quản lý bền vững cấp quốc gia (Canada, Malaysia, Indonexia...) và cấp quốc tế của tiến trình Helsinki, tiến trình Montreal. FSC và ITTO đã có bộ tiêu của quản lý rừng được vận dụng rất rộng rãi để đánh giá quản lý rừng ở nhiều nước.
- 5 1.1.1. Hội đồng quản trị rừng thế giới (FSC) và các tiêu chuẩn QLRBV FSC là tổ chức uy tín nhất và có phạm vi rộng lớn trên toàn thế giới. FSC được thành lập vào tháng 10/1993 tại Toronto – Canada bởi một nhóm gồm 130 thành viên khác nhau từ 26 quốc gia, bao gồm đại diện của các cơ quan môi trường, các thương gia, các cộng đồng dân bản xứ, đại diện các ngành công nghiệp và các cơ quan cấp chứng chỉ. Năm 1994 các thành viên sáng lập đã thông qua các nguyên tắc và tiêu chuẩn FSC, cùng với Quy chế FSC (ngày nay gọi là By-Laws) áp dụng đánh giá cho rừng tự nhiên, rừng trồng, rừng ôn đới, nhiệt đới và mọi đối tượng khác. Trụ sở chính đặt tại thành phố Bonn – Đức. Cấu trúc quản trị duy nhất dựa trên các nguyên tắc sự tham gia, dân chủ, công bằng. FSC có đại diện tại hơn 50 quốc gia. Thành viên FSC được chia thành nhóm xã hội, nhóm môi trường và nhóm kinh tế, mỗi nhóm lại được chia ra thành nhóm Bắc (các nước công nghiệp) và nhóm Nam (các nước đang phát triển). Bất kỳ ai hỗ trợ cải thiện quản lý rừng trên thế giới đều có thể trở thành thành viên của FSC. FSC ủy quyền cho 10 cơ quan trên thế giới cấp chứng chỉ có trụ sở tại Anh, Mỹ, Hà Lan, Đức, Canada, Nam Phi, Thụy Sĩ. Tại Châu Á – Thái Bình Dương, Công ty SmartWood/Rainforest Allliance và SGS Forestry thực hiện phần lớn việc đánh giá và cấp CCR. Các lợi ích FSC tạo ra: - Lợi ích về môi trường: Đảm bảo cho tất cả mọi người tham gia vào thương mại lâm sản rằng các đóng góp của họ sẽ giúp đỡ việc bảo tồn hơn là hủy diệt rừng, con người và cuộc sống thông qua các hoạt động. 1. Bảo tồn đa dạng sinh học và các giá trị khác như nước, đất… 2. Duy trì các chức năng sinh thái và thể thống nhất của rừng. 3. Bảo vệ các loại động, thực vật quý hiếm và môi trường sống của chúng. - Lợi ích về xã hội: Đảm bảo quyền con người được tôn trọng. Nhiệm vụ chính là yêu cầu có sự tham gia của nhiều thành phần có liên quan khi xây dựng bộ tiêu chuẩn quốc gia hay khu vực. - Lợi ích về kinh tế: Đó là chủ rừng cần phải cố gắng đạt được cách sử dụng tối ưu và chế biến tại chỗ các sản phẩm đa dạng của rừng, giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi trường nơi khai thác và chế biến.
- 6 FSC xây dựng 10 tiêu chuẩn cho QLRBV. Từ các tiêu chuẩn đó, các quốc gia, khu vực tham gia vào tiến trình QLRBV và CCR sẽ xây dựng các bộ tiêu chuẩn quốc gia riêng để đánh giá và phù hợp với các điều kiện cụ thể của mình. Các bộ tiêu chuẩn này cần phải được sự phê chuẩn của FSC trước khi được sử dụng để đánh giá cấp chứng chỉ tại quốc gia hoặc khu vực đó. CCR được áp dụng cho tất cả các đơn vị quản lý rừng với các quy mô lớn nhỏ bất kể là sở hữu nhà nước hay tư nhân. Đây là một quá trình hoàn toàn tự nguyện của các chủ rừng. Tuy nhiên, đánh giá cấp CCR chỉ được áp dụng cho các đơn vị đang quản lý rừng sản xuất và đang hoạt động quản lý kinh doanh. Để được cấp CCR của FSC, chủ rừng phải chứng minh họ đã đáp ứng tất cả các quy tắc, tiêu chuẩn trên. Thực chất CCR chính là chứng chỉ chất lượng ISO, là hiệu quả cuối cùng của QLRBV, được FSC đề cập như là một “công cụ hữu hiệu, giúp cải thiện quản lý rừng của thế giới” và “là công cụ chính sách mạnh mẽ nhất” trong quản lý rừng. Khi được cấp CCR, chủ rừng sẽ được: - Xuất khẩu lâm sản vào mọi thị trường khắt khe trên thế giới kể cả Tây Âu và Bắc Mỹ với giá bán cao hơn. - Rừng cùng với môi trường sinh thái và xã hội có liên quan đến rừng sẽ được giữ gìn, bảo vệ và phát triển tốt hơn. Bên cạnh đó, các đánh giá định kỳ của cơ quan cấp chứng chỉ sẽ giúp chủ rừng tìm ra các điểm mạnh, yếu trong hoạt động kinh doanh của mình. - CCR của FSC giúp bảo vệ thương hiệu và uy tín của chủ rừng với đối tác kinh doanh, các tổ chức tài chính và các tổ chức cơ quan giám sát. Các tiêu chuẩn FSC hợp lệ trên toàn thế giới, là tiêu chuẩn duy nhất không có rào cản đối với tổ chức Thương mại thế giới (WTO). FSC có hệ thống chứng nhận duy nhất được hỗ trợ bởi tất cả các nhóm môi trường. Các nước Mỹ, Úc chỉ chấp nhận CCR của FSC bởi chỉ có FSC quy định: * Cấm chuyển đổi rừng tự nhiên hoặc môi trường sống khác * Nghiêm cấm việc sử dụng thuốc trừ sâu rất độc hại trên toàn thế giới * Nghiêm cấm việc trồng cây biến đổi gen
- 7 * Tôn trọng quyền của người dân bản địa trên khắp thế giới * Kiểm soát từng hoạt động chứng nhận ít nhất một năm một lần - và nếu bị được phát hiện là không phù hợp thì giấy chứng nhận bị thu hồi. 1.1.2. Các loại chứng chỉ của FSC. Có hai loại chứng chỉ do FSC cấp: - Chứng chỉ quản lý rừng FSC/FM (FSC forest management certification) - Chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm FSC/CoC (FSC chain of custody certification ) Trong quá trình đánh giá cấp chứng chỉ sẽ có hoạt động kiểm soát gỗ (FSC Controlled Wood) 1.1.2.1. Chứng chỉ quản lý rừng FSC/FM. FSC không đánh giá cấp chứng chỉ. Quá trình đánh giá được thực hiện bởi tổ chức độc lập gọi là cơ quan đánh giá quản lý rừng. Họ đánh giá quản lý rừng đối với các nguyên tắc và tiêu chuẩn FSC cũng như các tiêu chuẩn quốc gia. Điều này cho phép FSC vẫn độc lập với quá trình đánh giá và hỗ trợ tính toàn vẹn của hệ thống chứng nhận FSC. Các tiêu chuẩn của FSC: Tiêu chuẩn 1: Phù hợp với tất cả điều luật và công ước quốc tế. Tiêu chuẩn 2: Quyền và trách nhiệm sử dụng đất Tiêu chuẩn 3: Quyền người dân sở tại Tiêu chuẩn 4: Quan hệ công đồng và quyền của công nhân. Tiêu chuẩn 5: Những lợi ích từ rừng Tiêu chuẩn 6: Tác động môi trường Tiêu chuẩn 7: Kế hoạch quản lý Tiêu chuẩn 8: Giám sát và đánh giá Tiêu chuẩn 9: Duy trì những rừng có giá trị bảo tồn cao Tiêu chuẩn 10: Rừng trồng Các tiêu chuẩn về xã hội là tiêu chuẩn 2, 3, 4, 5 Các tiêu chuẩn về môi trường là tiêu chuẩn 6, 7, 9 Các tiêu chuẩn về tuân thủ luật pháp là tiêu chuẩn 1 và 2
- 8 Các quá trình giám sát và quản lý là tiêu chuẩn 8, nguyên tắc này cũng liên quan đến chuỗi hành trình sản phẩm. Các khu rừng trồng: tiêu chuẩn 10 Các tiêu chuẩn liên quan đến kinh tế: tiêu chí và chỉ số của tiêu chuẩn được thể hiện rõ ở hai nội dung đầu nhưng tiêu chuẩn kinh tế của nó lại không được thể hiện rõ: giá chuyển đổi, giá cố định, hoạt động xã hội và môi trường có thể bị ảnh hưởng bởi giá chuyển đổi trong ngành. Các tiêu chuẩn có liên quan: 5, 7 và 8. Nếu chủ rừng tuân thủ đầy đủ các yêu cầu FSC, FSC sẽ trao chứng chỉ. Nếu chủ rừng còn thiếu một số điều kiện, chủ rừng phải hoàn thành chúng trong một thời gian cụ thể trước khi nhận chứng chỉ. FM cũng được cấp cho rừng trồng thể hiện ở tiêu chuẩn 10. Để thương mại lâm sản với logo FSC và yêu cầu bồi thường, người quản lý rừng phải có chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm. Nó đảm bảo rằng sản phẩm có nguồn gốc từ một khu rừng đã được cấp chứng chỉ cho người tiêu dùng. 1.1.2.2. Chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm FSC/CoC. Với bất kỳ một chương trình cấp CCR nào việc xem xét mối liên hệ của một sản phẩm gỗ từ một khu rừng được cấp chứng chỉ đến khi được chế biến thành sản phẩm cuối cùng và được đem tiêu thụ tại thị trường là một việc rất cần thiết vì nó cung cấp các cơ sở cho việc dán nhãn sản phẩm. Khái niệm này được gọi là chuỗi hành trình sản phẩm (Chain of Custody) - CoC. Theo quy định của đánh giá CoC thì việc kiểm soát nguồn gốc gỗ phải thông suốt liên kết nhau thành một chuỗi thành các công đoạn cơ bản: từ rừng, đến vận chuyển gỗ về nhà máy, cưa xẻ, sấy, lắp ráp, lưu kho và phân phối. Hệ thống CoC sẽ hỗ trợ đơn vị kinh doanh lâm nghiệp: - Bảo đảm về các sản phẩm gỗ bán ra và nguồn gốc của gỗ. - Cải thiện các hệ thống tài liệu nội bộ của đơn vị và giúp đơn vị chuẩn bị để đạt được chứng chỉ ISO hoặc chứng nhận khác. - Nếu là Công ty chế biến gỗ, hệ thống CoC có thể giúp cải thiện hiệu quả sản xuất của nhà máy và giúp cho việc sử dụng số vốn đầu tư vào gỗ nguyên liệu hiệu quả hơn.
- 9 - Đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng về hệ thống CoC - Hệ thống CoC đã hoặc sẽ là yêu cầu bắt buộc đối với các sản phẩm gỗ xuất khẩu sang Châu Âu, Anh và các quốc gia khác. - Hệ thống CoC là yêu cầu cần thiết đối với việc dán nhãn và bán sản phẩm làm từ gỗ được chứng chỉ. Có thể nói chứng chỉ CoC được coi là công cụ chủ yếu đấu tranh với việc khai thác gỗ bất hợp pháp và buôn bán gỗ lậu. Các tiêu chuẩn FSC áp dụng chứng nhận FSC-CoC hiện đang áp dụng: Tiêu chuẩn: FSC-STD-40-004 (Ver. 02) - Tiêu chuẩn chuỗi hành trình sản phẩm đối với các Công ty cung cấp và chế biến sản phẩm có chứng nhận FSC. Tiêu chuẩn: FSC-STD-40-005 (Ver. 02) - Tiêu chuẩn FSC dành cho các Công ty đánh giá nguồn gỗ có kiểm soát FSC. Tiêu chuẩn: FSC-STD-30-010 (Ver. 02) - Tiêu chuẩn gỗ có kiểm soát FSC dành cho các tổ chức quản lý rừng. Tiêu chuẩn: FSC-STD-40-201(Ver. 02) - Các yêu cầu dán nhãn FSC trên sản phẩm. Liên minh Châu Âu EU gần đây giới thiệu 1 hệ thống giấy phép là một phần của công tác tăng cường hiệu lực luật rừng.. Dây chuyền cung cấp sản phẩm gỗ từ rừng thông qua việc vận chuyển, lưu kho và chế biến được công khai và kiểm tra tới tận biên giới của EU. Còn với các nước nhiệt đới, hệ thống theo dõi hành trình dựa trên giấy tờ thông thường với các nhãn vật lý trên sản phầm gỗ, gần đây các hệ thống thuận lợi hơn đã được phát triển chứng tỏ tính hiệu quả và đáng tin cậy của dây chuyền cung cấp. Một hệ thống CoC được cấp chứng chỉ của FSC phải đáp ứng 5 yêu cầu: 1) Yêu cầu về hệ thống chất lượng 2) Yêu cầu về nguồn cung cấp nguyên liệu 3) Yêu cầu về kiểm tra sản xuất nội bộ; và ghi chép tư liệu 4) Yêu cầu về sản phẩm và dán nhãn sản phẩm 5) Yêu cầu về lưu trữ tài liệu thông tin.
- 10 Trên thị trường có một số hình thức CoC, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu mà doanh nghiệp sở hữu (mua vào và xuất ra). Hình thức CoC được lựa chọn sẽ quyết định việc xây dựng và thực hiện hệ thống CoC cho doanh nghiệp đó. Quy trình FSC có hai hình thức chính là: - Doanh nghiệp sử dụng 100 % nguyên liệu có đã được chứng chỉ. - Doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm có sử dụng một tỷ lệ % nguyên liệu chưa có chứng chỉ FSC trộn lẫn với nguyên liệu đã có chứng chỉ. Tuy nhiên, cho dù đơn vị sản xuất 100% gỗ đã được chứng chỉ và sản xuất riêng gỗ chưa có chứng chỉ thì việc xác nhận và truy tìm nguồn gốc (identification and traceability) vẫn phải bắt buộc được thực hiện. Ở Brazil hệ thống kiểm tra của Chính phủ sử dụng để thầm tra tính hợp pháp và nguồn gốc gỗ, sản phẩm gỗ dựa 2 văn bản chính thức và bắt buộc sau: + Giấy phép của Cơ quan khai thác (AUTEX): Văn bản này xác định thể tích gỗ tròn, theo loại cây mà một doanh nghiệp khai thác gỗ được phép lấy ra từ 1 đơn vị sản xuất. [24] + Giấy phép của cơ quan vận chuyển lâm sản (ATPF): ATPF được phát hành từng kỳ có đánh số để cấp cho việc vận chuyển gỗ và sản phẩm gỗ. Mỗi chuyến hàng phải được kèm theo 1 ATPF, được áp dụng cho gỗ sơ chế được vận chuyển tới nơi tinh chế hoặc tới người tiêu thụ cuối cùng. Ở Cameroon việc kiểm tra trước khi khai thác là nền tảng thành lập hệ thống chuỗi hành trình của Chính phủ. Công ty khai thác hoàn thành bản đăng ký khai thác DF10 nêu tên Công ty, đơn vị quản lý rừng và dữ liệu về gỗ riêng lẻ như loại cây, đường kính (ngọn, gốc, trung bình), chiều dài, thể tích và giá trị. Ở Malaysia: Tất cả các rừng bảo tồn ở Peninsular Malaysia và một vài khu rừng trồng ở Sabah và Sarawak đã được cấp chứng chỉ, chủ yếu bởi Hội đồng chứng chỉ gỗ Malaysia. Với các khu vực được chứng chỉ, rất dễ theo dõi gỗ tròn tới tận gốc đốn, ở các rừng khác, gỗ tròn có thể được theo dõi tới vùng được chứng chỉ, tại đó gỗ đã được khai thác.
- 11 Các vùng được cấp chứng chỉ để khai thác đều được phân ranh giới rõ ràng trên mặt đất (để tránh khai thác vượt phạm vi) và đã tiến hành kiểm tra để xác định trữ lượng và sự phân bố loài cây. Cây bị đổ và để lại được đánh dấu và gắn thẻ để cung cấp các phương thức khác kiểm tra đầu ra. Ở vùng được cấp chứng chỉ, gốc cây được đánh số vì vậy gỗ tròn có thể theo dõi đến tận gốc. Hiện nay, ITTO đang tiếp tục hỗ trợ các nước sản xuất tìm kiếm các phương pháp cải tiến phù hợp luật pháp. Các Công ty gỗ được khuyến khích giới thiệu các hệ thống kiểm tra chuỗi hành trình của riêng mình, nhưng điều này còn đòi hỏi chính phủ thiết lập hoặc cải tiến cơ cấu kiểm tra và giám sát. 1.1.2.3.Kiểm soát gỗ (FSC Controlled Wood) Mặc dù thị phần sản phẩm FSC liên tục tăng trưởng, nhưng nguồn nguyên liệu có chứng chỉ cung cấp vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Tạo điều kiện cho các nhà sản xuất cung cấp các sản phẩm có gắn nhãn FSC, FSC đã giới thiệu loại nhãn “FSC Mixed Sources”, cho phép doanh nghiệp sản xuất được pha trộn nguyên liệu được chứng chỉ FSC với nguyên liệu không có chứng chỉ. Phần nguyên liệu không có chứng chỉ phải thực hiện đúng theo các tiêu chuẩn kiểm soát được gọi là FSC Controlled Wood, phải tránh năm nguồn gốc sau: - Gỗ khai thác trái phép. - Gỗ khai thác vi phạm các quyền truyền thống - Gỗ khai thác trong rừng được chứng nhận có giá trị bảo tồn cao (đặc biệt có giá trị cần bảo vệ) và đang bị đe dọa. - Gỗ khai thác từ rừng tự nhiên chuyển đổi - Gỗ khai thác từ những cây biến đổi gen. * Số lượng CCR. Hiện nay có 18 tổ chức độc lập được FSC ủy quyền cấp chứng chỉ FSC, thời hạn chứng chỉ mỗi lần cấp có hiệu lực 5 năm và luôn kiểm tra chất lượng. Đến tháng 3/2010 hơn 125 triệu ha rừng của hơn 80 quốc gia được chứng nhận đạt các tiêu chuẩn của FSC, với gần 16000 chứng chỉ CoC. Canada dang dẫn đầu thế giới với hơn 23 triệu ha rừng có chứng chỉ, sau đó đến Nga hơn 21 triệu ha rừng. Ước tính giá trị của sản phẩm dán nhãn FSC đạt trên 20 tỷ USD (2008) [24].
- 12 Biều đồ cơ cấu chứng chỉ FSC FM trên thế giới 2% 3% 2% 35% Bắc Mỹ Nam Mỹ Châu Âu Châu Á Châu Phi 47% Châu Đại Dương 11% Hình 1.1: Biểu đồ cơ cấu chứng chỉ FSC/FM trên thế giới. (Nguồn: Global forest and forest certifical short overview and forest certification in Vietnam, Lê khắc Côi, 2008) [3] Diện tích rừng được FSC cấp chứng chỉ chủ yếu tại Châu Âu (47%), Bắc Mỹ (35%), sau đó là Nam Mỹ (11%), trong đó Châu Á, Châu Phi và Châu Đại Dương tổng chỉ được 7%. Tuy nhiên trong tương lai, Châu Á, Châu Phi và Châu Đại Dương sẽ là khu vực rộng lớn đề FSC đánh giá cấp CCR. Hình 1.2: Biểu đồ số lượng chứng chỉ CoC từ năm 2007 đến nay (Nguồn: Global FSC Certificates 2010-01-15, 2010) [22]
- 13 1.1.2.4. Lập kế hoạch quản lý rừng (KHQLR) Lập KHQLR là một hoạt động không thể thiếu trong QLRBV, là công việc đầu tiên cần tiến hành trước khi thực hiện quản lý một khu rừng. Hội nghị thượng đỉnh về trái đất của UNICED năm 1992 nhận định “nguồn tài nguyên rừng và đất rừng chỉ được quản lý bền vững khi đáp ứng được nhu cầu về kinh tế, xã hội, văn hóa và tinh thần của loài người trong thời điểm hiện tại và cho cả các thế hệ mai sau”. QLRBV đòi hỏi một phương pháp lập kế hoạch quản lý rừng lồng ghép và việc giám sát chặt chẽ các hoạt động lâm nghiệp với các nhiệm vụ chính là: + Đánh giá tiềm năng nguồn rừng + Khảo sát chuyên đề: đa dạng sinh học và đánh giá tác động xã hội để xác định vùng có giá trị bảo tồn cao + Lập bản đồ chức năng rừng + Khoanh vùng rừng thành khu vực sản xuất và khu bảo vệ. + Điều tra quản lý rừng và tính khối lượng được phép khai thác hàng năm + Viết kế hoạch điều chế rừng trung hạn + Lập kế hoạch triển khai + Thực hiện và giám sát kế hoạch từng lô. + Đánh giá nội bộ các hoạt động lâm nghiệp và tiến độ thực hiện giữa kỳ. + Đánh giá độc lập về tính bền vững. 1.1.3. Các tổ chức cấp chứng chỉ rừng khác. Bên cạnh CCR do FSC cấp, cũng có nhiều quy trình CCR được khởi thảo như quy trình CCR như PEFC (Chương trình chứng nhận các tổ chức CCR). Ở Châu Á cũng có các Chương trình chứng chỉ quốc gia như Hội đồng chứng chỉ gỗ (MTCS) ở Malaysia, Viện dán nhãn sinh thái Lambaga (LEI) ở Indonesia. PEFC là một tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận được thành lập vào năm 1999, khuyến khích QLRBV thông qua chứng chỉ độc lập của bên thứ ba. PEFC đưa ra cơ chế đảm bảo với những người thu mua sản phẩm gỗ và giấy rằng họ đang xúc tiến công tác QLRBV.
- 14 Hội đồng chứng nhận gỗ Malaysia (MTCS) bắt đầu hoạt động vào tháng 10 năm 2001, sử dụng phương pháp theo từng giai đoạn khi ngày càng nhiều thách thức lớn trong quản lý các khu rừng nhiệt đới phức tạp. MTCS sử dụng tiêu chuẩn của Malaysia và các tiêu chí bao gồm 9 quy tắc, 47 tiêu chuẩn và 6 tiêu chí. MTCS có 10 thành viên, chỉ hoạt động trong phạm vi lãnh thổ Malaysia với diện tích rừng được chứng nhận là 4,8 triệu ha. Tổ chức Lembaga Ekolanbel Indonesia (LEI) được thành lập năm 1994 là một tổ chức không được chính thức công nhận bởi FSC vì LEI không phải là cơ quan cấp chứng chỉ, song LEI là một cơ quan thừa nhận một cách chính thức các cơ quan cấp chứng chỉ ở Indonesia. Hiện tại LEI đã cấp 5 giấy chứng nhận cho rừng tự nhiên gồm 885.000 ha và một cho rừng trồng với 159.000 ha.. Như vậy, rõ ràng CCR ở khu vực Nam Mỹ, Châu Á – Thái Bình Dương và Châu Phi tiến rất chậm, diện tích được chứng chỉ chiếm diện tích rất nhỏ, chủ yếu là chứng chỉ FSC. Phần lớn các nước trong các khu vực này kém phát triển, quản lý rừng còn ở trình độ thấp, các chủ rừng không có đủ nguồn lực cải thiện quản lý rừng để đạt tiêu chuẩn CCR, chi phí cho CCR cũng là một yếu tố hạn chế. 1. 2 . Tại Việt Nam. Khái niệm “bền vững” được thế giới sử dụng từ những năm đầu thế kỷ 18 là tiền đề cho QLRBV sau này, thì đến mãi cuối thế kỷ 20 Việt Nam mới dùng khái niệm “điều chế rừng” để quản lý, kinh doanh lâm nghiệp. Đến nay, khái niệm này vẫn được coi là công cụ truyền thống để quản lý rừng theo phương án điều chế thực hiện theo những quy định trong Quyết định 40/2005/QĐ-BNN ngày 7/7/2005 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn về Quy chế khai thác gỗ và lâm sản khác. 1.2.1. Tổ công tác quốc gia về chứng chỉ FSC ở Việt Nam (NWG) Tháng 2/1998, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng 3 tổ chức quốc tế phát động 1 phong trào QLRBV và CCR rộng rãi trong cả nước, thông qua hội thảo quốc gia ngày 10-12/02/1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tổ Công tác Quốc gia về chứng chỉ FSC ở Việt Nam (NWG) đã được thành lập gồm 12 thành viên thực hiện chương trình hành động, đồng thời xây dựng tổ chức để hoạt động lâu dài
- 15 trong hệ thống thành viên của FSC nhằm thúc đẩy tiến trình QLRBV và CCR tại Việt Nam. Ban đầu NWG trực thuộc Cục lâm nghiệp thuộc Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Từ năm 2001, theo quy chế của FSC, NWG trở thành một tổ chức độc lập, phi chính phủ, phi lợi nhuận thuộc Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (nay là Viện Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng). Các hoạt động chủ yếu của NWG là: - Dựa trên cơ sở 10 nguyên tắc và 56 tiêu chí của FSC, hoàn thành dự thảo tiêu chuẩn quốc gia với 160 chỉ số phản ánh các đặc thù của Việt Nam, song vẫn đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng của FSC. Đây là dự thảo lần 9 đã lấy ý kiến nhiều chủ rừng, các cơ quan tổ chức liên quan, đã 2 lần mời chuyên gia FSC sang dự hội thảo góp ý. Đang chờ ý kiến FSC thẩm định. - Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho chủ rừng, các bên liên quan và cộng đồng dân cứ sống trong rừng, gần rừng. - Nâng cao năng lực quản lý cho chủ rừng, năng lực hoạt động cho chuyên gia Viện QLRBV và cán bộ lâm nghiệp. - Đánh giá chất lượng quản lý rừng khu rừng. - Tổ chức mạng lưới các mô hình QLRBV tự nguyện. 1.2.2. Các chính sách chính liên quan QLRBV. Năm 2001, Chiến lược lâm nghiệp quốc gia (NFS) giai đoạn 2001-2010 đã xác định quản lý và phát triển rừng theo hướng bền vững là hướng đi chủ chốt. Vào đầu năm 2007, Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020 đã được ban hành, trong đó quy định theo hướng phát triển rừng quốc gia với năm chương trình lớn. Một lần nữa QLRBV là một trong ba chương trình trọng điểm của chiến lược với mục tiêu 30% (8,4 triệu ha) diện tích rừng trồng sản xuất đến năm 2020 được cấp chứng chỉ. Như vậy, các vấn đề về QLRBV là một yếu tố chủ chốt trong các chính sách, chiến lược và kế hoạch hành động của Việt Nam. Điều này được thể hiện trong các văn bản pháp quy dưới đây:
- 16 + Luật Đất đai, năm 2003 quy định: Việc sử dụng đất phải tôn trọng các nguyên tắc sau đây: Tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh. (Điều 11). + Luật Bảo vệ và phát triển rừng, năm 2004: Điều 9 đã quy định các hoạt động để đảm bảo QLRBV: Các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải đảm bảo PTBV về kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh; phù hợp với chiến lược phát triển KTXH, chiến lược phát triển lâm nghiệp; đúng quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cả nước và địa phương; tuân theo quy chế quản lý rừng do Thủ tướng Chính phủ quy định. + Luật Bảo vệ môi trường, năm 2005; trong Chương IV: Bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, có 7 điều (từ Điều 28 đến Điều 34) đã đưa ra những quy định liên quan tới QLRBV thuộc các lĩnh vực: điều tra, đánh giá, lập quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học; bảo vệ và phát triển cảnh quan thiên nhiên; bảo vệ môi trường trong khảo sát, thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; phát triển năng lượng sạch. + Quyết định số 18/2007/QĐ- TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020, có một Chương trình ưu tiên phát triển được đặt lên hàng đầu là “Chương trình quản lý và phát triển rừng bền vững” với mục tiêu “đến năm 2020, thiết lập, quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 16,24 triệu hecta đất qui hoạch cho Lâm nghiệp...”. Đây là một mục tiêu đầy tham vọng và để đạt được mục tiêu này cần thiết phải xác lập được những định hướng mới trong phát triển nguồn lực trong QLRBV thông qua các chương trình đào tạo, hợp tác và nghiên cứu. 5 chương trình trọng điểm của Chiến lược là: (1) Quản lý và phát triển rừng bền vững (QLRBV) (2) Bảo vệ rừng, bảo tồn ĐDSH và phát triển dịch vụ môi trường. (3) Chế biến thương mại lâm sản. (4) Nghiên cứu, giáo dục đào tạo và khuyến lâm. (5) Đổi mới thể chế chính sách, kế hoạch, giám sát ngành
- 17 1.2.3. Một số hoạt động QLRBV 1.2.3.1. Ở cấp trung ương -Tuyên truyền tập huấn đào tạo về QLRBV do NWG thực hiện với sự hỗ trợ Quỹ rừng nhiệt đới (TFT), Dự án cải cách hành chính của GTZ, WWG Đông Dương tại các hội nghị, hội thảo quốc gia, vùng, tỉnh. - Xây dựng kế hoạch chiến lược và các hoạt động QLRBV thể hiện trong Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006 – 2010. - Xây dựng lộ trình thực hiện QLRBV theo hai giai đoạn 2006-2010 và sau năm 2010. - Xây dựng các điều kiện QLRBV và CCR với các hoạt động trong giai đoạn 2006-2010 gồm: tiếp tục dự án 661; ra soát và quy hoạch lại 3 loại rừng; quy hoạch sử dụng đất vĩ mô. 1.2.3.2. Ở địa phương Dựa trên thực tiễn, NWG tiến hành các khảo sát nhằm xem xét tính khả thi của bộ tiêu chuẩn quốc gia đang dự thảo, đồng thời đánh giá trình độ quản lý của các đơn vị. Hiện nay một số chương trình dự án về CCR đã và đang được thực hiện: + Dự án điều tra xây dựng kế hoạch QLRBV tại huyện Kon-Plong (Kontum) 2000- 2002 do JICA tài trợ. + Dự án hỗ trợ lâm trường Hà Nừng, Lâm trường Sơ pai (Gia Lai) do WWF Đông Dương tài trợ. + Chương trình lâm nghiệp của GTZ, hợp phần QLRBV đang hỗ trợ 5 lâm trường quốc doanh quản lý rừng tự nhiên là Ma-Drak và Nam Nung (Đắc Lắk) đã mở rộng ra 3 lâm trường khác tại Quảng Bình, Ninh Thuận, Yên Bái từ 2007-2009. + Kế hoạch hỗ trợ CCR và tiếp thị của TFT tại Việt Nam không công bố thành một chương trình mà chỉ hỗ trợ từng phần và cho từng đơn vị quản lý rừng như tại Lâm trường Trường Sơn (Long Đại, Quảng Bình), Công ty Lâm nghiệp và dịch vụ Hương sơn (Hà Tĩnh), hành lang vùng đệm 2 VQG Kông Ka Kinh và Kông Cha Răng. + Tổ chức QLRBV và CCR theo nhóm hộ gia đình thuộc dự án trồng rừng WB3 tại 4 tỉnh miền Trung, từ năm 2008.
- 18 Đặc biệt đối với vùng trọng điểm 4 tỉnh Tây Nguyên, nơi còn khai thác nhiều gỗ nhất từ rừng tự nhiên, cũng là nơi diện tích và chất lượng rừng bị suy giảm nhiều nhất ở Việt nam, NWG, Cục Lâm nghiệp cùng WWF và Vụ chính sách đã có các hội thảo để từng tỉnh tự đánh giá hiện trạng quản lý rừng của các lâm trường theo các tiêu chí của bộ tiêu chuẩn QLRBV (Buôn Ma Thuột 2001), và hội thảo xây dựng chương trình cải cách tổ chức quản lý lâm trường theo Quyết định 187/TTg của Thủ Tướng Chính phủ (Pleiku 2002) và chọn ra 4 Công ty lâm nghiệp quản lý tốt từ mỗi tỉnh đưa vào mạng lưới mô hình QLRBV là CTLN Kong Plong, Lâm trường Hà Nừng, Lâm trường Dak N’tao, Lâm trường Bảo Lâm. CCR đang là cơ hội và thách thức cho ngành Lâm nghiệp Việt Nam trong việc xuất khẩu các mặt hàng gỗ. Gần đây, hàng loạt đơn vị quản lý rừng tự nhiên và trồng rừng sản xuất, rất nhiều Công ty, xí nghiệp chế biến xuất khẩu lâm sản đang có nhu cầu tự thân tham gia quá trình QLRBV cần hướng dẫn, hỗ trợ, tư vấn để tự đánh giá năng lực quản lý rừng, năng lực giám sát chuỗi hành trình, song mới chỉ nhận được 1 chứng chỉ FSC về QLR. Đó là Công ty TNHH trồng rừng Quy Nhơn (QPFT) với 9781 ha đất lâm nghiệp phân bố tại 8 huyện của tỉnh Bình Định. Hiện tại Công ty QPFL khai thác gỗ từ rừng trồng mỗi năm 60.000 m3, chủ yếu là gỗ Keo lá tràm, Keo tai tượng, Keo lai và Bạch đàn trắng. Trong tương lai, dự kiến khối lượng gỗ khai thác ổn định vào khoảng 120.000 m3, chủ yếu là gỗ Keo lai. QPFL đồng sở hữu Nhà máy dăm gỗ quy mô trung bình (Tập đoàn dăm gỗ Bình Định - BDC) đặt tại thành phố Quy Nhơn. Sản lượng khai thác gỗ hàng năm như trên được cung cấp cho BDC để chế biến thành dăm gỗ và xuất khẩu dựa trên kế hoạch quản lý rừng được lập. Bên cạnh việc bán gỗ với giá cao doanh nghiệp cũng đã thay đổi thái độ với rừng và môi trường. Năm 2008, Viện Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng cũng thực hiện đánh giá rừng độc lập về quản lý rừng trồng của mô hình chứng chỉ rừng “theo nhóm” của huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Ở đây, các hộ trồng rừng cùng góp chung diện tích rừng trồng hợp thành Chi hội trồng rừng Yên Bái và xin cấp CCR. Qua đánh giá, kết quả cho thấy: các hộ trồng rừng thuộc Chi hội đã đáp ứng được các tiêu chuẩn QLRBV của Việt Nam ở các mức độ khác nhau. Các khiếm khuyết
- 19 trong quản lý rừng có thể khắc phục được, tuy nhiên một số tiêu chí và chỉ số trong quản lý chưa phù hợp, nên việc sử dụng nó để đánh giá còn có chênh lệch.[6] Để lấy được chứng chỉ FSC cần một quá trình lâu dài. Việc kiểm soát gỗ của FSC được coi là một giải pháp để hộ trỡ các chủ rừng, đặc biệt là CTLN, các đơn vị sản xuất kinh doanh nhỏ đạt được một phần kết quả của quá trình cấp chứng chỉ trong thời gian ngắn. Đối chiếu với tình hình thực tiễn của Việt Nam, chủ rừng cần thực hiện 9 yêu cầu để được xem xét cấp chứng chỉ CoC: 1) Các quy định về duy trì riêng rẽ gỗ tròn có chứng chỉ FSC 2) Quy định về ghi chép, theo dõi khối lượng gỗ có FSC và bán hàng 3) Quy định về viết hóa đơn xuất gỗ FSC 4) Các thông tin trên hóa đơn 5) Nhân viên phụ trách quản lý và bán gỗ FSC 6) Biểu mẫu sử dụng theo dõi và bán gỗ FSC 7) Các quy định về duy trì chứng từ liên quan đến CCR 8) Các tài liệu cần lưu trữ 9) Tập huấn Tính đến ngày 14/5/2010, số doanh nghiệp Việt Nam được cấp chứng chỉ FSC/CoC tăng dần, cả nước đã có 205 doanh nghiệp, đã chứng tỏ rằng các doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của FSC/CoC và đang chủ động thích ứng với những đạo luật mới về xuất khẩu gỗ vào thị trường Mỹ và EU. Kế hoạch quản lý rừng bao gồm nhiều nội dung nhưng vấn đề quản lý khai thác giữ vai trò quan trọng nhất. Tiêu chuẩn 7 yêu cầu chủ rừng phải xây dựng KHQLR và kế hoạch phải thể hiện được những nội dung chính sau: + Những mục tiêu của KHQLR. + Mô tả những tài nguyên được quản lý, những hạn chế về môi trường, hiện trạng sở hữu sử dụng đất, điều kiện KTXH và tình hình vùng xung quanh. + Mô tả hệ thống quản lý lâm sinh hoặc những hệ thống khác trên cơ sở sinh thái của khu rừng và thu thập thông tin thông qua điều tra tài nguyên. + Cơ sở của việc định mức khai thác rừng hàng năm và việc chọn loài. + Các nội dung quan sát về sinh trưởng và động thái của rừng.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 301 | 60
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu xử lý thuốc nhuộm xanh methylen bằng bùn đỏ từ nhà máy Lumin Tân Rai Lâm Đồng
26 p | 162 | 17
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu biến tính mùn cưa làm vật liệu hấp phụ chất màu hữu cơ trong nước
26 p | 192 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm tín hiệu thẩm mĩ thiên nhiên trong ca từ Trịnh Công Sơn
26 p | 204 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 233 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 202 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn