intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu một số giải pháp góp phần quản lý rừng bền vững tại Vườn quốc gia Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:77

25
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ được thực trạng quản lý rừng ở vườn quốc gia Vũ Quang. Xác định được các yếu tố thuận lợi và khó khăn với quản lý rừng ở vườn quốc gia Vũ Quang. Đề xuất một số giải pháp góp phần quản lý rừng bền vững tại vườn quốc gia Vũ Quang. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu một số giải pháp góp phần quản lý rừng bền vững tại Vườn quốc gia Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ----------------------------- NGUYỄN THƯỢNG HẢI NGHIÊN CỨU MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG TẠI VƯỜN QUỐC GIA VŨ QUANG, TỈNH HÀ TĨNH LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội, 2011
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ----------------------------- NGUYỄN THƯỢNG HẢI NGHIÊN CỨU MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG TẠI VƯỜN QUỐC GIA VŨ QUANG, TỈNH HÀ TĨNH Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng Mã số: 60.62.68 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VƯƠNG VĂN QUỲNH HÀ NỘI, 2011
  3. MỞ ĐẦU Vườn Quốc Gia Vũ Quang có diện tích gần 57 nghìn ha, nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Hà Tĩnh. Với trên 30 nghìn héc ta vùng lõi là rừng tự nhiên gần như nguyên sinh nên trong đó có nhiều loài động, thực vật quý hiếm và chứa đựng nhiều yếu tố đặc hữu. Nơi đây đã thống kê được 465 loài thực vật bậc cao với nhiều loài quý, hiếm như: Cẩm lai, Du sam, Lát hoa, Lim, Giổi, Pơ mu, Hoàng đàn, Trầm hương…, 70 loài thú, trong đó có nhiều loài được xếp vào sách đỏ Việt Nam và thế giới như: Voi, Hổ, Bò tót…. Đặc biệt ở đây vào những năm 1992, 1993 đã phát hiện ra hai loài thú mới cho khoa học thế giới là: Sao la Pseudoryx nghetinhensis, Mang lớn Megamuntiacus vuquangensis. VQG Vũ Quang không chỉ giàu tính đa dạng sinh học (ĐDSH) mà còn có những cảnh quan sinh thái đẹp, có thể tìm thấy ở đây 2 kiểu rừng chính là: Rừng kín thường xanh á nhiệt đới phân bố trên độ cao 1.000 m với các loài thực vật ưu thế thuộc các họ á nhiệt đới như: Đỗ quyên, Hồi, Dẽ, Mộc lan.v.v..; kiểu rừng kín thường xanh nhiệt đới dưới 1.000 m, với nhiều cây gỗ lớn, có trữ lượng cao, ưu thế rõ nhất là: Re, Xoan, Bồ hòn.v.v.. Cùng với sự đa dạng của các cảnh quan thiên nhiên, các hệ sinh thái, các giống loài cùng những mối quan hệ phức tạp giữa chúng với nhau, VQG Vũ Quang còn là nơi lưu giữ nguồn gen nhiều loài động, thực vật quý hiếm, cung cấp các mẫu vật và là nơi thực tập cho học sinh, sinh viên về nhiều lĩnh vực khác nhau như: Sinh vật học, sinh thái học, khí tượng, thủy văn… Để bảo vệ những cánh rừng nguyên sinh, bảo tồn sự đa dạng sinh học đặc trưng của vùng rừng phía Tây Nam khu IV, góp phần duy trì sự cân bằng về sinh thái, tăng độ che phủ của rừng, bảo đảm an ninh môi trường và phát triển về kinh tế, đồng thời phát huy các giá trị sinh thái phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, tham quan và du lịch. Ngày 30/7/2002 Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 102/2002/QĐ-TTg chuyển Khu BTTN Vũ Quang thành Vườn quốc gia Vũ Quang. Cùng với tình trạng chung trong cả nước, Vườn quốc gia Vũ Quang đang phải đối mặt với tệ nạn khai thác gỗ, lâm sản ngoài gỗ, săn bắt các loài động vật rừng trái
  4. 2 phép, nếu tình trạng này vẫn cứ tiếp diễn thì trong tương lai không xa tài nguyên rừng VQG Vũ Quang sẽ bị suy thoái, mất đi những giá trị quý báu của nó. Ngăn chặn những tác động xâm hại đến tài nguyên rừng là điều băn khoăn, trăn trở của các cấp, các ngành, cán bộ và người dân địa phương. Để góp phần giải quyết vấn đề trên, trong khuôn khổ một luận văn cao học, tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu một số giải pháp góp phần quản lý rừng bền vững tại Vườn quốc gia Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh”.
  5. 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Định nghĩa về quản lý rừng bền vững Từ lâu quản lý rừng bền vững đã được các nhà lâm học xem là vấn đề cơ bản của kinh doanh rừng. Phần lớn các học thuyết về rừng đều hướng vào phân tích những quy luật sinh trưởng, phát triển của cá thể và quần thể rừng trong mối quan hệ với các điều kiện tự nhiên và những tác động của kỹ thuật của con người. Trên cơ sở đó người ta xây dựng những biện pháp quản lý thích hợp nhằm nâng cao năng suất và tính ổn định của hệ sinh thái rừng. Những kiến thức liên quan đến quản lý rừng bền vững được trình bày trong nhiều môn học khác nhau như lâm học, trồng rừng, quy hoạch rừng, điều chế rừng v.v... Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, quản lý rừng bền vững (QLRBV) đã trở thành một nguyên tắc đối với quản lý kinh doanh rừng, đồng thời cũng là một tiêu chuẩn mà quản lý kinh doanh rừng phải đạt tới. Theo tổ chức Gỗ Nhiệt đới (ITTO), QLRBV là quá trình quản lý những lâm phận ổn định nhằm đạt được một hoặc nhiều hơn những mục tiêu quản lý rừng đã đề ra một cách rõ ràng, như đảm bảo sản xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ rừng mong muốn mà không làm giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng suất tương lai của rừng, không gây ra những tác động tiêu cực đối với môi trường tự nhiên và xã hội [8]. Theo Tiến trình Helsinki, QLRBV là sự quản lý rừng và đất rừng theo cách thức và mức độ phù hợp đề duy trì tính ĐDSH, năng suất, khả năng tái sinh, sức sống của rừng và duy trì tiềm năng của rừng trong quá trình thực hiện và trong tương lai, các chức năng sinh thái, kinh tế và xã hội của rừng ở cấp địa phương, cấp quốc gia và toàn cầu không gây ra những tác hại đối với các hệ sinh thái khác [8]. Hai khái niệm này đã nêu lên được mục tiêu chung của QLRBV là đạt được sự ổn định về diện tích, bền vững về tính ĐDSH, về năng Suất kinh tế và đảm bảo được hiệu quả về môi trường sinh thái của rừng. Tuy nhiên, vấn đề QLRBV cũng phải đảm bảo tính linh hoạt khi áp dụng các biện pháp quản lý rừng cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương, được quốc gia và quốc tế chấp nhận.
  6. 4 Như vậy, QLRBV được hiểu là việc quản lý rừng bằng các biện pháp phù hợp nhằm đạt được mục tiêu đề ra như: ngăn chặn được tình trạng mất rừng, mà trong đó việc khai thác lợi dụng rừng không mâu thuẫn với việc duy trì được diện tích và chất lượng của rừng, đồng thời duy trì và phát huy được chức năng bảo vệ môi trường sinh thái lâu bền đối với con người và thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn loài, bảo tồn các hệ sinh thái. Quản lý rừng bền vững nhằm phát huy đồng thời những giá trị về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường của rừng. Mục tiêu cơ bản của quản lý rừng bền vững là đồng thời đạt được bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường. - Bền vững về kinh tế là đảm bảo kinh doanh rừng lâu dài liên tục với năng suất, hiệu quả ngày càng cao (không khai thác lạm vào vốn rừng; duy trì, phát triển diện tích, trữ lượng rừng; áp dụng các biện pháp kỷ thuật làm tăng năng suất rừng). - Bền vững về xã hội là đảm bảo kinh doanh rừng phải tuân thủ các luật pháp, thực hiện tốt các nghĩa vụ đóng góp với xã hội, đảm bảo quyền hạn và quyền lợi cũng như mối quan hệ tốt với nhân dân, với cộng đồng địa phương. - Bền vững về môi trường là đảm bảo kinh doanh duy trì được khả năng phòng hộ môi trường, duy trì được tính đa dạng sinh học của rừng, đồng thời không gây tác hại đối với các hệ sinh thái khác. Trên quan điểm kinh tế sinh thái thì hiệu quả về mặt môi trường của rừng hoàn toàn có thể xác định được bằng giá trị về kinh tế. Thực chất việc nâng cao giá trị về môi trường sinh thái của rừng sẽ góp phần giảm những chi phí cần thiết để góp phần phục hồi và ổn định môi trường sống. Với ý nghĩa này, quản lý sử dụng rừng bền vững đã trở thành một nhiệm vụ cấp bách, một giải pháp quan trọng cho sự tồn tại lâu dài của con người và thiên nhiên. 1.2. Khái quát tình hình phát triển và nghiên cứu về quản lý rừng bền vững 1.2.1. Quản lý rừng bền vững trên thế giới Trên thế giới, lịch sử quản lý rừng được phát triển từ rất sớm. Đầu thế kỷ 18, các nhà lâm học Đức (G.L.Hartig, 1840; Heyer, 1883, Hundeshagen, 1926...) đã đề xuất nguyên tắc lợi dụng lâu bền đối với rừng thuần loại đồng tuổi. Cũng vào thời điểm đó,
  7. 5 các nhà lâm nghiệp Pháp (Gournand, 1922) và Thuỵ sĩ (H. Biolley, 1922) cũng đã đề ra phương pháp kiểm tra điều chỉnh sản lượng đối với rừng khác tuổi khai thác chọn. Trong thời kỳ này, hệ thống quản lý rừng phần lớn vẫn dựa trên các mô hình kiểm soát quốc gia trung ương. Các khu đất rừng công cộng chiếm từ 25 -75% tổng diện tích đất đai của nhiều quốc gia. Hiện nay, nhiều chính phủ vẫn giữ nguyên quyền pháp lý độc nhất kiểm soát toàn bộ khu rừng tự nhiên. Các cơ quan Lâm nghiệp được giao bảo vệ những khu đất này thường phải đương đầu với các vấn đề vốn và nhân sự do ngân sách khu vực công cộng bị giảm xuống trong quá trình cải tổ kinh tế. Trong giai đoạn từ thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20, hệ thống quản lý rừng thường mang tính tập trung cao ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Trong thời kỳ này, vai trò sự tham gia của cộng đồng trong quản lý rừng không được chú ý. Mặc dù trong các qui định pháp luật thì rừng là tài sản của toàn dân xong trong thực tế người dân không hề được hưởng lợi từ rừng và vì vậy người dân cũng không hề quan tâm đến vấn đề xây dựng và bảo vệ vốn rừng. Họ chỉ biết khai thác tài nguyên rừng để lấy lâm sản và lấy đất canh tác phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của chính họ. Bên cạnh đó cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp, nhu cầu lâm sản ngày càng tăng lên nên tình trạng khai thác quá mức đối với tài nguyên rừng trong giai đoạn này cũng trở thành nguyên nhân quan trọng của tình trạng suy thoái tài nguyên rừng. Bước sang giai đoạn từ giữa thế kỷ 20 trở lại đây, khi tài nguyên rừng ở nhiều quốc gia đã bị giảm sút một cách quan trọng, môi trường sinh thái và cuộc sống của đồng bào miền núi bị đe doạ thì phương thức quản lý tập trung như trước đây không còn thích hợp nữa. Người ta đã tìm mọi cách cứu vãn tình trạng suy thoái tài nguyên rừng thông qua việc ban bố một số chính sách nhằm động viên và thu hút người dân tham gia quản lý và sử dụng tài nguyên rừng. Phương thức quản lý rừng cộng đồng (hay lâm nghiệp cộng đồng) xuất hiện đầu tiên ở Ấn độ và dần dần biến thái thành các hình thức quản lý khác nhau như: Lâm nghiệp trang trại, Lâm nghiệp xã hội (Nêpan, Thái lan, Philippin...). Hiện nay, ở các nước đang phát triển, khi sản xuất nông Lâm nghiệp còn chiếm vị trí quan trọng đối với người dân nông thôn miền núi, thì quản lý rừng theo phương thức phát triển
  8. 6 Lâm nghiệp xã hội sẽ là một hình thức mang tính bền vững nhất về cả phương diện kinh tế, xã hội lẫn môi trường sinh thái. 1.2.2. Quản lý rừng bền vững ở Việt Nam Tài nguyên rừng ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và đời sống kinh tế nói chung của chừng một phần ba dân số của cả nước. Nó không chỉ cung cấp những sản phẩm phục vụ sinh hoạt hàng ngày như: gỗ, củi, lương thực, thực phẩm, dược liệu v.v..., mà còn cung cấp những sản phẩm phục vụ nhu cầu công nghiệp, thủ công nghiệp và xuất khẩu. Trong nhiều trường hợp rừng mang lại tới 60% tổng thu nhập của người dân. Ngoài ra, do phân bố ở những vùng sinh thái nhạy cảm như các vùng đầu nguồn rộng lớn, các vùng ngập mặn, các vùng sình lầy v.v.... rừng còn là một trong những yêú tố có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến hoàn cảnh môi trường của đất nước. Nó góp phần quan trọng vào chống lại biến đổi khí hậu, điều tiết nguồn nước, giảm tần suất và mức nguy hiểm của các thiên tai như lũ lụt, hạn hán v.v… Sự thất bại của công tác quản lý rừng và tài nguyên đất đai vùng đầu nguồn trong những thập kỷ qua đã làm Việt Nam mất đi hàng triệu ha rừng và là nguyên nhân chủ yếu gây ra những biến đổi khí hậu, gia tăng tần suất xuất và mức độ thiệt hại của hạn hán và lũ lụt, là nguyên nhân buộc Nhà nước phải đầu tư hàng nghìn tỉ đồng mỗi năm để củng cố đê điều và chống lũ cho các cánh đồng, là nguyên nhân của xói mòn và sự hoang hoá tới trên 50% diện tích đất đồi núi. Quản lý rừng không hiệu quả trong những năm qua cũng làm cho nhiều vùng đất trũng, đất ngập mặn trù phú bởi các thảm rừng tràm, rừng đước với hàng trăm loài động vật hoang dã có giá trị cao đã và đang bị thay thế bởi các vùng nuôi tôm, các rừng trồng công nghiệp với mức độ măn hoá, phèn hoá ngày một nghiêm trọng. Trước những biến đổi mạnh mẽ của môi trường và hiểm hoạ sinh thái có thể xảy ra thì quản lý rừng bền vững ngày càng trở lên quan trọng. Phần lớn các chương trình, dự án quốc tế hỗ trợ ngành lâm nghiệp hiện nay đều hướng vào quản lý rừng bền vững. Những chương trình phát triển lâm nghiệp lớn của Nhà nước như chương trình 4304, 327, 5 triệu ha rừng v.v... cũng xem quản lý rừng bền vững như một mục tiêu quan trọng. Lâm nghiệp đang trở thành ngành kinh tế phát triển không chỉ
  9. 7 nhờ vào khả năng cung cấp hàng hoá lâm sản mà còn nhờ vào khả năng cung cấp các hàng hoá và dịch vụ về môi trường đáp ứng yêu cầu trong nước và quốc tế. Quản lý rừng bền vững đang được đặt ra như một vấn đề bức xúc cả về quan điểm, phương pháp luận đến những giải pháp cụ thể. Kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm trong nước và quốc tế về quản lý rừng bền vững thực sự là những bài học quý cho quản lý rừng ở mỗi địa phương. Các hoạt động nông nghiệp và khai thác gỗ trong những năm qua phát triển hết sức mạnh mẽ là nguyên nhân chủ yếu làm suy thoái tài nguyên rừng của Việt Nam. Các khu rừng nguyên vẹn phần lớn chỉ còn sót lại ở các vùng núi cao, những nơi hiểm trở. Đó là những nơi còn giữ được sự phong phú của các loài, là những nơi cư trú cuối cùng của các loài đặc hữu và các loài có nguy cơ bị tuyệt chủng. Ngoài các nguyên nhân làm mất rừng do sự gia tăng dân số, thiếu thốn về lương thực, phá rừng lấy đất canh tác, khai thác lâm sản quá mức, rừng Việt Nam còn bị ảnh hưởng bởi sự huỷ diệt trầm trọng bởi 2 cuộc chiến tranh kéo dài đã làm cho tài nguyên rừng bị gỉam sút vì bị bom đạn, chất độc hoá học tàn phá quá nặng nề. Nếu như tỷ lệ che phủ của rừng ở nước ta vào năm 1943 còn 43,3% thì đến năm 1976 chỉ còn 33,8%. Tỷ lệ che phủ thấp nhất là vào năm 1995 với 28,2%. Trong những năm gần đây nỗ lực của nhà nước với những chính sách đổi mới đã làm cho diện tích rừng tăng một cách rõ rệt. Đến năm 2009, tỷ lệ che phủ rừng của cả nước đã nâng lên 39% [12]. Ngày 18 tháng 5 năm 2005, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT đã ra Quyết định số 1116/QĐ/BNN-KL về việc công bố diện tích rừng và đất chưa sử dụng toàn quốc năm 2004 như sau: Phân theo chức năng sử dụng Loại đất, loại rừng Diện tích (Ha) Đặc dụng Phòng hộ Sản xuất I. Đất có rừng 12.306.858 1.920.453 5.920.688 4.465.717 1. Rừng tự nhiên 10.088.288 1.837.076 5.105.961 3.145.251 2. Rừng trồng 2.218.570 83.378 814.726 1.320.466 II. Đất chưa có rừng 6.718.576 479.328 3.709.440 2.529.807
  10. 8 Qua kết quả kiểm kê rừng cho ta thấy, rừng sản xuất chỉ chiếm khoảng 1/3 tổng diện tích rừng, còn lại là rừng phòng hộ và đặc dụng. Một số người cho rằng cơ cấu 3 loại rừng như trên trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay là chưa hợp lý, cần xem xét lại cơ cấu các loại rừng đồng thời cần có kế hoạch mở rộng diện tích rừng sản xuất để ngành lâm nghiệp có điều kiện đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế quốc dân. Nguồn quỹ đất chưa có rừng chiếm 20%, đây là điều kiện thuận lợi để nâng cao diện tích rừng sản xuất đồng thời góp phần hoàn thành mục tiêu nâng độ che phủ rừng nước ta lên 43% trong tương lai. Đây là việc làm khó khăn nhưng hoàn toàn có cơ sở và có khả năng đạt được. Quản lý rừng bền vững là vấn đề rất cần thiết và hết sức cấp bách, là nhiệm vụ quan trọng, nặng nề của đất nước. Công tác tổ chức quản lý sử dụng tài nguyên rừng ở Việt Nam có thể được chia thành 3 thời kỳ như sau. 1.2.2.1. Thời kỳ trước năm 1945 Đơn vị quản lý rừng trong thời kỳ này được gọi là hạt lâm nghiệp có qui mô tương đương với cấp tỉnh. Nội dung hoạt động lâm nghiệp trong thời kỳ này chủ yếu là quản lý tài nguyên rừng nhằm để thu thuế là chính. Để thực hiện mục tiêu khai thác tài nguyên rừng, người ta đã chia rừng thành ba loại. - Rừng không thuộc quản lý của Nhà nước. Đây là những khu rừng ở vùng sâu vùng xa với mật độ dân địa phương rất thấp, khó tiếp cận và kiểm soát. Ở những khu rừng này dân địa phương có quyền tự do khai thác gỗ, lâm sản và phát nương làm rẫy để đáp ứng các nhu cầu hàng ngày của họ. - Rừng khai thác là những khu rừng tự nhiên nằm gần các khu dân cư và có điều kiện giao thông thuận lợi. Rừng được phân chia thành các đơn vị quản lý, được kiểm kê tài nguyên, điều tra các thông tin cơ bản phục vụ quản lý. Các đơn vị rừng được chia thành các coup (cúp) khai thác và Nhà nước quy định cấp kính tối thiểu được phép khai thác. Kiểm lâm đặt các trạm kiểm soát ở cửa rừng, tất cả các gỗ khai thác ra được chấp nhận, đóng búa, nộp thuế và cho phép lưu thông [8]. - Rừng quan trọng là những khu rừng có vị trí quan trong về kinh tế được khai thác và bảo vệ trong suốt luân kỳ hoặc là những khu rừng có chức năng quan trọng khác như rừng đầu nguồn cần bảo vệ nghiêm ngặt.
  11. 9 1.2.2.2. Thời kỳ từ năm 1946 - 1990 Sau năm 1945, ngành Lâm nghiệp được quản lý bởi Nha lâm chính thuộc Bộ canh nông với nhiệm vụ được qui định là Quản lý lâm phận: Ngăn ngừa sự tàn phá rừng và sự lạm dụng lâm sản, gìn giữ các khu rừng có quan hệ đến sự điều hoà khí hậu và mực nước của các triền sông, giữ vững các cồn cát để khỏi lấn vào nội địa; thi hành lâm pháp và thi hành thể lệ về săn bắn. Các hoạt động lâm nghiệp trong giai đoạn này luôn gắn liền với nhiệm vụ kháng chiến và tập trung chủ yếu vào các nhiệm vụ: (i) - Xây dựng chính sách thể chế lâm nghiệp bao gồm: Xoá bỏ các thể lệ lâm nghiệp độc quyền, xây dựng tổ chức và chính sách thể chế lâm nghiệp mới; cải tiến chế độ thu tiền bán khoán lâm sản; chính sách phát triển trồng cây gây rừng; (ii) - Các thể chế về bảo vệ rừng, sản xuất, lưu thông và xuất nhập khẩu lâm sản; thực hiện nhiệm vụ bảo vệ rừng: Khai thác gỗ và lâm sản phục vụ yêu cầu kháng chiến; vận động nhân dân trồng cây; đóng góp các nguồn thu của ngành lâm nghiệp vào ngân sách; đào tạo cán bộ lâm nghiệp; công tác nghiên cứu lâm nghiệp. Đến giai đoạn 1956 - 1975, được đánh dấu bởi sự thành lập của Tổng cục Lâm nghiệp như là cơ quan đầu não của ngành lâm nghiệp. Ở cấp tỉnh có các ty lâm nghiệp để quản lý nhà nước về lâm nghiệp. Hoạt động lâm nghiệp trong thời kỳ này chủ yếu vẫn là khai thác và bảo vệ rừng tự nhiên. Lượng gỗ khai thác thời kỳ này trung bình khoảng 1,5 triệu m3/năm. Nhiệm vụ trồng rừng tuy có được chú ý nhưng qui mô nhỏ (50.000 ha/năm) và tỷ lệ thành rừng rất thấp (khoảng 30%). Giai đoạn 1976 -1990 là những năm có nhiều thay đổi trong hệ thống tổ chức và chính sách quản lý lâm nghiệp được đánh dấu bằng sự thành lập Bộ Lâm nghiệp năm 1976 [8]. Năm 1986, rừng được qui hoạch thành ba loại theo chức năng, đó là: Rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Rừng được giải thửa thành các tiểu khu để làm đơn vị quản lý. Các hoạt động quản lý và sản xuất lâm nghiệp của ba loại rừng nói trên được nghiên cứu phát triển và có nhiều đổi mới trong giai đoạn này. Tổ chức của các hệ thống quản lý ba loại rừng có thể được tóm lược như sau: Đối với rừng sản xuất, được quản lý bởi các Liên hiệp lâm nông công nghiệp và các lâm trường quốc doanh; đối với rừng phòng hộ các vùng đầu nguồn trọng yếu như: Sông Đà, Dầu Tiếng, Trị
  12. 10 An, Thạch Nham... có các ban quản lý rừng phòng hộ trực thuộc Bộ Lâm nghiệp, các khu rừng phòng hộ khác do các lâm trường quản lý hoặc các ban quản lý rừng phòng hộ trực thuộc tỉnh, liên hiệp...; đối với rừng đặc dụng, thành lập các Vườn quốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên có ban quản lý để bảo vệ nghiêm ngặt theo quy chế riêng. 1.2.2.3. Thời kỳ từ năm 1991 đến nay Từ tháng 10/1995, Bộ Lâm nghiệp (cũ) cùng với Bộ Thủy lợi (cũ) sát nhập vào với Bộ Nông nghiệp (cũ) để thành lập Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Trong Bộ mới có 2 Cục chuyên ngành Lâm nghiệp đó là Cục Phát triển Lâm nghiệp và Cục Kiểm lâm. Tại các tỉnh có Sở NN&PTNT, trong sở có hai cơ quan chuyên ngành lâm nghiệp đó là Chi cục Phát triển Lâm nghiệp và Chi cục Kiểm lâm, một số tỉnh thì Chi cục Kiểm lâm trực thuộc UBND tỉnh. Ở cấp huyện, có phòng NN&PTNT và Hạt kiểm lâm. Phòng NN&PTNT giúp UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ lợi và phát triển nông thôn; Hạt kiểm lâm trực thuộc Chi cục kiểm lâm cấp tỉnh và chịu sự lãnh đạo của UBND huyện để thực hiện các nhiệm vụ được giao cho lực lượng kiểm lâm trên địa bàn huyện. Ở cấp xã, hiện nay đa số các xã đã có kiểm lâm viên, công tác BVR được tăng cường đến tận các khu rừng trên địa bàn xã. Bốn định hướng đổi mới về chiến lược phát triển lâm nghiệp đã được vạch ra trên cơ sở của dự án “Nghiên cứu tổng quan phát triển Lâm nghiệp Việt Nam”: Chuyển lâm nghiệp từ ngành kinh tế có nhiệm vụ khai thác tài nguyên rừng là chính, trở thành một ngành kinh tế có nhiệm vụ cơ bản là xây dựng và phát triển vốn rừng; chuyển lâm nghiệp từ một ngành kinh tế chỉ có Nhà nước và tập thể sang một nền lâm nghiệp xã hội, thu hút nhiều thành phần kinh tế trong đó có cả hộ gia đình, cá nhân và các lực lượng xã hội tham gia xây dựng rừng và kinh doanh rừng; chuyển lâm nghiệp từ một nền kinh tế chuyên khai thác gỗ tự nhiên sang một ngành kinh tế kinh doanh nhiều sản phẩm, phát triển nhiều ngành nghề; chuyển lâm nghiệp
  13. 11 từ tình trạng quảng canh, trình độ khoa học kỹ thuật thấp sang xây dựng một ngành lâm nghiệp, thâm canh, có trình độ khoa học kỹ thuật cao. Để thực hiện định hướng chiến lược có 4 chương trình: Chương trình quản lý rừng (điều chế rừng), bảo vệ rừng và tổ chức lại sản xuất lâm nghiệp; chương trình trồng rừng, sử dụng đất trống đồi núi trọc và phát triển lâm nghiệp theo phương thức nông lâm kết hợp; chương trình khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên rừng và chương trình đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý lâm nghiệp theo cơ chế thị trường. Trong giai đoạn này, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách liên quan đến quản lý rừng bền vững; đó là Luật đất đai và các chính sách giao đất lâm nghiệp; Luật bảo vệ và phát triển rừng (1991, năm 2004 ) và các thể chế về tăng cường quản lý bảo vệ rừng; Qui chế quản lý 3 loại rừng: sản xuất, phòng hộ và đặc dụng. Nghị định của Chính phủ quy định trách nhiệm quản lý nhà nước của các cấp về rừng và đất lâm nghiệp. Về cơ sở lý luận, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững. Một số đề tài nghiên cứu đã bước đầu đề xuất các giải pháp cụ thể áp dụng cho một số vùng như quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững lưu vực sông Sê San của Phạm Đức Lân và Lê Huy Cường [26]; quản lý bền vững rừng khộp ở Ea Súp - Đăc Lắc của Hồ Viết Sắc [33]; du canh với vấn đề QLRBV ở Việt Nam của Đỗ Đình Sâm [34]. Hiện nay, trên địa bàn các tỉnh Bắc Trung Bộ chưa có một đề tài nghiên cứu nào về công tác quản lý sử dụng rừng bền vững. Vì vậy, đề tài sẽ nghiên cứu một số giải pháp chính áp dụng cho công tác quản lý sử dụng rừng theo hướng tổng hợp và bền vững trên địa bàn VQG Vũ Quang, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh là sự cần thiết.
  14. 12 Chương 2 MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu nghiên cứu - Mục tiêu tổng quát: Góp phần quản lý bền vững tài nguyên rừng tại VQG Vũ Quang. - Mục tiêu cụ thể: + Làm rõ được thực trạng quản lý rừng ở VQG Vũ Quang. + Xác định được các yếu tố thuận lợi và khó khăn với quản lý rừng ở VQG Vũ Quang. + Đề xuất một số giải pháp góp phần quản lý rừng bền vững tại VQG Vũ Quang. 2.2. Nội dung nghiên cứu Phù hợp với mục tiêu nghiên cứu và những điều kiện cụ thể của địa phương đề tài tiến hành một số nội dung sau: - Đánh giá hiện trạng tài nguyên rừng Vườn quốc gia Vũ Quang. Nội dung này nhằm đánh giá hiện trạng tài nguyên rừng ở Vườn quốc gia Vũ Quang, bao gồm: Diện tích các loại rừng, quy hoạch sử dụng rừng, sự đa dạng về tài nguyên thực vật, động vật và các sinh cảnh cũng như sự phân bố của chúng theo không gian và các vùng địa lý khác nhau. Đồng thời xác định tầm quan trọng của VQG Vũ Quang đối với đời sống kinh tế, xã hội địa phương cũng như giá trị sinh thái đối với quốc gia và thế giới. - Đánh giá thực trạng quản lý và sử dụng tài nguyên rừng ở VQG Vũ Quang Trong nội dung này đề tài phân tích đặc điểm quản lý tài nguyên rừng, trong đó tập trung vào các hoạt động bảo vệ, phát triển và sử dụng tài nguyên rừng ở VQG Vũ Quang và vùng đệm. - Những yếu tố thuận lợi và khó khăn đối với hoạt động quản lý rừng ở VQG Vũ Quang Nội dung này nhằm phân tích nhóm các yếu tố tự nhiên, kinh tế và xã hội có ảnh hưởng tới hoạt động quản lý rừng ở vườn quốc gia Vũ Quang.
  15. 13 - Nghiên cứu những giải pháp để góp phần quản lý bền vững tài nguyên rừng. Từ kết quả nghiên cứu những nội dung trên để tìm ra những giải pháp góp phần bảo vệ bền vững tài nguyên rừng tại VQG Vũ Quang. 2.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là VQG Vũ Quang và một số khu vực vùng đệm thuộc địa phận huyện Vũ Quang, Hương Khê và huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. - Phạm vi nghiên cứu: Những vấn đề có liên quan đến tài nguyên rừng, những giải pháp góp phần quản lý bền vững tài nguyên rừng tại VQG Vũ Quang. 2.4. Phương pháp nghiên cứu 2.4.1. Phương pháp luận - Đề tài vận dụng quan điểm hệ thống để xây dựng phương pháp nghiên cứu. Theo quan điểm này rừng vừa là một bộ phận của hệ thống tự nhiên vừa là một bộ phận của hệ thống kinh tế xã hội. Rừng là một bộ phận của hệ thống tự nhiên, bởi vì sự tồn tại và phát triển của nó phụ thuộc những quy luật của tự nhiên, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác trong hệ thống tự nhiên như: địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, sinh vật v.v... Do có mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố tự nhiên mà có thể quản lý rừng bằng tác động vào các yếu tố tự nhiên. Trên quan điểm hệ thống có thể xem những giải pháp quản lý rừng như là những giải pháp điều khiển hệ thống tự nhiên để ổn định thành phần và các mối quan hệ trong hệ sinh thái rừng. Đây là lý do vì sao trong đề tài này, nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên đến rừng được coi là một nội dung quan trọng. Rừng cũng là một bộ phận của hệ thống kinh tế vì sự tồn tại và phát triển của nó gắn liền với các hoạt động kinh tế của con người như trồng rừng, khai thác lâm sản, làm nương rẫy, săn bắt chim, thú, phát triển du lịch v.v... Mặt khác, các hoạt động này lại phụ thuộc vào mức sống kinh tế, cơ cấu ngành nghề, nhu cầu thị trường, khả năng đầu tư, lợi nhuận v.v... Ngoài ra, rừng cũng tác động mạnh mẽ tới các yếu tố kinh tế thông qua cung cấp nguyên liệu, năng lượng và thông tin cho nhiều hoạt động kinh tế của con người. Nó có tác động tới nhiều yếu tố của hệ thống kinh tế từ sản
  16. 14 xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng và tích luỹ v.v... Vì quan hệ chặt chẽ với các yếu tố trong hệ thống kinh tế nên có thể quản lý rừng bằng việc tác động vào những yếu tố kinh tế. Đây là lý do vì sao việc nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế đến hiệu quả của hoạt động quản lý rừng và xây dựng những giải pháp kinh tế cho quản lý rừng được xác định như một trong những nhiệm vụ của đề tài. Rừng cũng là một thực thể xã hội, sự tồn tại và phát triển của rừng phụ thuộc nhiều vào hoạt động của con người. Hoạt động của họ theo hướng bảo vệ và phát triển rừng hay tàn phá nó luôn bị chi phối bởi nhiều yếu tố xã hội như nhận thức về giá trị của rừng, ý thức với luật pháp Nhà nước, trách nhiệm với cộng đồng, kiến thức về quản lý rừng, những phong tục, tập quán liên quan đến quản lý rừng v.v... Rừng và hiệu quả của hoạt động quản lý rừng cũng phụ thuộc vào những vấn đề thể chế và chính sách như hoạt động của hệ thống tổ chức Nhà nước trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng, các chính sách đất đai, chính sách sở hữu và sử dụng rừng ở địa phương. Rừng và hiệu quả của quản lý rừng còn phụ thuộc vào sự hiện diện của các tổ chức cộng đồng và những quy định của cộng đồng. Chúng hỗ trợ Nhà nước trong việc tuyên truyền vận động người dân, động viên và giám sát họ thực hiện những chính sách Nhà nước. Do rừng có liên quan chặt chẽ với các yếu tố xã hội nên có thể quản lý rừng bằng tác động vào những yếu tố xã hội. Đây là lý do vì sao trong đề tài này phân tích ảnh hưởng của những yếu tố xã hội đến hiệu quả của quản lý rừng, coi đây là một nội dung quan trọng. Những giải pháp xã hội cho quản lý rừng bền vững sẽ là những giải pháp tác động vào các mối quan hệ xã hội để lôi cuốn cộng đồng vào hoạt động quản lý bảo vệ rừng. - Quản lý rừng là hoạt động vừa mang tính kỹ thuật, vừa mang tính kinh tế và xã hội nhân văn nên những giải pháp quản lý rừng phải được xây dựng trên quan điểm đa ngành Quản lý rừng là hoạt động mang tính kỹ thuật, nhưng cũng là hoạt động mang tính kinh tế xã hội. Vì vậy, những giải pháp quản lý rừng sẽ bao gồm cả những giải pháp khoa học công nghệ và giải pháp kinh tế xã hội. Những giải pháp này sẽ liên quan đến cả lâm nghiệp, nông nghiệp, thuỷ lợi, địa chính, giao thông, môi trường,
  17. 15 văn hoá, giáo dục, quốc phòng v.v... và được xây dựng trên cơ sở những kiến thức khí tượng học, thuỷ văn học, lâm sinh học, dân tộc học, xã hội học, thể chế kinh tế, môi trường và phát triển v.v... Chúng được lồng ghép với nhau, hỗ trợ và bổ sung cho nhau để đạt được mục tiêu đặt ra và giảm đến mức thấp nhất những chi phí của xã hội và vẫn đạt được mục tiêu quản lý rừng. - Quản lý rừng bền vững là một hoạt động phát triển Quản lý rừng bền vững hướng vào cải thiện chất lượng cuộc sống con người, vì vậy, nghiên cứu những quản lý rừng phải được thực hiện theo cách tiếp cận của nghiên cứu phát triển. Trong đề tài này các giải pháp quản lý rừng luôn hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và được lồng ghép với những hoạt động phát triển kinh tế xã hội khác. Trình tự của nghiên cứu trong đề tài này là: phân tích thực trạng, xác định nguyên nhân và xây dựng giải pháp phù hợp với hoàn cảnh địa phương. Đây là lý do vì sao trong đề tài này coi phương pháp nghiên cứu tham dự là một trong những phương pháp chủ đạo. 2.4.2. Phương pháp thu thập thông tin Quá trình thu thập và sử lý thông tin được tiến hành theo các phương pháp chủ yếu sau: - Kế thừa các tư liệu trong và ngoài nước Những tài liệu được tham khảo trong quá trình phân tích thực trạng tìm kiếm các giải pháp quản lý rừng ở địa phương như sau: + Những tài liệu khí hậu thủy văn, kết quả điều tra đất, thực vật, động vật, tài liệu thống kê tài nguyên đất đai, dân số và lao động, chính sách kinh tế - xã hội, tài liệu về lịch sử làng xã. + Những kết quả nghiên cứu liên quan đến quản lý rừng ở địa phương. + Những tài liệu về kinh nghiệm quản lý rừng của các nước, những nguyên tắc và tiêu chuẩn QLRBV của các tổ chức quốc tế. - Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn RRA và đánh giá nông thôn có sự tham gia PRA
  18. 16 + Lựa chọn đối tượng: Nhóm đối tượng phỏng vấn, thảo luận thu thập thông tin đa dạng, phong phú như, mức sống khác nhau, địa bàn cư trú khác nhau, địa vị xã hội khác nhau, lĩnh vực quản lý khác nhau nhưng đều có sự hiểu biết về các vấn đề có liên quan đến quản lý rừng. Những chủ đề phỏng vấn tập trung vào: • Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và nhân văn • Thực trạng quản lý sử dụng rừng • Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội nhân văn đến hiệu quả quản lý sử dụng tài nguyên rừng • Giải pháp nhằm góp phần QLRBV ở Vườn quốc gia Vũ Quang. Một số công cụ PRA được áp dụng trong quá trình khảo sát như sau: + Lược sử thôn bản; + Biểu đồ hướng thời gian; + Lịch thời vụ; + Bảng câu hỏi phỏng vấn bán định hướng; Phương pháp đánh giá nông thôn tham dự (PRA) được áp dụng để kiểm tra kết quả và xác định những yếu tố quan trọng nhất đang thúc đẩy hay cản trở, thách thức quá trình quản lý rừng; lựa chọn những giải pháp ưu tiên, đề xuất những khuyến nghị sử dụng hợp lý tài nguyên rừng tại địa phương. PRA được thực hiện sau nghiên cứu RRA thông qua một số cuộc thảo luận với những nhóm người dân, cán bộ thôn, xã, huyện ở địa bàn nghiên cứu. Một số công cụ PRA được lựa chọn trong quá trình khảo sát như sau: + Lược sử thôn bản. Công cụ lược sử thôn bản được sử dụng để tìm hiểu quá trình hình thành các buôn làng, quá trình di cư, chuyển đổi các hình thái tổ chức sản xuất, diễn biến của hoạt động sử dụng rừng và đất rừng, sự thay đổi về quan điểm, nhận thức, kiến thức của người dân và những nguyên nhân thay đổi này ở địa phương. + Biểu đồ hướng thời gian. Công cụ này được sử dụng để thu thập và phân tích thông tin liên quan đến quản lý sử dụng tài nguyên rừng. + Lịch thời vụ. Công cụ này được sử dụng để thu thập thông tin về bố trí cơ cấu cây trồng, biện pháp kỹ thuật gieo trồng ở địa phương để có thể xem xét đánh giá các kiến thức bản địa cổ truyền tương ứng.
  19. 17 + Bảng câu hỏi phỏng vấn bán định hướng. Các câu hỏi phỏng vấn là câu hỏi bán định hướng, chúng được sắp xếp theo chủ đề phỏng vấn. - Phương pháp chuyên gia. Đề tài sử dụng phương pháp chuyên gia để điều chỉnh và hoàn thiện những giải pháp đã được hình thành sau khi phân tích tài liệu ngoại nghiệp. Với phương pháp này đề tài dự kiến sẽ gửi báo cáo sơ bộ của luận án cho một số chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý rừng và phát triển nông thôn miền núi. Những ý kiến của họ sẽ được sử dụng để điều chỉnh và hoàn thiện các giải pháp quản lý bền vững rừng ở địa phương. 2.4.3. Phương pháp xử lý thông tin Trong quá trình xử lý tài liệu, đề tài tiến hành chỉnh lý và sắp xếp các thông tin được thu thập theo thứ tự ưu tiên, mức độ quan trọng của vấn đề, phân tích các ý kiến, quan điểm để lựa chọn và tìm giải pháp. Đồng thời phải tính định lượng một số vấn đề có thể thực hiện được và liên hệ với các kết quả điều tra nhanh. Những thông tin thu thập được có những thông tin định tính và những thông tin định lượng, các thông tin này đều có giá trị quan trọng như nhau khi sử dụng xây dựng luận văn. Toàn bộ những thông tin, số liệu thu thập được sẽ được chỉnh lý, tổng hợp phân tích đánh giá về các mặt sau: + Phân tích đánh giá các thông tin về điều kiện tự nhiên như địa hình, địa mạo, khí hậu thuỷ văn, tài nguyên đất và tài nguyên sinh vật bằng cách thống kê sắp xếp, phân tích đánh giá các thông tin. + Phân tích đánh giá các thông tin về chính sách trong công tác quản lý sử dụng và phát triển rừng, những tồn tại vướng mắc về chế độ chính sách trong quá trình thực hiện công tác quản lý sử dụng rừng bằng phương pháp SWOT. + Thống kê phân tích tổng hợp đánh giá các thông tin về xã hội. + Tổng hợp đánh giá các thông tin về kinh tế, đánh giá hiệu quả sản xuất theo các mô hình canh tác theo chỉ tiêu tổng hợp lợi nhuận, bằng phương pháp dựa trên các yếu tố tĩnh. + Hiệu quả kinh tế của các mô hình sử dụng đất và phương án sử dụng đất của các hộ dân trong vùng nghiên cứu.
  20. 18 Chương 3 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU 3.1. Lược sử hình thành và phát triển của Vườn quốc gia Vũ Quang Vũ Quang trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ là một khu bảo tồn rừng với diện tích khoảng 30.000 ha và vì thế, cấm mọi hoạt động xâm hại rừng đối với cộng đồng dân cư địa phương. Đến những năm 1960 – 1977, các lâm trường Trại Trụ, Vũ Quang được thành lập để khai thác nguyên liệu gỗ phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Trong thời gian này, gỗ ở khu vực Vũ Quang bị khai thác mạnh, cấu trúc rừng bị phá vỡ, nhất là khu vực núi thấp. Năm 1986, rừng Vũ Quang được Chính phủ công nhận là Khu bảo tồn thiên nhiên theo quyết định số 194, ngày 09/08/1986 của Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) với diện tích 16.000 ha. Năm 1992, các nhà khoa học đã phát hiện ở khu vực Vũ Quang 2 loài thú mới là Sao la và Mang lớn. Sau phát hiện gây chấn động này, Dự án đầu tư Khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang được Viện Điều tra Quy hoạch rừng và Quỹ Bảo vệ thiên nhiên Quốc tế (WWF) hoàn thành, trong đó đề xuất diện tích khu bảo tồn thiên nhiên với diện tích 55.950 ha. Do đó, ngày 30/7/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 102/2002/QĐ-TTg chuyển hạng khu BTTN Vũ Quang thành Vườn Quốc Gia Vũ Quang với tổng diện tích là là 55.058 ha. Năm 2006, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã đề xuất Thủ tướng Chính phủ chuyển đổi 2,17 ngàn ha rừng đặc dụng VQG Vũ Quang sang mục đích khác để phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn (quyết định số 1404/QĐ-TTg, ngày 30/10/2006) [36], đồng thời ban hành Quyết định số 3209/QĐ-UBND, ngày 29/12/2006 về việc phê duyệt quy hoạnh 3 loại rừng thì diện tích VQG là 56.915,6 ha, trong đó có 52.881,7 ha rừng đặc dụng. 3.2. Điều kiện tự nhiên 3.2.1. Vị trí địa lí Vườn Quốc gia Vũ Quang nằm ở Bắc Trung bộ của Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội 350 km về phía nam, cách Thành phố Hà Tĩnh 70 km về phía tây, nằm gọn trong tỉnh Hà Tĩnh và chiếm 9% diện tích của tỉnh, trên địa bàn hành chính 3 huyện, 8 xã.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2