Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Điều tra và đánh giá nguồn tài nguyên cây thuốc ở Vườn Quốc gia Cát Bà và vùng đệm (Hải Phòng) làm cơ sở cho công tác bảo tồn và sử dụng bền vững
lượt xem 6
download
Đề tài nghiên cứu nhằm tập hợp thành phần các loài cây thuốc và các bài thuốc mà đã được người dân ở Cát Bà sử dụng; phân tích đánh giá tính đa dạng các loài cây thuốc về các mặt: thành phần, dạng sống, các bộ phận sử dụng, sự phân bố và các bệnh chữa trị.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Điều tra và đánh giá nguồn tài nguyên cây thuốc ở Vườn Quốc gia Cát Bà và vùng đệm (Hải Phòng) làm cơ sở cho công tác bảo tồn và sử dụng bền vững
- bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé n«ng nghiÖp vµ ptnt trêng ®¹i häc l©m nghiÖp ------------------------------- Cao thÞ H¶i Xu©n §iÒu tra vµ ®¸nh gi¸ nguån tµi nguyªn c©y thuèc ë vên quèc gia c¸t bµ vµ vïng ®Öm (h¶i phßng) lµm c¬ së cho c«ng t¸c b¶o tån vµ sö dông bÒn v÷ng Chuyªn ngµnh L©m häc M· sè: 60 62 60 luËn v¨n th¹c sü khoa häc l©m nghiÖp Ngêi híng dÉn khoa häc: GS.TSKH. nguyÔn nghÜa th×n Hµ T©y - 2006
- bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o bé n«ng nghiÖp vµ ptnt trêng ®¹i häc l©m nghiÖp -------------------------- Cao thÞ H¶i Xu©n §iÒu tra vµ ®¸nh gi¸ nguån tµi nguyªn c©y thuèc ë vên quèc gia c¸t bµ vµ vïng ®Öm (h¶i phßng) lµm c¬ së cho c«ng t¸c b¶o tån vµ sö dông bÒn v÷ng Chuyªn ngµnh L©m häc luËn v¨n th¹c sü khoa häc l©m nghiÖp Hµ T©y - 2006
- LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài tốt nghiệp trong chương trình đào tạo Thạc sỹ Lâm nghiệp, chuyên ngành Lâm học tại Khoa Đào tạo Sau đại học - Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, b¶n th©n đã nhận sự ủng hộ giúp đỡ của các thầy cô giáo Khoa Đào tạo Sau đại học - Trường Đại học Lâm Nghiệp, Ban giám đốc và cán bộ công nhân viên Vườn Quốc gia Cát Bà, UBND huyện Cát Hải và người dân đảo Cát Bà cùng bạn bè đồng nghiệp về mọi mặt. Nhân dịp này tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS. TSKH. Nguyễn Nghĩa Thìn - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, đã chỉ dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn. Trong quá trình thực hiện do còn hạn chế về mặt thời gian, trình độ nên bản luận văn còn nhiều thiếu sót. Tôi mong muốn nhận được những đóng góp ý kiến quý báu của các thầy cô giáo, các nhà khoa học và bạn bè đồng nghiệp. Xin trân trọng cảm ơn! Hải Phòng, ngày 30 tháng 7 năm 2006 Tác giả Cao Thị Hải Xuân
- MỞ ĐẦU Tài nguyên thực vật rừng là nguồn tài nguyên vô giá mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người, đặc biệt là nguồn tài nguyên cây thuốc. Từ thuở xa xưa cho đến ngày nay, đồng bào các dân tộc anh em trên đất nước ta đã không ngừng tìm tòi, nghiên cứu sử dụng nguồn tài nguyên cây thuốc chữa bệnh. Cùng với những kinh nghiệm cổ truyền của dân tộc, sự phát triển khoa học kỹ thuật đã chứng minh cơ sở khoa học của những cây thuốc qua thành phần hoá học, tác dụng kháng khuẩn, sát trùng... chúng ta càng thấy rõ giá trị của nó. Các cây thuốc phân bố rộng và đa dạng. Số loài cây thuốc được ghi nhận vào năm 2006 là có 3849 loài chiếm khoảng 35% trong hệ thực vật Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay, sự đa dạng sinh học nói chung, đa dạng cây thuốc nói riêng đang bị tổn thương và suy thoái nghiêm trọng, nguyên nhân sâu xa do sự gia tăng dân số và sự đói nghèo. Một nguyên nhân không kém phần quan trọng, do nhận thức chưa đúng đắn về nguồn tài nguyên cây rừng, người ta chỉ hiểu đơn giản là cung cấp gỗ mà ít chú ý tới giá trị các sản phẩm khác. Chính vì vậy đã dẫn đến quá trình khai thác quá mức, sử dụng lãng phí và làm suy giảm một cách nhanh chóng nguồn tài nguyên cây thuốc quý giá này. Hơn thế nữa, một thực tế khi hoàn cảnh sống thay đổi thì kinh nghiệm về sử dụng cây thuốc chữa bệnh ngày bị mai một. Cùng với tốc độ phát triển kinh tế xã hội một cách nhanh chóng thì chúng ta đang phải đối mặt với nhiều thử thách lớn khi môi trường ngày càng bị ô nhiễm, thiên tai xảy ra liên tiếp, xuất hiện nhiều bệnh tật mới mà thuốc tây dần dần không thể chữa được. Vì vậy, hiện nay không chỉ các nước đang phát triển mà cả những nước phát triển đang quan tâm đến việc sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên cây thuốc.
- Cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, Vườn Quốc gia Cát Bà - Thành phố Hải Phòng không nằm ngoài tình trạng trên, các hệ sinh thái bị rối loạn và suy giảm tính đa dạng sinh học ở nhiều khu vực trong vườn. Ở Vườn Quốc gia Cát Bà cho đến nay các công trình nghiên cứu có tính hệ thống về khu hệ thực vật, tổ thành thực vật và việc đánh giá tính đa dạng sinh vật mới đang được tiến hành. Còn nghiên cứu về cây thuốc vẫn chưa được quan tâm chú ý đến nhiều. Xuất phát từ vấn đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Điều tra và đánh giá nguồn tài nguyên cây thuốc ở Vườn Quốc gia Cát Bà và vùng đệm (Hải Phòng) làm cơ sở cho công tác bảo tồn và sử dụng bền vững”.
- CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU CÂY THUỐC 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ SỬ DỤNG CÂY THUỐC Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI Vấn đề Dân tộc, Thực vật học đã được hình thành ngay từ khi xuất hiện con người để sống và đấu tranh chống chọi với thiên nhiên, con người đã sử dụng các cây cỏ phục vụ cho cuộc sống của mình (như cây làm thức ăn, cây làm nhà ở, cây làm thuốc, cây đầu độc chim thú...). Từ những kinh nghiệm đó dần dần đã hình thành một khoa học gọi là Dân tộc Thực vật học. Nó nghiên cứu mối quan hệ giữa các dân tộc khác nhau với các loài cây cỏ phục vụ cho cuộc sống của họ. Nhân dân ta đã biết sử dụng cây cỏ làm thuốc từ rất lâu. Trong sự phát triển của loài người, mỗi dân tộc mỗi quốc gia đều có những nền Y học cổ truyền riêng, việc tìm nguồn thức ăn, nước uống với cây thuốc chỉ là một. Và các kinh nghiệm dân gian được nghiên cứu ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào sự phát triển của quốc gia đó. Lịch sử nền Y học Trung Quốc đầu thế kỷ thứ II, người ta đã biết dùng thuốc là các loài cây cỏ để chữa bệnh như: sử dụng nước chè (Thea sinensis) đặc để rửa vết thương và tắm ghẻ [27]. Trong cuốn sách "Cây thuốc Trung Quốc" xuất bản 1985 đã liệt kê một loạt các cây cỏ chữa bệnh như: Rễ gấc (Momordica cochinchinensis) chữa nhọt độc, viêm tuyến hạch, hạt gấc trị sưng tấy đau khớp, sốt rét, vết thương tụ máu; Cải soong (Nasturtium officinale) giải nhiệt, chữa lở mồm, chảy máu chân răng, bướu cổ. Từ những kinh nghiệm dân gian, các nhà khoa học đã có nhiều công trình nghiên cứu về các loài cây, về các sản phẩm chiết từ cây cỏ để chữa trị và đã đúc rút thành những cuốn sách có giá trị. Từ đời nhà Hán (168 năm trước CN) tại Trung Quốc trong cuốn sách "Thủ hậu bị cấp phương" tác giả đã kê 52 đơn thuốc chữa bệnh từ các loài cây cỏ. Vào giữa thế kỷ XVI Lý Thời Trân đã thống kê
- được 12000 vị thuốc trong tập "Bản thảo cương mục" được NXB. Y Học trích dẫn 1963 [27]. Theo Fujiki (Nhật Bản) cùng các nhà khoa học ở Viện hàn lâm Hoàng Gia Anh thì Chè xanh (Thea sinensis L.) còn ngăn chặn sự phát triển các loại ung thư gan, dạ dày nhờ chất Gallat epigallocatechine (Theo báo KH & ĐS số 46, 1996). Thần Nông là người đã sưu tầm và ghi chép nên 365 vị thuốc đông y trong cuốn sách “Mục lục thuốc thảo mộc”. Từ thời cổ xưa các chiến binh La Mã đã biết dùng dịch cây Lô hội (Aloe barbadensis Mill.) để rửa vết thương, vết loét,... chóng lành sẹo [27] mà ngày nay khoa học đã chứng minh là dịch cây có tác dụng liền sẹo thông qua khả năng kích thích tổ chức hạt và tăng nhanh quá trình biểu mô hóa [27]. Hay kinh nghiệm của người cổ Hy Lạp và La Mã dùng vỏ quả óc chó (Juglans regia L.) để chữa vết loét, vết thương..., lâu ngày không liền sẹo [27]. Ở Cu Ba, người ta đã dùng bột papain lấy từ mủ cây Đu đủ (Carica papaya) để kích thích tổ chức hạt ở các vết thương phát triển [27]. Ở Pê Ru người ta dùng hạt của cây Sen cạn (Tropaeolum majus) để điều trị bệnh phổi và bệnh đường tiết niệu [27]. Y học dân tộc Bun Ga Ri "Đất nước của hoa hồng" đã coi Hoa hồng là một vị thuốc chữa được nhiều bệnh, người ta đã dùng cả hoa, lá, rễ để làm thuốc tan huyết ứ và bệnh phù thũng. Ngày nay người ta đã chứng minh rằng trong cánh Hoa hồng có chứa một lượng tanin, glucosid, tinh dầu đáng kể. Tinh dầu này không chỉ để chế nước hoa mà còn được dùng để chữa nhiều bệnh. Nhân dân Ấn Độ dùng lá cây Ba ché (Desmodium triangulare) sao vàng sắc đặc để chữa kiết lỵ và tiêu chảy.
- Đồng bào Philíppin dùng vỏ cây Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa) sắc làm thuốc cầm máu, hoặc tán bột rắc lên mụn nhọt, vết lở loét làm chúng chóng khỏi [27]. Tỏi được dùng để chống bệnh đau màng óc, xơ động mạch, huyết áp cao, ung thư, viêm đường ruột... Lá của cây (Psychotria rubra) được phụ nữ Philippin dùng chữa kinh nguyệt không đều, lá và hoa chữa ho, giun, giúp tiêu hóa tốt. Galien đã xem tỏi (Allium sativum) là một loại thuốc chữa bệnh của người nông thôn có tác dụng lợi tiểu, trị giun, giải độc, chữa hen xuyễn, vàng da, đau răng và các bệnh về da. Ở Malaixia cây Húng chanh (Coleus amboinicus) dùng lá sắc cho phụ nữ sau khi đẻ uống hoặc lấy lá giã nhỏ vắt nước cốt cho trẻ uống trị sổ mũi, đau họng, ho gà... Ở Căm pu chia, Malaixia, dùng toàn cây Hương nhu tía (Ocimun sanctum) rễ trị đau bụng, sốt rét, nước lá tươi trị long đờm hoặc lá giã nát dắp trị bệnh ngoài da, khớp [27]. Trong chương trình điều tra cơ bản nguồn tài nguyên thiên nhiên ở khu vực Đông Nam Á, Perry đã nghiên cứu hơn 1000 tài liệu khoa học về thực vật và dược liệu đã được công bố và đã được các nhà khoa học kiểm chứng (Trong đó có 146 loài có tính kháng khuẩn) và tổng hợp thành cuốn sách về cây thuốc vùng Đông và Đông Nam Á "Medicinal Plants of East and Sontheast Asia"1985 [27]. Cùng với phương thức chữa bệnh theo kinh nghiệm Y học cổ truyền, các nhà khoa học trên thế giới còn đi sâu tìm hiểu nghiên cứu cơ chế và các hợp chất hóa học trong cây cỏ có tác dụng chữa bệnh. Tokin, Klein, Penneys, đã công nhận rằng hầu hết cây cỏ đều có tính kháng sinh đó là một trong các yếu tố miễn dịch tự nhiên. Tác dụng kháng khuẩn là do các hợp chất tự nhiên hay gặp như: các chất Phenolic, antoxyan, các dẫn chất quinon, alcaloid, heterosid, flavonoid, saponin... [27]. Theo Anon. (1982) trong vòng gần hai
- trăm năm trở lại đây, ít nhất đã có 121 hợp chất hóa học tự nhiên đã nắm được cấu trúc, mà được chiết từ cây cỏ với mục đích làm thuốc hoặc từ đó tổng hợp nên các loại thuốc chữa trị có hiệu quả. Như từ cây Lô hội (Aloe vera) theo Gotthall (1950) đã phân lập được chất Glycosid barbaloin có tác dụng với vi khuẩn lao người và tác dụng với Baccilus subtilic [27]. Lucas và Lewis (1944) đã chiết từ Kim ngân (Lonicera sp.) một hoạt chất có tác dụng với các loài vi khuẩn gây bệnh tả lị, mụn nhọt [27]. Người ta cũng đã chiết được becberin từ cây Hoàng liên (Coptis chinensis). Theo Gilliver (1946) thì Becberin có tác dụng chữa bệnh đường ruột và kiềm chế một số giống vi khuẩn làm hại cây côí. Theo Schlederre (1962) thì nó có thể chữa khỏi bệnh Bouton d'orient [27]. Lebedev thì có nhận xét Becberin có tác dụng đối với tụ cầu, liên cầu, trực khuẩn ho gà, trực khuẩn lị, thương hàn, và trực khuẩn lao [27]. Trong lá và rễ Hẹ (Allium odorum) có các hợp chất Sulfua, saponin và chất đắng. Năm 1948, Shen - Chi - Shen phân lập được một hoạt chất Odorin có tác dụng ít độc với động vật cao cấp, nhưng lại có tác dụng kháng khuẩn. Trong hạt phát hiện thấy có thêm Alcaloid có tác dụng với vi khuẩn Gram+, Gram -, Nấm [27]. Trong nhiều loài Ba gạc (Rauwolfia sp.) chiết được chất Resecpin, Serpentin làm thuốc hạ huyết áp. Chất Vinblastin, Vincristin được chiết từ cây Dừa cạn (Catharanthus roseus) vừa có tác dụng hạ huyết áp vừa làm thuốc chống ung thư máu. Hoặc strophantin được chiết từ các loài Sừng dê (Strophanthus sp.) dùng làm thuốc trợ tim đã nhiều thập kỷ nay. Vài chục năm gần đây, ứng dụng các thành tựu nghiên cứu cấu trúc, hoạt tính của các hợp chất hóa học tự nhiên, bằng con đường tổng hợp hoặc bán tổng hợp hóa học, một số loại thuốc hiện đại có hiệu quả chữa bệnh cao lần lượt ra đời. Gần đây, theo thống kê của tổ chức Y học thế giới (WHO) thì đến năm 1985 đã có gần 20.000 loài thực vật (Trong tổng số 250.000 loài đã biết) được sử dụng làm thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất để chế biến thuốc [27]. Trong
- đó ở Ấn Độ có khoảng 6.000 loài [27]. Trung Quốc 5.000 loài [27]; Vùng nhiệt đới Châu Mỹ hơn 1.900 loài thực vật có hoa [27]. Theo số liệu của WHO thì mức độ sử dụng thuốc càng ngày càng cao: ở Trung Quốc tiêu thụ hàng năm hết 700.000 tấn dược liệu [27], sản phẩm thuốc Y học dân tộc đạt giá trị hơn 1,7 tỉ USD vào năm 1986 [27]. Tổng giá trị về thuốc có nguồn gốc thực vật trên thị trường Âu - Mỹ và Nhật Bản vào năm 1985 là hơn 43 tỉ USD. Tại các nước có nền công nghiệp phát triển từ năm 1976 - 1980 đã tăng từ 335 triệu USD lên 551 triệu USD. Còn ở Nhật Bản, năm 1979 nhập 21.000 tấn, đến năm 1980 tăng lên 22.640 tấn dược liệu, tương đương 50 triệu USD [27]. Điều này chứng tỏ rằng ở các nước công nghiệp phát triển cây thuốc phục vụ cho nền Y học cổ truyền cũng phát triển mạnh. Cây thuốc là loại cây kinh tế, nó cung cấp nhiều loại thuốc dân tộc và thuốc hiện đại trong việc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người (Theo Tuyên ngôn Chiang Mai, 1988). Trên thế giới có rất nhiều loài cây thuốc quý hiếm nhưng do con người khai thác quá bừa bãi cho nên rất dễ trở thành tuyệt chủng. Do các hoạt động nhất định của con người mà nhiều loài động thực vật trên thế giới đã vĩnh viễn bị mất đi, hoặc đang bị đe dọa gay gắt về khả năng sống sót của chúng (Theo công ước đa dạng Sinh học - 1992). Theo Raven (1987) và Ole Harmann (1988) trong vòng hơn trăm năm trở lại đây, có khoảng 1.000 loài thực vật có lẽ đã bị tuyệt chủng, có tới 60.000 loài có thể bị gặp rủi ro hoặc sự tồn tại của chúng là mỏng manh vào giữa thế kỷ tới, nếu chiều hướng đe dọa này vẫn tiếp diễn. Trong số những loài thực vật đã bị mất đi hoặc đang bị đe dọa gay gắt, đương nhiên có nhiều loài cây thuốc. Như ở Banglađét có loài Tylophora indica. dùng để chữa bệnh hen, loài Zanonia indica để tẩy xổ; trước kia có khá nhiều nay có nguy cơ bị tuyệt chủng (Theo Islam A.S, 1991) [27]. Ba gạc (Rauvolfia serpentina (L.) Benth. ex Kurz) hàng chục năm liền khai thác ở Ấn Độ, Srilanka, Bangladét, Thái Lan... với khối lượng từ 400 -
- 500 hoặc 1.000 tấn vỏ rễ/năm, xuất sang thị trường Âu - Mỹ, hiện nay đã trở nên cạn kiệt. Song song với các nghiên cứu về sử dụng cây thuốc, một vấn đề cấp bách khác đó là bảo tồn các loài cây thuốc đó cũng cần được đặt ra. Tại Hội nghị Quốc tế về bảo tồn quỹ gen cây thuốc họp từ ngày 21 đến 27 tháng 3 năm 1983 tại Chieng Mai - Thái Lan, hàng loạt các công trình nghiên cứu về tính đa dạng và việc bảo tồn cây thuốc được đặt ra khẩn thiết [27]. Để phục vụ cho mục đích sức khỏe con người, cho sự hưng thịnh của nước nhà và sự phát triển không ngừng của xã hội, để chống lại các bệnh nan y, thì sự cần thiết là phải kết hợp giữa Đông - Tây Y, giữa Y học hiện đại với kinh nghiệm cổ truyền của các dân tộc. Chính từ những kinh nghiệm truyền thống đó của họ là chìa khóa để nhân loại khám phá ra những loaị thuốc có ích trong tương lai. Cho nên việc khai thác kết hợp với bảo tồn các loài cây thuốc là điều hết sức quan trọng. Các nước trên thế giới đang hướng về thực hiện chương trình Quốc gia kết hợp sử dụng, bảo tồn và phát triển cây thuốc [27]. 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ SỬ DỤNG CÂY THUỐC Ở VIỆT NAM Từ bao đời nay nền Y học cổ truyền của Việt Nam đã có nhiều bài thuốc, cây thuốc được áp dụng chữa bệnh trong dân gian có hiệu quả. Qua quá trình phát triển của dân tộc, các kinh nghiệm dân gian quí báu đó đã dần đúc kết thành những cuốn sách có giá trị và lưu truyền rộng rãi trong nhân dân ta. Ngay từ thời vua Hùng Vương dựng nước (2900 năm TCN) qua các văn tự Hán Nôm còn sót lại (Đại Việt sử ký ngoại ký, Lĩnh nam chích quái liệt truyện, Long uy bí thư...) và qua các truyền thuyết, tổ tiên ta đã biết dùng cây cỏ làm gia vị kích thích sự ngon miệng và chữa bệnh [27]. Theo Long Uý chép lại, vào đầu thế kỷ II TCN có hàng trăm vị thuốc từ đất Giao Chỉ như: Ý
- dĩ (Coix lachryma - jobi), Hoắc hương (Pogostemon cablin),... được người Tàu đưa về nước để giới thiệu sử dụng [27]. Cùng với sự tiến hóa của lịch sử, kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của nhân dân cũng dần phát triển, nó gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của các danh Y nổi tiếng đương thời. Đời nhà Lý (1010 - 1224) nhà sư Nguyễn Minh Không tức Nguyễn Chí Thành đã dùng nhiều cây cỏ chữa bệnh cho dân và cho nhà Vua, nên được tấn phong “Quốc sư” triều Lý. Đời nhà Trần (1225 - 1399) có sự kiện, Phạm Ngũ Lão thừa lệnh Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn, thu thập trông một vườn thuốc lớn để chữa bệnh cho quân sỹ, trên núi gọi là "Sơn Dược" hiện vẫn còn di tích để lại tại một quả đồi thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng. Chu Tiên biên soạn cuốn sách "Bản thảo cương mục toàn yến" là cuốn sách thuốc đầu tiên xuất bản năm 1429 [27]. Có hai Danh y nổi tiếng cùng thời đó là Phạm Công Bân (vào thế kỷ XIII) và người thầy thuốc nổi tiếng là Tuệ Tĩnh, tên thực là Nguyễn Bá Tĩnh (vào thế kỷ XIV). Ông biên soạn bộ "Nam dược Thần hiệu" gồm 11 quyển với 496 vị thuốc nam, trong đó có 241 vị thuốc có nguồn gốc thực vật và 3932 phương thuốc đơn giản để trị 184 chứng bệnh của 10 khoa lâm sàng. Ông đã khẳng định vai trò của thuốc nam trong đời sống. Trong "Nam dược Thần hiệu" có ghi: Tô mộc (Caesalpinia sappan) vị mặn, tính bình không độc, trừ huyết xấu, trị đau bụng, thương phong sưng lở [27], Thanh Hao (Artemisia apiacea) chữa chứng sốt, lị...[27]. Sử quân tử (Quisqualis indica) có vị ngọt, tính ôn, không độc vào hai kinh tỳ và vị, chữa 5 chứng cam trẻ em, tiểu tiện, sát khuẩn, chữa tả lị, còn làm thuốc mạnh tỳ vị, chữa hết thẩy các chứng lở ngứa của trẻ em [27]. "Sầu đâu rừng (Brucea javanica) vị đắng, tính hàn, có độc, sát trùng, trị đau ruột non, nhiệt trong bàng quang, điên cuồng và ghẻ lở [27]... Tuệ Tĩnh được coi là một bậc Danh
- y kỳ tài trong lịch sử Y học nước ta, là "Vị thánh thuốc nam". Ông chủ trương lấy "Nam dược trị nam nhân". Trong bộ sách quý của Ông về sau bị quân minh thu gần hết nay chỉ còn lại [27]: - "Nam dược thần hiệu" - "Tuệ Tĩnh y thư" - "Thập tam phương gia giảm" - "Thương hàn tam thập thất trùng pháp" Đến thời Lê Dụ Tông xuất hiện Hải Thượng Lãn Ông - tên thực là Lê Hữu Trác (1721 - 1792). Ông là người am hiểu nhiều về y học, sinh lý học, đọc nhiều sách thuốc. Trong 10 năm khổ công tìm tòi nghiên cứu Ông viết bộ "Lãn Ông tâm lĩnh" hay "Y tôn tâm lĩnh" gồm 66 quyển đề cập tới nhiều vấn đề về y dược. Như: "Y huấn cách ngôn", "Y lý thân nhân", "Lý ngôn phụ chính", "Y nghiệp thần chương" xuất bản năm 1772. Trong bộ sách này ngoài sự kế thừa "Nam dược Thần hiệu" của Tuệ Tĩnh Ông còn bổ sung thêm 329 vị thuốc mới. Trong quyển "Lĩnh nam bản thảo" Ông đã tổng hợp được 2854 bài thuốc chữa bệnh bằng kinh nghiệm dân gian. Mặt khác Lãn Ông mở trường đào tạo y sinh, truyền bá tư tưởng và hiểu biết của mình về y học. Do vậy Lãn Ông được mệnh danh là ông tổ sáng lập ra nghề thuốc Việt Nam [27]. Cùng thời với Hải Thượng Lãn Ông còn có hai trạng nguyên là Nguyễn Nho và Ngô Văn Tĩnh đã biên soạn bộ "Vạn phương tập nghiêm" gồm 8 quyển xuất bản năm 1763 [27]. Trong thời kỳ 1884 - 1945, thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân, loại Y học dân tộc nước ta ra khỏi chính sách bảo hộ, việc nghiên cứu cây thuốc gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên có một số nhà thực vật học, dược học, người Pháp nghiên cứu nhưng với mục đích chính là khai thác tài nguyên.
- Trong quá trình tìm ra các loài cây thuốc thì xuất hiện một số vấn đề về cách bào chế, tính kỵ thuốc, kiêng các chất trong khi dùng thuốc cần được giải quyết. Cuốn "Bắc nam dược tính" (1937) của Vũ Như Lâm đã đề cập tới dược tính, công dụng, cách bào chế, sự kiêng kỵ của một số vị thuốc Bắc, Nam [27]. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với phương châm của Đảng đề ra tự lực cánh sinh, tự cung tự cấp, ngành y tế đã đưa được thuốc nam vào phát huy vai trò to lớn của nó. xây dựng nên "Toa căn bản", nêu các phương pháp chữa bệnh bằng 10 vị thuốc thông thường [27]. Từ ngày thống nhất đất nước, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực, quan tâm đến công tác điều tra nghiên cứu nguồn cây thuốc ở Việt Nam, phục vụ cho vấn đề sức khỏe toàn dân. Bộ Y tế cũng tạo điều kiện cho Đông y phát triển, nên việc nghiên cứu thuốc nam được xúc tiến mạnh mẽ. Nhà nước đã tổ chức lại mạng lưới Y học từ Trung ương đến địa phương, thành lập Viện Y học dân tộc để đào tạo y, bác sĩ; các bệnh viện Y học dân tộc, hội đông y... Cho sưu tầm các nguồn tài liệu về thuốc nam, tổ chức điều tra, phân loại, tìm hiểu dược tính, thành phần hóa học, lập bản đồ dược liệu trong cả nước và sản xuất các loại thuốc từ nguồn cây cỏ có trong thiên nhiên. Vấn đề này đã được Đỗ Tất Lợi dày công nghiên cứu trong nhiều năm và đã được xuất bản nhiều tài liệu trong việc sử dụng của đồng bào dân tộc về vấn đề cây, con dùng làm thuốc. Đáng chú ý nhất là năm 1957 đã biên soạn bộ "Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam" gồm 3 tập. Năm 1961 tái bản in thành 2 tập. Trong đó tác giả đã mô tả và nêu công dụng của hơn 100 cây thuốc nam [27]. Từ 1962 - 1965 Đỗ Tất Lợi lại cho xuất bản bộ " Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam" gồm 6 tập. Đến năm 1969 tái bản thành 2 tập, trong đó giới thiệu trên 500 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc, động vật và khoáng vật. Ông đã kiên trì nghiên cứu, bổ sung về cây thuốc liên tục trong các công trình của
- Ông được tái bản nhiều lần vào các năm 1970, 1977, 1981, 1986, 1995. Lần tái bản thứ 7 (1995) số cây thuốc của Ông nghiên cứu đã lên tới 792 loài [27] và gần đây nhất là lần tái bản thứ 13 (2005). Trong đó Ông đã mô tả tỉ mỉ tên khoa học, phân bố, công dụng, thành phần hóa học, chia tất cả các cây thuốc đó theo các nhóm bệnh khác nhau [18]. Đây là một bộ sách có giá trị lớn về khoa học và thực tiễn, kết hợp giữa khoa học dân gian với khoa học hiện đại. Năm 1978, Đảng và Chính phủ đã có nhiều chủ trương phát triển Y học dân tộc với phương châm: "Thừa kế phát huy, phát triển Y học dân tộc cổ truyền và kết hợp Đông y với Y học hiện đại để xây dựng nền Y học Việt Nam". Năm 1980 Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân Chương đã giới thiệu 519 loài cây thuốc, trong đó có 150 loài mới phát hiện "Sổ tay cây thuốc Việt Nam" [27]. Liên quan đến vấn đề cây thuốc, Viện dược liệu, tập thể các nhà khoa học đã xuất bản cuốn "Dược điển Việt Nam" tập I, II đã tổng kết các công trình nghiên cứu về cây thuốc trong những năm qua [27]. Viện Dược liệu (Bộ Y tế) cùng với hệ thống trạm nghiên cứu dược liệu, điều tra ở 2795 xã, phường, thuộc 351 huyện, thị xã của 47 tỉnh, thành phố trong cả nước, đã có những đóng góp đáng kể trong công tác điều tra sưu tầm nguồn tài nguyên cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc trong Y học cổ truyền dân gian. Kết quả được đúc kết trong "Danh lục cây thuốc miền Bắc Việt Nam", "Danh lục cây thuốc Việt Nam", tập "Atlas (bản đồ) cây thuốc" đã thống kê và công bố một danh sách về cây thuốc từ 1961 - 1972 ở Miền Bắc là 1.114 loài, từ 1977 - 1985 ở Miền Nam là 1119 loài. Tổng hợp trong cả nước đến năm 1985 là 1.863 loài và dưới loài, phân bố trong 1.033 chi, 236 họ, 101 bộ, 17 lớp, 11 ngành được xếp theo hệ thống của nhà thực vật học Takhtajan [27] và mỗi loài đều giới thiệu công dụng và cách sử dụng chúng. Đề cập tới cây thuốc trong hệ thực vật Việt Nam, Võ Văn Chi là người từ lâu có nhiều tâm huyết. Năm 1976, trong luận văn PTS. khoa học của mình, Ông đã thống kê có 1.360
- loài cây thuốc thuộc 192 họ trong ngành hạt kín ở Miền Bắc. Đến năm 1991, trong một báo cáo tham gia Hội thảo quốc gia về cây thuốc lần thứ II tổ chức ở thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã giới thiệu một danh sách các loài cây thuốc Việt Nam có 2.280 loài cây thuốc bậc cao có mạch, thuộc 254 họ trong 8 ngành. Có thể nói công bố này đã giới thiệu một số lượng cây thuốc lớn nhất. Xét về thành phần các taxon cây thuốc đã biết hiện nay ở Việt Nam, theo Viện Dược liệu, phần lớn là cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm dân gian. Số còn lại khoảng dưới 5% là ghi nhận theo tài liệu của nước ngoài. Trong tổng số trên 2.000 loài và dưới loài cây thuốc, có tới gần 90% là cây mọc tự nhiên. Chúng chủ yếu tập trung chủ yếu trong các quần thể rừng với trữ lượng lớn, còn khoảng trên 10% là cây trồng. Cây trồng được sử dụng làm thuốc bao gồm: Cây thuốc nhập nội, cây thuốc trồng vốn có ở Việt Nam hoặc các loại cây trồng khác có bộ phận được sử dụng làm thuốc. Ngoài ra cũng có nhiều công trình về cây thuốc Việt Nam thuộc các địa phương hoặc thuộc các phạm vi nhỏ cũng đã được công bố: Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân Chương và một số người khác đã cho ra cuốn "Sổ tay cây thuốc Việt Nam" (1980) và "Tài nguyên cây thuốc Việt Nam" (1993) với hàng năm có khoảng 300 loài cây thuốc được khai thác và sử dụng ở các mức độ khác nhau trong toàn quốc [27]. Trần Đình Lý (1995) và cộng sự cho xuất bản cuốn "1900 loài cây có ích" [27]. Trong số các loài cây thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam, có 76 loài cho nhựa thơm, 160 loài có tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600 loài chứa tanin, 50 loài cây gỗ có giá trị cao, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây. Vương Thừa Ân cho ra đời cuốn "Thuốc quý quanh ta" vào năm 1995 [27]; "Cây thuốc trong trường học" của Ngô Trực Nhã (1985). Năm 1996, Võ Văn Chi cho ra đời quyển "Từ điển cây thuốc Việt Nam" đã mô tả kỹ 3200 cây thuốc Việt Nam [27]. Đây là một công trình có ý nghĩa
- khoa học và thực tiễn rất lớn phục vụ cho ngành dược và các nhà thực vật học. Ngoài ra, còn rất nhiều bài báo đăng trong tạp chí Trung ương, địa phương đều giới thiệu về cây thuốc, bài thuốc và tác dụng làm thuốc của cây cỏ quanh ta. Như vậy, nguồn cây cỏ được sử dụng làm thuốc rất phong phú. Theo Đỗ Huy Bích, Nguyễn Tập, Lê Tùng Châu... hàng năm, nước ta đã khai thác và sử dụng tới 300 loài cây thuốc ở các mức độ khác nhau [1]. Thật khó mà thống kê được một cách đầy đủ khối lượng dược liệu tự nhiên được khai thác bởi lẽ hàng năm ngoài cơ sở sản xuất của nhà nước còn có những cơ sở của tư nhân, của những ông lang bà mế và người dân từng địa phương tự thu hái về chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian. Theo Nguyễn Khang và Vũ Quang Chương [27] thì trong vòng vài chục năm gần đây nước ta đã xuất khẩu một lượng dược liệu khá lớn khoảng 20 triệu USD và lượng tinh dầu là 20 - 30 triệu USD chưa kể giá trị xuất khẩu tiểu ngạch và buôn lậu qua biên giới của tư thương [27]. Song đối với các dân tộc Việt Nam thì ít có công trình nghiên cứu đến, có thể nói công trình đầu tiên của Võ Thị Thường (1986) đã nghiên cứu các loài cây ăn được của đồng bào Mường trong đó tác giả đã giới thiệu 89 loài thuộc 38 họ [27]. Tác giả cũng đã đưa ra một số nhận xét giữa việc sử dụng một số cây của đồng bào Mường với điều kiện sống và nơi sống của họ. Đặc biệt, năm 1994, trong công trình nghiên cứu cây thuốc Lâm Sơn - Lương Sơn - Hà Sơn Bình, Nguyễn Nghĩa Thìn đã giới thiệu 112 loài thuộc 50 họ [27]. Năm 1990 - 1995 trong hội thảo quốc tế lần thứ 2 về Dân tộc sinh học tại Côn Minh - Trung Quốc, tác giả cũng đã giới thiệu lịch sử nghiên cứu về vấn đề Dân tộc dược học, giới thiệu 2.300 loài thuộc 1.136 chi, 234 họ thuộc 6 ngành thực vật có mạch bậc cao ở Việt Nam được sử dụng làm thuốc và giới thiệu hơn 1.000 bài thuốc mà được thu thập ở Việt Nam cũng như một số loài được sử dụng. Năm 2001, Ông cùng một số cộng sự nghiên cứu vấn đề
- thực vật học dân tộc: Cây thuốc của đồng bào Thái ở Con Cuông - Nghệ An, trong đó nghiên cứu về vấn đề thực vật được sử dụng làm thuốc trong đời sống đồng bào Thái, về văn hóa cũng như phong tục tập quán của đồng bào Thái [27]. Bên cạnh ý nghĩa sử dụng cây thuốc trong Y học dân tộc, theo kết quả nghiên cứu của: Nguyễn Văn Đàn, Nguyễn Việt Tựu (1986), Trịnh Gia Ân, Phạm Đình Sửu (1971, 1979), Lê Tùng Châu (1991)... nguồn cây thuốc ở Việt Nam đã và có nhiều triển vọng là nguyên liệu cho công nghiệp dược, chiết xuất các hợp chất tự nhiên để làm thuốc. Chỉ tính trong vòng hơn chục năm lại đây đã có 701 loài cây thuốc được điều tra tính kháng khuẩn và một số loài cây thuốc chính thức được đưa vào sản xuất thuốc đại trà như: Vằng đắng (Coscinium fenestratum), Sừng dê (Strophanthus divergens), Ba gạc (Rauvolfia verticillata)... [27]. Ngoài ra vấn đề tìm kiếm các thuốc mới từ nguồn cây cỏ ở Việt Nam cũng đầy triển vọng. Theo công bố của Trần Ngọc Ninh (1994), Lê Trần Đức (1995), các nhà khoa học Việt Nam bước đầu đã chiết được hợp chất Taxol từ các loài Thông đỏ (Taxus spp.), có tác dụng chống ung thư. Tóm lại kinh nghiệm dùng các loài cây cỏ để chữa bệnh của đồng bào ta là phong phú, đa dạng. Đây là kết quả của một quá trình lâu dài từ thế kỷ này sang thế kỷ khác của cả dân tộc, thậm chí họ phải đổ cả máu để đúc kết thành những kinh nghiệm truyền thống. Việc ứng dụng những kinh nghiệm dân gian và nghiên cứu Dân tộc thực vật học ở Việt Nam nói chung và đối với dân tộc Thái nói riêng là rất cần thiết để góp phần phát triển nền kinh tế của đồng bào dân tộc. Để phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp cũng như góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn nguồn gen, bảo tồn những kinh nghiệm phong phú và quý báu của đồng bào dân tộc, nhiệm vụ tiếp theo của chúng ta là kiểm kê, bổ sung và hệ thống hóa các cây thuốc của đồng bào dân tộc sử dụng một
- cách khoa học giúp cho việc lựa chọn nghiên cứu và phát triển chúng trong tương lai. 1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ SỬ DỤNG CÂY THUỐC Ở CÁT BÀ Trước đây ở đảo Cát Bà cũng như nhiều vùng miền núi khác, việc chăm sóc sức khoẻ, khám và chữa bệnh cho người dân còn rất hạn chế và khó khăn. Mặt khác, với cuộc sống trong rừng - nơi có nhiều loài cây cung cấp nguồn dược liệu phong phú và đa dạng, người dân địa phương đã tự tìm hiểu và tìm ra được rất nhiều loài cây rừng có tác dụng chữa được nhiều bệnh. Những tri thức và kinh nghiệm sử dụng những loài cây để chữa bệnh đã được người dân địa phương gìn giữ và lưu truyền lại qua nhiều đời, nhiều thế hệ sau. Đến nay, một phần nhỏ người dân, đặc biệt là các ông lang, bà mế ở đây cũng đã đưa một số loài cây thuốc về trồng trong vườn nhà. Tuy nhiên, với số lượng nhỏ và một số loài không thể gây trồng được nên họ vẫn khai thác nguồn tài nguyên cây thuốc trong rừng để bán, chữa bệnh cho người dân trong vùng và người dân đánh cá từ các tỉnh khác đến. Bên cạnh việc phát triển kinh tế - xã hội như ở Cát Bà thì việc quản lý, bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn cây thuốc cũng như việc bảo tồn tri thức văn hoá này là vô cùng cấp thiết. Trên thực tế, từ trước đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào hoặc một dự án nào nhằm thống kê cũng như trồng thử nghiệm và bảo tồn về các loài cây thuốc hiện có trong nguồn gen thực vật của Vườn Quốc gia Cát Bà. Năm 2003, theo kết quả sơ bộ giữa Phòng Hoá bảo vệ thực vật - Viện Hoá học cùng với dự án Tibotec (Vương quốc Bỉ) đã xác định Vườn Quốc gia Cát Bà có khoảng 400 loài cây thuốc. Từ tình hình trên kết hợp với việc bảo
- tồn một số loài cây thuốc đặc trưng có thể bị tuyệt chủng; năm 2005, Vườn Quốc gia Cát Bà cũng đã tiến hành trồng thử nghiệm khoảng 80 loài cây thuốc trên diện tích 4 ha dưới tán rừng trồng. Đến nay, kết quả thực hiện mới chỉ đưa về trồng được khoảng 40 loài.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 300 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 321 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn