intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học loài cây Huỳnh đường (Dysoxylum loureiri) tại Khu bảo tồn thiên nhiên – văn hóa Đồng Nai

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:85

22
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài này nghiên cứu xác định được đặc điểm sinh học và sinh thái của loài Huỳnh đường. Đề xuất một số giải pháp kỹ thuật lâm sinh trong gây trồng và bảo tồn loài Huỳnh đường tại huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học loài cây Huỳnh đường (Dysoxylum loureiri) tại Khu bảo tồn thiên nhiên – văn hóa Đồng Nai

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ---------------------------- TRẦN THỊ QUYÊN NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC LOÀI CÂY HUỲNH ĐƯỜNG (Dysoxylum loureiri) TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN –VĂN HÓA ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Đồng Nai, năm 2012
  2. TRẦN THỊ QUYÊN NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC LOÀI CÂY HUỲNH ĐƯỜNG (Dysoxylum loureiri) TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN –VĂN HÓA ĐỒNG NAI CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC MÃ SỐ: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. PHẠM XUÂN HOÀN Đồng Nai, năm 2012
  3. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm qua do nhiều nguyên nhân khác nhau, rừng tự nhiên càng ngày bị thu hẹp về diện tích, sút kém về chất lượng, đặc biệt trong giai đoạn từ năm 1980 – 1997 trung bình mỗi năm mất đi khoảng 80,000ha[1]. Từ năm 1990 trở lại đây, diện tích và độ che phủ của rừng đã được tăng lên liên tục thông qua các chương trình, dự án trồng rừng toàn quốc, các chủ trương chính sách hạn chế khai thác rừng tự nhiên, trồng rừng mới, phục hồi lại rừng tự nhiên.... Nhưng trên thực tế trữ lượng và chất lượng rừng vẫn chưa được cải thiện như mong muốn. Nhận thức rõ những giá trị, tầm quan trọng cũng như nguy cơ suy thoái của tài nguyên rừng, sự suy giảm đa dạng sinh học nên Nhà nước và Chính phủ Việt Nam đã sớm có những chính sách ngắn hạn, trung hạn cũng như chiến lược dài hạn nhằm bảo vệ, phát triển tài nguyên rừng một cách ổn định và bền vững. Nằm trong hệ thống rừng đặc dụng quốc gia, Khu Bảo tồn Thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai (dưới đây gọi tắt là KBT) đã chú trọng đến khôi phục và phát triển tài nguyên rừng. Để làm được điều này, đòi hỏi những người làm công tác quản lý phải có những hiểu biết đầy đủ về bản chất các quy luật sống của rừng như: đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của các loài; quá trình tái sinh, sự hình thành và động thái phát triển của quần xã. Vì vậy, nghiên cứu và bảo vệ hệ sinh thái rừng tự nhiên cũng như nghiên cứu sinh thái cá thể được đặc biệt quan tâm. Việc thiếu thông tin về đặc điểm sinh thái loài gây nên những khó khăn trong việc đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển cây rừng. Do đó, đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học loài cây Huỳnh đường (Dysoxylum loureiri) tại khu Bảo tồn Thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai” là một trong những tiếp cận nghiên cứu nhằm cung cấp những thông tin khoa học về một loài cây bản địa có giá trị kinh tế và sinh thái ở KBT góp phần tìm hiểu sâu hơn về loài cây này. Từ kết quả đó làm cơ sở đề xuất một số giải pháp phát triển và bảo tồn loài cây này ở Đồng Nai nói riêng cũng như ở Việt Nam nói chung.
  4. 2 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Trên thế giới 1.1.1. Nghiên cứu sinh thái, tái sinh rừng Trong lâm nghiệp, nhiều tác giả đã đi sâu nghiên cứu về sinh thái rừng làm cơ sở đề xuất biện pháp tác động hợp lý và xây dựng thành các hệ thống kỹ thuật lâm sinh. Một số công trình tiêu biểu như: Rừng mưa nhiệt đới (P.W. Richards, 1952) [49], Cơ sở sinh thái học của kinh doanh rừng mưa (G. Baur,1976) [2]. Trên cơ sở nghiên cứu sinh thái rừng mưa, G.Baur đã tổng kết các biện pháp lâm sinh tác động vào rừng và phân loại các biện pháp theo mục đích nhằm đem lại rừng căn bản đồng tuổi, không đồng tuổi, các phương pháp xử lý cải thiện. Yurkevich (1960) và Timofeev (1964), đã chứng minh độ đầy tối ưu cho sự phát triển bình thường của đa số các loài cây gỗ là 0,6  0,7 (dẫn theo Nguyễn Văn Thêm, 1992) [37]. Quan điểm cho rằng độ khép tán của quần thụ ảnh hưởng trực tiếp đến mật độ và sức sống của cây con được đề cập bởi Orlov, 1951; Alekseev, 1954 và Makximov, 1971 (dẫn theo Nguyễn Văn Thêm, 1992) [37]. Sự thiếu ánh sáng không chỉ ảnh hưởng đến phát triển của cây con mà còn ảnh hướng đối với quá trình nảy mầm và phát triển của cây mầm, ảnh hưởng này đôi lúc không thể hiện rõ ràng. Thảm cỏ, cây bụi có ảnh hưởng rõ nét đến sinh trưởng của cây tái sinh. Ở những quần thụ kín tán, thảm cỏ và cây bụi kém phát triển nhưng chúng vẫn có ảnh hưởng đến cây tái sinh. Mật độ và sức sống của cây con chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi độ khép tán của quần thụ (Baur, 1964). Khi nghiên cứu hiệu quả tái sinh rừng (Mibbreuad, 1930; Aubreville, 1938; Richards, 1933; 1939; Beard, 1946; Lebrun và Gilbert, 1954; Joné, 1955; 1956; Schultz, 1960; Baur, 1976; 1979; Rollet, 1969) đã cho rằng hiệu quả tái sinh rừng được xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc điểm phân bố (dẫn theo Nguyễn Văn Thêm, 1992) [37]. Tuy nhiên,
  5. 3 các nghiên cứu của họ chỉ tập trung vào những loài cây có ý nghĩa thực tiễn trong tổ thành cây tái sinh. Đối với rừng mưa nhiệt đới, quá trình tái sinh tự nhiên vô cùng phức tạp và còn ít được nghiên cứu. Cho nên đến nay, phần lớn những tài liệu nghiên cứu về tái sinh tự nhiên của rừng mưa thường mới chỉ tập trung vào một số loài cây có giá trị kinh tế dưới điều kiện rừng đã ít nhiều bị biến đổi. Về đặc điểm tái sinh rừng nhiệt đới, Van Steenis (1956) [51] cho rằng hai đặc điểm tái sinh phổ biến của rừng mưa nhiệt đới là tái sinh phân tán liên tục của các loài cây chịu bóng và tái sinh vệt của các loài cây ưa sáng. Cũng ở chủ đề này, hiệu quả các biện pháp xử lý lâm sinh liên quan đến tái sinh của các loài cây mục đích ở các kiểu rừng được đề cập nhiều hơn. Kết quả đó đã được đưa vào ứng dụng trong phương thức lâm sinh để tác động vào rừng tự nhiên. Điển hình như công trình của Bernard (1954 và 1959) (dẫn theo Nguyễn Duy Chuyên, 1996) [8]; cụ thể đối với phương thức rừng đồng tuổi ở Mã Lai, Bắc Borneo được đề cập bởi Nicholson (1958); Donis và Maudoux (1951; 1954); công thức đồng nhất hoá tầng trên ở Zaia theo Taylor (1954), Jones (1960) (dẫn theo Grieg, 1964) [45]; phương thức chặt dần tái sinh dưới tán ở Nijêria và Gana cũng được Barnarji (1959) giới thiệu; phương thức chặt dần nâng cao vòm lá ở Andamann (dẫn theo Nguyễn Duy Chuyên, 1996) [8]. Đánh giá ứng dụng của những xử lý lâm sinh trên thông qua các bước và hiệu quả của từng phương thức đối với tái sinh đã được đề cập bởi Baur (1964) [2] tổng kết trong tác phẩm: “Cơ sở sinh thái học của kinh doanh rừng mưa”. Richards (1965) [16], Kimmins (1998) [46] đã tổng kết các kết quả nghiên cứu về phân bố số cây tái sinh tự nhiên đi đến nhận xét: trong các ô có kích thước nhỏ (1 x 1m, 1 x 1,5m) cây tái sinh tự nhiên có dạng phân bố cụm, một số ít có phân bố Poisson. Ở châu Phi, Tayloer (1954); Barnard (1955) trên cơ sở các số liệu thu thập đã xác định số lượng cây tái sinh bị thiếu trong rừng nhiệt đới cần thiết phải bổ sung bằng trồng rừng nhân tạo. Song ở châu Á, tác giả Budowski (1956); Bava (1954); Atinot (1965) nghiên cứu về tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới lại nhận định: dưới tán rừng nhiệt đới nhìn chung có đủ số lượng cây tái sinh có
  6. 4 giá trị kinh tế, nên đề xuất các biện pháp lâm sinh cần thiết để bảo vệ và phát triển cây tái sinh có sẵn dưới tán rừng (dẫn theo Nguyễn Duy Chuyên, 1996) [8]. Ở châu Phi Aubreville (1938), nhận thấy cây con của các loài cây ưu thế trong rừng mưa là rất hiếm. Lý luận “bức khảm tái sinh” được Aubreville đúc kết sau khi đã khái quát hoá các hiện tượng tái sinh ở rừng nhiệt đới, song phần lý giải các hiện tượng đó còn hạn chế. Do lý luận đó ít sức thuyết phục, chưa giúp ích cho thực tiễn sản xuất. Ở rừng mưa nhiệt đới Nam Mỹ, David và Richards (1933); Beard (1946); Sun (1960); Rollet (1969) nhận định khác hẳn với nhận định của Aubreville (dẫn theo Hoàng Kim Ngũ và Phùng Ngọc Lan, 1997) [29]. Đó là hiện tượng tái sinh tại chỗ và liên tục của các loài cây và tổ thành loài cây có khả năng giữ nguyên không đổi trong một thời gian dài. Từ kết quả đó, khi nghiên cứu về tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả áp dụng phương pháp điều tra bằng cách lấy mẫu ô vuông theo hệ thống của Longman and Jơnik (1974) [48] có diện tích ô đo đếm thông thường từ 1 m2 đến 4 m2. Do chọn diện tích ô nhỏ, nên thuận lợi trong điều tra, song đòi hỏi số lượng ô phải đủ lớn mới phản ánh trung thực tình hình tái sinh rừng. Sau này Bernard (1950), đã đề nghị phương pháp "điều tra chẩn đoán" mà theo đó kích thước ô đo đếm có thể thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của cây tái sinh ở các trạng thái rừng khác nhau nhằm mục đích giảm bớt sai số (dẫn theo Nguyễn Duy Chuyên, 1996) [8]. Nghiên cứu khả năng tái sinh tự nhiên của thảm thực vật sau nương rẫy, Ramakrishnan (1981, 1992), từ 1 - 20 năm ở vùng Tây Bắc Ấn Độ cho thấy chỉ số đa dạng loài rất thấp. Mặt khác chỉ số loài ưu thế đạt đỉnh cao nhất ở pha đầu của quá trình diễn thế và giảm dần theo thời gian bỏ hoá. Long Chun và ctv (1993), đã nghiên cứu đa dạng thực vật ở hệ sinh thái nương rẫy tại Xishuangbanna tỉnh Vân Nam, Trung Quốc nhận xét: tại Baka khi nương rẫy bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài thực vật, bỏ hoá 19 năm thì có 60 họ, 134 chi, 167 loài (dẫn theo Phạm Hồng Ban, 2000) [3]. Sau khi bỏ hoá số lượng loài thực vật tăng dần từ ban đầu đến rừng thành thục. Thành phần của các loài cây trưởng thành phụ thuộc vào tỷ lệ các loài tiên phong mà nó được sống
  7. 5 sót từ thời gian đầu của quá trình tái sinh, thời gian phục hồi khác nhau phụ thuộc vào mức độ, tần số canh tác của khu vực đó được kết luận bởi tác giả Saldarriaga (1991), khi nghiên cứu tái sinh tự nhiên tại rừng nhiệt đới sau nương rẫy ở Colombia và Venezuela (dẫn theo Phạm Hồng Ban, 2000) [3]. 1.1.2. Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng Lịch sử nghiên cứu cấu trúc rừng và các hệ thực vật trên thế giới hình thành từ lâu. Những nghiên cứu về cấu trúc làm cơ sở hoàn thiện các giải pháp lâm sinh, phục vụ cho yêu cầu kinh doanh rừng vào đầu thế kỷ XX đã được chú ý nhiều và phương pháp nghiên cứu từ mô tả định tính chuyển sang định lượng cùng với sự phát triển của thống kê toán học và tin học. Đã có một số tác giả đề xuất các phương pháp nghiên cứu tầng thứ của rừng nhiệt đới, điển hình như phương pháp vẽ biểu đồ mặt cắt đứng của rừng do Richards P.W và Davis T.A.W (1933 - 1934) sử dụng lần đầu tiên ở Guyan vẫn là phương pháp có hiệu quả để nghiên cứu cấu trúc tầng của rừng. Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm là chỉ minh hoạ được cách sắp xếp theo hướng thẳng đứng của các loài cây gỗ trong một diện tích có hạn. Cusen (1951) đã khắc phục bằng cách vẽ một số giải kề bên nhau và đưa lại một hình tượng về không gian ba chiều (dẫn theo Phùng Ngọc Lan, 1986 ) [27]. Richards (1965) [28] và Rollet (1979) [52] khi tìm hiểu về phân bố số cây theo chiều cao, các tác giả cho rằng cấu trúc lâm phần theo chiều thẳng đứng đã dựa vào phân bố số cây theo chiều cao. Phương pháp kinh điển nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên là vẽ các phẫu đồ đứng với các kích thước khác nhau. Các phẫu đồ đã mang lại hình ảnh khái quát về cấu trúc tầng tán, phân bố số cây theo chiều thẳng đứng, từ đó rút ra các nhận xét và đề xuất ứng dụng thực tế. Để có cái nhìn toàn diện và chính xác hơn về cấu trúc phức tạp của rừng nhiệt đới các nghiên cứu cấu trúc rừng được chuyển dần từ mô tả định tính sang định lượng với sự hỗ trợ của thống kê toán học và tin học. Trong đó việc mô hình hoá cấu trúc rừng, xác lập mối quan hệ giữa các nhân tố cấu trúc rừng đã được nhiều tác giả nghiên cứu có kết quả. Vấn đề về cấu trúc không gian và thời gian
  8. 6 của rừng được các tác giả tập trung nghiên cứu nhiều nhất, có thể kể đến một số tác giả tiêu biểu như: B.Rollet (1971) đã biểu diễn các quan hệ chiều cao- đường kính ngang ngực, đường kính tán - đường kính ngang ngực bằng các hàm hồi quy; phân bố đường kính tán, đường kính thân cây dưới dạng các phân bố xác suất; Balley (1973) mô hình hoá cấu trúc thân cây với phân bố số cây theo cỡ kính (N-D1.3) bằng hàm Weibull. Nhiều tác giả khác dùng hàm Schumacher, hyperbol, hàm mũ, Poisson, Charlier,... để mô hình hoá cấu trúc rừng (dẫn theo Trần Văn Con, 2001) [13]. 1.2. Trong nước 1.2.1. Nghiên cứu sinh thái, tái sinh rừng Trước đây đã có một số công trình khảo sát về hệ thực vật rừng ở miền Đông Nam Bộ (Maurand, 1952; Rollet, 1952; Vidal, 1958; Schmid, 1962) (dẫn theo Phạm Ngọc Toàn, 1988) [38]. Sau này, một số tác giả đã tiếp tục đi sâu nghiên cứu, đáng chú ý là các công trình của Võ Văn Chi, 1987; Nguyễn Lương Duyên, 1985; Nguyễn Văn Thêm, 1992; Thái Văn Trừng, 1998 ([10]; [18]; [37]; [40]). Nghiên cứu quy luật phát sinh, tái sinh tự nhiên và diễn thế thứ sinh, Thái Văn Trừng (1998) [40], đã nhận định: trong rừng tự nhiên nhiệt đới không có quần hợp và chỉ có những loài ưu thế. Sau này đã có nhận định lại và lấy những kiểu thảm thực vật làm đơn vị cơ bản để phân loại thảm thực vật ở Việt Nam. Tác giả cũng cho rằng tồn tại những dạng quần hợp thực vật; những ưu hợp thực vật; những phức hợp. Song nhận định này chưa làm rõ các nguyên nhân khống chế sự hình thành những quần hợp, ưu hợp, phức hợp trong tự nhiên. Giải quyết khúc mắc đó, Lê Viết Lộc dùng một số chỉ tiêu khác, ngoài số lượng cá thể cây để tính sinh khối trên diện tích điều tra như chiều cao, tiết diện ngang vv... để tính độ ưu thế của các loài và đã giải quyết được vấn đề trên khi tác giả thực hiện công trình nghiên cứu “Bước đầu điều tra thảm thực vật trong khu rừng nguyên sinh Cúc Phương” (dẫn theo Nguyễn Duy Chuyên, 1996) [8]. Với công trình “Sinh thái, lâm học rừng cây họ Dầu vùng Đông Nam Bộ” (1997), Nguyễn Duy Chuyên và Ngô An cho rằng tuỳ theo các ưu hợp thực vật
  9. 7 khác nhau, cây con tái sinh dưới tán rừng phụ thuộc chủ yếu vào cây mẹ gieo giống (Phan Minh Xuân, 2006) [42]. Khi nghiên cứu về thảm thực vật rừng Việt Nam, Thái Văn Trừng (1978) [40], đã nhấn mạnh tới ý nghĩa của điều kiện ngoại cảnh ảnh hưởng đến các giai đoạn phát triển của cây tái sinh. Theo tác giả, ánh sáng là nhân tố khống chế và điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên ở cả rừng nguyên sinh và thứ sinh. Hiện tượng tái sinh lỗ trống ở rừng thứ sinh Hương Sơn, Hà Tĩnh được Phạm Đình Tam (1987) làm sáng tỏ. Theo tác giả, số lượng cây tái sinh xuất hiện khá nhiều ở các lỗ trống khác nhau. Lỗ trống càng lớn, cây tái sinh càng nhiều và hơn hẳn những nơi kín tán. Từ đó, tác giả đề xuất phương thức khai thác chọn, tái sinh tự nhiên cho đối tượng rừng khu vực này. Đây là một trong những đặc điểm tái sinh phổ biến của rừng nhiệt đới. Trong số công trình nghiên cứu về cấu trúc, tăng trưởng trữ lượng và tái sinh tự nhiên rừng thường xanh lá rộng hỗn loài ở ba vùng kinh tế (Sông Hiếu, Yên Bái và Lạng Sơn), Nguyễn Duy Chuyên (1988) [9], đã khái quát đặc điểm phân bố của nhiều loài cây có giá trị kinh doanh và biểu diễn bằng các hàm lý thuyết. Từ kết quả đó làm cơ sở định hướng cho các giải pháp lâm sinh cho các vùng sản xuất nguyên liệu. Trần Cẩm Tú (1999) [41], tiến hành nghiên cứu tái sinh rừng tự nhiên sau khai thác chọn ở Hương Sơn, Hà Tĩnh và rút ra kết luận: áp dụng phương thức xúc tiến tái sinh tự nhiên có thể đảm bảo khôi phục vốn rừng, đáp ứng mục tiêu sử dụng tài nguyên rừng bền vững. Tuy nhiên, các biện pháp kỹ thuật tác động phải có tác dụng thúc đẩy cây tái sinh mục đích sinh trưởng và phát triển tốt, khai thác rừng phải đồng nghĩa với tái sinh rừng, phải chủ động điều tiết tầng tán của cây rừng, đảm bảo cây tái sinh phân bố đều trên toàn bộ diện tích, trước khi khai thác, cần thực hiện các biện pháp mở tán rừng, chặt cây gieo giống, phát dọn cây leo cây bụi và sau khi khai thác phải tiến hành dọn vệ sinh rừng. Khi nghiên cứu các quy luật phát triển rừng tự nhiên miền Bắc Việt Nam. Trần Ngũ Phương (2000) [32], đã nhấn mạnh quá trình diễn thế thứ sinh của rừng tự nhiên như sau: "Trường hợp rừng tự nhiên có nhiều tầng, khi tầng trên già cỗi,
  10. 8 tàn lụi rồi tiêu vong thì tầng kế tiếp sẽ thay thế; trường hợp nếu có một tầng thì trong khi nó già cỗi một lớp cây con tái sinh xuất hiện và sẽ thay thế tầng tán này sau khi tiêu nó vong, hoặc cũng có thể là một thảm thực vật trung gian xuất hiện thay thế, nhưng về sau, dưới lớp thảm thực vật trung gian này sẽ xuất hiện một lớp cây con tái sinh lại rừng cũ trong tương lai và sẽ thay thế thảm thực vật trung gian này, lúc bấy giờ rừng cũ sẽ được phục hồi". Tuy nhiên sau một thời gian nghiên cứu tìm hiểu quy luật phát triển của các loại hình tự nhiên, xây dựng bảng cân đối giữa một bên là thoái hoá và một bên là phục hồi tự nhiên, tác giả này và các cộng tác viên đã kết luận: " phục hồi tự nhiên không bao giờ phân bố được với mặt thoái hoá về số lượng cũng như chất lượng, nên muốn đảm bảo có một độ che phủ thích hợp trong phạm vi quốc gia, chúng ta không thể trông cậy vào quy luật tái sinh tự nhiên mà chỉ có thể đi theo con đường tái sinh nhân tạo, và phương thức chặt tỉa kết hợp với tái sinh tự nhiên hiện nay phải bị lên án". Năm 2002, Nguyễn Văn Thêm cho rằng tái sinh rừng thành công hay không phụ thuộc chủ yếu vào số lượng và chất lượng nguồn giống, điều kiện môi trường cho sự phát tán và nảy mầm của hạt giống. Trong đó, hầu hết hạt giống của cây rừng mưa nẩy mầm ngay sau khi rụng xuống đất ít ngày, thậm chí có một số loài nảy mầm ngay trên cây [38]. Từ thực tế cho thấy, với điều kiện như nước ta hiện nay, nhiều khu vực vẫn phải dựa vào tái sinh tự nhiên còn tái sinh nhân tạo mới chỉ được triển khai trên quy mô hạn chế. Vì vậy, những nghiên cứu đầy đủ về tái sinh tự nhiên cho từng đối tượng rừng cụ thể là công tác hết sức cần thiết và làm cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp kỹ thuật chính xác. 1.2.2. Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng Ngay từ những năm 60 của thế kỷ 20, đã có những công trình nghiên cứu về cơ sở khoa học và biện pháp kỹ thuật kinh doanh rừng tự nhiên ở Việt Nam. Khi nghiên cứu về cấu trúc rừng, trên quan điểm hệ sinh thái, Thái Văn Trừng (1978, 1998) [40] đã đưa ra cấu trúc tầng thứ như sau: Tầng vượt tán (A1), tầng ưu thế sinh thái (A2), tầng dưới tán (A3), tầng cây bụi (B) và tầng cỏ quyết (C).
  11. 9 Phương pháp vẽ biểu đồ trắc diện của Richards P.W đã được Thái Văn Trừng vận dụng, cải tiến, bổ sung để nghiên cứu cấu trúc thảm thực vật rừng Việt Nam. Trong đó cây bụi, thảm tươi được vẽ phóng đại với tỷ lệ lớn hơn, có ghi thành phần loài cây trong quần thể đối với những loài đặc trưng sinh thái và vật hậu. Khi nghiên cứu về cấu trúc, tăng trưởng, trữ lượng và tái sinh tự nhiên rừng thường xanh lá rộng hỗn loài ở ba vùng kinh tế (Sông Hiếu, Yên Bái và Lạng Sơn), Nguyễn Duy Chuyên (1996) [8] đã khái quát được đặc điểm phân bố riêng cho nhiều loài cây có giá trị kinh doanh và biểu diễn bằng các hàm lý thuyết. Qua đó làm cơ sở định hướng các giải pháp lâm sinh cho các vùng sản xuất nguyên liệu. Nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu mô hình hoá cấu trúc đường kính và biểu diễn chúng theo các dạng hàm toán học, nổi bật là các công trình của các tác giả: Trần Văn Con (1991) [12] dùng phân bố Weibull để mô phỏng cấu trúc đường kính cho rừng khộp ở Tây Nguyên. Lê Minh Trung (1991) đã thử nghiệm mô phỏng phân bố N/D rừng tự nhiên ở Gia Nghĩa - Đắc Nông bằng các hàm Poisson, Weibull, Hyperbol và Meyer. Bảo Huy (1993) [24] thử nghiệm mô phỏng phân bố thực nghiệm N/D rừng tự nhiên ở Gia Nghĩa - Đắc Nông bằng 4 dạng phân bố Poisson, khoảng cách, hình học và Mayer. Đào Công Khanh (1996) [25] đã dùng hàm sinh trưởng Schumacher để mô phỏng phân bố thực nghiệm N/D và N/H thông qua tần số tích luỹ cho rừng hỗn loài ở Hương Sơn, Hà Tĩnh với kết quả khả quan hơn hẳn với phân bố Weibull. Trong những năm gần đây, nghiên cứu cấu trúc được nhiều tác giả quan tâm như Phùng Ngọc Lan (1986) [25] cũng đã nêu lên mô hình cấu trúc mẫu là mô hình có khả năng tận dụng tối đa tiềm năng của điều kiện lập địa, có sự phối hợp hài hoà giữa các nhân tố cấu trúc để tạo ra một quần thể rừng có sản lượng ổn định và chức năng phòng hộ cao nhất, nhằm đáp ứng mục tiêu kinh doanh nhất định. Theo Vũ Đình Phương và Đào Công Khanh (2001) [31] cần phải tìm trong tự nhiên những cấu trúc mẫu có năng suất cao, đáp ứng mục tiêu kinh tế trong từng khu vực. Trong lĩnh vực này các tác giả đều xây dựng các cấu trúc
  12. 10 mẫu từ nghiên cứu cơ sở, các quy luật kết cấu, từ đó đề xuất các giải pháp tác động vào rừng. Các mẫu này đều được xây dựng trên cơ sở các mẫu tự nhiên đã chọn lọc và được coi là ổn định, có năng suất cao nhất thông qua số liệu quan sát. Phan Minh Xuân nghiên cứu một số đặc tính lâm sinh học các loài cây họ Sao Dầu trong rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và rừng kín thường xanh nửa rụng lá ẩm nhiệt đới vùng Đông Nam Bộ kết luận: Phân bố số cây theo cấp chiều cao có dạng một đỉnh lệch trái; phân bố số cây theo cấp đường kính có dạng phân bố giảm hàm Mayer; tái sinh cây họ Sao – Dầu có dạng phân bố cụm (Phan Minh Xuân, 2006) [42]. Nghiên cứu cấu trúc rừng ở nước ta đã được nhiều nhà Lâm sinh học trong nước quan tâm ở các mức độ khác nhau, nhưng đều có chung một mục đích là xây dựng cơ sở khoa học cho việc đề xuất các giải pháp kinh doanh và quản lý có hiệu quả. 1.3. Nghiên cứu về loài Huỳnh đường, nhận xét và đánh giá chung Trong cuốn ''Sách đỏ Việt Nam'', (2006) [35], Huỳnh đường (tên khác: Huỳnh đàn, Xé da voi) thuộc họ Xoan (Meliaceace) là cây gỗ cao 25m - 35 m, cành non có lông, chồi búp nhọn. Lá kép lông chim chẵn, lá chét 5 - 8 đôi, mọc cách hay đối, phiến lá chét không cân xứng, thuôn, tù đến tròn, không đều ở gốc, đầu có mũi nhọn dài, cỡ (12 – 13) cm x (4 - 4,5) cm, những đôi dưới ngắn hơn; gân chính lồi ở mặt dưới; gân bên 10 - 14 đôi, có lông ở mặt dưới. Cụm hoa trên nách lá dài không quá 1/2 lá. Hoa màu vàng gần như không cuống, hình cầu, nhiều lông. Lá đài 4, rời. Cánh hoa 4, dài hơn lá đài 2 lần, mặt trong nhẵn. Nhị hợp thành ống ngắn, có lông ở mặt trong, đỉnh có 8 thuỳ tròn; 8 bao phấn, nhẵn. Bầu hình cầu, nhiều lông, 3 ô (ít khi 4), mỗi ô 2 noãn; núm nhụy hình khiên, dài vượt quá ống nhị. Quả nang 3 ô, có lông, khi chín mở 3 mảnh, dài 2,5 cm, mỗi ô 1 hạt. Mùa ra hoa tháng 4 và 5, quả chín vào tháng 8 và 9. Mọc ở rừng nguyên sinh và thứ sinh thường xanh, trên đất bazal hoặc sa phiến thạch, ở độ cao dưới 1000 m.
  13. 11 Hình 1-1. Huỳnh đường __ Dysoxylum loureirii (Pierre) 1. cành mang lá; 2. cụm quả; 3. hoa; 4. triền, nhị và bầu (Trích dẫn theo: ''Sách đỏ Việt Nam'' [35], Thư viện Trường ĐHLN) Trong ''Từ điển thực vật rừng thông dụng'', (2003) [11], Võ Văn Chi đã mô tả Huỳnh đường là cây to, cao đến 30m - 35m. Lá kép lông chim lẻ, mọc so le, gồm 5 - 9 đôi lá chét, cuống ngắn, mọc đối, mặt trên nhẵn, mặt dưới ráp, đầu nhọn, gốc lệch và gân chính nổi rõ. Hoa mọc ở nách lá thành chùm, có lá bắc. Hoa hình cầu, không cuống. Ống nhị có lông ở bên trong, trên có 8 thùy, bao phấn hơi lồi. Quả nang có lông, khi chín nứt 3 mảnh, hình cầu. Phân bố ở Việt Nam và Campuchia. Ở nước ta có gặp từ Nghệ An trở vào đến Đồng Nai, Tây Ninh. Cây mọc trong rừng thường xanh nguyên sinh và thứ sinh, trên đất bazan, sa thạch và đất pha cát. Gỗ có màu nâu vàng nhạt, lõi thẫm hơn. Gỗ già màu nâu nhạt, gỗ có mùi thơm, được dùng đóng đồ mộc cao cấp, làm quan tài, đốt thơm như trầm, có thể cất lấy tinh dầu thơm được dùng như dầu Đàn hương; gỗ làm thuốc có tác dụng tan sưng, làm ra mồ hôi và trợ tim; hạt ép dầu thắp đèn và dùng trong công nghiệp xây dựng.
  14. 12 Trên website http://zipcodezoo.com/Plants/D/Dysoxylum_loureiri/ [54]: Huỳnh đường (Dysoxylum loureiri), thuộc chi Dysoxylum, phân họ Melioideae, họ Meliaceace. Trang http://www.treeseedfa. org/doc/Monographs/Dysoxylumloureiri.pdf [53] cũng mô tả hình thái thân cây, cành, lá cây Huỳnh đường giống như hai tài liệu trên đã công bố. Một số thông tin khác mô tả loài cây này như sau: Hoa màu vàng, hình cầu, dài 3cm - 4 cm, có lông ngắn. Đài hoa ngắn, có lông và có 4 đài. Cánh hoa 4, dài gấp đôi đài hoa, có lông trên bề mặt. Quả nang có lông ngắn, nứt dọc theo 3 mảnh, mỗi mảnh có 1 hạt giống. Quả non có màu xanh, chín chuyển sang màu nâu. Giá trị sử dụng: Huỳnh đường có giá trị gỗ như trầm hương. Gỗ được sử dụng trong y học làm thuốc lợi tiểu; làm trầm đốt trong ngôi đền Phật giáo. Do gỗ Huỳnh đường có giá trị cao, bị khai thác quá mức, nên có nguy cơ tuyệt chủng nếu không được quản lý bảo vệ nghiêm ngặt. Hiện nay, loài này cần có biện pháp bảo tồn. Huỳnh đường phân bố rải rác và còn rất ít cây mẹ trong tự nhiên, do vậy việc sưu tập hạt giống gặp nhiều khó khăn. Năm 2002, cuộc họp lần thứ hai về Chiến lược Lâm nghiệp Bảo tồn gen, Huỳnh đường (Dysoxylum loureiri Pierre) được xếp vào một loài ưu tiên cần bảo tồn ngay lập tức và bảo vệ thích hợp. Loài này đã được ngành Lâm nghiệp Campuchia bảo vệ. Phân bố, sinh thái: Loài này được phân bố trong các khu rừng ở vĩ độ thấp, đặc biệt phong phú dọc theo phía Tây Nam bờ biển và vùng cao nguyên tiếp giáp Cam-pu-chia. Là loài đặc hữu của Cam-pu-chia và miền Nam Việt Nam (Dy Phon, 2000), và thường mọc ở cả rừng nguyên sinh và rừng thứ sinh thường xanh. Thích hợp trên đá bazan, đá cát kết (sa thạch), và đất cát, đất sét (FIPI, 1996). Ở Campuchia, Huỳnh đường mọc ở Koh Kong, Pursat và Kampong Thom (Khorn, năm 2002) [53]. Khu bảo tồn thiên nhiên Văn hóa Đồng Nai, đã triển khai gây trồng, phục hồi cây bản địa với mục tiêu bảo tồn và nâng cao chức năng phòng hộ
  15. 13 của rừng. Trong đó, các loài cây bản địa như: Dầu rái, Dầu song nàng, Sao đen, Gõ đỏ, Giáng hương…đã có quy trình gây tạo, trồng rừng tại phân khu phục hồi sinh thái; một số loài cây bản địa mới đem vào gieo trồng thử nghiệm: Huỳnh đường, Xuân thôn.... Các công trình nghiên cứu về cây Huỳnh đường có rất ít thông tin, nhưng kết quả của các tác giả đi trước là cơ sở ban đầu để đề tài tham khảo trong quá trình nghiên cứu. Theo các kết quả nghiên cứu, loài Huỳnh đường đang bị đe dọa ở mức sẽ bị nguy cấp [35]. Vấn đề đặt ra là cần phải nghiên cứu cụ thể các đặc tính sinh học, sinh thái của loài. Việc chỉ rõ các nhân tố sinh thái ảnh hưởng tới sinh trưởng cây gỗ và mật độ của cây tái sinh Huỳnh đường đều là những thông tin trực tiếp liên quan tới khả năng xuất hiện và tồn tại cũng như đặc tính của chúng trong điều kiện tự nhiên là việc làm rất có ý nghĩa. Thông quá đó để khái quát hoá lên quy luật phát sinh, phát triển của cây tái sinh. Ngoài ra, kết quả của đề tài là căn cứ khoa học để làm sáng tỏ đặc tính sinh thái, kỹ thuật tái sinh và nuôi dưỡng loài cây Huỳnh đường. Từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển và bảo tồn loài này tại khu Bảo tồn thiên nhiên - Văn hóa Đồng Nai.
  16. 14 Chương 2 ĐẶC ĐIỂM KHU VỰC NGHIÊN CỨU 2.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1. Vị trí địa lý * Tọa độ: - Từ 110 05’ 10” đến 110 22’ 31” vĩ độ Bắc - Từ 106 0 54’ 19” đến 107 0 09’ 03” kinh độ Đông * Phạm vi ranh giới: Phạm vi ranh giới cụ thể như sau: - Phía Bắc giáp : Tỉnh Bình Phước và huyện Tân Phú, Tỉnh Đồng Nai. - Phía Nam giáp : Sông Đồng Nai và Hồ Trị An - Phía Đông giáp : VQG Cát Tiên và Hồ Trị An. - Phía Tây giáp : Tỉnh Bình Phước và Tỉnh Bình Dương 2.1.2. Khí hậu và thủy văn 2.1.2.1. Khí hậu Khí hậu Đồng Nai nói chung và huyện Vĩnh Cửu nói riêng nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, có hai mùa (mùa khô và mùa mưa), nhiệt độ cao đều trong năm là điều kiện đảm bảo nhiệt lượng đủ cho cây trồng phát triển quanh năm. Bảng 2 - 1: Một số chỉ tiêu khí tượng thủy văn của khu vực nghiên cứu Nhiệt độ không khí (0C) Độ ẩm Lượng Lượng mưa (mm) Tháng Tối Tối Trung không bốc hơi Lượng Số ngày cao thấp bình khí (%) (mm) mưa mưa 1 32,4 20,2 26,3 71 136,1 7,2 1 2 33,9 21,8 27,9 68 159,4 5,3 1 3 35,1 23,7 29,4 69 195,6 26,4 1 4 35,5 25 30,3 72 175,4 87,1 6 5 34 24,9 29,5 80 106 207,9 16
  17. 15 Nhiệt độ không khí (0C) Độ ẩm Lượng Lượng mưa (mm) Tháng Tối Tối Trung không bốc hơi Lượng Số ngày cao thấp bình khí (%) (mm) mưa mưa 6 32 24,3 28,2 86 72,8 236,3 22 7 31,8 23,9 27,9 86 71,3 246,8 24 8 31,4 23,9 27,7 87 81,7 224,8 21 9 31,3 24 27,7 86 61,3 317,6 21 10 31 23,2 27,1 86 64,7 294,5 19 11 31,2 22,4 26,8 83 72,6 124,5 14 12 31,2 20,3 25,8 75 110,9 38,8 4 TB 32,6 23,1 27,9 79,1 Tổng 1817.2 150 2.1.2.2. Thủy văn - Phía Bắc và Tây Bắc có suối Mã Đà, là suối lớn đồng thời là đường ranh giới của Khu BTTN – VH Đồng Nai với tỉnh Bình Phước. - Phía Tây có sông Bé, là ranh giới giữa Khu BTTN – VH Đồng Nai với tỉnh Bình Dương. - Phía Đông và Nam có hồ Trị An, diện tích mặt nước trong hồ biến động qua các tháng trong năm là do sự điều tiết để phục vụ thủy điện. Diện tích lớn nhất ở cao trình 62 m vào thời điểm tháng 10 đến tháng 12 hàng năm là 32.400 ha thể tích khoảng 2,8 tỷ m3, diện tích mặt nước trung bình ở cao trình 56 m là 25.000 ha vào thời điểm tháng 1- 2 và tháng 8 - 9. Diện tích mặt nước nhỏ nhất ở cao trình 49 m và thể tích là 213 triệu m3 nước vào thời điểm tháng 5 - 6 là 7.500 ha. Mức nước sâu trung bình 8,5m, chiều dài khoảng 44 km, chiều rộng 10 km và diện tích lưu vực xấp xỉ 14.800 km2. Bên cạnh đó, trên địa bàn còn có hồ Bà Hào diện tích trên 400 ha và hồ Vườn ươm trên 20 ha, luôn ổn định mực nước phục vụ cho việc nuôi trồng thuỷ sản, tưới tiêu và công tác phòng cháy chữa cháy rừng của đơn vị.
  18. 16 - Ngoài ra, trong khu vực còn có hệ thống gồm rất nhiều suối và sông nhỏ đổ vào hồ Trị An: suối Linh, suối Cây Sung, suối Sai, suối Bà Hào và sông Bé... nhưng đa phần đều cạn nước vào mùa khô. 2.1.3. Địa hình Nằm trong khu vực địa hình chuyển tiếp từ cao nguyên Bảo Lộc – Lâm Đồng xuống vùng địa hình bán bình nguyên của Đông Nam Bộ. Địa hình thuộc dạng địa hình vùng đồi, với 3 cấp độ cao: Đồi thấp - Đồi trung bình và Đồi cao, độ cao giảm dần từ Bắc xuống Nam, nghiêng từ Đông sang Tây. Độ chênh cao giữa các khu vực không nhiều và có sự chuyển tiếp từ từ. Độ cao lớn nhất 368m, thấp nhất 20m, bình quân từ 100m đến 120m; Độ dốc lớn nhất: 35 0, độ dốc bình quân: 80 – 100. 2.1.4. Đất đai Theo kết quả điều tra xây dựng bản đồ đất, tỷ lệ 1/50.000 do Phân viện Quy hoạch Thiết kế Nông nghiệp miền Nam thực hiện năm 2003, tại KBT có 4 nhóm đất chính là: đất đen; đất xám; đất đỏ vàng và sông suối mặt nước. Trong đó, hầu hết diện tích của KBT thuộc nhóm đất đỏ vàng, bao gồm: Đất nâu vàng trên phù sa cổ (Fp), Đất đỏ vàng trên phiến sét (Fs), Đất nâu đỏ trên bazan (Fk) chiếm 64,9 % tổng diện tích, đất có kết cấu thịt trung bình, tầng đất trung bình, độ phì trung bình đến tốt, rất thích hợp cho cây rừng sinh trưởng và phát triển. 2.2. Đặc điểm tài nguyên rừng Kết quả rà soát quy hoạch 3 loại rừng theo chỉ thị số: 38/2005/CT-TTg ngày 05/12/2005 của Thủ tướng Chính phủ, thì tổng diện tích quản lý và hiện trạng sử dụng đất của KBT như sau:
  19. 17 Bảng 2 - 2: Hiện trạng sử dụng đất của KBT Theo quy hoạch 3 loại Ngoài 3 Tổng rừng (ha) TT Loại đất, loại rừng loại rừng (ha) Đặc dụng Sản xuất (ha) Diện tích tự nhiên 100.303,3 59.809,9 8.093,4 32.400 I Đất lâm nghiệp 67.903,3 59.809,9 8.093,4 1 Đất có rừng 57.034,3 53.482,6 3.551,7 1.1 Rừng tự nhiên 52.241,1 50.861,3 1.379,8 A Rừng gỗ lá rộng 44.141,7 43.060,7 1.081,0 B Rừng hỗn giao 7.746,0 7.447,2 298,8 C Rừng lồ ô 353,3 353,3 1.2 Rừng trồng 4.793,2 2.621,3 2.171,9 2 Đất chưa có rừng 4.253,6 3.559,8 693,8 3 Đất khác trong LN 6.615,4 2.767,5 3.847,9 II Đất khác ngoài LN 32.400,0 (Nguồn: Ban quản lý KBT) 2.2.1. Rừng tự nhiên Tổng diện tích rừng tự nhiên là 59.809,9 ha. Dự án Điều tra, xây dựng danh lục và tiêu bản động, thực vật rừng do KBT chủ trì phối hợp với các đơn vị chuyên môn thực hiện, đã ghi nhận: tài nguyên rừng của KBT mang tính đa dạng sinh học cao, có sự phong phú cả về chủng loại lẫn số lượng. Trong đó có nhiều loài động, thực vật đặc hữu, quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng được ghi vào sách Đỏ Việt Nam và thế giới. 2.2.1.1.Thực vật rừng Kết quả điều tra tài nguyên thực vật rừng, KBT có 1.401 loài thuộc 623 chi, 156 họ, 92 bộ, 10 lớp, 06 ngành thực vật khác nhau. Trong đó, tài nguyên cây gỗ chiếm tỷ lệ rất cao 45%, tài nguyên cây thuốc chiếm 24,8%, trong đó:
  20. 18 - Có 62 loài thực vật thuộc 43 chi, 26 họ là loài quý hiếm theo các tiêu chí Nghị định 32/2006/NĐ-CP ngày 30/3/2006 của Chính phủ; Sách Đỏ Việt Nam năm 2007 và Sách Đỏ IUCN năm 2009. Trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao như: Gõ đỏ (Afzelia xylocarpa), Gõ mật (Sindora siamensis Teysm. ex Miq. var. siamensis.), Cẩm lai vú (Dalbergia mammosa), Dáng hương trái to (Pterocarpus macrocarpus), Dầu song nàng (Dipterocarpus dyeri), Vên vên (Anisoptera costata), Chò chai (Hopea recopei)… - Có 84 loài thuộc 71 chi, 39 họ, 28 bộ thực vật khác nhau thuộc nhóm đặc hữu Việt Nam, như: Lăng yên nam bộ (Callerya cochinchinensis), Cẩm lai bà rịa (Dalbergia bariensis), Xú hương núi dinh (Lasianthus dinhensis)… - Có 18 loài thuộc 18 chi, 12 họ, 10 bộ thực vật khác nhau thuộc nhóm đặc hữu của địa phương (loài được phát hiện đầu tiên ở Đồng Nai, có tên Việt Nam hay tên khoa học mang các địa danh của tỉnh Đồng Nai) như: Giác đế đồng nai (Goniothalamus dongnaiensis), Diệp hạ châu biên hòa (Phyllanthus collinsae), Cù đèn đồng nai (Croton dongnaiensis), Mót đồng nai (Cynometra dongnaiensis), Ngâu biên hòa (Aglaia hoaensis), Xú hương biên hòa (Lasianthus hoaensis)… - Có 382 loài thực vật được sử dụng làm thuốc phòng và chữa bệnh. 2.2.1.2. Động vật rừng Theo kết quả điều tra tài nguyên động vật rừng, tại KBT có 1.621 loài thuộc 209 họ, 40 bộ, 05 lớp động vật khác nhau, bao gồm: - Thú có 85 loài thuộc 27 họ, 10 bộ; trong đó 30 loài thú quý hiếm, trong số này có: 27 loài quý hiếm theo tiêu chí của Nghị định số 32/2006/NĐ-CP; 18 loài quý hiếm theo tiêu chí Danh lục đỏ IUCN, năm 2009; 26 loài quý hiếm theo tiêu chí Sách Đỏ Việt Nam, năm 2007. - Chim có 259 loài thuộc 52 họ, 17 bộ; trong đó có 21 loài chim quý hiếm, có giá trị kinh tế, trong đó có: 15 loài quý hiếm theo tiêu chí của Nghị định số 32/2006/NĐ-CP; 12 loài quý hiếm theo tiêu chí Danh lục đỏ IUCN, năm 2009; 14 loài quý hiếm theo tiêu chí Sách Đỏ Việt Nam, năm 2007.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1