intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và thử nghiệm nhân giống vô tính loài Hoàng liên ô rô (Mahonia nepalensis DC) tại tỉnh Lâm Đồng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:67

21
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đề tài là cung cấp thông tin về đặc điểm sinh học loài Hoàng liên ô rô (Mahonia nepalensis DC) và thử nghiệm được một số biện pháp nhân giống vô tính tại tỉnh Lâm Đồng, làm cơ sở đề xuất giải pháp bảo tồn và phát triển loài cây này ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và thử nghiệm nhân giống vô tính loài Hoàng liên ô rô (Mahonia nepalensis DC) tại tỉnh Lâm Đồng

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ĐÀO XUÂN HIẾU NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ THỬ NGHIỆM NHÂN GIỐNG VÔ TÍNH LOÀI HOÀNG LIÊN Ô RÔ (MAHONIA NEPALENSIS DC) TẠI TỈNH LÂM ĐỒNG CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC MÃ SỐ: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. BÙI THẾ ĐỒI Đồng Nai, 2012
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Tài nguyên rừng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của loài người, rừng là cái nôi của sự sống, là lá phổi xanh của nhân loại, có giá trị to lớn trong việc phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ nước chống xói mòn, rửa trôi, lũ lụt, hạn hán, cung cấp nguồn nước sạch sinh hoạt và sản xuất cho con người. Rừng là bảo tàng sống sinh động nhất, có giá trị bảo tồn đa dạng sinh học, trong đó có nhiều nguồn gen quý hiếm. Ngoài ra sản phẩm của rừng như gỗ và lâm sản ngoài gỗ phục vụ các nhu cầu thiết yếu của con người, đặc biệt các loài cây có khả năng cung cấp nguyên liệu làm dược liệu. Cây Hoàng liên ô rô (Mahonia nepalensis DC) chính là một trong những loài cây như vậy. Cây Hoàng liên ô rô được xếp vào loại đang nguy cấp, mới phát hiện thấy ở một số nơi, số lượng cá thể ít, dễ bị chặt phá, mức độ đe dọa Bậc E trong Sách đỏ Việt Nam (1996). Trong thân của HLOR có chứa berberin có vị đắng, mát nên loài cây này còn có tên là cây mật gấu (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2010). Đây là loài cây phân bố hẹp trên vùng núi cao và rất quý hiếm, có giá trị làm thuốc chữa bệnh và trồng làm cảnh, nên đã và đang bị khai thác đến mức bị suy thoái mạnh, cần bảo tồn và phát triển. Vậy, việc nghiên cứu bổ sung những thông tin về đặc điểm sinh học của loài Hoàng liên ô rô là cần thiết, góp phần vào công tác bảo tồn loài cây có trong sách đỏ Việt Nam và bảo tồn đa dạng sinh học cũng như quản lý rừng bền vững nói chung. Mặt khác, Hoàng liên ô rô chỉ phân bố ở vùng núi cao, người dân địa phương ít nhiều đã có kinh nghiệm trong việc khai thác và sử dụng một số bộ phận của nó... Tuy nhiên, việc khai thác vẫn mang tính tự phát, việc bảo vệ cũng như phát triển loài cây này chưa được chú trọng. Hiện nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ loài cây này, đặc biệt là kỹ thuật nhân giống bằng giâm hom.
  3. 2 Từ thực tế trên, đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và thử nghiệm nhân giống vô tính loài Hoàng liên ô rô (Mahonia nepalensis DC) tại tỉnh Lâm Đồng” đã được thực hiện.
  4. 3 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 1.1.1. Phân loại và phân bố chi Mahonia 1.1.1.1. Phân loại Hoàng liên ô rô (HLOR), còn gọi là cây Mã hồ, Hoàng bá gai, Thích hoàng bá, Thập đại công lao... có tên khoa học là Mahonia nepalensis DC. thuộc họ Hoàng liên gai (Berberidaceae), bộ Mao lương (Ranunculales). Chi Mahonia có gần 60 loài, phân bố ở Đông Á và Đông Nam Á, phía Tây của Bắc Mỹ, vùng Trung Mỹ, và phía Tây của Nam Mỹ. Trong hệ thống phân loại, HLOR được xếp như sau: Kingdom: Giới Plantae Division: Ngành Magnoliophyta Class: Lớp Magnoliopsida Order: Bộ Ranunculales Mao lương Family: Họ Berberidaceae Hoàng liên gai Genus: Chi Mahonia Species: Loài Mahonia nepalensis DC. HLOR Tên khoa học đầy đủ của HLOR là Mahonia napaulensis de Candolle, Syst. Nat. 2: 21. 1821. Thường gọi là Mahonia nepalensis DC. hoặc Mahonia nepaulensis DC. Tên Tiếng Anh là Nepaul Barberry, tiếng Ấn Độ là Dieng-niangmat, tiếng Trung Quốc là Ni bo er shi da gong lao.... 1.1.1.2. Phân bố của chi Mahonia và loài HLOR
  5. 4 Chi Mahonia bao gồm khoảng 60 loài cây bụi, gỗ nhỏ thường xanh. Chi này có quan hệ chặt chẽ với chi Berberis. Chính vì vậy, nhiều nhà thực vật học không tán thành việc chấp nhận tên chi Mahonia nên đã xếp chi Mahonia vào cùng với chi Berberis vì một số loài thuộc hai chi này có thể lai giống với nhau. Tuy nhiên, chi Mahonia có lá kép lông chim lớn dài từ 10-50 cm, với từ 5-15 lá chét và hoa mọc thành các cành (dài từ 5-20 cm). Tên chi Mahonia được đặt theo Bernard McMahon (1775-1818), một người làm vườn ở Philadelphia, Hoa Kỳ [3c]. + Phân bố HLOR ở một số quốc gia châu Á: - Ở Trung Quốc: Theo Ying Junsheng (2001), ở Trung Quốc có tới 31 loài thuộc chi Mahonia, trong đó loài HLOR (M. nepalensis DC.) xuất hiện ở trong rừng rậm, bìa rừng hoặc trong các bụi cây ở độ cao từ 1200-3000 m. Phân bố ở tỉnh Hồ Nam, Nam Tứ Xuyên, Đông Tây Tạng và tỉnh Vân Nam. - Ở Bhutan: Theo Chhetri (1989), M. nepalensis DC. phân bố ở độ cao 1500-2400m, gần những dòng suối nhỏ, dưới những cây bụi khác. Thời kỳ ra hoa từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau. - Ở Ấn Độ và Nepal: Phân bố ở những khu vực núi cao trên 1500m. - Những nơi khác: M. nepalensis DC. là cây cho hoa màu vàng, mọc thành cành khá đẹp nên được gây trồng làm cảnh ở nhiều nơi. Mặc dù loài cây này chỉ có phân bố tự nhiên ở một số nước Châu Á (Trung Quốc, Nê-pan, Việt Nam) nhưng nó đã được gây trồng ở nhiều nơi khác ở Đông Nam Á (Indonesia, Malaysia và Myanmar), Sri-Lanka và một số nước ngoài châu Á như Úc và miền Nam Châu Âu [2c, 4c]. 1.1.2. Việc sử dụng loài cây HLOR làm thuốc Thực tế đã cho thấy, việc cung cấp thực vật cho dược phẩm truyền thống không thỏa mãn được nhu cầu (Cunningham, 1993). Do vậy, một giải pháp thay thế
  6. 5 thích hợp nhất cho những vấn đề mà ngành công nghiệp dược đang phải đối mặt đó là phát triển hệ thống nuôi In Vitro nhằm đáp ứng nhu cầu về dược thảo và các chất tiết của nó (Nalawade et al, 2004). Cùng với sự phát triển của công nghê sinh học, việc nhân giống các loài cây dược liệu bằng phương pháp In Vitro đã được nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan,... tiến hành và đã đem lại kết quả đáng khích lệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng của việc sản xuất dược liệu (Arora, 1989). Trong tương lai, để phục vụ cho mục đích sức khỏe con người và sự phát triển của xã hội, nhằm chống lại các bệnh nan y thì cần thiết có sự kết hợp giữa Đông và Tây y, giữa y học hiện đại và kinh nghiệm cổ truyền dân tộc. Vì vậy, việc khai thác kết hợp với bảo tồn các lại cây thuốc là điều hết sức cần thiết. HLOR là cây dược liệu dùng để chữa bệnh. Tác dụng trị bệnh đã được ghi trong bộ sách Thần nông bản thảo của Trung Quốc như một loại thuốc được xếp vào hàng thương phẩm. Ở Trung Quốc, người ta cũng dùng lá, thân và quả của một loài tương tự có tên khoa học là Mahonia bealei (Fort) Carr. gọi là Khoát diệp thập đại công lao hay Thổ hoàng bá để làm thuốc chữa bệnh (Xiuhong Ji et al., 2000). Các bộ tộc Khasi và Garo của Meghalaya (Ấn Độ) đã sử dụng vỏ cây tươi của HLOR ép lấy dịch, rồi pha loãng với nước, dùng như thuốc nhỏ mắt cho nhiều bệnh mắt khác nhau (Rao, 1981). Người dân địa phương còn thường dùng chữa lỵ, ăn uống không tiêu, vàng da, đau mắt. Bộ phận thường được sử dụng nhiều là vỏ cây (Laloo R. C. et al. 2006). Balami (2006) đã nghiên cứu và tìm hiểu 119 loài thực vật được sử dụng làm thuốc của người Newar thuộc làng Pharping huyện Kathmandu (Nê-pan). Trong đó, quả và vỏ loài cây Mahonia nepaulensis có thể chế thành dạng nước ép để chữa bệnh đi ngoài và bệnh lỵ. Ngoài ra còn có hai loài cây khác cùng họ Berberidaceae là Berberis aristata DC. (Ban marpasi) và Berberis asiatica Roxb. ex DC. (Marpasi)
  7. 6 đều có thể tạo ra nước ép để chữa bệnh đau dạ dày và cũng được cộng đồng này khai thác. 1.1.3. Kỹ thuật nhân giống và gây trồng các loài cây thuộc chi Mahonia Ở Bắc Mỹ, Úc và một số nước Châu Âu sử dụng các loài cây khác thuộc chi Mahonia (họ Berberidaceae) có hình thái gần giống với HLOR trồng làm cảnh. Chẳng hạn ở Mỹ, nhiều loài cây thuộc chi Mahonia như là M. equifolium; M. fortunei... được trồng làm cảnh xung quanh tường nhà, bờ rào hoặc các khoảng trống giữa các sân trường. Một số loài về mùa đông lá chuyển mầu đỏ rất đẹp và tồn tại qua mùa đông. Hình 1.1: Hoa, lá và quả Mahonia equifolium ở Bắc Mỹ Người ta đã xây dựng quy trình nhân giống dinh dưỡng, gây trồng và chăm sóc các loài cây này [7c]. Theo đó, quy trình này gồm có 8 bước cơ bản như sau: - Bước 1: Lựa chọn cây khỏe mạnh trong những tháng mùa hè, có cành (nhánh thân) dài ít nhất là 30 cm, có đường kính lớn nhất có thể, nhằm tạo rễ nhanh hơn. - Bước 2: Cắt một một đoạn nhánh thân dài 10-25 cm bằng kéo tỉa cành, cắt thẳng trên cành.
  8. 7 - Bước 3: Vặt bỏ hết lá trên cành chỉ giữ lại 2-3 lá ở phía trên ngọn. Loại bỏ tất cả hoa trên cành hom (nếu có). - Bước 4: Đổ đầy ¾ bình cấy cây bằng cát và chất giữa ẩm, đổ nước cho đến khi bão hòa. Bình cấy cây phải đảm bảo có các lỗ nhỏ ở phía dưới để giúp cho thoát nước. - Bước 5: Nhúng cành cắt của cây Mahonia vào nước cho đủ ẩm. Nhúng sâu khoảng 2,5 cm cành giâm vào dung dịch hooc-môn kích thích ra rễ. - Bước 6: Dùng tay đào một lỗ sâu 5 cm ở giữa của bình cấy. Đặt cành giâm Mahonia vào trong lỗ đó và ấn nhẹ cát ở xung quanh để lấp kín gốc cành giâm. - Bước 7: Đặt bình có cành giâm ở nơi có thể nhận được ánh sáng mặt trời gián tiếp và có một nhiệt độ khoảng 15-220C. Cố gắng giữ độ ẩm phù hợp cho bình. - Bước 8: Kiểm tra đất trong bình hàng ngày và tưới nước nếu thấy đất bắt đầu khô. Tóm lại, trên thế giới, đặc biệt là vùng ôn đới, một số loài cây thuộc chi Mahonia được nghiên cứu khá kỹ, trong đó có cả việc nghiên cứu kỹ thuật gây trồng; nhiều nơi đã sử dụng những loài cây thuộc chi Mahonia trồng làm cảnh. Trong khi đó, các nghiên cứu về HLOR lại rất hạn chế, đặc biệt là nghiên cứu chọn giống và kỹ thuật nhân trồng. Các kỹ thuật đã có trên thế giới rất khó để áp dụng vào điều kiện Việt Nam bởi sự khác biệt về loài cây và điều kiện sống. Vì vậy, việc nghiên cứu kỹ thuật gây trồng HLOR ở nước ta là một việc làm rất cần thiết và cấp bách bởi loài cây này đã được xếp hạng nguy cấp (EN A1c,d), đang đứng trước nguy cơ rất lớn sẽ tuyệt chủng ngoài thiên nhiên trong tương lai gần (Sách đỏ Việt Nam, 2007). Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu về cây dược liệu nói chung và HLOR trên thế giới đã cho thấy việc bảo vệ và phát triển cây dược liệu đã và đang
  9. 8 được nhiều quốc gia quan tâm. Nhưng việc nghiên cứu và phát triển cây HLOR hiện nay vẫn còn rất hạn chế. 1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 1.2.1. Giới thiệu chung về cây HLOR ở Việt Nam 1.2.1.1. Đặc điểm nhận dạng Cây bụi hoặc gỗ nhỏ, cao 2-5 m. Đường kính thân cây 2-7 cm; vỏ có lớp bần dày, màu trắng xám; gỗ thân và rễ có màu vàng; cây có thể phân nhánh. Lá kép lông chim lẻ, dài 20-40 cm. Cụm hoa 1-5, hình bông, phân nhánh, mọc thẳng ở ngọn. Hoa nhiều, màu vàng; lá bắc hình bầu dục, tù. Quả hạch, màu xanh lơ, gần hình cầu, đường kính 6-7 mm, đầu quả có núm nhỏ do đầu nhụy tồn tại. Hạt 1, màu nâu đen, dài 3mm. 1.2.1.2. Đặc điểm sinh thái Mùa ra hoa tháng 1-3, quả chín tháng 4-6. Cây ra hoa kết quả nhiều. Có khả năng tái sinh tự nhiên bằng hạt tốt; cây có khả năng tái sinh chồi sau khi bị chặt. Thường mọc rải rác ở ven rừng hay dưới tán rừng kín thường xanh ẩm, ở độ cao 1300-1700m. 1.2.1.3. Phân bố Ở nước ta, HLOR phân bố rải rác ở Lai Châu, Sơn La và Lâm Đồng (núi Liang Biang). Ngoài ra, có tài liệu ghi nhận có loài cây này ở Hà Giang, Cao Bằng và Lào Cai.
  10. 9 Hình 1.2: Cành mang quả (2) và phân bố loài HLOR trên lãnh thổ Việt Nam (Sách đỏ Việt Nam, 2007) 1.2.1.4. Tình trạng Đây là nguồn gen quý hiếm đối với Việt Nam. Thân và rễ có chứa berberin (< 2%), dùng làm thuốc chữa ỉa chảy, kiết lỵ, rối loạn tiêu hóa. Vì vậy, loài cây này đã và đang bị khai thác mạnh. Ở Loài cây có vùng phân bố hẹp. Hiện chỉ biết chắc chắn phân bố ở một số điểm núi Liang Biang (Lâm Đồng) với số lượng cá thể không nhiều. 1.2.2. Nghiên cứu về bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc ở Việt Nam Việc sử dụng các loài thực vật làm thuốc chữa bệnh ở nước ta đã có lịch sử lâu dài. Tuy nhiên, hoàng loạt các câu hỏi vẫn được đặt ra là: Việc sử dụng cây thuốc và vị thuốc ở trong nhân dân như thế nào? Đã có ai nghiên cứu về loài cây thuốc đó chưa? Nghiên cứu tới đâu? Nếu đã nghiên cứu rồi thì nên vận dụng những kết quả nghiên cứu đó vào hoàn cảnh cụ thể như thế nào? (Đỗ Tất Lợi, 2006). Trong thời gian qua, công tác bảo tồn và phát triển các loài cây thuốc ở nước ta đã được quan tâm đáng kể. Nhiều bài học kinh nghiệm đã được rút ra (Lê Thanh
  11. 10 Chiến, 2005). Theo đó, một chiến lược bảo tồn và phát triển cây thuốc được xác định như sau: Đối với cây dược liệu ngắn ngày, phải điều tra quy hoạch ngay những vùng có loài mọc tập trung, xác định những cây thuốc có nhu cầu sử dụng cao, đề xuất thời gian khai thác phù hợp với khả năng tái sinh của cây. Đối với cây dược liệu đa niên, cần điều tra tài nguyên cây thuốc trong các khu rừng bảo tồn, rừng đặc dụng, xác định các cây thuốc quý để có kế hoạch bảo vệ và phát triển kịp thời. Lựa chọn một số loài cây thuốc giá trị cao, đi sâu vào nghiên cứu nhân giống và phát triển kỹ thuật gieo trồng tại một số vùng đất nhất định để góp phần nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Chẳng hạn như cây thổ phục linh, là một loại thân leo, ưa sáng, chịu hạn tốt, phù hợp với hệ sinh thái đất đồi, nương rẫy. Các xí nghiệp dược thích mua thổ phục linh Phú Yên để làm thuốc chữa thấp khớp rất công hiệu, thế nhưng người dân trong tỉnh chỉ mới khai thác tự nhiên nên số lượng ngày càng ít dần và nguy cơ cạn kiệt loài cây này (Lê Thị Tuyết Anh, Trung tâm Nghiên cứu và sản xuất dược liệu miền Trung [Dẫn theo Lê Thị Diên và cộng sự, 2007]). Trước đó, Trần Khắc Bảo (1994) đã đề cập đến các vấn đề về chế biến, bảo quản và phát triển cây thuốc ở Lào Cai và Hà Giang. Lê Quý Ngưu, Trần Như Đức (1998) đã tập trung mô tả đặc điểm hình thái, công dụng, nơi mọc, kỹ thuật thu hái, chế biến và các bài thuốc làm từ các loài thực vật trong đó có thực vật cho LSNG. Nguyễn Bá Hoạt (2002) đã đề cập đến tài nguyên thực vật cho LSNG theo hướng phân loại hệ thống sinh và thống kê thực vật có giá trị làm thuốc ở huyện vùng cao Sa Pa, Lào Cai. Tác giả tập trung mô tả về công dụng và nơi mọc của các loài thực vật ở đây, trong đó có loài HLOR. Nghiên cứu về tiềm năng và vai trò LSNG đối với cuộc sống cộng đồng ở một số vùng đệm của VQG và khu dự trữ thiên nhiên tại Việt Nam cho thấy gần 200 tấn cây dược liệu ở VQG Ba Vì được khai thác trong năm 1997 và 1998, ước tính gần 60% dân tộc Dao tại Ba Vì tham gia vào thu hái cây dược liệu. Đây là nguồn thu
  12. 11 nhập chính trước đây và hiện nay là nguồn thu nhập thứ hai sau lúa và sắn (D.A.Gilmour và Nguyễn Văn Sản, 1999). Huỳnh Văn Kéo và cộng sự (2001) đã nghiên cứu về đa dạng sinh học cây thuốc VQG Bạch Mã, đã đề cập đến vấn đề bảo tồn, sử dụng và phát triển bền vững nguồn gốc cây thuốc. 1.2.3. Một số nghiên cứu về HLOR ở Việt Nam Một số công trình nghiên cứu về thành phần berberin cũng như phương pháp chiết xuất berberin trong các loài cây thuộc họ Hoàng liên gai (hoàng liên chân gà, hoàng liên gai) nói chung và cây HLOR đã được thực hiện. Berberin là hoạt chất có trong nhiều loài cây như: Hoàng liên (Coptis teeta), Hoàng liên gai (Berberis sp.), HLOR (Mahonia spp.), Hoàng bá (Phellodendron amurense)... Trong y học dùng berberin làm thuốc chữa ỉa chảy, đau mắt, viêm ruột... Ngoài ra, người ta còn dùng làm thuốc cầm máu trong sản phụ sau khi sinh nở, chữa viêm túi mật, đặc biệt là tác dụng tốt với bệnh sỏi mật. Trong kỹ nghệ người ta còn dùng berberin để tạo chất màu làm thuốc nhuộm, hoặc làm chất tạo màu trong gia vị và trong đồ uống có cồn và trong các lĩnh vực khác ([6c, 8c]). Nguyễn Văn Tập, Phạm Thanh Huyền và cộng tác viên (Viện Dược liệu, 2005) đã tiến hành điều tra sưu tập các loài thực vật làm thuốc ở nhiều vùng trên cả nước. Trong đó, nhóm nghiên cứu này đã tiến hành sưu tập và gây trồng thử nghiệm HLOR tại Trạm nghiên cứu và gây trồng cây thuốc Tam Đảo và Sa Pa, bước đầu cũng khẳng định khả năng nhân giống bằng hạt loài cây này là khá tốt. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu này cũng bắt đầu thử nghiệm nhân giống vô tính bằng cách giâm hom và đã cho trồng thử nghiệm hàng trăm cây HLOR trên núi đá vôi tại Hà Giang. Loài cây này cũng được thu thập về trồng tại vườn của Trung tâm cây thuốc Đà Lạt (Viện Dược liệu) với mục đích bảo tồn ngoại vi (Ex situ), cây sinh trưởng phát triển tốt (Sách đỏ Việt Nam, 2007).
  13. 12 Năm 2008-2009, Trung tâm nghiên cứu thực nghiệm Lâm Đồng đã tiến hành điều tra tại huyện Lạc Dương - Lâm Đồng, trên núi Liang Biang ở độ cao 1.500- 1.700m có phân bố HLOR nhưng số lượng cá thể còn ít, chỉ còn sót lại rải rác các cá thể dưới tán rừng Thông. Năm 2009, Trung tâm nghiên cứu khoa học sản xuất lâm nghiệp vùng Tây Bắc (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam) đã tiến hành điều tra sơ bộ phân bố loài cây này tại vùng núi cao Cò Mạ, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La và huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai cho thấy cây phân bố ở rừng thứ sinh và phân bố ở độ cao trên 1000m, số lượng cá thể phân bố còn rất ít, số cây mẹ nhân giống rất hiếm gặp. Tuy nhiên, khi thử nghiệm nhân giống loài cây này tại Lâm Đồng bằng hom thân và cành từ 2008 đến nay, cành hom có thể ra rễ khi dùng các chất kích thích ra rễ như IBA và IAA. Kết quả bước đầu cho thấy, sau 4-5 tháng giâm, những hom sống đã mọc 3-6 lá. Hiện nay, các thí nghiệm đang được tiếp tục theo dõi, đánh giá. Trung tâm cũng đã tiến hành thu hái hạt giống và gieo ươm nhưng tỷ lệ nảy mầm của hạt thấp, chỉ đạt 40%, do chất lượng hạt kém. Đây được xem là những kết quả ban đầu về nhân giống HLOR. Qua đó khẳng định rằng, việc nhân giống vô tính loài cây này có triển vọng. Cần tiếp tục thử nghiệm nhằm tạo ra nguồn giống thích hợp phục vụ công tác trồng rừng bằng loài cây này tại Tây Nguyên, trong đó có Vườn Quốc gia Bidoup - Núi Bà và những nơi có điều kiện tương đồng. Trung tâm nghiên cứu khoa học sản xuất lâm nghiệp vùng Tây Bắc cũng đang tiến hành thử nghiệm nhân giống và bảo tồn chuyển chỗ loài cây này tại Sơn La nhằm xác định giống có khả năng gây trồng và sinh trưởng nhanh để bổ sung vào tập đoàn cây trồng của khu vực Tây Bắc. Nếu thành công, đây có thể được xem là loài cây xóa đói giảm nghèo cho các cộng đồng người dân miền núi vúi cao của Tây Bắc.
  14. 13 Nhìn chung, HLOR ở Việt Nam là cây thuốc quý hiếm. Tính chất quý hiếm ở đây trước hết xét về giá trị nguồn gen và do kích thước quần thể của chúng ở nước ta nhỏ hẹp, vùng phân bố bị chia cắt mạnh. Tiếp đến là giá trị làm thuốc. Xét về bản chất các alcaloid (chủ yếu là berberin) trong cây HLOR có tác dụng chống nhiễm khuẩn, nhưng tác dụng này chưa được nghiên cứu đầy đủ. Do vậy, có thể nói, người dân nói chung chưa có thông tin đầy đủ về giá trị làm thuốc của HLOR, thường là chỉ qua lời đồn đại của người bán hàng rong mà ở nhiều nơi như ở Đèo Gió (Cao Bằng), Sapa (Lào Cai)..., thân và rễ HLOR được bán cho khách qua đường với giá rất cao (Triệu Văn Hùng và cộng sự, 2007). Người mua nhiều khi không chắc chắn đó là sản phẩm từ cây HLOR hay không, những vẫn mua. Thực tế này đã dẫn đến việc khai thác quá mức HLOR cho dù loài cây này còn rất ít trong tự nhiên (Đỗ Huy Bích, 2006) ở khu vực này. Vì vậy vấn đề bảo tồn và phát triển loài cây này ở nước ta đã trở nên cấp bách. Tóm lại: Như đã đề cập ở trên, ở nước ta đã có nhiều loài cây dược liệu đã và đang được nghiên cứu một cách toàn diện từ phân bố tự nhiên, đặc điểm sinh vật học, sinh thái học đến kỹ thuật gây... và những nghiên cứu này đã góp phần quan trọng cho bảo tồn và phát triển các loài cây dược liệu quý, góp phần cải thiện đời sống của người dân vùng núi Việt Nam. Tuy nhiên, mặc dù là cây dược liệu thuộc loại quí hiếm và đang có nguy cơ tuyệt chủng ngoài tự nhiên nhưng những nghiên cứu về HLOR một cách toàn diện lại chưa được thực hiện, phần lớn các nghiên cứu chỉ tập trung vào nghiên cứu hoạt chất berberin có trong cây và một số đánh giá về mặt dược tính... Chính vì vậy, việc nghiên cứu đặc điểm sinh học loài cây này là cần thiết, điều này sẽ làm cơ sở cho việc áp dụng những biện pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp trong công tác bảo tồn, phát triển loài cây này.
  15. 14 Hiện nay, nghiên cứu áp dụng kỹ thuật giâm hom đối với loài cây này đang được quan tâm, tuy nhiên các nghiên cứu này vẫn đang ở giai đoạn theo dõi chu trình phát triển của hom, chưa thể đánh giá đầy đủ về khả năng áp dụng biện pháp kỹ thuật này. Vì vậy, việc nghiên cứu kỹ thuật nhân giống bằng phương pháp giâm hom loài HLOR là cần thiết. Kết quả thu sẽ là những đánh giá tổng quát về biện pháp kỹ thuật nhân giống vô tính, góp phần không nhỏ vào việc phát triển rộng rãi và bảo tồn loài cây này tại Việt Nam.
  16. 15 Chương 2 ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU 2.1. Vị trí địa lý: Huyện Lạc Dương – Tỉnh Lâm Đồng Hình 2.1: Bản đồ hành chính huyện Lạc Dương 2.1.1. Diện tích tự nhiên Tổng diện tích tự nhiên: 130.963,04 ha Địa giới hành chính như sau: - Phía Đông giáp: Tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Khánh Hòa. - Phía Tây giáp: Huyện Lâm Hà và huyện Đam Rông. - Phía Nam giáp: Thành phố Đà Lạt. - Phía Bắc giáp: Tỉnh Đắc Lắc. Huyện có 88-89% diện tích là rừng đầu nguồn, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nguồn nước cho các công trình thủy điện trên địa bàn. Huyện Lạc
  17. 16 Dương có tiềm năng về phát triển du lịch ở khu vực núi Langbiang và hồ Đan Kia - Suối Vàng, khu du lịch văn hóa lễ hội cũng như một số danh lam thắng cảnh khác. Khi Tỉnh lộ 722, 723 hoàn thành đưa vào sử dụng, Lạc Dương sẽ mở rộng mối giao lưu với vùng duyên hải và cao nguyên Trung bộ với các tuyến du lịch nổi tiếng Đà Lạt – Nha Trang; Đà Lạt - Đắk Lắk. 2.1.2. Bản đồ hành chính Bảng 2.1: Các xã và thị trấn của huyện Lạc Dương STT TÊN THÔN/XÃ DIỆN TÍCH (ha) 1 Thị trấn Lạc Dương 3.599,59 2 Xã Lát 20.580,37 3 Xã Đạ Sar 24.820,47 4 Xã Đạ Nhim 23.903,23 5 Xã Đạ Chais 34.104,16 6 Xã Đưng K’Nớh 19.340,79 (Sở KH-CN cấp) 2.1.3. Địa hình - Địa chất - Khí hậu - Thủy văn 2.1.3.1. Địa hình - Lạc Dương là huyện miền núi có địa hình tương đối phức tạp, có 3 dạng địa hình chính: núi cao, đồi thấp đến trung bình, thung lũng. - Dạng địa hình núi cao: là khu vực có độ dốc lớn (trên 200), có độ cao 1.500 – 2.200m so với mặt nước biển. Hầu hết diện tích ở dạng này là rừng đầu nguồn, có vai trò quan trọng trong bảo vệ nguồn nước hệ thống sông Đa Nhim, nên cần được bảo vệ nghiêm ngặt. - Dạng địa hình đồi thấp đến trung bình: Là dãy đồi hoặc núi ít dốc (
  18. 17 thuộc vào độ dốc, tầng dày, khí hậu và điều kiện tưới mà có thể trồng cây lâu năm (cà phê, chè, cây ăn quả…), ở những khu vực ít dốc có thể trồng hoa màu và cây công nghiệp hàng năm. - Dạng địa hình thung lũng: Chiếm khoảng 3% tổng diện tích toàn huyện, phân bố ven các sông, suối lớn. Độ cao phổ biến từ 3 – 80 hầu hết diện tích thuộc dạng địa hình này là các loại đất phù sa, nguồn nước mặt khá dồi dào, khá thích hợp với phát triển lúa nước và các loại hoa màu ngắn ngày. 2.1.3.2. Địa chất Các loại đất ở địa phương: toàn huyện có 5 nhóm đất chính như sau: (1) Nhóm đất Feralit: là nhóm đất chính ở huyện Lạc Dương chiếm 73,6% diện tích tự nhiên. (2) Nhóm đất đỏ vàng: Chiếm 21,4% tổng diện tích tự nhiên, thích hợp cho trồng cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả, hoa màu. (3) Đất mùn acid trên núi cao: Chiếm 1% diện tích tự nhiên, phân bố tập trung ở 4 xã phía Nam (xã Lát, Đạ Sar, Đa Nhim, Đạ Chais) hầu hết có độ dốc lớn nên chỉ thích hợp cho trồng rừng. (4) Đất dốc tụ: Chiếm 1,2% diện tích tự nhiên, thích hợp cho rau, hoa, lúa… (5) Đất phù sa sông suối: Chiếm 2,1% diện tích tự nhiên, thích hợp cho trồng lúa và cây hàng năm. Do đất dốc, địa hình chia cắt nên chỉ trồng cây hàng năm ở các thung lũng địa hình tương đối bằng, trên chân đất dốc tập trung phát triển cây lâu năm có giá trị kinh tế cao, hạn chế rửa trôi và xói mòn đất là hướng chủ yếu trong chiến lược sử dụng đất nông nghiệp của huyện. Tổng diện tích đất tự nhiên: 130.963,04 ha. Đất nông nghiệp: 122.141,22 ha. Trong đó được phân ra: - Đất sản xuất nông nghiệp: 4.689,57 ha
  19. 18 Đất trồng cây hàng năm: 2.363,57 ha Đất trồng cây lâu năm: 2.326 ha - Đất lâm nghiệp: 117.447,16 ha Đất rừng sản xuất: 467,99 Đất rừng phòng hộ: 55.901,75 ha Đất rừng đặc dụng: 61.077,42 ha - Đất nuôi trồng thủy sản: 4,49 ha Đất phi nông nghiệp: 1.382,89 ha Đất chưa sử dụng: 7.438,93 ha - Đất bằng chưa sử dụng: 380,95 ha - Đất đồi núi chưa sử dụng: 7.057,98 ha Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã kế thừa kết quả phân tích mẫu đất tại khu vực nghiên cứu, kết quả ở bảng 2.2: Bảng 2.2: Kết quả phân tích mẫu đất STT Mẫu đất Độ sâu (cm) pHKCl N% K2O% P2O5% 1 01 (TK 127B) 0 - 30 5,3 0,441 0,023 0,026 2 01 (TK 127B) 30 - 60 5,4 0,058 0,037 0,033 3 01 (TK 127B) 60 -100 5,4 0,036 0,008 0,032 4 02(TK 127B) 0 - 30 5,0 0,110 0,092 0,021 5 02(TK 127B) 30 - 60 5,0 0,098 0,493 0,036 6 02(TK 127B) 60 -100 5,1 0,056 0,624 0,013 7 03(TK 128) 0 - 30 4,9 0,385 0,008 0,051 8 03(TK 128) 30 - 60 5,3 0,148 0,027 0,033
  20. 19 9 03(TK 128) 60 -100 5,2 0,085 0,006 0,021 10 04(TK 90) 0 - 30 5,3 0,205 0,021 0,025 11 04(TK 90) 30 - 60 5,1 0,045 0,029 0,030 12 04(TK 90) 60 -100 5,2 0,030 0,013 0,029 13 05 (TK 90) 0 - 30 5,0 0,138 0,150 0,022 14 05 (TK 90) 30 - 60 5,0 0,047 0,327 0,034 15 05 (TK 90) 60 -100 5,1 0,037 0,415 0,051 HLOR sinh trưởng và phát triển trên các loại đất có độ pHKCl từ 4.9 – 5.4 tức là đất từ chua đến ít chua và có hàm lượng N tổng số từ 0.138 - 0.441 tức là từ nghèo đến giàu đạm và hàm lượng P205 tổng số trong đất nghèo. 2.1.3.3. Khí hậu Số liệu khí hậu 24 năm (từ năm 1979 đến năm 2002) ở Lạc Dương được dẫn ra ở bảng 2.3 – 2.6. Từ đó cho thấy: + Về nhiệt độ - Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm là 17,90C, cao nhất 18,60C xuất hiện vào năm 1998, thấp nhất 17,50C xuất hiện vào năm 1989-1990 (Bảng 2.3). Bảng 2.3. Đặc trưng nhiệt độ hàng năm ở Lạc Dương - Lâm Đồng (Thống kê 24 năm từ 1979 - 2002) Năm 1979 1980 1981 1982 1983 1984 1985 1986 1987 1988 1989 1990 T, 0 C 17,9 17,9 18,0 17,8 18,2 18,2 18,0 18,0 18,2 18,1 17,5 17,5 Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 T, 0 C 17,6 17,6 17,6 17,7 17,8 17,7 17,7 18,6 17,9 18,0 17,9 18,1
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2