intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu khảo nghiệm các giống lai giữa bạch đàn vùng cao với bạch đàn vùng thấp

Chia sẻ: Tri Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:67

14
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Nghiên cứu khảo nghiệm các giống lai giữa bạch đàn vùng cao với bạch đàn vùng thấp" tiến hành nghiên cứu nhằm mục tiêu chọn một số tổ hợp lai và dòng lai có năng suất cao hơn các giống hiện đang sử dụng trong sản suất 20 -30%.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu khảo nghiệm các giống lai giữa bạch đàn vùng cao với bạch đàn vùng thấp

  1. 1 MỞ ĐẦU Bạch đàn (Eucalyptus) là một chi thuộc họ Sim (Myrtaceae) gồm 664 loài, có phân bố ở Australia, Indonesia, Philippine và Papua New Guinea (Wang, G. and Yang, M., 1996). Các loài cây của chi này có khả năng thích nghi với các lập địa khác nhau và đang được sử dụng để gây trồng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Hàng trăm loài bạch đàn đã được khảo nghiệm ở nhiều nước, song chỉ có ít loài và xuất xứ được chọn để trồng rừng trên diện rộng (Davidson. J, 1998). Tổng diện tích trồng bạch đàn trên Thế giới đến năm 1985 là 7 triệu hecta thì đến năm 1988 là 10 triệu hecta, đến năm 2000 có thể là 16 triệu hecta (Davidson, 1998). Hơn 100 nước trồng bạch đàn ở quy mô lớn. Các vùng trồng nhiều là Châu Á Thái Bình Dương (trên 6 triệu hecta), Nam Mỹ (4,5 triệu hecta), Châu Phi (1,6 triệu hecta). Hai nước có diện tích trồng bạch đàn lớn nhất là Brazil (3,6 triệu hecta) và Ấn Độ (4,8 triệu hecta) (Davidson, 1998). Theo House thì khoảng 40% rừng trồng ở các nước nhiệt đới là các loài cây có nguồn gốc từ Australia mà chủ yếu là bạch đàn (Davidson, 1998). Trong chương trình trồng 5 triệu ha rừng ở Việt Nam thì nhóm loài bạch đàn và keo chiếm tới 60% diện tích. Điều này nói nên vai trò và tầm quan trọng của bạch đàn trong các chương trình trồng rừng của nước ta. Bạch đàn là cây có nhiều ưu điểm, có khả năng thích nghi với nhiều điều kiện khí hậu, đất đai, lại cho năng suất tương đối cao10-20m3/ha/năm trong khi đó rừng nhiệt đới tự nhiên chỉ đạt 2-3m3/ha/năm) và rừng trồng bồ đề là10- 15m3/ha/năm (Thái Văn Trừng, 1980). Thực tế cho thấy việc chọn loài, xuất xứ, chọn lập địa và các biện pháp kỹ thuật lâm sinh đều có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất rừng (FAO, 1979). Mặt khác, muốn trồng bạch đàn có hiệu quả PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  2. 2 cao phải tiến hành công tác chọn giống và lai giống để có giống năng suất cao, phù hợp với từng điều kiện lập địa ở từng vùng sinh thái. Chọn lọc cây trội kết hợp với lai giống và sử dụng giống lai đang được nhiều nhà chọn giống quan tâm. Những nghiên cứu về lai giống và sử dụng giống bạch đàn lai ở một số nước như Brazil, Congo, Trung Quốc, ấn Độ, Philippin, Indonesia, Zambia..... cho thấy lai giống tạo ra được các giống mới có năng suất cao hơn rất nhiều so với các giống bố mẹ. Trong đó nổi bật là các giống lai E. grandis x E. tereticornis, E. torelliana x E. pellita, E. torelliana x E. urophylla ở Philippin, E. tereticornis x E. grandis và một loạt tổ hợp lai giữa các loài E. urophylla x E. grandis (Bạch đàn cự vĩ); E. urophylla x E. tereticornis (Bạch đàn vĩ hệ), E. grandis x E. urophylla (Bạch đàn cự vĩ) do Viện nghiên cứu khoa học Khâm Châu Trung Quốc chọn tạo. Hiện nay Quảng Tây - Trung Quốc là đơn vị trồng được 35 triệu mẫu tương đương 2,3 triệu ha bạch đàn, Quảng Tây tạo ra nhiều giống bạch đàn lai cao sản với chu kỳ kinh doanh 4 năm cho năng suất bình quân được 40m3/ha/năm với giá bán ở Trung Quốc là 550 nhân dân tệ/m3 tương đương với 1,65 triệu đồng/m3, như vậy doanh thu đạt khoảng 60 triệu VNĐ/ha/năm và Trung Quốc coi đây là cây làm giàu trên vùng đồi núi dốc của nông dân Quảng Tây Trung Quốc. Để đạt năng suất 40m3/ha/năm với chu kỳ kinh doanh ngắn 4 năm, Quảng Tây đă đưa ra khái niệm gói công nghệ trồng bạch đàn bao gồm giống lai (nuôi cấy mô) + đào hố sâu, rộng + bón phân 500 kg Ure/ ha/năm + trồng tập trung quy mô lớn (Hội nghị chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cây lâm sản ngoài gỗ, Lạng Sơn tháng 9 năm 2010). Ở Việt Nam bắt đầu năm 1996 đến 2000 đề tài “Bước đầu nghiên cứu lai giống cho một số loài bạch đàn” do GS.TS Lê Đình Khả làm chủ nhiệm đề tài và các năm tiếp từ 2001 đến 2015 đề tài “ Nghiên cứu lai giống một số loài bạch đàn, tràm , keo, thông” giai đoạn 1, 2 và 3 do TS. Nguyễn Việt PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  3. 3 Cường làm chủ nhiệm đề tài, đã tiếp tục lai tạo và thực hiện các khảo nghiệm trên các vùng sinh thái khác nhau trong cả nước. Theo chiến lược phát triển lâm nghiệp Quốc gia 2006-2020 được phê duyệt ngày 1 tháng 7 năm 2008 (số 78/QĐ-BNN), cho thấy trong nghiên cứu lâm nghiệp đă đạt được thành tựu trong một số lĩnh vực như chọn tạo giống, nhân giống..... Kết quả nghiên cứu đă được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn sản xuất. Nhiều giống quốc gia, giống tiến bộ kỹ thuật đối với bạch đàn, keo, phi lao… có năng suất cao và khả năng chống chịu đă được công nhận giống. Tuy nhiên nghiên cứu về cải thiện giống và lâm sinh vẫn còn tồn tại lớn là các kết quả nghiên cứu khoa học được đưa vào sản xuất còn hạn chế và nghiên cứu chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của sản xuất, vì vậy đề tài " Nghiên cứu khảo nghiệm các giống lai giữa bạch đàn vùng cao với bạch đàn vùng thấp” là rất cần thiết đáp ứng một phần nhu cầu thực tiễn của sản xuất. Đối tượng trong nghiên cứu này là một số giống bạch đàn vùng thấp như là Bạch đàn urô (Eucalyptus urophylla), Bạch đàn caman (Eucalyptus camaldulensis) và Bạch đàn liễu (Eucalyptus exserta, còn các loài bạch đàn vùng cao là E. saligna, E. grandis, E. microcorys. Các loài bạch đàn này đều có quan hệ họ hàng tương đối gần gũi nhau nên rất dễ lai giống với nhau ( Willcox, 1997), Pryor & Johnson, 1971). Mục tiêu của đề tài: Chọn một số tổ hợp lai và dòng lai có năng suất cao hơn các giống hiện đang sử dụng trong sản suất 20 -30%. PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  4. 4 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 1.1 Tình hình nghiên cứu lai giống cây rừng Giống lai là giống được tạo ra do lai tự nhiên hoặc lai nhân tạo giữa hai cá thể có kiểu gen khác nhau. Giống lai thường có năng suất cao hơn bố mẹ. Do vậy, nghiên cứu lai giống và sử dụng giống lai đang được nhiều nhà chọn giống nông lâm nghiệp quan tâm. Ưu điểm nổi bật của giống lai là có ưu thế lai (heterosis) ở đời F1. Đó là ưu thế về sinh trưởng làm cho cây lai vượt trội về năng suất hơn bố mẹ (Shull, 1911; Gyorfey, 1960) hoặc có một tính trạng nào đó cao hơn bố mẹ (Snyder, 1972). Ưu thế lai thường liên quan đến các tính trạng về kích thước của cây như đường kính, chiều cao, thể tích thân cây, kích thước lá v.v.... Song ưu thế lai cũng có thể là sự ưu trội của bất cứ một tính trạng nào khác như chất lượng gỗ, sản lượng và chất lượng của một sản phẩm mong muốn, tính chịu đựng với điều kiện bất lợi, tính chống sâu bệnh, tính chín sớm v.v.. (Zobel B. and J. Talbert, 1984). Đối với cây rừng có đời sống dài ngày khó có thể tạo các dòng thuần để làm cây bố mẹ mà phải lai trực tiếp các bố mẹ có kiểu gen dị hợp tử (heterozygote). Do vậy, các cây lai được tạo ra cũng có kiểu gen không đồng nhất, vì thế bên cạnh ưu thế lai được thể hiện ở cả tổ hợp lai và cũng có cả hiện tượng ưu thế lai cá thể (Turbin và cộng sự, 1982, dẫn từ Lê Đình Khả, 1999). Ưu thế lai cá thể là trường hợp hay gặp ở các giống lai tự nhiên. Đây là các cây lai được xuất hiện do sự kết hợp một cách ngẫu nhiên của những bố mẹ khác nhau, những bố mẹ này bao gồm cả những cây tốt nhất, lẫn những cây xấu nhất, bao gồm cả cây sinh trưởng nhanh, hình dáng thân đẹp lẫn PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  5. 5 những cây sinh trưởng chậm, hình dạng thân xấu. Do vậy, cây lai F1 được tạo ra cũng hết sức đa dạng về tính trạng. (Lê Đình Khả, 1999). Các nghiên cứu gần đây về ưu thế lai ở thế hệ F2 của bạch đàn lai cũng cho thấy các giống lai F2 chúng vẫn có ưu thế lai về sinh trưởng so với giống bố mẹ và giống sản xuất đại trà (Nguyễn Việt Cường, 2010). Một số nhà chọn giống cho rằng, chỉ những tính trạng tốt nhất và mong muốn nhất của bố mẹ mới thể hiện rõ ràng trong cây lai, nhưng thực tế thì cũng có trường hợp những tính trạng xấu nhất của mỗi loài bố mẹ cũng có thể xuất hiện trong cây lai (Zobel & Talbert, 1984). Bên cạnh hệ gen nhân, ưu thế lai cũng chịu ảnh hưởng của tế bào chất, điều kiện hoàn cảnh và thay đổi theo các giai đoạn phát triển cá thể (Lobasev, 1970, dẫn từ Lê Đình Khả, 1999). Nghiên cứu của Glori (1993) về lai giống thuận nghịch giữa các loài bạch đàn đã cho thấy thể tích viên trụ ở cây 4 năm tuổi của tổ hợp lai thuận E. pellita x E. urophylla là 180,9 dm3/cây thì tổ hợp lai nghịch E. urophylla x E. pellita là 145,7 dm3/cây, trong lúc E. pellita là 35 dm3/cây và E. urophylla là 25,8 dm3/cây. Như vậy, chuyển đổi vị trí của cây bố mẹ trong phép lai thuận nghịch đã làm thay đổi sinh trưởng của cây lai, nói cách khác là ưu thế lai chịu ảnh hưởng của tế bào chất. Một thí dụ về sự biểu hiện ưu thế lai thay đổi trong từng giai đoạn khác nhau là giống lai Pinus sondereggeri. Đây là giống lai giữa P.taeda và P. palustris ( Namkoong, 1963). Trong giai đoạn vườn ươm, cây lai thường sinh trưởng nhanh và mập hơn bố mẹ. Sau khi đem trồng ở rừng thì P.taeda lại sinh trưởng nhanh hơn cây lai và P. palustris, nhưng đến 40 tuổi P. palustris lại có kích thước lớn nhất (dẫn từ Lê Đình Khả, 1999). Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật nuôi cấy mô phân sinh và giâm hom cho phép sử dụng ưu thế lai đời thứ nhất trực tiếp vào sản xuất thì lai giống và giống lai cũng được sử dụng rộng rãi trong lâm nghiệp. Đến nay, PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  6. 6 các giống lai được sử dụng chủ yếu trong lâm nghiệp phần lớn thuộc các loài dễ nhân giống bằng hom và nuôi cấy mô phân sinh như các loài Dương (Populus sp.), Liễu (Salix sp) và những năm gần đây là bạch đàn (Eucalyptus sp) và keo (Acacia sp) (Hunziker, 1958, Schreiner, 1963, Zobel và Talbert, 1984). Trong các giống đó phải kể đến một số giống nổi tiếng là giống Dương lai I - 214 ở Châu Âu (lai giữa P.nigna với P. deltoides của Mỹ) (Zobel và Talbert, 1984) và giống bạch đàn lai E. urophylla x E. grandis ở Brazil (Davidson, 1998). Các cây nhân giống sinh dưỡng lấy từ một cây lai đã chọn ban đầu được gọi là một dòng vô tính. Để có được giống lai tốt nhất cần tiến hành khảo nghiệm so sánh các dòng vô tính này với các loài bố mẹ, sau đó tiếp tục chọn lọc những dòng cây lai tốt, có năng suất cao nhất và hình dáng thân đẹp nhất làm nguồn giống để đưa vào sản xuất. Do đó việc chọn tạo và sử dụng giống lai trong lâm nghiệp là rất có triển vọng. Đối với cây nông nghiệp ngắn ngày có thể chọn tạo được dòng thuần trước khi lai giống và chọn lọc cây lai trong nhiều thế hệ để tạo ra các giống lai ổn định. Tuy nhiên phương pháp này lại rất khó áp dụng vào việc chọn tạo giống lai cho cây rừng. Bởi vì muốn tạo dòng thuần cho cây rừng phải mất hàng chục năm. Trên thực tế người ta thường lai trực tiếp các bố mẹ có gen dị hợp tử với nhau. Những bố mẹ có gen dị hợp tử này rất khó tạo ra ưu thế lai. Vì thế mà Wright (1976) đã cho rằng không có gì đáng ngạc nhiên khi hàng trăm giống lai ở các loài cây gỗ đã được tạo ra, song chỉ một số ít được ứng dụng. Nghiên cứu của Golodriga (1960) về lai giống nho (Vitis vinifera) đã thấy rằng, trong 79 tổ hợp lai với 2844 cây lai được tạo ra chỉ 22 cây là có triển vọng. Còn lai xa địa lý giữa các giống nho thuộc các nhóm sinh thái địa lý khác nhau thì trong 70 tổ hợp lai với 1820 cây lai chỉ có 46 cây là có triển vọng (dẫn từ Lê Đình Khả 1999). PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  7. 7 Lai giống là đề tài đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Piatnitsky (1960) cho rằng, lai giống có thể tạo ra những tổ hợp gen mới, nhưng Wagner (1969) nhấn mạnh rằng, lai giống làm giảm sự đa dạng di truyền và nó chỉ lấp đầy kẽ hở của biến dị. Theo Zobel và Talbert (1984) lai giống nhân tạo có thể tạo ra giống lai mà trong tự nhiên khó tạo được, còn Martin (1989) lại cho rằng, lai giống là phương pháp có hiệu quả để loại trừ một số gen gây chết. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều thừa nhận rằng chính lai giống đã tạo ra được giống có ưu thế lai và lai giống (trong loài) cũng có vai trò quan trọng trong sự tiến hoá của các loài (Stockwell và Righter, 1947; Righter, 1955; Duffield và Snyder, 1958; Lotsy, 1916) {dẫn từ Kharana và Khosla, 1998}. Sau khi tạo ra giống lai có ưu thế lai thì phương thức để duy trì ưu thế lai và đưa giống lai vào sản xuất là phải nhân giống sinh dưỡng bằng nuôi cấy mô phân sinh và giâm hom. Đó là sự nhân giống từ chồi non hoặc hom cành của cây lai đời F1. Phương pháp này dựa trên cơ sở của phân bào nguyên phân. Đây là dạng phân bào mà từ một tế bào mẹ tạo thành hai tế bào con có số lượng và cấu trúc thể nhiễm sắc giữ nguyên như tế bào mẹ ban đầu. Nhân giống sinh dưỡng là phương thức nhân giống tốt nhất để truyền đạt các vật chất di truyền của thế hệ trước cho thế hệ sau. Nhờ đó mà cây sinh ra từ nuôi cấy mô phân sinh hoặc hom cây vẫn giữ nguyên các đặc tính của cây mẹ lấy hom. Vì vậy, nhân giống sinh dưỡng là phương thức thích hợp để duy trì ưu thế lai và các tính chất khác của cây lai đời F1. Nhân giống sinh dưỡng là biện pháp duy trì các kiểu gen mong muốn, là sự giữ lại tối đa các tăng thu di truyền (Zobel & Talbert, 1984). 1.2 Tình hình nghiên cứu lai tạo giống bạch đàn trên thế giới PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  8. 8 1. 2.1 Nghiên cứu thời điểm tung hạt phấn và thời điểm tiếp nhận hạt phấn của nhụy Hạt phấn được tung ra từ bao phấn và quá trình này hoàn thành sau 1 ngày đối với bạch đàn E. urophylla, 2 ngày đối với E. deglupta, E. grandis, E. regnans. Ở các loài bạch đàn này đến ngày thứ 4 vẫn có một lượng nhỏ hạt phấn dính trong bao phấn và những hạt phấn này thường chết. Thời điểm thu hạt phấn tốt nhất là trước một ngày hoa nở (Eldridge và các tác giả khác, 1993). Theo Hodgson (1976) thì hạt phấn của Bạch đàn grandis có thể lưu lại trên đầu nhụy 1- 2 ngày trước khi đầu nhụy có khả năng tiếp nhận hạt phấn, Griffin và Hand (1976) cho rằng những hạt phấn rơi trên đầu nhụy ở ngày nở hoa đầu tiên sẽ chết trước khi đầu nhụy có khả năng tiếp nhận chúng. Sở dĩ có hiện tượng này là do trong cùng một hoa nhị chín trước nhụy và chính ở thời điểm này nhụy hoa chưa thể tiết ra chất nhầy do đó không thể giữ được phấn hoa của chính nó ở ngày nở hoa, hậu quả là hạt phấn của chính hoa đó sẽ chết sau 2-3 ngày, vì thế rất ít có khả năng xảy ra tự thụ phấn trong cùng một hoa. Hơn nữa, việc tự thụ phấn cũng giảm đi rất nhiều do ống phấn của những cây khác thường sinh trưởng nhanh hơn ống phấn của chính cây đó trong vòi nhụy và vì thế cơ hội thụ phấn khác hoa hay khác cây thuận lợi hơn nhiều (Griffin và cộng sự, 1987; Sedgley và Smith, 1989). Nghiên cứu của Hodgson (1976) và Griffin & Hand (1976) về quá trình thụ tinh và phát triển hạt cho thấy E. grandis và E. regnans có tỉ lệ kết hạt cao nhất khi thụ phấn vào ngày thứ 4 đến ngày thứ 6 sau khi hoa nở khi đầu nhuỵ phồng lên và tiết chất nhầy (dính), còn những ngày tiếp sau đó thì giảm dần. PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  9. 9 Một nghiên cứu khác về E. woodwardii cho thấy khả năng tiếp nhận hạt phấn thích hợp nhất là 7 ngày sau nở hoa (Sedgley và cộng sự, 1989; Sedgley, 1989). Nghiên cứu của Polunia (1959) cũng như Griffin và cộng sự (1982) ở các loài E. cinerea, E. macarthurii, E. occidentalis cho thấy thời điểm đầu nhụy tiếp nhận hạt phấn tốt nhất là 3 ngày sau nở hoa. Hạt phấn nẩy mầm trên đầu nhụy và xâm nhập vào noãn và tại đây sẽ diễn ra quá trình thụ tinh. Bầu nhụy gồm nhiều noãn, nhưng thông thường chỉ vài noãn là kết hạt được qua thụ phấn tự do. Mỗi noãn cần có một hạt phấn riêng biệt để thụ tinh. Các hạt chứa trong mỗi quả đều có cùng nguồn gốc cây mẹ nhưng lại có nhiều hạt phấn từ các cây đực khác nhau thụ tinh tạo thành hạt trong cùng một quả nang. Nếu cây khác loài được thụ tinh vào cây mẹ (trong cùng một mùa ra hoa) thì sẽ có rất nhiều hạt lai trong cùng một quả (Sedgley và cộng sự 1989). Griffin và cộng sự cho biết ở E. grandis chỉ 1,48 noãn có hạt trong tổng số 16,7 noãn có khả năng sinh sản có nghĩa là chỉ khoảng 9% số noãn được kết hạt. Theo nghiên cứu của Hodgson (1976) thì thụ phấn có kiểm soát đã làm tăng khả năng kết hạt từ 8 hạt/ quả trong thụ phấn tự do lên 34 hạt /quả khi thụ phấn có kiểm soát. 1. 2 .2 Những nghiên cứu về lai giống ở bạch đàn trên thế giới Lai giống để tạo ra giống lai có ưu thế lai là hướng đi mà các nhà chọn giống từ lâu đã rất quan tâm. Năm 1963 Danks đã tạo ra được tổ hợp lai giữa E.grandis với E.tereticornis, E. torelliana với E. pellita và E. urophylla ở Philippin (Shelbourne và Danks, 1963). Năm 1976 Pryor lai ba cho (E. delgatensis x E. bicostata) x E. ficifolia đã không thành công. Viện nghiên cứu lâm nghiệp Dehra Dun ở Ấn độ đã tạo được 2 giống bạch đàn lai ký hiệu là F.R.I-4 và F.R.I-5, có sức sinh trưởng nhanh và có PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  10. 10 tính thích nghi rộng hơn loài thuần, ở tuổi 4 cây lai có khối lượng thể tích gấp 3 lần E.tereticornis cùng tuổi. Tổ hợp lai E. tereticornis x E.grandis có khả năng sinh trưởng tốt trên đất khô và nghèo dinh dưỡng mà chính ở đó E. grandis lại sinh trưởng rất kém. Chứng tỏ ưu thế lai thể hiện mạnh nhất ở nơi trồng không thuận lợi cho loài thuần (Jacobs, 1981; Eldridge, và cộng sự, 1993). Nhận định này cũng phù hợp nghiên cứu của Martin (1989). Tiếp theo là một loạt tổ hợp lai giữa các loài E. alba, E. camaldulensis, E. microtheca, E. terericornis, E. polycarpa và E. torelliana cũng được tạo ra trong các năm 1991 - 1999. Ở giai đoạn 6 tháng tuổi một số tổ hợp lai đã có ưu thế lai khá rõ so với bố mẹ (Paramathma, Surendran, 2000). Chương trình cải thiện giống bạch đàn dựa trên phép lai đôi và lai ba cũng được thực hiện tại Brazil. Sinh trưởng tính theo thể tích ở tuổi 7 của những cá thể lai ba [E. urophylla x (E. camaldulensis x E. grandis] là 0,331 m3/cây đã vượt các cây lai tốt nhất của các tổ hợp lai đôi (E. grandis x E. urophylla, E. grandis x E. camaldulensis, E. urophylla x E. camaldulensis) có các trị số tương ứng là 0,290 m3/cây, 0,253 m3/cây, 0,234 m3/cây còn loài thuần E. urophylla, E. grandis với các trị số tương ứng là 0,229 m3/cây và 0,247 m3/cây (Assis, 2000). Ở Zambia năm 1960 đã phát hiện giống lai tự nhiên giữa E. tereticornis x E. grandis và E. grandis x E. tereticornis, những giống lai này đều tỏ ra rất có triển vọng, sức sinh trưởng tốt hơn bố hoặc mẹ và hình dáng đẹp hơn E. grandis, chịu được khô hạn hơn E. grandis nhưng lại kém E. tereticornis. Tính chất gỗ cũng trung gian giữa bố và mẹ (Shelbourne và Danks, 1963. FAO, 1979). Ở Congo trong thập niên 1960 đã phát hiện được 3 giống bạch đàn lai tự nhiên là E. torelliana x E. citriodora, E. tereticornis x E.grandis, E.alba PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  11. 11 với giống chưa xác định (undetermined hybrid). Những giống lai này đều có sinh trưởng nhanh và thích nghi tốt hơn loài bố mẹ. Từ năm 1978 cho đến nay bạch đàn lai đã được sử dụng rộng rãi trong rừng trồng công nghiệp đó là các giống lai tự nhiên E. alba x giống lai chưa xác định, 12ABL x E.saligna, E. tereticornis x E. grandis, và các giống lai nhân tạo là E. urophylla x E. grandis, E. urophylla x E. pellita (Vigneron và cộng sự, 2000). Giống lai nhân tạo giữa 12ABL x E. saligna đạt năng suất 35m3/ha/năm ở tuổi 6, trong khi đó cũng ở tuổi này 12ABL chỉ đạt 12m3 và E. saligna là 6 m3 (Chaperon, 1978) (dẫn từ FAO,1979). Theo Martin (1989) thì đến năm 1989 đã có hơn 20 tổ hợp lai khác loài được tạo ra ở chi bạch đàn, trong đó chủ yếu là nhóm E. grandis và E. urophylla được dùng làm cây mẹ. Đó là cây mẹ E. grandis lai với các loài E. robusta, E. camaldulensis, E. tereticornis, E. saligna và E. pellita, và cây mẹ E. urophylla lai với E. grandis, E. pellita và E.resinifera. Năm 1975 Viện nghiên cứu lâm nghiệp Quảng Tây (Trung Quốc) đã lai giữa E. saligna với E. exserta tạo ra được một số tổ hợp lai có khả năng vượt trội hơn so với loài E. exserta tới 82% về thể tích thân cây, trong đó tổ hợp lai nghịch E. exserta x E. saligna có sinh trưởng nhanh hơn tổ hợp lai thuận E. saligna x E. exserta (Shuxiong, 1989). Từ năm 1989 Viện lâm nghiệp nhiệt đới của Trung Quốc cũng tạo ra 204 cây lai từ các cặp bố mẹ giữa E. urophylla với các loài E. tereticornis, E. camaldulensis, E. exserta, E. grandis, E. saligna và E. pellita. Trong đó một số cá thể cây lai từ các tổ hợp E. urophylla x E. tereticornis và E. urophylla x E. camaldulensis đã có ưu thế lai rõ rệt về sinh trưởng so với bố mẹ của chúng, cây lai có thể tích vượt bố mẹ với các trị số tương ứng là 120,7% và 89,4% (Xiang & Wang, 1996; Shen, 2000) Các tổ hợp lai thuận nghịch giữa E. urophylla và E. grandis cũng đã được tạo ra ở Trung Quốc PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  12. 12 (Wang and Yang, 1996, Rezende, G. và Rezende, M., 2000; Bouvet và Combes, 1997), ở Brazil và ở Indonesia (Hardlyanto & Tridasa, 2000). Chương trình cải thiện giống cho E. pellita dựa trên phép lai thuận nghịch cũng được thực hiện ở Congo. Sinh trưởng của những cá thể tốt nhất của các tổ hợp lai xa khác loài đã vượt các xuất xứ tốt của các loài bố mẹ (Harwood, 1998). Theo nghiên cứu của Harbard và các tác giả khác (2000) thì thụ phấn có kiểm soát thường làm tăng khả năng kết hạt so với bố mẹ của chúng, như tổ hợp E. grandis(G1) x E.dunnii(D1) có tỉ lệ kết hạt là 24,9 hạt/quả, trong khi đó tỉ lệ ở G1 là 19,2 hạt/quả còn ở D1 là 5,6 hat/quả. Nhưng cũng có trường hợp thụ phấn có kiểm soát đã làm giảm khả năng kết hạt so với bố mẹ chúng như ở tổ hợp lai E.dunnii(D1) x E. grandis(G3) có tỉ lệ kết hạt là 3,5 hạt/ quả, trong khi đó bố mẹ của chúng là 5,6 hạt/ quả và 6,2 hạt/quả. Như vậy tuỳ loài cây làm mẹ mà có thể làm tăng hoặc giảm tỉ lệ kết hạt trong thụ phấn có kiểm soát. Tuy nhiên cũng có trường hợp khi đổi vị trí bố mẹ cho nhau đã không đậu quả và kết hạt như khi lai E. globulus x E.camldulensis, trong tổ hợp lai này E. globulus chỉ làm được bố, có nghĩa là khi E. camaldulensis làm mẹ thì lai thành công (Potts và cộng sự, 1992). Tính không tương hợp về một phía cũng thường xuất hiện khi lai khác loài, tổ hợp lai E. nitens x E. globulus chỉ thành công khi E. nitens làm mẹ, nói một cách khác là trong cặp lai này E. globulus chỉ làm được bố. Gore và cộng sự (1990) nghiên cứu tính không tương hợp một phía giữa vòi nhụy và ống phấn ở 2 loài này cho thấy ống phấn ở E. nitens sinh trưởng tối đa chỉ đạt 6 mm, trong khi chiều dài vòi nhụy của E. globulus lại dài tới 9-10 mm. Như vậy trong trường hợp này chiều dài của ống phấn ngắn hơn nhiều so với chiều dài của vòi nhụy, vì vậy ống phấn của E. nitens không thể xâm nhập tới noãn của E. globulus và hiện tượng thụ tinh sẽ không thể xảy ra được. PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  13. 13 Thông thường ưu thế lai thể hiện rõ hơn trong những điều kiện môi trường sống bất lợi và chúng có phạm vi thích ứng rộng hơn mức bình thường. Nghiên cứu của Verryn (2000) cho thấy những tổ hợp lai có sức chống chịu với điều kiện môi trường bất lợi là E. grandis x E. camaldulensis, E. grandis x E. tereticornis, E. grandis x E. urophylla. Venkatesh và Sharma (1976, 1977) đã nghiên cứu ưu thế lai về sinh trưởng và tính nở hoa sớm. Ưu thế lai thể hiện sức đề kháng nấm, chống chịu rét và sương muối hơn loài thuần cũng đã được các tác giả Kapoor và Sharma (1984), Almeida và cộng sự (1993) Venkatesh và Thapliyal (1993) nghiên cứu. Ưu thế lai về năng suất được thể hiện ở tổ hợp lai E. grandis x E. urophylla và E. pellita x E. urophylla, chúng đều là những tổ hợp lai có ưu thế lai vượt hơn các loài thuần và được trồng thành rừng kinh tế ở Brazil và Congo (Eldridge và các tác giả khác, 1993). Ưu thế lai về sinh trưởng và tính chịu lạnh thể hiện ở tổ hợp lai E. grandis x E. nitens, còn ưu thế lai về sinh trưởng và chống chịu bệnh loét thân (stem canker) thể hiện ở tổ hợp lai E. grandis x E. urophylla (Verryn, 2000). Tính ưu trội chịu lực cũng như khả năng làm bột giấy của các tổ hợp lai E. urophylla x E. grandis tốt hơn so với E. urophylla x E. pellita cũng đã được Bouvet và cộng sự nghiên cứu vào năm 1997. Tổ hợp lai E. grandis x E. urophylla có năng suất rừng trồng lên 45,5 m3/ha (2,5 tuổi ) trong lúc xuất xứ Wetar tốt nhất của bạch đàn urô chỉ đạt 29,3 m3/ha ( Turvey, 1995). Fowler (1978) đã cho rằng ưu thế lai trong các tổ hợp lai khác loài và khác xuất xứ có tính chất ngoại lệ hơn là có tính quy luật. Theo ông, khi giao phối giữa các loài bố mẹ thích ứng cao chưa chắc đã sản sinh ra cây lai cũng có tính thích ứng cao với chính lập địa mà các loài bố mẹ đã sinh sống. Còn theo Eldridge và các tác giả khác (1993) thì nhiều giống bạch đàn lai đã sinh PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  14. 14 trưởng kém hơn bố mẹ thuần (khi bố mẹ được chọn lọc cẩn thận về loài và xuất xứ). Như vậy ưu thế lai có thể bao gồm cả sự vượt trội theo chiều dương, lẫn chiều âm của cây lai so với bố mẹ của chúng, nghĩa là có cả ưu thế lai tăng lên và ưu thế lai giảm xuống (Turbin, 1967) Nghiên cứu của Assis (2000) cho thấy, thể tích viên trụ ở cây 4 năm tuổi của tổ hợp lai E. urophylla x E. grandis là 303 dm3, trong lúc đó giống bố mẹ E. urophylla là 88 dm3 còn E. grandis là 260 dm3 , trong trường hợp này giống lai có ưu thế lai vượt trội theo chiều dương so với bố mẹ. Nhưng trong tổ hợp lai E. grandis x E. dunnii thì ưu thế lai lại thể hiện theo chiều âm so với giống bố mẹ, thể tích viên trụ sau 4 năm chỉ đạt 52 dm3 , trong khi đó giống bố mẹ E. grandis là 261 dm3 và E. dunnii là 132 dm3. Ưu thế lai cũng thể hiện rất rõ ở phép lai thuận nghịch giữa E. pellita và E. deglupta, thể tích viên trụ ở cây 4 năm tuổi của tổ hợp lai thuận E. deglupta x E. pellita là 194,5 dm3 thì tổ hợp lai nghịch E. pellita x E. deglupta là 66,5 dm3, trong lúc đó E. deglupta là 33,7 và E. pellita là 35,0 dm3 (Glori, 1993). Nghiên cứu lai giống giữa E. grandis và E. dunnii ở Uruguay cho thấy tỉ lệ đậu quả và số hạt/quả ở tổ hợp lai thuận E. grandis x E. dunnii là 38% và 24.9 hạt/quả thì của tổ hợp lai nghịch E. dunnii x E. grandis là 10% và 5.4 hạt/ quả, trong lúc các chỉ tiêu tương ứng của E. grandis là 33.3% và 19.2 hạt/quả, của E. dunnii là 21.7% và 5.6 hạt/quả ( Harbard và các tác giả khác, 2000). 1. 3 Nghiên cứu chọn giống và lai giống bạch đàn ở Việt Nam Chọn giống bạch đàn có thể được bắt đầu từ những năm 1930 khi các nhà lâm nghiệp người Pháp là những người đầu tiên đã xây dựng các khu khảo nghiệm loài Bạch đàn trắng (E. tereticornis), Bạch đàn đỏ (E.robusta) v. v....ở một số vùng sinh thái chính trong cả nước (Hoàng Chương, 1996; Lê PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  15. 15 Đình Khả và Dương Mộng Hùng, 1998). Trong những năm 1950 nước ta đã xây dựng được các khu khảo nghiệm cho 18 loài bạch đàn ở vùng Đà Lạt như E. saligna, E. microcorys, E. camaldulensis, E. robusta, E. citriodora, E.globulus, E. botroides, E. maideni, E. resinifera v.v.. trong đó các loài E. microcorys, E. saligna có khả năng thích ứng khá và sinh trưởng nhanh nhất ở vùng Đà Lạt. Sau 40 năm các loài này có chiều cao 35 - 40m với đường kính ngang ngực 50 - 60cm (Lê Đình Khả và các cộng tác viên, 1995). Các loài này chính là các nguồn vật liệu để tham gia lai giống và sẽ tạo ra được các giống lai mới sinh trưởng nhanh và có tính thích ứng rộng hơn so bố mẹ của chúng. Năm 1959 bạch đàn đã trở thành cây chủ lực trong phong trào nhân dân trồng cây và phủ xanh đồi trọc. Theo thống kê của Tổng cục lâm nghiệp, đến năm 1971 riêng khu vực quốc doanh đã trồng được 40.000 ha rừng bạch đàn. Trong số đó Bạch đàn liễu (E. exserta) chiếm tuyệt đại bộ phận. Ngoài ra còn có Bạch đàn trắng (E.camaldulensis), Bạch đàn đỏ (E.rubosta) và Bạch đàn chanh (E. citriodora) (Lê Đình Khả, 1970). Từ những năm 1970, đã có các khảo nghiệm loài và xuất xứ ở một số lập địa chính trong cả nước. Các loài được khảo nghiệm là E. camaldulensis, E.tereticornis, E. urophylla, E.grandis, E.pellita, E.cloeziana v. v.. đã xác định được một số loài có triển vọng là E. camaldulensis, E.tereticornis, E. urophylla (Lê Đình Khả, Phạm Văn Tuấn, Đoàn Thị Bích, 1996; Huỳnh Đức Nhân, 1996). Đây cũng chính là cơ sở ban đầu cho việc xây dựng các chương trình trồng rừng bạch đàn ở Việt Nam. Trong các năm 1975 - 1995, đã có hàng trăm xuất xứ của 16 loài bạch đàn, trong đó E. camaldulensis có 64 xuất xứ, E. tereticornis có 18 xuất xứ và E. brassiana có 8 xuất xứ đã được đưa vào khảo nghiệm ở nhiều nơi trong PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  16. 16 nước (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1995). Kết quả cho thấy chỉ có một số ít xuất xứ là có triển vọng và được đưa trồng trên diện rộng, chẳng hạn với E.camaldulensis, có thể chọn các xuất xứ Kennedy River, Morehead River, cho nhiều vùng trên cả nước (Hoàng Chương, 1994; Phạm Văn Tuấn, 1997) và Gibb River (cho các tỉnh Miền Nam), Burdedin (cho các tỉnh Bắc Trung Bộ và Nam Bộ). Trong 3 xuất xứ của E. urophylla thì xuất xứ Lembata phù hợp với Bắc Trung Bộ, còn Lewotobi và Egon Flores cho các tỉnh miền Bắc (Lê Đình Khả và cộng tác viên 1995, 2001 Nguyễn Dương Tài, 1993, Phạm Văn Tuấn, 1997). Các loài có triển vọng cho vùng cao ở Đà lạt là E.microcorys ( xuất xứ Đà Lạt), E.grandis ( Lê Đình Khả và các cộng tác viên, 1996). Năm 1980 - 1984 một khảo nghiệm loài và xuất xứ bạch đàn đã được xây dựng trên đất phèn Tân Tạo huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh. Có 20 xuất xứ của 6 loài bạch đàn là E. alba E. brassiana, E. camaldulesis, E.citriodora, E.grandis, E.tereticornis đã tham gia khảo nghiệm. Kết quả cho thấy 3 loài có khả năng thích ứng được ở lập địa này theo thứ tự là E. tereticornis với các xuất xứ Oro Bay(PNG) và xuất xứ Sirinumu (PNG), sau đến E.brassiana và cuối cùng là E. camaldulensis (Hoàng Chương, 1994). Tiếp đến, năm 1992 đã có 8 xuất xứ của E. pellita được tham gia khảo nghiệm tại vùng trung tâm nguyên liêu giấy Vĩnh Phú. Kết quả khảo nghiệm sau 2 năm cho thấy sinh trưởng của các xuất xứ không có sự khác biệt rõ rệt, trong 8 xuất xứ của E. pellita thì có 2 xuất xứ có sinh trưởng tương đương với E. urophylla ( Cấn Văn Thơ, 1996). Sau khi đã xác định được loài và xuất xứ tốt, đáp ứng mục tiêu kinh tế và phù hợp với mỗi vùng cần chọn lọc cây trội là bước đi quan trọng nhất của bất kỳ một chương trình nào trong cải thiện giống cây rừng. Theo Eldridge (1976), cây trội là nền tảng của một chương trình chọn giống. Các cây trội đã được chọn về thực chất mới chỉ là kiểu hình, chưa hẳn đã phản ánh đúng bản PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  17. 17 chất di truyền của cây đó. Vì thế, không phải cây trội nào cũng cho cây đời sau có kiểu hình tốt như các cây bố mẹ. Để có thể đánh giá kiểu gen và khả năng di truyền của chúng về các tính trạng cần được cải thiện, phải tiến hành xây dựng các khảo nghiệm hậu thế và khảo nghiệm dòng vô tính. Tại Trảng Bom sau khi chọn lọc cây trội đã nhân giống bằng hom và tạo được 19 dòng vô tính sau 6 tháng khảo nghiệm chỉ 3 dòng vượt cây hạt đối chứng, 10 dòng vượt cây hom đối chứng (Lê Đình Khả và cộng sự, 1996). Kết quả khảo nghiệm 43 dòng vô tính E. camaldulensis tại Ba Vì cho thấy cấp sinh trưởng của một số dòng vô tính đã thay đổi khá rõ rệt sau 2 năm và 5 năm khảo nghiệm. Ví dụ dòng số 35 sau 2 năm (1995) được xếp hạng đầu (trong 10 dòng tốt nhất) thì 5 năm (1998) sau tụt xuống vị trị thứ 8 ( thực tế là thứ 28 trong 43 dòng) với thể tích thân cây chỉ bằng khoảng 1/3 của dòng số 22 là dòng đứng đầu (mà 2 năm trước chỉ đứng ở vị trí thứ 5 trong 10 dòng này)( Lê đình Khả, 1999a). Từ đó cho thấy để bảo đảm độ tin cậy trong khảo nghiệm giống thì cần có thời gian đủ lớn (với loài cây sinh trưởng nhanh như bạch đàn thì cần sau 3 năm). Kết quả khảo nghiệm dòng vô tính của E. camaldulesis xuất xứ Petford tại Trung tâm Phù Ninh sau 4 năm cho thấy, từ 69 dòng được khảo nghiệm đã có 10 dòng có sinh trưởng vượt đối chứng. Dòng tốt nhất có thể tích viên trụ vượt đối chứng là 54% (Nguyễn Sỹ Huống, 1996). Vào thập niên 1990 một số giống bạch đàn đã được nhân giống bằng nuôi cấy mô như bạch đàn U6 (E. urophylla) nhập từ Trung Quốc (xí nghiệp giống thành Phố Hồ Chí Minh), GU, PN2, PN14 (Trung tâm nghiên cứu cây nguyên liệu giấy Phù Ninh). Trung tâm nghiên cứu nguyên liệu giấy Phù Ninh đã trồng được 30 ha rừng bạch đàn urô bằng cây mô từ những dòng nhập của Trung Quốc và một số dòng được tuyển chọn như PN2, PN14.v.v.. PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  18. 18 rừng trồng sau 2 năm có độ đồng đều khá cao, hệ số biến động bình quân về đường kính và chiều cao < 10%, trong lúc rừng trồng từ hạt thường >20%. Sinh trưởng của cây mô nhanh hơn hẳn cây từ hạt, trữ lượng bình quân sau 30 tháng tuổi của mô hình thâm canh là 42,5m3/ha, trong lúc cây từ hạt đã được tuyển chọn làm đối chứng là 28,5 m3/ha và rừng sản suất là 7,6 m3/ha (Mai Đình Hồng, 1998). Một giống bạch đàn lai tự nhiên giữa E. exserta với E. camaldulensis cũng đã được Trung tâm giống nghiên cứu giống cây rừng nhân giống bằng nuôi cấy mô ( Nguyễn Ngọc Tân, Trần Hồ Quang, 1997). Kết quả khảo nghiệm hơn các giống bạch đàn bằng cây mô từ 2 dòng PN2, PN14 đã có năng suất vượt các giống GU , U16 của Trung Quốc 53,8 - 60% về thể tích (Lê Đình Khả, 1999a) và đã được Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn công nhận giống để trồng trên diện rộng ở vùng Trung tâm. Đến năm 2000 Viện khoa học lâm nghiệp đã đề nghị Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn công nhận giống tiến bộ kỹ thuật cho một số loài và xuất xứ bạch đàn thuộc các loài E. camaldulensis, E.tereticornis, E. urophylla, E. exserta, E. cloeziana, E. brassiana, E. microcorys và E. grandis (Phạm Văn Tuấn và công sự, 2000). Năm 1970 có nghiên cứu về giống lai tự nhiên giữa bạch đàn trắng (E. camaldulensis) với bạch đàn đỏ ( E. robusta) đã cho thấy bạch đàn lai có sinh trưởng về đường kính gấp 2,3 lần bạch đàn trắng (ở Mạo Khê và Yên Lập thuộc Quảng Ninh) đến gấp 5,39 lần (ở Ba Hàng và Lưu Xá thuộc Bắc Thái), về chiều cao gấp 1,63 lần (ở Ba Hàng) đến 2,05 lần (ở Đền Hùng -Vĩnh Phú). Còn so với bạch đàn đỏ, nơi có trồng xen với bạch đàn lai và bạch đàn trắng như ở Kim Sen (Mạo Khê) thì về đường kính có thể lớn gấp 1,5 lần và chiều cao có thể cao gấp 2 lần. Nghiên cứu các đặc trưng về hình thái và giải phẫu lá cũng cho thấy bạch đàn lai thể hiện tính trung gian giữa bạch đàn đỏ (E. PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  19. 19 robusta) với bạch đàn trắng (E.camaldulensis). Mặc khác khi dùng hạt để nhân giống thì đời thứ 2 đã có hiện tượng phân ly rất rõ (Lê Đình Khả, 1970). Nghiên cứu lai giống cho bạch đàn thành công phải kể đến công trình “ Bước đầu nghiên cứu về lai giống một số loài bạch đàn” giai đoạn 1996-2000 do GS. TS Lê Đình Khả làm chủ nhiệm đề tài và đã thu được hơn 60 tổ hợp lai nhân tạo đầu tiên. Qua khảo nghiệm cũng đã chọn lọc được 31 cây trội thuộc 8 tổ hợp lai (U29E1, U29E2, U29C3, U29C4, U29U24, U29U26, U15C4, U30E5) ( Lê Đình Khả, 2000). Tóm lại, nhiều công trình nghiên cứu đã đi sâu vào giải quyết nhiều nội dung cơ bản về các đặc trưng chủ yếu của cây lai và ý nghĩa của nó trong sản xuất. Đồng thời qua một số nghiên cứu thực nghiệm các tác giả cũng đã chỉ ra một số tổ hợp lai có ưu thế lai về sinh trưởng, tính chống chịu với sâu bệnh và điều kiện môi trường bất lợi. Những kết quả nghiên cứu này làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo và được ứng dụng ở từng nơi. Đó cũng là những dẫn liệu và định hướng quan trọng cho đề tài này. Tuy các công trình nghiên cứu ở các nước trên thế giới đã giải quyết nhiều các vấn đề liên quan tới việc lai giống bạch đàn. Nhưng cũng chưa có tác giả nào kể cả trong nước đề cập tới các vấn đề lai giống giữa các loài bạch đàn vùng thấp (Bạch đàn urô, Bạch đàn caman, Bạch đàn liễu), với bạch đàn vùng cao (E. grandis, E. saligna, E. microcorys) nhằm chọn được các dòng lai có năng suất cao và có tính thích ứng rộng hơn bố mẹ của chúng. PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
  20. 20 CHƯƠNG 2: MỤC TIÊU, NỘI DUNG, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu của đề tài: Chọn một số tổ hợp lai và dòng lai có năng suất cao hơn các giống hiện đang sử dụng trong sản suất 20 -30%. 2.2. Nội dung nghiên cứu 2.2.1. Nghiên cứu về lai giống 2.2.1.1. Chọn lọc cây trội làm cây bố mẹ 2.2.1.2. Xác định sức sống hạt phấn 2.2.1.3. Khả năng đậu quả và kết hạt của một số loài bạch đàn 2.2.2. Khảo nghiệm giống lai 2.2.2.1 Sinh trưởng của một số tổ hợp lai tại Ba Vì - Hà Nội ( 6/2009 – 6/2011) 2.2.2.2. Sinh trưởng các giống bạch đàn lai tại Tam Thanh (7/2004 -1/2010) 2.2.2.3. Chọn lọc cây trội có sinh trưởng triển vọng ở các tổ hợp bạch đàn lai 2.2.2.4. Sinh trưởng các dòng bạch đàn lai mới tại Tam Thanh (7/2007 – 8/2010) 2.3 Đối tượng, vật liệu nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu lai giống (bố mẹ) của bạch đàn vùng cao: E. grandis, E. saligna, E. Microcorys PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the waterma
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2