Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất phương án quy hoạch sử dụng đất phát triển sản xuất nông lâm nghiệp tại xã Hợp Hòa, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình
lượt xem 3
download
Luận văn này nghiên cứu đánh giá hiệu quả của một số mô hình SDĐ chính làm căn cứ đề xuất phương án phát triển kinh tế hộ gia đình tại địa điểm nghiên cứu. Lựa chọn và đề xuất một số mô hình SDĐ phù hợp với đặc điểm tự nhiên cũng như KTXH trên địa bàn nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất phương án quy hoạch sử dụng đất phát triển sản xuất nông lâm nghiệp tại xã Hợp Hòa, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP -------------------------------- LÊ THỊ THANH MAI NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LÀM CĂN CỨ ĐỀ XUẤT PHƯƠNG ÁN QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP TẠI XÃ HỢP HÒA, HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI, 2010
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP -------------------------------- LÊ THỊ THANH MAI NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LÀM CĂN CỨ ĐỀ XUẤT PHƯƠNG ÁN QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG LÂM NGHIỆP TẠI XÃ HỢP HÒA, HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. Trần Hữu Viên HÀ NỘI, 2010
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Đất đai - nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, một trong các yếu tố cơ bản của một nền sản xuất xã hội - là tư liệu sản xuất đặc biệt, là địa bàn dân cư phát triển dân sinh kinh tế xã hội (KTXH), bao gồm không gian tự nhiên và không gian nhân văn. Các hoạt động sinh kế của con người có tác động trực tiếp và gián tiếp lên đất đai. Vì vậy, sử dụng hợp lý đất đai là yêu cầu cần thiết cho sự phát triển bền vững. Chỉ có quy hoạch sử dụng đất (QHSDĐ) hợp lý, đất đai mới có thể đáp ứng được yêu cầu đó. QHSDĐ là một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế của Nhà nước về tổ chức sử dụng đất đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả cao thông qua việc phân phối và tái phân phối quỹ đất, tổ chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất cùng với các tư liệu sản xuất khác gắn liền với đất và nâng cao hiệu quả sử dụng đất, hiệu quả sản xuất xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất và bảo vệ môi trường [20]. Vì vậy, việc tổ chức, quản lý sao cho phù hợp với từng địa bàn cụ thể, đảm bảo sử dụng đất đai, tài nguyên hợp lý, có hiệu quả và bền vững, an toàn sinh thái là nhiệm vụ của QHSDĐ. Muốn QHSDĐ hiệu quả, cần thực hiện từ những đơn vị hành chính nhỏ nhất như cấp xã bởi cấp xã là đơn vị quản lý hành chính nhỏ nhất trong hệ thống chính quyền, có vai trò quan trọng trong ổn định KTXH và an ninh quốc phòng. Tại các xã miền núi, sự đa dạng về văn hóa và trình độ sản xuất đã tạo nên không gian nhân văn vô cùng đa dạng; các hoạt động sinh kế của người dân địa phương có tác động không nhỏ vào không gian tự nhiên trên địa bàn họ sinh sống, nhất là thông qua hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp, các tác động này càng trở nên rõ nét. Mặc dù vậy, công tác QHSDĐ cấp xã hiện nay vẫn còn một số tồn tại về phương pháp tiếp cận, công tác điều tra cơ bản, cơ sở thực tiễn của đất đai.
- 2 Do vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ để xây dựng phương án QHSDĐ, PTSX nông lâm nghiệp cho một xã là nội dung có ý nghĩa thiết thực trong hoàn cảnh hiện nay. Hợp Hòa là xã thuộc khu vực II miền núi của huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, có phần đông là người dân tộc Mường sinh sống từ lâu đời, việc sử dụng đất đai của đại bộ phận nhân dân trong xã là nông lâm nghiệp theo phong tục tập quán canh tác thuần nông lâu đời, thực tiễn sử dụng đất nông lâm nghiệp còn manh mún và chưa đồng bộ. Bên cạnh đó, việc người dân chưa có nhận thức đầy đủ về pháp luật đất đai, sử dụng đất theo phong tục, sở thích và canh tác không đúng kỹ thuật đã ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả của SDĐ và môi trường. Vì thế, việc quy hoạch phân bổ lại quỹ đất trên địa bàn xã sao cho vừa đáp ứng được yêu cầu KTXH, nâng cao đời sống nhân dân và cân đối được nhu cầu sử dụng đất đai là hết sức cần thiết để đảm bảo môi trường sinh thái và các nguồn tài nguyên được sử dụng bền vững. Xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn trên, đề tài: "Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất phương án quy hoạch sử dụng đất, phát triển sản xuất nông lâm nghiệp tại xã Hợp Hòa, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình" được thực hiện. Trong khuôn khổ của một luận văn tốt nghiệp, đề tài chỉ giới hạn ở việc vận dụng cơ sở lý luận của QHSDĐ và nghiên cứu cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất phương án QHSDĐ, PTSX nông lâm nghiệp, PTSX kinh tế hộ gia đình phù hợp với điều kiện tự nhiên, KTXH tại xã Hợp Hòa, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
- 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Trên thế giới và Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu về QHSDĐ, PTSX nông lâm nghiệp. Mặc dù có các nghiên cứu ở các mức độ rộng hẹp khác nhau nhưng những nội dung chủ yếu được các nhà khoa học quan tâm chính là các yếu tố về phát triển bền vững (PTBV); các nghiên cứu này đều hướng đến mục đích chung là SDĐ và PTSX nông lâm nghiệp đáp ứng được các yêu cầu: Có hiệu quả về mặt kinh tế, lợi ích về xã hội, thích hợp về môi trường sinh thái. 1.1. Trên thế giới 1.1.1. Quy hoạch vùng lãnh thổ Quy hoạch vùng lãnh thổ là hệ thống các biện pháp xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý với cơ cấu đất đai và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, các công trình KTXH, văn hóa, nguồn lao động, tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển lực lượng sản xuất để phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới và xã hội mới. Quy hoạch vùng lãnh thổ là khoa học về quản lý tài nguyên mang cả 3 tính chất kinh tế, kỹ thuật và pháp lý; là cơ sở để lập dự án đầu tư phát triển kinh tế và xây dựng nông thôn mới [19]. Trên thế giới, đã có nhiều nước tiến hành quy hoạch vùng lãnh thổ với các cách thức khác nhau, tiêu biểu là các quốc gia Bungari, Pháp, Thái Lan. 1.1.1.1. Quy hoạch vùng ở Pháp Các hoạt động sản xuất trong quy hoạch vùng ở Pháp theo các hướng sau: Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình, công nghiệp với các mức thâm canh cao độ, thâm canh trung bình và cổ điển; hoạt động khai thác rừng; hoạt động đô thị, khai thác chế biến; nhân lực theo các dạng thuế thời vụ, các loại lao động nông - lâm nghiệp; cân đối xuất nhập, thu chi và các cân đối khác. Quy hoạch nhằm mục đích khai thác lãnh thổ theo hướng tăng thêm giá trị sản phẩm của xã hội.
- 4 1.1.1.2. Quy hoạch vùng ở Bungari Mục đích của quy hoạch vùng lãnh thổ ở quốc gia này là: Sử dụng hiệu quả nhất lãnh thổ của đất nước, lãnh thổ là môi trường thiên nhiên phải bảo vệ; lãnh thổ thiên nhiên không có vùng nông thôn, sự tác động của con người vào đây rất ít; lãnh thổ là môi trường thiên nhiên có mạng lưới nông thôn, ít có sự can thiệp của con người, thuận lợi cho kinh doanh về du lịch; lãnh thổ là môi trường nông nghiệp có mạng lưới nông thôn và có sự can thiệp của con người, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp; lãnh thổ là môi trường nông nghiệp không có mạng lưới nông thôn nhưng có sự tác động của con người; lãnh thổ là môi trường công nghiệp với sự can thiệp tích cực của con người. - Nội dung của quy hoạch vùng lãnh thổ Bungari là: Cụ thể hóa, chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp; phối hợp giữa sản xuất công nghiệp và sản xuất nông nghiệp theo ngành dọc; xây dựng các mạng lưới công trình phục vụ công cộng và sản xuất; tổ chức đúng đắn mạng lưới khu dân cư và phục vụ công cộng liên hợp trong phạm vi hệ thống nông thôn; bảo vệ môi trường thiên nhiên, tạo điều kiện tốt cho nhân dân lao động, sinh hoạt. 1.1.1.3. Quy hoạch vùng ở Thái Lan Công tác quy hoạch vùng lãnh thổ được chú ý từ những năm 1970. Hệ thống quy hoạch được tiến hành theo 3 cấp: Quốc gia, vùng, địa phương. Trong đó vùng (Region) được coi như là một á miền (Supdivision) của đất nước, đó là điều cần thiết để phân chia quốc gia thành các á miền theo các phương diện khác nhau như : Phân bố dân cư, địa hình, khí hậu… - Quy mô diện tích của vùng phụ thuộc vào diện tích của đất nước. - Quy hoạch phát triển vùng tiến hành ở cấp á miền được xây dựng theo 2 cách sau: Sự bổ sung của kế hoạch Nhà nước được giao cho vùng, những mục tiêu và hoạt động được xác định theo cơ sở vùng. Quy hoạch vùng được giải quyết căn cứ vào đặc điểm của vùng, các kế hoạch vùng được đóng góp vào xây dựng kế hoạch quốc gia.
- 5 1.1.2. Quy hoạch lâm nghiệp Sự phát triển của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đầu thế kỷ XVIII, phạm vi quy hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc “Khoanh khu chặt luân chuyển” chia đều cho từng năm theo trữ lượng hoặc diện tích phục vụ cho phương thức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai thác ngắn. Sau Cách mạng công nghiệp (thế kỷ IXX), "Phương thức kinh doanh rừng hạt" với chu kỳ khai thác dài và phương thức “Chia đều” của Hartig ra đời thay thế cho các phương pháp trước đó. Hartig đã chia đều chu kỳ khai thác thành nhiều thời kỳ lợi dụng, trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm. Đến năm 1816, xuất hiện "Phương thức luân kỳ lợi dụng" của H. Cotta, Cotta chia chu kỳ khai thác thành 20 thời kỳ lợi dụng và cũng lấy đó để khống chế lượng chặt hàng năm. Sau đó phương pháp “Bình quân thu hoạch” ra đời và đến cuối thế kỷ XIX, xuất hiện phương pháp “Lâm phần kinh tế” của Judeich. Phương pháp “Bình quân thu hoạch” và “Cấp tuổi” chịu ảnh hưởng của “Lý luận rừng tiêu chuẩn”, tức là rừng phải có kết cấu tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích, trữ lượng, vị trí và đưa các cấp tuổi cao vào diện tích khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh rừng này được dùng phổ biến ở các nước có tài nguyên rừng phong phú. Còn phương pháp “Lâm phần kinh tế” và phương pháp “Lâm phần” không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm phần để tiến hành phân tích, xác định sản lượng và biện pháp kinh doanh. Cũng từ phương pháp này, còn phát triển thành “Phương pháp kinh doanh lô” và “Phương pháp kiểm tra” [21]. 1.1.3. Quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp (QHNLN) 1.1.3.1. Lược sử QHNLN Ngay từ thế kỳ XVII, QHNLN đã được xác nhận như một chuyên ngành bắt đầu từ các quy hoạch vùng. Vào thời gian này, quy hoạch quản lý
- 6 rừng và lâm sinh ở Châu Âu được xem như một lĩnh vực phát triển ở mức cao trên cơ sở QHSDĐ (Olschowy, 1975). Đến thế kỳ XIX, với các khái niệm "lập địa hợp lý", "năng suất sử dụng" (Weber, 1921) đã mở đầu thời kỳ quy hoạch phát triển nông nghiệp trên cơ sở QHSDĐ theo địa lý với vùng sản xuất là nền tảng của quy hoạch vùng cho sản xuất lâm nông nghiệp. Tại châu Âu, vào thập kỷ 30 và 40 của thế kỷ XX, quy hoạch ngành giữ vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm 1946 Jacks G.V đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất đai với tên “Phân loại đất đai cho QHSDĐ”. Đây cũng là tài liệu đầu tiên đề cập đến đánh giá khả năng của đất cho QHSDĐ [8] Năm 1966, Hội đất học và Hội nông học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng trong QHSDĐ. Ngoài ra còn một số chuyên khảo khác cũng ra đời đề cập đến “môi trường con người” trong đánh giá khả năng thích hợp của đất cho quy hoạch nông nghiệp và lâm nghiệp [8]. Tại Đức, tài liệu “khái niệm về SDĐ khác nhau” đã được xuất bản bởi Haber (1972) được coi là lý thuyết sinh thái về QHSDĐ dựa trên quan điểm về mối quan hệ hợp lý giữa tính đa dạng của hệ sinh thái cũng như sự ổn định của chúng với năng suất và khả năng điều chỉnh. Từ năm 1967 Hội đồng nông nghiệp Châu Âu đã phối hợp với tổ chức FAO tổ chức nhiều hội nghị về Phát triển nông thôn và QHSDĐ. Các hội nghị đều khẳng định rằng quy hoạch các ngành sản xuất như nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến nhỏ… phải dựa trên cơ sở quy hoạch đất đai. Năm 1969, 1975 các chuyên gia tư vấn họp tại Rome (Italia) và Geneve (Thụy Sỹ) để thảo luận về phương pháp luận quy hoạch nông thôn [8].
- 7 1.1.3.2. Các nghiên cứu về phương pháp QHNLN cấp địa phương Phương pháp QHNLN cấp địa phương có thể được khái quát bằng 2 cách tiếp cận chủ yếu: Tiếp cận từ trên xuống (Top –down Approach) và tiếp cận từ dưới lên (Botton-up Approach). Cách tiếp cận thứ nhất được hình thành từ khi có quy hoạch ra đời cho đến nay. Cách tiếp cận thứ hai được hình thành khi các nhà xã hội học chứng minh rằng cộng đồng nông thôn có vai trò không thể thiếu trong lập kế hoạch và quản lý tài nguyên của cộng đồng. Từ đây, thuật ngữ “Quy hoạch dựa vào cộng đồng” (community-based planning) bắt đầu xuất hiện [8]. Gilmour (1997) đã phân biệt hai loại tiếp cận, đó là tiếp cận kinh điển (classical approach) và tiếp cận lấy người dân làm trung tâm (people’s centered approach) Những nghiên cứu của ông về quy hoạch và quản lý rừng cộng đồng ở Nepal chứng tỏ những ưu thế về tiếp cận mới trong xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển cộng đồng [8]. Từ cuối những năm 1970, các phương pháp điều tra đánh giá cùng tham gia được nghiên cứu rộng rãi như: Đánh giá nhanh nông thôn (RRA), phương pháp quá trình sáng tạo, phân tích HTCT cho QHSDĐ vi mô. vào những năm 1980 và đầu những năm 1990 của thế kỷ XX, những thử nghiệm các phương pháp RRA trong phát triển nông thôn và lập kế hoạch SDĐ được thực hiện trên 30 nước phát triển cho thấy ưu thế của các phương pháp này trong lập kế hoạch lâm nông nghiệp cấp thôn bản [9]. Luning (1990) lần đầu tiên nghiên cứu kết hợp đánh giá đất đai với phân tích HTCT cho QHSDĐ. Năm 1994, FAO đã công bố quy trình kết hợp đánh giá đất đai với phân tích HTCT cho QHSDĐ (LEFA), hạn chế là đòi hỏi hệ thống thông tin phân tích lớn, khó áp dụng cho quy hoạch địa phương. Theo Erwin (1999), phân tích HTCT là công cụ cho phân tích các trở ngại trong hệ thống nông trại hộ gia đình để xác định mục tiêu quy hoạch, xác định các kiểu SDĐ hiện tại và phương pháp SDĐ mới, đánh giá phương án SDĐ khác nhau nhằm mục đích lựa chọn phương án một cách tốt nhất [8].
- 8 1.1.3.3. Các nghiên cứu xây dựng quy trình QHSDĐ FAO (1976) đã đề xuất cấu trúc khung QHSDĐ với 10 điểm chính. Trong đó phân loại đánh giá và đề xuất các kiểu và dạng SDĐ được xét như là các bước chính trong quá trình quy hoạch. Năm 1980, Buchwald đề xuất quá trình quy hoạch 8 bước, trong đó có những nghiên cứu đánh giá về sinh thái và KTXH được đề cập tách biệt ở các bước khác nhau. Điểm hạn chế này tạo nên sự thiếu tính liên ngành trong quy hoạch. Maydell (1984) cho rằng 4 điểm chính trong quá trình QHNLN các nước nhiệt đới là: Phân tích xu hướng nghĩa là phân tích hiện trạng và phát triển; xác định mục tiêu và nhiệm vụ; phân tích phương pháp; tiến hành đánh giá [8]. Năm 1985, một nhóm chuyên gia tư vấn quốc tế được FAO thành lập nhằm xây dựng một quy trình QHSDĐ. Wikingson (1985) nghiên cứu QHSDĐ theo khía cạnh luật pháp, ông đề nghị một hệ thống luật pháp thích hợp cần được phát triển nhằm mục đích: Cung cấp chính sách và mục tiêu rõ ràng của Nhà nước về đất đai, thiết lập các tổ chức SDĐ phù hợp, yêu cầu sử dụng theo quy trình kế hoạch và kỹ thuật, tăng cường sự thông hiểu về SDĐ và khuyến khích xây dựng cơ chế giám sát và cưỡng chế’’ [8]. Theo Purnell (1988), mục tiêu của QHSDĐ là thiết lập các kế hoạch thực tiễn có khả năng sử dụng tốt nhất các loại đất đai nhằm tăng sản xuất quốc gia, cải thiện đời sống, bảo vệ môi trường, đạt các lợi ích xã hội và giải trí. 4 câu hỏi nền tảng của quy hoạch đất đai: Các vấn đề nào đang tồn tại và mục tiêu quy hoạch là gì? Có các phương án SDĐ nào? Phương án nào tốt nhất? Có thể vận dụng vào thực tế như thế nào? Xem xét đến các khía cạnh riêng, có thể dẫn ra một số quy trình quy hoạch được nhiều chương trình, dự án áp dụng, theo Zimmermann (1989) tổ chức GTZ của Đức đưa ra và thử nghiệm quy trình quy hoạch tại nhiều nước, trong đó có dự án Lâm nghiệp xã hội Sông Đà của Việt Nam. Quy trình này
- 9 dựa trên quá trình phân tích tình hình, chuẩn đoán hiện trạng và phân tích mục tiêu (ZOPP) được sử dụng. Năm 1987, Spitzer đề xuất các bước QHSDĐ đa mục tiêu, trong đó nhấn mạnh xác định mục tiêu và chọn phương pháp lập kế hoạch như sau: Chuẩn đoán trong thu thập thông tin và dự đoán cơ hội, tư vấn trong đánh giá, lập kế hoạch và điều phối, thực hiện trong điều phối và giám sát [8]. 1.1.3.4. Lược sử hình thành và phát triển các HTCT nông lâm nghiệp trên thế giới Trên thế giới, hoạt động canh tác nông nghiệp đã được hình thành từ lâu trong lịch sử. Từ hoạt động canh tác này mà các HTCT nông nghiệp dần được hình thành. Hệ thống nông nghiệp là sự biểu hiện không gian của sự phối hợp các ngành sản xuất và kỹ thuật do một xã hội thực hiện để thỏa mãn các nhu cầu. Nó biểu hiện một sự tác động qua lại giữa một hệ thống sinh học - sinh thái và môi trường tự nhiên là đại diện và một hệ thống xã hội - văn hóa, qua các hoạt động xuất phát từ những thành quả kỹ thuật (Vissac, 1979) [14]. Hệ thống trồng trọt là hoạt động sản xuất cây trồng trong một nông hộ. Hệ thống cây trồng là tổ hợp cây trồng bố trí theo không gian và thời gian với các biện pháp kỹ thuật được thực hiện [14]. HTCT là một phức hợp của đất đai, cây trồng, vật nuôi, lao động và các nguồn lợi đặc trưng khác trong một ngoại cảnh mà nông hộ quản lý theo sở thích, khả năng và kỹ thuật có thể có trong một phạm vi nhất định để tạo ra sản phẩm nông nghiệp thỏa mãn nhu cầu ăn, mặc của con người [4]. Du canh là HTCT đầu tiên trên thế giới. Đây là kiểu SDĐ nông nghiệp trong đó đất được phát quang để canh tác trong thời gian ngắn hơn thời gian bỏ hóa (Conklin, 1957). Cho đến nay, phương thức này vẫn được sử dụng phổ biến ở các vùng nhiệt đới. Tuy nhiên về chiến lược PTBV, du canh không
- 10 được nhiều Chính phủ và cơ quan quốc tế coi trọng bởi vì du canh được coi là phí phạm về sức người và tài nguyên đất đai, là nguyên nhân gây mất rừng, là nguyên nhân chính gây nên tình trạng xói mòn và thoái hóa đất xảy ra nghiêm trọng (Grinnell, 1977) [14]. Trên cơ sở giải quyết những nhược điểm của phương thức du canh đã có một số mô hình, HTCT mới ra đời. Trong các PTCT nông nghiệp, canh tác nông lâm kết hợp (NLKH) là một PTCT lâu đời trên thế giới. Theo King (1987), thời trung cổ ở châu Âu đã tồn tại một tập quán phổ biến là chặt và đốt rồi sau đó tiếp tục trồng cây thân gỗ cùng với cây nông nghiệp. HTCT này vẫn tồn tại ở Phần Lan cho đến cuối thế kỷ XIX và vẫn còn ở một số vùng của Đức cho đến tận những năm 1920 [23]. Trong khi đó nhiều PTCT truyền thống ở châu Á, châu Phi và khu vực nhiệt đới châu Mỹ đã có sự phối hợp cây thân gỗ với cây nông nghiệp để nhằm mục đích chủ yếu là hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp và tạo ra các sản phẩm phụ khác như gỗ, củi, đồ gia dụng… Taungya được coi là một PTCT NLKH có thể chấp nhận được cả về mặt hiệu quả kinh tế và môi trường sinh thái bằng sự kết hợp đồng thời cả hai loại cây nông nghiệp và cây công nghiệp. Vào cuối thế kỷ XIX, hệ thống Taungya bắt đầu phát triển rộng rãi ở Myanmar dưới sự bảo hộ của thực dân Anh. Trong các đồn điền trồng gỗ tếch (Techtona grandis) người lao động được phép trồng cây lương thực giữa các hàng cây chưa khép tán để giải quyết nhu cầu lương thực hàng năm. Sau đó phương thức này được áp dụng rộng rãi ở Ấn Độ và Nam Phi [22]. Blandford (1988) đã mô tả Taungya dường như là một PTCT cũ được áp dụng mà ở đó điều kiện hoàn cảnh rừng được tái tạo trên những trang trại của người nông dân và theo đó người ta thu được những hiệu quả có ích từ cấu trúc rừng. Chính vì vậy các hệ thống Taungya cần phải được xem như là
- 11 một hệ thống quản lý SDĐ có ý nghĩa cho phát triển nông nghiệp (Nair, 1995) [23]. Tuy nhiên, dưới sức ép ngày càng lớn của việc gia tăng dân số thì Taungya tỏ ra không thích hợp. Vấn đề đặt ra là phải có những phương thức mới, những mô hình SDĐ mới có hiệu quả và bền vững hơn. Một trong những nghiên cứu thành công là việc tìm ra HTCT trên đất dốc (Slopping Agricultural Land Technology - SALT) đã được Trung tâm phát triển Nông thôn Bapsip Midanao Philippines tổng kết và phát triển từ những năm 1970. Trải qua thời gian dài nghiên cứu và hoàn thiện, đến năm 1992 các nhà khoa học đã cho ra đời 4 mô hình tổng hợp về kỹ thuật canh tác trên đất dốc và đã được các tổ chức quốc tế, nhiều quốc gia ghi nhận và áp dụng là SALT 1, SALT 2, SALT 3, SALT 4. - SALT 1 (Sloping Agricultural Land Technology) là mô hình tổng hợp canh tác trên đất dốc với thành phần 25% cây lâm nghiệp, 25% cây nông nghiệp và 50% cây hàng năm. - SALT 2 (Simple Agro - livestock Land Technology) là mô hình kỹ thuật canh tác nông súc đơn giản với 40% nông nghiệp, 20 % lâm nghiệp, 20% chăn nuôi, 20% làm nhà ở và chuồng trại. - SALT 3 (Sustainable Agro - forest Land Technology) là mô hình canh tác nông lâm nghiệp bền vững với 60% cây lâm nghiệp, 40% cây nông nghiệp. Mô hình này đòi hỏi đầu tư cao cả về nguồn lực và vốn liếng cũng như sự hiểu biết. - SALT 4 (Small Agro - fruit likelihood Technology) là mô hình kỹ thuật canh tác sản xuất nông lâm nghiệp kết hợp cây ăn quả trên quy mô nhỏ với thành phần 60% cây lâm nghiệp, 15% cây nông nghiệp, 25% cây ăn quả. Đây là mô hình đòi hỏi phải đầu tư cao nguồn lực, vốn cũng như kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm [22].
- 12 Ở Thái Lan trong hơn hai thập kỷ qua đã thực hiện dự án phát triển làng lâm nghiệp (forest village) ở vùng Đông Bắc với mục tiêu là: Giải quyết ổn định vấn đề KTXH đối với người du canh thông qua việc SDĐ, sản xuất lương thực, chất đốt và các nhu cầu khác. Thực hiện kế hoạch định cư tự nguyện trên cơ sở xây dựng các cơ sở hạ tầng, dịch vụ và xã hội, giúp đỡ người dân PTSX. Ở Inđônêxia, từ năm 1972 việc lựa chọn đất trồng cây lâm nghiệp đều do công ty lâm nghiệp của nhà nước tổ chức, nông dân được cán bộ của công ty hướng dẫn trồng cây nông nghiệp, lâm nghiệp. Sau khi trồng cây nông nghiệp 2 năm người dân bàn giao lại rừng cho công ty, sản phẩm nông nghiệp họ toàn quyền sử dụng. Tóm lại, các công trình nghiên cứu về QHSDĐ trên thế giới đã có nhiều thử nghiệm và đề xuất nhằm đưa ra phương pháp QHSDĐ hiệu quả. Các nghiên cứu và quy trình QHNLN trên thế giới đã là cơ sở cho việc nghiên cứu và áp dụng trong điều kiện của Việt Nam. Trong đó phương pháp nổi bật là phương pháp PRA trong quá trình QHSDĐ cấp vi mô; QHSDĐ chính là nền tảng cho QHNLN cấp xã trên cơ sở giải quyết hài hòa những ưu tiên của cấp trên với nhu cầu của cộng đồng phù hợp với cơ sở pháp lý của Việt Nam. Từ đây chúng ta cũng có thể coi những tài liệu nghiên cứu đó là các cơ sở lý luận và thực tiễn để vận dụng trong công tác quy hoạch, SDĐ hợp lý ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu này chưa xây dựng một lý thuyết hoàn chỉnh về QHNLN cấp địa phương, đặc biệt là QHNLN cấp xã. 1.2. Ở Việt Nam 1.2.1. Một số nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn của QHSDĐ Ở Việt Nam, các vấn đề về nghiên cứu đất đai, QHSDĐ đã được bắt đầu từ năm 1930, sau đó được hoàn thiện dần theo thời gian.
- 13 Trong giai đoạn 1955 - 1975, công tác điều tra, phân loại đất đã được tổng hợp một cách có hệ thống trên toàn miền Bắc. Nhưng đến sau năm 1975, các số liệu nghiên cứu về phân loại đất mới được thống nhất cơ bản. Xung quanh chủ đề phân loại đất đã có nhiều công trình khác nhau triển khai thực hiện trên các vùng sinh thái (Ngô Nhật Tiến, 1986, Đỗ Đình Sâm, 1994…). Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu cơ bản, thiếu những để xuất cần thiết cho việc SDĐ. Công tác điều tra phân loại đã không gắn liền với công tác SDĐ. Nhiều tác giả như Phạm Văn Chiểu (1964), Lê Trọng Cúc (1971), Bùi Huy Đáp (1977), Vũ Tuyên Hoàng (1987), Nguyễn Ngọc Bình (1987), Bùi Quang Toản (1991) đã đề cập tới vấn đề luân canh tăng vụ trồng xen, trồng gối vụ để sử dụng hợp lý đất đai. Theo các tác giả trên thì việc lựa chọn hệ thống cây trồng trên đất dốc là rất thiết thực với vùng đồi núi Việt Nam. Trong giai đoạn trước năm 1993, QHSDĐ được thực hiện bởi tổ chuyên môn trong từng ngành. Căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế của nhà nước, nhiệm vụ phát triển kinh tế của từng địa phương mà có các quy hoạch tầm vĩ mô. TS. Lê Sỹ Việt và TS. Trần Hữu Viên (1999) đã đề cập đến việc quy hoạch lâm nghiệp cho các đơn vị thuộc cấp quản lý lãnh thổ và cấp quản lý sản xuất kinh doanh [21]. TS. Hà Quang Khải, Đặng Văn Phụ (1997) đã đưa ra khái niệm về hệ thống SDĐ và đề xuất một số hệ thống và kỹ thuật SDĐ bền vững trong điều kiện Việt Nam; đi sâu phân tích các vấn đề về hệ thống SDĐ bền vững, kỹ thuật SDĐ bền vững, chỉ tiêu đánh giá tính bền vững trong các hệ thống, kỹ thuật SDĐ. Chương trình tập huấn dự án hỗ trợ đào tạo lâm nghiệp xã hội của trường ĐH Lâm nghiệp theo phương pháp PRA đã phối hợp các chuyên gia trong và ngoài nước biên soạn tập tài liệu với những vấn đề chính: Các khái
- 14 niệm và phương pháp tiếp cận trong quá trình thao gia; các phương pháp, công cụ PRA; tổ chức quá trình đánh giá nông thôn; thực hành tổng hợp [9]. Chương trình hợp tác lâm nghiệp giữa Việt Nam và Thụy Điển (1991 - 1995) ở 5 tỉnh Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Vĩnh Phú, Hà Giang (chương trình FCP) với 5 dự án trang trại lâm nghiệp xã hội cấp trang trại tỉnh được thành lập trực thuộc Sở nông lâm nghiệp tỉnh (AFD) và một số dự án hỗ trợ khác như phổ cập, quản lý SDĐ, phát triển kinh doanh và nghiên cứu. Chương trình này được coi là một cách tiếp cận có sử dụng phương pháp PRA hiệu quả. Phương pháp luận về phổ cập của chương tình FCP chính là "đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân và quản lý SDĐ" (PRALUM) [8]. TS. Trần Hữu Viên (1997) trong tài liệu tập huấn về QHSDĐ đã kết hợp phương pháp QHSDĐ trong nước và một số dự án quốc tế đang áp dụng tại một số vùng có dự án tại Việt Nam. Tác giả đã trình bày về khái niệm và những nguyên tắc chỉ đạo QHSDĐ và giao đất có người dân tham gia. Đỗ Đình Sâm, Ngô Đình Quế, Vũ Tấn Phương (2005) đã xây dựng hệ thống đánh giá đất lâm nghiệp Việt Nam, nghiên cứu và áp dụng đánh giá đất lâm nghiệp ở Việt Nam với việc đánh giá tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp của vùng đồi núi, vùng ven biển, vùng ngập mặn và vùng chua phèn của đồng bằng sông Cửu Long, tổng hợp đánh giá tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp; đánh giá và phân chia lập địa trong lâm nghiệp cho các cấp vĩ mô, trung gian, vi mô. Cũng trong công trình nghiên cứu này, các tác giả đã xây dựng tiêu chí và chỉ tiêu đánh giá đất lâm nghiệp cấp xã phục vụ cho công tác trồng rừng [12] PGS.TS Trần Hữu Viên (2005) đã tổng kết những nội dung cơ bản: Cơ sở lý luận của QHSDĐ gồm các khái niệm về đất đai và vai trò của nó đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người; nghiên cứu khái niệm về
- 15 QHSDĐ, bản chất và quy luật phát triển của QHSDĐ. QHSDĐ cấp vĩ mô nêu rõ vị trí, vai trò và căn cứ để lập QHSDĐ cấp vĩ mô, chi tiết những nội dung và trình tự xây dựng QHSDĐ cấp vĩ mô. QHSDĐ cấp vi mô gồm nội dung QHSDĐ cấp xã, phương pháp thực hiện các nội dung công việc trong QHSDĐ, QHSDĐ cấp vi mô theo phương pháp PRA [20]. TS. Đoàn Công Quỳ (2006) đã xây dựng cơ sở khoa học của công tác QHSDĐ đất bao gồm những vấn đề chung về QHSDĐ, trình bày công tác điều tra cơ bản phục vụ QHSDĐ, vấn đề QHSDĐ đất cấp xã và đã đưa ra 3 bài tập về tổng hợp kết quả điều tra cơ bản, xây dựng bản đồ hiện trạng SDĐ và bản đồ QHSDĐ, dự báo nhu cầu SDĐ phục vụ QHSDĐ cấp xã [11]. TS. Nguyễn Đình Hợi (2006) đã khái quát hóa vai trò của đất đai đối với sự phát triển của KTXH, trình bày và phân tích chế độ quản lý nhà nước về đất đai ở nước ta, trình bày nội dung quản lý nhà nước một số loại đất, nêu cơ sở lý luận chung về quy hoạch đất đai và nêu nội dung của QHSDĐ [6]. Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu của các tác giả trên cũng chính là những cơ sở lý luận và các phương pháp thực tiễn đã được chúng tôi kế thừa có chọn lọc và áp dụng trong đề tài này. 1.2.2. Các công trình nghiên cứu và quan điểm về QHNLN cấp xã 1.2.2.1. Quan điểm Vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, các vấn đề QHNLN cấp xã được nhiều tác giả đề cập và nghiên cứu. Năm 1990, Tổng cục quản lý ruộng đất có ban hành bản hướng dẫn QHSDĐ vi mô theo thông tư số 106/ĐKTĐ. Nhiều tỉnh thực hiên quy hoach vi mô theo hướng dẫn này. Tuy nhiên khi triển khai đã gặp những khó khăn do phương pháp chưa thống nhất. Mặc dù vậy, quy hoạch vi mô cũng đã là tiền đề để thay đổi quan điểm về quy hoạch cấp xã trong những năm tiếp theo [8].
- 16 Các nghiên cứu của Reichenberg (1992) và các nghiên cứu trong nước đều cho rằng Việt Nam chưa có QHSDĐ, quy hoạch nông nghiệp và lâm nghiệp cấp vi mô được xây dựng trên cơ sở xem xét mọi khía cạnh của tất cả các ngành trong tương lai. Do vậy việc tiến hành QHNLN còn thiếu cơ sở để thực hiện. Reichenberg (1992) khi khảo sát 5 tỉnh Trung tâm miền núi phía Bắc Việt Nam đã cho rằng quy hoạch vi mô ở Việt Nam được nghiên cứu để phát triển khái niệm quy hoạch cấp xã trên 4 khía cạnh: - Phủ toàn bộ đất đai trong xã, nghĩa là QHNLN dựa trên QHSDĐ trên toàn bộ diện tích hành chính xã. - Phối hợp các kế hoạch và các hoạt động giữa các cơ quan Nhà nước, nghĩa là khi quy hoạch phải đề cập đến quy hoạch của các ngành do cơ quan quản lý nhà nước quản lý. - QHSDĐ phục vụ cho giao đất và cấp giấy chứng nhận để SDĐ tốt hơn, tạo điều kiện cho cộng đồng tiến hành quy hoạch PTSX nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, cơ sở hạ tầng. - Chuẩn bị và phê duyệt quy hoạch đất theo đúng luật định [8] . Nguyễn Bá Ngãi (2001) cho rằng quan điểm QHNLN cấp địa phương nên theo các hướng sau: - Tiến hành nghiên cứu và thực thi khả năng kết hợp QHNLN dựa vào chức năng SDĐ với đánh giá tiềm năng đất đai. - Rà soát và xem xét lại hệ thống chính sách nhằm hướng tới đa mục đích SDĐ bằng việc đa dạng hóa các hoạt động sản xuất trong mỗi bản quy hoạch của cộng đồng. - Gắn hai quá trình quy hoạch đất đai với giao đất và coi là hai bộ phân có quan hệ chặt chẽ để làm cơ sở cho quy hoạch sản xuất nông lâm nghiệp ở mỗi địa phương, mỗi cộng đồng.
- 17 - Nghiên cứu và thử nghiệm các phương pháp cùng tham gia trong quá trình quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp, xác định và phân tích rõ các chủ thể trong QHNLN cấp xã. Vũ Văn Mễ và Desloges (1996) đã đưa ra một khái niệm mới là sự tham gia của người dân. Các tác giả cho rằng điểm quan trọng là phải thu hút được người dân tham gia vào tất cả các giai đoạn trong quá trình QHSDĐ và giao đất lâm nghiệp ngay từ khi bắt đầu tùy phạm vi và mức độ theo nội dung hoạt động và giai đoạn tiến hành. 1.2.2.2. Các nghiên cứu và thử nghiệm Theo Nguyễn Văn Tuấn (1996) QHSDĐ được coi là nội dung chính và được thực hiện trước khi giao đất trên cơ sở tôn trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy xã làm đơn vị để lập kế hoạch và giao đất, có sự tham gia tích cực của người dân. Năm 1993, nghiên cứu và thí điểm đầu tiên về QHSDĐ cấp xã được thực hiện ở xã Tử Nê, huyện Tân Lạc và xã Hang Kia, Pà Cò huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình do Dự án đổi mới chiến lược phát triển lâm nghiệp thực hiện. Bản đánh giá về QHSDĐ xã Tử Nê cho thấy cần phải có một kết hoạch SDĐ chi tiết thì mới đáp ứng được yêu cầu, tránh được những mâu thuẫn trọng cộng đồng phát sinh sau quy hoạch. Chương trình Phát triển nông thôn miền núi Việt Nam - Thụy Điển giai đoạn 1996 - 2001 trên phạm vi 5 tỉnh Lào Cai, Bắc Giang, Hà Giang, Tuyên Quang và Phú Thọ đã tiến hành thử nghiệm công tác quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp cấp xã trên cơ sở kế hoạch phát triển cấp thôn bản và hộ gia đình. Năm 1998, tỉnh Lào Cai đã xây dựng mô hình sử dụng PRA để tiến hành QHSDĐ, tỉnh Hà Giang đã xây dựng quy hoạch và lập kế hoạch SDĐ 3 cấp: xã, thôn và hộ gia đình. Trong năm này trên vùng dự án đã có 78 thôn,
- 18 bản được QHSDĐ và đã căn cứ vào nhu cầu và nguyện vọng của người SDĐ với cách tiếp cận từ dưới lên tạo ra kế hoạch có tính khả thi cao. Tuy nhiên chưa tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa chủ trương của Nhà nước với nhu cầu, nguyện vọng của cộng đồng trong phương án quy hoạch được xây dựng. Vào những năm 1996, 1997, trong quá trình triển khai dự án quản lý nguồn nước hồ Yên Lập có sự tham gia của người dân tại Hoành Bồ, Quảng Ninh, Nguyễn Bá Ngãi đã thử nghiệm phương pháp PRA để quy hoạch lâm nông nghiệp cho 3 xã: Bằng Cả, Quảng La và Dân Chủ để xây dựng dự án cấp xã thôn. Sau 3 năm thực hiện cho thấy, bản quy hoạch tương đối phù hợp với tình hình hiện tại. Đây là cơ sở vững chắc cho lập kế hoạch tác nghiệp hàng năm, Một trong những hạn chế của dự án là do nghiên cứu về đất đai chưa đầy đủ trong phân tích HTCT dẫn đến việc lựa chọn cây trồng chưa thực sự phù hợp. Vũ Văn Mễ và Desloges (1996) đã thử nghiệm phương pháp QHSDĐ có người dân tham gia tại Quảng Ninh đồng thời đề xuất 6 nguyên tắc và các bước cơ bản trong QHSDĐ cấp xã là: Kết hợp hài hòa giữa ưu tiên của Chính phủ và nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân địa phương; tiến hành trong khuôn khổ luật định hiện hành và các nguồn lực hiện có của địa phương; đảm bảo tính công bằng, chú ý đến cộng đồng các dân tộc miền núi, nhóm người nghèo và vai trò của phụ nữ; đảm bảo PTBV; đảm bảo nguyên tắc cung tham gia; kết hợp hướng tới mục tiêu phát triển cộng đồng. Khi thử nghiệm phương pháp này cho các tỉnh Thừa Thiên Huế, Gia Lai và Sa Đéc đã cho thấy rằng quy hoạch cấp xã phải dựa trên tình trạng SDĐ hiện tại, tiềm năng sản xuất của đất, các quy định của Nhà nước và nhu cầu, nghĩa vụ của nhân dân. Năm 1996, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn từ nhiều địa phương khác nhau, Cục Kiểm lâm đã cho ra tài liệu hướng dẫn “Nội dung trình tự tiến hành giao đất lâm nghiệp trên địa bàn xã”. Dự án lâm nghiệp xã
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 491 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 370 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 412 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 542 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 299 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 342 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 311 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 319 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 263 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 235 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 246 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 214 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 191 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn