Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Đánh giá sinh trưởng và khả năng nhân giống bằng hom của các dòng vô tính Bạch đàn E. urophylla và Bạch đàn lai E. urophylla x E. pellita tại Ba Vì - Hà Nội
lượt xem 4
download
Nội dung chính của đề tài là đánh giá sinh trưởng và một số chỉ tiêu chất lượng của các tổ hợp bạch đàn lai trong loài của E. urophylla và lai khác loài giữa E. urophylla x E. pellita ở các giai đoạn tuổi khác nhau (30 tháng tuổi và 4 năm tuổi); Nghiên cứu chọn lọc cây trội trong các tổ hợp lai trong loài (UU) và khác loài (UP). Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Đánh giá sinh trưởng và khả năng nhân giống bằng hom của các dòng vô tính Bạch đàn E. urophylla và Bạch đàn lai E. urophylla x E. pellita tại Ba Vì - Hà Nội
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT Bé gi¸o dôc ®µo t¹o Bé n«ng nghiÖp vµ PTnt TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP -------------------- Tr-êng ®¹i häc l©m nghiÖp HOÀNG THỊ NHƯ HOA Ng« ThÕ Long ĐÁNH GIÁ SINH TRƯỞNG VÀ KHẢ NĂNG NHÂN GIỐNG BẰNG HOM CỦA CÁC DÒNG VÔ TÍNH BẠCH ĐÀN E. UROPHYLLA VÀ BẠCH ĐÀN LAI E. UROPHYLLA x E. PELLITA x©y dùng c¸c m« h×nh TẠIcÊu BA VÌtróc, sinh tr-ëng - HÀ NỘI vµ h×nh d¹ng th©n c©y lµm c¬ së ®Ò xuÊt c¸c ph-¬ng ph¸p x¸c ®Þnh tr÷ l-îng, s¶n l-îng cho l©m phÇn keo tai t-îng (Acacia mangium) t¹i khu vùc hµm yªnLUẬN VĂNquang - tuyªn THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI - 2010
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP -------------------- HOÀNG THỊ NHƯ HOA ĐÁNH GIÁ SINH TRƯỞNG VÀ KHẢ NĂNG NHÂN GIỐNG BẰNG HOM CỦA CÁC DÒNG VÔ TÍNH BẠCH ĐÀN E. UROPHYLLA VÀ BẠCH ĐÀN LAI E. UROPHYLLA x E. PELLITA TẠI BA VÌ - HÀ NỘI Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HÀ HUY THỊNH HÀ NỘI - 2010
- Công trình được hoàn thành tại: Trường Đại học Lâm nghiệp Người hướng dẫn khoa học: TS. HÀ HUY THỊNH Phản biện 1:………………………………………… Phản biện 2:………………………………………… Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sỹ Khoa học lâm nghiệp họp tại Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam Vào hồi: ...... giờ ...... ngày ...... tháng ...... năm 2010 Có thể tìm luận văn tại: Thư viện Trường Đại học Lâm nghiệp
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP -------------------- HOÀNG THỊ NHƯ HOA ĐÁNH GIÁ SINH TRƯỞNG VÀ KHẢ NĂNG NHÂN GIỐNG BẰNG HOM CỦA CÁC DÒNG VÔ TÍNH BẠCH ĐÀN E. UROPHYLLA VÀ BẠCH ĐÀN LAI E. UROPHYLLA x E. PELLITA TẠI BA VÌ - HÀ NỘI Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.60 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI - 2010
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP -------------------- HOÀNG THỊ NHƯ HOA ĐÁNH GIÁ SINH TRƯỞNG VÀ KHẢ NĂNG NHÂN GIỐNG BẰNG HOM CỦA CÁC DÒNG VÔ TÍNH BẠCH ĐÀN E. UROPHYLLA VÀ BẠCH ĐÀN LAI E. UROPHYLLA x E. PELLITA TẠI BA VÌ - HÀ NỘI SỐ LIỆU GỐC LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI - 2010
- 1 MỞ ĐẦU Ở Việt Nam, độ che phủ của rừng trong vòng 45 năm qua đã giảm đi một cách nhanh chóng, từ 43% (năm 1945) xuống chỉ còn 27,2% (năm 1990). Tuy nhiên, nhờ sự đầu tư của chương trình 327 giai đoạn 1992 - 1998 và hiện nay là dự án trồng mới 5 triệu ha rừng giai đoạn 1998 - 2010, đến năm 2004, diện tích rừng đã tăng lên 12,3 triệu ha với độ che phủ 36,7% (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2005). Song song với diện tích rừng trồng ngày một tăng, nhu cầu về giống có chất lượng được cải thiện ngày càng trở nên cấp thiết. Do đó, công tác chọn giống và tạo giống là một khâu không thể thiếu trong sản xuất lâm nghiệp. Vì vậy, trong Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng ở Việt Nam đã nêu rõ: Tập trung chỉ đạo việc nghiên cứu tuyển chọn, lai tạo, nhập nội các giống cây rừng có khả năng thích nghi tốt, đạt hiệu quả cao... để phổ biến nhanh ra trong trồng rừng đại trà. Ở nước ta những năm trước đây, bạch đàn được đưa vào trồng rừng một cách ồ ạt, chưa chú ý đúng mức tới điều kiện lập địa và đặc tính sinh vật học của loài cây... Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất của rừng trồng, đồng thời vô tình làm cho đất đai trở nên nghèo nàn, khô cằn sau một số luân kỳ. Chính vì vậy, đã có những nghi ngại trong việc gây trồng và phát triển loài cây này ở một số địa phương trong một khoảng thời gian dài. Những năm gần đây, bạch đàn đã và đang được gây trồng trở lại với một số giống được nhập nội mang lại hiệu quả cao. Ở trong nước, một số dòng bạch đàn lai được nghiên cứu và lai tạo để thích hợp với từng vùng sinh thái riêng biệt như dòng Bạch đàn lai UE35 cho vùng Trung tâm, Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ; dòng EU89 cho vùng Tây Bắc; dòng GU94 cho vùng Tây Nam Bộ. Thực tế cho thấy việc chọn loài, xuất xứ, chọn lập địa và các biện pháp kỹ thuật lâm
- 2 sinh đều có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất rừng (FAO, 1979). Mặt khác, muốn trồng bạch đàn có hiệu quả cao phải tiến hành công tác chọn giống và lai giống để có giống năng suất cao, phù hợp với từng điều kiện lập địa ở từng vùng sinh thái. Tuy nhiên để làm được điều đó đòi hỏi phải nghiên cứu đầy đủ các đặc điểm của cây lai về khả năng sinh trưởng cũng như khả năng nhân giống của nó. Lai giống bạch đàn cũng đã được thực hiện trong nhiều năm gần đây và đem lại kết quả cao cho trồng rừng với mục tiêu kinh tế. Với mục tiêu đáp ứng các yêu cầu như trên, hiện nay Trung tâm nghiên cứu Giống cây rừng đã tiến hành lai tạo giữa các loài Bạch đàn pellita với loài Bạch đàn urophylla và lai trong loài Bạch đàn urophylla. Các dòng bạch đàn lai được chọn lọc từ các tổ hợp lai này đang được tiến hành trồng khảo nghiệm tại Ba Vì - Hà Nội nhằm chọn ra những dòng thích nghi nhất với các điều kiện sinh thái và mang lại năng suất cao. Việc đánh giá và xác định được những dòng bạch đàn lai có sinh trưởng tốt và khả năng nhân giống cao ở giai đoạn đầu của khảo nghiệm để đưa vào sản xuất là việc làm cần thiết. Vì lí do đó đề tài “Đánh giá sinh trưởng và khả năng nhân giống bằng hom của các dòng vô tính Bạch đàn E. urophylla và Bạch đàn lai E. urophylla x E. pellita tại Ba Vì - Hà Nội” được thực hiện. Các nội dung nghiên cứu được trình bày trong luận văn là sự kế thừa một số hiện trường và kết quả về chọn lọc cây trội của khảo nghiệm tổ hợp Bạch đàn lai về “Cải thiện giống Bạch đàn lai” của Trung tâm Nghiên cứu giống cây rừng do TS. Hà Huy Thịnh làm chủ nhiệm đề tài. Các phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ giới hạn trong việc đánh giá sinh trưởng và khả năng nhân giống bằng hom của một số giống Bạch đàn lai ở Ba Vì - Hà Nội nhằm chọn lọc được một số giống có năng suất cao.
- 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Quan điểm chung về vấn đề nghiên cứu Giống là một trong những khâu quan trọng nhất của trồng rừng thâm canh, không có giống được cải thiện theo mục tiêu kinh tế thì không thể đưa năng suất rừng lên cao. Giống lai là giống được tạo ra do lai tự nhiên hay lai nhân tạo giữa các cá thể có kiểu gen khác nhau. Đặc điểm nổi bật của giống lai là thường có ưu thế lai ở đời F1, đó là ưu thế lai về sinh trưởng làm cây lai vượt trội hơn bố mẹ (Shull, 1911; Gyozfey, 1960) [22], [34] hoặc cái gì đó hơn bố mẹ (Snyder, 1972) [36]. Ưu thế lai thường liên quan đến các tính trạng về kích thước của cây như đường kính, chiều cao, thể tích thân cây, kích thước lá, v.v... Song ưu thế lai cũng có thể là sự ưu trội của bất cứ một tính trạng nào khác như chất lượng gỗ, sản lượng và chất lượng của một sản phẩm mong muốn, tính chịu đựng với điều kiện bất lợi, tính chống chịu sâu bệnh, tính chín sớm, v.v... (Zobel B. and J. Talbert, 1984) [37]. Cây lai là kết quả của sự tổ hợp các kiểu gen (genotype) khác nhau để tạo ra một sinh vật mới nên kiểu hình được thể hiện mang tính trạng trội, hoặc mang các đặc tính trung gian của bố mẹ hoặc kiểu hình mới mà bố mẹ không thể hiện. Khi lai các bố mẹ thuần chủng thì cây lai F1 thường có biểu hiện đồng nhất về kiểu hình và có ưu thế lai rõ rệt về sinh trưởng. Từ đời F2 ưu thế lai giảm dần, giống bị thoái hóa và phân ly. Để có giống lai mong muốn phải tiến hành chọn lọc cây trội và khảo nghiệm giống. Tuy vậy, các cây trội được chọn cũng chỉ là kiểu hình (phenotype) khác nhau, muốn biết chúng có di truyền cho đời sau hay không phải qua khảo nghiệm giống bởi kiểu hình được
- 4 thể hiện là kết quả của sự tác động lẫn nhau giữa kiểu gen với điều kiện hoàn cảnh. Một kiểu hình tốt có thể do mang kiểu gen tốt, cũng có thể do mang kiểu gen bình thường, song mọc trên đất tốt. Kiểu hình (P) là kết quả tác động tổng hợp của kiểu gen (G) và điều kiện hoàn cảnh (E). P=G+E Song nếu dùng cây hạt thì đời sau không thể tránh khỏi hiện tượng phân ly và thoái hóa. Vì thế để đánh giá đúng khả năng di truyền của cây trội được chọn lọc qua các giống lai đời F1 phải dùng nhân giống sinh dưỡng bằng nuôi cấy mô phân sinh hoặc nhân giống bằng hom và qua khảo nghiệm dòng vô tính (Lê Đình Khả, Dương Mộng Hùng, 1998) [12]. Đối với cây rừng có đời sống dài ngày khó có thể tạo các dòng thuần để làm cây bố mẹ mà phải lai trực tiếp các bố mẹ có kiểu gen dị hợp tử (heterozygote). Do vậy, các cây lai được tạo ra cũng có kiểu gen không đồng nhất, vì thế bên cạnh ưu thế lai được thể hiện ở cả tổ hợp lai và cũng có cả hiện tượng ưu thế lai cá thể (Turbin và cộng sự, 1982, dẫn từ Lê Đình Khả, 1999) [14]. Ưu thế lai cá thể là trường hợp hay gặp ở các giống lai tự nhiên. Đây là các cây lai được xuất hiện do sự kết hợp một cách ngẫu nhiên của những bố mẹ khác nhau, những bố mẹ này bao gồm cả những cây tốt nhất lẫn những cây xấu nhất, bao gồm cả cây sinh trưởng nhanh, hình dáng thân đẹp lẫn những cây sinh trưởng chậm, hình dáng thân xấu. Do vậy, cây lai F1 được tạo ra cũng hết sức đa dạng về tính trạng. Đây là nguồn vật liệu khởi đầu với nhiều kiểu biến dị hết sức phong phú cho chọn giống cây rừng (Lê Đình Khả, 1999) [14]. Một số nhà nghiên cứu về chọn giống cho rằng chỉ những tính trạng tốt nhất và mong muốn nhất của bố mẹ mới thể hiện rõ ràng trong cây lai, nhưng thực tế thì cũng có trường hợp những tính trạng xấu nhất của mỗi loài bố mẹ cũng có thể xuất hiện trong cây lai (Zobel & Talbert, 1984) [37]. Bên cạnh hệ
- 5 gen nhân, ưu thế lai cũng chịu ảnh hưởng của tế bào chất, điều kiện hoàn cảnh và thay đổi theo các giai đoạn phát triển cá thể (Lobasev, 1970, dẫn từ Lê Đình Khả, 1999) [14]. Năm 1993, Glori nghiên cứu về lai giống thuận nghịch giữa các loài bạch đàn đã cho thấy thể tích viên trụ ở cây 4 năm tuổi của tổ hợp lai thuận E. pellita x E. urophylla là 180,9 dm3/cây thì tổ hợp lai nghịch E. urophylla x E. pellita là 145,7 dm3/cây, trong khi E. pellita là 35 dm3/cây và E. urophylla là 25, 8 dm3/cây. Như vậy, chuyển đổi vị trí của cây bố mẹ trong phép lai thuận nghịch đã làm thay đổi sinh trưởng của cây lai, nói cách khác là ưu thế lai chịu ảnh hưởng của tế bào chất [31]. Một thí dụ về sự biểu hiện ưu thế lai thay đổi trong từng giai đoạn khác nhau là giống lai Pinus sondereggeri. Đây là giống lai giữa P. taeda và P. palustris. Trong giai đoạn vườn ươm, cây lai thường sinh trưởng nhanh và mập hơn bố mẹ. Sau khi đem trồng ở rừng thì P.taeda lại sinh trưởng nhanh hơn cây lai và P. palustris, nhưng đến 40 tuổi P. palustris lại có kích thước lớn nhất (dẫn từ Lê Đình Khả, 1999) [14]. Sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật nuôi cấy mô phân sinh và giâm hom cho phép sử dụng ưu thế lai đời thứ nhất trực tiếp vào sản xuất. Lai giống và giống lai cũng ngày càng được sử dụng rộng rãi trong lâm nghiệp. Đến nay, các giống lai được sử dụng chủ yếu trong lâm nghiệp phần lớn thuộc các loài dễ nhân giống bằng hom và nuôi cấy mô phân sinh như các loài dương (Populus sp.), liễu (Salix sp.) và những năm gần đây là bạch đàn (Eucalyptus sp.) và keo (Acacia sp.) (Hunziker, 1958; Schreiner, 1963; Zobel và Talbert, 1984) (Dẫn từ Trần Thị Thu Hằng) [7]. Trong các giống đó phải kể đến một số giống nổi tiếng là giống Dương lai I - 214 ở Châu Âu (lai giữa P. nigna với P. deltoides của Mỹ) (Zobel và Talbert, 1984) [37] và giống bạch đàn lai E. urophylla x E. grandis ở Brazil (Davidson, 1998) [29]. Các cây
- 6 nhân giống sinh dưỡng lấy từ một cây lai đã chọn ban đầu được gọi là một dòng vô tính. Để có được giống lai tốt nhất cần tiến hành khảo nghiệm so sánh các dòng vô tính này với các loài bố mẹ, sau đó tiếp tục chọn lọc những dòng cây lai tốt, có năng suất cao nhất và hình dáng thân đẹp nhất làm nguồn giống để đưa vào sản xuất. Do đó việc chọn tạo và sử dụng giống lai trong lâm nghiệp là rất có triển vọng. Sau khi tạo ra giống lai có ưu thế lai thì phương thức để duy trì ưu thế lai và đưa giống lai vào sản xuất là phải nhân giống sinh dưỡng bằng nuôi cấy mô phân sinh và giâm hom. Đó là sự nhân giống từ chồi non hoặc hom cành của cây lai đời F1. Phương pháp này dựa trên cơ sở của phân bào nguyên phân. Đây là dạng phân bào mà từ một tế bào mẹ tạo thành hai tế bào con có số lượng và cấu trúc thể nhiễm sắc giữ nguyên như tế bào mẹ ban đầu. Nhân giống sinh dưỡng là phương thức nhân giống tốt nhất để truyền đạt các vật chất di truyền của thế hệ trước cho thế hệ sau. Nhờ đó mà cây sinh ra từ nuôi cấy mô phân sinh hoặc hom vẫn giữ nguyên các đặc tính của cây mẹ lấy hom. Vì vậy, nhân giống sinh dưỡng là phương thức thích hợp để duy trì ưu thế lai và các tính chất khác của cây lai đời F1. Nhân giống sinh dưỡng là biện pháp duy trì các kiểu gen mong muốn, là sự giữ lại tối đa các tăng thu di truyền (Zobel & Talbert, 1984) [37]. Nhờ nghiên cứu theo hướng chọn lọc cây trội, nhân giống và khảo nghiệm giống mà trong thời gian qua một số giống có năng suất cao đã được trồng ở nhiều vùng sinh thái nước ta. Trong đó có bạch đàn lai giữa bạch đàn camal và bạch đàn urô, giữa bạch đàn urô và bạch đàn liễu, các dòng bạch đàn U6, W6 nhập từ Trung Quốc (Xí nghiệp giống Thành phố Hồ Chí Minh), các dòng bạch đàn uro, PN2, PN14 (Trung tâm Nghiên cứu cây nguyên liệu giấy Phù Ninh)... Đây là những giống ưu việt có năng suất cao gấp 2 - 3 lần các giống sản xuất đại trà hiện có, đồng thời có hình dáng đẹp, thân thẳng, cành
- 7 nhánh nhỏ. Những giống này rất có triển vọng cho các chương trình trồng rừng ở nước ta trong thời gian tới. Theo Lê Đình Khả và Dương Mộng Hùng (1998) [12] quá trình nâng cao năng suất và chất lượng rừng trên cơ sở cải thiện giống cây rừng được tiến hành theo các bước trong sơ đồ sau: Khảo nghiệm loài Khảo nghiệm xuất xứ Chọn cây trội Chọn loài Chọn xuất xứ (Lai giống) Khảo nghiệm giống Rừng giống Vườn giống Vật liệu giống Rừng trồng mới Hình 1.1. Sơ đồ chung của cải thiện giống cây rừng
- 8 1.2. Những nghiên cứu về cải thiện giống bạch đàn 1.2.1. Trên thế giới Lai giống để tạo ra giống lai có ưu thế lai là hướng đi mà các nhà chọn giống từ lâu đã rất quan tâm. Năm 1963, Danks đã tạo ra được tổ hợp lai giữa E. grandis với E. tereticornis, E. torelliana với E. pellita và E. urophylla ở Philippin (Shelbourne và Danks, 1963) (Dẫn từ Nguyễn Việt Cường) [4]. Năm 1976, Pryor lai ba cho (E. delgatensis x E. bicostata) x E. ficifolia đã không thành công [32]. Viện Nghiên cứu lâm nghiệp Dehra Dun ở Ấn Độ đã tạo được hai giống bạch đàn lai ký hiệu là F.R.I - 4 và F.R.I - 5, có sức sinh trưởng nhanh và có tính thích nghi rộng hơn loài thuần. Ở tuổi 4 cây lai có khối lượng thể tích gấp 3 lần E. tereticornis cùng tuổi. Tổ hợp lai E. tereticornis x E. grandis có khả năng sinh trưởng tốt trên đất khô và nghèo dinh dưỡng mà chính ở đó E. grandis lại sinh trưởng rất kém. Chứng tỏ ưu thế lai thể hiện mạnh nhất ở nơi trồng không thuận lợi cho loài thuần (Jacobs, 1981; Eldridge và cộng sự, 1993). Nhận định này cũng phù hợp nghiên cứu của Martin (1989). Tiếp theo là một loạt tổ hợp lai giữa các loài E. alba, E. camaldulensis, E. microtheca, E. terericornis, E. polycarpa và E. torelliana cũng được tạo ra trong các năm 1991 - 1999. Ở giai đoạn 6 tháng tuổi, một số tổ hợp lai đã có ưu thế lai khá rõ so với bố mẹ (Paramathma, Surendran, 2000) (Dẫn từ Nguyễn Ngọc Đích, Lê Minh Cường) [6]. Chương trình cải thiện giống bạch đàn dựa trên phép lai đôi và lai ba cũng được thực hiện tại Brazil. Sinh trưởng tính theo thể tích ở tuổi 7 của những cá thể lai ba E. urophylla x (E. camaldulensis x E. grandis) là 0,331m3/cây đã vượt các cây lai tốt nhất của các tổ hợp lai đôi (E. grandis x
- 9 E. urophylla, E. grandis x E. camaldulensis, E. urophylla x E. camaldulensis) có các trị số tương ứng là 0,290 m3/cây; 0,253 m3/cây; 0,234 m3/cây, còn loài thuần E. urophylla, E. grandis với các trị số tương ứng là 0,229 m3/cây và 0,247 m3/cây (Assis, 2000) [28]. Năm 1960, ở Zambia đã phát hiện giống lai tự nhiên giữa E. tereticornis x E. grandis và E. grandis x E. tereticornis. Những giống lai này đều tỏ ra rất có triển vọng, sức sinh trưởng tốt hơn bố hoặc mẹ và hình dáng đẹp hơn E. grandis, chịu được khô hạn hơn E. grandis nhưng lại kém E. tereticornis. Tính chất gỗ cũng trung gian giữa bố và mẹ (Shelbourne và Danks, 1963; FAO, 1979) (dẫn từ Nguyễn Việt Cường) [4]. Ở Conggo trong thập niên 1960 đã phát hiện được 3 giống bạch đàn lai tự nhiên là E. torelliana x E. citriodora, E. tereticornis x E. grandis, E. alba với giống chưa xác định. Những giống lai này đều có sinh trưởng nhanh và thích nghi tốt hơn loài bố mẹ. Từ năm 1978 cho đến nay, bạch đàn lai đã được sử dụng rộng rãi trong rừng trồng công nghiệp đó là các giống lai tự nhiên E. alba x giống lai chưa xác định, 12ABL x E. saligna, E. tereticornis x E. grandis, và các giống lai nhân tạo là E. urophylla x E. grandis, E. urophylla x E. pellita (Vigneron và cộng sự, 2000). Giống lai nhân tạo giữa 12ABL x E. saligna đạt năng suất 35m3/ha/năm ở tuổi 6. Trong khi đó cũng ở tuổi này 12ABL chỉ đạt 12m3 và E. saligna là 6m3 (Chaperon, 1978) (dẫn từ FAO, 1979) [30]. Năm 1975, Viện Nghiên cứu lâm nghiệp Quảng Tây (Trung Quốc) đã lai giữa E. saligna với E. exserta tạo ra được một số tổ hợp lai có khả năng vượt trội hơn so với loài E. exserta tới 82% về thể tích thân cây, trong đó tổ hợp lai nghịch E. exserta x E. saligna có sinh trưởng nhanh hơn tổ hợp lai thuận E. saligna x E. exserta (Shuxiong, 1989).
- 10 Từ năm 1989, Viện Lâm nghiệp nhiệt đới của Trung Quốc cũng tạo ra 204 cây lai từ các cặp bố mẹ giữa E. urophylla với các loài E. tereticornis, E. camaldulensis, E. exserta, E. grandis, E. saligna và E. pellita. Trong đó một số cá thể cây lai từ các tổ hợp E. urophylla x E. tereticornis và E. urophylla x E. camaldulensis đã có ưu thế lai rõ rệt về sinh trưởng so với bố mẹ của chúng, cây lai có thể tích vượt bố mẹ với các trị số tương ứng là 120,7% và 89,4% (Xiang & Wang, 1996; Shen, 2000). Các tổ hợp lai thuận nghịch giữa E. urophylla và E. grandis cũng đã được tạo ra ở Trung Quốc (Wang and Yang, 1996; Rezende, G. và Rezende, M., 2000; Bouvet và Combes, 1997), ở Brazil và ở Indonesia (Hardlyanto & Tridasa, 2000). (Dẫn từ Nguyễn Việt Cường) [4]. Theo Martin (1989), đến năm 1989 đã có hơn 20 tổ hợp lai khác loài được tạo ra ở chi bạch đàn, trong đó chủ yếu là nhóm E. grandis và E. urophylla được dùng làm cây mẹ. Đó là cây mẹ E. grandis lai với các loài E. robusta, E. camaldulensis, E. tereticornis, E. saligna và E. pellita, và cây mẹ E. urophylla lai với E. grandis, E. pellita và E. resinifera [33]. Chương trình cải thiện giống cho E. pellita dựa trên phép lai thuận nghịch cũng được thực hiện ở Congo. Sinh trưởng của những cá thể tốt nhất của các tổ hợp lai xa khác loài đã vượt các xuất xứ tốt của các loài bố mẹ (Harwood, 1998). Theo nghiên cứu của Harbard và các tác giả khác (2000), thụ phấn có kiểm soát thường làm tăng khả năng kết hạt so với bố mẹ của chúng, như tổ hợp E. grandis (G1) x E. dunnii (D1) có tỉ lệ kết hạt là 24,9 hạt/quả, trong khi đó tỉ lệ ở G1 là 19,2 hạt/quả, còn ở D1 là 5,6 hạt/quả. Nhưng cũng có trường hợp thụ phấn có kiểm soát đã làm giảm khả năng kết hạt so với bố mẹ chúng như ở tổ hợp lai E. dunnii (D1) x E. grandis (G3). Tỉ lệ kết hạt của tổ hợp này là 3,5 hạt/quả, trong khi bố mẹ của chúng là 5,6 hạt/quả và 6,2 hạt/quả. Như
- 11 vậy, tuỳ loài cây làm mẹ mà có thể làm tăng hoặc giảm tỉ lệ kết hạt trong thụ phấn có kiểm soát. Tuy nhiên, cũng có trường hợp khi đổi vị trí bố mẹ cho nhau đã không đậu quả và kết hạt như khi lai E. globulus x E. camldulensis. Trong tổ hợp lai này, E. globulus chỉ làm được bố, có nghĩa là khi E. camaldulensis làm mẹ thì lai thành công (Potts và cộng sự, 1992). Tính không tương hợp về một phía cũng thường xuất hiện khi lai khác loài. Tổ hợp lai E. nitens x E. globulus chỉ thành công khi E. nitens làm mẹ, nói một cách khác là trong cặp lai này E. globulus chỉ được làm được bố. Gore và cộng sự (1990) nghiên cứu tính không tương hợp một phía giữa vòi nhụy và ống phấn ở hai loài này cho thấy: ống phấn ở E. nitens sinh trưởng tối đa chỉ đạt 6 mm, trong khi chiều dài vòi nhụy của E. globulus lại dài tới 9 - 10 mm. Như vậy, trong trường hợp này chiều dài của ống phấn ngắn hơn nhiều so với chiều dài của vòi nhụy, vì vậy ống phấn của E. nitens không thể xâm nhập tới noãn của E. globulus và hiện tượng thụ tinh sẽ không thể xảy ra được. Bằng phương pháp chọn tạo giống kết hợp với các biện pháp kỹ thuật thâm canh như: làm đất, bón phân, chăm sóc,... miền Đông và Tây Châu Phi, Brazin và Papua New Ginea đã trồng được rừng bạch đàn thâm canh cho năng suất gỗ cao tới 70 - 90 m3/ha/năm với luân kỳ kinh doanh 6 - 8 năm (Nguồn Eldirige et al, 1993). Tại công ty Aracrug ở Brazin, nhờ sử dụng giống lai giữa loài E. grandis x E. urophylla trồng bằng cây hom, áp dụng các biện pháp thâm canh đã đưa năng suất rừng trồng bạch đàn lên 100m 3/ha/năm (Nguồn Zobel và Eldridge et al, 1993) (Dẫn từ Ngyễn Ngọc Đích, Lê Minh Cường) [6]. Thông thường ưu thế lai thể hiện rõ hơn trong những điều kiện môi trường sống bất lợi và chúng có phạm vi thích ứng rộng hơn mức bình thường. Nghiên cứu của Verryn (2000) cho thấy những tổ hợp lai có sức chống chịu với điều kiện môi trường bất lợi là E. grandis x E. camaldulensis,
- 12 E. grandis x E. tereticornis, E. grandis x E. urophylla, còn ưu thế lai về sinh trưởng và chống chịu bệnh loét thân (stem canker) thể hiện ở tổ hợp lai E. grandis x E. urophylla (Verryn, 2000). 1.2.2. Ở Việt Nam Bạch đàn được du nhập vào nước ta từ năm 1945 nhưng chưa trồng thành rừng kinh tế. Riêng các tỉnh phía Bắc, từ năm 1959, bạch đàn đã trở thành cây chủ lực để lục hóa đồi trọc và cây trồng phân tán. Theo thống kê của Tổng cục Lâm nghiệp, đến năm 1971, khu vực quốc doanh đã trồng được 40.000ha rừng bạch đàn. Trong số đó, bạch đàn liễu (E. exserta) chiếm tuyệt đại bộ phận. Ngoài ra còn có bạch đàn trắng (E. camaldulensis), bạch đàn đỏ (E. rubosta) và bạch đàn chanh (E. citriodora) (Lê Đình Khả, 1970) [13]. Tính đến tháng 12 năm 1999, Việt Nam đã có diện tích trồng rừng bạch đàn là 398.000ha trong tổng số 1,5 triệu ha rừng trồng. Nhìn chung, rừng trồng bạch đàn ở nước ta năng suất thấp, đạt bình quân dưới 10m3/ha/năm. Gần đây, Việt Nam đã nhập một số dòng bạch đàn cao sản và bạch đàn lai, bước đầu chứng tỏ có triển vọng. Hiện nay, nhờ chọn giống và nhập giống mới nên bạch đàn đã đem lại năng suất cao hơn. Chọn giống bạch đàn có thể được bắt đầu từ những năm 1930, khi các nhà lâm nghiệp người Pháp là những người đầu tiên đã xây dựng các khu khảo nghiệm loài bạch đàn trắng (E. tereticornis), bạch đàn đỏ (E. robusta), v.v... ở một số vùng sinh thái chính trong cả nước (Hoàng Chương, 1996; Lê Đình Khả và Dương Mộng Hùng, 1998) [3], [12]. Trong những năm 1950, nước ta đã xây dựng được các khu khảo nghiệm cho 18 loài bạch đàn ở vùng Đà Lạt như E. saligna, E. microcorys, E. camaldulensis, E. robusta, E. citriodora, E. globulus, E. botroides, E. maideni, E. resinifera v.v... Trong đó các loài E. microcorys, E. saligna có khả năng thích ứng khá và sinh trưởng
- 13 nhanh nhất ở vùng Đà Lạt. Sau 40 năm các loài này có chiều cao 35 - 40m với đường kính ngang ngực 50 - 60cm (Lê Đình Khả và ctv, 1996) [11]. Từ những năm 1970, đã có các khảo nghiệm loài và xuất xứ ở một số lập địa chính trong cả nước. Trong số các loài được khảo nghiệm là E. camaldulensis, E. tereticornis, E. urophylla, E. grandis, E. pellita, E. cloeziana,... đã xác định được một số loài có triển vọng là E. camaldulensis, E. tereticornis, E. urophylla (Lê Đình Khả, Phạm Văn Tuấn, Đoàn Thị Bích, 1996) [15]. Đây cũng chính là cơ sở ban đầu cho việc xây dựng các chương trình trồng rừng bạch đàn ở Việt Nam. Trong các năm 1975 - 1995, hàng trăm xuất xứ của 16 loài bạch đàn đã được đưa vào khảo nghiệm ở nhiều nơi trong nước. Trong đó E. camaldulensis có 64 xuất xứ, E. tereticornis có 18 xuất xứ và E. brassiana có 8 xuất xứ (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1995) [20]. Kết quả cho thấy chỉ có một số ít xuất xứ là có triển vọng và được đưa trồng trên diện rộng. Chẳng hạn với E. camaldulensis, có thể chọn các xuất xứ Kennedy River, Morehead River cho nhiều vùng trên cả nước (Hoàng Chương, 1994; Phạm Văn Tuấn, 1997) [2], [26] và Gibb River (cho các tỉnh Miền Nam), Burdedin (cho các tỉnh Bắc Trung Bộ và Nam Bộ). Trong 3 xuất xứ của E. urophylla thì xuất xứ Lembata phù hợp với Bắc Trung Bộ, còn Lewotobi và Egon Flores cho các tỉnh miền Bắc (Lê Đình Khả 1996, 2001; Nguyễn Dương Tài, 1993; Phạm Văn Tuấn, 1997) [11], [23], [26]. Các loài có triển vọng cho vùng cao ở Đà Lạt là E. microcorys (xuất xứ Đà Lạt), E. grandis (Lê Đình Khả và ctv, 1996) [15]. Từ năm 1980 - 1984 một khảo nghiệm loài và xuất xứ bạch đàn đã được xây dựng trên đất phèn Tân Tạo của huyện Bình Chánh (Thành phố Hồ Chí Minh). Trong đó có 20 xuất xứ của 6 loài bạch đàn là E. alba, E. brassiana, E. camaldulesis, E. citriodora, E. grandis, E. tereticornis đã tham gia khảo nghiệm. Kết quả cho thấy 3 loài có khả năng thích ứng được ở lập
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 301 | 60
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu xử lý thuốc nhuộm xanh methylen bằng bùn đỏ từ nhà máy Lumin Tân Rai Lâm Đồng
26 p | 162 | 17
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu biến tính mùn cưa làm vật liệu hấp phụ chất màu hữu cơ trong nước
26 p | 192 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm tín hiệu thẩm mĩ thiên nhiên trong ca từ Trịnh Công Sơn
26 p | 204 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 233 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 202 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn