intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu đề xuất các giải pháp quy hoạch, quản lý rừng bền vững tại ban quản lý rừng phòng hộ Thạch Thành – tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2013 - 2020

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:110

18
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung chính của đề tài là nghiên cứu về những đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội, nhân văn và ảnh hưởng của nó đến quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững trên địa bàn. Nghiên cứu hiện trạng sử dụng tài nguyên rừng trên địa bàn, thực trạng tổ chức quản lý bảo vệ vốn rừng qua đó đi sâu vào tìm hiểu thực trạng quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu đề xuất các giải pháp quy hoạch, quản lý rừng bền vững tại ban quản lý rừng phòng hộ Thạch Thành – tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2013 - 2020

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP TRƯƠNG ĐỖ SƠN NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP QUY HOẠCH, QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG TẠI BAN QUẢN LÝ RỪNG PHÒNG HỘ THẠCH THÀNH – TỈNH THANH HÓA GIAI ĐOẠN 2013 - 2020 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội, 2012
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP TRƯƠNG ĐỖ SƠN NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP QUY HOẠCH, QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG TẠI BAN QUẢN LÝ RỪNG PHÒNG HỘ THẠCH THÀNH – TỈNH THANH HÓA GIAI ĐOẠN 2013 - 2020 Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.02.01 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN HỮU VIÊN Hà Nội, 2012
  3. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của nhân loại, là một mắt xích quan trọng trong hệ sinh thái toàn cầu, là yếu tố đảm bảo sự ổn định của các quá trình sinh thái cơ bản trên trái đất cũng như trong một phạm vi địa phương nào đó. Ngoài chức năng cung cấp gỗ và lâm sản thì nó còn có nhiều chức năng sinh thái quan trọng không thể thay thế được, nó được ví như lá phổi xanh của quả đất, điều hoà khí hậu toàn cầu, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất chống xói mòn rửa trôi, ngăn chặn sa mạc hoá...Do đó, mất rừng sẽ gây ra những hậu quả rất nặng nề về kinh tế - xã hội, môi trường. Thiên tai, lũ lụt, hạn hán thường xuyên xảy ra với mức độ ngày càng nghiêm trọng, đất đai bị xói mòn rửa trôi, thoái hoá dẫn đến mất diện tích đất canh tác, năng suất cây trồng ngày càng giảm, nguồn nước phục vụ cho nông nghiệp, công nghiệp và đời sống của con người không đảm bảo. Theo thống kê của tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO), trong mấy chục năm gần đây trên thế giới đã có trên 200 triệu ha rừng tự nhiên bị mất, trong khi đó phần lớn diện tích rừng hiện còn đã bị thoái hoá nghiêm trọng cả về mặt đa dạng sinh học và những chức năng sinh thái. Mặc dầu đã có nhiều biện pháp bảo vệ rừng nhưng hiện nay sự mất rừng và suy thoái rừng, nhất là rừng nhiệt đới mỗi năm vẫn còn rất cao. Giai đoạn 1980 -1990 mỗi năm thế giới có 15.5 triệu ha rừng bị mất đi, còn giai đoạn 1990- 1995 mỗi năm mất 13.7 triệu ha. Như vậy chỉ trong 16 năm (1980 - 1995) cả thế giới có khoảng 237 triệu ha rừng tự nhiên bị mất. Đặc biệt khu vực Đông Nam Á có tỷ lệ mất rừng cao nhất là 1.6%/năm, trong khi ở Bắc Mỹ là 0.1% (tỷ lệ chung của thế giới là 0.8%), tính đến năm 1995 diện tích rừng của toàn thế giới kể cả rừng tự nhiên và rừng trồng chỉ còn 3.454 triệu ha, tỷ lệ che phủ khoảng 35% .
  4. 2 Rừng ở Việt Nam nói riêng cũng như trên thế giới nói chung đang giảm nhanh về số lượng và chất lượng, nguyên nhân chủ yếu là do công tác quản lý sử dụng tài nguyên rừng từ trước đến nay của nước ta còn mang tính truyền thống, trình độ khoa học kỹ thuật còn lạc hậu, chậm đổi mới. Con người sử dụng, quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng chưa thực sự hợp lý dẫn đến những hậu quả xấu về kinh tế, xã hội, tính đa dạng sinh học cũng như môi trường sinh thái. Do đó, việc quy hoạch quản lý và bảo vệ cũng như sử dụng tài nguyên rừng một cách hợp lý bền vững vừa để phát huy hết vị trí, vai trò và chức năng của rừng là hết sức quan trọng. Một trong những nội dung quan trọng hiện nay được cộng đồng quốc tế cũng như mọi quốc gia cùng quan tâm là thiết lập một hệ thống các chỉ tiêu về QLRBV nhằm phát huy tác dụng nhiều mặt của rừng đối với con người và xã hội một cách lâu dài và liên tục. Hơn 10 năm trở lại đây, ngành lâm nghiệp nước ta đã có định hướng trong việc sử dụng tổng hợp tài nguyên rừng, quản lý rừng bền vững và khai thác hợp lý tài nguyên rừng bằng các giải pháp về chính sách, tổ chức quản lý, xã hội hóa nghề rừng…. song các tiêu chí QLRBV chủ yếu mới chỉ dừng lại ở mức độ định tính chưa có nghiên cứu sâu và đánh giá chính xác. Ban quản lý rừng phòng hộ Thạch Thành đóng trên địa bàn huyện Thạch Thành thuộc huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa tiền thân là Lâm trường Thạch Thành đã được thành lập và hoạt động hơn 40 năm. Thực hiện Nghị định 200/2004/NĐ-CP của Chính phủ về việc sắp xếp, đổi mới và phát triển Lâm trường quốc doanh, ngày 7/11/2006 Lâm trường đã chuyển đổi thành BQL rừng phòng hộ. Chức năng, nhiệm vụ và tài nguyên rừng của BQL cũng đã thay đổi do đó hoạt động quản lý rừng, sản xuất kinh doanh của BQL cũng có nhiều thay đổi để làm sao quản lý và sử dụng tài nguyên rừng một cách hiệu quả nhất. Để được như vậy thì công tác quán lý rừng, trồng rừng, khoanh
  5. 3 nuôi, bảo vệ, giao khoán và khai thác phải có những phương án, kế hoạch phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị. Xuất phát từ yêu cầu trên, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn trong sản xuất lâm nghiệp để đề xuất các giải pháp QLRBV cho BQL rừng phòng hộ Thạch Thành tỉnh Thanh Hóa là cấp thiết. Để góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng theo quan điểm bền vững, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn sản xuất kinh doanh, tác giả thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp quy hoạch, quản lý rừng bền vững tại Ban quản lý rừng Phòng hộ Thạch Thành - tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2013 - 2020".
  6. 4 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1 Khái niệm về quản lý rừng bền vững và nguyên lý của quản lý rừng bền vững Trong nhiều thập kỷ qua, vấn đề sử dụng đất đai tài nguyên rừng bền vững đã được các nhà khoa học trên thế giới và trong nước có sự quan tâm đặc biệt. Nghiên cứu về hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường của vấn đề sử dụng đất đai tài nguyên rừng của mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào cách nhìn nhận và trình độ quản lý, trình độ tiếp thu khoa học kỹ thuật. Quan điểm sử dụng đất đai tài nguyên rừng bền vững đã được nhiều đề tài ở các quốc gia khác nhau đề cập tới, việc đưa ra một quan điểm thống nhất là một điều khó có thể thực hiện được, nhưng các khái niệm đều cho thấy những điểm giống nhau khi nói đến quản lý sử dụng đất đai tài nguyên rừng bền vững đều được thể hiện ở ba vấn đề kinh tế, xã hội và môi trường. Do sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội và các nhu cầu của con người ở các quốc gia, vùng lãnh thổ nên công tác quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững cũng gặp khó khăn, phức tạp và đa dạng cho mỗi vùng sinh thái khác nhau. Trong thời gian gần đây, quản lý rừng bền vững (QLRBV) đã trở thành một nguyên tắc đối với quản lý kinh doanh rừng đồng thời cũng là một tiêu chuẩn mà quản lý kinh doanh rừng cần phải đạt tới. Hiện tại có hai định nghĩa đang được sử dụng ở Việt nam. Theo tổ chức Gỗ nhiệt đới (ITTO) thì “ QLRBV là quá trình quản lý đất rừng cố định để đạt được một hoặc nhiều mục tiêu được xác định rõ ràng của công tác quản lý trong vấn đề sản xuất liên tục các sản phẩm và dịch vụ rừng mà không làm giảm đi đáng kể những giá trị vốn có và có khả năng sản xuất
  7. 5 sau này của rừng và không gây ra những ảnh hưởng tiêu cực thái quá đến môi trường vật chất và xã hội” [17]. Theo hiệp ước Helsinki thì “ QLRBV là sự quản lý rừng và đất rừng một cách hợp lý để duy trì tính đa dạng sinh học, năng suất, khả năng tái sinh, sức sống của rừng, đổng thời duy trì tiềm năng thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội và sinh thái của chúng trong hiện tại cũng như trong tương lai, ở cấp địa phương, quốc gia và toàn cầu, không gây ra những tác hại xã hội đối với các hệ sinh thái khác” [17]. Các định nghĩa trên, nhìn chung tương đối dài dòng nhưng tóm lại có mấy vấn đề chính như sau: - Quản lý rừng ồn định bằng các biện pháp phù hợp nhằm đạt được các mục tiêu đề ra ( sản xuất gỗ nhiên liệu, gỗ gia dụng, lâm sản…. phòng hộ môi trường, bảo vệ đầu nguồn, bảo vệ chống cát bay… bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn loài, bảo tồn các hệ sinh thái…). - Bảo đảm sự bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường, cụ thể: + Bền vững về kinh tế là bảo đảm kinh doanh rừng lâu dài liên tục với năng suất, hiệu quả ngày càng cao (không khai thác lạm dụng vào vốn rừng; duy trì và phát triển diện tích, trữ lượng rừng; áp dụng các biện pháp kỹ thuật làm tăng năng suất rừng). + Bền vững về mặt xã hội là bảo đảm kinh doanh rừng phải tuân thủ các luật pháp, thực hiện tốt các nghĩa vụ đóng góp với xã hội, bảo đảm quyền hạn và quyền lợi như mối quan hệ tốt với nhân dân, cộng đồng địa phương. + Bền vững về môi trường là bảo đảm kinh doanh rừng duy trì được khả năng phòng hộ môi trường và duy trì được tính đa dạng sinh học của rừng, đồng thời không tác hại đối với các hệ sinh thái khác. Nguyên lý của quản lý rừng bền vững:
  8. 6 Nguyên lý thứ nhất là: Sự bình đẳng giữa các thế hệ trong sử dụng tài nguyên rừng: Cuộc sống con người luôn gắn với sử dụng tài nguyên thiên nhiên và để sử dụng nó, chúng ta cần phải bảo vệ nó vì tài nguyên thiên nhiên không phải là vô tận.Theo định nghĩa Brundtland thì phát triển bền vững là “sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu của hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến các khả năng của các thế hệ tương lai đáp ứng được các nhu cầu của họ” Vấn đề chìa khoá để bảo đảm nguyên lý bình đẳng giữa các thế hệ trong quản lý tài nguyên rừng là bảo đảm năng suất và các điều kiện tái sinh của nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo này. Một trong những nguyên tắc cần tuân thủ là tỷ lệ sử dụng lâm sản không được vượt quá khả năng tái sinh của rừng. Nguyên lý thứ hai là: Trong quản lý tài nguyên rừng bền vững, sự phòng ngừa được hiểu là: ở đâu có những nguy cơ suy thoái nguồn tài nguyên rừng và chưa có đủ cơ sở khoa học thì chưa nên sử dụng biện pháp phòng ngừa suy thoái về môi trường. Nguyên lý thứ ba là: Sự bình đẳng và công bằng trong sử dụng tài nguyên rừng ở cùng thế hệ: Đây là một vấn đề khó, bởi vì trong khi cố tạo ra sự công bằng cho các thế hệ tương lai thì chúng ta vẫn chưa tạo được những cơ hội bình đẳng cho những người sống ở thế hệ hiện tại. Rawls, 1971 cho rằng, sự bình đẳng trong cùng thế hệ hàm chứa hai khía cạnh: - Tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng về sự tự do thích hợp trong việc được cung cấp các tài nguyên từ rừng; - Sự bất bình đẳng trong xã hội và kinh tế chỉ có thể được tồn tại nếu: sự bất bình đẳng này là có lợi cho nhóm người nghèo trong xã hội và tất cả mọi người đều có cơ hội tiếp cận nguồn tài nguyên rừng như nhau.
  9. 7 Nguyên lý thứ tư là tính hiệu quả. Tài nguyên rừng phải được sử dụng hợp lý và hiệu quả nhất về mặt kinh tế và sinh thái. 1.2. Quản lý rừng bền vững trên thế giới Trong nhiều thập kỷ qua, trên thế giới nhất là các nước đang phát triển đã nhận thức rõ tài nguyên rừng là có hạn và đang bị suy giảm nghiêm trọng, nhất là tài nguyên rừng nhiệt đới. Nếu theo đà này như nhiện nay, mỗi năm diện tích rừng sẽ mất khoảng 15 triệu ha như số liệu thống kê của FAO thì chỉ hơn 100 năm nữa rừng nhiệt đới sẽ hoàn toàn biến mất, loài người sẽ chịu thảm họa khôn lường về kinh tế, xã hội và môi trường. [4] Trên thế giới, lịch sử QLRBV được hình thành từ rất sớm, đầu thế kỷ 18 các nhà lâm học Đức như Hartig, GL; Heyer,F đã đề xuất nguyên tắc sử dụng lâu bền đối với rừng thuần loài đều tuổi, các nhà khoa học người Pháp (Gournand,1922) và Thụy Sỹ (H.Bioley) cũng đề ra phương pháp kiểm tra điều chỉnh sản lượng đối với rừng khác tuổi khai thác chọn.[22] Trong giai đoạn đầu thế kỷ 20, hệ thống quản lý tài nguyên rừng tập trung thực hiện ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển [Mar Pofenberger (1996), các cộng đồng và quản lý rừng, IUCN]. Tuy nhiên, công tác quản lý tài nguyên rừng trong giai đoạn này đã bỏ qua vài trò của cộng đồng và người dân bản địa. Vào cuối thế kỳ 20, khi tài nguyên rừng đã bị suy thoái nghiêm trọng thì con người mới nhận thức được rằng tài nguyên rừng là có hạn và cần được bảo vệ. Việc quản lý và bảo vệ rừng thường gây nên mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân, cộng đồng dân cư với lợi ích quốc gia, vì vậy trong công tác quản lý rừng cần phải đề cập đến nhiều khía cạnh quan trọng là xây dựng, bảo vệ và sử dụng các nguồn tài nguyên rừng để phục vụ cho các nhu cầu xã hội, vừa đảm bảo tính ổn định bền vững lâu dài của tài nguyên rừng.
  10. 8 Công cụ để quản lý sử dụng bền vững tài nguyên rừng bao gồm các quy trình công nghệ, chính sách, các hoạt động nhằm thỏa mãn được những nguyên lý kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái. Có thể nói quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững là phương thức quản lý được xã hội chấp nhận, có cơ sở về mặt khoa học, có tính khả thi về mặt kỹ thuật và hiệu quả về mặt kinh tế [23]. Để ngăn chặn tình trạng mất rừng, cộng đồng quốc tế đã thành lập nhiều tổ chức, tiến hành nhiều hội nghị, đề xuất và cam kết nhiều công ước bảo vệ và phát triển rừng, trong đó có chiến lược bảo tồn quốc tế (1980 và điểu chỉnh năm 1991), Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO năm 1983), Chương trình hành động rừng nhiệt đới (TFAP năm 1985), hội nghị quốc tế về môi trường và phát triển (UNCED năm 1992), công ước về buôn bán các loài động thực vật quý hiểm (CITES), công ước về đa dạng sinh học (CBD, 1992), Công ước về thay đổi khí hậu toàn cầu (CGCC, năm 1994), Công ước về chống sa mạc hóa (CCD, năm 1996), Hiệp định quốc tế về gỗ nhiệt đới (ITTA, năm 1997)…Những năm gần đây nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế và quốc gia về QLRBV đã liên tục được tổ chức [4] đã đưa ra khái niệm về QLRBV “QLRBV là quá trình quản lý những diện tích rừng cố định nhằm đạt được một hoặc nhiều hơn những mục tiêu quản lý đã đề ra một cách rõ rang của công tác quản lý trong vấn đề sản xuất liên tục các lâm phẩm và dịch vụ rừng mà không làm giảm đi đáng kể những giá trị vốn có và khả năng sản xuất sau này của rừng, không gây ra những ảnh hưởng tiêu cực thái quá đến môi trường vật chất và xã hội”[ 4 ]. Hiện nay trên thế giới đã có các bộ tiêu chuẩn QLRBV cấp quốc gia (Canada, Thụy Điển, Malaysia,Indonesia….) và cấp quốc tế của tiến trình Helsinki, tiến trình Montreal,…. Hội đồng quản trị rừng (FSC) và tổ chức gỗ nhiệt đới đã có bộ tiêu chuẩn “những tiêu chí và chỉ báo quản lý rừng” (P&C)
  11. 9 đã công nhận và áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, các tổ chức cấp chứng chỉ rừng đều dùng bộ tiêu chí này để đánh giá tình trạng quản lý rừng và xét cấp chứng chỉ QLRBV cho các chủ rừng [17]. Tháng 9 năm 1998 các nước trong khu vực Đông Nam Á đã tổ chức hội nghị lần thứ 18 tại Hà Nội để thoả thuận về đề nghị của Malaysia xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số về QLBVR ở vùng ASEAN (C&I ASEAN), thực chất C&I của ASEAN cũng giống C&I của ITTO, bao gồm & tiêu chí và cũng chia làm hai cấp quản lý là cấp quốc gia và cấp đơn vị quản lý [5]. Do bộ tiêu chuẩn QLRBV của ASEAN soạn thảo theo 7 tiêu chí của ITTO, nên gặp khó khăn khi xin cấp chứng chỉ của tổ chức FSC. Tuy vậy, các nước có nền lâm nghiệp mạnh trong ASEAN như: Indonesia (Kim ngạch xuất khẩu gỗ 5-5,5 tỷ USD/năm), Malaysia (4,7-5 tỷ USD/năm), sau đó đến Philippines, Thailand đều được cấp chứng chỉ QLRBV của FSC (theo 10 nguyên tắc của FSC) trong các năm 2002-2005, tuy rằng diện tích được cấp còn hạn chế. Tại Indonesia, một tổ chức phi chính phủ (NGO) là “Viện sinh thái Lambaga” (viết tắt là LEI) ra đời vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước để hướng dẫn và hỗ trợ kỹ thuật cho các chủ rừng nâng cao năng lực QLRBV đến khi đạt chứng chỉ gỗ quốc tế. Malaysia thành lập tổ chức NGO có tên “Hội đồng chứng chỉ gỗ quốc gia” (NTCC) nay đổi tên là “Hội đồng chứng chỉ gỗ Malaysia” (MTCC) để đảm nhiệm chức năng hỗ trợ CCR. Malaysia đang thử nghiệm đi theo 2 bước (chứng chỉ quốc gia, và chứng chỉ quốc tế). Chứng chỉ quốc gia không có giá trị trên thị trường thế giới, nhưng là một mức đánh giá năng lực quản lý của chủ rừng đã đạt mức xấp xỉ để xin thẩm định quốc tế. Đoàn tham quan học tập của Cục Lâm nghiệp và các tỉnh có rừng 2005 tại Malaysia đã rất ấn tượng cách làm này. LEI và MTCC là tổ chức NGO nhưng do chính phủ tài trợ và có sự đóng góp của các chủ rừng nên hoạt động rất mạnh và hiệu quả cao nhất trong các nước thuộc khối ASEAN.
  12. 10 Từ ngày 07 đến 10/9/2004, trên 70 chuyên gia quốc tế gặp mặt nhau tại trụ sở của Liên Hợp Quốc để cân nhắc về các lựa chọn liên quan đến việc quản lý rừng trên toàn thế giới trong tương lai. Đến nay, các quốc gia đã đưa ra hàng loạt các biện pháp mang tính quốc tế để bảo vệ rừng trong tương lai như việc tăng cường và cải thiện hệ thống luật pháp quốc tế, phát triển một hiệp ước quốc tế mang tính bắt buộc liên quan đến việc quản lý hoặc xây dựng các biện pháp cụ thể hoặc các thỏa ước về rừng trên cơ sở những hiệp ước quốc tế đang tồn tại. Nhìn chung, trong các châu lục thì châu Âu, nhất là khu vực Tây Âu và Bắc Âu có diện tích rừng được cấp chứng chỉ nhiều và nhanh nhất, tiếp đó là khu vực Bắc Mỹ . Nguyên nhân do các nước ở hai châu lục này hầu hết là các nước phát triển, chất lượng quản lý rừng đã đạt trình độ cao, hầu như là đã đạt tiêu chuẩn CCR của quy trình ngay từ trước khi có tiêu chuẩn về QLRBV. Quy mô quản lý rừng bền vững thường là rất lớn, phần lớn là rừng trồng, nên việc đánh giá cấp chứng chỉ dễ dàng và ít tốn kém hơn nhiều so với rừng tự nhiên nhiệt đới. Mặt khác quyền sở hữu rừng tại các quốc gia này chủ yếu là sở hữu tư nhân do đó tính tự chủ và độc lập của chủ rừng trong mọi hoạt động quản lý, tái đầu tư, sử dụng tài chính trong kinh doanh và quản lý rừng đạt yêu cầu của cấp chứng chỉ rừng. Còn ở khu vực Nam Mỹ, Châu Á – Thái Bình Dương và châu Phi tiến triển chậm, diện tích rừng được cấp chứng chỉ mới chỉ chiếm khoảng 8% tổng diện tích đã được cấp chứng chỉ của thế giới, chủ yếu là chứng chỉ FSC. Nguyên nhân là các nước trong khu vực này phần lớn là kém phát triển, quản lý rừng còn ở trình độ thấp, các chủ rừng không có đủ nguồn lực để cải thiện quản lý rừng để đạt tiêu chuẩn CCR, mặt khác chi phí cho CCR cũng là một yếu tố hạn chế đối với chủ rừng.
  13. 11 1.3. Quản lý rừng bền vững ở Việt Nam Do Việt Nam trải qua hai cuộc chiến tranh kéo dài đó là chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, cùng với việc quản lý sử dụng chưa bền vững và nhu cầu rất lớn về khai hoang đất rừng và lâm sản cho phát triển kinh tế - xã hội nên diện tích và chất lượng rừng trong nhiều năm trước đã bị suy giảm liên tục, thời kỳ từ năm 1980-1990 bình quân mỗi năm hơn 100 nghìn ha rừng đã bị mất. Nhưng từ năm 1990 trở lại đây diện tích rừng đã liên tục tăng nhờ trồng rừng và phục hồi rừng tự nhiên. Hiện nay, Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên là 33.12 triệu ha, trong đó diện tích có rừng là 12.61 triệu ha và 6.16 triệu ha đất trống đồi núi trọc là đối tượng của sản xuất nông nghiệp [18]. Áp lực của việc gia tăng dân số kết hợp với việc quản lý sử dụng bền vững chưa bền vững, nhu cầu lớn về khai hoang đất rừng và lâm sản phục vụ cho nền kinh tế xã hội làm cho diện tích và chất lượng rừng trong những năm trước đây đã bị suy giảm liên tục nhất là rừng tự nhiên. Bên cạnh đó, hai cuộc chiến tranh kéo dài mà đặc biệt là chiến tranh chống Mỹ, rừng Việt Nam đã bị hủy hoại khoảng gần 2 triệu ha. Nếu như tỷ lệ che phủ rừng của nước ta vào năm 1943 là 43,3% thì đến năm 1976 chỉ còn 33,8% và đến năm 1990 diện tích rừng toàn quốc chỉ còn 9.18 triệu ha, độ che phủ rừng 27.2% [18]. Trong giai đoạn 1980-1990, diện tích rừng trồng tuy có tăng nhưng không bù đắp được diện tích rừng tự nhiên bị mất [6], không những diện tích rửng bị mất màchất lượng rừng cũng bị suy thoái nghiêm trọng. Trong những năm gần đây, tình hình đã được cải thiện đáng kể nhờ những chủ trương chính sách quản lý, bảo vệ và phát triển rừng của nhà nước. Đến năm 2000 tỷ lệ che phủ rừng của cả nước đã nâng lên 33,2% , năm 2004 là 36,7% , đến tháng 12 năm 2007 là 38,2% trong đó đáng chú ý là rừng phòng hộ và rừng đặc dụng đã được nâng lên đáng kể cả về số lượng lẫn chất
  14. 12 lượng. Hiện nay, độ che phủ của rừng đạt khoảng 40% (Theo Báo điện tử chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam ngày 28/11/2011) Theo dự báo của nhiều chuyên gia, đến năm 2020 dân số Việt Nam khoảng 100 triệu dân, tức là cần phải đảm bảo cuộc sống cho thêm gần 20 triệu người. Đây vừa là cơ hội về nguồn nhân lực, lao động nhưng cũng là một thách thức rất lớn cho nền kinh tế xã hội, chắc chắn áp lực vào tài nguyên rừng ngày càng lớn hơn, đòi hỏi chính phủ phải có những kế sách thích hợp để quản lý tốt nguồn tài nguyên rừng. Công tác tổ chức, quản lý sử dụng tài nguyên rừng ở Việt Nam có thể chia ra làm 3 thời kỳ theo tiến trình phát triển kinh tế xã hội Việt Nam như sau: 1.3.1. Thời kỳ trước năm 1945 Thời kỳ này toàn bộ rừng nước ta là rừng tự nhiên, hệ sinh thái hết sức đa dạng và phong phú. Nhu cầu về gỗ, củi, đất canh tác…… còn thấp, sự tác động của con người chưa ảnh hưởng đáng kể đến tài nguyên rừng. Công tác trồng rừng chưa được đề cập đến, vấn đề quản lý tài nguyên rừng đã được quan tâm nhưng chỉ tập trung vào một số khu rừng có khả năng mang lại lợi ích cho nhà nước thực dân và một bộ phận quan lại, mức độ quản lý còn lỏng lẻo, đơn giản. Đơn vị quản lý rừng trong thời kỳ này được gọi là hạt kiểm lâm nghiệp có quy mô tương đương với cấp tỉnh, nội dung hoạt động lâm nghiệp trong thời kỳ này chủ yếu là quản lý tài nguyên rừng nhằm để thu thuế là chính. Để thực hiện mục tiêu khai thác tài nguyên rừng, người ta chia rừng thành 3 loại: - Rừng không thuộc quản lý của nhà nước: Đây là những khu rừng ở vùng sâu vùng xa với mật độ dân cư địa phương rất thấp, khó tiếp cận và kiểm soát. Ở những khu rừng này, dân địa phương có quyền tự do khai thác
  15. 13 gỗ, lâm sản và phát nương làm rẫy để đáp ứng các nhu cầu hàng ngày của họ.[4] - Rừng khai thác: là những khu rừng tự nhiên nằm gần các khu dân cư và có điều kiện giao thông thuận lợi, rừng được phân chia thành các đơn vị quản lý, được kiểm kê tài nguyên, điều tra các thông tin cơ bản phục vụ quản lý. Các đơn vị được chia thành các cup (coup) khai thác và Nhà nước quy định cấp kính tối thiểu được phép khai thác. Kiểm lâm đặt các trạm kiểm soát ở cửa rừng, tất cả các gỗ khai thác ra được chấp nhận sẽ được đóng búa, nộp thuế và cho phép lưu thông [22]. - Rừng quan trọng: là những khu rừng có vị trí quan trọng về kinh tế được khai thác và bảo vệ trong suốt luân kỳ, hoặc là những khu rừng có chức năng quan trọng khác như rừng đầu nguồn cần bảo vệ nghiêm ngặt.[8] Trong thời kỳ này tài nguyên rừng còn phong phú, nhu cầu của con người còn thấp, rừng bị khai thác lợi dụng tự do, không có sự can thiệp của cộng đồng. Vấn đề quản lý rừng bền vững chưa được đặt ra, nhưng mức độ tác động của con người vào tài nguyên rừng còn ít nên tài nguyên rừng còn phong phú và đa dạng. Theo số liệu thống kê tài nguyên rừng khu vực Đông dương, diện tích rừng nước ta vào năm 1943 còn khoảng 14,3% triệu ha rừng, tương đương với độ che phủ khoảng 43,3% . 1.3.2. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1990 Từ sau ngày hòa bình được lập lại (1954), nhiều điện tích rừng và đất rừng ở miền Bắc được quy hoạch và đưa vào các lâm trường quốc doanh. Nhiệm vụ chủ yếu của các lâm trường là khai thác rừng để phục vụ cho nền kinh tế xã hội, công tác trồng rừng chưa được quan tâm đúng mức, diện tích rừng trồng không bù đắp được diện tích rừng bị mất. - Về tổ chức quản lý: Cấp quản lý nhà nước Trung ương có Tổng cục Lâm nghiệp ( từ năm 1976 là Bộ Lâm nghiệp) là cơ quan chuyên ngành của
  16. 14 Chính phủ. Đến năm 1973 Ngành Lâm nghiệp được Chính phủ cho thành lập Cục Kiểm lâm, là cơ quan thực thi luật pháp bảo vệ rừng. Ở cấp tỉnh, có các Ty lâm nghiệp (sau này gọi là các Sở lâm nghiệp) là cơ quan quản lý lâm nghiệp của tỉnh kiêm cả việc quản lý các doanh nghiệp lâm nghiệp. Ở cấp huyện, có các Phòng lâm nghiệp trực thuộc UBND huyện, đồng thời là cơ quan ngành dọc của các Sở lâm nghiệp. - Về tổ chức quản lý sử dụng rừng: Rừng được chia thành 3 chức năng để quản lý sử dụng. Đó là rừng sản xuất, rừng đặc dụng, rừng phòng hộ. Ở mỗi tỉnh, rừng và đất rừng được chia thành các tiểu khu có diện tích trung bình là 1000 ha và được đánh số từ 1 đến số cuối cùng trong phạm vi của tỉnh. Các tiểu khu được thể hiện trên bản đồ địa hình theo ranh giới tự nhiên như dông núi, sông suối, các địa hình vật dễ nhận biết. Tổ chức quản lý 3 loại rừng được hình thành và phát triển từ năm 1986 nhất là khi có Luật bảo vệ và phát triển rừng và các văn bản pháp quy dưới luật [8]. Thời kỳ này công tác quản lý bảo vệ rừng được chia làm các giai đoạn khác nhau: + Từ năm 1945 đến 1960: Công tác quản lý bảo vệ rừng ở miền Bắc chủ yếu là khoanh nuôi bảo vệ, hướng dẫn người dân miền núi sản xuất, canh tác trên đất nương rẫy, ổn định công tác định canh định cư. + Từ năm 1961 đến 1975: Công tác quản lý bảo vệ rừng được tăng cường và chú trọng, công tác khai thác rừng chú ý thực hiện theo quy trình quy phạm, đảm bảo xúc tiến tái sinh tự nhiên. + Từ năm 1976 đến 1990: Công tác quản lý bảo vệ rừng được tổ chức thông qua lực lượng kiểm lâm trên toàn quốc và được kiện toàn đến các lâm trường quốc doanh, các liên hiệp Lâm- Nông - Công nghiệp đồng thời quản lý đến từng tiểu khu rừng. Giai đoạn này Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ tài nguyên rừng thông qua các lâm trường quốc doanh, người dân và cộng
  17. 15 đồng đã bị tách rời khỏi hoạt động quản lý sử dụng tài nguyên rừng của nhà nước. 1.3.3. Thời kỳ từ năm 1991 đến nay Giai đoạn này đất nước ta thực hiện chính sách đổi mới do Đảng khởi xướng, thực hiện sự chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý điều tiết của Nhà nước. Với sự chuyển dịch của các ngành kinh tế, sự mở cửa hội nhập đã thúc đẩy kinh tế nước ta phát triển theo chiều hướng thuận lợi, ngành sản xuất lâm nghiệp nước ta cũng có sự chuyển dịch theo chiều hướng chung đó. Nét đặc trưng cơ bản trong thời kỳ này là chuyển đổi cơ chế từ lâm nghiệp nhà nước sang lâm nghiệp xã hội, vai trò của người dân (nhất là người dân bản địa) trong công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng được đặc biệt quan tâm. Hệ thống và tính chất quản lý ngành cũng có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu quản lý tài nguyên rừng tổng hợp, đa ngành, đa mục tiêu. Năm 1995 Bộ Lâm nghiệp được sát nhập với Bộ Nông nghiệp và Bộ Thủy lợi thành lập Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Cơ cấu tổ chức quản lý ngành lâm nghiệp như sau: - Ở cấp trung ương: Dưới Bộ NN&PTNT có Cục Lâm nghiệp và Cục kiểm lâm. - Ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Có Chi cục Lâm nghiệp và Chi cục kiểm lâm. Chi cục Lâm nghiệp trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, theo nghị định số 119/2006/NĐ-CP ngày 16 tháng 10 năm 2006 của chính phủ về tổ chức hoạt động của kiểm lâm, chỉ thị số 45/2007/CT-BNN ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Bộ NN&PTNT về việc khẩn trương triển khai đổi mới tổ chức và hoạt động của kiểm lâm địa phương thì muộn nhất quý hai năm 2007 tất cả Chi cục Kiểm lâm ở các địa phương sẽ phải chịu sự quản lý trực tiếp của sở NN&PTNT.
  18. 16 - Ở cấp huyện: Có các Hạt kiểm lâm trực thuộc Chi cục Kiểm lâm và chịu sự lãnh đạo của UBND huyện, thực hiện những nhiệm vụ được giao cho lực lượng kiểm lâm trên địa bàn huyện. - Ở cấp xã: Các xã miền núi có rừng không có các cơ quan, tổ chức chuyên trách về lâm nghiệp nhưng có các kiểm lâm viên phụ trách, quản lý trên địa bàn. - Ở cấp thôn, bản: Có các quy ước, hương ước thôn về quản lý, bảo vệ rừng. Cùng với xu thế của ngành lâm nghiệp thế giới, công tác QLRBV và sử dụng tài nguyên rừng ở Việt Nam ngày càng được quan tâm và có định hướng phát triển tích cực. Công tác tổ chức, sử dụng tài nguyên rừng được quan tâm và có định hướng tích cực. Do nhận thức về vai trò quan trọng của rừng trong vấn đề phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái... nên các hoạt động lâm nghiệp đặc biệt quan tâm đến hai loại rừng phòng hộ và đặc dụng. Dẫn chứng là tháng 11/1997 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng (giai đoạn 1998 - 2010), trong đó quy hoạch cho trồng mới 2 triệu ha rừng đặc dụng, phòng hộ và 3 triệu ha rừng sản xuất. đặc biệt trong giai đoạn này Quốc hội và Chính phủ đã ban hành một loạt các hệ thống luật pháp và những chính sách quan trọng nhằm tăng cường công tác bảo vệ phát triển rừng và quản lý rừng bền vững đó là: - Luật bảo vệ và phát triển rừng (năm 1991) được sửa đổi năm (2004). - Luật đất đai (1987) và được sửa đổi, bổ sung vào các năm (1993,1998, 2001, 2003). - Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 30/12/1993 được sửa đổi ngày 29/11/2005.
  19. 17 - Nghị định 139/2004/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2004 của Chính phủ về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. - Nghị định 48/2002/NĐ-CP ngày 22/4/2002 của chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung danh mục thực vật, động vật hoang dã quý hiếm ban hành kèm theo nghị định 18/HĐBT ngày 17/1/1992 của HĐBT quy định danh mục thực vật, động vật hoang dã quý hiếm và chế độ quản lý bảo vệ. - Quyết định 08/2001/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ về ban hành quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất và rừng tự nhiên. - Quyết định 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/8/2006 của thủ tướng chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý rừng. - Quyết định 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 của thủ tướng chính phủ về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp. - Quyết định 661/1998/QĐ-TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về trồng mới 5 triệu ha rừng. - Nghị định 163/1999/NĐ-TTg của chính phủ về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp (thay thế cho nghị định 02/CP(1994)). Tháng 6 năm 1997, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thay mặt chính phủ ký cam kết bảo tồn ít nhất 10% diện tích rừng gồm các hệ sinh thái rừng hiện có, và cùng cộng đồng quốc tế, Việt Nam sẽ tham gia thị trường lâm sản bằng các sản phẩm được dán nhãn là khai thác hợp pháp trong các khu rừng đã được cấp chứng chỉ rừng trong khối AFTA và WTO . Tháng 12/1998 hội thảo quốc gia về quản lý rừng bền vững do Bộ NN&PTNT, WWF Đông Dương, đại sứ quán vương quốc Hà Lan tại Hà Nội
  20. 18 và FSC đồng tài trợ tổ chức tại TP.HCM, Hội thảo có sự tham gia của đại diện các cơ quan: Văn phòng Chính phủ, các bộ ngành, các cục, vụ, viện, trường, sở, chi cục, công ty, lâm trường, xí nghiệp, Hội nông dân, hội phụ nữ và nhiều nhà khoa học trong các lĩnh vực lâm nghiệp, kinh tế, xã hội, dân tộc miền núi, môi trường, các tổ chức phi chính phủ quốc tế tại Việt Nam. Hội thảo cũng đã thành lập một "tổ công tác quốc gia" (NWG) về quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng và đề xuất một chương trình hoạt động trong 5 năm đầu tiên. NWG đã hoạt động theo hướng: - Nâng cao nhận thức cho nhà nước, chủ rừng và cộng đồng dân cư về QLRBV và CCR. - Dự thảo tiêu chuẩn quốc gia đảm bảo nguyên tắc do FSC hướng dẫn và phê duyệt phù hợp chính sách tập quán QLR của VN. - Hỗ trợ chủ rừng và cộng đồng dân cư thực thi QLRBV và CCR thông qua các mô hình thử nghiệm tại các chủ thể chủ rừng là lâm trường quốc doanh, Công ty lâm nghiệp, hộ gia đình trồng rừng, liên doanh liên kết v.v.. - Hiện nay mục tiêu và hiệu quả của QLRBV đảm bảo rừng ổn định về diện tích lâm phận, cải thiện tốt nhất và bền vững về sản lượng và năng suất, đây chính là cải thiện khả năng hấp thụ và lưu trữ CO2 trong cây và rừng, vì vậy cần có sự liên kết giữa hai hoạt động có một số mục tiêu, hiệu quả giao nhau để tăng tốc độ và sức mạnh. Việt nam đã đưa QLRBV-CCR thành chương trình trọng điểm của Chiến lược phát triển lâm nghiệp và thực thi 2 năm đầu. Hiện nay các tổ chức trong nước đang xây dựng các mô hình thử nghiệm sau đây: - Tổ công tác quốc gia (nay là Viện QLRBV &CCR) hỗ trợ: + Chứng chỉ theo nhóm QLRBV rừng trồng các hộ gia đình cá thể tại Yên Bình Yên Bái. + 16 Lâm trường trồng nguyên liệu giấy thuộc Tổng công ty Giấy VN.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2