intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Lập kế hoạch quản lý rừng bền vững và chuỗi hành trình sản phẩm tại công ty lâm nghiệp Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

24
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung chính của đề tài là xác định được những khiếm khuyết trong quản lý rừng của Công ty và đề ra các giải pháp khắc phục. Xác định được những khiếm khuyết trong quản lý chuỗi hành trình sản phẩm và đề ra các giải pháp khắc phục. Lập được kế hoạch quản lý rừng bền vững cho Công ty trong giai đoạn một chu kỳ kinh doanh. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Lập kế hoạch quản lý rừng bền vững và chuỗi hành trình sản phẩm tại công ty lâm nghiệp Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN QUANG DŨNG LẬP KẾ HOẠCH QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG VÀ CHUỖI HÀNH TRÌNH SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY LÂM NGHIỆP HÀM TÂN, TỈNH BÌNH THUẬN LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội, 2011
  2. 1 MỞ ĐẦU Sự biến đổi khí hậu toàn cầu đang tác động tiêu cực tới mọi Quốc gia, mọi dân tộc trên khắp thế giới. Việt Nam là 1 trong 5 Quốc gia sẽ phải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do sự biến đổi khí hậu toàn cầu gây ra. Nguyên nhân của sự biến đổi khí hậu toàn cầu không chỉ do khí thải ngày càng gia tăng quá mức kiểm soát từ các nước công nghiệp phát triển mà còn do rừng nhiệt đới tại các nước đang phát triển bị suy giảm nghiêm trọng với tốc độ nhanh. Tìm kiếm và áp dụng các giải pháp quản lý bảo vệ rừng (QLRBV), bao gồm chứng chỉ rừng (CCR) là một trong những biện pháp được cộng đồng quốc tế quan tâm nhất hiện nay trong bảo vệ, duy trì và phát triển rừng. Vấn đề cần được giải quyết là làm thế nào quản lý kinh doanh rừng phải vừa đảm bảo tốt lợi ích kinh tế, vừa đem lại lợi ích thiết thực cho các cộng đồng dân cư sống trong rừng, vừa không gây tác động xấu đến môi trường sống, tức là thực hiện được quản lý rừng bền vững. Kinh nghiệm quản lý rừng ở Việt Nam cho thấy nếu khu rừng không gắn được với lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội cho dân sở tại hay cho chủ rừng thì sẽ làm giảm động cơ tham gia của cộng đồng địa phương để bảo vệ và phát triển rừng và là gánh nặng ngân sách của nhà nước. Tiến trình QLRBV tại Việt nam đang trong giai đoạn sôi nổi, Doanh nghiệp lâm nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đang tự nguyện và hào hứng tham gia tiến trình QLRBV mặc dù biết rằng còn cần phấn đấu nhiều mới đạt được tiêu chuẩn, khó khăn chủ yếu của doanh nghiệp lâm nghiệp không chỉ là ở chỗ tự nâng cao năng lực quản lý rừng mà còn phải chuyển đổi mạnh mẽ từ hệ thống chức năng dịch vụ công ích sang doanh nghiệp kinh doanh. Nhận thức rõ tầm quan trọng, vai trò và tác dụng to lớn của rừng đối với biến đổi khí hậu, Việt Nam đã xây dựng Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Quốc gia giai đoạn 2006-2020 với 3 chương trình trọng điểm, trong đó chương trình quan trọng đầu tiên là chương trình QLRBV. Việt Nam đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 phải có ít nhất 30% diện tích rừng sản xuất được cấp chứng chỉ QLRBV (FSC).[2] CCR hiện nay là yêu cầu rất cần thiết cho các đơn vị chủ rừng vì:
  3. 2 - Cộng đồng quốc tế, chính phủ, các cơ quan chính phủ, các tổ chức môi trường, xã hội v.v. đòi hỏi các chủ sản xuất kinh doanh rừng phải chứng minh rằng rừng của họ đã được quản lý bền vững. - Người tiêu dùng sản phẩm rừng đòi hỏi các sản phẩm lưu thông trên thị trường phải được khai thác từ rừng đã được quản lý bền vững. - Người sản xuất muốn chứng minh rằng các sản phẩm rừng của mình, đặc biệt là gỗ, được khai thác từ rừng được quản lý một cách bền vững [8]. Để thúc đẩy thương mại sản phẩm rừng thì phải tăng cường CCR và chứng chỉ CoC, nhưng muốn tăng cường CCR thì quản lý rừng phải được cải thiện để đạt các tiêu chuẩn. Do nhu cầu về sản phẩm có chứng chỉ trên thị trường đang tăng nhanh, thế giới ngày càng tăng cường tẩy chay sản phẩm khai thác bất hợp pháp hay không an toàn môi trường, trong khi đó chứng chỉ rừng tiến triển rất chậm chạp ở nhiều nước nhiệt đới đang phát triển nên các nước này không thâm nhập được các thị trường lớn của thế giới. Đây cũng là tồn tại lớn nhất hiện nay của CCR [7], [8]. Tại tỉnh Bình Thuận hiện có 04 công ty lâm nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực lâm nghiệp nhưng chưa có công ty nào được cấp CCR. Công ty lâm nghiệp Hàm Tân là đơn vị đã nhận thức được cần quản lý rừng theo hướng tiên tiến, Công ty mong muốn được sớm tiếp cận CCR, qua tư vấn, hỗ trợ phương pháp đánh giá QLRBV để điều chỉnh hoạt động lâm nghiệp đáp ứng được 10 tiêu chuẩn FSC của Rainforest Alliance/SmartWood. Với ý nghĩa đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu thực hiện đề tài: “Lập kế hoạch quản lý rừng bền vững và chuỗi hành trình sản phẩm tại Công ty lâm nghiệp Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận ”. Kết quả nghiên cứu sẽ giúp Công ty Lâm nghiệp Hàm Tân xây dựng và thực hiện kế hoạch QLRBV trong giai đoạn 2012- 2019, sẽ khuyến khích cộng đồng địa phương tham gia vào việc quản lý bền vững tài nguyên rừng cho sinh kế của họ. Những kết quả từ đề tài này cũng có thể đóng góp thêm tư liệu giúp các nhà chuyên môn, các nhà chức trách có những tham khảo cần thiết trong tiến trình nghiên cứu và thiết kế các hoạt động quản lý tài nguyên rừng của họ.
  4. 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1 Trên thế giới 1.1.1. Khái niệm về quản lý rừng bền vững và phát triển bền vững Thuật ngữ “Phát triển bền vững” xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên và Tài nguyên thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học"[3]. Phát triển bền vững (PTBV) là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người bằng mở rộng sản xuất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa. PTBV được hiểu là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển đó là: Phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Nói cách khác, PTBV phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ tốt. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần KT-XH, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện mục đích dung hòa ba lĩnh vực chính: KT-XH-MT. Hội nghị Thượng đỉnh thế giới tại Rio de Janerio năm 1992 đã nhấn mạnh sự cần thiết phải có một cơ chế hiệu quả quản lý rừng (QLR). Lần đầu tiên, những nhà môi trường, xã hội và kinh tế đã cùng nhau tham gia một chương trình quốc tế bình đẳng và thành lập Hội đồng quản trị rừng thế giới (FSC). Cùng với sự ra đời của FSC, một loạt các tổ chức khác cũng được thành lập: PAN-EUROPEAN cho rừng tự nhiên toàn châu Âu (Helsinki); CIFOR (Trung tâm nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế) cho rừng tự nhiên nói chung; ITTO (tổ chức quốc tế về gỗ nhiệt đới) cho rừng tự nhiên nhiệt đới. Theo ITTO: “Quản lý rừng bền vững là quá trình quản lý những lâm phận ổn định nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu quản lý đề ra một cách rõ ràng như đảm bảo sản xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ rừng mong muốn mà không làm giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng suất tương lai của rừng và
  5. 4 không gây ra những tác động không mong muốn đối với môi trường tự nhiên và xã hội” [3],[10]. Theo tiến trình Hensinki: “Quản lý rừng bền vững là sự quản lý rừng và đất rừng theo cách thức và mức độ phù hợp để duy trì tính đa dạng sinh học, năng suất, khả năng tái sinh, sức sống của rừng trong quá trình thực hiện và trong tương lai, các chức năng sinh thái, kinh tế và xã hội của rừng ở cấp địa phương, cấp quốc gia và toàn cầu và không gây ra những tác hại đối với hệ sinh thái khác” [3],[10]. Thế giới đã có các bộ tiêu chuẩn QLR cấp quốc gia (Canada, Malaysia, Indonexia) và cấp quốc tế của tiến trình Hensinki, Montreal, FSC và ITTO đã có bộ tiêu chuẩn của QLR được vận dụng rất rộng rãi để đánh giá QLR ở nhiều nước. 1.1.2. Hội đồng quản trị rừng thế giới (FSC) và các tiêu chuẩn QLRBV của FSC FSC là một tổ chức phi chính phủ thành lập vào tháng 10/1993 tại Toronto – Canada bởi một nhóm gồm 130 thành viên khác nhau từ 26 quốc gia, bao gồm đại diện của các cơ quan môi trường, các thương gia, các cộng đồng dân bản xứ, đại diện các ngành công nghiệp và các cơ quan cấp chứng chỉ. Năm 1994 các thành viên sáng lập đã thông qua các nguyên tắc và tiêu chuẩn FSC, cùng với Quy chế FSC (gọi là By-Laws) áp dụng đánh giá cho rừng tự nhiên, rừng trồng, rừng ôn đới, nhiệt đới và mọi đối tượng khác. Trụ sở đặt tại thành phố Bonn–Đức. Cấu trúc quản trị duy nhất dựa trên các nguyên tắc sự tham gia, dân chủ, công bằng. FSC có đại diện tại hơn 50 quốc gia. Thành viên FSC được chia thành nhóm xã hội, nhóm môi trường và nhóm kinh tế, mỗi nhóm lại được chia ra thành nhóm Bắc (các nước công nghiệp) và nhóm Nam (các nước đang phát triển). Bất kỳ ai hỗ trợ cải thiện QLR trên thế giới đều có thể trở thành thành viên của FSC. FSC ủy quyền cho 10 cơ quan trên thế giới cấp chứng chỉ có trụ sở tại Anh, Mỹ, Hà Lan, Đức, Canada, Nam Phi, Thụy Sĩ. Tại Châu Á – Thái Bình Dương Công ty SmartWood/Rainforest Allliance và SGS Forestry thực hiện phần lớn việc đánh giá QLRBV và cấp CCR. FSC xây dựng 10 tiêu chuẩn cho QLRBV. Từ các tiêu chuẩn đó, các quốc gia, khu vực tham gia vào tiến trình QLRBV và CCR sẽ xây dựng các bộ tiêu chuẩn
  6. 5 quốc gia riêng để đánh giá và phù hợp với các điều kiện cụ thể của mình. Các bộ tiêu chuẩn này cần phải được sự phê chuẩn của FSC trước khi được sử dụng để đánh giá cấp chứng chỉ tại quốc gia hoặc khu vực đó. CCR được áp dụng cho tất cả các đơn vị quản lý rừng với các quy mô lớn nhỏ bất kể là sở hữu nhà nước hay tư nhân. Đây là một quá trình hoàn toàn tự nguyện của các chủ rừng. Tuy nhiên, đánh giá cấp CCR chỉ được áp dụng cho các đơn vị đang quản lý rừng sản xuất và đang hoạt động quản lý kinh doanh. Để được cấp CCR của FSC, chủ rừng phải chứng minh họ đã đáp ứng tất cả các quy tắc, tiêu chuẩn trên. Thực chất CCR chính là chứng chỉ chất lượng ISO, là hiệu quả cuối cùng của QLRBV, được FSC đề cập như là một “công cụ hữu hiệu, giúp cải thiện quản lý rừng của thế giới” và “là công cụ chính sách mạnh mẽ nhất” trong quản lý rừng. Khi được cấp CCR, chủ rừng sẽ được: - Xuất khẩu lâm sản vào mọi thị trường khắt khe trên thế giới kể cả Tây Âu và Bắc Mỹ với giá bán cao hơn. - Rừng cùng với môi trường sinh thái và xã hội có liên quan đến rừng sẽ được giữ gìn, bảo vệ và phát triển tốt hơn. Bên cạnh đó, các đánh giá định kỳ của cơ quan cấp chứng chỉ sẽ giúp chủ rừng tìm ra các điểm mạnh, yếu trong hoạt động kinh doanh của mình. - CCR của FSC giúp bảo vệ thương hiệu và uy tín của chủ rừng với đối tác kinh doanh, các tổ chức tài chính và các tổ chức cơ quan giám sát. Các tiêu chuẩn FSC hợp lệ trên toàn thế giới, là tiêu chuẩn duy nhất không có rào cản đối với tổ chức Thương mại thế giới (WTO).[8] 1.1.3. Các loại chứng chỉ của FSC Có hai loại chứng chỉ do FSC cấp: - Chứng chỉ quản lý rừng FSC/FM (FSC forest management certification) - Chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm FSC/CoC Trong quá trình đánh giá cấp chứng chỉ sẽ có hoạt động kiểm soát gỗ (FSC Controlled Wood)
  7. 6 1. 2 Tại Việt Nam Trong nửa thế kỷ từ 1945 đến 1990 tại Việt Nam, rừng liên tục giảm diện tích từ 14,3 xuống 9,2 triệu ha (mất 5,1 triệu ha), tốc độ mất rừng cao nhất là giai đoạn 1980-1990 (mất 1,5 triệu ha rừng), mà lý do chính là do quản lý rừng không bền vững. Từ năm 1993, nhờ nỗ lực to lớn của nhà nước và nhân dân thông qua các chương trình lớn như: 327, 661, trên 2 triệu ha rừng đã được phục hồi. Song đó mới là con số về số lượng, nếu rừng không được quản lý bền vững thì việc mất rừng sẽ song song diễn ra với qúa trình phục hồi rừng và chất lượng rừng cũng như các chức năng phòng hộ môi trường cũng không thể phát huy được [1],[3]. Trong 3 chương trình trọng điểm của Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Quốc gia (LNQG: 2006-2020) thì chương trình QLRBV là chương trình thứ nhất. Mục tiêu chính của QLRBV là nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả quản lý của chủ rừng đối với từng khu rừng cụ thể, sử dụng tối đa các lợi ích kinh tế, lợi ích môi trường và lợi ích xã hội của rừng nhưng ổn định và bền vững lâu dài. Đây là chương trình rất cơ bản để đưa quản lý lâm nghiệp VN vào ổn định, hiệu quả, đem lại không chỉ lợi ích kinh tế rõ rệt cho chủ rừng mà còn đảm bảo ổn định diện tích, chất lượng rừng cùng các lợi ích môi trường, xã hội cho cộng đồng và quốc gia. 1.2.1. Tổ công tác quốc gia về chứng chỉ FSC ở Việt Nam (NWG) Vào ngày 10 đến 12/02/1998, một Hội thảo quốc gia để xây dựng chương trình QLRBV và thành lập tổ công tác quốc gia về CCR đã được Bộ Nông nghiệp & PTNT, tổ chức FSC quốc tế, tổ chức WWF Đông Dương và đại sứ quán Hà Lan đồng tổ chức tại TP.HCM. Tổ Công tác Quốc gia về chứng chỉ FSC ở Việt Nam (NWG) đã được thành lập gồm 12 thành viên thực hiện chương trình hành động, đồng thời xây dựng tổ chức để hoạt động lâu dài trong hệ thống thành viên của FSC nhằm thúc đẩy tiến trình QLRBV và CCR tại Việt Nam. Ban đầu NWG trực thuộc Cục lâm nghiệp thuộc Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Từ năm 2001, theo quy chế của FSC, NWG trở thành một tổ chức độc lập, phi chính phủ, phi lợi nhuận thuộc Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (nay là Viện QLRBV và CCR). NWG đã có những nghiên cứu và hoạt động cụ thể về QLRBV và CCR:
  8. 7 1.1.3.1. Chứng chỉ quản lý rừng FSC/FM Rừng có thể quản lý với nhiều mục tiêu và cho sản phẩm khác nhau. Việc quản lý như vậy có thể thực hiện ở rừng tự nhiên hoặc rừng trồng, để lấy gỗ hoặc lâm sản ngoài gỗ, kể cả dùng cơ giới hóa hoặc khai thác thủ công, và đươ ̣c quản lý bởi một công ty kinh doanh công nghiệp lớn hoặc một cộng đồng địa phương hoặc hợp tác các chủ rừng. Rất nhiều sự kết hợp có thể thực hiện được. Một vấ n đề then chố t là – làm thế nào để đánh giá rộng lớn về tác động lâm sinh, kinh tế xã hội, sinh thái của các hoạt động quản lý rừng theo cách nhất quán và rõ ràng, dựa vào sự phối hợp của nghiên cứu khoa học và kinh nghiệm thực tế. FSC không đánh giá cấp chứng chỉ. Quá trình đánh giá được thực hiện bởi tổ chức độc lập gọi là cơ quan đánh giá quản lý rừng. Điều này cho phép FSC vẫn độc lập với quá trình đánh giá và hỗ trợ tính toàn vẹn của hệ thống chứng nhận FSC. Công ty Rainforest Alliance SmartWood (viết tắc là SW) ở Châu Á-Thái Bình Dương là một tổ chức chứng chỉ được FSC ủy quyền. SW cung cấp cho người quản lý rừng, chủ rừng, công nghiệp rừng, các nhà khoa học, các nhà môi trường và công chúng thông tin về mọi khía cạnh, về những hoạt động quản lý rừng mà SmartWood đánh giá để ra những kết luận trong hệ thống chứng chỉ của FSC [5][9]. Năm 1991, SmartWood đưa ra bộ tiêu chuẩn toàn cầu đầu tiên đối với chứng chỉ quản lý rừng, với đầu đề “Hướng dẫn chung cho việc đánh giá quản lý rừng tự nhiên” có thể áp dụng ở cấ p lâm nghiê ̣p hoă ̣c điề u hành đố i với các doanh nghiê ̣p lâm nghiê ̣p, và SW cũng đưa ra một hướng dẫn cụ thể cho vùng đầu tiên đối với việc quản lý rừng tự nhiên ở Indonesia. Năm 1993, SW đưa ra bản thảo “Hướng dẫn chung cho việc đánh giá rừng trồng ” và bản hướng dẫn đươ ̣c điề u chỉnh đố i với quản lý rừng tự nhiên. Năm 1998, sau bảy năm áp dụng và “học từ thực tế” qua những lần đánh giá và giám sát, SW đã thực hiện việc xem xét lại cơ bản tiêu chuẩn của miǹ h để đánh giá quản lý rừng cho cả rừng tự nhiên và rừng trồng. Tiêu chuẩn của SW phù hợp với các yêu cầu của FSC cũng như của các hướng dẫn về bảo tồn sinh học và QLR khác được IUCN và ITTO phát hành.
  9. 8 Tiêu chuẩn tạm thời của Rainforest Alliance/SmartWood để đánh giá quản lý rừng ở Việt Nam (SW document code: FM-32-Vietnam, phiên bản ngày 29 tháng 7 năm 2009 có hiệu lực từ tháng 8 năm 2009); Bao gồm 10 tiêu chuẩn, 56 tiêu chí và 210 chỉ số, được cụ thể hoá bằng các tiêu chí, được thể hiện chi tiết bằng các chỉ số và các nguồn kiểm chứng. Cấ u trúc các tiêu chuẩn SmartWood chủ yế u dựa vào các tiêu chuẩn và tiêu chí của FSC để quản trị rừng (FSC-STD-01-001) và bao gồm các chỉ số chung cu ̣ thể cho từng tiêu chí để tạo ra tiêu chuẩn SmartWood toàn cầu. Những chỉ số này là điểm bắt đầu, từ đó “tiêu chuẩn tạm thời của Smartwood” riêng cho vùng được xây dựng để sử du ̣ng trong lâm nghiê ̣p cho những người đánh giá rừng để thẩ m đinh ̣ tính bền vững của thực tiễn quản lý rừng và các tác đô ̣ng của doanh nghiệp quản lý rừng xin chứng chỉ [9]. Trong tiêu chuẩn, từng tiêu chí liên quan được nêu rõ, cùng với các chỉ số của SmartWood. Các tiêu chí trong tất cả các nguyên tắc phải được đánh giá trong từng đánh giá; trừ khi có những nguyên tắ c nào đó mà người đánh giá của Smartwood thấy không thể áp dụng được (thí du ̣ nguyên tắc 10 không thể áp dụng ở nơi không có rừng trồng) [11]. SmartWood đã xây dựng các chỉ số cho các tiêu chí 1 đặc trưng cho quy mô các hoa ̣t đô ̣ng. Xác định khối lượng rõ ràng đối với các công ty QLR nhỏ so với công ty QLR lớn đều nằm trong các tiêu chuẩn tạm thời của Smartwood [5]. 1.1.3.2. Chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm FSC/CoC Với bất kỳ một chương trình cấp CCR nào việc xem xét mối liên hệ của sản phẩm gỗ từ một khu rừng được cấp chứng chỉ đến khi được chế biến thành sản phẩm cuối cùng và được đem tiêu thụ tại thị trường là một việc rất cần thiết vì nó cung cấp các cơ sở cho việc dán nhãn sản phẩm. Khái niệm này được gọi là chuỗi hành trình sản phẩm (Chain of Custody) - CoC. Theo quy định của đánh giá CoC thì việc kiểm soát nguồn gốc gỗ phải thông suốt liên kết nhau thành một chuỗi thành các công đoạn cơ bản: từ rừng, đến vận 1 Tiêu chí 6.1, 6.2, 6.4, 7.1, 7.2, 7.3, 7.4, 8.1, 8.2, 8.3, 8.4, 8.5. 9.1, 10.5 và 10.8
  10. 9 chuyển gỗ về nhà máy, cưa xẻ, sấy, lắp ráp, lưu kho và phân phối. Hệ thống CoC sẽ hỗ trợ đơn vị kinh doanh lâm nghiệp: - Bảo đảm về các sản phẩm gỗ bán ra và nguồn gốc của gỗ. - Cải thiện các hệ thống tài liệu nội bộ của đơn vị và giúp đơn vị chuẩn bị để đạt được chứng chỉ ISO hoặc chứng nhận khác. - Nếu là Công ty chế biến gỗ, hệ thống CoC có thể giúp cải thiện hiệu quả sản xuất của nhà máy và giúp cho việc sử dụng số vốn đầu tư hiệu quả hơn. - Đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng về hệ thống CoC - Hệ thống CoC đã hoặc sẽ là yêu cầu bắt buộc đối với các sản phẩm gỗ xuất khẩu sang Châu Âu, Anh và các quốc gia khác. - Hệ thống CoC là yêu cầu cần thiết đối với việc dán nhãn và bán sản phẩm làm từ gỗ được chứng chỉ. Có thể nói chứng chỉ CoC được coi là công cụ chủ yếu đấu tranh với việc khai thác gỗ bất hợp pháp và buôn bán gỗ lậu. Một hệ thống CoC được cấp chứng chỉ của FSC phải đáp ứng 5 yêu cầu: 1. Yêu cầu về hệ thống chất lượng 2. Yêu cầu về nguồn cung cấp nguyên liệu 3. Yêu cầu về kiểm tra sản xuất nội bộ; và ghi chép tư liệu 4. Yêu cầu về sản phẩm và dán nhãn sản phẩm 5. Yêu cầu về lưu trữ tài liệu thông tin. Quy trình FSC có hai hình thức chính là: - Doanh nghiệp sử dụng 100 % nguyên liệu có đã được chứng chỉ. - Doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm có sử dụng một tỷ lệ % nguyên liệu chưa có chứng chỉ FSC trộn lẫn với nguyên liệu đã có chứng chỉ. 1.1.3.3. Kiểm soát gỗ (FSC Controlled Wood) Mặc dù thị phần sản phẩm FSC liên tục tăng trưởng, nhưng nguồn nguyên liệu có chứng chỉ cung cấp vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. FSC đã giới thiệu loại nhãn “FSC Mixed Sources”, cho phép doanh nghiệp sản xuất được pha trộn nguyên liệu được chứng chỉ FSC với nguyên liệu không có chứng chỉ.
  11. 10 Phần nguyên liệu không có chứng chỉ phải thực hiện đúng theo các tiêu chuẩn kiểm soát được gọi là FSC Controlled Wood, phải tránh năm nguồn gốc sau. - Gỗ khai thác trái phép. - Gỗ khai thác vi phạm các quyền truyền thống - Gỗ khai thác trong rừng được chứng nhận có giá trị bảo tồn cao (đặc biệt có giá trị cần bảo vệ) và đang bị đe dọa. - Gỗ khai thác từ rừng tự nhiên chuyển đổi - Gỗ khai thác từ những cây biến đổi gen. 1.1.3.4. Lập kế hoạch quản lý rừng (KHQLR) Lập KHQLR là một hoạt động không thể thiếu trong QLRBV, là công việc đầu tiên cần tiến hành trước khi thực hiện quản lý một khu rừng [11]. QLRBV đòi hỏi một phương pháp lập kế hoạch quản lý rừng lồng ghép và việc giám sát chặt chẽ các hoạt động lâm nghiệp với các nhiệm vụ chính là: + Đánh giá tiềm năng nguồn rừng; + Khảo sát chuyên đề: đa dạng sinh học và đánh giá tác động xã hội để xác định vùng có giá trị bảo tồn cao; + Lập bản đồ chức năng rừng; + Khoanh vùng rừng thành khu vực sản xuất và khu bảo vệ; + Điều tra quản lý rừng và tính khối lượng được phép khai thác hàng năm; + Viết kế hoạch điều chế rừng trung hạn; + Lập kế hoạch triển khai; + Thực hiện và giám sát kế hoạch; + Đánh giá nội bộ các hoạt động lâm nghiệp và tiến độ thực hiện giữa kỳ; + Đánh giá độc lập về tính bền vững. 1.2.2. Các chính sách chính liên quan QLRBV Năm 2001, Chiến lược lâm nghiệp quốc gia (NFS) giai đoạn 2001-2010 đã xác định quản lý và phát triển rừng theo hướng bền vững là hướng đi chủ chốt. Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020 đã được ban hành (Quyết định số 18/2007/QĐ- TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng chính phủ), trong
  12. 11 đó định hướng phát triển rừng quốc gia với năm chương trình lớn. Một lần nữa QLRBV là một trong ba chương trình trọng điểm của chiến lược với mục tiêu 30% (8,4 triệu ha) diện tích rừng trồng sản xuất đến năm 2020 được cấp chứng chỉ. Như vậy, các vấn đề về QLRBV là yếu tố chủ chốt trong các chính sách, chiến lược và kế hoạch hành động của Việt Nam; Được thể hiện rõ trong các văn bản pháp quy: + Luật Đất đai (2003); Điều 11 đã quy định: Việc sử dụng đất phải tôn trọng các nguyên tắc sau đây: Tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh. + Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (2004): Điều 9 đã quy định về QLRBV: Các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải đảm bảo PTBV về kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh; phù hợp với chiến lược phát triển KTXH, chiến lược phát triển lâm nghiệp; đúng quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cả nước và địa phương; tuân theo quy chế QLR do Thủ tướng Chính phủ quy định. + Luật Bảo vệ môi trường (2005); trong Chương IV: Bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, có 7 Điều (từ Điều 28 đến Điều 34) đã đưa ra những quy định liên quan tới QLRBV. + Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03 tháng 3 năm 2006 của Chính phủ về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng; + Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế quản lý rừng; Thông tư số 35/2011/TT-BNNPTNT ngày 20 tháng 5 năm 2011 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về Hướng dẫn thực hiện khai thác, tận thu gỗ và lâm sản ngoài gỗ. 1.2.3. Một số hoạt động QLRBV 1.2.3.1. Ở cấp trung ương Việc tuyên truyền tập huấn đào tạo về QLRBV do NWG thực hiện với sự hỗ trợ Quỹ rừng nhiệt đới (TFT), Dự án cải cách hành chính của GTZ, WWG Đông Dương tại các hội nghị, hội thảo quốc gia, vùng, tỉnh.
  13. 12 Xây dựng kế hoạch chiến lược và các hoạt động QLRBV thể hiện trong Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006 – 2010 và sau năm 2010. Vào ngày 03/3/2010, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Uỷ Ban Liên minh Châu Âu (EC) đã tổ chức hội thảo Kiểm soát thương mại gỗ nguyên liệu và ra mắt nhóm công tác về tăng cường thực thi Luật Lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản (FLEGT). Nhóm FLEGT đã đề ra nhiều kế hoạch trong chương trình hành động, đào tạo kỹ năng cho các doanh nghiệp trong việc thu mua lâm sản có trách nhiệm, thủ tục xin cấp chứng chỉ FSC; xây dựng hệ thống thông tin cập nhật về FLEGT; hệ thống giám sát thương mại gỗ và lâm sản. Ngày 01/4/2010, đạo luật Lacey (đạo luật mới của Mỹ) và của EU (đạo luật FLEGT) được ban hành, sắp có hiệu lực (1/2012), đã cấm buôn bán lâm sản bất hợp pháp, trong đó có gỗ và sản phẩm từ gỗ vào Hoa Kỳ, bắt buộc doanh nghiệp phải nộp tờ khai, chứng từ rõ ràng về tên, loại gỗ, quốc gia khai thác gỗ, cách thức khai thác...,tức là phải có chứng nhận FSC. Doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam nếu không có CCR đối với nguyên liệu gỗ thì họ sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh. 1.2.3.2. Ở địa phương Hiện nay một số chương trình dự án về CCR đã và đang được thực hiện: + Dự án điều tra xây dựng kế hoạch QLRBV tại huyện Kon-Plong (Kontum) 2000- 2002 do JICA tài trợ. + Dự án hỗ trợ lâm trường Hà Nừng, Lâm trường Sơ pai (Gia Lai) do WWF Đông Dương tài trợ. + Chương trình lâm nghiệp của GTZ, hợp phần QLRBV đang hỗ trợ 5 lâm trường quốc doanh quản lý rừng tự nhiên là Ma-Drak và Nam Nung (Đắc Lắk) đã mở rộng ra 3 lâm trường khác tại Quảng Bình, Ninh Thuận, Yên Bái từ 2007-2009. + Kế hoạch hỗ trợ CCR và tiếp thị của TFT tại Việt Nam không công bố thành một chương trình mà chỉ hỗ trợ từng phần và cho từng đơn vị quản lý rừng như tại Lâm trường Trường Sơn (Long Đại, Quảng Bình), Công ty Lâm nghiệp và dịch vụ Hương sơn (Hà Tĩnh), vùng đệm 2 Vườn quốc gia Kông Ka Kinh và Kông Cha Răng.
  14. 13 + Tổ chức QLRBV và CCR theo nhóm hộ gia đình thuộc dự án trồng rừng WB3 tại 4 tỉnh miền Trung, từ năm 2008. + Đặc biệt đối với vùng trọng điểm 4 tỉnh Tây Nguyên, nơi còn khai thác nhiều gỗ nhất từ rừng tự nhiên, cũng là nơi diện tích và chất lượng rừng bị suy giảm nhiều nhất ở Việt nam, NWG, Cục Lâm nghiệp cùng WWF và Vụ chính sách đã có các hội thảo để từng tỉnh tự đánh giá hiện trạng quản lý rừng của các lâm trường theo các tiêu chí của bộ tiêu chuẩn QLRBV. Năm 2008, Viện QLRBV và CCR cũng thực hiện đánh giá rừng độc lập về quản lý rừng trồng của mô hình chứng chỉ rừng “theo nhóm” của huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Ở đây, các hộ trồng rừng cùng góp chung diện tích rừng trồng hợp thành Chi hội trồng rừng Yên Bái và xin cấp CCR. Qua đánh giá, kết quả cho thấy: các hộ trồng rừng thuộc Chi hội đã đáp ứng được các tiêu chuẩn QLRBV của Việt Nam ở các mức độ khác nhau. Các khiếm khuyết trong quản lý rừng có thể khắc phục được, tuy nhiên một số tiêu chí và chỉ số trong quản lý chưa phù hợp, nên việc sử dụng nó để đánh giá còn có chênh lệch [10]. Vào ngày 05/10/2010, Công ty lâm nghiệp Đoan Hùng và Xuân Đài là 2 công ty đầu tiên thuộc Tổng công ty Giấy Việt Nam (FCG - VINAPACO) đã được Tổ chức Rainforest Alliance - Smartwood chính thức cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững FSC. Đến ngày 16/05/2011, nhóm CCR thuộc FCG - VINAPACO mở rộng thêm 3 thành viên nữa là Công ty Lâm nghiệp Thanh Hoà, Sông Thao và Yên Lập. Đưa tổng diện tích rừng được cấp chứng chỉ toàn nhóm lên 10.175,60 ha, mỗi năm khai thác và trồng rừng từ 900 - 950 ha. Khối lượng gỗ nguyên liệu giấy có chứng chỉ rừng từ 75.000 - 80.000 m3. 1.2.2.3.Đánh giá việc xây dựng kế hoạch quản lý rừng ở Việt Nam Ngày 19/7/1989 Bộ Lâm nghiệp đã ban hành Chỉ thị 15-LSCNR về công tác xây dựng phương án điều chế rừng đơn giản cho các lâm trường, trong đó hướng dẫn việc xây dựng phương án và quy định kể từ 1991 việc khai thác, quản lý khai thác phải căn cứ vào phương án điều chế. Sở dĩ chỉ xây dựng phương án điều chế rừng đơn giản là do thiếu kinh phí, không có điều kiện xác định chính xác tài
  15. 14 nguyên rừng, các cơ sở khoa học để xác định các chỉ tiêu liên quan đến khai thác còn chưa được nghiên cứu đầy đủ mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Trong phương án của một lâm trường đã thể hiện được 3 nội dung chủ yếu sau: a. Phần hiện trạng bao gồm: Vị trí địa lý; Hiện trạng tài nguyên rừng, đất đai; Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội; Tình hình kinh doanh rừng 5 năm trước đây. b. Phần quy hoạch bao gồm: Phân chia các tiểu khu theo rừng phòng hộ và rừng sản xuất; Phân chia thành các phân trường hoặc đội sản xuất; Xác định các biện pháp tác động: khai thác, trồng rừng, nuôi dưỡng rừng, làm giầu rừng, nông lâm kết hợp; Xác định mạng lưới đường. c. Phần kế hoạch tác nghiệp bao gồm: Kế hoạch khai thác cho một luân kỳ 35 năm; Kế hoạch tác nghiệp cho 5 năm trước mắt; Trong kế hoạch khai thác tính toán diện tích, sản lượng được phép khai thác hàng năm, xác định tiểu khu đưa vào khai thác trong 5 năm đầu; Sau 5 năm thực hiện sẽ được phúc tra lại về tài nguyên, đánh giá tình hình thực hiện và xây dựng lại kế hoạch cho 5 năm tiếp theo. Ưu điểm của phương án là cơ sở tốt để quản lý rừng, đặc biệt là khai thác, nó trả lời được 5 câu hỏi cho người quản lý là làm gì (khai thác, trồng rừng, chăm sóc, xây dựng hạ tầng…); ở đâu (ở lô, khoảnh, tiểu khu nào); bao nhiêu (khối lượng công việc); vào thời điểm nào (thời gian thực hiện) và làm như thế nào (biện pháp kỹ thuật, kinh tế, tài chính, nhân lực…) Tuy nhiên vẫn tồn tại những khiếm khuyết trong việc lập và thực hiện kế hoạch khai thác như: Chỉ mới chú trọng nhiều đến QLRBV về mặt kinh tế, còn bền vững về mặt xã hội và môi trường chưa được quan tâm đầy đủ; Về mặt kỹ thuật, các chỉ tiêu kỹ thuật khai thác mới chỉ được xác định dựa vào kinh nghiệm trong và ngoài nước, chưa được nghiên cứu để có một cơ sở khoa hoặc chắc chắn; Chưa xác định chính xác lượng tăng trưởng rừng và không đủ điều kiện để xác định chính xác trữ lượng rừng, dẫn đến không xác định được chính xác lượng khai thác (yếu tố quan trọng bảo đảm khai thác rừng bền vững) [8]. Đặc biệt trong lập kế hoạch chưa chú ý đến xác định các khu vực loại trừ, chưa xác địa hệ thống đường cho toàn bộ các khu khai thác, mặc dầu đã được quy
  16. 15 định trong hướng dẫn xây dựng phương án điều chế. Các phương án bảo vệ hệ sinh thái đặc thù, bảo vệ đa dạng sinh học…chưa được xác định rõ ràng. 1.3. Thảo luận Trên thế giới, QLRBV đã trở thành cao trào, được hầu hết các nước công nghiệp tiên tiến và hàng loạt quốc gia đang phát triển có rừng tự nguyện tham gia. Trong khi phần lớn diện tích rừng được cấp ở Châu Âu, Bắc Mỹ và Nam Mỹ thì CCR ở khu vực Nam Mỹ, Châu Á – Thái Bình Dương và Châu Phi tiến rất chậm. Ở Việt Nam, khi chuyển đổi các phương thức quản lý thông thường sang phương thức QLRBV đòi hỏi sẽ phải thay đổi một loạt khuôn khổ chính sách ở cấp trung ương; thái độ, quan điểm và sự đồng thuận của các sơ sở sản xuất kinh doanh lâm nghiệp và ngay cả người dân địa phương. Việc xác định các tiêu chuẩn QLRBV cho mỗi hệ sinh thái của Việt Nam gặp khó khăn do tính đa dạng phức tạp của nó. Các lợi ích từ quản lý và bảo vệ rừng chưa hấp dẫn người dân sống trong vùng rừng nên sự tham gia của họ còn rất hạn chế. Chi phí để đạt tiêu chuẩn CCR lại quá cao, cao hơn so với giá bán gỗ đã được cấp chứng chỉ. Đánh giá quản lý rừng phải căn cứ vào các tiêu chuẩn QLRBV, nhưng vận dụng các tiêu chuẩn này cho các đơn vị cần linh hoạt, theo điều kiện thực tế đang có. Mục tiêu của Công ty lâm nghiệp Hàm Tân tỉnh Bình Thuận là quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững. Công ty chưa có đánh giá nào về quản lý rừng của mình theo bộ tiêu chuẩn QLRBV của FSC, cũng như chưa có sự tư vấn hỗ trợ và chuyển giao kỹ năng đánh giá nào của các chuyên gia. Trên cơ sở Bộ Tiêu chuẩn tạm thời của SmartWood, có hiệu lực từ tháng 8 năm 2009, được sử dụng để cấp chứng chỉ rừng FSC cho các công ty quản lý rừng ở Viê ̣t Nam và các Tiêu chuẩn chuỗi hành trình sản phẩm FM-35 SmartWood [9]. Chúng tôi nghiên cứu đề tài “Lập kế hoạch quản lý rừng bền vững và chuỗi hành trình sản phẩm tại Công ty lâm nghiệp Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận ”, nhằm hỗ trợ Công ty tự đánh giá công tác quản lý rừng của mình qua đó thay đổi phương thức quản lý để có cơ hội nhận CCR của tổ chức SmartWood, đồng thời là tiền đề để cho 3 đơn vị CTLN và các doanh nghiệp còn lại nghiên cứu tiếp cận.
  17. 16 CHƯƠNG 2 MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu nghiên cứu 2.1.1. Mục tiêu tổng quát Hỗ trợ Công ty lâm nghiệp Hàm Tân tỉnh Bình Thuận quản lý rừng bền vững tiến tới chứng chỉ rừng. 2.1.2. Mục tiêu cụ thể - Xác định được những khiếm khuyết trong quản lý rừng của Công ty và đề ra các giải pháp khắc phục. - Xác định được những khiếm khuyết trong quản lý chuỗi hành trình sản phẩm và đề ra các giải pháp khắc phục. - Lập được kế hoạch quản lý rừng bền vững cho Công ty trong giai đoạn một chu kỳ kinh doanh. 2.2. Nội dung nghiên cứu 2.2.1. Đánh giá quản lý rừng - Đánh gía nội bộ về quản lý rừng bền vững của Công ty trên cơ sở đối chiếu với 10 tiêu chuẩn FSC của tổ chức SMARTWOOD áp dụng cho đánh giá rừng Việt Nam phiên bản ngày 29 tháng 7 năm 2009 có hiệu lực từ tháng 8 năm 2009; - Xác đinh ̣ được các khiế m khuyế t trong quản lý rừng của Công ty và đề ra các giải pháp khắc phục khiếm khuyết. 2.2.2. Đánh giá quản lý chuỗi hành trình sản phẩ m - Đánh gía nội bộ về thực hiện kiểm soát Chuỗi hành trình sản phẩm (CoC) của Công ty trên cơ sở đối chiếu với 5 tiêu chí tuân thủ CoC của SMARTWOOD; - Xác đinh ̣ được các khiế m khuyế t trong Chuỗi hành trình sản phẩm và đề ra các giải pháp khắc phục khiếm khuyế t. 2.2.3. Đánh giá điều kiê ̣n cơ bản và lập kế hoa ̣ch quản lý rừng cho Công ty 2.2.3.1. Đánh giá các điều kiện cơ bản - Điều kiện tự nhiên - Điều kiện kinh tế xã hội
  18. 17 - Kế t quả quản lý rừng của Công ty + Quản lý rừng và tổ chức quản lý + Về kỹ thuật và công nghệ áp dụng + Về sử dụng đất, rừng, hạ tầng, vốn + Danh mục thiết bị khai thác, vận chuyển, chế biến + Kết quả sản xuất kinh doanh + Tác động môi trường + Tác động xã hội - Đánh giá thuận lợi khó khăn của các điều kiện cơ bản. 2.2.3.2. Lập kế hoạch quản lý rừng [11]. (a) Căn cứ lập kế hoạch - Chức năng, nhiệm vụ Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Bình Thuận giao cho Công ty; - Yếu tố thị trường tiêu thụ sản phẩm; - Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội cấp huyện; - Kết quả phân tích, đánh giá điều kiện cơ bản của Công ty. (b) Xác đinh ̣ mu ̣c tiêu quản lý rừng (c) Bố trí sử dụng đất đai. (d) Tổ chức bộ máy quản lý (e) Kế hoạch quản lý rừng - Kế hoạch khai thác rừng - Kế hoạch vận chuyển, chế biến và tiêu thụ sản phẩm - Kế hoạch trồng rừng, chăm sóc rừng - Kế hoạch Bảo vệ rừng và bảo tồn Đa dạng sinh học - Kế hoa ̣ch giảm thiể u tác đô ̣ng môi trường - Kế hoa ̣ch giảm thiể u tác đô ̣ng xã hô ̣i - Kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng - Kế hoạch nguồn nhân lực và đào tạo - Kế hoạch giám sát, đánh giá.
  19. 18 - Kế hoạch vốn đầu tư và huy động nguồn vốn (f) Hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường khi thực hiện kế hoạch quản lý. 2.3. Phương pháp nghiên cứu 2.3.1. Quan điể m, phương pháp luận nghiên cứu - QLRBV là phương thức quản lý rừng tiên tiế n, là mu ̣c tiêu chiń h, CCR là kế t quả của QLRBV. - Đánh giá quản lý rừng căn cứ vào tiêu chuẩ n QLRBV, nhưng có vâ ̣n du ̣ng vào điề u kiê ̣n thực tế . - Công ty tự đánh giá có sự tư vấ n hỗ trơ ̣ và chuyể n giao kỹ năng đánh giá của chuyên gia. - Công ty phải thay đổi phương thức quản lý để có cơ hội nhận CCR. - Lập kế hoạch quản lý rừng có tham gia (tư vấn và chủ rừng). 2.3.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể 2.3.2.1. Đánh giá quản lý rừng Phạm vi đánh giá: Đánh giá toàn diện công tác quản lý rừng (bao gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh) thông qua các tiêu chuẩn. - Tiêu chuẩn sử dụng để đánh giá: Tiêu chuẩn tạm thời của Rainforest Alliance/SmartWood để đánh giá quản lý rừng ở Việt Nam (SW document code: FM-32-Vietnam, phiên bản ngày 29 tháng 7 năm 2009 có hiệu lực từ tháng 8 năm 2009); Bao gồm 10 tiêu chuẩn, 56 tiêu chí và 210 chỉ số, được cụ thể hoá bằng các tiêu chí, được thể hiện chi tiết bằng các chỉ số và các nguồn kiểm chứng. Nhóm tiêu chuẩn KTXH Tiêu chuẩn 1: Tuân thủ luật và nguyên tắc của FSC gồm 6 tiêu chí và 16 chỉ số; Tiêu chuẩn 2: Quyền và trách nhiê ̣m sử dụng đấ t gồm 3 tiêu chí và 10 chỉ số; Tiêu chuẩn 3: Quyền của người dân sở ta ̣i gồm 4 tiêu chí và 14 chỉ số; Tiêu chuẩn 4: Quan hê ̣ cộng đồ ng và quyền của công nhân gồm 5 tiêu chí và 18 chỉ số; Tiêu chuẩn 5: Những lợi ích từ rừng gồm 6 tiêu chí và 22 chỉ số; Nhóm tiêu chuẩn lâm nghiệp và môi trường:
  20. 19 Tiêu chuẩn 6: Tác động môi trường gồm 10 tiêu chí và 48 chỉ số; Tiêu chuẩn 7: Quản lý rừng gồm 4 tiêu chí và 15 chỉ số; Tiêu chuẩn 8: Giám sát và đánh giá gồm 5 tiêu chí và 16 chỉ số; Tiêu chuẩn 9: Duy trì những rừng có giá trị bảo tồn cao gồm 5 tiêu chí và 16 chỉ số; Tiêu chuẩn 10: Rừng trồng gồm 9 tiêu chí và 39 chỉ số; Phương pháp đánh giá quản lý rừng thông qua ba kênh thông tin: đánh giá trong phòng, đánh giá ngoài hiện trường và tham vấn. Thu thập các thông tin về các yếu tố tác động đến quản lý rừng. Hình 2.1: Quy trình đánh giá QLR tại công ty lâm nghiệp Hàm Tân Quy trình đánh giá quản lý rừng bao gồm các bước cụ thể như sau [11]: Để thực hiện việc đánh giá quản lý rừng thì việc đầu tiên là phải quyết định hình thức đánh giá, có 2 hình thức đánh giá: - Đánh giá nội bộ: do các cán bộ của chủ rừng thực hiện. - Đánh giá do bên ngoài: do các chuyên gia tư vấn đánh giá. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi lựa chọn hình thức đánh giá nội bộ; Được thực hiện bằng cách lập một tổ chuyên gia nội bộ lớn nhỏ tuỳ theo tầm cỡ (quy mô) của đơn vị để thực hiện việc xác định những khiếm khuyết, trong chứng chỉ rừng, còn gọi là lỗi không tuân thủ (LKTT) tiêu chuẩn.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0