intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng ở huyện Thuận Châu - tỉnh Sơn La

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:128

28
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn “Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng ở huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La” nhằm góp phần bảo vệ hiệu quả diện tích rừng trên địa bàn và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân trên địa bàn huyện Thuận Châu. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng ở huyện Thuận Châu - tỉnh Sơn La

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ------------------------------------------------------------------------- Lò Thế Thi NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ BẢO VỆ RỪNG TRÊN CƠ SỞ CỘNG ĐỒNG Ở HUYỆN THUẬN CHÂU - TỈNH SƠN LA LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội - 2010
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ------------------------------------------------------------------------- Lò Thế Thi NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ BẢO VỆ RỪNG TRÊN CƠ SỞ CỘNG ĐỒNG Ở HUYỆN THUẬN CHÂU - TỈNH SƠN LA Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Thị Bảo Lâm Hà Nội - 2010
  3. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Rừng là một tài sản vô cùng quý giá đối với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trên toàn cầu, vì nó không chỉ cung cấp những giá trị lâm sản thông thường cho con người mà nó còn cho hành tinh của chúng ta sự sống. Ngành lâm nghiệp nước ta đang trong thời kỳ chuyển biến từ Lâm nghiệp truyền thống sang lâm nghiệp xã hội, trong thời gian qua đã tạo ra nhiều nhân tố tích cực mới, đặc biệt là sự hình thành đa dạng hoá các hình thức quản lý và phương thức tiếp cận mới về quản lý tài nguyên rừng. Trong đó quản lý bảo vệ rừng có sự tham gia của cộng đồng dân cư thôn, bản là một trong những hình thức quản lý bảo vệ rừng đang được sự quan tâm, chú ý của cơ quan quản lý lâm nghiệp từ cấp Trung ương đến chính quyền địa phương các cấp. Cộng đồng dân cư thôn, bản, những người hiện đang sinh sống ở vùng rừng và gần rừng, đời sống kinh tế, xã hội của họ có quan hệ trực tiếp và gắn bó với rừng, đây là một nhân tố tích cực và ngày càng có vị trí quan trọng trong hệ thống quản lý rừng cộng đồng. Phát huy vai trò của cộng đồng dân cư thôn, bản để quản lý bảo vệ rừng là vấn đề vừa mang ý nghĩa phát huy truyền thống dân tộc, vừa tạo ra một cách quản lý rừng có hiệu quả hơn, bền vững hơn, phù hợp với những xu thế phát triển lâm nghiệp trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển. Huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La là một huyện miền núi nằm phía Tây Bắc của tỉnh, có tổng diện tích tự nhiên 154.126 ha, trong đó diện tích rừng và đất rừng quy hoạch cho lâm nghiệp là 68.862 ha, bao gồm đất có rừng: 56.252 ha, chiếm 36,62% diện tích tự nhiên. Trong những năm qua, diện tích rừng của huyện Thuận Châu không những có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện mà còn có tác dụng phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái, là khu vực đầu nguồn của sông Đà và sông Mã, có tác dụng điều
  4. 2 hoà nguồn nước cho hai công trình thuỷ điện lớn nhất Việt Nam hiện nay là thuỷ điện Hoà Bình và thuỷ điện Sơn La đang xây dựng. Thuận Châu là một huyện vùng cao của tỉnh Sơn La, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông – lâm nghiệp, nhìn chung thu nhập của người dân trên địa bàn huyện còn thấp, trình độ dân trí thấp, sản xuất nông – lâm nghiệp lạc hậu, với nhiều thành phần dân tộc, bên cạnh đó huyện là địa điểm đón dân tái định cư thuỷ điện Sơn La, nên công tác quản lý bảo vệ rừng gặp rất nhiều khó khăn và phức tạp. Hiện nay trên địa bàn huyện quản lý bảo vệ rừng chủ yếu dựa vào Hạt Kiểm lâm Thuận Châu và Khu Bảo tồn thiên nhiên Côpia, trong đó Hạt Kiểm lâm huyện đóng vai trò quan trọng. Trong những năm qua mặc dù đã được các cấp, ngành địa phương quan tâm trong công tác quản lý bảo vệ rừng, tuy nhiên tình trạng chặt phá rừng làm nương, khai thác rừng, cháy rừng vẫn còn xảy ra trên địa bàn làm xuy giảm cả về diện tích và chất lượng tài nguyên rừng, làm cho khả năng phòng hộ và cung cấp lâm sản phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội bị hạn chế. Một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho diện tích, chất lượng rừng bị suy giảm là công tác QLBVR chỉ coi trọng biện pháp hành chính pháp chế mà chưa lôi cuốn được người dân thuộc cộng đồng tham gia QLBVR. Xuất phát từ thực tế trên, trong khuôn khổ luận văn Cao học, chúng tôi chọn đề tài “Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng ở huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La” nhằm góp phần bảo vệ hiệu quả diện tích rừng trên địa bàn và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân trên địa bàn huyện Thuận Châu.
  5. 3 Chương 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 1.1. Nhận thức về QLBVR trên cơ sở cộng đồng 1.1.1. Khái niệm về QLBVR trên cơ sở cộng đồng Khái niệm cộng đồng trong những năm gần đây khá quen thuộc, đã được sử dụng nhiều trong các công trình nghiên cứu, và dần đi đến thống nhất về ngôn ngữ. Khái niệm cộng đồng thường được hiểu là nhóm người sống trên cùng một khu vực và thường cùng nhau chia sẻ các mục tiêu chung, các luật lệ xã hội chung, có thể có quan hệ gia đình với nhau. “Cộng đồng bao gồm những người sống trong một xã hội có những đặc điểm giống nhau và có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau” (N.H. Quân, 2000). Theo Phạm Xuân Phương (2001) tại Hội thảo Quốc gia trong khuân khổ chính sách hỗ trợ quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam, được tổ chức tại Hà Nội thì “Cộng đồng bao gồm toàn thể những người sống thành một xã hội, có những điểm tương đồng về mặt văn hoá truyền thống, có mối quan hệ sản xuất và đời sống gắn bó với nhau và thường có ranh giới không gian trong một làng bản. Theo Giáo Sư Lê Quý An, thì cộng đồng được định nghĩa là nhóm người sống cùng một địa phương hoặc dưới sự quản lý của cùng một chính quyền địa phương. Tại Điều 3 Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, cộng đồng dân cư thôn bản là toàn bộ các hộ gia đình, cá nhân sống trong cùng một thôn, bản, ấp, buôn, phum, sóc hoặc đơn vị tương đương. Những khái niệm trên có thể được tóm lược lại là cộng đồng có thể là cộng đồng dân cư thuộc làng, bản, cộng đồng dòng tộc, dòng họ, các nhóm người những đặc điểm và lợi ích chung và cùng phục vụ cho một ý tưởng
  6. 4 chung… ở nghiên cứu của đề tài này, cộng đồng được hiểu theo nghĩa là cộng đồng thôn, xóm, làng, bản (kể cả các tổ chức đoàn thể trong cộng đồng). Quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng là QLBVR mà phát huy được nội lực của cộng đồng cho các hoạt động chống chặt, phá, lấn chiếm rừng, đất rừng, khai thác lâm sản, săn, bắt, bẫy động vật rừng trái phép, phòng cháy chữa cháy rừng (PCCCR). Phòng trừ sinh vật gây hại rừng, bảo vệ hệ sinh thái rừng và thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý lâm sản. Những giải pháp QLBVR trên cơ sở cộng đồng luôn chứa đựng những sắc thái của luật tục, phong tục, tập quán, ý thức dân tộc, nhận thức, kiến thức của người dân, đặc điểm quan hệ gia đình, họ hàng, các tổ chức đoàn thể, làng, bản phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước. 1.1.2. Khái niệm về cộng đồng tham gia quản lý bảo vệ rừng Cộng đồng tham gia quản lý rừng cũng có thể thay thế bằng một cụm từ chung nhất là Lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ). LNCĐ không chỉ giới hạn trong việc trồng cây rừng trang trại, khu nhà ở hay ven đường mà còn cả tập quán du canh, việc sử dụng quản lý rừng tự nhiên và việc cung cấp các sản phẩm cây trồng từ nhiều nguồn khác nhau. LNCĐ cũng đề cập đến sự xác định nhu cầu của địa phương, tăng cường quản lý sử dụng cây cối cải thiện mức sống của người dân theo một phương thức bền vững, đặc biệt là cho người nghèo (FAO,2000). Ở Việt Nam, hiện nay có những quan điểm khác nhau về LNCĐ và chưa có một định nghĩa chính thức nào được công nhận. Nhưng tại Hội thảo Quốc gia về chia sẻ kinh nghiệm thực hiện các mô hình quản lý rừng cộng đồng cấp thôn bản tại Việt Nam tại Ninh Bình năm 2007 đã thống nhất rằng ở Việt Nam có hai hình thức quản lý rừng cộng đồng phù hợp với định nghĩa của FAO như sau:
  7. 5 - Thứ nhất là quản lý rừng của cộng đồng: Đây là hình thức mà mọi thành viên của cộng đồng tham gia quản lý và ăn chia sản phẩm hoặc hưởng lợi từ những khu rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của cộng đồng hoặc quyền sử dụng chung của cộng đồng. Rừng của cộng đồng là rừng của làng bản đã được quản lý theo truyền thống lâu đời (rừng thiêng, rừng ma, rừng mó nước…quản lý theo các luật tục truyền thống với tinh thần tự nguyện cao); rừng trồng của các hợp tác xã, rừng tự nhiên được giao cho các hợp tác xã trước đây, nay hợp tác xã giao lại cho các xã, hoặc các thôn quản lý; rừng được chính quyền địa phương giao cho cộng đồng với tính chất thí điểm trong thời gian gần đây. - Thứ hai là quản lý rừng của các chủ rừng khác (quản lý rừng dựa vào cộng đồng): Đây là hình thức cộng đồng tham gia quản lý các khu rừng không thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu chung của họ mà thuộc quyền quản lý, sử dụng của các thành phần kinh tế khác nhưng có quan hệ trực tiếp đến đời sống, đến việc làm, thu hoạch sản phẩm, thu nhập hay các lợi ích khác của cộng đồng (thuỷ lợi nhỏ, nước sinh hoạt ...). Hình thức này có thể chia thành hai đối tượng: + Đối tượng thứ nhất rừng của hộ gia đình, cá nhân là thành viên trong cộng đồng. Cộng đồng tham gia quản lý với tính chất hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, chia xẻ lợi ích cùng nhau trên cơ sở tự nguyện (tạo thêm sức mạnh để bảo vệ rừng, hỗ trợ hoặc đổi công cho nhau trong các hoạt động lâm nghiệp..). + Đối tượng thứ hai, Rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của các tổ chức nhà nước (các ban quản lý rừng phòng hộ, đặc dụng, các lâm trường, công ty lâm nghiệp nhà nước, các trạm trại…) và các tổ chức tư nhân khác. Cộng đồng tham gia các hoạt động lâm nghiệp như bảo vệ, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh, phục hồi rừng, trồng rừng với tư cách là người làm thuê thông qua các hợp đồng khoán và hưởng lợi theo các cam kết trong hợp đồng.
  8. 6 Từ sự phân tích trên đây cho thấy, LNCĐ, QLRCĐ là những khái niệm khác nhau. Thuật ngữ QLRCĐ được sử dụng với ý nghĩa hẹp hơn để chỉ CĐ quản lý những khu rừng của một cộng đồng dân cư, còn nói đến LNCĐ hay cộng đồng tham gia quản lý rừng chính là diễn tả hàng loạt các hoạt động gắn người dân trong cộng đồng dân cư thôn bản với rừng, cây, các sản phẩm của rừng và việc phân chia lợi ích từ rừng. Hay nói cách khác, LNCĐ là một hình thức quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát triển rừng do cộng đồng dân cư thôn bản thực hiện bao gồm cả rừng của cộng đồng và rừng của các thành phần kinh tế khác. Với cách hiểu như vậy, nên chấp nhận LNCĐ bao gồm cả quản lý rừng cộng đồng (cộng đồng quản lý rừng của cộng đồng) và quản lý bảo vệ rừng dựa vào cộng đồng (cộng đồng quản lý bảo vệ rừng của các chủ rừng khác). Khái niệm này vừa phù hợp với định nghĩa của FAO vừa phát huy được nhiều hơn sự đóng góp của cộng đồng vào quản lý, bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng. 1.1.3. Vai trò của Chính sách Nhà nước đối với QLBVR trên cơ sở cộng đồng. QLBVR trên cơ sở cộng đồng được xây dựng dựa trên cơ sở phong tục, tập quán, kiến thức và thể chế bản địa của người dân địa phương. Tuy nhiên, có những phong tục tập quán phù hợp với yêu cầu quản lý bền vững tài nguyên rừng, nhưng cũng có những phong tục tập quán ngược lại với yêu cầu quản lý bền vững tài nguyên rừng. Do đó, quản lý BVR trên cơ sở cộng đồng phải hướng và phát huy được những phong tục tập quán có lợi và giảm dần những phong tục tập quán cản trở đến quản lý bền vững tài nguyên rừng. QLBVR trên cơ sở cộng đồng sẽ không thể thực hiện được nếu thiếu sự hậu thuẫn của các chính sách và thể chế Nhà nước. Các tổ chức cộng đồng không phải là cơ quan quyền lực, không có công cụ chuyên chính riêng. Trong nhiều trường hợp, tổ chức cộng đồng không giải quyết được một cách
  9. 7 triệt để những vấn đề phức tạp của quản lý BVR. Khi đó các tổ chức cộng đồng phải hợp tác với các cơ quan chính quyền để giải quyết những vấn đề vượt khỏi quyền hạn của mình. Vì vậy, các qui định của cộng đồng phải được xây dựng trên cơ sở tính đến sự hỗ trợ của các chính sách và thể chế hiện thời của Nhà nước, không trái với các qui định của Nhà nước. 1.1.4. Chiến lược và chính sách QLBVR trên cơ sở cộng đồng Chiến lược và chính sách quản lý, bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng của các nước trong khu vực đều được tiến hành theo những hướng sau: - Những giải pháp chủ yếu để tăng cường quyền quản lý BVR trên cơ sở cộng đồng: Phát huy những luật tục, phong tục tập quán và trách nhiệm của toàn cộng đồng đối với công tác QLBVR, xây dựng qui ước, hương ước QLBVR của thôn, bản, qui định rõ quyền lợi và trách nhiệm của mọi người dân trong cộng đồng. - Kết hợp những giải pháp về chính sách hỗ trợ về kinh tế - xã hội để khuyến khích người dân tham gia, trong đó chú trọng phát triển đồng bộ cả giải pháp về đào tạo, tập huấn trong việc QLBVR trên cơ sở cộng đồng. - Các hình thức QLBVR: Tuần tra BVR, PCCCR trên địa bàn phải được thực hiện theo phương pháp cùng tham gia ở tất cả các giai đoạn tuần tra bảo vệ, xây dựng lực lượng, kế hoạch bảo vệ. Đây được xem là phương pháp cho phép phát huy đầy đủ nhất những nội lực của cộng đối với công tác QLBVR. 1.1.5. Quan điểm về QLBVR trên cơ sở cộng đồng Bảo vệ có hiệu quả tài nguyên rừng chính là để nâng cao chất lượng cuộc sống cho các cộng đồng dân cư thôn, bản. Công tác QLBVR phải được tiến hành đồng thời với sự phát triển kinh tế - xã hội và góp phần nâng cao thu nhập cho cộng đồng dân cư thôn, bản trên địa bàn. Mấu chốt của vấn đề
  10. 8 QLBVR trên cơ sở cộng đồng vừa là bảo vệ được tài nguyên rừng vừa giải quyết tốt vấn đề nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng. Bảo vệ tài nguyên rừng nếu không có sự tham gia của cộng đồng dân cư thôn, bản thì sẽ không thành công. Vì vậy, đề xuất các giải pháp để nâng cao trách nhiệm và quyền hưởng lợi của cộng đồng dân cư thôn, bản trong QLBVR là rất cần thiết. Để công tác QLBVR đạt hiệu quả cao thì phải có chính sách khuyến khích, thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư thôn, bản. 1.2. Tình hình nghiên cứu và thực hiện trên thế giới Trong giai đoạn hiện nay QLBVR trên cơ sở cộng đồng đang được xem như là một giải pháp hữu hiệu để bảo vệ hiệu quả vốn rừng hiện còn, góp phần giải quyết tình trạng diện tích, chất lượng rừng ngày một giảm. Đã có không ít những mô hình quản lý BVR trên cơ sở cộng đồng thành công ở Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc, ở Nê Pal, Indonesia, Nhật Bản.... Đây sẽ là những bài học quý báu cho quá trình xây dựng những giải pháp quản lý bền vững tài nguyên rừng trên cơ sở cộng đồng ở Việt Nam. Quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng ở một số nước: Ở Nhật Bản Nhật Bản hiện có 25,21 triệu ha rừng, trong đó: rừng cộng đồng chiếm 10%, rừng tư nhân chiếm 60%, rừng Quốc gia chiếm 30%. Từ đam mê và quan tâm đến văn hoá, người Nhật đã học được cách cải tiến việc sử dụng bền vững và bảo tồn nguồn tài nguyên rừng rất lớn. Vì vậy, thực tế các mục tiêu chính trong luật pháp rừng và quản lý tài nguyên ở Nhật Bản đều được công bố rõ ràng, để đẩy mạnh và phát triển bền vững dựa trên cơ sở lợi ích cộng đồng ngay từ những năm 1800 [4]. Ở Thái Lan
  11. 9 Thái Lan là một nước được các nước trong khu vực và trên thế giới đánh giá cao về những thành tựu trong công tác xây dựng các chương trình BVR trên cơ sở cộng đồng. [12]. Ở đây, sử dụng đất đai được thông qua chương trình làng rừng, hộ nông dân được giao đất nông nghiệp, đất thổ cư, đất để trồng rừng. Người nông dân được Chính phủ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và có trách nhiệm quản lý đất, không được chặt hoặc sử dụng cây rừng. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đã làm gia tăng mức độ an toàn cho người được nhận đất. Do vậy đã ảnh hưởng tích cực đến việc khuyến khích đầu tư và tăng sức sản xuất của đất. Ở Indonesia Năm 1991, chương trình phát triển lâm nghiệp được hình thành, năm 1995 đổi tên thành chương trình phát triển cộng đồng làng lâm nghiệp do Bộ lâm nghiệp quản lý. Chương trình này yêu cầu các công ty khai thác gỗ phải góp phần phát triển nông thôn và BVR với 3 mục tiêu: - Cải thiện điều kiện sống cho người dân sống ở trong và ngoài khu vực đang khai thác gỗ. - Nâng cao chất lượng và năng suất của rừng. - BVR và môi trường. Năm 1996, Bộ lâm nghiệp, các tổ chức phi Chính phủ và các trường Đại học đã xây dựng một chương trình dự án điểm lôi kéo người dân vào bảo vệ và phát triển rừng. Dự án này cho phép người dân quản lý 10.000 ha rừng có khả năng khai thác gỗ [15],[16]. Ở Ấn Độ Đặc điểm nổi bật trong chính sách quản lý rừng của Ấn Độ là sự duy trì mối quan hệ giữa rừng với người dân các bộ tộc và những người nghèo sống ở trong rừng và gần rừng, bảo vệ quyền lợi nhận rừng và hưởng lợi từ rừng
  12. 10 lâu đời của họ. Ấn Độ đã coi cộng đồng như một đối tác quản lý những vùng đất rừng của Chính phủ. Chính phủ cho phép các cộng đồng được sử dụng tất cả các sản phẩm không phải là gỗ, còn việc phân chia quyền lợi cây gỗ lại có sự thay đổi nhiều giữa các Bang. Tại Ấn Độ, người ta nghiên cứu một số giải pháp nhằm tạo ra hoặc tăng thêm các tổ chức địa phương có hiệu lực lâu dài cho quản lý rừng cộng đồng [16].. Ở NêPal Năm 1957, Nhà nước thực hiện quốc hữu hoá rừng, Nhà nước tập trung quản lý, BVR và đất rừng, người dân ít quan tâm đến BVR của Nhà nước, kết quả là trong vòng 20 năm hàng triệu ha rừng bị tàn phá. Từ năm 1978, Chính phủ đã giao quyền quản lý và BVR cho người dân địa phương để thực hiện chính sách phát triển lâm nghiệp cộng đồng. Tuy nhiên, sau một thời gian người ta nhận thấy các đơn vị hành chính này không phù hợp với việc quản lý và BVR do các khu rừng nằm phân tán, không theo đơn vị hành chính và người dân có nhu cầu, sở thích sử dụng sản phẩm rừng khác nhau. Năm 1989, Nhà nước thực hiện chính sách lâm nghiệp mới đó là chia rừng và đất rừng làm hai loại: rừng tư nhân và rừng Nhà nước cùng với hai loại sở hữu rừng tương ứng là sở hữu tư nhân và sở hữu rừng Nhà nước. Trong quyền sở hữu của Nhà nước lại được chia theo các quyền sử dụng khác nhau như: rừng cộng đồng theo nhóm người sử dụng, rừng hợp đồng với các tổ chức, rừng tín ngưỡng, rừng phòng hộ. Nhà nước công nhận quyền pháp nhân và quyền sử dụng cho các nhóm sử dụng. Năm 1993, Nêpal phát triển chính sách lâm nghiệp mới, nhấn mạnh đến các nhóm sử dụng rừng, cho phép gia tăng quyền hạn và hỗ trợ cho các nhóm sử dụng rừng thay chức năng của các phòng lâm nghiệp huyện từ chức năng
  13. 11 cảnh sát và chỉ đạo sang chức năng hỗ trợ và thúc đẩy cho các cộng đồng, từ đó rừng được quản lý và bảo vệ có hiệu quả hơn. Năm 2000 QLBVR trên cơ sở cộng đồng được thực hiện tại các vùng đồi có diện tích trên 500 nghìn ha rừng suy thoái được giao cho các nhóm sử dụng rừng. Hoạt động này đã thu hút sự tham gia của khoảng 800.000 hộ (4 triệu người). Trọng tâm của chính sách lâm nghiệp cộng đồng tại Nepal là bảo vệ rừng cộng đồng và cho phép người dân tiếp cận tài nguyên rừng phục vụ nhu cầu sinh hoạt cơ bản. Lâm nghiệp cộng đồng tại Nepal dựa vào các nhóm sử dụng rừng, trong đó mỗi nhóm được giao quản lý một diện tích rừng nhất định. Nhà nước được lợi từ hoạt động này là diện tích rừng suy thoái được phủ xanh trong khi đó các nhóm sử dụng rừng có cơ hội tiếp cận lâm sản [22] Tóm lại, quản lý BVR trên cơ sở cộng đồng đang được xem như là một giải pháp hữu hiệu đối với việc bảo vệ tốt rừng hiện còn, giải quyết tình trạng diện tích, chất lượng rừng giảm sút. Trong những năm gần đây đều có không ít mô hình BVR thành công ở Nhật Bản, NêPal, Indonesia…. Từ những kết quả thực tế của đó của các nước đã thu được trong công tác QLBVR trên cơ sở cộng đồng, một vấn đề cực kỳ quan trọng là phải giải thích cho cộng đồng rõ những lợi ích mang lại cho cộng đồng và những chính sách về kinh tế trong công tác và để bảo vệ rừng có hiệu quả phải tuân thủ nguyên tắc gắn công tác QLBVR với cộng đồng thôn, bản. 1.3. Quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng ở Việt Nam 1.3.1. Các tổ chức cộng đồng ở Việt Nam - Cộng đồng dân tộc: Hiện nước ta có 54 dân tộc, với mỗi cộng đồng dân tộc đều có những đặc điểm riêng về văn hoá, tổ chức xã hội, tiếng nói, phong tục tập quán... - Cộng đồng làng, bản:
  14. 12 + Làng, xóm ở miền xuôi là hình thức cộng đồng được hình thành trên cơ sở của phương thức canh tác lúa nước, đã có nhiều thể chế tồn tại lâu đời trong xã hội nông thôn Việt Nam. + Thôn, bản ở miền núi là hình thức cộng đồng được hình thành trên cơ sở sắc tộc và kinh tế tự nhiên tự túc, tự cấp, có ảnh hưởng sâu sắc đến việc quản lý, bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng. Ngoài hai hình thức chủ yếu trên còn có các loại hình cộng đồng khác như: cộng đồng tôn giáo, cộng đồng họ tộc, cộng đồng giới tính... Một số loại hình cộng đồng đã được phát triển thành các tổ chức đoàn thể có mục tiêu, điều lệ rõ ràng, hoạt động theo quy chế tổ chức chính trị xã hội hay các tổ chức kinh tế. Một số đoàn thể đã tham gia và có nhiều đóng góp cho việc phát triển lâm nghiệp tại các địa phương như: Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên... 1.3.2. Hình thức QLBVR trên cơ sở cộng đồng ở Việt Nam Tính cộng đồng của các dân tộc Việt Nam đã là yếu quan trọng tạo nên nền tảng cho những thành quả đã đạt được trong công cuộc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng. Vì vậy phát huy vai của các cộng đồng để quản lý nguồn tài nguyên rừng vừa mang ý nghĩa phát huy truyền thống dân tộc, vừa có thể tạo ra một cách quản lý tài nguyên hiệu quả hơn, bền vững hơn, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới. Ở Việt Nam, hình thức quản lý QLBVR trên cơ sở cộng đồng mới được coi là một hình thức tồn tại song song với các hình thức khác như: quản lý BVR Nhà nước, hình thức quản lý BVR tư nhân, do đó việc đánh giá hiệu quả của hình thức này chỉ dừng lại ở những nhận định khái quát, mang tính định tính. Tuy chưa có thống kê chi tiết, nhưng ở những nơi cộng đồng thực sự tham gia vào quản lý BVR thì công tác quản lý BVR có hiệu quả rõ nét, các hành vi xâm hại tài nguyên rừng bị phát hiện và ngăn chặn kịp thời, rừng
  15. 13 ngày càng sinh trưởng phát triển tốt. Thực tiễn cho thấy rằng, quản lý BVR có sự tham gia của cộng đồng dân cư thôn, bản là hình thức quản lý BVR có tính khả thi về kinh tế - xã hội, bền vững về sinh thái môi trường và tiết kiệm chi phí cho Nhà nước. Để trao quyền QLBVR cho các cộng đồng Nhà nước đã thực hiện chính sách giao đất, giao rừng. Đây là một trong những chính sách lớn tạo môi trường thuận lợi cho QLBVR trên cơ sở cộng đồng ở Việt Nam. Chủ trương giao đất, khoán rừng đã được Đảng và Nhà nước ta đề ra và thực hiện từ năm 1968, qua mỗi giai đoạn phát triển, Nhà nước lại có những điều chỉnh, bổ xung kịp thời cho phù hợp với thực tế. Nhìn chung kết quả giao đất lâm nghiệp, giao rừng đã làm cho rừng có chủ thực sự, tạo ra nhiều hình thức sở hữu rừng, tạo điều kiện khai thác tiềm năng đất đai, lao động, tiền vốn tại chỗ. Công tác giao rừng cho cộng đồng dân cư quản lý bảo vệ đều đạt hiệu quả cao, diện tích rừng được giao đều được quản lý tốt, các hiện tượng xâm hại tài nguyên rừng giảm mạnh, ý thức quản lý bảo vệ tài nguyên rừng của cộng đồng dân cư được nâng cao. Thông qua việc tổ chức QLBVR, mối quan hệ xã hội trong cộng đồng và giữa cộng đồng với các cơ quan liên quan đến QLBVR trên địa bàn cũng được nâng cao, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng. Đối với nhà nước, hình thức quản lý bảo vệ rừng này đáp ứng được các mục tiêu về chính sách lâm nghiệp, đối với các chương trình lâm nghiệp nói chung, chương trình 5 triệu ha rừng nói riêng, có tác dụng phục hồi những diện tích rừng đã và đang bị suy thoái thông qua chăm sóc, QLBVR và khoanh nuôi tái sinh. Mặt khác, hình thức này cũng làm giảm chi phí phải trả cho cộng đồng bằng cách chia sẻ lợi ích mang lại và tăng quyền hưởng lợi từ rừng để thúc đẩy cộng đồng tham gia quản lý BVR.
  16. 14 Theo Nguyễn Huy Dũng, quản lý lâm nghiệp cộng đồng tại Việt Nam đã có lịch sử hình thành và phát triển tại một số cộng đồng các dân tộc có đời sống sinh hoạt gắn chặt với môi trường thiên nhiên, như các khu rừng tự nhiên. Hình thức quản lý này thường gắn với luật tục của cộng đồng. Đây là một hình thức tri thức bản địa liên quan đến cộng đồng thôn, bản. Các cộng đồng đã có nhiều kinh nghiệm và truyền thống quản lý rừng theo hướng sử dụng tài nguyên thiên nhiên ổn định và bền vững. Trong thời gian dài tại nhiều vùng khác nhau, quản lý rừng và môi trường sinh thái của cộng đồng đã đóng một vai trò rất quan trọng và mang lại hiệu quả thiết thực cho người dân địa phương về các mặt: - Bảo vệ, quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên rừng và môi trường sinh thái. - Xác định các mối quan hệ sở hữu đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường. - Củng cố mối quan hệ xã hội trong cộng đồng các dân tộc. 1.3.3. Những nghiên cứu chính liên quan đến QLBVR trên cơ sở cộng đồng Việt Nam - Năm 1998, Việt Nam chính thức tham gia "Chương trình hành động lâm nghiệp nhiệt đới" của cộng đồng Quốc tế. Dự án "Tổng quan về lâm nghiệp Việt Nam" với mã hiệu VIE - 08 - 037 đã được tiến hành và kết thúc vào năm 1991, Dự án đã có những đóng góp quý báu vào việc đánh giá hiện trạng lâm nghiệp Việt Nam thời điểm lúc đó và đưa ra những khuyến cáo về việc định hướng phát triển ngành lâm nghiệp cho đến năm 2000 và những năm tiếp theo. - Dự án "Đổi mới chiến lược ngành lâm nghiệp" đây là dự án xuất phát từ yêu cầu cấp bách đối với nước ta sau khi Luật bảo vệ và phát triển rừng đã được ban hành (năm 1991), mục tiêu của dự án là tìm hiểu học tập và hợp tác
  17. 15 để tìm ra các giải pháp chiến lược thực thi có hiệu quả mục tiêu phát triển ngành lâm nghiệp trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam. - Dự án "Phát triển lâm nghiệp xã hội Sông đà" bắt đầu vào năm 1993, dự án này đã chú ý làm việc với "nhóm sử dụng rừng" hơn là với các đơn vị hành chính lâm nghiệp. Dự án đã tiến hành những thu xếp về tổ chức khi thực hiện quy hoạch sử dụng đất và giao đất có người dân tham gia, sau đó tiến hành lập những "nhóm bảo vệ rừng" và hỗ trợ dân bản xây dựng những qui chế bảo vệ rừng. Những quy chế này dựa vào việc quản lý, bảo vệ rừng của cộng đồng để nâng cao sự tự giác của dân bản và tăng cường sự kiểm soát của dân bản, tránh sự phá hoại rừng của những bản lân cận. Củng cố tổ chức cấp thôn bản và xã là việc làm cần thiết tiếp theo. Những Ban quản lý thôn bản mà ít nhất có một thành viên chịu trách nhiệm về lâm nghiệp trong bản được thiết lập khi tiến hành lập kế hoạch phát triển thôn bản hàng năm. Trong quá trình xây dựng kế hoạch dự án sử dụng 4 tiêu chí chính để giới thiệu và tăng cường thực thi quản lý lâm nghiệp cộng đồng, đó là: Quyền sử dụng, nghiên cứu địa phương, khả năng của cộng đồng và điều kiện địa lý khu vực. Vũ Hoài Minh và Haws Warfvinge (2002) đã tiến hành đánh giá về thực trạng quản lý, BVR tự nhiên của các hộ gia đình và cộng đồng địa phương tại 3 tỉnh: Hoà Bình, Nghệ An và Thừa Thiên Huế. Các tác giả đã tìm hiểu về sự hình thành, các lợi ích đạt được và những vấn đề về hưởng lợi, quyền sử dụng và các chính sách liên quan đến hình thức quản lý, BVR này. Trong 5 mô hình quản lý, BVR cộng đồng có 4 hình thức là tự phát của cộng đồng địa phương và được chính quyền địa phương chấp thuận. Họ tự đề ra các qui định về quản lý, sử dụng lâm sản cũng như các hoạt động BVR, phát triển rừng. Các kết quả nghiên cứu, kinh nghiệm quản lý rừng cộng đồng qua các cuộc hội thảo quốc gia về lâm nghiệp công đồng. Đến nay đã có 3 cuộc hội thảo quốc gia về quản lý rừng cộng đồng.
  18. 16 - Hội thảo quốc gia về LNCĐ lần đầu tiên được tổ chức tại Hà Nội trong 2 ngày 01 và 02/6/2000. Hội thảo đã thu hút sự tham gia của gần 60 đại biểu đại diện cho các cơ quan Nhà nước cấp Trung ương và cấp tỉnh, các Viện nghiên cứu, trường Đại học, các chương trình và dự án quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các thành viên tổ công tác, các chuyên gia trong ngành lâm nghiệp. Tại đây nhiều các tác giả cùng các công trình nghiên cứu như: Nguyễn Hồng Quân, Tô Đình Mai, Nguyễn Tường Vân và Urich Appel, Edwin Sauk, Nguyễn Văn Thuận, Âu Văn Bảy, Trần Văn Con với các báo cáo về kinh nghiệm từ hoạt động dự án và một số nghiên cứu điểm. Hội thảo đã thống nhất có hai hình thức quản lý rừng ở Việt Nam: + Cộng đồng quản lý trực tiếp rừng và đất rừng thuộc quyền sở hữu chung của thôn bản (như rừng thiêng, rừng do Lâm trường, hợp tác xã giao cho thôn bản, rừng đầu nguồn ở địa phương, đồng cỏ chăn nuôi, đất trống được quy hoạch để trồng rừng hoặc tái sinh tự nhiên). + Cộng đồng tham gia vào việc quản lý những diện tích rừng thuộc sở hữu hoặc quản lý của các cơ quan nhà nước như bảo vệ rừng phòng hộ, rừng đặc dụng qua các hợp đồng khoán bảo vệ với các cơ quan nhà nước, bảo vệ rừng sản xuất do các Lâm trường khoán bảo vệ rừng và đất rừng đã giao cho các hộ gia đình và các tổ chức khác. - Hội thảo quốc gia về lâm nghiệp cộng đồng được tổ chức lần 2 trong 2 ngày 14, 15/11/2001 tại Hà Nội là bước tiếp theo nhằm làm rõ các yếu tố khuôn khổ pháp lý của rừng cộng đồng, việc thực thi các chính sách hỗ trợ cho quản lý rừng cộng đồng tại Việt Nam. Trong hội thảo có rất nhiều báo cáo và các vấn đề thảo luận: ‘‘Báo cáo về khuôn khổ pháp lý, chính sách của Nhà nước và hiện trạng quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam’’ của tác giả : Phạm Xuân Phương, Hà Công Tuấn, Vũ Văn Mê, Nguyễn Hồng Quân. Các báo cáo về sự vận dụng chính sách lâm nghiệp nhà nước ở cấp tỉnh của các
  19. 17 tác giả như : Sheelagh, Orelly, Vũ Hữu Tuynh, Nguyễn Ngọc Lung, Lê Ngọc Anh, Nguyễn Hải Nam, Cao Vĩnh Hải… Cuối cùng hội thảo đi đến kết luận cộng đồng đang quản lý 15% diện tích rừng của nhà nước, đó là thực tế mang tính khách quan và ngày càng có một vị trí quan trọng trong hệ thống quản lý tài nguyên rừng ở Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn một số những vướng mắc trong khuôn khổ chính sách hưởng lợi từ rừng khi tham gia bảo vệ và phát triển rừng như: không quy định cộng đồng dân cư thôn bản là đối tượng của chính sách này. Sự vận dụng các chính sách của nhà nước và địa phương đã có tính sáng tạo, cụ thể là một số tỉnh đã mạnh dạn thí điểm giao đất giao rừng và cấp sổ đỏ cho cộng đồng dân cư thôn bản như Sơn La, Thừa Thiên Huế, ĐăcLắk. - Hội thảo quốc gia về lâm nghiệp cộng đồng được tổ chức lần 3 và tháng 11/2004 tại Hà Nội với nội dung về khuôn khổ và thể chế quản lý rừng cộng đồng, chính sách hưởng lợi trong quản lý rừng cộng đồng, đánh giá tài nguyên rừng và khai thác rừng cộng đồng. Hội thảo kết luận, quản lý rừng cộng đồng hiện đang tồn tại như một xu thế khách quan và ngày càng có vị trí quan trọng trong hệ thống quản lý tài nguyên rừng, nhiều diện tích đất lâm nghiệp có thể giao cho cộng đồng quản lý (Diện tích rừng xa khu dân cư, có địa hình phức tạp mà các tổ chức nhà nước và hộ gia đình không có khả năng quản lý và quản lý không có hiệu quả, các khu rừng giữ nguồn nước phục vụ trực tiếp cho cộng đồng, khu rừng giáp danh giữa các thôn, xã). Bên cạnh đó, vấn đề hưởng lợi của cộng đồng quản lý rừng được nhiều nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu, đặc biệt là tác giả Nguyễn Bá Ngãi, Nguyễn Ngọc Lung. Tác giả Phạm Xuân Phương với khảo sát đánh giá tình hình triển khai chính sách hưởng lợi đối với hộ gia đình, các nhân, cộng đồng được giao nhận khoán rừng năm 2003. Bên cạnh đó về kỹ thuật đánh giá thực trạng quản lý rừng cộng đồng của các tác giả Nguyễn Hồng Quân, Vũ Long, Phạm Xuân Phương đã
  20. 18 đưa ra khung định vị đánh giá hiện trạng quản lý rừng cộng đồng gồm 5 tiêu chí. Tuy nhiên, các tác giả cũng đã nêu rõ việc chọn tiêu chí đánh giá phải phụ thuộc và từng vùng, từng cộng đồng dân cư. Cũng trong tháng 9/2004, Nguyễn Ngọc Lung, VIFA cùng tổ chức các quốc gia về quản lý rừng cộng đồng đã đưa ra hội thảo lần 2 hướng dẫn giao đất về quản lý rừng cộng đồng, hướng dẫn giao đất có rừng cho cá nhân, hộ gia đình, nhóm hộ và cộng đồng. Qua hội thảo, các báo cáo và các công trình nghiên cứu của các tác giả cho thấy, tuy nhà nước chưa quy định quyền hưởng lợi của cộng đồng với những diện tích rừng cộng đồng hiện đang quản lý, song trên thực tế cộng đồng đang quản lý và có quyền hưởng lợi, phân chia lợi ích từ rừng. - Hội thảo quốc gia về quản lý rừng cộng đồng vào tháng 6/2009 tại Hà Nội, với nội dung quản lý rừng cộng đồng. Hội thảo nhằm hướng tới mục tiêu học hỏi và chia sẻ những kinh nghiệm quản lý rừng cộng đồng để nâng cao nhận thức, tăng cường kỹ năng quản lý rừng, góp phần phát triển thể chế, chính sách lâm nghiệp cộng đồng của Việt Nam. Hội thảo tập trung vào các nội dung liên quan tới kinh nghiệm và thực tiễn quản lý rừng cộng đồng của các chương trình dự án và ở một số địa phương của Việt Nam, những kiến nghị và đề xuất hoàn thiện chính sách cho quản lý rừng cộng đồng ở Việt Nam. Các nội dung này xoay quanh bốn vấn đề trọng tâm sau: thứ nhất, xác lập quyền quản lý và sử dụng rừng của cộng đồng; thứ hai, kế hoạch quản lý rừng cộng đồng; thứ ba, quyền hưởng lợi và nghĩa vụ; thứ tư, tổ chức quản lý rừng cộng đồng. Hội thảo đã thu hút được sự tham gia của sự tham gia của hơn 70 đại biểu từ nhiều tổ chức, chương trình, dự án trong nước và quốc tế như Trung tâm Đào tạo Lâm nghiệp Cộng đồng Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (RECOFTC), Chương trình Thí điểm LNCĐ ở Việt Nam, Dự án
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1